Mất trước được sau

Mất trước được sau

Ở đời ai cũng muốn được và sợ mất. Nhưng làm thế nào để được và không mất thì không phải ai cũng biết cách làm. Vì không phải cứ thu vào là được. Không phải cứ buông ra là mất. Trái lại rất nhiều khi phải chịu mất trước rồi mới được sau. Mất nhỏ để được lớn. Mất ít để được nhiều. Đó hầu như là qui luật trong đời sống hằng ngày. Ta dễ hiểu điều này trong bối cảnh nền kinh tế thị trường hiện nay. Nhà đầu tư muốn được lợi nhuận cao, sẽ không giữ kỹ tiền của trong nhà, buộc chặt lại rồi đem chôn giấu đi, trái lại phải huy động hết vốn liếng hiện có trong nhà đổ vào đầu tư. Vốn lớn thì lời mới lớn.

Muốn được phải chịu mất trước. Đời sống đạo đức không đi ra ngoài qui luật đó. Chúa Giêsu dạy ta: “Ai muốn theo Thầy, hãy từ bỏ mình đi, vác thập giá mà theo”.

Đi theo Chúa là đi vào con đường của Chúa.

Con đường của Chúa là con đường từ bỏ. Cuộc đời Chúa Giêsu là một cuộc từ bỏ không ngừng. Từ bỏ trời để xuống đất. Từ bỏ địa vị Thiên Chúa để làm người. Từ bỏ cuộc sống an nhàn nơi thôn làng để đi vào cuộc phiêu lưu rao giảng Tin Mừng. Từ bỏ cứu thế bằng con đường dễ dãi do ma quỉ xúi giục, để đi vào con đường chật hẹp khó khăn theo ý Đức Chúa Cha. Cuộc từ bỏ cam go nhất chính là từ bỏ ý riêng mình. Đó là một cuộc chiến khốc liệt khiến Người phải toát mồ hôi máu. Nhưng Người đã đi đến cùng con đường từ bỏ. Hình ảnh Người chết trần trụi trên thánh giá là hình ảnh một người từ bỏ tất cả đến tận cùng. Không còn một chút hơi thở. Không còn một giọt máu. Không còn một chút danh dự. Không còn gì cả.

Con đường của Chúa là con đường thánh giá. Người đã ôm lấy thánh giá và vác. Không phải chỉ là thánh giá gỗ trên đường lên Núi Sọ, nhưng là thánh giá cuộc sống trải dài suốt đời người. Thánh giá kiếp người. Thánh giá kiếp nghèo. Thánh giá bị chống đối. Thánh giá bị hiểu lầm. Thánh giá bị bỏ rơi. Thánh giá bị phản bội. Thánh giá thách thức. Thánh giá thất bại. Thánh giá oan ức. Thánh giá tủi nhục. Thánh giá cô đơn. Thánh giá nặng lắm nên nhiều lần Người đã ngã xuống. Thánh giá ghê sợ lắm nên Người đã có lần muốn chối bỏ. Nhưng rồi Người lại đứng lên tiếp tục vác đi cho đến cùng, cho trọn con đường.

Nhưng nếu đường của Chúa Giêsu chỉ dừng tại đây thì đó là một con đường bế tắc. Nếu định mệnh của Chúa Giêsu kết thúc tại Núi Sọ thì đó là một định mệnh diệt vong. Không! con đường của Chúa còn là con đường phục sinh. Định mệnh của Chúa là một định mệnh vinh quang.

Con đường thánh giá là con đường dẫn đến phục sinh. Con đường từ bỏ là con đường dẫn tới vinh quang. Phải qua sự chết mới đến sự sống. Phải qua tủi nhục mới đến vinh quang. Phải qua gian khổ mới đến hạnh phúc. Thánh Phaolô đã hiểu biết tường tận con đường của Chúa nên đã nói: “Chúa Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chuá mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu. Như vậy, khi vừa nghe danh thánh Giêsu, cả trên trời dưới đất và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ; và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng: “Chúa Giêsu Kitô là Chúa” (Pl 2, 6-11).

Cũng thế, khi mời gọi ta bước theo Người, Người không muốn ta đi vào tàn lụi diệt vong, nhưng muốn ta triển nở đến viên mãn. Nên Người nói tiếp: “Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy”.

Như thế từ bỏ không phải để mất mà để được, được lại một cách sung mãn, hoàn hảo và cao cả phong phú hơn gấp bội. Mất hiện tại để được tương lai. Mất đời này để được đời sau. Mất phàm tục để được thần thiêng. Mất tạm bợ để được vĩnh cửu.

Thánh Phanxicô Khó Nghèo đã cảm nghiệm sâu xa chân lý này nên đã thốt lên lời ca bất hủ: “Vì chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh. Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân. Vì chính khi thứ tha là khi được tha thứ. Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời”.

Lạy Chúa, xin cho con biết từ bỏ mình để được chính Chúa, nguồn mạch hạnh phúc của con.

GỢI Ý CHIA SẺ

1) Mất trước được sau. Bạn áp dụng câu này trong đời sống đạo thế nào?

2) Chúa Giêsu mời gọi: “Ai muốn theo Thầy, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mà theo”. Bạn nghĩ sao về đòi hỏi này của Chúa, có quá khắt khe không?

3) Hạnh phúc không có sẵn nhưng phải phấn đấu mới đạt được. Bạn có tâm đắc điều này không?

ĐTGM Ngô Quang Kiệt

Giáo Hội duy nhất thánh thiện, nhưng bao gồm các người yếu đuối phạm tội chống lại sự hiệp nhất và thánh thiện ấy

Giáo Hội duy nhất thánh thiện, nhưng bao gồm các người yếu đuối phạm tội chống lại sự hiệp nhất và thánh thiện ấy

Giáo Hội ”duy nhất” và ”thánh thiện” vì phát xuất từ Thiên Chúa Ba Ngôi, được xây dựng trên nền tảng là Đức Giêsu Kitô, được linh hoạt bởi Chúa Thánh Thần, và tràn đầy tình yêu và ơn cứu độ của Người. Nhưng Giáo Hội bao gồm những người tội lỗi mỗi ngày sống kinh nghiệm sự giòn mỏng và các bần cùng của mình và phạm biết bao nhiêu tội chống lại sự hiệp nhất.

Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói như trên với khoảng 30,000 tín hữu và du khách hành hương tham dự buổi tiếp kiến chung sáng thứ tư 27-8-2014 tại quảng trường Thánh Phêrô.

Trong bài huấn dụ Đức Thánh Cha đã tiếp tục suy tư về Kinh Tin Kính. Ngài nói: Anh chị em thân mến, mỗi lần chúng ta tuyên xưng đức tin bằng cách đọc Kinh Tin Kính, chúng ta khẳng định rằng Giáo Hội là ”duy nhất” và ”thánh thiện”. Giáo Hội là một, bởi vì nó có nguồn gốc nơi Thiên Chúa Ba Ngôi, mầu nhiệm của sự hiệp nhất và hiệp thông tràn đầy. Thế rồi Giáo Hội thánh thiện, vì được xây dựng trên Đức Giêsu Kitô, được linh hoạt bởi Chúa Thánh Thần, được tràn đầy tình yêu và ơn cứu độ của Người. Tuy nhiên đồng thời Giáo HỘi cũng bao gồm các người tội lỗi hằng ngày phải sống kinh nghiệm sự giòn mỏng và các bần cùng của mình. Như vậy lời tuyên xưng đức tin thúc đẩy chúng ta hoán cải, có can đảm sống mỗi ngày sự hiệp nhất và thánh thiện đến từ Thiên Chúa. Đức Thánh Cha nhấn mạnh điểm này như sau:

Chúa Giêsu Kitô là suối nguồn sự hiệp nhất và thánh thiện của chúng ta, và nếu chúng ta không hiệp nhất, nếu chúng ta không thánh thiện, thì chính bởi vì chúng ta không trung thành với Người. Nhưng Người không bỏ chúng ta một minh, Người không bỏ Giáo Hội Người!

Sự an ủi đầu tiên đến từ sự kiện Chúa Giêsu đã cầu nguyện biết bao cho sự hiệp nhất của các môn đệ. Nhất là Người đã làm điều đó khi cuộc Khổ Nạn gần kề, và khi Người sắp sửa hiến dâng toàn cuộc sống Người cho chúng ta. Đó là điều chúng ta được liên tục mời gọi đọc lại và suy gẫm, trong chương 17 là một trong những trang sâu đậm và cảm động nhất của Phúc Âm thánh Gioan (x. cc.11.21-23). Thật đẹp biết bao khi biết rằng trước khi chết, Chúa đã không lo lắng cho chính Người, nhưng đã nghĩ tới chúng ta! Và trong cuộc đối thoại với Thiên Chúa Cha, Người đã cầu nguyện để chúng ta có thể là một với Người và giữa chúng ta với nhau. Đó, với các lời này Chúa Giêsu trở thành người bầu cử cho chúng ta bên Thiên Chúa Cha, để chúng ta cũng có thể bước vào trong sự hiệp thông tình yêu với Người; đồng thời, Người giao phó nó cho chúng ta như di chúc tinh thần, để sự hiệp nhất có thể ngày càng trở thành nét đặc thù của các cộng đoàn kitô, và là câu trả lời đẹp nhất cho bất cứ ai hỏi chúng ta lý lẽ niềm hy vọng nơi chúng ta (x. 1 Pr 3,15).

”Ước chi tất cả chúng chỉ là một; như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha, xin cho chúng cũng được như vậy để thế gian tin rằng Cha đã sai Con” (Ga 17,21). Ngay từ ban đầu Giáo Hội đã tìm thực hiện đề nghị mà Chúa Giêsu đã ước muốn này. Sách Công vụ các Tông Đồ nhắc nhớ cho chúng ta rằng các kitô hữu tiên khởi đã được nhận ra bởi sự kiện họ ”đồng tâm nhất trí” (Cv 4,32).

Thế rồi tông đồ Phaolô đã khích lệ các cộng đoàn của người đừng quên rằng họ là ”một thân thể” (1 Cr 12,13). Tuy nhiên, kinh nghiệm nói với chúng ta rằng có biết bao nhiêu tội chống lại sự hiệp nhất. Và chúng ta không chỉ nghĩ tới các tà thuyết lớn, các ly giáo, nhưng cũng nghĩ tới các thiếu sót rất thông thường trong các cộng đoàn, tới các tội “giáo xứ”. Thật thế, đôi khi các giáo xứ của chúng ta, được kêu mời trở thành nơi chia sẻ và hiệp thông, đáng buồn thay lại bị ghi dấu bởi các đố kỵ, ghen tương, ác cảm… Điều này nhân loại, đúng, nhưng không kitô! Điều này xảy ra, khi chúng ta nhắm các chỗ nhất; khi chúng ta đặt mình vào trung tâm với các tham vọng cá nhân và các kiểu nhìn sự vật, và chúng ta phán xử người khác. Điều này xảy ra, khi chúng ta nhìn các thiếu sót của các anh em khác, thay vì nhìn các tài khéo của họ; khi chúng ta coi trọng điều chia rẽ chúng ta, thay vì coi trọng điều nối kết chúng ta…

Đứng trước tất cả những điều này chúng ta phải nghiêm chỉnh xét mình. Rồi Đức Thánh Cha mạnh mẽ khẳng định như sau:

Trong một cộng đoàn kitô sự chia rẽ là một trong những tội nặng nhất, bởi vì nó không là dấu chỉ công trình của Thiên Chúa mà là của ma qủy, là kẻ bởi định nghĩa chia rẽ, làm hư hỏng các tương quan, khiến cho các thành kiến len lỏi vào tâm trí chúng ta… Trái lại, Thiên Chúa muốn rằng chúng ta lớn lên trong khả năng tiếp đón nhau, tha thứ cho nhau và yêu thương nhau, để ngày càng giống Người hơn, Đấng là sự hiệp thông và tình yêu thương. Chính đó là sự thánh thiện của Giáo Hội: trong việc nhận ra mình giống hình ảnh của Thiên Chúa, được tràn đầy bởi lòng thương xót và ơn thánh của Người.

Các bạn thên mến, chúng ta hãy làm vang lên trong tim các lời này của Chúa Giêsu: ”Phúc cho những người xây dựng hòa bình, bởi vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa” (Mt 5,9). Chúng ta hãy chân thành xin lỗi vì tất cả những lần, trong đó chúng ta đã là dịp gây chia rẽ hay hiểu lầm bên trong các cộng đoàn của chúng ta, dầu biết rằng không thể đạt sự hiệp thông nếu không phải là qua một sự hoán cải liên tục. Và chúng ta hãy xin cho các tương quan thường ngày của chúng ta có thể trở thành một phản chiếu ngày càng xinh đẹp và tươi vui hơn tương quan của Chúa Giêsu với Thiên Chúa Cha.

Đức Thánh Cha đã chào các đoàn hành hương. Ngài khích lệ các nhóm nói tiếng Pháp khi trở về giáo xứ của mình trở thành những người xây dựng hòa bình và hòa giải để thực sự là dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa của tình yêu và lòng thương xót. Với các nhóm nói tiếng Anh ngài xin Chúa Giêsu củng cố đức tin của họ và làm cho họ trở thành các chứng nhân sự thánh thiện và hiệp nhất của Giáo Hội.

Với các nhóm nói tiếng Đức Ngài đặc biệt chào các học sinh đến từ Lennestadt và các bạn trẻ đang tham dự trại hè tại Ostia ở Roma; cũng như các tín hữu đến từ Tây Ban Nha, Venezuela, Chile, Argentina và Mehicô và một nhóm các Giám Mục Cuba về Roma hành hương nhân ngày mai có lễ nghi đặt bức tượng Đức Bà Bác Ái Mỏ Đồng trong vườn Vaticăng.

Chào các đoàn hanh hương Ba Lan Đức Thánh Cha nhắc tới lễ kính Đức Mẹ Jasna Gora cử hành hôm thứ ba. Ngài phó thác cho sự chở che hiền mẫu của Mẹ mọi gia đình và đất nước Ba Lan.

Chào các nhóm nói tiếng Ý Đức Thánh Cha nhắc tới các nữ tu dòng thánh Anna đang họp tổng tu nghị tại Roma; nhóm ”đua xe đạp cho hòa bình” vùng Toscana được Đức Cha Tardelli, Giám Mục Miniato tháp tùng. Ngài cầu chúc chuyến viếng mộ hai thánh Tông Đồ gia tăng ý thức của họ thuộc về Giáo Hội.

Chào các bạn trẻ, người đau yếu và các cặp vợ chồng mới cưới Đức Thánh Cha nói hôm nay Giáo Hội cử hành lễ nhớ thánh Monica, thân mẫu thánh Agostino. Ngài xin tình yêu của thánh nữ đối với Chúa giúp các bạn trẻ biết lấy Chúa làm trọng tâm cuộc sống của mình. Xin thánh nữ cũng giúp các người đau yếu biết đương đầu với khổ đau trong đức tin, và khích lệ các cặp vợ chồng mới cưới biết giáo dục con cái mà Chúa ban cho theo tinh thần kitô.

Buổi tiếp kiến đã kết thúc với Kinh Lạy Cha và phép lành tòa thánh Đức Thánh Cha ban cho moi người.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

 

Cha Lombardi bác bỏ tin của báo New York Times

Cha Lombardi bác bỏ tin của báo New York Times

VATICAN. Giám đốc Phòng báo chí Tòa Thánh, cha Federico Lombardi, bác bỏ tin của tờ New York Thời Báo cho rằng Tòa Thánh muốm ém nhẹm vụ Đức TGM Wesolowski bị cáo lạm dụng tính dục trẻ em.

Đức TGM Joseph Wesolowski người Ba Lan, năm nay 65 tuổi, làm Sứ thần Tòa Thánh tại Cộng hòa Dominicana cho đến tháng 8 năm 2013, thì bị giáo quyền địa phương bá cáo với ĐTC về vụ vị này đi ”dụ dỗ” các trẻ em đánh giầy ở đường phố và lạm dụng tính dục các em.

ĐTC triệu vị này về Roma và bãi nhiệm. Ngày 27-6 năm nay, Phòng báo chí Tòa Thánh cho biết Bộ giáo lý đức tin đã xét xử cấp I và ban hành phán quyết buộc vị GM phải hồi tục, không còn quyền lợi và nghĩa vụ như một giáo sĩ, ngoại trừ nghĩa vụ giữ độc thân. Bị can đã kháng án trong vòng 2 tháng theo luật, và việc xét xử cấp II có thể bắt đầu vào tháng 10 tới đây. Sau khi bản án theo giáo luật được coi là chung kết thì đương sự sẽ bị xét xử về hình luật.

Trong một bài đăng tải 23-8-2014, tờ New York Thời Báo cho rằng ”năm ngoái Tòa Thánh bí mật triệu hồi Wesolowski trước khi đương sự có thể bị điều tra, và viện cớ ông Wesolowski được miễn trừ vì là nhà ngoại giao để khỏi bị tòa án ở Cộng hòa Dominicana xét xử”.

Trong thông cáo công bố tối ngày 25-8-2014 tại Vatican, Cha Lombardi trả lời rằng ”ngay từ khi vụ này được đệ trình, Tòa Thánh đã hành động mau lẹ và đúng đắn, dưới ánh sáng qui chế đặc biệt mà Đức TGM Wesolowski hưởng như một nhà ngoại giao của Tòa Thánh. Khi gọi đương sự về Roma, cũng như trong việc xử lý vụ này, Tòa Thánh vẫn tiếp xúc với Nhà chức trách Cộng hòa Dominicana. Không hề có ý ém nhẹm, việc làm này chứng tỏ phía Tòa Thánh lãnh nhận trách nhiệm một cách trọn vẹn và trực tiếp, cả trong một vụ trầm trọng và tế nhị như thế. Và ĐTC Phanxicô được thông báo tường tận, ngài muốn vụ này được xử lý một cách công minh và với sự nghiêm ngặt cần thiết”.

Sau cùng, Cha Lombardi nhận xét rằng vì Đức TGM Wesolowski đã ngưng các chức năng ngoại giao và không được hưởng sự miễn trừ đi kèm, đương sự có thể bị xét xử do các tòa án khác có danh nghĩa thực hiện việc này”.

Hồi tháng 5-2014, ĐTC Phanxicô nói với giới báo chí rằng có 3 GM đang bị điều tra về vị cáo lạm dụng tính dục trẻ vị thành niên. Một người đã bị lên án và hình phạt cho đương sự đang được cứu xét. Dường như đó là Wesolowski.

ĐTC cũng nói với các ký giả rằng lạm dụng tính dục trẻ em là một ”tội ác xấu xa” và ngài tái khẳng định chính sách tuyệt đối không dung thứ những kẻ lạm dụng. (CNS 25-8-2014)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

 

Đức Thánh Cha tái lên án bạo lực vô lý

Đức Thánh Cha tái lên án bạo lực vô lý

VATICAN. Trong thư chia buồn với thân nhân ký giả James Wright Folley người Mỹ, bị lực lượng thánh chiến Hồi giáo ISIS chặt đầu, ĐTC Phanxicô tái lên án bạo lực vô nghĩa lý và kêu gọi cầu nguyện cho hòa bình và hòa giải giữa mọi thành phần của gia đình nhân loại.

Thư chia buồn của ĐTC được ĐHY Quốc vụ khanh Tòa Thánh Pietro Parolin chuyển đến cho song thân của ký giả Folley qua trung gian của Đức TGM sở tại và được công bố trong thánh lễ cầu nguyện cho ký giả James Folley 40 tuổi, ở Rochester, New Hampshire hôm 24-8-2014, với sự tham dự của hàng trăm người.

ĐTC cho biết ngài hiệp với nỗi đau buồn của thân nhân, bạn hữu và đồng nghiệp của ký giả Folley, cầu nguyện và bày tỏ sự gần gũi tinh thần với nhau. Ngài ”phó thác anh James cho lòng từ bi yêu thương của Thiên Chúa là Cha chúng ta, và hiệp với những người đang khóc thương anh cầu nguyện cho sự chấm dứt bạo lực vô nghĩa lý và khởi đầu sự hóa giải và hòa bình giữa mọi thành phần của gia đình nhân loại”.

Thánh lễ do Đức Cha Peter Libasci chủ sự. Ngài nhấn mạnh tới sức mạnh mà ký giả Folley cũng như gia đình anh luôn kín múc từ đức tin Công Giáo. Ngài cũng cầu nguyện cho một ký giả khác người Mỹ, Steven Sotloff, 31 tuổi, cũng bị giam như con tin với ký giả Folley, cũng như cho các con tin khác đang ở trong tay nhóm thánh chiến Hồi giáo ở Iraq.

Trước thánh lễ, song thân của anh James Folley, là ông bà John và Diane, đã cầu mong rằng cuộc sống và công việc của người con ông bà là một tấm gương cho tất cả những người bênh vực tự do báo chí và hòa bình trên thế giới. Ông bà cũng kêu gọi trả tự do cho các ký giả bị bắt cóc, đặc biệt là anh Steven Sotloff bị nhóm thánh chiến Hồi giáo đe dọa giết. (SD 25-8-2014)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio
 

Đức Thánh Cha giúp 1 triệu mỹ kim cho người tị nạn Iraq

Đức Thánh Cha giúp 1 triệu mỹ kim cho người tị nạn Iraq

VATICAN. ĐTC Phanxicô đã giúp 1 triệu Mỹ kim để góp phần cứu trợ các tín hữu Kitô và những người tị nạn khác ở Iraq.

Số tiền này được chính ĐHY Fernando Filoni, Tổng trưởng Bộ truyền giáo, đặc sứ của ĐTC, mang tới cho dân tị nạn trong cuộc viếng thăm của ngài tại thành phố Erbil ở miền bắc Irak từ ngày 12 đến 20-8 vừa qua.

Trong cuộc phỏng vấn dành cho hãng tin Công Giáo Hoa Kỳ, ĐHY Filoni cho biết 75% ngân khoản được trao cho các tín hữu Công Giáo và 25% dành cho cộng đoàn người Yézidi theo một tôn giáo hỗn hợp gồm Hồi giáo và các yếu tố tôn giáo truyền thống địa phương. ĐHY cũng nói: ”ĐTC sai tôi đi thực hiện một sứ vụ nhân đạo chứ không phải sứ vụ ngoại giao. Đó cũng là điều tôi nhấn mạnh với các vị lãnh đạo chính quyền”.

Trong cuộc phỏng vấn dành cho 3 tờ báo ở Italia (Corriere della sera, Avvenire và La Repubblica), ĐHY đề nghị LHQ tổ chức một đội quân mũ xanh để bảo vệ các tín hữu Kitô bị quân Hồi giáo ISIS trục xuất khỏi gia cư vì không chịu trở lại Hồi giáo. ĐHY cũng nói đến các nhóm khủng bố Hồi giáo: ”Các nhóm này hoạt động mạnh, với võ khí đầy đủ và tối tân, và nhiều tiền bạc. Người ta đặt câu hỏi: làm sao việc chuyển những số tiền và các võ khí như thế có thể chuyển giao mà những người có nhiệm vụ kiểm soát lại không làm gì?” (Ansa 23-8-2014)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Phêrô tuyên tín

Phêrô tuyên tín

(Trích trong ‘Sống Tin Mừng’)

Câu hỏi của Chúa Giêsu đặt ra cho các môn đệ vẫn còn vang dội tới ngày hôm nay, và trong giây phút này dường như Chúa Giêsu hiện diện giữa chúng ta, Ngài cũng đặt câu hỏi với từng người, trước hết là câu: “Người ta và những kẻ khác, theo quan niệm trần tục của con người thì họ nghĩ Thầy là ai?”.

Chúa Giêsu Kitô là một thực tại, một con người lịch sử đã sống thật trên mặt đất này tại vùng Palestina cách đây hơn 2,000 năm. Đây là một thực tại đầy mầu nhiệm, những kẻ sống đồng thời với Ngài, họ cũng nhìn thấy những việc lạ Chúa đã thực hiện, trước đó là phép lạ Chúa hóa bánh ra nhiều, nhưng họ không thể nhìn nhận ra thực tại Thần Linh của Chúa là Con Thiên Chúa Hằng Sống. Họ nhìn vào Chúa Giêsu như một tiên tri, một E?lia, một Gioan Tẩy Giả, một người chuẩn bị nhân loại cho Thiên Chúa, nhưng chưa phải là Thiên Chúa. Những kẻ khác thời Chúa Giêsu, trên quan điểm trần tục không được Thiên Chúa soi sáng, như Phêrô đã không nhận ra Chúa Giêsu Kitô là ai? Và các Tông Đồ đã kể lại cho Chúa nghe về các nhận xét của dân chúng xung quanh. Nhưng những kẻ khác, những kẻ ngoại chưa tin Chúa, không nhận ra Chúa, điều đó cũng chưa quan trọng đối với Ngài cho bằng chính những người mang tên là người đồ đệ của Chúa, là người Kitô mà lại không nhận ra Ngài.

Câu hỏi thứ nhất: “Người ta nghĩ Thầy là ai?”, chỉ là một câu hỏi phụ, câu hỏi nhập đề để gợi ý thức nơi các đồ đệ. Câu hỏi thứ hai quan trọng hơn: “Phần các con, các con bảo Thầy là ai?”. Mỗi người phải trực tiếp trả lời câu hỏi này bằng đức tin của mình đối với Chúa. Điều Chúa muốn không phải là một câu trả lời suông, ngoài môi miệng như một học trò trả bài giáo lý cho thầy giáo trong lớp: “Chúa Giêsu là Thiên Chúa, là Đấng Cứu Thế muôn dân”. Câu trả lời suông ngoài môi miệng như câu trả lời thuộc lòng bài giáo lý thì tương đối dễ, nhưng điều Chúa nhắm đến là lòng xác tín bên trong. Đức tin chân thật như là hồng ân từ Thiên Chúa Cha trao ban cho, ví như câu trả lời được ơn Thiên Chúa soi sáng hướng dẫn Phêrô đã mạnh mẽ trả lời với sự linh ứng của Thiên Chúa Cha: “Thầy là Đức Kitô Con Thiên Chúa Hằng Sống”.

Chúa Giêsu xác nhận không phải xác thịt nhưng là Cha trên trời đã ban cho con, đã soi sáng cho con. Chính thái độ xác tín đức tin này là điều Chúa muốn nơi mỗi người chúng ta. Thái độ xác tín đức tin đó là hồng ân của Chúa Cha ban cho: “Không ai đến được với Thầy, nếu không được ơn Thiên Chúa Cha soi sáng và lôi kéo họ đến” (Jn 6,43.45). Chính thái độ xác tín đức tin này là khởi đầu và nền tảng của mọi sứ mạng Kitô. Thánh Phêrô đã nhận được sứ mạng: “Thầy trao cho con chìa khóa Nước Trời, con là đá, trên đá này Thầy sẽ xây Giáo Hội của Thầy”. Phêrô đã nhận được sứ mạng đó sau khi đã tuân phục ơn soi sáng của Thiên Chúa Cha và mạnh mẽ tuyên xưng: “Thầy là Con Thiên Chúa”.

Mỗi người chúng ta đều cần có niềm xác tín này để có thể chu toàn sứ mệnh mà Thiên Chúa trao phó cho, là làm chứng cho Chúa trên trần gian này giữa anh chị em xung quanh. Sứ mạng đã khó nhưng niềm tin xác tín nơi mỗi người lại khó hơn hết, vì nơi mỗi người cũng có thể nói là có hai con người, một con người trần tục và một con người mới. Con người mới này được ân sủng thánh hóa, soi sáng hướng dẫn. Con người cũ có những thói hư tật xấu, suy tưởng theo những lý luận trần tục, xa rời chương trình của Thiên Chúa, khó mà tuyên xưng đức tin vào Thiên Chúa, khó mà trung thành với đức tin tuyên xưng này.

Thánh Phaolô đã cảm nghiệm được kinh nghiệm đức tin này nơi chính bản thân, nên đã thốt lên: “Tôi không làm điều tốt mà tôi ưa thích, nhưng lại làm điều xấu mà tôi không muốn”. Cuộc giằng co giữa ân sủng và tội lỗi, giữa tin và không tin đã làm cho ngài đôi khi mệt mỏi và xin Chúa hãy can thiệp cất đi điều ngài không muốn. Nhưng Chúa Giêsu đã nâng đỡ Phaolô: “Ơn Ta đủ cho ngươi, đừng lo”. Chính vì thế hơn ai hết, thánh Phaolô Tông Đồ đã trình bày cuộc sống trong ơn nghĩa Chúa như là một chiến đấu, một cuộc chạy đua, một cố gắng không ngừng cộng tác với ân sủng Chúa để mặc lấy con người mới, từ bỏ con người cũ để tuyên xưng đức tin, để trung thành với đức tin.

