Kỷ niệm 170 năm Đức Mẹ hiện ra tại La Salette

Kỷ niệm 170 năm Đức Mẹ hiện ra tại La Salette

Our Lady Of Salette

LA SALETTE. Hôm 19-3-2016, Đền thánh Đức Mẹ La Salette bên Pháp đã kỷ niệm đúng 170 năm Đức Mẹ hiện ra với 2 mục đồng tại đây.

 Ngày 19-3 năm 1846, Đức Mẹ đã hiện ra với hai thiếu niên Mélanie Calvat 15 tuổi và Maximin Giraud 11 tuổi trên núi gần làng La Salette-Fallavaux ở cao độ 1800 mét. Đức Mẹ được ánh sáng bao phủ, đang khóc và ngồi trên táng đá, hai tay ôm đầu, Mẹ đứng lên, gọi và trao cho hai thiếu niên một sứ điệp mời gọi Dân Chúa hãy thành tâm hoán cải.

 Nhân lễ kỷ niệm, tại Đền thánh Đức Mẹ La Salette có nghi thức mở cửa Năm Thánh trong vòng 6 tháng, cho đến ngày 13-11 năm nay. Đền thánh cách thủ đô Paris khoảng 650 cây số về hướng đông nam.

 Trong cuộc phỏng vấn dành cho Đài Vatican, Cha Silvano Marisa, Bề trên tổng quyền dòng thừa sai La Salette, nói rằng: ”Sứ điệp vừa nói của Đức Mẹ muốn đánh động lương tâm của Dân Chúa, và Mẹ Maria xuất hiện như vị sứ giả của Thiên Chúa để nhắc nhớ dân về lòng trung thành, về ơn gọi Kitô mà họ đã lãnh nhận khi chịu phép rửa tội.

 Cha Marisa cũng nhận định rằng: ”Quả là một điều thật đẹp khi thấy Đức Mẹ bắt đầu bằng cách mời gọi hai thiếu niên đến gần. Đó cũng là sứ điệp của Năm Thánh Lòng Thương Xót hiện nay, sứ điệp của một vị Thiên Chúa có một trái tim bao la đến độ Ngài không thể giữ cho mình, nhưng muốn thông truyền tình thương của Ngài cho tha nhân. Và Mẹ Maria có công tác giúp người người cởi mở tâm hồn với Thiên Chúa. Mẹ Maria đã tập trung sứ điệp của Mẹ vào chính Chúa Kitô. Hai thiếu niên kể lại: Thánh Giá mà Mẹ mang trên ngực sáng ngời như thể là Thánh Giá sống động…”

 Dòng thừa sai La Salette hiện nay có 950 tu sĩ tại 29 nước trên thế giới, và Cha Marisa nói: Sự hiện diện của chúng tôi muốn là một yếu tố rất đơn sơ, khiêm tốn, phục vụ sự hòa giải. Nơi nào dân Chúa sống, chịu đau khổ, nơi đó chúng tôi muốn hiện diện với lời mạnh mẽ kêu goi hoán cải, dựa trên sứ điệp chúng tôi đã nhận lãnh từ Đức Mẹ La Salette” (RG 20-3-2016)

 G. Trần Đức Anh OP

Một cái nhìn thoáng qua về các nữ tu “Áo đỏ” ở Thái lan

Một cái nhìn thoáng qua về các nữ tu “Áo đỏ” ở Thái lan

Red Nuns - redemptoristine-nuns

Một nhóm các nữ tu dòng kín Hoa kỳ đã lập một đan viện mới ở Bangkok để mang tinh thần chiêm niệm của họ đến vùng đông bắc Thái lan. Nữ tu Joan Claver, đã khấn dòng 63 năm, bề trên và sáng lập của đan viện mới, nói với báo Catholic News Agency rằng: “ Đóng góp của chúng tôi cho nhu cầu của thế giới là sự cầu nguyện.” Chị giải thích là các nữ tu cũng rất yêu mến các công việc tông đồ như giảng dạy, chăm sóc y tế hay cuộc sống gia đình, nhưng các nữ tu dòng Chúa Cứu Thế được gọi sống ơn gọi đặc biệt trong cuộc sống cầu nguyện chiêm niệm. Tất cả cùng đóng góp để xây dựng một xã hội và thế giới tốt đẹp hơn. Hiện giờ cộng đoàn của họ có 5 thành viên: 4 nữ tu và 1 thỉnh sinh.

Trước đó, vào năm 2011, một vài nữ tu của dòng Chúa Cứu Thế ở St. Louis, Missouri đã đến Thái lan để tìm hiểu xem có thể gieo mầm cho đan viện sống tinh thần chiêm niệm trong vùng này không.

Các nữ tu Chúa Cứu Thế được biết cách thân thiên như các sơ “Áo đỏ” bởi vì tu phục truyền thống của các chị màu đỏ đậm. Các chị cũng mang khăn choàng vai và áo choàng màu xanh biển với một huy hiệu màu có hình Chúa Cứu Thế. Thắt lưng của các chị có tràng hạt 150 với ảnh tượng in nổi các biểu tượng của cuộc thương khó của Chúa Giê su. Những yếu tố chính trong tinh thần chiêm niệm của các sơ “Áo đỏ” là: Thánh vịnh, cầu nguyện, chầu Thánh Thể và thinh lặng. Các sơ dùng mọi giây phút hoạt động trong cuộc sống của mình để cầu nguyện từ sáng đến tối. Ngay cả công việc nhà của họ cũng nối kết với cầu nguyện.

Nữ tu Maria Suphavadi Kamsamran, người Thái, cho biết: “Chúng tôi sống cầu nguyện mọi giây phút từ khi thức giấc cho đến khi nghỉ đêm. Các cuộc suy niệm của chúng tôi trải dài từ thời thơ ấu của Chúa Giêsu đến cuộc thương khó trên Thánh giá, và Thánh thể là nguồn sống thiêng liêng của chúng tôi.” Chị cám ơn Chúa và giáo phận Nakhon Ratchasima đã trợ giúp các chị trong sứ vụ cầu nguyện. Đan viện mới có một nhà nguyện riêng, các phòng cho các sơ và nhà cơm; nhiều phần của tòa nhà vẫn chưa được trang bị hoàn tất.

Giáo phận Nakhon Ratchasima giúp cho các nữ tu khu đất rộng hơn 3 mẫu tây ở trung tâm của thành phố Korat, cách Bangkok khoảng 136 dặm. Giáo phận và các nhà tài trợ khác đã giúp thành lập nữ đan viện chiêm niệm trong giáo phận. Đức cha Joseph Chusak Sirisut đã chủ sự Thánh lễ tạ ơn cho đan viện vào ngày 31/10/2015. Ngài làm phép đan viện với sự hiên diên của các nữ tu Chúa Cứu Thế người Hoa kỳ, các Linh mục dòng Chúa Cứu Thế Thái lan, các tu sĩ và giáo dân. Đức cha Chusak nói với báo Catholic News Agency rằng: “Tôi muốn giáo phận cũng trở thành trung tâm của cầu nguyện”. Đức cha giải thích là mỗi giáo phận cần có ít nhất một dòng chiêm niệm, và các nữ tu áo đỏ đã điền vào điều còn thiếu này của giáo phận. Ngài nói các sơ sẽ là “ngọn hải đăng cầu nguyện” mang lại sinh lực cho khu vực, làm chứng cho niềm hi vọng, và khuyến khích đời sống cầu nguyện cho vùng này.

Đức cha Chusak cũng là người đứng đầu cho những nỗ lực đối thoại liên tôn của các Giám mục Công giáo Thái lan. Đức cha cho biết phần lớn dân chúng người Phật giáo của Thái lan dành sự ngưỡng mộ và kính trọng cho các hoạt đông mục vụ và tông đồ của Công giáo trong các lãnh vực giáo dục, phục vụ xã hội và bác ái. Những nỗ lực này được thực hiện bởi các dòng truyền giáo khác nhau. Đức cha nói thêm:”Các tín hữu Phật giáo và tôn giáo khác ở đây thường thấy các nữ tu hoạt động, nhưng họ cũng sẽ thấy những nữ tu cầu nguyện không ngừng; mọi người sẽ được biết đời sống thinh lặng chiêm niệm đan tu của chúng ta.”

Dòng các nữ tu Chúa Cứu Thế được thành lập bởi đấng đáng kính Maria Celeste Crostarosa vào năm 1731 với sự trợ giúp của thánh Alphonso Liguri, đấng sáng lập dòng Chúa Cứu Thế. Quy luật của dòng được Đức Thánh Cha Biển Đức XIV phê chuẩn vào năm 1771. Đức Thánh Cha Phanxicô đã phê chuẩn việc phong chân phước cho Mẹ Maria Celeste Crostarosa, và việc phong chân phước được dự kiến vào ngày 18/06/2016. (CAN 18/03/2016)

Hồng Thủy OP

 

Anh em hãy nhìn vào Thánh Giuse giữa cuộc khủng hoảng

Anh em hãy nhìn vào Thánh Giuse giữa cuộc khủng hoảng

Thánh Giuse, đấng bảo vệ sự sống và quan thầy của hôn nhân

Trong lá thư gửi cho các người cha Ki tô giáo vào dịp lễ thánh Giuse, Đức cha Philip Egan, giám mục giáo phận Portsmouth, Anh quốc, đã khuyến khích các người cha trong gia đình nhìn vào thánh Giuse như mẫu gương và đấng bầu cử cho mình.

Đức cha nhận định rằng: “Không phải là phóng đại khi nói vai trò của người cha đang gặp khủng hoảng”. Ngài đã đưa ra tỉ lệ thống kê cho thấy, cứ 10 cuộc kết hôn thì có tới 4 vụ ly dị, và có trên một triệu trẻ em ở Anh lớn lên mà không có liên lạc với cha của mình.

Đức cha  đã nói về vai trò quan trọng của thánh Giuse đối với Thánh gia như: Ngài đã bế hài nhi Giêsu, chơi đùa với Giêsu trong những ngày thơ ấu, nâng đỡ chàng thanh niên Giêsu khi vừa lớn, Ngài còn giúp Giêsu có một vị trí trong xã hội và học cho biết giá trị của lao động. Đức cha kết luận, thánh Giuse là tấm gương huớng dẫn Giêsu trở thành một người đàn ông đích thực. Đức cha còn nhấn mạnh: “Trên hết, qua việc hi sinh mối quan hệ cha con một cách sâu xa của thánh Giuse, Chúa Giê su đã nhìn thấy hình ảnh tươi đẹp và sáng láng của Cha trên trời.”