Trở lại với bài Phúc Âm hôm nay, chúng ta nhận thấy thêm một điều nữa là, mặc dầu Phaolô đã có đôi lần sống theo con người cũ, con người trần tục, nhưng Chúa Giêsu không thay đổi chương trình, Ngài đã chọn Phaolô: “Ơn Ta đủ cho ngươi”. Ơn Chúa luôn luôn ban xuống tràn đầy, Chúa không hủy bỏ chương trình Ngài muốn thực hiện nhờ qua mỗi người, mặc dù đôi khi chúng ta không đáp lại hết lòng ân sủng của Chúa. Chúa muốn nhắn nhủ Phêrô, nhắn nhủ mỗi người “khi nào con trở lại hãy nâng đỡ củng cố anh em con”. Lời nhắn nhủ của Chúa cho Phêrô hãy biết thông cảm nâng đỡ cho anh em, vì chính ông cũng đã được Chúa thương tha thứ và nâng đỡ.

Thêm một bài học nữa cho mỗi người chúng ta là hãy cố gắng sống thánh thiện nơi chính bản thân mình và nâng đỡ những bất toàn, những sa ngã, những tội lỗi của anh em, xin Chúa gìn giữ chúng con trong đức tin và trung thành với Tin Mừng: “Thầy là Đức Kitô Con Thiên Chúa Hằng Sống”.

Veritas Radio

Đối với bạn, Đức Giêsu Kitô là ai?

Đối với bạn, Đức Giêsu Kitô là ai?

(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)

Đức Giêsu, một nhân vật lịch sử đã chết và sống lại gần 2000 năm rồi. Thế mà nhân loại ngày nay, trước ngưỡng cửa của thiên niên kỷ thứ ba, vẫn còn đặt lại câu hỏi đã được đặt từ lúc Đức Giêsu giáng sinh: “Đức Giêsu Kitô là ai?”

Ngài đã trở thành “siêu sao” (Jesus, Super Star) trong các tác phẩm văn chương, âm nhạc cũng như trên màn ảnh, cả đối với các tác giả không chia sẻ niềm tin vào Đức Giêsu nữa. Nhà văn Aimatov trong tác phẩm “Đoạn đầu đài” đã nói lên những cảm nghĩ và trăn trở của mình về Đức Giêsu và về cây thập tự của Ngài. Dumbatze trong tác phẩm “Quy luật muôn đời” hay Abuladze trong phim “Sám hối”và Nikos Kazantzakis trong tác phẩm “Chúa lại bị đóng đinh”hay trong “Cám dỗ cuối cùng của Chúa”, cuốn tiểu thuyết được dựng thành phim đã gây nhiều phẫn nộ trong giới Kitô giáo. Tất cả đều đặt vấn đề về Đức Giêsu.

Tuy nhiên, những Đức Giêsu mang tính thời sự đó, dẫu có hay và lôi cuốn, vẫn chưa phải là Đức Giêsu đích thực của lịch sử, cũng không phải là đức Giêsu của lòng tin, Đức Giêsu của Tin Mừng. Chẳng qua các tác giả đó chỉ mượn dung mạo của Đức Giêsu để ký thác một điều gì trong thâm tâm mình. Cùng lắm, đối với họ, Đức Giêsu cũng chỉ là một bậc thầy rất có thế giá của quá khứ, hay một con người đáng nguyền rủa, nhục mạ của hiện tại.

Đối với các môn đệ của Chúa Giêsu cũng thế. Khi Chúa Giêsu hỏi các ông: “Người ta bảo Thầy là ai?” các ông cho biết: có những người đánh giá rất cao, họ coi Ngài như một Ngôn sứ có tầm cỡ, như Êlia hay Giêrêmia là những ngôn sứ nổi danh bậc nhất trong lịch sử Do Thái. Trái lại, có những đối thủ lại coi Ngài như một người Samari lạc đạo, như một người bị quỷ nhập, như một tên phỉnh gạt hay một tay xách động dân chúng… Riêng đối với các môn đệ thân tín bên Chúa Giêsu, chắc hẳn các ông đã biết rõ Ngài hơn. Chúa Giêsu đã muốn các môn đệ xác định nhận thức của họ về Ngài. Dân chúng thì nghĩ về Thầy như thế, “còn anh em, anh em nghĩ Thầy là ai?” Simon Phêrô đã nói lên nhận xét của các môn đệ: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”.

Lời tuyên xưng đức tin này chúng ta đã gặp trong giai thoại của Chúa Giêsu cứu Phêrô khỏi chết chìm và khiến sóng gió im lặng. Khi Ngài bước lên thuyền, những người ở trong thuyền, tức là các môn đệ, sấp mình dưới chân Ngài mà nói: “Thật, Thầy là Con Thiên Chúa”. Ở đây, Chúa Giêsu khẳng định lời tuyên xưng này là hiệu quả của ơn mạc khải “do Thiên Chúa Cha của Ngài trên trời”, càng cho chúng ta có quyền nghĩ rằng Phêrô đã thấy được một số nét đặc biệt siêu phàm trong con người của Thầy mình. Chúa Giêsu còn mạc khải thêm cho Phêrô một điều khác cũng quan trọng đặc biệt không kém đối với bản thân ông: “Này, anh tên là Đá, trên Tảng Đá này Thầy sẽ xây dựng Giáo Hội của Thầy, và các quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi”. Chúa Giêsu còn trao cho Phêrô trách nhiệm giữ “chìa khóa Nước Trời”, trách nhiệm “cầm buộc hay tháo gỡ”được cả trên trời dưới đất đều chấp hành.

Trao chìa khóa nhà mình cho ai, có nghĩa là tín nhiệm và nhờ cậy người ấy coi sóc nhà mình. Người được trao chìa khóa có quyền đóng mở, ra vào, mà không bị coi là kẻ trộm, đồng thời cũng phải chịu trách nhiệm nặng nề canh chừng kẻ xấu, người gian. Chọn lựa, trao gởi trách nhiệm vẫn làđường lối của Chúa đối với Giáo Hội, đối với chúng ta. Tiêu chuẩn để được chọn lựa, tín nhiệm trao gởi trách nhiệm không phải là sự trổi trang về tài năng hay đức độ, mà là lòng tin. Không phải là một Phêrô yếu đuối tầm thường nữa, nhưng là một Phêrô Đá Tảng, người có lòng tin, có sức nâng đỡ cả Giáo Hội của Chúa Kitô. Phêrô đã tuyên xưng lòng tin vào Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống, không chỉ một lần bằng lời tuyên xưng ấy mà thôi, mà bằng cả một cuộc đời không ngừng tuyên xưng lòng tin cho đến lúc tuyên xưng quyết liệt cuối cùng bằng cái chết đóng đinh thập giá như Thầy mình.

“Còn anh em, anh em nghĩ Thầy là ai?”. Câu hỏi Chúa Giêsu đặt cho các môn đệ không ngừng vang dội suốt 20 thế kỷ nay đến chúng ta. Nó chất vấn mỗi người chúng ta hôm nay hơn bao giờ hết. Phải, đối với tôi, Đức Giêsu Kitô là ai? Phản ứng đầu tiên là im lặng, suy nghĩ, có khi với niềm vui, có khi có một sự ngại ngùng vì câu hỏi mang nặng hậu quả. Câu hỏi chạm đến tận cõi thâm sâu của cuộc đời tôi. Nó buộc tôi phải chọn, một chọn lựa kéo theo nhiều việc khác nữa. Nhưng vì là câu hỏi hệ trọng nhất, nên tôi không thể lẫn tránh được. Chúng ta không thể chỉ tuyên xưng bằng hành động, bằng việc làm cụ thể. Lắm khi sự tuyên xưng chân chính còn đòi buộc chúng ta phải trả giá bằng chính mạng sống của mình. Phải, một khi chúng ta đã thực sự tin Đức Giêsu rồi, thì đời ta sẽ phải gắn chặt vào Ngài cho đến chết thôi. Và chết cũng chưa hết, còn cả cuộc sống đời đời nữa.

Ngày nay, chúng ta đang sống trong một thế giới thực nghiệm và duy vật chất. Lời nói trên lý thuyết có hay ho cao siêu đến mấy, nếu không được chứng minh bằng đời sống cụ thể, thì thiên hạ sẽ chẳng ai tin chúng ta. Đức Giêsu Kitô là ai? Chúng ta có giảng giải cặn kẽ về nguồn gốc và thân thế của Ngài, người ta có lắng nghe, có theo dõi, nhưng điều người ta theo dõi nhất là coi những người tin theo Đức Giêsu sống ra sao, ăn ở như thế nào, có thái độ thế nào với những công việc mưu cầu lợi ích chung, hạnh phúc chung của mọi người. Và từ đó, người ta sẽ suy nghĩ coi Chúa Giêsu của chúng ta là ai. Việc sống đạo của chúng ta, những người tin Chúa Giêsu, là phải chứng tỏ rằng, Chúa Giêsu thật là Chúa cuộc đời chúng ta, ngay trong chính cách chúng ta sống Tin Mừng yêu thương, phục vụ của Chúa Giêsu.

Đức Giêsu Kitô là ai?

Thưa anh chị em, Ước gì cuộc đời mỗi người chúng ta trở thành một câu trả lời sống động cho Chúa Giêsu, cho anh chị em và cùng với anh chị em, trả lời cho cả xã hội ngày nay rằng: Đức Giêsu Kitô là Con Thiên Chúa làm người đang sống ở giữa chúng ta.

Công bố chủ đề Ngày Hòa Bình Thế Giới 2015

Công bố chủ đề Ngày Hòa Bình Thế Giới 2015

VATICAN. ĐTC đã chọn chủ đề cho Ngày Hòa Bình thế giới lần thứ 48 cử hành ngày 1-1 năm 2015 là ”Không còn là nô lệ, nhưng là anh chị em”.

Trong thông cáo hôm 21-8-2014 để công bố chủ đề do ĐTC chọn, Hội đồng Tòa Thánh công lý và hòa bình giải thích rằng người ta thường nghĩ nạn nô lệ là một điều thuộc về quá khứ, trong thực tế tệ đoan này vẫn nhan nhản trong xã hội ngày này.

Sứ điệp Ngày Hòa Bình thế giới 1-1 năm 2014 đã bàn về ”Tình huynh đệ, nền tảng và là con đường dẫn đến hòa bình”. Sự kiện tất cả là con cái Thiên Chúa làm cho mọi người trở thành anh chị em với nhau, có phẩm giá bình đẳng. Nạn nô lệ giết chết tình huynh đệ đại đồng ấy, và do đó nó cũng giết chết hòa bình. Thực vậy, chỉ có hòa bình khi con người nhìn nhận tha nhân là anh chị em có cùng phẩm giá.

Trên thế giới, nạn nô lệ có nhiều bộ mặt kinh tởm khác nhau, như nạn buôn người, buôn bán những người di dân, nạn mại dâm, bó buộc lao động như nô lệ, người bóc lột người, não trạng đối xử với phụ nữ và trẻ em như nô lệ.
Hội đồng Công lý và hòa bình cũng tố giác rằng có nhiều cá nhân và nhóm đầu cơ nô lệ một cách ô nhục, họ lợi dụng bao nhiêu cuộc xung đột hiện nay trên thế giới, bối cảnh khủng hoảng kinh tế và tham ô hối lộ. Nạn nô lệ thực là một vết thương kinh khủng trong xã hội hiện nay và là một vết thương rất trầm trọng trong thân mình của Chúa Kitô!”

Để ngăn chặn hữu hiệu nạn nô lệ, trước tiên cần nhìn nhận phẩm giá bất khả xâm phạm của mỗi người, và kiên trì tham chiếu tình huynh đệ, vượt thắng sự chênh lệch có thể làm cho người này trở thành nô lệ cho người khác.
Đối tượng cần nhắm tới là xây dựng một nền văn minh dựa trên phẩm giá bình đẳng của mọi người, không phân biệt ai. Để được vậy cần dấn thân thông tin, huấn luyện, xây dựng một nền văn hóa cổ võ một xã hội được đổi mới và thấm đượm tinh thần tự do, công lý và hòa bình.

Ngày Hòa bình thế giới do Đức Phaolô 6 thiết lập và cử hành vào ngày 1 tháng giêng mỗi năm. Sứ điệp của của các vị Giáo Hoàng nhân ngày này được gửi đến các chính phủ trên thế giới và cũng cho thấy hướng đi ngoại giao của Tòa Thánh trong năm mới bắt đầu (SD 21-8-2014)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Đức Thánh Cha họp báo trên máy bay

Đức Thánh Cha họp báo trên máy bay

Pope Francis visit to South Korea

VATICAN. ĐTC xác nhận sự hợp pháp của việc dùng võ lực để chặn kẻ gây hấn bất chính, ngài cũng nhìn nhận cần phải làm cho công việc của ngài nhẹ bớt để giữ sức khỏe, nhưng sẵn sàng từ nhiệm theo gương vị tiền nhiệm Biển Đức 16 khi không còn làm việc được nữa.

Trên đây là một trong nhiều điểm được ĐTC đề cập đến trong cuộc họp báo dài một tiếng đồng hồ trên máy bay từ Hàn quốc trở về Roma hôm 18-8-2014.

Trả lời câu hỏi của một ký giả người Mỹ về việc không quân Hoa Kỳ oanh kích những kẻ khủng bố Hồi giáo để ngăn chặn cuộc diệt chủng, ĐTC nói: ”Trong những trường hợp này, khi có một sự gây hấn bất công, tôi chỉ có thể nói là được phép ngăn chặn kẻ gây hấn bất chính. Tôi nhấn mạnh động từ ”ngăn chặn” (fermare), tôi không nói là bỏ bom, gây chiến. Cần phải thẩm định các phương thế để ngăn chặn. Nhưng chúng ta cũng phải nhớ: bao nhiêu lần viện cớ ngăn chặn kẻ gây hấn bất công, các cường quốc đã chiếm đóng và thống trị các dân tộc và biến thành một cuộc chiến tranh chinh phục! Một quốc gia một mình không thể thẩm định phải ngăn chặn kẻ gây hấn bất công cách nào. Sau thế chiến thứ II, đã có LHQ, và chính tại đó người ta phải thảo luận”…

ĐTC cho biết ngài sẵn sàng đến các vùng có chiến tranh, như Kurdistan, nếu cần và nếu có thể thực hiện được, để ngăn chặn bạo lực.

Đáp một câu hỏi khác, ngài ca ngợi dân tộc Trung Hoa, một dân tộc khôn ngoan, và cho biết sẵn sàng đến Trung Quốc. ĐTC nói: ”Chúng tôi tôn trọng nhân dân Trung Quốc, Giáo Hội chỉ yêu cầu được được tự do để thi hành sứ mạng của mình, không có điều kiện nào khác.” Ngài cũng nhắc đến lá thư cơ bản của ĐGH Biển Đức 16 gửi các tín hữu Công Giáo Trung Hoa hồi năm 2007, một lá thư vẫn giữ nguyên tính chất thời sự. Ngài nói: “Tòa Thánh vẫn luôn cởi mở đối với các tiếp tục, luôn luộn, vì Tòa Thánh chân thành quí chuộng nhân dân Trung Quốc”.

Quan hệ với Đức Giáo Hoàng Biển Đức 16

Một ký giả người Đức hỏi ĐTC về quan hệ giữa ngài với Đức nguyên Giáo Hoàng Biển Đức 16, ngài đáp:

”Trước khi đi Hàn quốc, tôi đã đến gặp Người. Cách đây hai tuần Người đã gửi tôi một bài viết thật hay và hỏi ý kiến tôi… Chúng tôi có một quan hệ bình thường, vì tôi có ý tưởng này, có lẽ ý tưởng này không làm cho vài thần học gia hài lòng lắm. Tôi nghĩ việc Giáo Hoàng về hưu không phải là một điều ngoại lệ. Sau bao thế kỷ, Đức Biển Đức 16 là vị đầu tiên về hưu, như Người đã nói: ”Tôi già yếu rồi, tôi không còn sức nữa”.

Việc từ chức của Người là một cử chỉ cao thượng, khiêm tốn và can đảm.. Tôi nghĩ cách đây 70 năm, việc GM về hưu là một ngoại lệ, không có. Ngày nay GM về hưu là một định chế. Tôi nghĩ Giáo Hoàng về hưu đã là một định chế rồi! Tại sao? Vì đời sống chúng ta kéo dài và tới một tuổi nào đó không còn khả năng cai quản tốt nữa, vì cơ thể mệt mỏi.. sức khỏe có thể là còn tốt, nhưng không còn khả năng giải quyết tất cả các vấn đề của một việc cai quản như cai quản Giáo Hội… Một ngày kia, nếu không còn sức để cai quản Giáo Hội nữa, tôi cũng sẽ làm như vậy. Tôi sẽ cầu nguyện rất nhiều, nhưng tôi sẽ làm như thế. Đức Biển Đức 16 đã mở ra một cánh cửa, đó là một định chế chứ không phải là một điều ngoại lệ. Quan hệ giữa chúng tôi là quan hệ huynh đệ, nhưng tôi cũng nói rằng tôi cảm thấy Người như có một ông nội ở trong nhà vì sự khôn ngoan của Người.. Tôi thích nghe Người, và Người cũng khích lệ tôi nhiều. Đó là quan hệ của tôi với Người!”

Soạn thảo Thông điệp về môi sinh

Trả lời câu hỏi của một ký giả truyền hình Đức về Thông điệp về môi sinh đang được soạn thảo, ĐTC nói: Tôi đã nói chuyện rất nhiều với ĐHY Peter Turkson, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh công lý và hòa bình, về thông điệp này, và đã yêu cầu ĐHY thu thập tất cả những đóng góp được gửi tới. 4 ngày trước cuộc công du này, ĐHY đã giao cho tôi bản dự thảo đầu tiên thật là dầy, dầy hơn 1 phần 3 so Tông Huấn ”Niềm Vui Phúc Âm”. Đó là một vấn đề không dễ dàng, bảo tồn thiên nhiên, và cả về môi sinh con người, người ta chỉ có thể nói chắc chắn tới một mức độ nào thôi. Rồi có những giả thuyết khoa học, một số khá chắc chắn, một số khác thì không. Một thông điệp phải có đặc tính huấn quyền, chỉ nói những điều chắc chắn.. Vấn đề bây giờ là đi tới những điều thiết yếu, nhưng gì chúng ta có thể khẳng định chắc chắn. Tuy nhiên, ta có thể nói trong phần chú thích những giả thuyết này, giả thuyết kia, như một thông tin, chứ không phải như thành phần một thông điệp, một văn kiện phải có tính chắc chắn, vì là một văn kiện đạo lý” (SD 19-8-2014)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

 

Full Text Of Pope Francis' Press Conference On Plane Returning From Korea

By Gerard O’Connell (Vatican correspondent)

Pope Francis said “the unjust aggressor” against the minorities in Iraq “must be stopped” but, he added, no one state can decide to intervene by itself.  The crime of aggression has to be taken to the UN to decide which are the best means to stop the aggressor. He made clear “I do not say bomb.”

He revealed that he had contemplated going to Kurdistan at the time he sent Cardinal Filoni, and said he does not yet exclude that possibility if it is necessary.

He made clear his ardent desire to go to China, even “tomorrow,” and said he wishes to establish good relations with that noble people.

He rejected the suggestion that the Prayer for Peace in the Holy Land on June 8 was a failure, and emphasized that “it has opened a door” that still remains open.

He made these and other significant statements in an hour long interview on the flight back from Korea when he responded to a variety of questions from the international media.

America provides below the full transcript of the pope’s press conference. The translation was made by Gerard O’Connell, its Vatican correspondent, who travelled on the plane with the pope. This is not an official translation.

Q. During the visit to Korea, you reached out to the families of the Sewol ferry disaster and consoled them. Two questions: What did you feel when you met them? And were you not concerned that your action could be misinterpreted politically?

A. When you find yourself in front of human suffering, you have to do what your heart brings you to do. Then later they might say, he did this because he had a political intention, or something else. They can say everything. But when you think of these men, these women, fathers and mothers who have lost their children, brothers and sisters who have lost brothers and sisters, and the very great pain of such a catastrophe…my heart. I am a priest, I feel that I have to come close to them, I feel that way. That’s first. I know that the consolation that I can give, my words, are not a remedy. I cannot give new life to those that are dead. But human closeness in these moments gives us strength, solidarity.

I remember when I was archbishop of Buenos Aires, I experienced two catastrophes of this kind. One was a fire in a dance hall, a pop-music concert, and 194 people died in it. That was in 1993. And then there was another catastrophe with trains, and I think 120 died in that. At those times I felt the same thing, to draw close to them. Human pain is strong and if we draw close in those sad moments we help a lot.

And I want to say something more. I took this ribbon (from relatives of the Sewold ferry disaster, which I am wearing) out of solidarity with them, and after half a day someone came close to me and said, “It is better remove it, you should be neutral." But listen, one cannot be neutral about human pain. I responded in that way. That’s how I felt.

Q. You know that recently the U.S. forces have started bombing the terrorists in Iraq, to prevent a genocide, to protect minorities, including Catholics who are under your guidance. My question is this: do you approve the American bombing?

A. Thanks for such a clear question. In these cases where there is an unjust aggression, I can only say this: it is licit to stop the unjust aggressor. I underline the verb: stop. I do not say bomb, make war, I say stop by some means. With what means can they be stopped? These have to be evaluated. To stop the unjust aggressor is licit.

But we must also have memory. How many times under this excuse of stopping an unjust aggressor the powers [that intervened] have taken control of peoples, and have made a true war of conquest.

One nation alone cannot judge how to stop an unjust aggressor. After the Second World War there was the idea of the United Nations. It is there that this should be discussed. Is there an unjust aggressor? It would seem there is. How do we stop him? Only that, nothing more.

Secondly, you mentioned the minorities. Thanks for that word because they talk to me about the Christians, the poor Christians. It’s true, they suffer. The martyrs, there are many martyrs. But here there are men and women, religious minorities, not all of them Christian, and they are all equal before God.

To stop the unjust aggressor is a right that humanity has, but it is also a right that the aggressor has to be stopped so that he does not do evil.

Q.  To return to Iraq. Like Cardinal Filoni and the head of the Dominicans, would you be ready to support a military intervention in Iraq to stop the Jihadists? And I have another question: do you think of going one day to Iraq, perhaps to Kurdistan to sustain the Christian refugees who wait for you, and to pray with them in this land where they have lived for 2,000 years?

A.  Not long ago I was with the Governor of Kurdistan, Minister Nechirvan Barzani. He had very clear ideas about the situation and how to find solutions, but that was before this unjust aggression.

I have responded to the first question. I am only in the agreement in the fact that when there is an unjust aggressor he is to be stopped.

Yes, I am willing [to go there]. But I think I can say this, when we heard with my collaborators about the killings of the religious minorities, the problem at that moment in Kurdistan was that they could not receive so many people. It’s a problem that one can understand. What can be done? We thought about many things. First  of all a communique was issued by Fr. Lombardi in my name.  Afterwards that communique was sent to all the nunciatures so that it be communicated to governments. Then we wrote a letter to the Secretary General of the United Nations. Many things …. And at the end we decided to send our personal envoy—Cardinal Filoni,  and I said if it were necessary when we return from Korea we can go there. It was one of the possibilities. This is my answer. I am willing [to go there]. At the moment it is not the best thing to do, but I am ready for this.

Q. My question is about China. China allowed you to fly over its airspace. The telegram that you sent [en route to Korea] was received without negative comments.  Do you think these are step forward towards a possible dialogue? And have you a desire to go to China?

Father Lombardi intervenes: I can inform you that we are now flying in the airspace over China at this moment. So the question is pertinent.

A. When we were about to enter into the Chinese airspace [en route to Korea], I was in the cockpit with the pilots, and one of them showed me a register and said, "We’re only ten minutes away from entering the Chinese airspace, we must ask authorization." One always asks for this. It’s a normal thing, one asks for it from each country. And I heard how they asked for the authorization, how they responded. I was a witness to this. The pilot then said, "We sent a telegram," but I don’t know how they did it.

Then I left them and I returned to my place and I prayed a lot for that beautiful and noble Chinese people, a wise people. I think of the great wise men of China, I think of the history of science and wisdom. And we Jesuits have a history there with Father Ricci. All these things came into my mind.

If I want to go to China? For sure! Tomorrow!

We respect the Chinese people. The church only asks for liberty for its task, for its work. There’s no other condition.

Then we should not forget that fundamental letter for the Chinese problems which was the one sent to the Chinese by Pope Benedict XVI. This letter is actual [relevant] today. It is actual. It’s good to re-read it.

The Holy See is always open to contacts. Always. Because it has a true esteem for the Chinese people.

Q. Your next journey will be to Albania and perhaps Iraq. After the Philippines and Sri Lanka, where will you go in 2015? And can I say that in Avila, there is great hope (that you will come),  can they still hope?

A. Yes! The president of Korea said to me—in perfect Spanish!—hope is the last thing one loses. She said that to me referring to the unification of Korea. One can always hope, but is not decided. Let me explain.

This year Albania is envisaged. Some have begun to say that the pope is starting everything from the periphery. But I am going to Albania for two important motives. First, because they have been able to form a government—just think of the Balkans, they have been able to form a government of national unity with Muslims, Orthodox and Catholics, with an interreligious council that helps a lot and is balanced. This is good, and harmonious. The presence of the pope wishes to say to all the peoples [of the world] that it’s possible to work together. I felt it as a real help to that noble people.

And there’s another thing, if we think about the history of Albania, in terms of religion is was the only country in the communist world to have in its constitution practical atheism. So if you went to mass it was against the constitution. And then, one of the ministers told me that 1820 churches were destroyed, both Orthodox and Catholic, at that time. Then other churches were transformed into theatres, cinemas, dancehalls. So I just felt that I had to go. It’s close, just one day.

Next year I would like to go to Philadelphia, for the meeting of the families. Then, I have been invited by the President of the United States to the American Congress. And also the Secretary General of the United Nations has also invited me to the Secretariat of the UN in New York. So maybe the three cities together.

Then there’s Mexico. The Mexicans want me to go to the Shrine of Our Lady of Guadalupe, so we could take advantage of that too (during the U.S. visit), but it’s not certain.

And lastly Spain. The Spanish Royals have invited me. The bishops have invited me, but there is a shower of invitations to go to Spain, and maybe it is possible, but there is nothing sure, so I’ll just say that maybe to go to Avila in the morning and return in the afternoon if it were possible, but nothing is decided. So one can still hope.

Q. What kind of relationship is there between you and Benedict XVI? Do you have a regular exchange of opinions? Is there a common project after the encyclical ("Light of Faith")?

A. We see each other. Before I departed [for Korea] I went to visit him. Two weeks earlier he sent me an interesting written text and he asked my opinion on it. We have a normal relationship. 

I return to this idea, which may not be liked by some theologian. I am not a theologian, but I think that the emeritus-pope is not an exception. But after many centuries he is the first emeritus. Let us think about what he said, I have got old, I do not have the strength. It was a beautiful gesture of nobility, of humility and courage.

But if one thinks that 70 years ago emeritus bishops also were an exception. They did not exist, but today emeritus bishops are an institution.

I think that the emeritus pope is already an institution because our life gets longer and at a certain age there isn’t the capacity to govern well because the body gets tired, and maybe one’s health is good but there isn’t the capacity to carry forward all the problems of  a government like that of the church. I think that Pope Benedict made this gesture of emeritus popes. May, as I said before, some theologian may say this is not right, but I think this way. The centuries will tell us if this so or not. Let’s see.

But you could say to me, if you at some time felt you could not go forward, I would do the same! I would do the same. I would pray, but I would do the same. He [Benedict] opened a door that is institutional, not exceptional.

Our relationship is truly that of brothers. But I also said that I felt as if I have a grandfather at home because of his wisdom. He is a man of wisdom, of nuance that is good for me to hear him. And he encourages me sufficiently too. That’s the relationship I have with him.

Q. You have met the people who suffered. What did you feel when you greeted the comfort women at Mass this morning? And as regards the suffering of people in Korea there were also Christians hidden in Japan, and next year will the 150th anniversary of their "era of Nero" [in which Christians were persecuted]. Would it be possible to pray for them together with you at Nagasaki?

A. It would be most beautiful. I have been invited both by the government and by the bishops. I have been invited.

As for the suffering, you return to one of the first questions. The Korean people are a people who did not lose their dignity. It was a people that was invaded, humiliated. It suffered wars and now it is divided. Yesterday, when I went to the meeting with young people [at Haemi], I visited the museum of the martyrs there. It was terrible the sufferings of these people, just for not standing on a cross. It’s a historical suffering. This people has the capacity to suffer, and it is part of their dignity.

Also today, when those elderly women were in front of me at Mass, I thought that in that invasion there were young girls taken away to the barracks for to use them but they did not lose their dignity then. They were there today showing their faces, elderly, the last ones remaining. It’s a people strong in its dignity.

But returning to the question about the martyrs, the suffering and also these women, these are the fruits of war! Today we are in a world at war, everywhere. Someone said to me, "Father do you know that we are in the Third World War, but bit by bit." He understood! It’s a world at war in which these cruelties are done.

I’d like to focus on two words. First, cruelty. Today children do not count. Once they spoke about a conventional war, today that does not count. I’m not saying that conventional wars were good things, but today a bomb is sent and it kills the innocent, the guilty, children, women they kill everybody. No! We must stop and think a little about the level of cruelty at which we have arrived. This should frighten us, and this is not to create fear. An empirical study could be done on the level of cruelty of humanity at this moment should frighten us a little.

The other word on which I would like to say something is torture. Today torture is one of the means, I would say, almost ordinary in the behavior of the forces of intelligence, in judicial processes and so on. Torture is a sin against humanity, is a crime against humanity. And I tell Catholics that to torture a person is a mortal sin, it’s a grave sin. But it’s more, it’s a sin against humanity.

Cruelty and torture! I would like very much if you, in your media, make a reflection: How do you see these things today? How do you see the cruelty of humanity, and what do you think of torture. I think it would do us all good to reflect on this.

Q.  You have a very demanding rhythm, full of commitments and take little rest, and no holidays, and you do these trips that are exhausting. And in these last months we see that you have also had to cancel some of these engagements, even at the last moment  Is there something to be concerned about in the life you lead?

A.  Yes, some people told me this. I have just taken holidays, at home, as I usually do.

Once I read a book. It was quite interesting, it’s title was: Rejoice that you are neurotic. I too have some neuroses. But one should treat the neuroses well. Give them some mate [herbal drink] every day. One of the neurosis is that I am too attached to life.   

The last time I took a holiday outside Buenos Aires was with the Jesuit community in 1975. But I always take holidays. It’s true. I change rhythm. I sleep more. I read the things I like. I listen to music. That way I rest. In July and part of August I did that.

The other question. Yes, it is true, I had to cancel [engagements]. The day I should have gone to the Gemelli [hospital], up to 10 minutes before I was there, but I could not do it. It is true, they were seven very demanding days then, full of engagements. Now I have to be a little more prudent.

Q.  In Rio when the crowds chanted Francesco, Francesco, you told them to shout Christ, Christ. How do you cope with this immense popularity? How do you live it?

A.  I don’t know how to respond. I live it thanking the Lord that his people are happy. Truly, I do this. And I wish the People of God the best. I live it as generosity on the part of the people. Interiorly,  I try to think of my sins, my mistakes, so as not to think that I am somebody. Because I know this will last a short time, two or three years, and then to the house of the Father. And then it’s not wise to believe in this. I live it as the presence of the Lord in his people who use the bishop, the pastor of the people, to show many things. I live it a little more naturally than before, at the beginning I was a little frightened. But I do these thing, it comes into my mind that I must not make a mistake so as not to do wrong to the people in these things. A little that way.

Q. The pope has come from the end of the world and lives in the Vatican. Beyond Santa Marta about which you have talked to us, about your life and your choices. How does the Pope live in the Vatican? They’re always asking us: “What does he do?  How does he move about? Does he go for a walk? They have seen that you went to the canteen and surprise us.  What kind of life do you lead in Santa Marta, besides work?

A. I try to be free. There are work and office appointments, but then life for me, the most normal life I can do. Really, I’d like to go out but it’s not possible, it’s not possible, because if you go out people will come to you. That’s the reality. Inside Santa Marta I lead the normal life of work, of rest, chatting and so on.

Q. Don’t you feel like a prisoner?

A. At the beginning yes, but now some walls have fallen. For example, before it was said but the pope can’t do this or this. I’ll give you an example to make you laugh. When I would go into the lift, someone would come in there suddenly because the pope cannot go in the lift alone. So I said, you go to your place and I’ll go in the lift by myself. It’s normality.

Q. I’m sorry, Father, but I have to ask you this question as a member of the Spanish language group of which Argentina is a part. Your team, San Lorenzo, won the championship of America for the first time this week. I want to know how you are living this, how you are celebrating. I hear that a delegation are bringing the cup to the public audience on Wednesday, and that you will receive them in the public audience.

A. It's good news after getting second place in Brazil. I learned about it here. They told me in Seoul. And they told me, they’re coming on Wednesday. It’s a public audience and they will be there. For me San Lorenzo is the team, all my family were supporters of it. My Dad played basketball at San Lorenzo; he was a player in the basketball team. And as children we went with him, and Mama also came with us to the Gazometer. Today the team of ’46 was a great team and won the championship. I live it with joy. Not a miracle, no!

Q. There’s been talk for a long time about an encyclical on ecology. Could you tell us when it will be published, and what are the key points?

A. I have talked a lot about this encyclical with Cardinal Turkson, and also with other people. And I asked Cardinal Turkson to gather all the input that have arrived, and four days before the trip, Cardinal Turkson brought me the first draft. It’s as thick as this. I’d say it’s about a third longer than "Evangelii Gaudium." It’s the first draft.  It’s not an easy question because on the custody of creation, and ecology, also human ecology, one can talk with a certain security up to a certain point, but then the scientific hypotheses come, some sufficiently secure, others not. And in an encyclical like this, which has to be magisterial, one can only go forward on the things that are sure, the things that are secure. If the pope says the center of the universe is the earth and not the sun, he’s wrong because he says a thing that is scientifically not right. That’s what happens now. So we have to do the study now, number by number, and I believe it will become smaller. But going to the essentials, to that which one can affirm with security. One can say, in footnotes, that on this there is this and that hypothesis, to say it as information but not in the body of an encyclical that is doctrinal. It has to be secure.

Q. Thank you so much for your visit to South Korea. I’m going to ask you two questions. The first one is this: just before the final Mass at the cathedral you consoled some comfort women there, what thought occurred to you? And my second question, Pyongyang sees Christianity as a direct threat to its regime and its leadership and we know that some terrible thing happened to North Korean Christianity but we don’t know exactly what happened. Is there any special approach in your mind to change North Korea’s approach to North Korea’s Christianity?

A . On the first question I repeat this. Today, the women were there and despite all they suffered they have dignity, they showed their face. I think, as I said a short time ago, of the suffering of the war, of the cruelty of the one who wages war. These women were exploited, the were enslaved, all this is cruelty. I thought of all this, and of the dignity that they have and also how much they suffered. And suffering is an inheritance. The early fathers of the church said the blood of the martyrs if the seed of Christians. You Koreans have sown much, much, and out of coherence one now sees the fruit of that seed of the martyrs.

About North Korea, I know it is a suffering, and one I know for sure, there are many relatives that cannot come together, that’s a suffering, but it a suffering of that division of the country.   Today in the cathedral when I put on the vestments for mass there was a gift that they gave me, it was a crown of the thorns of Christ made from the iron wire that divides the two parts of the one Korea. We are now taking it with us on the plane, it’s a gift that I take, the suffering of division, of a divided family, but as I said yesterday, I can’t remember exactly, but talking to the bishops, I said we have  a hope: the two Koreas are brothers, and they speak the same language. They speak the same language because they have the same mother, and that gives us hope. The suffering of the division is great, I understand that and I pray that it ends.

Q. As an Italo-American I want to compliment you for your English, you should have no fear, and if you wish to do some practice before you go to America, my second homeland, I am willing to help. My question is this: You have spoken about martyrdom. At what stage is the process for the cause of Archbishop Romero. And what would you like to come out of this process?

A. The process was blocked in the Congregation for the Doctrine of the Faith “for prudence,” it was said. Now it is unblocked and it is in the Congregation for Saints and follows the normal path of a process. It depends on how the postulators move, it’s very important to move in haste.

What I would like is to have clarified when there is martyrdom in "odium fidei" [out of hate for the faith], whether it is for confessing the credo or for performing the works that Jesus commands us to do  for our neighbor. This is a work of theologians that is being studied. Because behind him [Romero], there is Rutilio Grande and there are others. There are other that were also killed but are not at the same height as Romero. This has to be distinguished theologically. For me, Romero is a man of God. He was a man of God but there has to be the process, and the Lord will have to give his sign [of approval]. But if He wishes, He will do so! The postulators must move now because there are no impediments.

Q. Given what has happened in Gaza, was the Prayer for Peace held in the Vatican on June 8 a failure?

A. That prayer for peace was absolutely not a failure. First of all, the initiative did not come from me. The initiative to pray together came from two presidents: the president of the State of Israel and the president of the State of Palestine. They make known to me this unease, then we wanted to hold it there [in the Holy Land],  but we couldn’t find the right place because the political cost for each one was very high if they went to the other side. The nunciature was a neutral place, but to arrive at the nunciature the President of Palestine would have had to enter in Israel, so the thing was not easy. Then they said to me, let us do it in the Vatican, we will come. These two men are men of peace, they are men who believe in God, and they have lived through many ugly things, they are convinced that they only way to resolve the situation there is through dialogue, negotiation and peace.

You ask me, was it a failure? No, the door remains open. All four, the two presidents and Bartholomew I, I wanted him here as the ecumenical patriarch of Orthodoxy, it was good that he was with us, the door of prayer was opened. And it was said we must pray, peace is a gift of God,. It is a gift but we merit it with our work. And to say to humanity that the path of dialogue is important, negotiation is important, but there is also that of prayer. Then after that, we saw what happened. But it was just a matter of coincidence. That encounter for prayer was not conjuncture. It is a fundamental step of the human attitude, now the smoke of the bombs and the war do not let one see the door, but the door was left open from that moment. And as I believe in God, I look at that door and the many who pray and who ask that He helps us. I liked that question. Thank you!

Đức Thánh Cha gặp gỡ các Giám Mục Á châu và bế mạc Đại hội giới trẻ Á châu

Đức Thánh Cha gặp gỡ các Giám Mục Á châu và bế mạc Đại hội giới trẻ Á châu

ĐẠI ĐIỀN. Chúa nhật 17-8-2014, ĐTC Phanxicô đã gặp gỡ Liên HĐGM Á châu và chủ sự thánh lễ bế mạc Đại hội giới trẻ Công Giáo Á châu kỳ 6 tại khu vực Đền Thánh Hải My (Haemi) thuộc giáo phận Đại Điền (Deajeon), Hàn Quốc.

Hải My cách thủ đô Hán Thành hơn 100 cây số về hướng nam. Đây là nơi kính nhớ các vị tử đạo vô danh của Giáo Hội Hàn quốc vì phần lớn trong số 132 vị tử đạo bị tra tấn và hành quyết tại đây không có tên tuổi được ghi lại.

Gặp gỡ các Giám Mục Á châu

ĐTC đã đáp trực thăng đến Đền thánh Hải My lúc gần 11 giờ và tại nguyện đường của thánh điện, ngài đã cùng với các GM cử hành kinh trưa bằng tiếng Anh. Có 68 GM đến từ 35 nước Á châu hiện diện.

Sau khi ĐTC ban phép lành kết thúc kinh nguyện, ĐHY Oswald Gracias, TGM giáo phận Mumbai, Ấn độ, trong tư cách là Chủ tịch Liên HĐGM Á châu, đã đại diện mọi người chào mừng ĐTC. Ngài nhắc lại biến cố lịch sử cách đây 44 năm, khi các GM Á châu nhóm họp tại Manila nhân cuộc viếng thăm lịch sử của ĐGH Phaolô 6 tại Philippines hồi tháng 12 năm 1970. Đó là lần đầu tiên có đông đảo các GM Á châu như thế, 180 vị, nhóm họp để trao đổi kinh nghiệm và thảo luận về những vấn đề mục vụ tại đại lục to lớn và có nhiều khác biệt như Á châu. Do lòng hăng say từ kinh nghiệm ấy thúc đẩy, các GM đã thiết lập Liên HĐGM Á châu với sự chúc lành của ĐGH Phaolô 6. Ngày nay, tổ chức này có 19 HĐGM thành viên, bao gồm 27 nước và 9 thành viên kết nạp, vì các giáo phận ấy không thuộc HĐGM nào.

ĐHY Gracias cũng nhận xét rằng Á châu là một đại lục đang cảm nghiệm những hy vọng và vui mừng về sự liên tục tái sinh trong Thánh Linh. 60% dân số thế giới sinh sống ở Á châu. Đây là một đại lục trẻ trung, đa số dân là người trẻ.. Dân Á châu bản chất là người có tôn giáo, nhưng tinh thần tục hóa và duy vật đang lẻn vào đại lục này. Cơ cấu gia đình, xưa kia được coi là quan trọng và ăn rễ sâu nơi xã hội Á châu, nay đang dần dần bị tan rã. Và tuy tâm hồn Á châu coi sự sống là thánh thiêng, nhưng những đe dọa sự sống đang gia tăng và thật đáng lo ngại dưới nhiều khía cạnh.

Huấn dụ của ĐTC

Trong bài huấn dụ trước các GM Á châu, ĐTC đặc biệt nói đến vai trò của Giáo Hội tại Đại lục bao la này, trong đó có rất nhiều nền văn hóa khác nhau:

”Giáo Hội được mời gọi làm chứng cho Tin Mừng, qua cuộc đối thoại và cởi mở đối với mọi người. Điểm khởi hành và điểm tham chiếu cơ bản chính là căn tính của chúng ta, căn tính Kitô hữu. Chúng ta không thể dấn thân đối thoại đích thực nếu chúng ta không ý thức về căn tính của mình. Nếu chúng ta muốn trao đổi một cách tự do, cởi mở và phúc lợi với tha nhân, chúng ta phải biết rõ mình là ai, điều mà Thiên Chúa đã làm cho chúng ta và điều Ngài yêu cầu chúng ta. Và nếu sự trao đổi của chúng ta không muốn là một cuộc độc thoại, thì phải có tâm trí mở rộng để chấp nhận những con người và các nền văn hóa.

Cũng trong lãnh vực làm chứng và đối thoại, cần có căn tính Kitô vững mạnh như điểm tham chiếu, ĐTC nhắc đến 3 khó khăn cần phải nghĩ đến và cố tránh chúng:

– Thứ I là thái độ duy tương đối, thúc đẩy chúng ta vào những vùng cát lún của sự hỗn độn và tuyệt vọng. Đó là cám dỗ trên thế giới ngày nay, mà cả các cộng đồng Kitô cũng gặp phải, khiến cho ta quên rằng ”bên kia những điều thay đổi có những thực tại bất biến; những thực tại ấy có nền tảng tối hậu nơi Chúa Kitô, Đấng vẫn luôn luôn bất biến, hôm qua, hôm nay và mãi mãi (GS 10; Xc Dt 13,8).

Thái độ duy tương đối cần tránh ở đây không phải chỉ là một hệ thống tư tưởng, nhưng còn là thái độ duy tương đối thực hành, trong đời sống thường nhật, nó làm suy yếu bất kỳ căn tính nào và hầu như người ta không cảm thấy tình trạng đó.

– Cách thức thứ II mà thế gian đe dọa căn tính Kitô vững chắc của chúng ta, đó là sự hời hợt; những điều thịnh hành theo thời, tránh né và trốn chạy. Đây là một vấn đề trầm trọng về mục vụ. Đối với các thừa tác viên của Giáo Hội, thái độ hời hợt này cũng có thể biểu lộ qua sự kiện họ bị thu hút vì những chương trình mục vụ và lý thuyết gây thương tổn cho cuộc gặp gỡ trực tiếp và phúc lợi với các tín hữu, nhất là những người trẻ, là những người trong thực tế đang cần một nền huấn giáo vững chắc, một sự linh hướng chắc chắn. Nếu không ăn rễ sâu nơi Chúa Kitô, thì những chân lý mà chúng ta sống rốt cuộc sẽ suy yếu, việc thực hành nhân đức chỉ có là vụ hình thức và cuộc đối thoại chỉ là một hình thức thương lượng hoặc đồng ý về sự bất đồng với nhau.

Cám dỗ thứ III là cái vẻ tự tin chắc chắn nấp đằng sau những câu trả lời dễ dàng, những câu làm sẵn, những luật lệ và qui tắc. Tự bản chất, đức tin không qui trọng tâm vào mình, đức tin có khuynh hướng ”đi ra ngoài”, tìm cách làm cho mình được hiểu rõ, làm nảy sinh chứng ta, tạo nên sứ mạng truyền giáo. Căn tính Kitô của chúng ta, xét cho cùng, hệ tại dấn thân tôn thờ một mình Thiên Chúa và yêu thương nhau, phục vụ nhau, không những chứng tỏ điều mà chúng ta tin, nhưng còn cho thấy điều mà chúng ta hy vọng và ai là Đấng mà chúng ta đặt trọn niềm tín thác (Xc 2 Tm 1,12).

ĐTC nói thêm rằng chính niềm tin sinh động nơi Chúa Kitô tạo nên căn tính sâu xa và phong phú nhất của chúng ta. Nó nảy sinh và được nuôi dưỡng nhờ ơn thánh do cuộc đối thoại của chúng ta với Chúa và sự thúc đẩy của Thánh Linh. Niềm tin ấy mang lại thành quả công lý, sự tốt lành và an bình.

ĐTC nói các GM Á châu: Anh em hãy làm sao để căn tính Kitô của các Giáo Hội địa phương được xuất hiện rõ ràng trong các chương trình huấn giáo và mục vụ giới trẻ của anh em, trong việc phục vụ người nghèo và những người mòn mỏi sống bên lề các xã hội sung túc của chúng ta và qua những cố gắng của anh em nuôi dưỡng các ơn gọi linh mục và tu sĩ.

Sau cùng, ĐTC nói: ”Cùng với một ý thức rõ ràng về căn tính Kitô, cuộc đối thoại chân chính cũng đòi một khả năng cảm thông. Không phải chúng ta chỉ nghe những lời người khác nói, nhưng còn đón nhận cả những thông tin không được nói ra về kinh nghiệm, hy vọng và khát mong, những khó khăn của họ và những điều mà họ đặc biệt quan tâm. Sự cảm thông ấy phải là kết quả cái nhìn thiêng liêng của chúng ta và kinh nghiệm bản thân, khiến chúng ta nhìn tha nhân như anh chị em, lắng nghe qua những lời nói và hành động của họ, điều mà con tim họ muốn thông truyền. Trong tinh thần cởi mở như thế đối với tha nhân, các nước Á châu mà Tòa Thánh chưa có quan hệ ngoại giao trọn vẹn sẽ không do dự thăng tiến một cuộc đối thoại có lợi cho tất cả mọi người”.

ĐTC giải thích rằng ”Ở đây tôi không phải chỉ nói về đối thoại chính trị, nhưng cũng nói về đối thoại giữa con người với nhau, đối thoại huynh đệ nữa”.

Sau bài huấn dụ, ĐTC đã bắt tay chào thăm từng vị GM và lúc 1 giờ, ngài đã dùng bữa với các GM. Lúc gần 4 giờ chiều, ngài đến cánh đồng trước lâu đài Hải My cách đó hơn 1 cây số rưỡi để cử hành thánh lễ bế mạc Đại hội giới trẻ Công Giáo Á châu kỳ 6.

Lâu đài này được xây cất cách đây 593 năm (1421) như một thành trì chống lại quân cướp, nhưng 70 năm sau đó đã được biến thành một trung tâm quân sự với các doanh trại và cả nhà giam. Vì thế trong thời cách hại hồi thế kỷ 19, đã có gần 3 ngàn tín hữu Công Giáo bị giam giữ tại đây và nhiều người bị tra tấn và hành quyết.

Thánh Lễ bế mạc

Hiện diện trong cánh đồng trước lâu đài Hải My chiều chúa nhật 17-8-2014, có hàng chục ngàn tín hữu tụ tập để tham dự thánh lễ do ĐTC cử hành, trong đó có hơn 2 ngàn bạn trẻ Á châu, và 4 ngàn bạn trẻ tham dự Ngày Giới trẻ Công Giáo Hàn Quốc, trong áo choàng mầu xanh lá cây và áo T-shirt màu vàng chanh, được chỗ ở khu vực trước lễ đài. Đồng tế với ĐTC có đông đảo các GM Á châu và Hàn quốc cùng với 70 LM từ các nước Á châu.

Trong bài giảng thánh lễ, ĐTC đã phân tích từng phần của chủ đề Đại hội giới trẻ Công Giáo Á châu kỳ 6: ”Hỡi giới trẻ Á châu, hãy trỗi dậy! Vinh quang của các vị tử đạo chiếu sáng trên các bạn!”.

Ngài nhận định rằng Á châu là một đại lục phong phú về các truyền thống triết học và tôn giáo, đại lục này vẫn là một biên cương lớn đối với việc làm chứng cho Chúa Kitô, ”là đường, là sự thật và là sự sống” (Ga 14,6). ”Không những các bạn sống tại Á châu, nhưng các bạn còn là những người con của đại lục rộng lớn này, các bạn có quyền và nghĩa vụ tham gia trọn vẹn vào đời sống xã hội của các bạn. Các bạn đừng sợ mang sự khôn ngoan của đức tin vào trong mọi lãnh vực của đời sống xã hội.

ĐTC nói thêm rằng trong tư cách là những người trẻ Á châu, các bạn nhìn thấy và yêu mến từ bên trong tất cả những gì là đẹp đẽ, cao quí và chân thực trong các nền văn hóa và truyền thống của các bạn. Đồng thời, trong tư cách là Kitô hữu, các bạn cũng biết rằng Tin Mừng có sức mạnh thanh tây, nâng cao và kiện toàn gia sản ấy. Ngoài ra, các bạn có khả năng phân định điều gì là không thể dung hợp với đức tin Công Giáo, điều gì trái ngược với đời sống ơn thánh được phú vào các bạn nhờ bí tích rửa tội, và đâu là những khía cạnh trong nền văn hóa hiện đại là tội lỗi, hư hỏng và dẫn tới sự chết.

Đề cập đến phần thứ 3 trong đề tài của Ngày Giới trẻ Á châu là ”Hãy trỗi dậy!”, ĐTC nói: câu này nói về trách nhiệm mà Chúa ủy thác cho các bạn. Đó là nghĩa vụ phải tỉnh thức để không để cho những áp lực, cám dỗ và tội lỗi của chúng ta hay của người khác làm cho chúng ta không còn nhạy cảm đối với vẻ đẹp của sự thánh thiện, với niềm vui của Tin Mừng nữa.

Thánh lễ ĐTC cử hành bằng tiếng latinh, nhưng bài giảng của ngài bằng tiếng Anh, với phần thông dịch ra tiếng Hàn quốc, và các bài đọc bằng tiếng Philippines, Bahasa Malaysia, Hàn quốc, còn các ý nguyện trong lời nguyện giáo dân bằng tiếng Nhật, Anh, Lào và Hàn quốc.

Diễn từ của đại diện GM Hàn quốc và ĐHY Gracias

Sau phép lành của ĐTC vào cuối thánh lễ, Đức Cha Phêrô Khương Vũ Nhất (Kang U Il), GM giáo phận Tể Châu (Cheju), Chủ tịch HĐGM Hàn Quốc, đã đại diện mọi người chào ĐTC và nhắc đến sự kiện các bạn trẻ có cùng một niềm tin, từ các môi trường khác nhau, tụ họp lại, vượt lên trên những bức tường khác biệt: quốc tịch và ngôn ngữ, để củng cố tình huynh đệ của họ trong Chúa Kitô, để mừng lễ và cùng nhau chúc tụng Thiên Chúa. Vì lần này ĐGH dành nhiều thời giờ cho họ, người trẻ Á châu đã cảm nghiệm được những giờ phút hồng ân không thể tái diễn, một hạt giống hy vọng cho tương lai.

Tiếp lời Đức Cha Khương Vũ Nhất, ĐHY Oswald Gracias, TGM Mumbai, Chủ tịch Liên HĐGM Á châu, bày tỏ tâm tình của hàng chục ngàn bạn trẻ sau 5 ngày gặp gỡ, quyết tâm của họ bước theo Tin Mừng và sức mạnh của Bí tích rửa tội trong hành trình Kitô, cũng như trong đời sống dân sự. Cụ thể là không chấp nhận nền kinh tế loại trừ, không chiều theo một nền kinh tế ích kỷ, không có luân lý đạo đức, không chấp nhận tinh thần duy vật. Trái lại, chấp nhận một cuộc gặp gỡ bản thân với Chúa Giêsu, Đấng mà chúng ta muốn mang theo mình; lắng nghe tiếng kêu than của người nghèo, người túng thiếu và cô đơn, chấp nhận một thế giới đang nóng lòng mong đợi chúng ta.

Sau cùng, ĐHY Gracias loan báo Đại hội giới trẻ Công Giáo Á châu kỳ 7 sẽ diễn ra tại Indonesia vào năm 2017. Một Video ngắn về Giáo hội Công Giáo tại Indonesia đã được trình chiếu nhân dịp này.

Sau thánh lễ, vì trời xấu, nên ĐTC đã đi xe lửa trở về thủ đô Hán Thành thay vì dùng trực thăng như chương trình dự định. Ngài dùng xe lửa đặc biệt do phủ tổng thống đề nghị.

Vài chi tiết bên lề

1. Rửa tội tại tòa Sứ Thần Tòa Thánh

Lúc 7 giờ sáng chúa nhật 17-8-2014, tại nhà nguyện tòa Sứ Thần Tòa Thánh ở thủ đô Hán Thành, ĐTC đã ban phép rửa tội cho Ông Lee Ho Jin, thân phụ của một trong những người trẻ bị thiệt mạng trong vụ đắm tàu Sewol ngày 16-4 năm nay. Hôm thứ sáu 15-8, trong thánh lễ tại Sân bóng đá thế giới ở thành phố Đại Điền, Ông đã xin ngài rửa tội cho trong dịp ngài gặp một nhóm thân nhân các nạn nhân bị đắm tàu và ngài đã nhận lời. Ông đã mang thánh giá đi hành hương 900 cây số từ nơi con ông sinh ra tới hải cảng nơi con tàu Sewol khởi hành. Trong hai năm trước đó, ông đã theo học giáo lý tại một xứ đạo Công Giáo.

Tháp tùng Ông Lee Ho Jin trong lễ nghi rửa tội có con trai và con gái của ông, cùng với 1 linh mục đã giới thiệu ông với ĐTC khi ở Đại Điền. Phần lớn lễ nghi rửa tội đơn sơ do Cha John Chong Che Chon, giám tỉnh dòng Tên Hàn quốc, thông dịch viên của ĐTC cử hành, và chính ĐTC đổ nước rửa tội và xức dầu ban phép thêm sức cho tân tòng. Ông đã nhận tên thánh là Phanxicô để ghi ơn ĐTC và người đỡ đầu là một nhân viên tòa Sứ Thần Tòa Thánh.

2. Tông đồ sự sống không có tay chân

Trong cuộc viếng thăm của ĐTC dành cho những người khuyết tật hôm thứ bẩy, 16-8-2014 tại trung tâm Kkottongnae, cũng gọi là ”Hoa Chi Thôn”, thuộc giáo phận Kim Châu (Cheonju), đặc biệt có cuộc gặp gỡ giữa ngài với Thày Lý Cố Văn (Lee Gu Won), một người không tay không chân đã trở thành tông đồ sự sống, thuộc tu hội Hội Thánh Luca Hoàng ở Hàn Quốc.

Tuy bị bỏ rơi ngay từ lúc mới sinh ra vì khuyết tật trầm trọng như vây, Lý Cố Văn đã sống sót và đã quyết tâm tận hiến đời mình cho Thiên Chúa và loan báo Tin Mừng hy vọng cho những người tàn tật ở Hàn Quốc.