Đức cha cũng nhắc lại rằng mọi người nam đều được mời gọi trở nên những người cha, dù họ có con về phần máu mủ hay không. Nhưng ngài cũng cho thấy một thực tế là đang có một cuộc cách mạng đang làm mất đi truyền thống văn hóa và tôn giáo của gia đình, đó là mối quan hệ yêu thương, giao ước một vợ một chồng giữa một người nam và một người nữ với mục đích sinh sản nuôi nấng con cái.

Trích lời Đức Thánh Cha Phanxicô, Đức cha Philip Egan nói rằng việc loại bỏ ý tưởng truyền thống này đã mang đến những tàn phá tinh thần và vật chất cho biết bao con người, đặc biệt là những người nghèo khổ và dễ bị tôn thương. Ngài cũng nói thêm là xã hội cần nghe Tin mừng của Chúa Kitô về sự bổ sung giữa người nam và người nữ, về ơn gọi của hôn nhân, và về niềm vui của đời sống gia đình Kitô.

Ngài nối kết những vấn đề này với cuộc đối đầu giữa hai triết lý của cuộc sống, hai cách hiểu khác nhau về con người: chúng ta có thật sự chỉ là những động vật cao cấp, những cỗ máy sinh học, đồ vật được sẩn xuất cho thú vui, lợi lộc, quyền lực? Hay chúng ta khác biêt cách căn bản, là những con người  được tôn trọng, những thụ tạo giới hạn, con người với phẩm giá và ơn gọi? Ngài kết luận: “trong cuộc chiến này, thánh Giuse, đấng bảo vệ sự sống và quan thầy của hôn nhân, là ánh sáng rực rỡ và mẫu gương sáng chói.

Ngài cũng đề nghị các gia đình, bên cạnh việc cầu nguyện với thánh Giuse cũng nên giữ một bức ảnh của ngài trong gia đình, tổ chức “bàn tiệc thánh Giuse” cho những người nghèo hay những người đi đường, hay cầu nguyện vói Ngài khi đi đường: “lạy thánh Giuse, xin gìn giữ chúng con”. (Catholic Herald 19-03-2016)

Hồng Thủy OP

ĐTC cử hành Lễ Lá và đọc Kinh Truyền Tin với hơn 100,000 tín hữu

ĐTC cử hành Lễ Lá và đọc Kinh Truyền Tin với hơn 100,000 tín hữu

ĐTC Phanxicô chào tín hữu sau thánh lễ và Kinh Truyền Tin trưa Chúa Nhật Lễ Lá 20-3-2016

Lựa chọn con đường của Chúa Giêsu, là con đường phục vụ, tha thứ, quên mình

ĐTC Phanxicô đã khích lệ tín hữu và du khách hành hương tham dự thánh lễ cử hành lúc 9 giờ rưỡi sáng hôm qua Chúa Nhật Lễ Lá mở đầu Tuần Thánh, tại quảng trường thánh Phêrô.

Nghi thức làm phép lá đã diễn ra tại chân bút tháp giữa quảng trường. Mở đầu nghi thức ĐTC nói: Anh chị em thân mến, cuộc hội họp phụng vụ này mở đầu lễ Phục Sinh của Chúa, mà chúng ta đang chuẩn bị cử hành với sự sám hối và các việc bác ái ngay từ đầu Mùa Chay. Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem để thành toàn mầu nhiệm cái chết và sự phục sinh của Ngài.

Chúng ta hãy đồng hành với Chúa Cứu Thế của chúng ta trong biến cố vào thành thánh với đức tin và lòng đạo hạnh, và xin ơn theo Ngài cho tới thâp giá để tham dự vào sự sống lại của Ngài. Tiếp đến Phó tế công bố Tin Mừng theo thánh Luca kể lại biến cố Chúa vào thành thánh, rồi mọi người đi rước lá. Đi đầu là Thánh Giá nến cao và giới trẻ Roma tay cầm cành lá dừa, tiếp đến là các Hồng Y, Tổng Giám Mục và Giám Mục đồng tế cầm các cành lá dừa bện thành hoa, trong khi khoảng 60.000 tín hữu tay cầm các cành ô liu. Hàng trăm linh mục đồng tế đứng sẵn bên phải khán đài nơi ĐTC chủ sự thánh lễ.

Bài đọc thứ nhất bằng tiếng Anh, Thánh vịnh được hát bằng tiếng Ý, bài đọc hai bằng tiếng Ba Lan và Phúc Âm được ba phó tế tuyên đọc bằng tiếng Ý, có ca đoàn phụ họa.

Giảng trong thánh lễ ĐTC đã mời gọi mọi người lựa chọn con đường của Chúa Giêsu, là con đường phục vụ, tha thứ, quên mình. Chúng ta có thể bước đi trên con đường này bằng cách dừng lại ngắm nhìn Đấng Bị Đóng Đinh, “ngai tòa của Thiên  Chúa”, để học biết tình yêu khiêm tốn, cứu rỗi và trao ban sự sống, để từ bỏ ích kỷ, kiếm tìm quyền bính và danh vọng.

Gợi lại biến cố Chúa vào thành thánh ĐTC nói:

Phải, như Ngài đã vào thành Giêrusalem, Chúa ước ao bước vào trong các thành phố và cuộc sống của chúng ta. Như Ngài đã làm trong Phúc Âm, cỡi trên một con lừa, Ngài đến với chúng ta một cách khiêm tốn, nhưng đến “nhân danh Chúa”: với quyền năng tình yêu thiên chúa Ngài tha thứ tội lỗi chúng ta và giao hoà chúng ta với Thiên Chúa Cha và với chính chúng ta… Không gì có thể ngăn chận sự hứng khởi đối với biến cố Chúa Giêsu vào thành thánh: không gì có thể ngăn cản chúng ta tìm thấy nơi Ngài suối nguồn niềm vui của chúng ta, niềm vui đích thật tồn tại và trao ban an bình; bởi vì chỉ có Chúa Giêsu cứu thoát chúng ta khỏi các ràng buộc của tội lỗi, cái chết, sự sợ hãi và sự buồn sầu.

Tuy nhiên, phụng vụ hôm nay còn dậy cho chúng ta biết rằng Chúa đã không cứu chúng ta với việc chiến thắng vào thành hay với các phép lạ quyền năng. Chúa Giêsu đã “dốc đổ” chính mình: Ngài khước từ vinh quang của Con Thiên Chúa và trở thành Con của loài người, để hoàn toàn liên đới với chúng ta là những người tội lỗi, Ngài là Đấng vô tội. Không chỉ có thế, Ngài đã sống giữa chúng ta trong một “điều kiện của nô lệ”: không phải như là vua, cũng không phải là ông hoàng, nhưng là nô lệ. Vì thế Ngài đã hạ mình, và vực thẳm sự hạ mình của Ngài, mà Tuần Thánh cho chúng ta thấy, xem ra không có đáy.

Tiếp tục bài giảng ĐTC nói cử chỉ khiêm hạ đầu tiên là Chúa Giêsu là Chúa và là Thầy mà lại hạ mình rửa chân cho các môn đệ như chỉ có các đầy tớ mới làm. Chúng ta không thể làm khác , chúng ta không thể yêu thương mà không để cho Ngài yêu thương chúng ta trước, mà không sống kinh nghiệm sự hiền dịu gây kinh ngạc của Ngài, mà không chấp nhận rằng tình yêu thật là ở việc phục vụ cụ thể. Nhưng sự hạ mình Chúa Giêsu chịu trong cuộc Khổ Nạn đi tới chỗ tột độ: bị bán với 30 đồng bạc và bị phản bội bởi một môn đệ Ngài đã chọn và gọi là bạn. Hầu như tất cả các môn đệ khác trốn chạy và bỏ rơi Ngài; Phêrô chối Ngài ba lần. Bị hạ nhục trong tâm hồn với các chế nhạo, xỉ vả, và khạc nhổ, Ngài chịu các bạo lực tàn ác trên thân xác: các đánh đập, đòn vọt và mạo gai khiến cho diện mạo của Ngài không thể được nhận ra được nữa. Ngài chịu sự nhục nhã và kết án gian ác từ phía các quyền bính tôn giáo và chính trị: Ngài đã tự biến thành tội lỗi và bị coi là bất chính. Thế rồi quan Philatô gửi Ngài qua cho vua Hêrôđê và ông này lại gửi Chúa trở lại cho quan tổng trấn Roma: trong khi Ngài bị khước từ mọi công lý, Chúa Giêsu cũng cảm nhận trên da thịt mình sự dửng dưng, bỏi vì không ai muốn lãnh trách nhiệm đối với số phận của Ngài. Dân chúng biến các lời chúc tụng thành tiếng kêu tố cáo, thích cho một kẻ sát nhân được trả tự do cho họ hơn. Và thế là Chúa bị chết trên thập giá, là cái chết đớn đau và hổ nhục nhất dành cho các kẻ phản bội, nô lệ và các kẻ tội phạm tồi tệ nhất. Sự cô đơn, lời vu khống và nỗi đớn đau đạt tột đỉnh với việc lột trần Ngài ra. Để hoàn toàn liên đới với chúng ta,  trên thập giá Ngài cũng còn sống kinh nghiệm bị Thiên Chúa Cha bỏ rơi. Tuy nhiên, trong sự phó thác Ngài cầu nguyện và tín thác: “Lậy Cha, con phó thần khí con trong tay Cha” (Lc 23,46) Bị treo trên cây giá, ngoài việc bị chế nhạo, Ngài còn đương đầu với cơn cám dỗ: lời thách thức xuống khỏi thập giá, chiến thắng sự dữ với sức mạnh và cho thấy gương mặt của một thiên chúa quyền năng không thể thắng được. Trái lại, chính trên tột đỉnh sự huỷ diệt này Chúa Giêsu vén mở gương mặt thật của Thiên Chúa, là sự thương xót. Ngài tha thứ cho các kẻ đóng đinh mình, mở cửa thiên đàng cho người trộm ăn năn, và chạm tới con tim của viên quan bách quản. Nếu mầu nhiệm sự dữ sâu thẳm, thì thực tại Tình Yêu đi qua ngài vô tận, đi tới mồ và tới âm ty, lãnh nhận tất cả nỗi đớn đau của chúng ta để cứu rỗi nó, đem ánh sáng vào trong bóng tối, đem sự sống vào trong cõi chết, đem tình yêu vào nơi thù hận.

Các lời nguyện giáo dân đã được tuyên đọc bằng các thứ tiếng Tây Ban Nha, Tầu, Pháp, Swahili, và Việt Nam. Lời cầu tiếng Việt xin Chúa nhớ đến những người đang chịu sầu muôn và thử thách, mau cứu giúp họ và cho họ được nếm hưởng niềm an ủi tình bạn của Chúa.