Thầy Lý Cố Văn sinh ngày 9-5-1990 không tay chân và không hề có tiếp xúc nào với cha mẹ và cũng chẳng biết mình sinh ra ở đâu. Điều chắc chắn là hài nhi bị bỏ rơi tại trung tâm nhận con nuôi Thánh Giá ở Hán Thánh. Ngày 12 tháng 7 cùng năm 1990, Cha Gioan Bosco Kim Đông Nhật (Kim Dong-il) đến thăm cô nhi viện và thấy bé Lý. Cha biết chắc chắn sẽ không ai nhận cậu bé này làm con nuôi, nên đã xin Đức GM bản quyền cho phép nhận bé làm con nuôi và được GM đồng ý. Thế là cha mang hài nhi về Hội Thừa Sai Luca Hoàng ở giáo phận Kim Châu (Cheonju) và nuôi dưỡng trong cộng đoàn.

Cha nói: ”Giả sử tôi không nhận và mang bé theo tôi, thì cũng như là giết cậu bé. Tôi nhận thấy rằng nhận nuôi một đứa trẻ với những vấn đề như thế có nghĩa là phải hy sinh rất lớn về tài chánh và thời giờ, nhưng chúng ta không thể đo lương mọi sự trên căn bàn tiền bạc. Xã hội Hàn quốc cần hiểu rằng mỗi sự sống đều là quí giá, cho dù đó là một sự sống có vẻ phức tạp hơn.”

Được các ân nhân và thừa sai trợ giúp, hồi tháng 3 năm 2008, anh Lý Cố Văn, 18 tuổi, được nhận vào Đại học Công Giáo ở thành phố Đại Điền (Daejeon). Anh và cha nuôi đều ý thức rằng những kết quả này không phải là điều tự nhiên mà được, nhưng là kết quả của một sự học hành và làm việc chăm chỉ. Trong khi đó thì ơn gọi thừa sai bắt đầu chín mùi nơi anh Lý Cố Văn và ngày 31-1-2011, với phép của Đức GM, thầy đã được khấn lần đầu tiên sau tập viện. Thầy kể ”Những ngừơi anh em của tôi nói với tôi về ”Trung tâm phụng sự sự sống” thuộc Tu hội của chúng tôi nên tôi quyết định hiến đời tôi cho lý tưởng đó. Mong ước của tôi là công bố Tin Mừng sự sống và tình yêu thương con người”.

Tháng 3 năm 2013 thầy Lý Cố Văn tốt nghiệp đại học sau 5 năm theo học và giấc mơ của thầy thành tựu. Nay thầy làm việc tại trung tâm, an ủi các bệnh nhân và những người bị bỏ rơi, và hàng tháng viết bản tin, mang lại cho nhiều độc giả niềm phấn khởi và hy vọng.

Thày Lý Cố Văn cũng kể rằng: Cha Bosco Kim xin tôi công bố Tin Mừng cho những ngừơi khuyết tật. Tôi cầu xin Chúa và cám ơn Chúa vì phúc lành của Ngài, kể cả khả năng làm việc bênh vực sự sống trong lãnh vực truyền giáo. Tôi muốn thông truyền cho thế giới và Hàn quốc,là nước có tỷ lệ người trẻ tự tử cao nhất thế giới, sứ điệp hy vọng nơi Chúa chúng ta”.

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Ngày thứ 3 chuyến viếng thăm Nam Hàn của Đức Thánh Cha Phanxicô

Ngày thứ 3 chuyến viếng thăm Nam Hàn của Đức Thánh Cha Phanxicô

Thứ bẩy 16-8-2014 chuyến viếng thăm Nam Hàn của Đức Thánh Cha Phanxicô đã tiến hành được một nửa. Đức Thánh Cha đã có bốn sinh hoạt chính, ban sáng sau khi đến kính viếng các vị tử đạo Đại Hàn tại Đền thánh Seo-So-Mun, lúc 10 giờ Đức Thánh Cha chủ sự thánh lễ đồng tế phong chân phước cho linh mục Phaolô Yun-Ji-Chung và 123 bạn tử đạo.

Lễ Phong Chân Phước cho LM Phaolô Yun Ji-Chung và 123 Bạn tử đạo

Ban chiều ngài đã thăm trung tâm phục hồi người tàn tật Kkottongnae, rồi chủ sự buổi hát kinh chiều gần Trường Tình Thương với 5,000 tu sĩ nam nữ, và gặp gỡ các giáo dân lãnh đạo tổ chức tông đồ giáo dân Nam Hàn tại trung tam tu đức Kkottongnae.

Sau đây là chi tiết các sinh hoạt của Đức Thánh Cha. Lúc 8 giờ 45 Đức Thánh Cha rời tòa Sứ Thần đi xe tới viếng đền các vị tử dạo Seo-So-Mun nằm cách đó 4 cây số. Đậy là nơi 103 tín hữu công giáo đã bị hành quyết và đã được Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II tôn phong hiển thánh ngày mùng 6 tháng 5 năm 1984. Con đường đi từ quảng trường Gwanghwamun tới Seo-So-Mun được mệnh danh là ”tử lộ”, con đường của sự chết hay ”tử đạo”, và gắn liền hai lễ tôn phong với nhau.

Đền thánh các vị đạo là nơi chôn cất 44 vị tử đạo, gồm ba cây cột bằng nham thạch, cột chính giữa cao 15 thước, hai cột hai bên cao 13 thước. Đền kỷ niệm tọa lạc gần nhà thờ Yakhyeon, là ngôi nhà thờ công giáo đầu tiên của Đại Hàn xây năm 1892.

Có hai bạn trẻ đã giúp Đức Thánh Cha đặt vòng hoa tôn kính các Thánh Tử Đạo và ngài đã thinh lặng cầu nguyện một lúc.

Tiếp đến Đức Thánh Cha đã lên Papamobil để tới quảng trường Gwanghwamun cách đó 2 cây số. Đây là quảng trường rộng nối liền cửa Hoàng Cung với quảng trường Tòa Thị Sảnh, biểu tượng cho lịch sử Hàn quốc, và là nơi diễn ra các lễ nghi quan trọng.

Cửa GwangHwaMun được xây năm 1395 như là cửa chính của hoàng cung Gyeongbokgung, là Dinh vua trong triều đại Joseon. Năm 1592 trong cuộc xâm lăng của Nhật Bản nó đã bị tàn phá bởi một trận hỏa hoạn và để hoang tàn trong hơn 250 năm cho tới khi được tái thiết năm 1867 cùng với hoàng cung dưới triều đại hoàng đế Gojong. Chiến tranh Triều Tiên đã phá hủy hoàn toàn cấu trúc bằng gỗ, chỉ còn trơ đế bằng đá bị bỏ hoang. Cấu trúc bằng gỗ được xây lại bằng xi măng cho tới năm 2006.

Xe đã chở Đức Thánh Cha đi một vòng để ngài chào 1 triệu tín hữu đến tham dự thánh lễ, vượt ngoài mọi chờ mong của ban tổ chức. Thánh lễ tôn phong chân phước cho 124 vị tử đạo Hàn quốc đã được cừ hành bằng tiếng Latinh và tiếng Đại Hàn. Đức Thánh Cha đã giảng bằng tiếng Ý được dịch sang tiếng Đại Hàn.

Đây là lần thứ ba Giáo Hội Đại Hàn cử hành lễ phong chân phước cho một số các con cái chết vì đạo Chúa. Lần thứ nhất ngày mùng 5 tháng 7 năm 1925 đã có 79 vị tử đạo, bị giết trong các năm 1839-1846 được phong chân phước. Lần thứ hai ngày 29 tháng 2 năm 1968, đã có 24 vị chết trong cuộc bách hại năm 1866 được phong chân phước. Ngoài ra, cũng đang có án phong chân phước và phong thánh cho cho một số vị tử đạo khác nữa, trong đó có vị linh mục thứ hai của Đại Hàn là cha Tôma Choe Yang-Cop và Đức Cha Phanxicô Borgia Hong Yong-Ho.

Đức Cha Phanxicô Xaviê Ahn Myong-Ok Chủ tịch Ủy ban xin phong chân phước và vị thỉnh nguyện viên đã tới trước mặt Đức Thánh Cha xin ngài phong chân phước cho các vị tử đạo, rồi vị thỉnh nguyên viên đọc tiểu sử của các vị Tôi Tớ Chúa. Tiếp đến Đức Thánh Cha đọc công thức tuyên phong Chân Phước cho các vị. Đức Hồng Y Yeum Soo-Jung, Tổng Giám Mục Seoul đã cám ơn Đức Thánh Cha và nêu bật vai trò của các vị tử đạo đối với Giáo Hội Hàn quốc: 103 Thánh và 124 Chân Phước.

Quảng trường này đã là nơi các vị chết vì đức tin. Nhưng chính cái chết đó đã khiến cho Giáo Hội Đại Hàn lớn lên. Và Giáo Hội đã chứng minh cho xã hội thấy gương sáng của Giáo Hội bằng việc thăng tiến công lý và các quyền con người. Thánh lễ phong Chân phước hôm nay là một dịp để Giáo Hội tiếp tục theo đuổi sự hài hòa và hiệp nhất, không chỉ giữa các tín hữu công giáo mà cả toàn dân Đại Hàn và mọi dân tộc Á châu nữa, qua tình huynh đệ đại đồng. Nó cũng là dịp thăng tiến truyền giáo và theo đuổi lý tưởng là một Giáo Hội phục vụ người nghèo, người bị áp bức và gạt bỏ ngoài lề xã hội, bằng cách loan báo Tin Mừng cho họ.

Giảng trong thánh lễ Đức Thánh Cha đã nêu bật sự kiện các vị tử đạo Hàn quốc đã sống và chết vì Chúa Kitô, nên giờ đây được cùng hiển trị với Người trong niềm vui và vinh quang, bởi vì trong cái chết và sự sống lại của Con của Ngài, Thiên Chúa đã ban cho chúng ta chiến thắng vĩ đại nhất. Thật thế, ”Cho dù là sự chết hay sự sống, trời cao hay vực thẳm, hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác, không có gì có thể tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta” (Rm 8,38-39).

Lễ tôn phong cha Phaolô và các bạn tử đạo cống hiến cho chúng ta dịp trở lại các thời ban đầu của lịch sử Giáo Hội Hàn quốc. Nó mời gọi tín hữu công giáo Đại Hàn nhớ lại những điều trọng đại mà Thiên Chúa đã thực hiện trên phần đất này và giữ gìn gia tài đức tin đo cha ông họ để lại như kho tàng cho cuộc sống xã hội. Tin Mừng đã đến Hàn quốc không do các thừa sai, mà là do chính các giáo dân trí thức tò mò đã rộng mở tâm trí cho Tin Mừng và dẫn họ đến chỗ gặp gỡ chính Chúa, các bí tích đầu tiên và ước muốn một cuộc sống bí tích và giáo hội cũng như các dấn thân truyền giáo đầu tiên. Nó đã đem lại các hoa trái trong các cộng đoàn sống theo mẫu gương của Giáo Hội thời khai sinh, đồng tâm nhất trí, không chú ý tới các khác biệt xã hội. Lịch sử này nói với chúng ta về tầm quan trọng, phẩm giá và vẻ dẹp ơn gọi của giáo dân. Tôi đặc biệt chào anh chị em giáo dân hiện diện, đặc biệt là các gia đình kitô, hằng ngày dấn thân giáo dục người trẻ sống đức tin và tình yêu thương hòa giải của Chúa Giêsu.

Phúc Âm hôm nay nhắn gửi chúng ta tất cả một sứ điệp. Chúa Giêsu xin Thiên Chúa Cha thánh hiến chúng ta trong sự thật, và giữ gìn chúng ta khỏi thế gian. Ngài không xin Chúa Cha cất chúng ta ra khỏi trần gian. Nhưng Ngài sai các môn đệ ra đi làm muối đất và ánh sáng thế gian. Các vị tử đạo chỉ đường cho chúng ta. Khi theo Chúa, họ đã biết lời Chúa cảnh báo rằng họ sẽ bị thế giới thù ghét vì Ngài. Họ biết giá phải trả.

Đối với nhiều người điều này có nghĩa là sự bắt bớ và sau này, trốn chạy lên núi, nơi họ thành lập các làng công giáo. Họ sẵn sàng chịu các hy sinh lớn lao và để cho mình bị tước bỏ mọi sự có thể làm cho họ xa rời Chúa Kitô: của cải và đất đai, uy thế và danh dự, bởi vì họ biết rằng Chúa Kitô là kho tàng đích thật của họ. Ngày nay, rất thường khi chúng ta cũng sống kinh nghiệm đức tin bị thử thách, và trong rất nhiều cách thế người ta xin chúng ta chấp nhận các giàn xếp về lòng tin, làm tan loãng các đòi buộc của Tin Mừng, và thích nghi với tinh thần thế gian. Các vị tử đạo nhắc nhở chúng ta phải để Chúa Kitô trên tất cả mọi sự, và nhìn tất cả mọi sự còn lại trong tương quan với Người. Các vị tử đạo khiêu khích chúng ta tự vấn xem chúng ta có sẵn sàng chết vì điều gì không.

Tiếp tục bài giảng Đức Thánh Cha nói: gương các vị tử đạo đậy cho chúng ta biết tầm quan trọng của tình bác ái trong cuộc sống đức tin. Chính chứng tá trong sáng của họ đối với Chúa Kitô được thể hiện ra trong việc chấp nhận phẩm giá như nhau của tất cả mọi người được rửa tội, dẫn họ tới một hình thức sống huynh đệ thách đố các cơ cấu xã hội cứng nhắc thời đó. Sự khưởc từ phân rẽ giới răn tình yêu đối với Thiên Chúa và tình yêu đối với tha nhân khiến cho họ dấn thân lo lắng cho nhu cầu của các anh chị em khác. Áp dụng vào hiện tình thế giới Đức Thánh Cha nói:

Gương sống của họ có nhiều điều để nói với chúng ta, là những người sống trong xã hội, nơi bên cạnh các giầu có vô biên, gia tăng trong thinh lặng sự nghèo hèn; nơi ít khi tiếng kêu của người nghèo được lắng nghe; và nơi Chúa Kitô tiếp tục mời gọi, xin chúng ta yêu Người và phục vụ Người, bằng cách giơ tay ra trợ giúp các anh chị em nghèo túng… Buổi lễ hôm nay cũng ôm trọn biết bao nhiêu vị tử đạo vô danh, trong đất nước này và trên thế giới, là những người, đặc biệt trong thế kỷ vừa qua, đã hiến mạng sống vì Chúa Kitô và đã chịu các cuộc bách hại vì danh Người.

Gia tài của các vị tử đạo có thể gợi hứng cho tất cả mọi người thiện chí hoạt động trong hòa hợp cho một xã hội công bắng hơn, tự do và hòa giải và như thế cộng tác vào nền hòa bình và việc bảo vệ các giá trị nhân bản đích thực của quốc gia này và trên toàn thế giới. Ước chi các lời cầu của tất cả các vị tử đạo Hàn quốc, hiệp nhất với các lời bầu cử của Đức Bà là Mẹ Giáo Hội, ban cho chúng ta ơn kiên trì trong đức tin và mọi việc lành, trong sự thánh thiện và trong sạch của con tim, và trong lòng hăng say tông đồ làm chứng cho Chúa Giêsu trong quốc gia thân yêu này, và trong toàn Á châu cho tới tận cùng bờ cõi trái đất.

Thánh lễ đã kết thúc lúc 12 giờ rưỡi trong bầu khi rất hân hoan. Đức Thánh Cha đã đi xe về Tòa Sứ Thần dùng bữa trưa với đoàn tùy tùng và nghỉ ngơi chốc lát trước khi tiếp tục các sinh hoạt ban chiều.

Lúc 15.30 Đức Thánh Cha lấy trực thăng đi Khottongnae cách đó 90 cây số trong giáo phận Cheongju, miền trung Nam Hàn. Kkhottongnae có nghĩa là ”Đồi hoa” do linh mục Gioan Oh Woong-Jun, thuộc cộng đoàn Canh tân Đặc Sủng Thánh Linh, thành lập. Trung tâm chiếm cả một ngọn đồi gồm nhà ở, nhà thương, một đại học và các trung tâm phục hồi cho người tàn tật, người nghèo, người vô gia cư, đau yếu bị bỏ rơi thuộc mọi lứa tuỗi.

Giáo phận Cheongiu có hơn 155,000 tín hữu chiếm 11% dân số, gồm 76 giáo xứ 142 linh mục giáo phận, 12 linh mục dòng, 91 tu huynh, 515 nữ tu, 20 đại chủng sinh. Giáo phận điều khiển 26 cơ quan giáo dục và 70 cơ sở bác ái xã hội.

Đón Đức Thánh Cha tại bãi đậu trực thăng có cha Gioan Oh Woong-Jun, người thành lập Đồi Hoa và Đức Cha Gabirel Chang Nong-Hun cùng vài giới chức chính qpuyền địa phương. Đức Thánh Cha đã đi xe về ”Nhà hy vọng” cách đó 1 cây số. Hai bên đường có rất đông tín hữu vẫy khăn trắng chào đón Đức Thánh Cha.

Bên trong hội trường Nhà Hy vọng có khoảng 150 người tàn tật, đa số là trẻ em ngồi trên xe lăn, có một em nằn trên giường. Ngỏ lời chào Đức Thánh Cha, Đức Cha Gabriel, Giám Mục sở tại, đã nêu bật sự kiện ngay từ khi được thành lập giáo phận Cheongiu đã có nhiều sinh hoạt trợ giúp người nghèo và người bị gạt ra bên lề xã hội, các cơ sở giáo dục cho trẻ em tàn tật như ”Trường Đức Bà” cho trẻ em mù, ”Trường Thánh Tâm” cho trẻ em câm điếc; trường ”Chúa Thánh Thần” cho trẻ em bị chấn thương cảm xúc. Năm 2001 các tu sĩ Kkottongae đã khánh thành trường cho trẻ em bị bỏ rơi và con của các thiếu nữ làm mẹ không được ai nhận vì tàn tật. Các em bị bỏ rơi hai lần, bởi cha mẹ vì chúng tàn tật, rồi bởi vì không có ai nhận nuôi.

Đức Thánh Cha đã hôn, vuốt ve, an ủi từng em một và bắt tay hỏi chuyện các nữ tu và các nhân viên săn sóc các em. Các trẻ em đã trình diễn vài màn vũ, rồi các em tặng Đức Thánh Cha các thủ công nghệ do chính các em làm.

Lúc 17 giờ Đức Thánh Cha đã đi xe tới Trung tâm ”Trường tình thương” càch đó 1,5 cây số để gặp gỡ các tu sĩ nam nữ. Khi đi qua ”Vườn các thai nhi bị phá”, ngài đã đừng lại thinh lặng cầu nguyện. Cũng có sự hiện diện của các thành viên phong trào bảo vệ sự sống và tu huynh thừa sai Lee Gu-Won, cụt chân cụt tay.

Ngỏ lời chào mừng Đức Thánh Cha linh mục chủ tịch Hiệp Hội các dòng Nam nêu bật các khó khăn của cuộc sống tu trì trong xã hội tục hóa ngày nay. Tuy biết mình phải tìm thiện ích của thế giới và Giáo Hội với các đặc sủng là ơn của Chúa Thanh Thần, nhưng các tu sĩ có nguy cơ yêu mình hơn yêu cộng đoàn, và để bị lôi kéo bởi chủ thuyết tiêu thụ, hơn là tinh thần tiết độ và chia sẻ. Tu sĩ có nguy cơ khiến cho căn tính và các đặc sủng bị lu mờ bởi tinh thần thế tục.

Nữ tu Chủ tịch Hiệp hội các Bề trên Tổng quyền dòng nữ thì nhấn mạnh trên sự kiện Giáo Hội Đại Hàn đã lớn lên nhờ máu và tinh thần tu đức của các vị tử đạo. Nhưng xã hội đại hàn đau khổ vì hiện tượng toàn cầu hóa với sự thống trị của chủ thuyết tư bản, tân tư bản và duy đời. Và Giáo Hội cũng bị ảnh hưởng và liên lụy. Từ khắp nơi đều vang lên tiếng kêu cứu Giáo Hội trợ giúp. Vai trò của các nam nữ tu sĩ hiện diện tại những nơi có nước mắt và người yếu đuối cần trợ giúp.

Ngỏ lời với các tu sĩ nam nữ Đức Thánh Cha nhấn mạnh sự phong phú của các đặc sủng làm giầu cho cuộc sống Giáo Hội. Xác tín đươc Chúa yêu là trọng tâm của ơn gọi: là dấu chỉ sờ mó đựơc sự hiện diện của Nước Chúa. Đức Thánh Cha nói với các tu sĩ như sau:

Chỉ khi chứng tá của chúng ta tươi vui, thì mới có thể lôi kéo các người nam nữ tới với Chúa Kitô; và niềm vui đó là một ơn đươc nuôi dưỡng bằng một đời cầu nguyện, suy niệm Lời Chúa , cử hành các Bí tích và sống đời cộng đoàn… Không thể tránh được các xung khắc, các hiểu lầm cần đương đầu, nhưng mặc dù có các khó khăn, chúng ta được kêu gọi lớn lên trong lòng thương xót, sự kiên nhẫn và tình bác ái trọn vẹn. Kinh nghiệm về lòng thương xót Chúa, được dưỡng nuôi bằng lời cầu nguyện và cuộc sống cộng đoàn, phải nhào nặn tất cả những gì anh chị em là và những gì anh chị em làm… Không có lối tắt đâu: Thiên Chúa muốn con tim của chúng ta một cách tron vẹn, và điều này có nghĩa là chúng ta phải ”tháo gỡ chính mình”, ”ra khỏi chính mình” ngày càng nhiều hơn.

Đức Thánh Cha nhấn mạnh một hình thức nghèo khó, được diễn tả ra một cách cụ thể trong kiểu sống cá nhân và cộng đoàn, đặc biệt cần tránh mọi sự có thể làm cho tu sĩ lo ra và gây gương mù gương xấu cho người khác. Trong đời tu sự khó nghèo là ”bức tường” che chở và là ”mẹ”, vì nó giúp tu sĩ lớn lên và hướng dẫn tu sĩ bước đi trên con đường đúng đắn. Sự giả hình của những người sống đời thánh hiến tuyên khấn nghèo khó mà lại sống giầu sang, đả thương và làm hại Giáo Hội. Nguy hiểm là cám dỗ sống theo tâm thức hoàn toàn trần tục và duy lợi, khiến chúng ta chỉ đặt để hy vọng nơi các phương tiện của con người và phá hủy chứng tá nghèo khó mà Chúa Giêsu Kitô đã sống và dậy chúng ta sống.

Các tu sĩ đã tặng Đức Thánh Cha một bó hoa thiêng liêng gồm hơn 3 triệu 700 ngàn tràng chuỗi Mân Côi đã lần, hơn 118.400 hy sinh hãm mình, và một số tiền đã quyên mỗi tuần trong nhiều tháng qua để Đức Thánh Cha giúp người nghèo.

Sau khi Đức Thánh Cha ban phép lành, các tu sĩ đã nắm tay nhau đồng ca bài dân ca Đại Hàn ”Arirăng”

Từ giã mọi người Đức Thánh Cha lên xe tới Trung tâm tu đức cách đó 2 cây số để gặp gỡ đại diện các phong trào giáo dân hoạt động trong 16 giáo phận toàn Nam Hàn.

Ngỏ lời chào mừng Đức Thánh Cha ông chủ tịch Hiệp hội giáo dân công giáo Hàn quốc đã nêu bật sự kiện Giáo Hội Hàn quốc là Giáo hội duy nhất do vài giáo dân khai sinh, không có sự trợ giúp của các thừa sai. Họ đã đi bộ cả ngàn cây số nhiều lần sang Bắc Kinh để xin các linh mục.

Ông nói: trong các hoạt động chúng con đi tới với người nghèo, người đau yếu, nạn nhân của các bất công không đựơc ai trợ giúp. Các vùng ngoại biên của giáo dân Hàn quốc cũng là các anh chị em đã xa rời Giáo Hôi, mất hy vọng và mất hướng đi. Và chúng con cũng nghĩ tới một trong các vùng ngoại biên khác là đi đến với các anh chi em sống tại Bắc Hàn, bên kia biên giới, nơi họ bị bách hai và chờ đợi bàn tay của chúng con. Nhưng một trong các vùng ngoại biên khác nữa của chúng con cũng là các dân tộc Á châu chưa biết Chúa.

Ngỏ lời với 150 lãnh đạo các hiệp hội giáo dân Nam Hàn Đức Thánh Cha nói: Giáo Hội Đại Hàn thừa kế đức tin của các thế hệ giáo dân đã kiên trì trong tình yêu đối với Chúa Kitô và trong sự hiệp thông với Giáo Hội, mặc dù có ít linh mục và bị đe dọa bởi các cuộc bách hại. Gương của 124 tân Chân phước chứng minh cho điều đó… Ngày nay cũng như luôn mãi Giáo Hội cần một chứng tá đáng tin cậy của giáo dân cho sự thật cứu độ của Tin Mừng, cho sự phong phú trong việc xây dựng gia đình nhân loại trong hiệp nhất, công lý và hòa bình. Giáo Hội có một sứ mệnh duy nhất, và mọi tín hữu được rửa tội đều có vai trò sinh tử trong sứ mệnh đó. Công tác tông đồ có thể khác nhau, nhưng tất cả đều nhằm thăng tiến sứ mệnh của Giáo Hội, bằng cách bảo đảm cho trật tự trần thế được thấm nhuần và hoàn thiện bới Thần Khí của Chúa Kitô hầu chuẩn bị cho Nước Chúa.

Đức Thánh Cha đặc biệt ca ngợi hoạt động của nhiều hiệp hội giáo dân trợ giúp người nghèo và ngừơi túng thiếu trong các vùng ngoại biên của xã hội, thể hiện sự hiệp nhất ”không còn do thái hay hy lạp”. Tuy nhiên, trợ giúp người nghèo thôi không đủ. Ngài xin giáo dân Hàn quốc gia tăng nỗ lực để thăng tiến nhân bản làm sao để mọi người biết tới niềm vui phát xuất từ phẩm giá có công ăn việc làm để nuôi sống gia đình.

Đức Thánh Cha thừa nhận phần đóng góp qúy báu của các phụ nữ công giáo Đại Hàn cho cuộc sống và sứ mệnh của Giáo Hội, như mẹ gia đình, giáo lý viên, và bà giáo trong nhiều cách thức khác nhau. Ngài nhấn mạnh tầm quan trọng của chứng tá gia đình kitô. Trong thời đại khủng hoảng gia đình các cộng đoàn kitô đươc mời gọi nâng đỡ các cặp vợ chồng và các gia đình trong việc chu toàn sứ mệnh của chúng trong Giáo Hội và xã hội. Gia đình là sự hiệp nhất nền tảng của xã hội, và là trường học đầu tiên, trong đó trẻ em học các giá trị nhân bản, tinh thần và luân lý, khiến cho chúng có khả năng là các ngọn đèn pha của lòng tốt, sự toàn vẹn và công bắng trong các cộng đoàn… Vì thế cần phải có sự đào tạo thường hằng đầy đủ hơn cho anh chị em giáo dân, qua một chương trình giáo lý và linh hướng hường xuyên, trong hoạt động hòa hợp với các chủ chăn và dùng các trực giác, tài năng và đặc sủng của họ để phục vụ sự lớn mạnh của Giáo Hội, trong sự hiệp nhất và với tinh thần truyền giáo.

Từ giã các anh chị em lãnh đạo các phong trào và hiệp hội giáo dân Nam Hàn Đức Thánh Cha ra đi xe tới bãi đậu trực thăng tại KKhottongnae cách đó 2 cây số đề bay về thủ đô Seoul, rồi đi xe về tòa Sứ Thần Tòa Thánh cách đó 7 cây số, kết thúc tốt đẹp ngày thứ 3 trong chuyến công du Nam Hàn.