Mấy chục linh mục đã giúp ĐTC cho tín hữu rước lễ.

Lúc 12 giờ trưa ĐTC đã đọc Kinh Truyền Tin với mọi người. Lúc này số tín hữu hiện diện tại quảng trường đã lên tới hơn 100,000.

ĐTC nói:

Tôi xin chào tất cả anh chị em đã tham dự buổi cử hành này và tất cả những ai hiệp nhất với chúng ta qua truyền hình, phát thanh và các phương tiện truyền thông khác.

Hôm nay Ngày giới trẻ quốc tế lần thứ 31 được cử hành và sẽ đạt tột đỉnh vào cuối tháng 7 tại Cracovia. Đề tài là “Phúc cho những người thương xót, vì họ sẽ được xót thương” (Mt 5,7). Tôi đặc biệt chào các bạn trẻ hiện diện tại đây và tôi gửi lời chào các bạn trẻ trên toàn thế giới. Tôi hy vọng các bạn có thể đông đảo đến Craccovia, quê hương của thánh Gioan Phaolô II, là người đã bắt đầu các Ngày Quốc Tế Giới Trẻ. Chúng ta hãy tín thác các tháng  cuối cùng chuẩn bị cuả cuộc hành hương này cho lời bầu cử của ngài, cuộc hành hương trong bối cảnh Năm Thánh Lòng Thương Xót, sẽ là Năm Thánh của giới trẻ trên bình diện của Giáo Hộị đại đồng.

Cùng ở đây với chúng ta có các bạn trẻ Cracovia. Khi về nhà họ sẽ đem cho các vị hữu trách các cành ô liu được hái tại Giêrusalem, Assisi và Montecassino và được làm phép tại quảng trường này, như lời mời gọi vun trồng các ý hướng hòa bình, hòa giải và tình huynh đệ. Xin cám ơn sáng kiến đẹp đẽ này. Các bạn hãy tiến tới với lòng can đảm! Giờ đây chúng ta cầu xin Đức Trinh Nữ Maria, để Mẹ giúp chúng ta sống Tuần Thánh này với tinh thần sâu đậm.

Tiếp đến ĐTC đã dọc Kinh Truyền Tin và ban phép lành toà thánh cho mọi người.

Linh Tiến Khải

Nhận xét tổng quát về Thánh Giuse trong Kinh Thánh

Nhận xét tổng quát về Thánh Giuse trong Kinh Thánh

Thánh Giuse

Nhập đề

 Có nhiều cách thức trình bày chân dung của thánh Giuse, cũng tương tự như có nhiều cách thức trình bày đức Maria. Những cuốn sách soạn để suy gẫm trong tháng ba dương lịch thường đề cao các nhân đức và phép lạ của thánh cả. Không thiếu tác phẩm được biên soạn dưới hình thức tiểu thuyết nhằm dựng lại cuộc đời gian truân của dưỡng phụ Chúa Giêsu. Về phía thần học, người ta chú trọng đến tương quan giữa thánh Giuse với Đức Mẹ (hôn nhân và khiết tịnh) hoặc so sánh đặc ân (vô nhiễm nguyên tội, hồn xác lên trời).

 Công đồng Vaticanô II đã mở ra một hướng đi mới trong thần học về đức Maria. Một đàng, thần học cần dựa trên các dữ kiện của mặc khải (Thánh Kinh và Thánh Truyền), chứ không thả hồn theo các giả thuyết; đàng khác, cần hướng đến vai trò của đức Maria trong mầu nhiệm của đức Kitô và của Hội thánh. Chương VIII của hiến chế tín lý về Hội thánh đã được soạn theo chiều hướng đó. Từ sau công đồng, khoa Thánh-mẫu-học đã tiến triển rất nhiều, cách riêng do sự thúc đẩy của đức Gioan Phaolô II. Tiếc rằng những sách viết về thánh Giuse theo phương pháp thần học vừa nói vẫn còn ít.

 Trong loạt bài này chúng tôi ước mong bổ túc phần nào sự thiếu sót đó, bằng cách trình bày vai trò của thánh Giuse trong mầu nhiệm của đức Kitô và của Hội thánh, dựa theo tông huấn Redemptoris Custos của đức thánh cha Gioan Phaolô II (ban hành ngày 15/8/1989). Hướng đi này giả thiết hai điều:

 1/ cần chú ý đến các dữ kiện của mặc khải, chứ không phải là các ngụy thư hay các mặc khải tư;

 2/ cần nêu bật vai trò của thánh Giuse trong chương trình cứu độ : ơn gọi của Người là phục vụ Chúa Cứu thế, và vì thế trở nên mẫu gương cho Hội thánh trải qua mọi thời đại tiếp tục sứ mạng thông truyền hồng ân cứu độ.

 I. THÁNH GIUSE TRONG KINH THÁNH

 Khi trình bày một nhân vật nào, người ta thường bắt đầu với một đoạn nói về tiểu sử, thân thế, sự nghiệp. Chúng ta biết gì về tiểu sử thánh Giuse ?

 Xin trả lời là các nguồn sử liệu về thánh Giuse rất hiếm. Thật ra điều này không có gì lạ, bởi vì vào thế kỷ thứ nhất của Kitô giáo các nguồn sử liệu không được phong phú. Ngay cả khi muốn viết cuộc đời Chúa Giêsu, các sử gia cũng thấy lúng túng khi muốn thu thập dữ liệu liên quan đến giai đoạn ẩn dật của Người, bởi vì các sách Tân ước không cung cấp nhiều chi tiết. Sự khó khăn này càng gia tăng khi bước sang cuộc đời của các môn đệ của Chúa.

 Riêng đối với thánh Giuse, những tài liệu lịch sử chắc chắn là các sách Tin mừng, đặc biệt là những chương đầu của Tin mừng thánh Matthêu và thánh Luca. Dù sao, khi so sánh với những tài liệu về đức Maria, chúng ta nhận thấy rằng đức Maria còn hiện diện trong giai đoạn hoạt động công khai của Chúa Giêsu, và thậm chí sau khi Chúa Phục sinh và Lên trời ; còn thánh Giuse thì không được nhắc tới nữa sau khi tìm lại Chúa Giêsu trong đền thờ lúc lên 12 tuổi.

 Để bù đắp vào những lỗ hổng đó, trong các thế kỷ đầu tiên của Kitô giáo, nhiều Tin mừng ngụy thư ra đời, nhằm mô tả chi tiết về cuộc đời thơ ấu của Chúa Giêsu, hoặc về gốc tích và việc tạ thế của Đức Mẹ và thánh Giuse. Trước đây, các tài liệu này được sử dụng khá nhiều trong các bài giảng hoặc lưu truyền dân gian. Nhưng ngày nay, giá trị của chúng đã bị xét lại từ hai khía cạnh: lịch sử và thần học. Xét về khía cạnh lịch sử, các tài liệu đó phát sinh do óc tưởng tượng hơn là dựa theo dữ kiện khách quan. Xét về khía cạnh thần học, các tài liệu ấy ra đời do một quan niệm thiếu sót về chủ đích của các sách Tin mừng. Thật vậy, các sách Tin mừng không có ý định viết một tiểu sử về cuộc đời Chúa Giêsu cho bằng ?loan báo Tin mừng?, nghĩa là công bố cho nhân loại biết hồng ân cứu độ mà Thiên Chúa ban qua lời giảng, hành động và cuộc tử nạn của đức Giêsu. Vì thế nếu ai muốn truy tầm nơi các sách Tin mừng những tài liệu để viết tiểu sử đức Giêsu thì sẽ thất vọng; tuy nhiên, nếu ai muốn tìm hiểu sứ điệp cứu độ thì sẽ thấy đủ chất liệu.

 Chúng ta cũng có thể nhận xét cách tương tự về thánh Giuse. Tân ước không cung cấp các chi tiết về tiểu sử của Người (ngày và nơi sinh; ngày và nơi qua đời); tuy nhiên những đoạn văn Tin mừng đã phác hoạ vai trò của Người trong việc hoàn tất chương trình cứu độ mà Thiên Chúa muốn thực hiện nơi đức Giêsu Kitô.

 Trong bài này, chúng ta sẽ điểm qua những bản văn Tân ước nói đến thánh Giuse, đặc biệt nơi Tin mừng của thánh Matthêu và thánh Luca, và cố gắng khám phá ý nghĩa thần học của chúng. Ngoài ra, chúng ta cũng sẽ khảo sát những đoạn văn Cựu ước đã được Hội thánh tiên khởi áp dụng cho sứ mạng của thánh Giuse .

 Mục 1. Tin mừng thánh Matthêu

 I. Tổng quát

 Trong bốn sách Tin mừng, thánh Matthêu nói nhiều hơn hết về thánh Giuse: trong hai chương đầu, thánh Giuse giữ vị trí then chốt, và phần nào hoạ laị vai trò của tổ phụ Giuse trong Cựu ước. Ngoài ra, đức Giêsu được gọi là ”con bác thợ mộc” ở Mt 13,55.

 Thánh Luca cũng nhắc đến thánh Giuse trong hai chương đầu, tuy nhấn mạnh nhiều hơn đến đức Maria. Dù sao, thánh Luca bổ túc thêm cho thánh Matthêu nhiều chi tiết để hiểu rõ hơn vai trò của thánh Giuse trong mầu nhiệm Nhập thể và Giáng sinh của Chúa Giêsu. Thánh Giuse còn được nhắc đến hai lần nữa trong Tin mừng Luca vào lúc khai mạc sứ vụ công khai của Chúa Giêsu (Lc 3,23 và 4,22).

  Thánh Giuse được nói đến hai lần trong Tin mừng thánh Gioan (1,45; 6,42), nhưng hoàn toàn vắng bóng trong Tin mừng thánh Marcô .

 Trước hết, chúng ta bắt đầu khảo sát Tin mừng thánh Matthêu, đặc biệt là hai chương đầu tiên, quen được đặt tên là “Tin mừng thời niên thiếu” (hoặc ”Tin mừng thơ ấu”), tuy rằng thuật ngữ này không được chính xác lắm.