Chúa Nhật 17-8-2014 lúc 11 giờ Đức Thánh Cha sẽ gặp gỡ các Giám Mục Á châu tai dền thánh Haemi, và vào lúc 4 giờ rưỡi chiều ngài sẽ chủ sự thánh lễ kết thúc Ngày Giới Trẻ Công Giáo Á châu kỳ 6 tai quảng trường lâu đài Haemi.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Đức Thánh Cha gặp gỡ Hội đồng Giám Mục Hàn Quốc

Đức Thánh Cha gặp gỡ Hội đồng Giám Mục Hàn Quốc

Pope meets Korea Bishop

VATICAN. Chiều ngày 14-8-2014, ĐTC Phanxicô đã gặp gỡ các GM Hàn Quốc và nhắc nhở các vị về hai khía cạnh trong Sứ vụ Giám Mục: bảo tồn ký ức và bảo tồn hy vọng.

ĐTC đã từ phủ tổng thống Hàn Quốc đến trụ sở HĐGM cách đó 12 cây số vào lúc quá 5 giờ chiều. Tại đây ngài đã được 2 Hồng Y và 33 GM thuộc 16 giáo phận toàn quốc.

Đức Cha Phêrô Khương Vũ Nhất (Kang U-il) GM giáo phận Tể Châu (Cheju), Chủ tịch HĐGM Hàn Quốc, đã đại diện mọi người chào mừng ĐTC.

Và trong huấn dụ bằng tiếng Ý, được dịch ra tiếng Hàn từng đoạn một, ĐTC khai triển nghĩa vụ của các GM là bảo vệ đoàn chiên Chúa và nhấn mạnh đến hai khía cạnh của việc bảo vệ này, đó là bảo tồn ký ức và bảo tồn hy vọng.

– Trước tiên là bảo tồn ký ức. Anh em là con cháu của các vị tử đạo, là những người thừa kế chứng tá đức tin anh dũng của các vị nơi Chúa Kitô. Ngoài ra anh em là người thừa kế truyền thống, ngoại thường, bắt đầu và tăng trưởng phần lớn nhờ lòng trung thành, kiên trì và công việc của các thế hệ giáo dân. Thật là điều đầy ý nghĩa sự kiện lịch sử Giáo Hội tại Hàn Quốc được khởi đầu với một cuộc gặp gỡ trực tiếp với Lời Chúa. Đó là một vẻ đẹp nội tại và sự toàn vẹn của Sứ điệp Kitô, Tin Mừng và lời mời gọi hoán cải, canh tân nội tâm và sống đời bác ái – gây ấn tượng mạnh nơi Ông Lý Bách (Yi Byeok, 1754-1785) và các kỳ lão của thế hệ đầu tiên. Điều này phản ánh qua sức sinh động của các giáo xứ, của các phong trào Giáo Hội, trong sự quan tâm mục vụ đối với giới trẻ và trong các trường Công Giáo, trong các chủng viện và trong các đại học cũng như trong các chương trình giáo lý vững chắc. Giáo Hội tại Hàn Quốc được quí chuộng vì vai trò của mình trong đời sống tinh thần và văn hóa của quốc gia và vì động lực truyền giáo mạnh mẽ.

Là người bảo tồn ký ức không phải chỉ có nghĩa là nhớ lại và bảo tồn những ân phúc quá khứ. Nó cũng có nghĩa là kín múc từ đó những nguồn lực thiêng liêng để đáp ứng một cách sáng suốt và quyết liệt với niềm hy vọng, những lời hứa và thách đố tương lai. Xét cho cùng, đời sống và sứ mạng của Giáo Hội tại Hàn Quốc không chỉ được đo lường bằng những yếu tố bên ngoài, số lượng và các cơ chế; đúng hơn đời sống và sứ mạng Giáo Hội phải được phán đoán trong ánh sáng minh bạch của Tin Mừng và lời mời gọi hoán cải, trở về cùng Chúa Giêsu Kitô. Bảo tồn ký ức có nghĩa là ý thức rằng sự tăng trưởng đến từ Thiên Chúa (Xc 1 Cr 3,6) và đồng thời là thành quả của sự kiên nhân và bền chí làm việc, trong quá khứ cũng như hiện nay. Ký ức chúng ta về các vị tử đạo và các thế hệ Kitô trước đây phải có tính chất thực tiễn, chứ không lý tưởng hóa hoặc háo thắng. Nhìn lại quá khứ bà mà không lắng nghe tiếng Chúa kêu gọi hoán cải trong hiện tại thì sẽ không giúp chúng ta tiến bước; trái lại nó sẽ cản trở hoặc thậm chí nó chặn đứng sự tiến triển thiêng liêng của chúng ta.

ĐTC nói tiếp: Thứ hai là bảo tồn hy vọng: niềm hy vọng do Tin Mừng ân sủng và từ bi của Thiên Chúa trong Chúa Giêsu Kitô trao tặng, niềm hy vọng đã soi sáng cho các vị tử đạo. Chúng ta được mời gọi công bố niềm hy vọng ấy cho một thế giới, tuy thịnh vượng về vật chất, nhưng vẫn đang tìm kiếm một cái gì hơn nữa, một cái gì chân thực và sung mãn. Anh em hãy bảo tồn niềm hy vọng này bằng cách duy trì sinh động ngọn lửa thánh thiện, bác ái huynh đệ và lòng nhiệt thành truyền giáo trong niềm hiệp thông của Giáo Hội.

Là một Giáo Hội thừa sai, một Giáo Hội luôn đi ra ngoài, hướng về thế giới, đặc biệt là hướng về các ngoại ô của xã hội hiện đại, đòi phải phát triển một sở thích tinh thần làm cho chúng ta có khả năng đón nhận và đồng hóa với mỗi chi thế của Thân Mình Chúa Kitô (Xc Tông Huấn Niềm Vui Phúc Âm, 268). Theo nghĩa này, cần chứng tỏ một sự quan tâm đặc biệt trong các cộng đoàn chúng ta đối với các trẻ em và những khát vọng của người trẻ; cũng như quan tâm đến người già, bảo tồn sự khôn ngoan và kinh nghiệm của người già.

Bảo tồn hy vọng cũng bao hàm việc bảo đảm sao cho chứng tá ngôn sứ của Giáo Hội tại Hàn Quốc tiếp tục được biểu lộ qua sự quan tâm đến người nghèo và các chương trình liên đới, nhất là đối với những người tị nạn và di dân, những người sống ngoài lề xã hội; trong sự liên lỷ hoạt động để thăng tiến về mặt xã hội, công ăn việc làm và giáo dục. Chúng ta có thể gặp nguy cơ thu hẹp sự dấn thân của chúng ta cho người túng thiếu vào chiều kích từ thiện mà quên đi nhu cầu của mỗi người cần được tăng trưởng như con người va có thể biểu lộ nhân cách, sự sáng vào và văn hóa của mình trong phẩm giá. Lý tưởng tông đồ của một Giáo Hội của người nghèo và cho người nghèo được diễn tả hùng hồn trong các cộng đồng Kitô tiên khởi tại đất nước anh em. Tôi cầu mong rằng lý tưởng này tiếp tục uốn nắn hành trình của Giáo Hội tại Hàn Quốc trong cuộc lữ hành hướng về tương lai.

Một chứng tá ngôn sứ theo Tin Mừng trình bày một số thách đố đặc biệt đối với Giáo Hội tại Hàn Quốc, xét vì Giáo Hội đang sống và hoạt động giữa một xã hội sung túc nhưng ngày càng bị tục hóa và duy vật. Trong những hoàn cảnh ấy, các nhân viên mục vụ bị cám dỗ muốn sử dụng không những kiểu mẫu quản trị hữu hiệu, những chương trình và tổ chức được thế giới doanh nghiệp thu hút, nhưng cả một lối sống và một não trạng được hướng dẫn bằng những tiêu chuẩn trần tục về sự thành công và thậm chí cả về quyền lực thay vì theo các tiêu chuẩn mà Chúa Giêsu đã nêu lên trong Tin Mừng. ”Khốn cho chúng ta nếu Thập Giá bị tước mất khả năng phán đoán sự khôn ngoan của thế gian này! (Xc 1 Cr 1,17). Tôi khuyên anh em và các linh mục của anh em hãy chống lại cám dỗ này dưới mọi hình thức”.

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

————————————————————————————————–

Đây là nguyên văn bài đọc bằng Anh ngữ của ĐTC trong buổi gặp mặt Hội Đồng Giám Mục Đại Hàn.

Dear Brother Bishops,

I greet all of you with deep affection and I thank Bishop Peter U-il Kang for his words of fraternal welcome on your behalf.  It is a blessing for me to be here and to witness at first hand the vibrant life of the Church in Korea.  As pastors, you are responsible for guarding the Lord’sflock.  You are guardians of the wondrous works which he accomplishes in his people.  Guarding is one of the tasks specifically entrusted to the bishop: looking after God’s people.  Today I would like to reflect with you as a brother bishop on two central aspects of the task of guarding God’s people in this country: to be guardians of memory and guardians of hope.

To be guardians of memory.  The beatification of Paul Yun Ji-chung and his companions is an occasion for us to thank the Lord, who from the seeds sown by the martyrs has brought forth an abundant harvest of grace in this land.  You are the children of the martyrs, heirs to their heroic witness of faith in Christ.  You are also heirs to an impressive tradition which began, and largely grew, through the fidelity, perseverance and work of generations of lay persons.  It is significant that the history of the Church in Korea began with a direct encounter with the word of God.  It was the intrinsic beauty and integrity of the Christian message – the Gospel and its summons to conversion, interior renewal and a life of charity – that spoke to Yi Byeok and the noble elders of the first generation; and it is to that message, in its purity, that the Church in Korea looks, as if in a mirror, to find her truest self.

The fruitfulness of the Gospel on Korean soil, and the great legacy handed down from your forefathers in the faith, can be seen today in the flowering of active parishes and ecclesial movements, in solid programs of catechesis and outreach to young people, and inthe Catholic schools, seminaries and universities.  The Church in Korea is esteemed for its role in the spiritual and cultural life of the nation and its strong missionary impulse.  From being a land of mission, yours has now become a land of missionaries; and the universal Church continues to benefit from the many priests and religious whom you have sent forth.

Being guardians of memory means more than remembering and treasuring the graces of the past; it also means drawing from them the spiritual resources to confront with vision and determination the hopes, the promise and the challenges of the future.  As you yourselves have noted, the life and mission of the Church in Korea are not ultimately measured in external, quantitative and institutional terms; rather, they must be judged in the clear light of the Gospel and its call to conversion to the person of Jesus Christ.  To be guardians of memory means realizing that while the growth is from God (cf. 1 Cor 3:6), it is also the fruit of quiet and persevering labor, past and present.  Our memory of the martyrs and past generations of Christians must be one that is realistic, not idealized or “triumphalistic”.  Looking to the past without hearing God’s call to conversion in the present will not help us move forward; instead, it will only hold us back and even halt our spiritual progress.

In addition to being guardians of memory, dear brothers, you are also called to be guardians of hope: the hope held out by the Gospel of God’s grace and mercy in Jesus Christ, the hope which inspired the martyrs.  It is this hope which we are challenged to proclaim to a world that, for all its material prosperity, is seeking something more, something greater, something authentic and fulfilling.  You and your brother priests offer this hope by your ministry of sanctification, which not only leads the faithful to the sources of grace in the liturgy and the sacraments, but also constantly urges them to press forward in response to the upward call of God (cf. Phil 3:14).  You guard this hope by keeping alive the flame of holiness, fraternal charity and missionary zeal within the Church’s communion.  For this reason, I ask you to remain ever close to your priests, encouraging them in their daily labors, their pursuit of sanctity and their proclamation of the Gospel of salvation.  I ask you to convey to them my affectionate greeting and my gratitude for their dedicated service to God’s people.

If we accept the challenge of being a missionary Church, a Church which constantly goes forth to the world and, especially, to the peripheries of contemporary society, we will need to foster that “spiritual taste” which enables us to embrace and identify with each member of Christ’s body (cf. Evangelii Gaudium, 268).  Here particular care and concern needs to be shown for the children and the elderly in our communities.  How can we be guardians of hope if we neglect the memory, the wisdom and the experience of the elderly, and the aspirations of our young?  In this regard, I would ask you to be concerned in a special way for the education of children, supporting the indispensable mission not only of the universities, but also Catholic schools at every level, beginning with elementary schools, where young minds and hearts are shaped in love for the Lord and his Church, in the good, the true and the beautiful, and where children learn to be good Christians and upright citizens.

Being guardians of hope also entails ensuring that the prophetic witness of the Church in Korea remains evident in its concern for the poor and in its programs of outreach, particularly to refugees and migrants and those living on the margins of society.  This concern should be seen not only in concrete charitable initiatives, which are so necessary, but also in the ongoing work of social, occupational and educational promotion.  We can risk reducing our work with those in need to its institutional dimension alone, while overlooking each individual’s need to grow as a person and to express in a worthy manner his or her own personality, creativity and culture.  Solidarity with the poor has to be seen as an essential element of the Christian life; through preaching and catechesis grounded in the rich patrimony of the Church’s social teaching, it must penetrate the hearts and minds of the faithful and be reflected in every aspect of ecclesial life.  The apostolic ideal of “a Church of and for the poor” found eloquent expression in the first Christian communities of your nation.  I pray that this ideal will continue to shape the pilgrim path of the Church in Korea as she looks to the future.  I am convinced that if the face of the Church is first and foremost a face of love, more and more young people will be drawn to the heart of Jesus ever aflame with divine love in the communion of his mystical body.

Dear brothers, a prophetic witness to the Gospel presents particular challenges to the Church in Korea, since she carries out her life and ministry amid a prosperous, yet increasingly secularized and materialistic society.  In such circumstances it is tempting for pastoral ministers to adopt not only effective models of management, planning and organization drawn from the business world, but also a lifestyle and mentality guided more by worldly criteria of success, and indeed power, than by the criteria which Jesus sets out in the Gospel.  Woe to us if the cross is emptied of its power to judge the wisdom of this world (cf. 1 Cor 1:17)!  I urge you and your brother priests to reject this temptation in all its forms.  May we be saved from that spiritual and pastoral worldliness which stifles the Spirit, replaces conversion by complacency, and, in the process, dissipates all missionary fervor (cf. Evangelii Gaudium, 93-97)!

Dear brother Bishops, with these reflections on your role as guardians of memory and of hope, I want to encourage you in your efforts to build up the faithful in Korea in unity, holiness and zeal.  Memory and hope inspire us and guide us toward the future.  I remember all of you in my prayers and I urge you constantly to trust in the power of God’s grace: “The Lord is faithful; he will strengthen you and guard you from the evil one” (2 Thess 3:3).  May the prayers of Mary, Mother of the Church, bring to full flower in this land the seeds planted by the martyrs, watered by generations of faithful Catholics, and handed down to you as a pledge for the future of your country and of our world.  To you, and to all entrusted to your pastoral careand keeping, I cordially impart my Apostolic Blessing.

 

Đức Thánh Cha đến Hàn Quốc

Đức Thánh Cha đến Hàn Quốc

HÁN THÀNH. Lúc 10 giờ 10 phút sáng thứ năm, 14-8-2014, ĐTC Phanxicô đã đến thủ đô Hán Thành của Hàn Quốc sau chuyến bay dài hơn 11 tiếng đồng hồ từ Roma.

Đón tiếp

Chiếc Airbus A330 của hãng Alitalia đáp xuống căn cứ không quân Hán Thành ở thành phố Thành Nam (Seongnam) thuộc tỉnh Kinh Kỳ (Gyeonggi). 21 phát đại bác nổ vang chào mừng vị quốc khách, trong khi Bà Tổng thống Phác Cận Huệ đón chào ĐTC ngay tại chân thang máy bay trước khi hai em bé trong y phục cổ truyền của Hàn quốc tặng hoa cho ngài.

pope-francis and Korea President

Trong phái đoàn 300 tín hữu Công Giáo Hàn Quốc hiện diện tại Phi trường để chào đón ĐTC cũng có 2 người đã vượt biên từ Bắc Triều Tiên, 4 thân nhân các nạn nhân bị thiệt mạng trong vụ đắm tầu ngày 16-4 năm nay, hai công nhân nước ngoài từ Philippines và Bolivia, những người tàn tật và con cháu các vị tử đạo sắp được phong chân phước.

ĐTC được cha John Chong Che Chon, tân Giám tỉnh Dòng Tên tại Hàn Quốc, làm thông ngôn trong chuyến viếng thăm này. Khi được giới thiệu với một trong những thân nhân nạn nhân đắm tàu, ngài nói: ”Tai nạn này thật là đau thương. Tôi không quên các nạn nhân. Hòa bình tại Bán đảo Triều Tiên luôn có chỗ đứng trong tâm hồn tôi”.
Bầu không khí tiếp đón thật nồng nhiệt và tưng bừng. Liền đó ĐTC đã lên chiếc xe nhỏ hiệu Kia màu xám đậm, chế tạo tại địa phương, để về tòa Sứ Thần Tòa Thánh cách đó 17 cây số để cử hành thánh lễ riêng, trước khi dùng bữa và nghỉ trưa.

Gặp chính quyền

Lúc gần 4 giờ chiều giờ địa phương, ĐTC đã đến Phủ Tổng thống Hàn Quốc chỉ cách tòa Sứ Thần 800 mét. Dinh thự này quen gọi là tòa Nhà Xanh hay là ”Thanh ngõa đài” với 150 ngàn miếng ngói màu xanh dương với hai khu nhà bên cạnh. Dinh này được kiến thiết hồi năm 1991 thay thế cho dinh được xây dựng dưới thời Nhật Bản cai trị Hàn quốc.

Đến nơi ĐTC đã được bà tổng thống Phác Cận Huệ đón tiếp với tất cả nghi thức, quốc thiều và đoàn quân danh dự diễn hành trước lễ đài, và được mời vào phòng khánh tiết của Phủ Tổng Thống để hội kiến, cùng với hai vị Bộ trưởng Hàn quốc, ĐHY Quốc vụ khanh Parolin và Đức TGM Osvaldo Padilla, Sứ Thần Tòa Thánh tại Hán Thành.


Bà Phác Cận Huệ nguyên là con của cố tổng thống Phác Chánh Hy, năm nay 62 tuổi (1952). Bà đã theo học tại trường Nữ Trung Học Thánh Tâm. Hồi đó vào năm 1965, bà đã chịu phép rửa tội với tên thánh là Juliana.


Bà đã tốt nghiệp Kỹ Sư tại Đại học Tây Giang (Sogang) do Dòng Tên thành lập ở Hán Thành. Năm 2012 bà là Phụ nữ đầu tiên đắc cử tổng thống Hàn quốc và thuộc đảng Saenuri. Từ khi được bầu làm tổng thống hồi tháng 2 năm ngoái, bà Phác Cận Huệ đã 5 lần cố gắng mời ĐGH Phanxicô đến viếng thăm Hàn Quốc trong đó có 4 thư bà viết tay mời ngài đến thăm. Lần đầu tiên hồi tháng 3 năm ngoái khi bà gửi phái đoàn do Bộ trưởng Văn hóa, thể thao và du lịch đến dự lễ khai mạc sứ vụ của ĐTC ngày 19-3-2013 tại Quảng trường thánh Phêrô, và trong dịp đó phái đoàn đã trao thư viết tay của Bà Tổng thống chúc mừng ĐTC. Năm ngoái bà lại mời nhân dịp kỷ niệm 50 năm quan hệ ngoại giao giữa Hàn quốc và Tòa Thánh.

Sau khi hội kiến riêng và trao đổi quà tặng, Tổng thống và ĐTC tiến sang phòng khánh tiết trước sự hiện diện của khoảng 200 người gồm các vị lãnh đạo chính quyền, đại diện ngoại giao đoàn và nhiều chức sắc khác.

Trong diễn văn chào mừng ĐTC, Bà Phác Cận Huệ đã trình bày những giai đoạn trong cuộc viếng thăm của ĐTC tại Hàn Quốc và nói về những nơi sẽ được ngài đến. Sau đó bà cũng nói về cuộc chiến giữa hai miền thuộc bán đảo Triều Tiên, không những tạo nên một vết thương sâu đậm cho quốc dân, nhưng còn gây ra bao nhiêu chia cách cho các gia đình.

Về phần ĐTC, trong diễn văn đầu tiên, ngài đã dùng tiếng Anh và nói rằng:

”Thật là một niềm vui lớn cho tôi được đến Hàn Quốc, đất nước buổi sáng yên hàn, Triều Tiên, và cảm nghiệm không những vẻ đẹp thiên nhiên của quốc gia này, nhưng nhất là vẻ đẹp của dân chúng và lịch sử văn hóa phong phú của nước này. Gia sản đất nước này qua các năm tháng đang bị thửc thách vì bạo lực, bách hại và chiến tranh. Nhưng mặc dù những đau thương, sự nóng nực ban ngày và bóng tối của ban đêm vẫn luôn nhường chỗ cho buổi sáng yên hàn, nghĩa là cho một niềm hy vọng không suy giảm, mong được công lý, hòa bình và thống nhất.

ĐTC cũng nhắc đến hai lý do chính cuộc viếng thăm của ngài, trước tiên là Đại hội giới trẻ Công Giáo Á châu lần thứ 6, một cuộc cử hành đức tin chung trong vui tươi, qui tụ các bạn trẻ Công Giáo từ các nước thuộc Á châu, và tiếp đến là lễ tôn phong chân phước cho các vị chứng nhân đức tin Hàn quốc: Phaolô Duẫn Trì Trung (Yun Ji Chung) và 123 bạn.

ĐTC ca ngợi sự kiện xã hội Hàn quốc hiểu rõ sự khôn ngoan và phẩm giá của người già và vai trò của họ trong xã hội. Như một dân tộc khôn ngoan không phải chỉ yêu mến truyền thống của mình, nhưng còn đề cao giá trị của người trẻ, tìm cách thông truyền cho họ gia sản quá khứ và áp dụng gia sản ấy vào những thách đố ngày nay. ĐTC cũng nhắc đến tầm quan trọng của việc suy tư về cách thức thích hợp nhất để thông truyền các giá trị cho các thế hệ tương lai và đâu là loại xã hội mà ta mong muốn. Trong bối cảnh Hàn quốc, ĐTC nhấn mạnh hồng ân hòa bình, hòa giải, và sự ổn định tại bán đảo Triều tiên. Một thách đố đối với ngoại giao, một thách đố ngàn đời là làm sao phá đổ những bức tường nghi kỵ và oán ghét, thăng tiến một nền văn hóa hòa giải và liên đới. ”Vì ngoại giao, trong tư cách là một nghệ thuật về những gì có thể, được dựa trên xác tín kiên vững và bền bỉ, theo đó hòa bình có thể đạt được bằng sự lắng nghe và đối thoại trong thanh thản, hơn là bằng sự trách cứ nhau, những phê bình vô bổ và sử dụng võ lực”.

”Hòa bình không phải chỉ là vắng bóng chiến tranh, nhưng là thành quả công lý. Và công lý, như một nhân đức, đòi phải có sự bền chí kiên nhẫn, nó đòi chúng ta không quên những bất công quá khứ, nhưng cần vượt thắng chúng bằng sự tha thứ, bao dung và cộng tác. Nó đòi phải có ý chí phân định và đạt tới những mục tiêu có lợi cho nhau, trên những nền tảng tôn trọng lẫn nhau, cảm thông và hòa giải”.

ĐTC cũng nhận định rằng: Kinh nghiệm dạy chúng ta trong một thế giới ngày càng hoàn cầu hóa, nhận thức của chúng ta về công ích, tiến bộ và phát triển, xét cho cùng không phải chỉ có tính chất kinh tế, nhưng còn phải có đặc tính nhân bản nữa.

Cùng với phần lớn các nước phát triển, Hàn Quốc đang đương đầu với những vấn đề xã hội quan trọng, những chia rẽ chính trị, chênh lệch về kinh tế và những lo âu liên quan tới việc quản lý môi sinh trong tinh thần trách nhiệm. ĐTC kêu gọi làm tất cả những gì có thể để kiến tạo một bầu không khí xã hội trong đó mỗi thành phần của xã hội được lắng nghe, trong đó người ta duy trì tinh thần đả thông cởi mở, đặc biệt quan tâm đến những người nghèo, những người dễ bị tổn thương, nhưng người không có tiếng nói, không những chỉ đáp ứng nhu cầu nhất thời của họ, nhưng còn thăng tiến họ trong sự tăng trưởng về mặt nhân bản và tinh thần. Một điề biệt cần thiết ngày nay là một sự hoàn cầu hóa sự liên đới, nhắm mục tiêu phát triển toàn diện mỗi người trong gia đình nhân loại.

Sau cùng, ĐTC Phanxicô nhắc lại lời ĐGH Gioan Phaolô 2 đã nói tại Hàn Quốc cách đây 25 năm về ước muốn liên lỷ của Cộng đoàn Công Giáo Hàn Quốc được tham gia trọn vẹn vào đời sống quốc gia. Giáo Hội muốn góp phần vào việc giáo dục người trẻ, làm tăng trưởng tình liên đới đối vlơi ngư;ơi nghèo, người gặp khó khăn và góp phần vào việc huấn luyện các thế hệ công dân trẻ, sẵn sàng đóng góp sự khôn ngoan và sáng suốt được thừa hưởng từ tiền nhân và nảy sinh từ đức tin, để đương đầu với những vấn đề lớn về chính trị và xã hội của đất nước”.

Giã từ phủ tổng thống Hàn Quốc vào lúc quá 5 giờ chiếu, ĐTC đã đến trụ sở Hội đồng GM cách đố 12 cây số để gặp gỡ 2 Hồng Y và 33 GM thuộc 16 giáo phận toàn quốc.

Bên lề chuyến viếng thăm ca ĐTC

– Lúc 11 giờ sáng thứ tư, 13-8-2014, ĐTC đã đến Đền thờ Đức Bà Cả, trong tư cách riêng, không có người tháp tùng, và ngài cầu nguyện trong thinh lặng khoảng 20 phút trước ảnh Đức Mẹ là Phần Rỗi của dân Roma và dâng hoa trên bàn thờ kính Đức Mẹ.

Đây là lần thứ 10 ĐTC đến cầu nguyện tại Đền thờ Đức Mẹ. Lần đầu tiên sáng ngày 14-3 năm ngoái, tức là hôm sau ngày được bầu làm Giáo Hoàng. Những lần trước đây, trước khi khởi hành công du và sau đó, ngài đều đến cầu nguyện trước ảnh Đức Mẹ.

– Trên máy bay bay từ Roma tới Hàn quốc, ĐTC đã chào 72 ký giả thuộc 11 quốc gia tháp tùng ngài và ngài đặc biệt tưởng niệm và cầu nguyện cho một ký giả người Italia bị thiệt mạng hôm 13-8 vừa qua trong khi thi hành phận sự ở Gaza.

Đó là ông Simone Camilli, 35 tuổi, phóng viên hình ảnh làm việc với hãng thông tấn AP của Hoa Kỳ. Ông cùng với người Palestine thông dịch tên là Ali Shehda Abu Afash và 3 cảnh sát viên Palestine bị thiệt mạng trong lúc tháo gỡ một quả bom chưa nổ trong cuộc chiến giữa Israel và lực lượng Hamas. Có 4 người khác bị thương nặng trong đó có một phóng viên nhiếp ảnh của hãng AP.

ĐTC đã cúi đầu mặc niệm và cầu nguyện trong 30 giây cùng với các ký giả trong lúc cha Lombardi, Giám đốc Phòng báo chí Tòa Thánh, kể lại số phận của ký giả Camilli. Cha cũng cám ơn ĐTC vì sự dấn thân bênh vực hòa bình, như lá thư ngài gửi Ông Tổng thư ký LHQ về số phận của nhiều người dân ở Irak đang bị bách hại.
Rồi ĐTC nói: ”Tất cả những điều này là hậu quả của chiến tranh. Ước gì những lời của anh chị em giúp liên kết chúng ta với thế giới. Tôi xin anh chị em luôn truyền đi sứ điệp này, cố gắng trao ban một lời an bình”.

Sau cùng ĐTC mỉm cười nói các ký giả tháp tùng: ”Daniel sẽ vào trong miệng sư tử trên chuyến bay trở về Roma.. Nhưng mà các sư tử này không cắn!”. Ngài hứa sẽ mở cuộc họp báo với các ký giả tháp tùng như đã làm trên đường trở về Roma sau cuộc viếng thăm tại Brazil và Thánh Địa. Tiếp đến ĐTC bắt tay chào từng ký giả trong máy bay.

– Máy bay chở ĐTC từ Roma tới Hán Thành đã bay trên không phận của hàng chục quốc gia. Khi vào không phận mỗi nước, ĐTC đều cho gửi điện chào thăm vị quốc trưởng và nhân dân quốc gia liên hệ. Giới báo chí đặc biệt chú ý đến sự kiện lần đầu tiên một vị Giáo Hoàng gửi điện chào thăm chủ tịch Tập Cận Bình (Xi Jinping) và nhân dân Trung Quốc khi bay trên không phận nước này. Ngài viết:

”Khi đi vào không phận Trung Quốc, tôi gửi lời cầu chúc tốt đẹp nhất đến Ông Chủ Tịch và đồng bào của ngài đồng thời cầu xin Chúa ban ơn hòa bình và thịnh vượng cho quốc dân”.

Đây là lần đầu tiên máy bay chở một vị Giáo Hoàng được phép bay qua không phận Trung Quốc trong chuyến viếng thăm Á châu. Vị tiền nhiệm của Ngài, Đức Gioan Phaolô 2 đã tránh bay vào không phận Trung Quốc vì quan hệ căng thẳng giữa Bắc Kinh và Vatican.

Mặt khác, Ông Heo Young-yeop, Phát ngôn viên của Ban tổ chức cuộc viếng thăm của ĐTC tại Hàn quốc cho biết trong số hơn 100 bạn trẻ Công Giáo Trung Quốc dự định đến Hàn Quốc để tham dự Đại hội Giới trẻ Công Giáo Á Châu, hơn một nửa không đến được vì ”tình trạng phức tại ở Trung Quốc”. Ông từ chối không cho biết thêm chi tiết vì lý do an ninh. Ông nói: một số bạn trẻ định tham dự đã bị Nhà Cầm quyền Trung Quốc bắt giữ.

Ngoài ra, theo tin của Bộ quốc phòng Hàn quốc, trước khi ĐGH đến Hán Thành, Bắc Triều Tiên đã bắn ba hỏa tiễn tầm ngắn ra ngoài khơi bờ biển phía đông. Hành động này xảy ra trước cuộc tập trận chung giữa Hàn Quốc và Hoa Kỳ dự kiến sẽ diễn ra từ ngày thứ hai 18-8 tới đây.

Bắc Triều tiên đã khước từ lời mời của Giáo Hội Công Giáo Hàn Quốc cho phép các thành viên Hội Công Giáo Triều Tiên được tham dự thánh lễ do ĐTC Phanxicô cử hành ngày thứ hai 18-8 tại thủ đô Hán Thành để cầu nguyện cho hòa bình và hòa giải tại Bán đảo Triều Tiên, viện cớ là có cuộc tập trận chung giữa Hàn quốc và Hoa Kỳ.

– Trong số các ký giả Đài Vatican được gửi sang Hàn Quốc nhân cuộc viếng thăm của ĐTC cũng có ông Sean Lovett trưởng ban tiếng Anh. Ông đã điểm vài phản ứng báo chí Hàn Quốc về cuộc viếng thăm của ĐTC:

”ĐGH Phanxicô là tin hàng đầu trong tất cả các báo chí và tin tức ở Hàn Quốc ngày nay. Những hình ảnh của ngài với khuôn mặt tươi cười tiếp tục được chiếu qua các màn hình và trang nhất của các báo chí chính ở Hàn Quốc.
Phần lớn các bài báo đều nhắc lại sự kiện lần cuối cách đây 25 năm, Giáo Hoàng Gioan Phaolô 2 đã viếng thăm nước này và họ cung cấp nhiều chi tiết trong chương trình và lộ trình 4 ngày viếng thăm của ĐTC và dường như họ thích trưng dẫn các con số thống kê về chuyến tông du này. Ví dụ:

– 180 ngàn bánh lễ đã được chuẩn bị cho các thánh lễ với 300 ngàn chai nước sẽ được phân phát giúp các tín hữu đương đầu với sự nóng nực.

– 1.700 xe bus từ các nơi ở Hàn Quốc đang hướng về các địa điểm nơi diễn ra các cuộc gặp gỡ với ĐGH, chuyên chở 100 ngàn tín hữu và hơn 100 GM.

– 30 ngàn cảnh sát viên nam nữ được ủy thác nhiệm vụ giữ an ninh, với sự trợ giúp của 5 ngàn người thiện nguyện, vừa Công Giáo và người lương.

– 2.800 ký giả thuộc các cơ quan truyền thông của 23 quốc gia, trong đó 358 người đến từ 23 quốc gia khác, đã đăng ký với ban tổ chức ở Hàn Quốc để theo dõi và tường thuật về các hoạt động của ĐTC trên các lộ trình dài tổng cộng 1 ngàn cây số.

Có một bài xã luận đặc biệt mời gọi quốc dân Hàn Quốc hãy biểu lộ ”mea culpa”, nhìn nhận lỗi của mình, và bài báo liệt kê một loạt những tệ đoan của đất nước và hy vọng ĐGH có thể xá giải cho Hàn Quốc vì đã không khắc phục được những chia rẽ chính trị và xã hội, sự xung đột giữa các thế hệ, không kể sự chia rẽ giữa hai miền bán đảo Triều Tiên. Nhiều báo chí bày tỏ những mong đợi lớn qua những lời nói và cử chỉ của ĐGH Phanxicô đối với người nghèo và người khuyết tật, bênh vực hòa bình và hòa giải, chống kỳ thị và bất công, khuyến khích người trẻ và cổ võ canh tân trong Giáo Hội.

Những điều trên đây dường như là những mong đợi thái quá nơi cuộc viếng thăm này của ĐGH, nhưng như một ký giả Hàn Quốc nói về cuộc viếng thăm của vị thủ lãnh Công Giáo: ”Đây là một tin vui duy nhất từ lâu đối với nước này!”. Những băng tang, các khám tưởng niệm và biểu ngữ trưng tại nhiều nơi tại Hàn quốc chứng tỏ đất nước này vẫn ở trong tình trạng kinh hoàng sau vụ tàu Sewol bị đắm làm cho gần 300 người thiệt mạng, phần lớn các các học sinh du ngoạn.

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Đức Thánh Cha gửi thư cho Tổng thư ký LHQ Ban Ki Moon

Đức Thánh Cha gửi thư cho Tổng thư ký LHQ Ban Ki Moon

VATICAN. Qua thư gửi Ông Tổng thư ký LHQ Ban Ki Moon, ĐTC kêu gọi cộng đồng quốc tế cứu trợ nhân đạo và giúp chấm dứt bạo lực chống các tín hữu Kitô và tín đồ các tôn giáo thiểu số tại Iraq.

Trong thư gửi đề ngày 9-8-2014 gửi ông Ban Ki Moon và được Phòng báo chí Tòa Thánh công bố trưa hôm 13-8-2014, ĐTC viết:

”Với tâm hồn nặng chĩu và lo âu, tôi theo dõi các biến cố bi thảm trong những ngày gần đây tại miền bắc Irak, nơi mà các tín hữu Kitô và tín đồ các tôn giáo thiểu số khác bị bó buộc phải trốn chạy khỏi gia cư của họ và chứng kiến sự tàn phá các nơi thờ phượng cũng như gia sản tôn giáo của họ. Xúc động vì số phận đau thương của họ, tôi đã xin ĐHY Fernando Filoni, Tổng trưởng Bộ Truyền giáo, người đã từng làm Đại diện của các vị Giáo Hoàng tiền nhiệm của tôi, Đức thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô 2 và Biển Đức 16 nơi nhân dân Iraq, đến biểu lộ sự gần gũi tinh thần của tôi và bày tỏ mối quan tâm của tôi cũng như của toàn thể Giáo Hội Công Giáo, đối với sự đau khổ không thể chấp nhận được của những người chỉ muốn được sống trong an bình, hòa hợp và tự do nơi phần đất của cha ông họ”.

Với cùng tinh thần đó, thưa ông Tổng thư ký, tôi viết cho ông, và đặt trước ông nước mắt, sự đau khổ và tiếng kêu thống thiết tuyệt vọng của các tín hữu Kitô và các tín đồ tôn giáo thiểu số khác nơi đất nước Irak yêu quí. Tôi lập lại lời kêu gọi cấp thiết gửi đến cộng đồng quốc tế: xin hãy hành động để chấm dứt thảm trạng nhân đạo đang diễn ra, và tôi khuyến khích tất cả các cơ quan thẩm quyền của LHQ, đặc biệt các cơ quan đặc trách về an ninh, hòa bình và công pháp nhân đạo, cũng như cơ quan trợ giúp những người tị nạn, hãy tiếp tục nỗ lực phù hợp với Lời tựa và các điều khoản quan trọng trong Hiến Chương LHQ”.

”Những cuộc tấn công tàn bạo đang càn quét qua miền bắc Iraq không thể không thức tỉnh lương tâm của mọi người nam nữ thiện chi và thúc đẩy họ có những hành vi liên đới cụ thể để bảo vệ những người bị thương tổn hoặc bị bạo lực đe dọa và đảm bảo sự trợ giúp cần thiết và cấp thời cho bao nhiêu người phải tản cư cũng như giúp họ trở về thành thị và gia cư của họ trong an toàn. Những kinh nghiệm thê thảm trong thế kỷ 20 và sự ý thức cơ bản nhất về phẩm giá con người thúc đẩy cộng đồng quốc tế, đặc biệt qua các qui luật và cơ cấu công pháp quốc tế, làm tất cả những gì có thể để chặn đứng và ngăn ngừa không để xảy ra nữa những bạo lực có thệ thống chống các nhóm chủng tộc và tôn giáo thiểu số”.

Và ĐTC kết luận rằng: ”Với niềm tín thác lời kêu gọi, mà tôi liên kết với những lời kêu gọi của các vị Thượng Phụ Đông Phương và các vị lãnh đạo tôn giáo khác sẽ được đáp trả tích cực, tôi tái bày tỏ với ông Tổng thư ký lòng quí trọng sâu đậm nhất của tôi”. (SD 13-8-2014)

G. Trần Đức Anh OP  – Vatican Radio

Bầu khí chờ đợi Đức Thánh Cha Phanxicô và các bạn trẻ Á châu tại Nam Hàn

Bầu khí chờ đợi Đức Thánh Cha Phanxicô và các bạn trẻ Á châu tại Nam Hàn

Lúc 16 giờ chiều thứ tư 13-8-2014 giờ Roma, Đức Thánh Cha Phanxicô lấy máy bay đi Seoul, bắt đầu chuyến viếng thăm mục vụ tại Nam Hàn kéo dài cho tới ngày 18-8. Đức Thánh Cha sẽ gặp gỡ giới trẻ Á châu và chủ sự lễ phong chân phước cho 124 vị tử đạo Đại Hàn.

Worker setup Cross

Từ nhiều tháng qua hơn 1,000 nhân viên thiện nguyện và 300 công nhân đã làm việc cật lực chuẩn bị từng chi tiết cho chuyến viếng thăm của Đức Thánh Cha Phanxicô tại Nam Hàn. Đức Cha Basilio Cho Kyu Man, 59 tuổi, Giám Mục phụ tá tổng giáo phận Seoul, cho biết có sự chờ đợi rất lớn. Trong mọi giáo xứ đều có treo các băng rôn lớn chào mừng Đức Thánh Cha, và đã có các buổi canh thức cầu nguyện cho chuyến viếng thăm mang lại nhiều kết qủa mong muốn.

Nhưng không phải chỉ có các tín hữu công giáo náo nức chờ đợi Đức Thánh Cha, mà đại đa số người dân Nam Hàn cũng thế, vì họ coi ngài là một nhân vật rất nổi tiếng. Mọi người dân Nam Hàn đều biết kiểu làm và nói của ngài, kiểu ngài hành động đối với người nghèo và người bệnh tật. Trong các tháng qua đã có nhiều sách của Đức Giáo Hoàng được dịch ra tiếng Đại Hàn.

Trong bản tin gửi ngày 12-8-2014 phóng viên Faccioli Pintozzi của hãng tin Asianews cho biết trong các đường phố chính của thủ đô Seoul đều có treo hình của Đức Phanxicô với hàng chữ ”Chào mừng Đức Giáo Hoàng”. Bên cạnh đó là quốc kỳ Nam Hàn. Chính quyền Nam Hàn đã chuẩn bị tiếp đón vị thượng khách của quốc gia với rất nhiều cẩn trọng. Dĩ nhiên, vấn đề an ninh rất là quan trọng trong công tác chuẩn bị tiếp đón. Chung quanh khu vực trụ sở Hội Đồng Giám Mục Nam Hàn, nơi Đức Thánh Cha Phanxicô sẽ gặp gỡ các Giám Mục Nam Hàn chiều ngày hôm nay 14-8, có nhiều cảnh sát và nhân viên công lực canh giữ. Trong khi tiếng máy bay trực thăng lượn vòng trên bầu trời Seoul làm nhạc nền cho mọi sinh hoạt của cuộc sống thường ngày.

Cảnh sát cũng kiểm soát nghiêm ngặt quảng trường Gwanghwamun ”Quang môn” giữa lòng thủ đô Seoul, nơi Đức Thánh Cha sẽ chủ sự thánh lễ phong Chân phước cho Linh Mục Phaolô Yun Ji-Chung và 123 bạn tử đạo ngày 16 tháng 8. Quảng trường ”Quang Môn” hay ”các cửa của ánh sáng” nằm gần hoàng cung, biểu tượng cho căn tính của Nam Hàn, được trang hoàng bằng các bức tượng của Đô đốc Yi Sun-Schin, là người hồi thế kỷ thứ XV đã nhiều lần đánh bại hạm đội Nhật Bản, và của vua Sejong Cả, người cải cách nổi tiếng thuộc thế kỷ XV.

Đức Cha Basilio cho biết lúc đầu ban tổ chức tính chọn một khu vực rộng lớn hơn gần bờ sông, nhưng sau đó đã quyết đinh chọn quảng trường ”Quang Môn”, vì nó gần trung tâm và nằm trong thành cổ. Các vị tử đạo đã sống tại nơi này, và vài vị đã chịu tử đạo, bị chém đầu tại quảng trường này. Bên cạnh chỗ đặt bàn thờ có một nhà thờ kính nhớ các vị tử đạo. Xưa kia cũng có trạm cảnh sát, trong đó chắc chắn nhiều vị tử đạo đã bị nhốt trước khi bị hành quyết. Nơi này cũng là trung tâm của thành phố, diễn tả lịch sử của Đại Hàn, và trong vùng của các dịch vụ làm ăn buôn bán, là môi trường cũng cần được loan báo Tin Mừng.

Vùng quảng trường có các hàng rào chứa được 200,000 người, nhưng cả quảng trường có chỗ cho nửa triệu người. Đức Cha Basilio cho biết số tín hữu sẽ không đông đến 1 triệu, như hồi Đức Gioan Phaolô II viếng thăm Nam Hàn năm 1984. Lý đo vì trời qúa nóng và chi phí di chuyển cũng qúa mắc đối với nhiều giáo dân.

Như đã nói trên đây, vấn đề an ninh là một trong các ưu tư chính của chính quyền Nam Hàn. Lý do là vì sau khi Đức Thánh Cha ra vạ tuyệt thông cho các thành viên tổ chức tội phạm Mafia bên Italia, người ta sợ các tổ chức này tìm cách trả thù cách gián tiếp. Có tin đồn là có sự giằng co giữa các nhân viên an ninh của chính quyền Seoul muốn Đức Thánh Cha dùng xe có kính chắn đạn và các nhân viên an ninh Vaticăng, muốn để cho ngài được tự do tiếp xúc với dân chúng.

Tại quảng trường Quang Môn hiện cũng đang có một nhóm đông người biểu tình đòi ”sự thật và công lý” sau vụ đắm phà tại Sewol ngày 16 tháng 4 năm nay, khiến cho hơn 300 người chết, nhưng cho tới nay người ta vẫn chưa biết các chi tiết tai nạn xảy ra. Trong số những người ngồi biểu tình cũng có vài linh mục và nữ tu.

Flag welcome Pope

Đối với cuộc gặp gỡ giới trẻ tại Daejeon, thì ít có sự chờ đợi hơn. Đã có 4,000 bạn trẻ Nam Hàn và 2.000 bạn trẻ thuộc 23 nước Á châu tham dự Đại hội giới trẻ. Trong số này cũng có một bạn trẻ Bắc Hàn tỵ nạn tại Nam Hàn. Tuy không phải là tín hữu kitô, nhưng anh cho biết bà nội của anh thỉnh thoảng có nói tới Đức Giáo Hoàng, vì thế anh muốn biết ngài là ai, làm gì. Và đây là dịp may hiếm có, nên anh xin ghi danh tham dự. Trong số 2,000 bạn trẻ thuộc các nước Á châu nhóm đông nhất đến từ Philippines, rồi có các bạn trẻ Nhật Bản, Hồng Kông, Mông Cổ, Việt Nam. Ban tổ chức cũng đã gửi thứ mời các ban trẻ Hoa Lục, nhưng không ai biết họ có được phép tham dự không và sẽ có bao nhiêu người.

Đề tài đai hội là ”Hãy đến và xem”. Trong các ngày đại hội các bạn trẻ sẽ tham dự các cuộc hội thảo, trao đổi và chia sẻ chứng từ về một loạt các đề tài khác nhau, cũng như các buổi trình diễn văn nghệ, ca vũ và hòa nhạc. Ban vũ của Indonesia đặc biệt được chờ đợi. Trọng tâm của đại hội là việc làm chứng tá, tử đạo và ”thức tỉnh” qua sứ điệp của Chúa Kitô. Trong thánh lễ kết thúc đại hội do Đức Thánh Cha chủ sự sáng Chúa Nhật 17-8 sẽ có nghi thức sai các bạn trẻ ra đi rao truyền Tin Mừng.

Một linh mục thuộc ban tổ chức cho biết các bạn trẻ náo nức chờ đươc tham dự thánh lễ kính Đức Mẹ hồn xác lên trời, do Đức Thánh Cha chủ sự, nhưng họ cũng hân hoan vì cơ may gặp gỡ các bạn trẻ khác đến từ nhiều nước Á châu và chia sẻ với họ các kinh nghiệm chứng tá đức tin và các khó khăn của đời kitô trong thế giới ngày nay.

Thánh lễ khai mạc đã do Đức Cha Lazzaro You Heung Sik, Giám Mục Daejeon, khai mạc với thánh lễ do ngài chủ sự vào sáng 13-8 tại đền thánh Solmoe, là quê sinh của linh mục Anrê Kim Taegon, đã được Đức Gioan Phaolô II tôn phong hiển thánh cùng với 102 vi tử đạo khác hồi năm 1984.

Đại hội giới trẻ công giáo Á châu cũng mang sắc thái ơn gọi với sự tham dự của 500 đại chủng sinh. Trưa ngày 15-8-2014 sẽ có 20 bạn trẻ dùng bữa với Đức Thánh Cha. Vào ban chiều họ sẽ cùng các bạn trẻ khác đến Solmoe gần đền các thánh tử đạo, nơi diễn ra đại hội. Vào ban tối sẽ có lễ hội văn hóa với sự tham dự tiết mục của các phái đoàn các nước. Hai bạn trẻ sẽ chia sẻ chứng tá cuộc sống của họ với các bạn trẻ và Đức Thánh Cha, trước khi ngài ban huấn từ.

Theo Đức Cha Lazzaro You Heung Sik, Giám Mục Daejeon, ”trước khi là người Đại Hàn, Trung Quốc hoặc Á châu, người trẻ đến Daejeon đều là anh chị em với nhau và là con cái Thiên Chúa. Quốc tịch, trình độ học vấn hay các khác biệt chính trị không quan trọng: tất cả chúng ta phải cùng nhau luôn luôn gieo vãi tình yêu khắp nơi, để có tình yêu thương giữa chúng ta. Nếu có tình yêu thương giữa chúng ta, thì khi đó chúng ta có thể làm được tất cả mọi sự. Nhưng không có tình yêu thương, thì sẽ không làm được gì cả”.

Để giúp tín hữu và nhân dân Nam Hàn chuẩn bị tinh thần đón tiếp Đức Thánh Cha Phanxicộ, ngày 11-8-2014 đài truyền hình quốc gia đã cho trình chiếu sứ điệp video của ngài, trong đó Đức Thánh Cha nói: ”Anh chị em thân mến! Chỉ còn vài ngày nữa, với ơn Chúa giúp, tôi sẽ ở giữa anh chị em bên Đại Hàn. Ngay từ bây giờ tôi xin cám ơn anh chị em về sự tiếp đón của anh chị em, và tôi mời gọi anh chị em cùng tôi cầu nguyện, để cho chuyến tông du này đem lại nhiều hoa trái cho Giáo Hội và xã hội Đại Hàn. ”Hãy dứng đậy và hãy bừng sáng” (Is 60,1), với các lời ngôn sứ Isaia đã nói với thành Giêrusalem, tôi xin nói với anh chị em. Chính Chúa mời gọi anh chị em tiếp nhận ánh sáng của Người, tiếp nhận nó trong con tim để suy tư trong một cuộc sống tràn đầy đức tin đức cậy và đức mến, tràn đầy niềm vui của Phúc Âm. Như anh chị em biết, tôi đến nhân dịp Ngày Giới Trẻ Á châu lần thứ 6. Đặc biệt tôi sẽ đem tới cho ngưới trẻ lời Chúa mời gọi: ”Hỡi giới trẻ Á châu, hãy đứng lên! Vinh quang của các vị tử đạo chiếu sáng trên các con”. Ánh sáng của Chúa Kitô phục sinh chiếu tỏa như trong một tấm gương nơi chứng tá của cha Phaolô Yun Ji-Chung và 123 bạn tử đạo, tất cả là các chứng nhân của đức tin, mà tôi sẽ tuyên phong chân phước ngày 16 tháng 8 tới đây tại Seoul”. Người trẻ là những người đem theo niềm hy vọng và năng lực cho tương lai; nhưng họ cũng là nạn nhân của cuộc khủng hoảng luân lý và tinh thần trong thời đại chúng ta. Vì thế tôi ước mong loan báo cho họ và mọi người danh thánh duy nhất, trong đó chúng ta có thể được cứu rỗi: Đức Giêsu là Chúa.”

Đức Thánh Cha nói thêm trong sứ điệp Video gửi tín hữu Đại Hàn: ”Anh chị em Đại Hàn thân mến, niềm tin nơi Chúa Kitô đã đâm rễ sâu trên quê hương của anh chị em và đã đem lại hoa trái dồi dào. Các người cao niên là những người giữ gìn gia tài đó: không có họ giới trẻ sẽ không có ký ức. Sự gặp gỡ giữa người già và người trẻ bảo đảm cho con đường của dân tộc. Và Giáo Hội là đại gia đình, trong đó tất cả mọi người là anh chị em với nhau trong Chúa Kitô. Nhân danh Người tôi đến với anh chị em, trong niềm vui được chia sẻ với anh chị em Tin Mừng tình yêu và niềm hy vọng. Xin Chúa chúc lành cho anh chị em và xin Đức Trinh Nữ Mẹ Người che chở anh chị em”.

Đức Cha You cũng đồng ý với nhận xét của Đức Thánh Cha liên quan tới người trẻ. Đức Cha cho biết thách đố lớn nhất đối với Giáo Hội Đại Hàn hiện nay là chủ thuyết vô thần thực tiễn của một xã hội dựa trên sự ganh đua và thành công, dậy người ta chỉ nghĩ tới tiền bạc và công việc làm, đến độ mhiều người trẻ xem ra không còn thời giờ để sống đức tin nữa. Vì thế Giáo Hội phải đẩy mạnh mục vụ giới trẻ và chứng tá bác ái, là con đường đúng đắn giúp tới gần các thế hệ trẻ. Đức Cha hy vọng chuyến công du này của Đức Thánh Cha Phanxicô khiến cho tâm tình tôn giáo nở hoa, và giúp nhiều người khám phá ra niềm tin công giáo. Khi Đức Gioan Phaolô II viếng thăm Nam Hàn trong các năm 1984 và 1989, số người xin gia nhập Giáo Hội gia tăng mạnh. Là vị chủ chăn đã khẳng định rằng trong Giáo Hội mọi tín hữu đều là các thừa sai, chắc chắn Đức Thánh Cha Phanxicô sẽ thúc đẩy mọi người các linh mục tu sĩ và giáo dân nam nữ hăng say rao giảng Chúa Kitô cho các anh chị em khác.

(ASIANEWS 27.28.30-6-2014; 12-8-2014)

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Tòa Thánh lên án việc tái lập Nhà Nước Hồi Giáo

Tòa Thánh lên án việc tái lập Nhà Nước Hồi Giáo

VATICAN. Hội đồng Tòa Thánh đối thoại liên tôn nghiêm khắc lên án việc tái lập Nhà Nước Hồi giáo với những hành vi man rợ và tàn ác đi kèm.

Trong tuyên ngôn công bố hôm 12-8-2014, Hội đồng Tòa Thánh khẳng định rằng:

”Toàn thế giới kinh hoàng chứng kiến cái gọi là ”sự tái lập Nhà Nước Hồi giáo (califat) vốn đã bị Kamal Ataturk, vị sáng lập nước Thổ nhĩ kỳ hiện đại, bãi bỏ ngày 29-10-1923.
”Sự phản đối của đại đa số các tổ chức tôn giáo và chính trị Hồi giáo chống lại sự ”tái lập” này vẫn không ngăn cản những kẻ ”thánh chiến của Nhà Nước Hồi giáo” phạm và tiếp tục phạm những hành vi tội ác khôn tả. Hội đồng Tòa Thánh này, tất cả những người dấn thân trong công cuộc đối thoại liên tôn, tín đồ của tất cả các tôn giáo cũng như những người nam nữ thiện chí chỉ có thể tố giác và lên án quyết liệt những phương thức bất xứng với con người như:
– tàn sát con người chỉ vì họ thuộc về một tôn giáo nào đó;
– chặt đầu người, đóng đanh và treo thi thể trước công chúng;
– bó buộc các tín hữu Kitô và người yézidi phải chọn lựa một là theo Hòi giáo, hay là trả tiền thuế (yizya) hay là phải di cư;
– trục xuất hàng chục ngàn người, trong đó có các trẻ em, người già, phụ nữ đang mang thai và bệnh nhân.
– bắt cóc các thiếu nữ và phụ nữ thuộc cộng đoàn yézidie và Kitô như chiến lợi phẩm (sabaya);
– áp đặt biện pháp man rợ khâu kín cơ phận sinh dục phụ nữ;
– phá hủy các nơi thờ phượng và lăng tẩm của Kitô giáo và Hồi giáo;
– chiếm đóng hoặc xúc phạm đến các nhà thờ và tu viện;
– tháo gỡ các thánh giá và các biểu tượng tôn giáo khác của Kitô giáo và các cộng đồng tôn giáo khác;
– phá hủy gia sản văn hóa và tôn giáo Kitô có giá trị khôn lường;
– bạo hành dã man với mục đích làm cho dân chúng phải kinh sợ để bó buộc họ đầu hàng hoặc phải chạy trốn.
Hội đồng Tòa Thánh đối thoại liên tôn khẳng định rằng: ”Không chính nghĩa nào có thể biện minh cho những hành vi man rợ như vậy và chắc chắn không tôn giáo nào có thể làm như thế. Đó là một sự xúc phạm cực kỳ trầm trọng đối với nhân loại và đối với Thiên Chúa là Đấng Tạo Hóa, như ĐGH Phanxicô thường nhắc nhở.
Nhưng ta cũng không thể quên rằng các tín hữu Kitô và Hồi giáo đã có thể sống chung với nhau, tuy có những lúc thăng trầm, qua bao thế kỷ, kiến tạo một nền văn hóa sống chung và một nền văn minh mà họ hãnh diện. Đàng khác, chính trên căn bản đó mà trong những năm gần đây, cuộc đối thoại giữa các tín hữu Kitô và Hồi giáo đã được tiếp tục và đào sâu.
”Tình trạng thê thảm của các tín hữu Kitô, của những người yézidis và các cộng đồng tôn giáo khác và chủng tộc thiểu số tại Irak đòi phải có một lập trường minh bạch và can đảm từ phía các vị lãnh đạo tôn giáo, nhất là Hồi giáo, những người dấn thân trong cuộc đối thoại liên tôn và tất cả mọi người thiện chí. Tất cả phải đồng thanh liên án quyết liệt những tội ác vừa nói và tố giác việc lạm dụng tôn giáo để biện minh cho những việc làm ấy. Chẳng vậy các tôn giáo, các tín đồ và thủ lãnh của họ có gì đáng tin cậy? Cuộc đối thoại liên tôn đã được kiên nhẫn theo đuổi trong những năm qua còn uy tín nào nữa?
”Các vị lãnh đạo tôn giáo cũng được mời gọi dùng ảnh hưởng của mình nơi các chính quyền để chấm dứt những tội ác ấy, trừng phạt những kẻ phạm tội như thế và tái lập chế độ pháp quyền trên lãnh thổ của mình, đồng thời bảo đảm cho những người bị trục xuất được hồi hương. Khi nhắc nhớ sự cần thiết phải có luân lý đạo đức trong việc quản trị xã hội loài người, cũng các vị lãnh đạo tôn giáo ấy không được quên nhấn mạnh rằng sự hỗ trợ, tài trợ và cung cấp võ khí cho khủng bố là điều bị lên án về luân lý”.
Ngoài những điều trên đây, Hội đồng Tòa Thánh đối thoại liên tôn cám ơn tất cả những người đã lên tiếng tố giác nạn khủng bố, nhất là thứ khủng bố lợi dụng tôn giáo để biện minh cho mình.
Vậy chúng ta hãy hiệp tiếng với ĐGH Phanxicô: ”Xin Thiên Chúa hòa bình khơi lên nơi tất cả mọi người một ước muốn chân thành đối thoại và hòa giải. Không thể thắng bạo lực bằng bạo lực. Chỉ có thể thắng bạo lực được bằng hòa bình!” (SD 12-8-2014)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

 

(Yézidi hay Yazidi là nhóm bộ tộc tôn giáo nói tiếng Kurde theo đạo Hồi có pha trộn các yếu tố truyền thống đa phương. Phần lớn họ sống tại tỉnh Ninive ở miền bắc Iraq. Trên thế giới có khoảng 700 ngàn người Yézidi).