 Thật vậy, chủ đích của hai chương đầu của Tin mừng thánh Matthêu (48 câu) và Luca (132 câu) không hẳn là thuật lại gia thế của Chúa Giêsu và tuổi thơ ấu của Người (giai đoạn ẩn dật trước khi hoạt động công khai). Ngoài việc kể lại sự thụ thai trinh khiết trong cung lòng đức Maria và sự giáng sinh tại Bêlem, hai thánh sử không nói gì thêm về những sinh hoạt thời thơ ấu của Chúa Giêsu (đừng kể việc thánh gia lánh nạn sang Ai cập và việc ở lại trong đền thờ lúc lên 12 tuổi). Thử hỏi các thánh sử có chủ đíchụ gì ? Tại sao phải thêm hai chương này, trong khi thánh Marcô và thánh Gioan bắt đầu Tin mừng với cuộc đời công khai của đức Giêsu ? Các học giả đã đưa ra nhiều ý kiến, có thể thu vào hai quan điểm.

 1/ Quan điểm thứ nhất cho rằng đây là một thể văn đương thời giới thiệu các vĩ nhân với những điềm lạ xuất hiện trước khi chào đời, tựa như Abraham, Môsê, Isaac, Samuel. Khuynh hướng này còn tăng hơn nữa nơi các ”Tin mừng nguỵ thư”. Tuy nhiên, chủ ý của người viết không chỉ là đề cao thân thế của nhân vật anh hùng, nhưng còn muốn chúc tụng Thiên Chúa đã đoái thương dân tộc ưu tuyển và đã phái đến những vị cứu tinh.

 2/ Quan điểm thứ hai cho rằng hai chương này là một thứ nhập đề cho toàn thể cuốn Tin mừng. Tin mừng cứu độ của đức Kitô được hoàn tất với mầu nhiệm Vượt qua nhưng đã được phác hoạ ngay từ khi Người ra đời. Nói khác đi, đức Kitô là Đấng cứu độ nhân loại ngay từ cuộc Nhập thể, tuy hồng ân này đạt đến cao điểm nơi cuộc Tử nạn và Phục sinh. Nơi thánh Matthêu, cốt yếu Tin mừng có thể tóm lại như thế này: Đức Giêsu là Con Thiên Chúa đến để cứu chuộc muôn dân, là Đấng Mêsia được hứa cho dân tộc Israel. Thế nhưng Người đã bị dân tộc này khước từ (vua Hêrôđê tìm cách thủ tiêu Người; cũng như về sau này các nhà lãnh đạo Do thái sẽ lên án xử tử Người, Mt 27,1-2), đang khi đó Tin mừng lại được dân ngoại đón nhận (các nhà chiêm tinh ở đây, cũng tựa như các dân tộc bên Đông bên Tây sẽ đến tham dự tiệc trong Nước Thiên Chúa, Mt 8,11 ; 28,19ụ).

 Thiết tưởng hai quan điểm không trái nghịch nhau, bởi vì cả hai đều nhấn mạnh rằng không nên đọc ”Tin mừng thơ ấu” như là đọc chuyện thần thoại, nhưng cần phải khám phá ý nghĩa sâu xa của các trình thuật. Khuynh hướng thứ nhất cố gắng tìm hiểu ý nghĩa qua việc khảo sát thể văn, đối chiếu với các tác phẩm văn chương cổ điển. Khuynh hướng thứ hai chú trọng đến nội dung thần học, gắn liền với toàn bộ Tin mừng. Theo nhãn giới này, ?Tin mừng niên thiếu?cũng có những nét giống với tự ngôn của Tin mừng theo thánh Gioan, nói về nguồn gốc của đức Giêsu trước thời kỳ hoạt động công khai, nguồn gốc bắt đầu từ khởi nguyên (Ga 1,1). Chúng tôi sẽ áp dụng đường hướng này khi tìm hiểu các bản văn.

 Xét về cấu trúc hai chương đầu theo Tin Mừng thánh Matthêu, đã có nhiều đề nghị phân đoạn.

 1/ Một ý kiến cho rằng toàn bộ sách Tin mừng theo thánh Matthêu được phân thành 5 quyển sách tương tự như bộ Ngũ thư của ông Môsê. Cụ thể là các lời giảng của đức Giêsu được gom thành 5 bài giảng về Nước Trời :

 a) bài giảng trên núi công bố hiến chương Nước Trời, ở các chương 5-7;

 b) bài giảng về sứ vụ rao giảng Nước Trời, chương 10;

 c) bài giảng về các dụ ngôn giải thích bản chất Nước Trời, chương 13;

 d) bài giảng về kỷ luật nội bộ Hội thánh, mầm mống của Nước Trời, chương 18;

 e) bài giảng về sự thiết lập vĩnh viễn Nước Thiên Chúa vào thời cánh chung, chương 24-25.

 Hai chương đầu tiên xem ra đã gói ghém ý tưởng đó, với việc trưng dẫn 5 câu Kinh thánh để kết thúc 5 đoạn văn :

 Nhập đề : Gia phả (1,1-17)

 a) Isaia 7,14 : Ơn gọi của Giuse (1,18-25)

 b) Mikha 5,2 : Vua Hêrôđê, các nhà chiêm tinh, Bêlem (2,1-12).

 c) Hôsê 11,1 : Trốn sang Ai-cập (2,13-15)

 d) Giêrêmia 31,15 : Tàn sát các anh hài (2,16-18)

 e) Isaia 4,3 (Tl 13,5?) : Từ Ai cập trở về Nazareth (2,19- 23).

 Dĩ nhiên các học giả còn đưa ra nhiều giả thuyết khác về cấu trúc của hai chương này, chẳng hạn :

 2/ Dựa theo các giấc mơ của thánh Giuse dẫn tới hành động.

 Trong Tân ước, chỉ có Tin mừng Matthêu đề cập đến giấc mơ như là một phương tiện mặc khải ý Chúa. Thánh sử ghi nhận 6 trường hợp được ghi nhận, trong đó 5 trường hợp nằm ở hai chương đầu, và cách riêng 4 trường hợp được dành cho ông Giuse (lấy bà Maria làm vợ ; đưa thánh gia sang Ai- cập ; trở về quê hương ; định cư ở Nazareth. Trường hợp thứ năm dành cho các nhà chiêm tinh (2,12). Ba lần báo mộng cho ông Giuse được thuật lại theo một mô hình đồng nhất :

 a) nhập đề : mô tả hoàn cảnh

 b) công thức : ”này kìa sứ thần Chúa hiện đến báo  mộng cho ông rằng”

 c) sứ điệp : thiên sứ trao cho ông một công tác ”hãy đem” (hãy mang)

 d) tuân hành: ông Giuse tuân hành

 e) trích dẫn Kinh thánh: để ứng nghiệm lời Chúa về một danh hiệu của đức Giêsu: Emmanuel, Con (Thiên Chúa), người Nazareth.

 3/ Dựa theo bốn câu hỏi xoay quanh căn cước của đức Giêsu:

a) Ai (Quis)? Đức Giêsu Kitô (Mêsia), con vua Đavit, con của cụ Abraham, sinh bởi một phụ nữ (1,1-17).

 b) Bằng cách nào (Quomodo)? Con Thiên Chúa đã trở nên con vua Đavit do ông Giuse thuộc dòng dõi Đavit chấp nhận hài nhi được thụ thai bởi Chúa Thánh Thần (1,18-25).

 c) Ở đâu (Ubi)? Bêlem, thành phố Đavit, nhưng được các nhà chiêm tinh thuộc dân ngoại đến bái yết (2,1-12)

 d) Từ đâu (Unde)? Từ Bêlem của người Do thái, đi lánh nạn sang Ai-cập giống như ông Môsê, về miền Galilê của dân ngoại, định cư tại Nazareth.

 4/ Dựa theo những cuộc di chuyển địa lý : Bêlem, Ai-cập, Nazareth.

 a) chương 1 diễn ra tại Bêlem, thành phố vua Đavit

 b) chương 2, tường thuật việc di chuyển từ Bêlem sang vùng đất dân ngoại (Ai cập), để rồi kết thúc với việc hồi hương về Israel và định cư tại Nazareth.

 Những cuộc di chuyển này không phải là do ngẫu nhiên, nhưng nằm trong toàn bộ lịch sử cứu độ : ”ngõ hầu lời ngôn sứ được nên trọn? : đức Giêsu sinh tại Bêlem như là Mêsia lãnh tụ Israel dõng dõi vua Đavit (2,6); sang Ai cập và ra khỏi đó như là con Thiên Chúa (2,15) ; về Nazareth, trở thành biệt hiệu ”Giêsu Nazareth” (2,23).

Bài 2 lần tới: khảo sát các bản văn Kinh Thánh về thánh Giuse

G. Phan Tấn Thành OP

Đức Thánh Cha tấn phong hai Giám Mục

Đức Thánh Cha tấn phong hai Giám Mục

Đức Thánh Cha tấn phong hai Giám Mục

VATICAN. Sáng thứ bẩy 19-3-2016, ĐTC Phanxicô đã chủ sự thánh lễ tại Đền thờ Thánh Phêrô để tấn phong 2 GM mới:

Đó là Đức Cha Miguel Ángel Ayuso Guixot, 64 tuổi (1952), người Tây Ban Nha, thuộc dòng thánh Comboni, Tổng thư ký Hội đồng Tòa Thánh đối thoại liên tôn; và Đức Cha Peter Bryan Wells, 53 tuổi (1963), người Mỹ, nguyên là Phó Phụ Tá Quốc vụ khanh (tương đương với thứ trưởng nội vụ của Tòa Thánh), được bổ nhiệm tân Sứ Thần Tòa Thánh tại Nam Phi, Botswana, Lesotho và Namibia.

Hai vị phụ phong với ĐTC trong buổi lễ là ĐHY Fernando Filoni, Tổng trưởng Bộ Truyền giáo, và TGM Angelo Becciu, Phụ tá Quốc vụ khanh Tòa Thánh. Đồng tế với ngài có hơn 60 HY, GM và khoảng 150 linh mục, trước sự hiện diện của 5 ngàn tín hữu. Đặc biệt cũng có sự hiện diện của nhiều vị đại diện các tôn giáo khác như Hồi giáo, Phật Giáo..

Trong bài giảng, ĐTC nhắc nhở về sự kế truyền tông đồ liên tục của các GM trong truyền thống sinh động của Giáo Hội, nhờ đó sứ vụ và hoạt động của Chúa Cứu Thế tiếp tục và phát tiển cho đến tận thế. ”Trong GM, được các LM quây quần, có chính Chúa Giêsu vị Thượng Tế đời đời hiện diện giữa anh chị em. .. Trong sự khôn ngoan và thận trọng của Giám Mục, chính Chúa Kitô hướng dẫn Dân Chúa trong cuộc lữ hành trần thế tiến về hạnh phúc vĩnh cửu.”