 

Một thoáng Hàn Quốc và Giáo hội Công giáo Hàn Quốc

Một thoáng Hàn Quốc và Giáo hội Công giáo Hàn Quốc

Korea Logo

Đức giáo hoàng Phanxicô sẽ đến thăm Hàn Quốc từ ngày 14 đến ngày 18 tháng 8 nhân dịp Đại hội Giới trẻ Á châu lần thứ sáu. Theo tường thuật của thông tín viên Simone Orendain của đài VOA, đây là chuyến viếng thăm đầu tiên trong vòng gần 20 năm của một nhà lãnh đạo Tòa Thánh Vatican tới một nước Châu Á. Các giới chức Nam Triều Tiên mô tả chuyến viếng thăm của Ðức giáo hoàng đến nước họ lần đầu tiên trong vòng 25 năm là “có ý nghĩa rất lớn”. Hàn Quốc rộng 99,268 km vuông với dân số 50,220,000 người,trong đó có 5,393,000 người Công Giáo, chiếm 10,7% dân số. Trong suốt 50 năm qua, có lẽ đã không có quốc gia nào trên thế giới có được sự phát triển liên tục trên mọi bình diện chính trị, kinh tế, xã hội và tôn giáo như Hàn Quốc. Chúng tôi có dịp hành hương đến đất nước này, nay nhân sự kiện Đại hội Giới trẻ Á châu, xin được điểm lại vài nét về xứ sở nhân sâm và kim chi.

1. Đôi nét lịch sử cận đại

Năm 1945, chiến tranh thế giới lần thứ hai kết thúc. Đại Hàn kết thúc ách đô hộ của Nhật kéo dài 35 năm (1910- 1945).

Click xem hình

Lúc ấy, các lực lượng Đồng Minh quyết định chia cắt Đại Hàn ra làm hai: miền Nam với sự giúp đỡ của Mỹ và miền Bắc với sự giúp đỡ của Liên Xô. Năm 1948, quân đội Liên Xô rút khỏi miền Bắc và năm sau, 1949, quân đội Mỹ cũng rút khỏi miền Nam.

Năm 1950, được sự ủng hộ của cả Liên Xô lẫn Trung Quốc, Bắc Hàn, dưới sự lãnh đạo của Kim Nhật Thành, phát động chiến tranh, tung quân qua biên giới Nam Hàn, gọi là để thống nhất đất nước. Sau khi Liên Hiệp Quốc thất bại trong nỗ lực hòa giải và ngăn chận chiến tranh, Tổng thống Truman quyết định đưa quân Mỹ và một số nước đồng minh sang giúp Nam Hàn trong cuộc chiến đối đầu với miền Bắc. Lúc ấy, Trung Quốc cũng quyết định can thiệp (với sự trợ giúp khí giới của Liên Xô).

Cuộc nội chiến Nam Bắc Hàn trở thành cuộc đối đầu trực tiếp giữa Mỹ và Trung Quốc, trong đó có lúc (ví dụ riêng đợt phản công mùa xuân năm 1951), quân Trung Quốc nhảy vọt lên đến khoảng 700,000 người.

Đến giữa năm 1953, hai bên tuyên bố đình chiến. Cuộc chiến tranh kéo dài ba năm để lại thảm kịch nặng nhất là có ít nhất trên hai triệu thường dân, từ cả hai miền, bị giết chết, kể cả bị giết tập thể.

Sau chiến tranh, Đại Hàn lại bị chia làm hai, lấy vĩ tuyến 38 làm biên giới. Phía Nam được biết dưới tên chính thức là Đại Hàn Dân Quốc (thường được gọi tắt là Hàn Quốc); phía Bắc, Cộng Hòa Dân Chủ Nhân Dân Triều Tiên (thường được gọi tắt là Triều Tiên).

Ban đầu, cả Bắc và Nam Hàn đều gánh chịu một di sản giống nhau. Đó là ách đô hộ kéo dài 35 năm của đế quốc Nhật Bản, cuộc nội chiến kéo dài 3 năm và số thương vong được xếp vào loại lớn nhất trong tất cả các cuộc chiến tranh trong nội bộ một quốc gia ở thế kỷ 20, sự nghi kỵ và thù hận không phải giữa hai miền Nam Bắc. Những di sản ấy thể hiện rõ trong tình hình chính trị, kinh tế và xã hội của cả hai miền ngay sau chiến tranh như nghèo khổ, lạc hậu và độc tài.

Nhưng 50 năm sau, khoảng cách giữa hai miền, Hàn Quốc và Triều Tiên, khác nhau vời vợi. Vào giữa thập niên 1950, cũng giống như Triều Tiên, Hàn Quốc nằm trong danh sách những quốc gia nghèo, tương tự vô số các quốc gia nghèo khác ở châu Á và châu Phi. Nhưng từ giữa thập niên 1960 thì họ nhảy vọt. Suốt cả mấy thập niên sau đó, họ được xem là một trong vài quốc gia có tốc độ phát triển nhanh nhất thế giới. Giới nghiên cứu thường nêu lên một ví dụ về sự phát triển thần kỳ của Hàn Quốc: năm 1957, thu nhập trên đầu người của Hàn Quốc thấp hơn hẳn Ghana, một quốc gia thuộc Tây Phi; bốn mươi năm sau, vào năm 2008, thu nhập của họ cao gấp 17 lần Ghana! Hiện nay, Hàn Quốc nằm trong nhóm 20 quốc gia giàu mạnh nhất thế giới (G-20). Một số thương hiệu của Hàn Quốc trở nên quen thuộc trên phạm vi toàn cầu, hầu như đi đâu cũng gặp: Hyundai, Samsung, Daewoo và LG.(x. Blog của Tiến sĩ Nguyễn Hưng Quốc).

2. Giáo Hội Hàn Quốc

Triều Tiên có lịch sử lâu dài với hơn 5 ngàn năm, chịu ảnh hưởng truyền thống Phật Giáo và Khổng Giáo. Kitô Giáo được du nhập vào Ðại Hàn khi Nhật xâm lăng quốc gia này vào năm 1592. Lúc ấy có một số người Ðại Hàn được rửa tội, có lẽ bởi các binh sĩ Công Giáo người Nhật. Việc truyền giáo rất khó khăn vì Ðại Hàn chủ trương bế quan tỏa cảng, ngoại trừ những hành trình đến Bắc Kinh để trả thuế.

Mãi đến đầu thế kỷ 18, Triều Tiên mới đón nhận ánh sáng Đức tin Công Giáo và phát triển mạnh vào cuối thế kỷ 19. Các triều đại phong kiến đã có những cuộc bách hại Kitô Giáo trong nhiều năm và đã có trên 10 ngàn Kitô hữu hy sinh mạng sống để minh chứng Đức tin.

Năm 1925, Đức giáo hoàng Piô XI đã tuyên chân phước cho 79 vị tử đạo. Năm 1968, Đức giáo hoàng Phaolô VI đã tuyên chân phước cho 24 vị tử đạo. Ngày 14 tháng 10 năm 1984, Đức giáo hoàng Gioan Phaolô II đã tuyên hiển thánh cho 103 vị tử đạo Hàn Quốc.

Từ năm 1960 đến năm 2010, dân số Hàn Quốc từ 23 triệu đã tăng lên 48 triệu người. Lợi tức bình quân tính trên đầu người gia tăng từ 1,300 USD lên 19,500 USD hằng năm. Số Kitô hữu từ 2% tăng lên 30%, trong đó có khoảng 11% là tín hữu Công Giáo, tức khoảng 5,4 triệu. Số linh mục từ 250 lên đến 5,000. Số tân linh mục hằng năm vào khoảng 130 đến 150 vị. Với 5,000 linh mục hiện nay, tính bình quân, mỗi vị coi sóc 1.100 tín hữu. Số tín hữu Công Giáo gia tăng 3% mỗi năm (linh mục Piero Gheddo). Văn phòng Trung ương Thống kê Giáo Hội cho biết: Giáo Hội Công Giáo tại Hàn Quốc, tính đến ngày 31 tháng 12 năm 2013, có 16 giáo phận, 1,673 giáo xứ và 843 trung tâm mục vụ, với 35 giám mục, 4,261 linh mục,10 phó tế, 1,489 đại chủng sinh và 395 tiểu chủng sinh, 516 nam tu sĩ và 9,016 nữ tu, 123 thừa sai giáo dân và 14.195 giáo lý viên.

Giáo Hội Công Giáo Hàn Quốc điều hành 328 trung tâm giáo dục thuộc mọi cấp lớp với 221,020 học sinh theo học, 49trung tâm đặc biệt và 200 cơ sở khác, 40 bệnh viện, 4 phòng khám, 9 trại phong, 513 nhà an dưỡng cho người già và người khuyết tật, 277 trại mồ côi và nhà trẻ, và 83 trung tâm tư vấn gia đình và bảo vệ sự sống. (VIS).

Đức hồng y Nicholas Cheong Jin Suk, Tổng giám mục thủ đô Seoul, cho biết trong 10 năm qua, số tín hữu Công Giáo Hàn Quốc đã gia tăng từ 3 lên đến hơn 5 triệu. Như thế, Giáo Hội Hàn Quốc là Giáo Hội tiến triển mạnh nhất châu Á. Tại Hàn Quốc, quyền tự do tôn giáo được hoàn toàn tôn trọng.

Ðức giáo hoàng Gioan Phaolô II đến Nam Hàn năm 1984 để tuyên hiển thánh cho 103 vị Tử Đạo. Trong đó có thánh Anrê Kim Taegon, linh mục, thánh Phaolô Chong Hasang, chủng sinh, và 98 người Hàn Quốc cùng ba vị thừa sai người Pháp. Tất cả đều tử đạo trong khoảng từ năm 1839 và 1867. Trong số đó có các giám mục và linh mục, nhưng hầu hết là giáo dân với 47 phụ nữ, 45 đàn ông.

Trong bài giảng lễ phong thánh, Ðức Gioan Phaolô II đã nói: "Giáo Hội Hàn Quốc thì độc đáo vì được thành lập hoàn toàn bởi giáo dân. Giáo Hội còn non yếu, thật trẻ trung nhưng thật vững mạnh trong đức tin, và đã đứng vững sau những đợt sóng bách hại mãnh liệt. Do đó, chỉ trong vòng một thế kỷ, Giáo Hội đã kiêu hãnh với 10,000 vị tử đạo. Cái chết của các vị tử đạo này trở thành men cho Giáo Hội và đưa đến sự triển nở huy hoàng của Giáo Hội Hàn Quốc ngày nay. Ngay cả bây giờ, tinh thần bất khuất ấy vẫn còn trợ giúp cho người tín hữu của Giáo Hội thầm lặng ở miền bắc bên kia vĩ tuyến".

Nét độc đáo của Giáo Hội Hàn Quốc đó là sự cộng tác tuyệt vời của giáo dân vào công cuộc rao giảng Tin Mừng. Khác với lịch sử của các Giáo Hội khác trên thế giới, Giáo Hội Nam Hàn là do chính các giáo dân thành lập. Vào thế kỷ XVIII, một vài triết gia người Hàn đã sang Bắc Kinh gặp được nhà truyền giáo nổi tiếng linh mục Mátthêu Ricci. Sau khi thụ huấn và chịu phép Rửa tội, họ về nước đem theo cuốn Thánh Kinh và họ dịch sang tiếng Hàn rồi rao giảng Tin Mừng và thành lập Giáo Hội Công Giáo. Trong các năm 1779-1836, khi các thừa sai đầu tiên người Pháp tới Đại Hàn, thì Kitô giáo đã được phổ biến trong nước, nhưng sau đó bị bách hại khốc liệt. Nhưng sự cộng tác của giáo dân thì vẫn tồn tại mạnh mẽ. Ngày nay tại Hàn Quốc, những ai muốn gia nhập Kitô giáo đều biết rằng mình phải có bổn phận dấn thân trong một hiệp hội hay phong trào nào đó hiện hữu trong các giáo xứ.

Từ thập niên 1980, trong 10 năm chuẩn bị lễ tuyên thánh cho các vị tử đạo, Giáo Hội Công Giáo Hàn Quốc đã phát động phong trào mỗi một tín hữu phải làm sao giúp cho một người khác theo đạo. Nhờ đó, số tín hữu đã gia tăng gấp đôi.

Hiện nay, Giáo Hội Hàn Quốc đang sống chương trình gọi là "Rao giảng Tin Mừng hai mươi hai mươi", nghĩa là vào năm 2020, số tín hữu Công Giáo đạt tỷ lệ 20% tổng số dân Hàn Quốc, lý tưởng là gia tăng gấp đôi số tín hữu hiện nay để đạt con số 10 triệu người Công Giáo.

3. Những Đền thánh Công Giáo, nơi thu hút khách hành hương

Đoàn hành hương chúng tôi có 4 ngày ở đất Hàn nên dành trọn mỗi ngày đến một Đền thánh để tìm hiểu học hỏi và dâng lễ.

a. Đền thánh Yongsu ở Khu tưởng niệm Linh mục Kim Dae-gun, Thánh Tử Đạo đầu tiên tại đảo Cheju.

Buổi sáng sớm, sau khi thưởng thức món mì chay Uđông, đoàn chúng tôi đi qua cây cầu dài 21km bắc qua biển. Người Hàn gọi là “vĩ đại cầu”. Hành trình hơn 80km đến làng AnSung linh thiêng. Đang là mùa xuân nên khí hậu mát mẻ, núi rừng ngát xanh, khung cảnh tuyệt đẹp. Núi xanh bao bọc trung tâm hành hương. Nơi đây có Nhà thờ và nhiều nhà nguyện nhỏ và nhiều dãy nhà khác ẩn khuất trong vườn cây xanh mát. Đây là nơi lý tưởng để tĩnh tâm, linh thao.

Một nữ giáo dân phụ trách khu vực đền thánh giới thiệu cho chúng tôi về miền đất thánh thiêng và Thánh Anrê Kim. Chị chào mừng đoàn hành hương tín hữu Công Giáo Việt Nam. Vào năm1801, chính quyền phong kiến cấm đạo tuyệt đối. Sau 200 năm lịch sử, du khách đến xứ sở thanh bình này cảm nhận miền đất thiêng được khởi đi từ dòng máu tử đạo. Năm 1846 vị Lm đầu tiên của Hàn quốc là Thánh Anrê Kim bị chặt đầu nên người dân gọi ngọn núi thiêng này là núi chặt đầu.

Trước khi chết, thánh nhân có 3 câu nói nổi tiếng: tôi đem đức tin vào Hàn quốc và tôi luôn cầu nguyện cho đất nước bình an, tôi không bao giờ từ bỏ đức tin và tôi sẽ sống lại.

Anrê Kim Taegon là linh mục Ðại Hàn đầu tiên và là con của một người trở lại đạo. Cha của ngài, ông Ignatius Kim, được tử đạo trong thời cấm đạo năm 1839 và được phong thánh năm 1925. Sau khi được rửa tội vào lúc 15 tuổi, Anrê phải trải qua một hành trình dài 1,300 dặm để gia nhập chủng viện ở Macao. Sáu năm sau khi học hỏi những tinh hoa của Tin Mừng, ngài trở về quê hương qua ngã Mãn Châu. Cùng năm ấy ngài vượt qua eo biển Hoàng Sa đến Thượng Hải và được thụ phong linh mục. Trở về trên con thuyền nhỏ nên ngài lạc đường và sau nhiều ngày lênh đênh trên biển ngài lên bờ lần đầu tại đảo Cheju. Đảo Cheju là nơi du lịch chính của Hàn Quốc, và đã thu hút 7,578,000 du khách Hàn Quốc và nước ngoài trong năm 2010. Giáo phận Cheju, nơi có đảo Cheju, có 67,496 tín hữu Công Giáo theo thống kê năm 2009. (UCA News 6-5-2011).

Đền thánh Yongsu, nơi tôn kính thánh tử đạo Anrê Kim Taegon bình yên giữa núi rừng hùng vĩ. Thánh nhân đã cử hành thánh lễ đầu tiên của mình ở Hàn Quốc tại đây. Chúng tôi hôn kính xương thánh và viếng mộ và của ngài. Mộ của thân mẫu thánh nhân cũng nằm trên ngọn đồi nhỏ phía sau.Chúng tôi dâng thánh lễ trong nhà nguyện nhỏ ấm cúng.Tạ ơn Chúa đã đưa chúng tôi đến nơi đây hành hương và cầu nguyện bên mộ phần thánh tử đạo.

Sau khi ăn trưa chúng tôi đi một hành trình dài 4 giờ xe đi về thành phố thủ phủ Kwangju, một trong 6 thánh phố lớn nhất của xứ sở Kim Chi.

Hệ thống giao thông xứ Hàn quá hiện đại như các nước Âu châu và Mỹ. Không thấy một xe honda nào trên quốc lộ. Không thấy một bóng dáng cảnh sát nào đứng đường.

Alex thuyết minh cho biết về lịch sử và văn hóa kinh tế xứ Hàn. Tổng thống Pắc Chung Hy trong 18 năm lãnh đạo (1961-1979) đã đưa đất nước phát triển. Từ một đất nước không có tài nguyên khoáng sản. Với ¾ diện tích đất đai là núi đồi. Đất đai chỉ sản xuất được 1 mùa, không có lương thực. Phía Bắc giáp Triều Tiên và ba phía kia giáp biển đầm lầy. Pac Chung Hy cùng nội các đã tìm ra đường lối phát triển đất nước. Công trình đầu tiên là mở tuyến đường Bắc Nam phát triển cơ sở hạ tầng. Xây dựng sân bay quốc tế Incheon và thành phố Seoul. Đưa học sinh sinh viên sang Mỹ du học nhièu nghành nghề, đặc biệt là nghành y học để các bác sĩ trở về chăm sóc sức khỏe tốt cho dân. Phát triển đất nước phải bắt đầu từ gia đình rồi đến xã hội. Mọi du học sinh khi thành đạt đều trở về giúp xây dựng quê hương.

Ngày nay ở Hàn quốc có 4 nghành kinh tế chủ lực. Đó là xây dựng, công nghệ điện tử, sản xuất xe hơi và đóng tàu biển. Người dân làm việc chăm chỉ cần cù và được trả lương xứng đáng với khả năng. Lương kỹ sư là 60,000usd/năm và tăng theo thời gian, sau 10 năm làm việc mức lương đạt 100,000 usd/năm. Mức lương thấp nhất dành cho người lao động thủ công cũng rất cao 1500 usd/tháng. Chế độ bảo hiểm và an sinh xã hội rất tốt nên không có người ăn xin, người bán vé số dạo.

b. Linh Địa Đức Mẹ Naju.

Từ sáng sớm chúng tôi đến thăm vùng đất thánh Naju. Một chị giáo dân từng du học Mỹ làm việc ở văn phòng truyền giáo của giáo phận hướng dẫn và giới thiệu rất tận tình.

Naju là một thị trấn nhỏ với khoảng 90 ngàn dân thuộc miền Tây Nam bán đảo Triều Tiên, cách Thủ đô Seoul chừng 320 Kilô mét về phía nam. Naju thuộc Giáo phận Kwangju. Bộ phim truyền thuyết Jumong được quay tại Naju.

Chúng tôi vào viếng thánh đường Hoa Hồng. Nơi đây có thánh tượng Đức Mẹ ban ơn lành chảy huyết lệ liên tiếp từ ngày 30 tháng 6 năm 1985, đã gây chấn động cho cả nước.

Thánh tượng này là sở hữu của gia đình ông bà Julia Kim (Tên bà là Hong Sun Yoon và tên ông là Man Box Julio Kim), một gia đình Công Giáo công chức trong thành phố. Bà Julia chính là người được Đức Mẹ hiện ra để mời gọi mọi người cầu nguyện cho có sự an bình trên thế giới. Chúng tôi được xem phim tư liệu về thánh địa Naju. Sau đó đoàn chúng tôi tiếp tục hành trình lên núi thánh Đức Mẹ Naju. Giữa núi rừng bao la, ngước nhìn lên tượng Đức Mẹ ban ơn tâm hồn lữ khách được nâng lên trong cuộc gặp gỡ thân tình với Mẹ. Chúng tôi chọn một cây thánh giá gỗ và lần lượt chia nhau vác bắt đầu đi 14 chặng đàng thánh giá. Những giáo dân Bắc 54 thuộc lòng kinh nguyện, sốt sắng trong mỗi chặng thương khó của Chúa. Kết thúc đàng thánh giá nơi thánh tượng Thánh Tâm Chúa Giêsu, chúng tôi đọc kinh và hát ca sốt mến dâng tất cả cho trái tim Cực Thánh Chúa Giêsu.

Ban chiều trở lại thánh đường Hoa Hồng, chúng tôi dâng lễ. Cha linh hướng và cộng đoàn Nữ tu cùng tham dự thánh lễ. Dù không hiểu tiếng Việt nhưng họ cùng hiệp thông trong lời cầu nguyện.

Sau thánh lễ, thật may mắn, bà Julia Kim từ bệnh viện đến thăm và nói chuyện với chúng tôi. Người phụ nữ đã bước vào tuổi 65, hơn 20 năm bị ung thư vẫn trẻ trung và thật phúc hậu. Trước khi nói chuyện bà tặng cho các linh mục chuỗi Mân Côi xin các linh mục đặt tay chúc lành, một cử chỉ thật khiêm tốn. Bà chào mừng đoàn Việt Nam từ một nơi rất xa đã đến hành hương nên dù đang điều trị tại bệnh viện bà vẫn cố gượng dậy để đến gặp gỡ. Bà cầu chúc mọi người sức khỏe và bình an trong ơn lành của Đức Mẹ. Bà nói về đức tin. Khi tin vào Chúa và Đức Mẹ chúng ta luôn có bình an. Nghe bà nói chuyện tôi nhận thấy bà có đức tin mạnh mẽ và đời sống cầu nguyện thân mật với Chúa với Đức Mẹ nên bà rất khiêm tốn và trọn niềm tín thác.

Julia sinh năm 1947 là con gái của một vị học giả cổ điển Trung hoa. Cụ thân sinh của Julia đã bị mất tích trong thời Nam Bắc phân tranh và cô em út cũng qua đời khi mới lên 2 tuổi. Julia sống với mẹ, một người mẹ can đảm và chuyên cần lam lũ nuôi con ăn học qua hết bậc trung học. Đến năm 25 tuổi (1972) cô kết hôn với Juliô, người con cả trong gia đình. Ông bà sinh được 4 cháu (Tên là Rosa, Tomas, Térèsa và Philip). Ông bà đã lãnh nhận được ơn đức tin và đã trở thành con Giáo Hội vào lễ Phục sinh 1981.

Sau lần trở lại, bà dành hết thì giờ vào việc phục vụ khách hàng (nơi cửa tiệm hớt tóc của bà), lo cơm nước cho chồng con và săn sóc gia đình.

Ông Lubino Park là khách hàng quen thuộc của bà. Ông bị chứng bệnh sưng phổi từ khi ông phục vụ các bệnh nhân trong bệnh viện Lao trị. Ông xin bà Julia cầu nguyện cho trước khi khám nghiệm giải phẫu. Vốn có tinh thần tông đồ, nên bà đã dâng một tuần bảy ngày với các việc hy sinh và kinh nguyện để cầu cho ông. Kết quả sau ba lần tái khám, bác sỹ cho hay ông đã khỏi bệnh cách lạ lùng. Để trả ơn bà Julia, ông xin tặng bà một món quà tôn giáo bày bán trong tiệm ảnh tượng của nhà thờ. Bà Julia chọn bức tượng Đức Mẹ ban ơn lành làm kỷ vật và cũng là để nhớ ơn Mẹ đã nhậm lời bà cầu nguyện.

Sau khi sinh cháu thứ tư, bà mắc một chứng bệnh ung thư. Trước cảnh tượng đau đớn năm chờ chết, bà đã nhiều lần ý "chấp nhận cái chết" với chồng con. Bà cũng cố gượng viết một chúc thư dành cho người sẽ làm vợ kế của chồng bà. Bà cũng được cha Sở xứ đạo Naju thường xuyên đến cho bà lãnh nhận Mình Thánh Chúa và khuyên nhủ ủi an trong khi chờ chết. Hôm ấy trong giấc ngủ mơ, bà thấy mình được Chúa chỉ dẫn đọc Thánh Kinh. Bà mở nhằm đoạn sách nói về người đàn bà loạn huyết lâu năm được Chúa chữa lành nhờ lòng tin. Sau giấc chiêm bao ấy, cũng nhờ lòng tin, bà được Chúa cho hoàn toàn bình phục, lại ban cho hết những gì bà khẩn cầu. Vì thế, nghĩ đến ơn Chúa ban, bà quyết định biến nhà mình thành nơi cư trú cho mọi kẻ nghèo hèn. Từ tháng 5, 1985 cơn bệnh của bà lại tái phát, nhưng Chúa vẫn cho bà đủ sức để làm việc phục vụ. Đức Mẹ đã tỏ cho Julia Kim biết về con đường thiêng liêng theo thánh Têrêsa thành Lisieur là cầu nguyện, sinh hoạt chung, chịu đựng hy sinh, làm việc đền tội dâng lên Thiên Chúa vì yêu mến và sống khiêm nhường hiệp ý với Mẹ thì rất có giá trị trong việc cứu rỗi các linh hồn.

Bà Julia kể: Sau khi đi thăm Kwangju, tôi đến Naju lúc 11g20 khuya ngày 30 tháng 6 năm 1985. Tôi đọc kinh Mân Côi xin cho kẻ có tội được ơn trở lại và cho những người đang đau khổ tại Kwangju. Đang khi đọc kinh, tôi ngạc nhiên thấy nước mắt chảy dài trên đôi mắt tượng Mẹ. Tôi hồ nghi không phải là nước mắt Mẹ nên tôi đánh thức chồng tôi đang ngủ gục, để nhìn cho rõ. Hai chúng tôi nhìn sát mắt Mẹ và chúng tôi xác định là nước mắt thật sự đã chảy ra từ khoé mắt Mẹ.

Sáng hôm sau tôi thức dậy từ 6 giờ và đi thẳng đến chân tượng Mẹ để quan sát lại. Tôi thấy những giọt nước Phép tôi vẩy lên tượng khi đêm đã khô sạch, nhưng vệt nước chảy từ khoé mắt Mẹ hôm qua, giờ vẫn còn chảy đều. Trước khi rời nhà đi làm, Juliô bảo tôi "đừng tiết lộ cho ai biết về hiện tượng lạ này" Anh lại bảo tôi "phải cầu nguyện sốt sáng hơn" nữa.

Vì thế, chẳng bao lâu sự kiện Đức Mẹ khóc tại Naju được loan đi khắp nơi và thiên hạ kéo đến đông nghẹt cả đường phố. Gia đình ông bà Juliô đã trở thành nơi cầu nguyện suốt đêm ngày.

Đức tổng giám mục Gong Hee Victorius Yoon đã để tâm nghiên cứu và nghiệm xét những sự lạ xảy ra tại đây và đã công bố với các cha trong ngày tĩnh tâm của các linh mục giáo phận rằng: "Sự kiện Đức Mẹ khóc chảy nước mắt không thể chối được. Chúng tôi thường xuyên quan sát các sự kiện và diễn tiến của biến cố…. Và tôi cũng đang tiếp tục nghiên cứu các hệ quả…." (tháng 7 năm 1989).

Ngài cũng nói với cha Raymond Spies Chánh sở Xứ đạo Naju rằng: "Tôi hết sức tin tưởng vào hiện tượng Đức Mẹ chảy nước mắt tại Naju này. Tôi chấp nhận như là một sự có thật. Tôi chưa thấy nơi bà Julia nói điều gì trái với Tín lý của Giáo Hội. Xin cha cho tôi biết rõ tình hình bằng cách cung cấp cho tôi cả những thông điệp, nhật ký của bà Julia, các hình ảnh và băng hình nữa".

Đức Tổng giám mục Ivan Dias, Khâm Sứ Toà Thánh tại Nam Triều Tiên cũng công khai bày tỏ: "Tôi xin phó dâng sứ mạng Khâm Sai của tôi qua lời cầu nguyện của cha Raymond Spies, bà Julia và cũng cậy nhờ vào những sự đau khổ bí nhiệm của bà chịu nữa" (Ngày 22 tháng 12, 1991).

Chia tay cha Linh hướng, các Nữ tu, các thiện nguyện viên và bà Julia Kim trong lưu luyến, chúng tôi về thánh phố Kwanju nghĩ ngơi.

c. Thánh địa Chonjinam

Từ Kwanju chúng tôi đi hơn 3 giờ xe là đến vùng thánh địa Chonjinam trên núi cao.

Đức Ông Byon Ki – Young tiếp đón chúng tôi rất niềm nở và tặng sách “History of the Foundation of the Korean Catholic Church” do ngài biên soạn.

Chon-jin-am, một nơi gặp gỡ giữa Nho giáo, Phật giáo và Công Giáo, đã trở thành nơi khai sinh của Giáo Hội Công Giáo Hàn Quốc.

Vị linh mục cai quản thánh địa chuyên đón đoàn hành hương đã đưa chúng tôi lên núi trước phần mộ của 5 linh mục đầu tiên và ngài giới thiệu đôi nét lịch sử hình thành Giáo Hội Hàn quốc.

Chon-jin-am có 5 ngôi mộ của 5 linh mục tử đạo khai sinh Giáo Hội Công Giáo Hàn Quốc. Các ngài đi tìm chân lý và gặp gỡ nơi Tin Mừng Chúa Giêsu rồi về nước các ngài truyền bá Tin Mừng. Họ đã xây dựng Giáo Hội Hàn Quốc mà không có sự giúp đỡ của các nhà truyền giáo nước ngoài.

Hiện nay, tại Chon-jin-am, đã đặt nền móng xây dựng vương cung thánh đường. Dự kiến sẽ kéo dài trong thời gian dài. Vương cung được mô phỏng theo phong cách lấy cảm hứng từ các tôn giáo khác nhau của người dân Hàn Quốc: Nho giáo, Phật giáo và Kitô giáo (xin đọc thêm tư liệu lịch sử tại web: chonjinam.org).

Đoàn chúng tôi đọc kinh cầu nguyện và xuống núi dâng lễ kính thánh Antôn Pađôva trong nhà nguyện nhỏ dưới chân núi.

Ban chiều chúng tôi về thành phố Seoul ghé vào cửa hàng sâm nổi tiếng Ginseng Outlet, tham quan và mua quà lưu niệm.

d. Bảo tàng lịch sử Giáo Hội Hàn quốc và Thánh đường Juldusan

Seoul là thủ đô của Hàn Quốc, nằm bên Sông Hàn ở phía Tây Bắc Hàn Quốc. Thành phố cách biên giới với Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên 50 km về phía Nam (Khu phi quân sự Triều Tiên). Với dân số hơn 10 triệu, Seoul là thành phố lớn nhất Hàn Quốc. Diện tích chỉ 605 km², đây là một trong những thành phố lớn có mật độ dân số cao nhất thế giới. Hệ thống giao thông quá hiện đại.

Seoul có một hệ thống tàu điện ngầm nối mỗi quận của thành phố và các khu vực xung quanh. Với lượng khánh hơn 8 triệu mỗi ngày, hệ thống tàu điện ngầm của Seoul được xếp vào một trong những hệ thống tàu điện ngầm bận rộn nhất trên thế giới. Tàu điện ngầm vùng đô thị Seoul có 12 tuyến phục vụ Seoul, Incheon, Gyeonggi, tây Gangwon, và bắc Chungnam.

Chúng tôi đến miền đất thánh thiêng giữa lòng thủ đô Seoul. Đó là bảo tàng lịch sử của Giáo Hội Hàn quốc. Một vị trí rất đẹp từ trên đồi cao nhìn xuống sông Hàn thơ mộng. Hàn Quốc tự hào với hàng loạt bảo tàng quốc gia và rất nhiều những bảo tàng chuyên đề dành cho những đối tượng riêng biệt. Các bảo tàng quốc gia trưng bày những hiện vật vô giá xuyên suốt chiều dài lịch sử 5000 năm của Hàn Quốc.

Chúng tôi dâng thánh lễ khởi đầu ngày mới trên miền đất có nhiều vị tử đạo vào năm 1866.

Một thiện nguyện viên nói tiếng Anh lưu loát hướng dẫn và thuyết minh cho chúng tôi về lịch sử Giáo Hội Hàn quốc, tham quan bảo tàng với nhiều chứng tích lịch sử Giáo Hội bị bách hại và đặc biệt là tư liệu hình ảnh Đức Gioan Phaolô II đến thăm Hàn quốc 2 lần (dịp phong thánh năm 1984 và dịp Đại hội Thánh Thể năm 1993). Nơi đây có dãy nhà trưng bày cách sống động những nhà tù và các dụng cụ tra tấn các vị tử đạo. Sau đó chúng tôi vào Thánh đường Juldusan viếng Chúa. Nhiều giáo dân Hàn đang lần chuỗi và cầu nguyện.

Sau khi chụp hình lưu niệm, chúng tôi chia tay các thiện nguyện viên với lời cảm ơn chân thành.

Chỉ còn một buổi chiều tại Seoul, chúng tôi thăm lâu đài Kinh Bắc Cung – Gyeongbok Place, nơi ở và làm việc của các triều đại phong kiến Triều Tiên. Cung điện Kyongbuk – Cung điện ánh sáng và hạnh phúc. Cung điện được xây dựng vào năm 1394 dưới đời vua Chosun (1392 – 1910), đời vua cuối cùng của Hàn Quốc. Đây được xem là một công trình nghệ thuật nổi tiếng có phong cách và kiến trúc độc đáo và đẹp nhất Seoul. Cung điện là một tổng thể kiến trúc đồ sộ với những hồ sen thơm ngát, những ngôi chùa đá cổ kính và đặc biệt là những cung điện nguy nga, tráng lệ.

Chúng tôi tham quan Bảo tàng Dân tộc Quốc gia là bảo tàng quốc gia duy nhất về văn hóa dân gian, trưng bày khoảng 4,000 hiện vật về đời sống văn hóa. Tham quan Bảo tàng Cung điện Quốc gia trưng bày 40.000 hiện vật tái hiện lại lịch sử và văn hóa của triều đại Joseon. Sau đó đi chợ Dongdaemun mua sắm đặc sản xứ Hàn. Ban tối được nhâm nhi rượu Soju với gà hâm sâm, thưởng thức nhiều món kim chi quốc hồn quốc túy đất nước này.

Hôm sau kết thúc chuyến hành hương, chúng tôi lên đường sớm kịp chuyến bay từ Incheon về Sài gòn.

4. Thay lời kết

Hàn Quốc có diện tích là 99,720 cây số vuông, dân số 48,754,657 (tháng 7, 2011), Thu nhập bình quân đầu người là 30,000 Mỹ kim (năm 2010), tổng sản lượng quốc nội (GDP) là $1.459 trillion (2010) (trillion là một ngàn tỉ); xếp hàng thứ 13 trên thế giới. (theo tài liệu của CIA World Factbook).

Hiện nay Giáo Hội Hàn Quốc đang đẩy mạnh chương trình học hỏi Lời Chúa để truyền giáo cho xã hội đang thay đổi nhanh chóng ngày nay. Hy vọng chương trình "Rao giảng Tin Mừng hai mươi hai mươi", sẽ gia tăng tín hữu lên 10 triệu vào năm 2020.

Đức Thánh Cha Phanxicô sẽ chủ sự ngày Giới Trẻ Á châu và lễ tuyên hiển thánh cho 124 vị tử đạo Đại Hàn.

Linh Mục Rossi De Gasperis, SJ viết: Trong lịch sử hiện đại mặc dù chiến tranh lạnh đã chấm dứt trên thế giới, nhưng Đại Hàn vẫn còn là vùng ghi đậm dấu vết hậu qủa của nó với chiến tranh Triều tiên và sự kiện đất nước chia đôi lấy vĩ tuyến 38 làm ranh giới. Ngày 15 tháng 8 năm 1948 Cộng Hòa Nam Hàn khai sinh, trong khi ngày mùng 9 tháng 9 cùng năm, Bắc Hàn được tuyên bố là Cộng hòa dân chủ nhân dân Bắc Hàn. Ngày 25 tháng 5 năm 1950 Bắc Hàn xâm lăng Nam Hàn. Chiến tranh mau chóng trở thành toàn diện và bị quốc tế hóa với sự tham dự của Hoa Kỳ trợ giúp Nam Hàn, và Trung Quốc yểm trợ Bắc Hàn. Ba năm nội chiến đã khiến cho khoảng 400 ngàn người dân Nam Hàn bị giết, 55,000 lính Mỹ thiệt mạng và khoảng 1 triệu người dân Bắc Hàn và Trung quốc chết và bị thương. Ngày 27 tháng 7 năm 1953 Liên Hiệp Quốc chấp nhận nghị quyết chia đôi Triều Tiên lấy vĩ tuyến 38 làm ranh giới và là vùng phi quân sự. Nó là “bức tường Berlin của Á châu” ngăn cách và phân rẽ hàng trăm ngàn gia đình “người bắc kẻ nam”.

Trong hơn nửa thế kỷ qua chế độ cộng sản vô thần Bắc Hàn đã tiêu diệt tôn giáo. Giáo Hội Công Giáo không còn linh mục, tu sĩ nam nữ và giáo dân nữa. Tuy nhiên, Giáo Hội Nam Hàn đã không bao giờ coi bức tường ngăn cách hiện hữu, và đã liên tục dấn thân hoạt động cho việc thống nhất đất nước, qua các công tác bác ái cứu trợ nhân dân Bắc Hàn, đặc biệt là cứu đói.

Hội Đồng Giám Mục Nam Hàn đã thành lập một Ủy ban hòa giải nhắm nhiều mục đích khác nhau. Cha Timoteo Lee Eun-Hyung thành phần Ủy ban cho biết ngoài việc rao truyền Tin Mừng cho Bắc Hàn là nơi không có tự do tôn giáo, Ủy ban tìm mọi cách để trao đổi tin tức giữa hai miền, cũng như chia sẻ tình yêu thương liên đới, trong đó có việc trợ giúp các anh chị em Bắc Hàn định cư tại Nam Hàn. Ngoài ra còn có việc cầu nguyện chung. Gần biên giới có vài giáo xứ, trong đó vào mỗi ngày thứ tư tín hữu tụ tập nhau cầu nguyện cho người dân Bắc Hàn.

Hồi tháng 5 vừa qua ĐHY Andrew Yeom Soo-Jung, TGM Seoul đã sang thăm vùng kỹ nghệ Kaesong nằm trên đất Bắc Hàn. Đây là vùng có các hãng xưởng kỹ nghệ tạo công ăn việc làm cho 55,000 dân Bắc Hàn và là vùng đầu tư rất có triển vọng trong tương ái, đặc biệt khi hai miền Nam Bắc Hàn thống nhất với nhau. Hiện nay Nam Hàn là quốc gia phát triển kỹ nghệ đứng hàng thứ 11 trên thế giới. Nếu từ đây cho tới năm 2015 hai miền Bắc và Nam Hàn có thể thống nhất, thì với 70 triệu dân Đại Hàn vào năm 2050 Đại Hàn sẽ cỏ thể trở thành cường quốc kỹ nghệ thứ 8, vượt cả Đức và Anh quốc và với lợi tức đầu người lớn hơn của cả Nhật Bản. Vì thế chuyến viếng thăm mục vụ của Đức Thánh Cha Phanxicô vào trung tuần tháng 8 này sẽ có thể góp phần mở ra các viễn tượng mới đầy hy vọng cho cả hai miền Bắc và Nam Hàn. (SD 4-8-2014. R.Vatican).

Đây là bài phỏng vấn linh mục Hur Young-Up phát ngôn viên tổng giáo phận Seoul.

Hỏi: Thưa cha, cha có cảm nghĩ gì về chuyến công du sắp tới của ĐTC tại Nam Hàn?

Đáp: Giáo Hội Đại Hàn là Giáo Hội đầu tiện tại Á châu được Đức Thánh Cha Phanxicô viếng thăm. Qua biến cố ý nghĩa này Giáo Hội Đại Hàn trở thành cánh cửa rao giảng Tin Mừng tại Á chậu. Đức Thánh Cha đến Nam Hàn như là một chủ chăn để gặp gỡ dân chúng và gặp gỡ giới trẻ Á châu. Chúng ta có thể nói rằng Đại Hàn là quốc gia biểu tượng cho các nhu cầu của hòa bình và hòa giải. Vì thế, chuyên viếng thăm của Đức Thánh Cha có thể mang lại một sứ điệp quan trọng của niềm hy vọng và hoa bình cho đất nước chúng tôi.

Hỏi: Người dân Đại Hàn nghĩ gì về Đức Thánh Cha Phanxicô, thưa cha?

Đáp: Không phải chỉ có các tín hữu công giao mà tất cả mọi người dân Đại Hàn đều thích Đức Thánh Cha Phanxicô. Chúng tôi qúy trọng các kiểu cách thân thiện và sự đơn sơ của ngài, chúng tôi đanh giá cao kiểu ngài lo lắng cho cho người mghèo và những người bị gạt bỏ bên lề xã hội. Toàn dân Đại Hàn nóng lòng chờ được gặp gỡ Đức Thánh Cha Phanxicô.

Hỏi: Việc chuẩn bị đón tiếp Đức Thánh Cha tiến hành như thế nào thưa cha?

Đáp: Cùng với Giáo Hội chính quyền của chúng tội cũng ủng hộ việc chuẩn bị cho chuyên công du mục vụ này của Đức Thánh Cha Phanxicô. Vì thế tôi tin rằng các chuẩn bị bên ngoài cũng như bên trong đều quan trọng. Chuyến viếng thăm của Đức Thnah Cha không chỉ là một dịp đặc biệt cho Giáo Hội, mà cũng là một cơ may quan trọng cho các cuộc cải cách nội bộ và công tác rao truyền Tin Mừng nữa.

Hỏi: Thưa cha, cách đây 25 năm, hồi năm 1989, Đức Gioan Phaolô II đã viếng thăm Nam Hàn lần thứ hai. Đâu là các hoa trái của chuyến viếng thăm đó?

Đáp: Chuyến viếng thăm của Đức Gioan Phaolô II đã đem lại các kết qủa tích cực cho Giáo Hội Đại Hàn. Giáo Hội đã được biết tới nhiều hơn trong xã hội và đã gây được ấn tượng tốt nơi người dân.

Hỏi: Tiến trình tục hóa liện quan tới Nam Hàn cũng giống như tại tất cả mọi quốc gia kỹ nghệ. Giáo Hội Nam Hàn đã trả lời ra sao?

Đáp: Ngày nay đất nước chúng tôi bị ảnh hưởng nặng nề của ý thức hệ chủ thuyết duy vật, cá nhân chủ nghĩa, tục hóa, và vô cảm tôn giáo. Bên trong Giáo Hội cũng có cùng vấn đề đó. Vì thế thật là điều quan trọng, khi Giáo Hội tìm ra các con đường mới và các phương thức mới để đương đầu với các vấn đề như thế. Tôi tin rằng đó là một nhiệm vụ quan trọng và là một mục tiêu đói với việc rao giảng Tin Mừng.

Hỏi: Các tín hữu Nam Hàn có sẵn sàng đương đầu với thách đố của công tác rao truyền Tin Mừng mới hay không?

Đáp: Tái truyền giảng Tin Mừng là một phương pháp mới giúp chúng ta canh tân đức tin của mình trong thế giới thay đổi nhanh chóng này. Thật là quan trọng việc chính Giáo Hội thay đổi trước để đi ra hướng về thế giới, và phổ biến Tin Mừng qua các phương tiện mới và với các kết qủa mới. Con đường Giáo Hội Đại Hàn phải đi còn dài, nhưng chúng tôi đang làm tốt chừng nào có thể để biến đổi việc rao giảng Tin Mừng thành hành động.

Hỏi: Chúng ta nhớ là Tin Mừng đã được phổ biến tại Đại Hàn năm 1700, có phải thế không thưa cha?

Đáp: Vâng, đạo Công Giáo đã được đem vào trong đất nước chúng tôi sau khi các sách Công Giáo được dịch ra tiếng Đại Hàn, và các học sinh đại hàn bắt đầu học. Tiếp theo đó các tín hữu thành lập các cộng đoàn Công Giáo và rao giảng đức tin của họ cho các người khác. Như thế điều đặc biệt nhất của Giáo Hội Đại Hàn là nó đã bắt đầu qua các giáo dân, chứ không qua các thừa sai. Giáo Hội Đại Hàn đã chịu nhiều bách hại ngay lập tức. Nhưng cha ông chúng tôi đã duy trì được đức tin của họ, và tiếp tục phổ biến tin vui của Chúa Giêsu Kitô.

Hỏi: Thưa cha, đâu là dấn thân của Giáo Hội cho việc thống nhất đất nước?

Đáp: Đây là sứ mệnh của Giáo Hội Đại Hàn: làm việc cho hòa giải và thống nhất đất nước chúng tôi. Tôi tin rằng việc yểm trợ nhân đạo và các cuộc đối thoại chân thành là điều cần thiết nhất. Giáo Hội đã tiếp tục yểm trợ nhân đạo cả khi tương quan giữa Bắc và Nam Hàn căng thẳng.

Hỏi: Liên quan tới việc tái thống nhất đất nước việc đối thoại liên tôn có tầm quan trọng nào giúp đạt mục đích này không?

Đáp: Đối thoại liên tôn là một vấn đề quan trọng, nhưng không liên quan gì tới các mục tiêu chính trị. Tôi nghĩ rằng thật là một điều hay đẹp, khi con người thuộc nhiều tôn giáo khác nhau hiểu biết nhau và trân trọng vẻ đẹp mà mội tôn giáo đã đem đến cho con người.(RG 16-7-2014; vietvatican.net).

Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

Sứ điệp Video của Đức Thánh Cha gửi nhân dân Hàn Quốc

Sứ điệp Video của Đức Thánh Cha gửi nhân dân Hàn Quốc

VATICAN. ĐTC Phanxicô mời gọi các tín hữu Hàn Quốc đón nhận ánh sáng của Chúa Kitô và biểu lộ trong đời sống thường nhật.

Ngài đưa ra lời mời gọi trên đây trong sứ điệp Video gửi nhân dân Hàn quốc được đài truyền hình KBS và nhiều cơ quan truyền thông khác ở Hàn Quốc phổ biến. ĐTC nói:

”Anh chị em thân mến!

”Trong vài ngày nữa, với ơn Chúa giúp, tôi sẽ ở giữa anh chị em ở Hàn Quốc. Ngay từ bây giờ tôi cảm ơn anh chị em vì sự tiếp đón và mời gọi anh chị em cùng cầu nguyện với tôi, để cuộc tông du này mang lại những thành quả tốt đẹp cho Giáo Hội và xã hội Hàn Quốc.

”Hãy trỗi dậy và chiếu sáng!” (Is 60,1): với những lời mà vị Ngôn Sứ nói với thành Jerusalem, tôi cũng ngỏ lời với anh chị em. Chính Chúa mời gọi anh chị em đón nhận ánh sáng của Chúa, đón nhận trong tâm hồn và phản chiếu ánh sáng ấy trong một cuộc sống đầy niềm tin, cậy, mến, đầy niềm vui Phúc Âm”.

”Như anh chị em biết, tôi đến nhân dịp Ngày Giới Trẻ Á châu lần thứ 6. Tôi sẽ đặc biệt mang đến cho các bạn trẻ lời kêu gọi của Chúa: ”Hỡi giới trẻ Á châu, hãy trỗi dậy! Vinh quang của các vị tử đạo chiếu sáng trên các bạn”. Ánh sáng của Chúa Kitô phục sinh chiếu tỏa như qua một gương soi trong chứng tá của Phaolô Duẫn Trì Trung (Yun Ji-chung) và 123 bạn chịu chết vì đức tin, mà tôi sẽ tôn phong chân phước ngày 16-8 tới đây tại Hán Thành.

”Các bạn trẻ là những ngừơi mang hy vọng và nghị lực cho tương lai; nhưng họ cũng là những nạn nhân của cuộc khủng hoảng luân lý và tinh thần thời nay. Vì thế tôi muốn loan bao cho họ và tất cả mọi người danh duy nhất trong đó chúng ta có thể được cứu thoát: danh Chúa Giêsu.

”Anh chị em Hàn quốc thân mến, niềm tin nơi Chúa Kitô đã ăn rễ sâu nơi đất anh chị em và mang lại hoa trái dồi dào. Những người cao niên là những người giữ gìn gia sản ấy: nếu không có họ thì người trẻ sẽ không có ký ức. Cuộc gặp gỡ giữa người cao niên và người trẻ là bảo đảm hành trình của dân tộc. Và Giáo Hội là đại gia đình trong đó tất cả chúng ta là anh chị em với nhau trong Chúa Kitô. Nhân danh Chúa, tôi đến nơi anh chị em, trong niềm vui được chia sẻ với anh chị em Tin Mừng tình thương và hy vọng.

Xin Chúa chúc lành cho anh chị em và xin Đức Mẹ bảo vệ anh chị em” (SD 11-8-2014)

G. Trần Đức Anh OP
– Vatican Radio

 

Đức Hồng Y Filoni, Đặc Sứ của Đức Thánh Cha lên đường sang Iraq

Đức Hồng Y Filoni, Đặc Sứ của Đức Thánh Cha lên đường sang Iraq

ROMA. Hôm 11-8-2014, ĐHY Fernando Filoni, Tổng trưởng Bộ truyền giáo, đã lên đường sang Iraq, trong tư cách là Đặc Sứ của ĐTC để bày tỏ tình liên đới của Ngài với các nạn nhân, đặc biệt là các tín hữu Kitô bị trục xuất trong những ngày này.

ĐHY Filoni đã từng là Sứ thần Tòa Thánh tại Irak trong thời chiến tranh hồi năm 2003 và sau đó làm Phụ Tá Quốc vụ khanh Tòa Thánh.

Chiều chúa nhật 10-8-2014, ĐTC đã tiếp kiến ĐHY Filoni và đưa ra những chỉ dẫn cho sứ mạng của ĐHY, đồng thời cũng trao một số tiền lớn để góp phần cứu trợ cấp thời cho các nạn nhân, như dấu chỉ tình liên đới cụ thể, tham gia những cố gắng của các tổ chức và những người thiện chí để đáp ứng tình trạng thê thảm này.

Tuyên bố với Đài Vatican trước khi lên đường, ĐHY Filoni nhắc lại rằng ĐTC đã nhiều lần bày tỏ sự nhạy cảm của Ngài trước tình trạng rất khó khăn ở Iraq, đối với bao nhiêu các tín hữu Kitô và những nhóm dân thiểu số tại đây. Người ta nói có thể số người bị trục xuất lên tới 1 triệu người, họ đang tìm nơi an toàn để sống và xây dựng tương lai.

ĐHY Filoni cho biết sứ mạng của ngài là khích lệ, mang lại tín thác, trợ giúp về tinh thần và tâm lý. Ngài cảm thấy rằng các tín hữu Kitô ở Iraq, sau bao nhiêu khó khăn, có thể nghĩ rằng đây không còn là đất nước của họ nữa. Theo truyền thống, Iraq vốn là một nước trong đó có rất nhiều thực tại cùng chung sống, đó là một đất nước hiếu khách và trong lịch sử, qua bao thế kỷ, các nhóm thiểu số và đa số vẫn sống chung với nhau tại đất nước này. Vì thế, thật là một điều uổng nếu ngày nay sự phong phú ấy bị mất đi.

ĐHY Filoni cũng nói rằng sự hiện diện của ngài tại Irak nhắm khích lệ các tín hữu Kitô, để nói với họ rằng có một tương lai đối với họ. ”Tôi xác tín rằng chính quyền sẽ làm tất cả những gì có thể để các tín hữu Kitô ấy có thể sống an toàn, có tương lai và an ninh. Nhưng họ cũng phải cảm thấy rằng Giáo Hội hoàn vũ ở với họ, không bỏ rơi họ, coi họ là quí giá tại phần đất này, nếu họ tự tín và tin gưỡng nơi những quan hệ mà họ có thể thiết lập với những người khác”.

Sau cùng, ĐHY Tổng trưởng Bộ truyền giáo khẳng định rằng sứ mạng của ngài cũng nhắm gây ý thức nơi chính quyền, khuyến khích họ quan tâm đến các thành phần này trong dân chúng, đồng thời tìm cách giúp đỡ những người dân này một cách cụ thể trong hoàn cảnh hiện nay cũng như trong tương lai gần đây. ĐHY cũng muốn cám ơn tất cả những người, từ chính quyền, tới các tổ chức của Giáo Hội và ngoài Giáo Hội, cũng như tất cả những người đang cứu giúp dân chúng Iraq” (SD 11-8-2014).

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

ĐỨC HỒNG Y THÉODORE ADRIEN SARR CA NGỢI VAI TRÒ QUAN TRONG CỦA NỮ GIỚI TRONG GIÁO HỘI

ĐỨC HỒNG Y THÉODORE ADRIEN SARR CA NGỢI VAI TRÒ QUAN TRONG CỦA NỮ GIỚI TRONG GIÁO HỘI

DAKAR: Đức Hồng Y Théodore Adrien Sarr, Tổng Giám Mục Dakar Senegal, đã ca ngợi vai trò quan trọng không thể chối cãi được của nữ giới trong cộng đoàn kitô, như vai trò của bà mẹ trong gia đình.

Đức Hồng Y đã nhấn mạnh như trên trong thánh lễ cử hành tại giáo xứ thánh Maria Madalena. Ngài khích lệ chị em phụ nữ hãy nhận lấy chỗ của họ trong cộng đoàn, và cầu mong Giáo Hội thừa nhận họ trong sự thật và công bằng. Vì cộng đoàn giáo xứ cần sự hăng say, các sáng kiến, và niềm vui của họ làm chứng cho tình yêu Chúa đối với Chúa Giêsu Kitô. Việc xây dựng một Giáo Hội cộng đoàn gia đình của Thiên Chúa sẽ không thành công, nếu thiếu trực giác hiền mẫu và lo lắng của nữ giới. Đức Hồng Y Sarr cũng tố cáo các thái độ kỳ thị xã hội, văn hóa, phái tính đối với nữ giới trong tực tại cuộc sống giáo xứ, dựa trên các suy xét xấu và cằn cỗi. Ngài mời gọi mọi người thừa nhận vai trò của nữ giới trong việc linh hoạt các hội đoàn, các phong trào và các nhóm khác nhau trong giáo xứ, giáo phận, và thăng tiến sư cộng tác và tình liên đới huynh đệ trong việc xây dựng cuộc sống cộng đoàn (SD 7-8-2014).

Linh Tiến Khải – Vatican Radio