ĐTC cũng nhắn nhủ các tiến chức rằng ”Chức Giám Mục là danh xưng của một việc phục vụ chứ không phải là một vinh dự. GM có nghĩa vụ phục vụ hơn là thống trị, theo mệnh lệnh của Thầy Chí Thánh: ”Ai lớn nhất trong các con, thì hãy trở thành người bé nhỏ nhất. Và ai cai trị, thì hãy hành động như người phục vụ”. (SD 19-3-2016)

G. Trần Đức Anh OP

Khao khát lòng thương xót là dấu chỉ ao ước tình yêu Thiên Chúa

Khao khát lòng thương xót là dấu chỉ ao ước tình yêu Thiên Chúa

Nguyên Đức Giáo hoàng Biển Đức XVI và Đức Giáo Hoàng đương nhiệm

Mặc dù đang sống tương đối ẩn dật trong một dinh thự trong vườn Vatican, nhưng Đức Giáo hoàng Biển Đức XVI vẫn tiếp tục nghiên cứu các vấn đề thần học hiện đại, và thỉnh thoảng ngài còn trình bày ý kiến về các vấn đề này cách công khai trong các buổi phỏng vấn. Trong một cuộc phỏng vấn vào trung tuần tháng 3 năm ngoái dành cho cha Jacques Servais, dòng Tên người Bỉ, học trò và nhà nghiên cứu tư tưởng của thần học gia Hans Urs von Balthasar, ngài nói với cha rằng, sự quan tâm của Đức Giáo hoàng Phanxicô và nhiều tín hữu về đề tài lòng thương xót của Thiên chúa là một dấu hiệu của các thời đại; nó chứng tỏ rằng con người vẫn kinh nghiệm một cách sâu xa rằng họ cần đến Thiên Chúa. Ngài nhận định rằng: “Lòng thương xót đưa chúng ta đến với Thiên Chúa, còn sự công chính làm cho chúng ta run sợ trước nhan Thiên Chúa.”

Trước đó, vào tháng 10, trong một hội thảo về tín điều sự công chính hóa và kinh nghiệm về Thiên Chúa, Đức Tổng Giám mục Georg Ganswein, thư ký riêng của Đức giáo hoàng Biển Đức đã đọc bản văn bằng tiếng Đức của ngài. Tín điêu về sự công chính hóa – con người được trở nên công chính trước mặt Thiên chúa và được cứu bởi Chúa Giê su như thế nào – đã là tâm điểm của cuộc cải cách của Giáo hội Tin lành, sự kiện sẽ được kỷ niệm 500 năm vào năm 2017 tới đây

Trong cuộc phỏng vấn này, Đức giáo hoàng Biển Đức nói: “Đối với con người ngày nay, không giống như những người thời của Luther hay những người theo quan niệm cổ điển của đức tin Kitô giáo, nhiều điều đã thay đổi ngược lại theo một nghĩa nào đó; hay đúng hơn, con người không còn nghĩ là mình cần được công chính hóa trước nhan Thiên Chúa nhưng trái lại theo họ, Thiên Chúa mới phải bào chữa cho chính mình về những điều kinh khủng hiện diện trên thế giới và trước các đau khổ của con người, tất cả những điều cuối cùng lệ thuộc vào Người”. Sự tổng hợp cực đoan của cảm giác như thế, theo ngài, có thể được trình bày thế này: ‘Chúa Kitô không chịu đau khổ cho tội của con người nhưng là để xóa đi những sai lầm của Thiên Chúa.’” Đức giáo hoàng Biển Đức nói tiếp: “Ngay cả nếu hôm nay, phần lớn Kitô hữu không chấp nhận về sự đảo lộn lớn lao của đức tin của chúng ta, anh chị em cũng có thể nói rằng những điều này trình bày một khuynh hướng căn bản của thời đại chúng ta” Ngài nói về một dấu hiệu khác của sự thay đổi mạnh mẽ nữa là “con người ngày nay có chung ý nghĩ rằng Thiên Chúa không thể dễ dàng chấp nhận sự hư mất của phần lớn nhân loại.”

Theo Đức giáo hoàng Biển Đức, dù vậy, vẫn còn tồn tại, theo một cách khác, ý thức về việc chúng ta cần ân sủng và được tha thứ. Đó là một trong các dấu hiệu của các thời đại về sự thật là ý tưởng về sự thương xót của Thiên Chúa đang dần trở nên trung tâm và thống trị trong tư tưởng Kitô giáo, bắt đầu từ thánh Faustina Kowalska vào đầu những năm 1900. Tư tưởng này thấm sâu trong con người Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô, dù không luôn luôn rõ ràng. Nhờ kinh nghiệm của một người trẻ chứng kiến những bạo tàn mà con người có thể thực hiện, thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô đã xác định rằng: ‘lòng thương xót là phản ứng trung thực duy nhất và hiệu quả cuối cùng chống lại quyền lực sự dữ. Đức giáo hoàng Biển Đức cũng nói: “Chỉ những nơi có lòng thương xót thì mới không còn sự độc ác, chỉ nơi đó, sự dữ và bạo lực mới kết thúc’”. Và theo ngài, Đức Giáo hoàng Phanxicô hoàn toàn đi theo đường hướng này; hoạt động mục vụ của ngài được diễn tả cách chính xác qua việc ngài không ngừng nói về lòng thương xót của Thiên Chúa.

Qua sự kiện nhiều người lắng nghe sứ điệp lòng thương xót, Đức Giáo hoàng Biển Đức nói:  điều này cho thấy là dưới lớp gỗ bóng loáng của sự tự bảo và tin chắc về sự tự công chính, con người ngày nay đang che dấu ý thức rõ ràng của mình về những vết thương và sự bất xứng của mình trước Thiên Chúa. Họ đang chờ đợi lòng thương xót.” Theo ngài, sự công chính hóa nhờ đức tin được diễn tả theo một cách thức khác trong chủ đề lòng thương xót.

Nói về vai trò của việc tuyên xưng rõ ràng đức tin vào Chúa Giêsu, Đức Giáo hoàng Biển Đức cho biết đã có những thay đổi sâu rộng về vấn đề này. Ngài nói: “Trong hậu bán của thế kỷ cuối cùng, có thể nhận thấy xuất hiện một ý thức về việc Thiên Chúa không thể cho phép sự diệt vong của những người không được rửa tội. Nếu như những vị truyền giáo vĩ đại của thế kỷ 16 tin rằng người không lãnh bí tich rửa tội không được cứu độ và điều này giải thích cho sự dán thân của họ, thì xác tín này hoàn toàn bị loại bỏ trong Giáo hội Công giáo sau Công đồng Vatican II. Điều này dẫn đến một cuộc khủng hoảng kép. Một đàng nó đánh mất động lực truyền giáo, vì tại sao phải thuyết phục người ta chấp nhận đức tin Kitô khi mà họ vẫn được cứu độ mà không cần tin. Đàng khác đòi hỏi sống đức tin đối với các Kitô hữu dường như không chắc chắn, vì nếu có những người được cứu độ theo các cách thế khác, tại sao các Kitô hữu bị bó buộc sống bởi đức tin và luân lý Kitô giáo.” Đức Giáo hoàng nhận định về cố gắng của các thần học gia đang cố gắng thực hiện các giải thích đầy đủ và giá trị, xác nhận là niềm tin Kitô giáo về ơn cứu độ đến từ Đức Kitô trong khi không nhấn mạnh về phép rửa, và việc tuyên xưng công khai đức tin vào Chúa Kitô là cần thiết. Đồng thời, Giáo hội – toàn bộ cộng đoàn Kitô hữu – rõ ràng là thân mình của Đức Kitô và thân mình đó phải vươn ra giúp đỡ, chữa lành và mời gọi một mối liên hệ mật thiết hơn với Thiên Chúa.

Như Đức Giáo hoàng Phanxicô, Đức giáo hoàng Biển Đức cũng mời gọi trở lại với bí tích hòa giải: “Chỉ có tình yêu thần linh nhập thể của Đức Giêsu Kitô, tình yêu lớn hơn bất cứ quyền lực khả thể của sự dữ, có thể đối đầu với sự thống trị của sự dữ. Nhưng chúng ta phải gắn mình vào với lời đáp trả mà Thiên Chúa ban qua Đức Giêsu Kitô. Ngay cả nếu một cá nhân trả lời với một mảnh của sự dữ thôi thì cũng trở thành tòng phạm của nó, tuy nhiên, cùng với Đức Kitô, ‘người đó có thể bổ khuyết những điều còn thiếu xót trong cuộc thương khó của Người’ (x. Col 1,24). Bí tích hòa giải chắc chắn có một vai trò quan trọng trong lãnh vực này. Nó có nghĩa là chúng ta để mình được nhào nặn và biến đổi bởi Đức Kitô và không ngừng bước đi từ phía những kẻ bị diệt vong đến nơi của những người được cứu chuộc.” (CNS 16/03/2016)”

Hồng Thủy OP

Đức Hồng Y Parolin viếng thăm Macedonia và Bulgari

Đức Hồng Y Parolin viếng thăm Macedonia và Bulgari

Đức Hồng Y Parolin

VATICAN. ĐHY Pietro Parolin, Quốc vụ khanh Tòa Thánh, sẽ viếng thăm chính thức tại Cộng hòa Macedonia và Bulgari từ ngày mai, 18 đến 22-3-2016, theo lời mời của chính quyền và giáo quyền Công Giáo tại hai nước liên hệ.

Theo hãng tin SIR của HĐGM Italia, chặng dừng đầu tiên của ĐHY Parolin là thành phố Skopjie, thủ đô Macedonia. Ngài sẽ gặp chính quyền và cử hành thánh lễ đầu tiên tại Nhà thờ chính tòa Thánh Tâm. Skopjie cũng là nơi sinh của Mẹ Têrêsa Calcutta.

Sau thánh lễ, ĐHY Parolin sẽ tham dự buổi giới thiệu cuốn sách phỏng vấn ĐGH Phanxicô ”Tên của Thiên Chúa là lòng thương xót” được dịch ra tiếng Macedonia, rồi ngài khánh thành tòa GM mới ở Skopjie, gặp gỡ hàng giáo sĩ, tu sĩ của giáo phận. Sau cùng ĐH sẽ viếng thăm cộng đoàn Công Giáo tại thành phố Strumica, là trụ sở của các tín hữu Công Giáo nghi lễ đông phương Bizantine ở Macedonia.

Sáng chúa nhật 20-3, ĐHY Quốc vụ khanh sẽ đến viếng thăm nước Bulgari, thánh hiến nhà thờ Đức Mẹ An Nghỉ ở thủ đô Sofia mới được tu bổ. Đây là trung tâm của giáo phận Công Giáo Đông phương ở Bulgari.

Ban chiều cùng ngày, ĐHY sẽ viếng thăm Đồng Nhà Thờ chính tòa Công Giáo Đông phương, được dâng kính thánh Gioan 23. Ngài sẽ viếng Đan viện các nữ tu Thánh Thể cạnh đó và trung tâm y tế ”Gioan Phaolô 2” do các nữ tu đảm trách, chuyên săn sóc các bệnh nhân nghèo và người tị nạn.

Tối 20-3, ĐHY Quốc vụ khanh sẽ cử hành thánh lễ Chúa Nhật lễ lá tại Đồng Nhà chính tòa Thánh Giuse của Công Giáo La-tinh, trước khi gặp hàng giáo sĩ, tu sĩ Công Giáo Bulgari.

Sau cùng ngày 21-3, ĐHY Parolin sẽ gặp Đức Thượng Phụ Neofit và một số vị trong thánh Hội đồng Chính Thống Bulgari, trước khi gặp tổng thống Rossen Plevneliev, thủ tướng Boyko Borissov và đại giáo trưởng Hồi giáo Mustafa Hadzi. (ADN 15-3-2016)

G. Trần Đức Anh OP

Linh mục cứu 1500 người Hồi giáo, danh sách rút ngắn giải thưởng Aurora

Linh mục cứu 1500 người Hồi giáo, danh sách rút ngắn giải thưởng Aurora

Vị Linh mục cứu 1500 người Hồi giáo khỏi thảm sát

Vị Linh mục cứu 1500 người Hồi giáo khỏi thảm sát ở cộng hòa Trung Phi lọt vào danh sách rút ngắn của giải thưởng “Hừng đông”

Cha Bernard Kinvi dòng thánh Camillô đã cho các người chạy trốn lực lượng anti-balaka trú ẩn vài tháng trong bệnh viện nơi cha đang làm việc ở Bossemptele. Sau đó cha giúp họ trốn thoát bằng xe tải vượt biên giới sang Camerun. Lực lượng anti-balaka là dân quân Kitô ở Cộng hòa Trung phi, cưỡng bức các người Hồi giáo cải sang Kitô giáo.

Cha Kinvi là 1 trong 4 người lọt vào danh sách rút ngắn của giải thưởng “Hừng đông về thức tỉnh nhân loại”. 3 trong 4 người trong danh sách cuối cùng này là người Công giáo. Đó là bác sĩ Tom Catena, người đã phẩu thuật cho 750 ngàn người ở vùng Nuba Mountains thuộc Sudan, người nói là công việc của ông được soi sáng bởi thánh Phanxicô thành Assisi. Người thứ 2 là cô Marguerite Barankitse; cô đã cứu sống hàng ngàn người và chăm sóc cho các trẻ mồ côi và những người tị nạn trong cuộc nội chiến ở Burunđi. Và cuối cùng là Syeda Ghulam Fatima, người đã hoạt động để chấm dứt lao động cưỡng bách ở Pakistan.

Giải thưởng Aurora được thành lập bởi sáng kiến mang tên “một trăm mạng sống” và nhắm vinh danh những người đã cứu những người Armeni trong cuộc diệt chủng năm 1915. Ngày nay, giải thưởng này được trao cho các cá nhân chịu nguy hiểm tính mạng để bảo vệ mạng sống của nguời khác. Giải thưởng này sẽ được trao bởi George Clooney trong một buổi lễ ở Yerevan, Armenia vào tháng tới. Người thắng giải này sẽ được nhận 100 ngàn đô la và sẽ có thể đề cử một tổ chức bác ái nhận sự trợ giúp một triệu đô la.

Vartan Gregorian, 1 thành viên của giải thưởng “Hừng đông” đã nói: “chúng tôi lập giải thưởng không chỉ để vinh danh, nhưng cũng để trợ giúp các anh hùng không được xưng tụng, những người đấu tranh cho nhân quyền và  phản đối sự đàn áp và bất công. Cách đây hàng trăm năm, những người xa lạ đã nhân danh cha ông chúng tôi chống lại sự bách hại, và ngày nay, chúng tôi cám ơn họ bằng cách nhận ra những người đang hoạt động với cùng tinh thần đó để chống lai những sự độc ác hiện đại”.

Cha Kinvi đang làm việc trong một bệnh viện phục vụ cho một vùng lãnh thổ có diện tích rộng bằng nước Thụy sĩ, đã nói với tờ báo Guardian: “Khi tôi trở thành Linh mục, tôi nhận sứ vụ chăm sóc các bệnh nhân ngay cả nó có nghĩa là nguy hiểm đến mạng sống của tôi. Tôi nói vậy nhưng tôi không thật sự hiểu hết ý nghĩa của nó. Nhưng khi chiến tranh xảy ra, tôi hiểu thế nào là liều mạng sống. Là Linh mục là một điều mà phải hơn cả việc chúc phúc, đó là sát cánh với những người đã mất tất cả.”

Hội đồng tuyển chọn giải thưởng “Hừng đông” bao gồm những người đã đoạt giải Nobel như Elie Wiesel, Oscar Arias, Shirin Ebadi and Leymah Gbowee; Mary Robinson, nguyên tổng thống Ái nhĩ lan; nhà hoạt động nhân quyền Hina Jilani; Gareth Evans, nguyên Bộ trưởng ngoại giao Úc và chủ tịch danh dự của “nhóm khủng hoảng quốc tế”, là một tổ chức phi lợi nhuận được thành lâp năm 1995 để giúp ngăn chặn và giải quyết các xung đột và bạo lực chiến; Vartan Gregorian, chủ tịch của tập đoàn Carnegie của New York; và George Clooney, diễn viên đạt giải thưởng Hàn lâm. (Catholic Herald 16/03/2016).

Hồng Thủy OP

 

Đức Thánh Cha sai 270 gia đình đi truyền giáo

Đức Thánh Cha sai 270 gia đình đi truyền giáo

Đức Thánh Cha sai 270 gia đình đi truyền giáo

VATICAN. Sáng 18-3-2016, ĐTC đã tiếp kiến 8 ngàn thành viên Con đường Tân Dự Tòng và sai thêm 270 gia đình từ 5 châu ra đi truyền giáo cho dân ngoại tại 56 cứ điểm.

Hiện diện tại buổi tiếp kiến tại Đại Thính Đường Phaolô 6 ở Nội thành Vatican, có vị người sáng lập Con đường này là Ông Kikô Arguello và bà Carmen Hernandez người Tây Ban Nha và cha Mario Pezzi, vị linh hướng. Ngoài ra có gần 20 HY và GM thuộc các giáo phận nơi có các thành viên Con đường Tân Dự Tòng.

Trong bài huấn dụ, ĐTC đặc biệt mời gọi các thành viên Con đường Tân dự tòng vun trồng tình hiệp nhất trong tinh thần khiêm tốn, tìm kiếm vinh quang đích thực là tình yêu thương xót của Chúa, sau cùng là dấn thân loan báo Tin Mừng cho thế giới, cho các gia đình và tha nhân.

ĐTC đề cao tình hiệp thông trong Giáo Hội và cảnh giác chống lại cám dỗ của ma quỉ luôn tìm cách gieo rắc chia rẽ. Ngài nói: ”Tình hiệp thông là điều thiết yếu. Kẻ thù của Thiên Chúa và của con người là ma quỉ, hắn không thể làm gì chống lại Tin Mừng, chống lại sức mạnh khiêm tốn của lời cầu nguyện và các bí tích, nhưng hắn có thể gây hại rất nhiều cho Giáo Hội bằng cách cám dỗ nhân tính của chúng ta. Hắn khơi lên sự tự phụ, xét đoán người khác, khép kín, chia rẽ. Ma quỉ là kẻ chia rẽ và thường bắt đầu bằng cách làm cho chúng ta tưởng mình là tốt lành, thậm chí tốt lành hơn người khác, và thế là hắn có thửa đất sẵn sàng để gieo cỏ dại vào”.

ĐTC đề cao đoàn sủng mà các thành viên Con đường tân dự tòng nhận lãnh qua việc canh tân cuộc sống theo tinh thần bí tích rửa tội. Nhưng ngài cảnh giác: ”Đoàn sủng này có thể bị hư hỏng khi người ta khép kín, hoặc tự phụ, khi người ta muốn nổi bật hơn người khác. Vì thế cần phải bảo tồn đoàn sủng ấy bằng cách bước theo con đường tuyệt hảo là sự hiệp nhất trong khiêm tốn và vâng phục. Nếu có tinh thần như thế, thì Chúa Thánh Linh tiếp tục hoạt động, như Chúa đã làm nơi Mẹ Maria, cởi mở, khiêm tốn và vâng phục”.

Sau huấn từ, ĐTC đã làm phép các thánh giá truyền giáo các gia đình thừa sai cầm trong tay, và một số khác đặt trên khay. Rồi ngài trao riêng thánh giá cho các LM hướng dẫn 56 nhóm.

Trong số 56 cứ điểm truyền giáo mà ĐTC sai 270 gia đình với hơn 1.500 người con tới đó, có 14 cứ điểm ở Á châu, 30 tại Âu Châu, 4 ở Úc châu và 2 tại Mỹ châu. Mỗi nhóm truyền giáo được sai đi như thế gồm có 4 hoặc 5 gia đình, một LM, tức là khoảng 40 người. Tổng cộng có gần 2 ngàn người được nhận thánh giá truyền giáo. Thường thường các nhóm được gửi đến những vùng trong đó sự hiện diện của Kitô giáo bị sa sút như tại nhiều nước Âu Châu như Pháp, Ai Len, Thụy Điển, Anh quốc, v.v.

Như vậy, với các nhóm mới được sai đi lần này, tổng cộng có 184 cứ điểm truyền giáo của Con đường Tân dự tòng trên thế giới, trong đó có 48 tại Á châu và 106 tại Âu Châu, tất cả là 750 gia đình với gần 4 ngàn người con.

Tại Mỹ châu các gia đình được những nước như Canada, Hoa Kỳ, Peru và Brazil. Có một số nhóm đi Ấn độ và Trung Quốc. Việc gửi các gia đình này được thực hiện theo lời thỉnh cầu của các GM địa phương.

Con đường Tân Dự Tòng được thành lập năm 1964 do Ông Kiko Arguello và Bà Carmen Hernández tại Madrid, Tây Ban Nha. Hiện nay Con đường này hiện diện tại 128 quốc gia năm châu, với hơn 25 ngàn cộng đoàn tại gần 7 ngàn giáo xứ.

Con đường này cũng có hơn 100 đại chủng viện giáo phận thừa sai Mẹ Đấng Cứu Chuộc với hơn 2,500 đại chủng sinh giáo phận đang chuẩn bị tiến lên chức linh mục. Từ năm 1989 đến nay có hơn 2 ngàn LM đã xuất thân từ các đại chủng viện vừa nói. (SD 18-3-2016)

G. Trần Đức Anh OP

Đức Thánh Cha tiếp kiến 3 ngàn sinh viên quốc tế

Đức Thánh Cha tiếp kiến 3 ngàn sinh viên quốc tế

Đức Thánh Cha tiếp kiến 3 ngàn sinh viên quốc tế

VATICAN. Trong buổi tiếp kiến 3 ngàn sinh viên quốc tế sáng ngày 17-3-2016, ĐTC mời gọi họ đặc biệt quan tâm đến dân nghèo, người tị nạn và những người gặp khó khăn.

Các sinh viên quốc tế này tham dự khóa học thường niên di động trong chương trình gọi là ”Havard World Model United Nations”, do Đại Học Havard ở Mỹ cùng với 1 đại học địa phương ở thành phố đón tiếp các sinh viên tham dự khóa học. Hiện nay có hơn 2 ngàn đại học từ trên 70 quốc gia trên thế giới tham gia các khóa học này.

Lên tiếng tại buổi tiếp kiến, ĐTC nói: ”Thành quả lớn nhất trong việc tụ họp nhau ở Roma này không hệ tại việc học về ngoại giao, các hệ thống cơ chế và các tổ chức, tuy rằng những điều này là quan trọng và đáng được các bạn học hỏi. Thành quả lớn hơn chính là thời gian các bạn trải qua với nhau, gặp gỡ những người từ mọi nơi trên thế giới, không những họ tượng trưng cho bao nhiêu thách đố hiện nay, nhưng nhất là họ là biểu tượng các tài năng phong phú khác nhau và tiềm năng của gia đình nhân loại”.

ĐTC cũng nhận xét rằng ”Trong những ngày này, các bạn học hỏi rất nhiều với nhau và nhắc nhở nhau rằng đằng sau mỗi khó khăn mà thế giới gặp phải, có những người nam nữ, già trẻ, những người như các bạn. Có những gia đình và cá nhân đang phải vật lộn mỗi ngày để sống, họ cố gắng săn sóc con cái và cung cấp cho chúng không những tương lai, nhưng cả những nhu cầu cơ bản của ngày hôm nay.. Nhiều người trong số họ phải chịu những vấn đề trầm trọng của thế giới ngày nay, nạn bạo lực và bất bao dung, họ trở thành những người tị nạn, buộc lòng phải bỏ gia cư, bị tước đoạt đất đai và tự do”.

ĐTC nói: ”Đó là những người đang cần được các bạn giúp đỡ, họ lớn tiếng xin các bạn lắng nghe họ, hơn bao giờ hết họ đang được những cố gắng của các bạn thực hiện công lý, hòa bình và tình liên đới. Thánh Phaolô nói với chúng ta rằng chúng ta phải vui với người vui, và khóc với người khóc” (Xc Rm 12,15).

Sau cùng ĐTC bày tỏ hy vọng các sinh viên quốc tế thấy ”sự dấn thân của Giáo Hội Công Giáo trong việc phục vụ người nghèo và người tị nạn, nâng đỡ các gia đình và các cộng đoàn, bảo vệ phẩm giá bất khả nhượng và các quyền của mỗi phần tử trong gia đình nhân loại”. Ngài nói: ”Các tín hữu Kitô chúng ta tin rằng Chúa Giêsu kêu gọi chúng ta phục vụ các anh chị em, săn sóc lẫn nhau, bất luận nguyên quán hoặc hoàn cảnh của họ. Nhưng đây không phải chỉ là đặc điểm của các tín hữu Kitô, nhưng là một lời kêu gọi phổ quát, ăn rễ sâu nơi chính nhân tính chung của chúng ta” (SD 17-3-2016)

G. Trần Đức Anh OP

Đức Thánh Cha ấn định ngày phong 5 Hiển Thánh

Đức Thánh Cha ấn định ngày phong 5 Hiển Thánh

Đức Thánh Cha ấn định ngày phong 5 Hiển Thánh

VATICAN. Mẹ Têrêsa Calcutta sẽ được ĐTC Phanxicô tôn phong hiển thánh vào Chúa Nhật 4-9 tới đây.

Mẹ Têrêsa sáng lập dòng các nữ tu thừa sai bác ái, qua đời ngày 5-9-1997, hưởng thọ 87 tuổi, và được ĐTC Gioan Phaolô 2 phong chân phước ngày 1910-2003.

Trước đó, ngày Chúa Nhật 5-6, ĐTC Phanxicô sẽ tôn phong hai chân phước khác lên bậc hiển thánh là cha Stanislao Giêsu Maria người Ba Lan, và nữ tu Maria Elisabetta Hesselblad người Thụy Điển.

Sau cùng, chúa nhật 16-10, đến lượt hai chân phước được phong thánh là Giuse Sanchez Del Río, người Mexico, tử đạo lúc mới được 14 tuổi, và Cha Giuse Gabriel del Rosario Brochero, cha sở người Argentina.

ĐTC đã thông báo quyết định trên đây trong công nghị Hồng Y lúc 10 giờ sáng ngày 15-3-2016.

– Nữ chân phước Maria Elisabetta Hesselblad (1870-1957) sáng lập dòng các nữ tu Chúa Cứu Thế thánh Brigida, nổi bật về đời sống chiêm niệm, thi hành các việc bác ái săn sóc người nghèo và cỗ võ sự hiệp nhất các tin hữu Kitô.

Nữ tu Hesselblad qua đời tại Roma năm 1957 thọ 87 tuổi và được ĐTC Gioan Phaolô 2 phong chân phước ngày 9-4 năm thánh 2000. Dòng thánh Brigida hiện có 584 nữ tu hoạt động tại 54 nhà trên thế giới.

– Cha Stanislao Giêsu Maria, tục danh là Gioan Papczynski (1631-1701), sáng lập dòng dòng nam đầu tiên tại Cộng hòa Ba Lan Lituani. Ngài nổi bật về trường phái linh đạo Ba Lan, chuyên chiêm niệm về cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu và Mẹ Maria, cũng như tỏ ra đặc biệt nhạy cảm đối với những bất công xã hội. Cha Stanislao Giêsu và Maria qua đời năm 1701, thọ 70 tuổi, và được Đức Gioan Phaolô 2 phong chân phước ngày 16-9 năm 2007 tại Đền thánh Đức Mẹ Lichen, Ba Lan.

– Chân phước thiếu niên Giuse Sanchez Del Rìo, 14 tuổi khi viếng mộ chân phước tử đạo Amacleto González Flores, đã cầu xin Chúa cho mình được ơn chết vì bênh vực đức tin. Cậu bị giết ngày 10 tháng 2 năm 1928, miệng hô to: 'Hoan hô Chúa Kitô Vua! Hoan hô Đức Mẹ Guadalupe!”.

– Sau cùng, chân phước José Gabriel del Rosario Brochero, (1840-1914), qua đời năm 1914 thọ 74 tuổi, nguyên là cha sở giáo xứ thánh Alberto thuộc tỉnh Cordoba, tận tụy loan báo Tin Mừng và săn sóc dân chúng, nhất là những người nghèo, thăng tiến cuộc sống của họ. Cha qua đời vì kiệt lực và được phong chân phước ngày 14-9 năm 2013 do quyết định trước đó của ĐTC Biển Đức 16 ngày 20-12 năm 2012 (SD 15-3-2016)

G. Trần Đức Anh OP

Cả tội lỗi cũng không ngăn cản được tình yêu thương xót của Thiên Chúa

Cả tội lỗi cũng không ngăn cản được tình yêu thương xót của Thiên Chúa

ĐTC Phanxicô hôn trẻ em trong buổi tiếp kiến chúng sáng thứ tư 16-3-2016

Cả tội lỗi cùng không ngăn cản được tình yêu thương xót của Thiên Chúa

Thiên Chúa không vắng bóng, Ngài ở gần và thực hiện các việc cứu độ lớn lao cho kẻ tín thác nơi Ngài. Vì thế không được nhượng bộ thất vọng, nhưng phải tiếp tục xác tín rằng Chúa sẽ lau khô mọi nước mắt và sẽ giải thoát chúng ta khỏi mọi sợ hãi. Cả tội lỗi cùng không ngăn cản được tình yêu thương xót của Thiên Chúa đối với con người.

ĐTC Phanxicô đã khẳng định như trên với hơn 40,000 tín hữu tham dự buổi gặp gỡ chung sáng thứ tư hôm qua.

Ngài đã khai triển bài giáo lý dựa trên hai chương 30 và 31 sách ngôn sứ Gêrêmia đưọc goi là “sách ủi an”, vì trong đó lòng thương xót của Thiên Chúa đưọc giới thiệu với tất cả khả năng an ủi và mở trái tim của những người khổ đau ra cho niềm hy vọng .

Ngôn sứ Giêrêmia nói với những người Israel đã bị đi đầy tại nước ngoài và tiên báo cuộc trở về quê hương. Việc hồi hương đó là dấu chỉ tình yêu thương vô bờ của Thiên Chúa Cha, là Đấng không bỏ rơi các con cái Ngài, nhưng lo lắng cho họ và cứu thoát họ. Lưu đầy đã là một kinh nghiệm tàn phá đối với dân Israel. Niềm tin đã chao đảo, vì trên đất khách, không có đền thờ, không có phụng tự, sau khi đã chứng kiến cảnh quê hương bị tàn phá, thật rất khó mà tiếp tục tin tưởng vào lòng lành của Chúa. Tôi nghĩ tới nước Albania, sau bao nhiêu bách hại và tàn phá đã thành công vươn lên trong phẩm giá và niềm tin. Các người Israel cũng đã khổ đau như thế.

Áp dụng vào thực tại cuộc sống của tín hữu ngày nay ĐTC nói:

Cả chúng ta nữa nhiều lần cũng có thể sống một loại lưu đầy, khi sự cô đơn, khổ đau và cái chết khiến cho chúng ta nghĩ rằng mình đã bị Thiên Chúa bỏ rơi. Biết bao lần chúng ta đã nghe lời này: “Thiên Chúa đã quên tôi rồi”: đó là những người khổ đau và cảm thấy bị bỏ rơi. Có biết bao nhiêu anh chị em của chúng ta trái lại đang sống trong thời đại này một tình trạng thê thảm đích thực của sự lưu đầy, xa quê hương, còn có trong đôi mắt cảnh nhà cửa tan nát, và trong con tim sự sợ hãi và rất tiếc thường khi cả nỗi đau đớn vì mất đi các người thân thương. Trong các trường hợp đó ngưòi ta có thể tự hỏi: Thiên Chúa ở đâu? Tại sao biết bao khổ đau lại có thể đổ ập trên các người nam nữ và trẻ em vô tội như thế? Và khi họ tìm vào vài ngõ khác, thì người ta đóng cửa lại không cho vào. Và họ ở đó, trên vùng biên giới vì biết bao cửa và biết bao con tim khép kín. Các người di cư ngày nay bị lạnh, không thực phẩm, không thể vào, không cảm thấy sự tiếp đón. Tôi rất thích nghe và trông thấy các quốc gia và các nhà cầm quyền mở rộng con tim và cánh cửa cho các anh chị em di cư này.

Tiếp tục bài huấn dụ ĐTC nói: ngôn sứ Gêrêmia cho chúng ta một câu trả lời thứ nhất. Dân bị đi đầy sẽ có thể trở về trông thấy quê hương mình và sống kinh nghiệm lòng thương xót của Chúa. Đó là lời loan báo hy vọng lớn lao: Thiên Chúa không vắng bóng, cả ngày nay trong các tình trạng thê thảm này. Ngài ở gần và thực hiện các việc cứu độ lớn lao cho kẻ tín thác nơi Ngài. Vì thế không được nhượng bộ thất vọng, nhưng tiếp tục xác tín rằng Chúa sẽ lau khô mọi nước mắt và sẽ giải thoát chúng ta khỏi mọi sợ hãi. Vì thế ngôn sứ Giêrêmia cho Thiên Chúa mượn tiếng của mình để nói với dân ngài các lời yêu thương: “Ta đã yêu ngươi bằng mối tình muôn thuở, nên Ta vẫn dành cho ngươi lòng xót thương. Ta sẽ lại xây ngươi lên, và ngươi sẽ được xây lại, hỡi trinh nữ Ít-ra-en. Ngươi sẽ lại nên xinh đẹp; với những chiếc trống cơm, ngươi sẽ xuất hiện giữa đám nhảy múa tưng bừng.” (Gr 31.3-4).

Thiên Chúa trung thành, Ngài không bỏ rơi con người trong sự phiền muộn. Thiên Chúa yêu thương với một tình yêu vô tận, mà cả tội lỗi cũng không thể ngăn cản được, và nhờ Ngài trái tim con người được tràn đầy niềm vui và sự an ủi. Giấc mơ hồi hương tiếp tục trong các lời của ngôn sứ, hướng tới những người sẽ trở về Giêrusalem và nói: “Họ sẽ reo mừng đi tới đỉnh Xi-on, lũ lượt kéo nhau về hưởng ân lộc Giavê. Nào lúa thơm rượu mới dầu tươi, nào bò bê cùng với chiên cừu. Lòng thoả thuê như vườn cây tưới nước, họ chẳng còn mỏi mệt héo hon.” (Gr 31,12).

Trong tươi vui và lòng biết ơn các người bị đi đầy sẽ trở về Sion,  lên núi thánh hướng về nhà Chúa và như vậy họ sẽ lại có thể nâng các bài thánh thi và lời cầu nguyện lên Chúa, là Đấng đã giải thoát họ. Việc trở về Giêrusaelm và các của cải của nó được miêu tả với một động từ dịch sát chữ có nghĩa là “chảy về”. Trong một chuyển động mâu thuẫn, dân Israel được coi như một dòng sông tràn bờ chảy lên núi Sion, lên cho tới đỉnh núi. Đây là một hình ảnh táo bạo để nói lên lòng thương xót của Chúa lớn lao chừng nào!

Đất mà dân dã phải bỏ, đã trở thành mồi của thù địch và hoang tàn. Trái lại giờ đây, nó hồi sinh và nở hoa. Và chính các người bị đi đầy sẽ như một ngôi vườn được tưới gội, như một mảnh đất phì nhiêu. Dân Israel được Chúa đem về quê hương, chứng kiến chiến thắng của cuộc sống trên cái chết và của việc chúc lành trên sự chúc dữ. Đây thật là điều an ủi! Và chính như thế mà dân được Thiên Chúa củng cố và ủi an. Các người hồi hương nhận được sự sống từ một nguồn tưới gội họ một cách nhưng không.

 Tới đây ngôn sứ loan báo niềm vui tràn đầy, và luôn luôn nhân danh Thiên Chúa ông công bố: “Tang tóc họ, Ta biến thành hoan hỷ, và sau cảnh sầu thương, sẽ cho họ được an ủi vui mừng.” (Gr 31,13). Thánh vịnh nói với chúng ta rằng khi họ trở về quê hương miệng họ tràn đầy tiếng cười; đó là một niềm vui lớn biết bao! Đó là ơn mà Chúa cũng muốn ban cho từng người trong chúng ta, với sự tha thứ khiến hoán cải và hoà giải.

Ngôn sứ Giêrêmia đã cho chúng ta lời loan báo, bằng cách trình bầy việc hồi hương của những người bị đi đầy như một biểu tượng lớn lao của sự ủi an trao ban cho con tim hoán cải. Và ĐTC kết luận bài huấn dụ như sau:

Từ phía Ngài, Chúa Giêsu đã thành toàn sứ điệp này của ngôn sứ. Việc trở về đích thật và triệt để từ nơi lưu đầy và ánh sáng ủi an sau đêm đen của cuộc khủng hoảng đức tin, được hiện thực trong lễ Phục Sinh, trong kinh nghiệm tràn đầy và vĩnh viễn của tình yêu Thiên Chúa, tình yêu thương xót trao ban niềm vui, hoà bình và sự sống vĩnh cửu.

ĐTC đã chào các đoàn hành hương đến từ nhiều nước khác nhau như Pháp, Đức, Áo, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Anh, Ai len, Canada, Hoa Kỳ, cũng như từ các nước Indonesia, Nhật Bản và châu Mỹ Latinh. Vì có rất đông sinh viên học sinh các trường trung học tham dự buổi tiếp kiến ĐTC mời gọi các bạn trẻ tiến tới gần Chúa đặc biệt qua  bí tích Hoà Giải, để sống kinh nghiệm lòng thương xót của Chúa. Ngài cũng cầu mong tín hữu khắp nơi sống Năm Thánh Lòng Thương Xót như thời điểm của ơn thánh và canh tân tinh thần trong gia đình để có được niềm vui và sự an bình của Chúa Giêsu. Ngài cũng cầu mong đừng có gì có thể ngăn cản tín hữu sống tình bạn của Thiên Chúa Cha, nhưng để cho tình yêu của Chúa luôn tái sinh họ như con cái và hoà giải họ với Chúa.

Chào các đoàn hành hương Ba Lan ngài hiệp ý với các bạn trẻ tụ tập nhau tại sân vận động Tauron để cử hành Năm Thánh với đề tài “Giới trẻ và lòng thương xót”. Ngài cầu chúc họ bước theo Chúa từ nhân, khi bước qua Cửa Thánh, cử hành bí tích hòa giải, chầu Mình Thánh Chúa, suy niệm dụ ngôn người Samaritano nhân hậu và chuẩn bị tiếp đón người trẻ tham dự Ngày Quốc Tế Giới Trẻ tại Cracovia.

Chào các đoàn hành hương Italia, trong đó có tín hữu nhiều giáo phận do các Giám Mục hướng dẫn về hành hương Roma, các sinh viên và giáo sư đại học Auxilium Roma, cũng như các thành viên hiệp hội hiến cơ phận vùng Marche trung Italia, các sinh viên dại học Perugia, các thành viên tổ chức chuyên chở bệnh nhân hành hương Lộ Đức vùng Lombardia bắc Italia, ĐTC việc bước qua Cửa Thánh là dịp thuận tiện giúp mọi người trở về trong cánh tay nhân từ của Thiên Chúa Cha.

Chào các bạn trẻ, người đau yếu và các đôi tân hôn ĐTC nhắc cho biết hôm nay phụng vụ nhớ thánh Patrizio, tông đồ dân nước Ailen. Ước chi cuộc sống tinh thần mạnh mẽ của ngài kích thích người trẻ sống đức tin trung thực, sự tin tưởng của thánh nhân nơi Chúa Kitô Cứu Thế ban sức chịu đựng đau khổ cho các bệnh nhân, và lòng tận tụy truyền giáo của thánh nhân giúp các cặp vợ chồng mới cưới hiểu tầm quan trọng của việc giáo dục con cái trong đức tin kitô.

Buổi tiếp kiến đã kết thúc với Kinh Lạy Cha và phép lành toà thánh ĐTC ban cho mọi người.

Linh Tiến Khải

Sơ thảo chương trình viếng thăm của Đức Giáo Hoàng tại Ba Lan

Sơ thảo chương trình viếng thăm của Đức Giáo Hoàng tại Ba Lan

Logo chuyến viếng thăm của ĐTC sắp tới

VARSAVA. Sơ thảo chương trình viếng thăm của ĐTC tại Ba Lan từ ngày 27 đến 31-7 năm nay đã được giới thiệu tại thủ đô Varsava hôm 12-3 vừa qua.

ĐTC đến viếng thăm nước này nhân dịp Ngày Quốc Tế giới trẻ lần thứ 31 sẽ tiến hành tại Cracovia vào cuối tháng 7 tới đây.

Ngày thứ tư, 27-7, ĐTC sẽ đến phi trường Cracovia-Balice, gặp gỡ Tổng thống và các GM Ba Lan. Ban chiều tối ngài sẽ xuất hiện tại bao lơn tòa TGM Cracovia, nơi Đức Gioan Phaolô 2 thường dùng để nói chuyện với các bạn trẻ.

Thứ năm, 28-7, ĐTC sẽ đến Đền thánh Đức Mẹ Czestochowa, Nữ Vương Ba Lan, cách Cracovia 140 cây số, và cầu nguyện trước ảnh Đức Mẹ Đen. Tiếp đó ngài sẽ cử hành thánh lễ nhân dịp kỷ niệm 1050 năm Ba Lan lãnh nhận bí tích rửa tội.

Sáng thứ sáu, 29-7, ĐTC sẽ viếng thăm trại tập trung Auschwitz-Birkenau và ban chiều ngài chủ sự Đàng Thánh Giá trọng thể với các bạn trẻ ở quảng trường Cracovia.

Thứ bẩy, 30-7, ĐTC sẽ hành hương Đền Thánh Lòng Chúa Thương Xót ở Lagiewski, ngoại ô thành Cracovia. Theo dự kiến, ngài sẽ bước qua Cửa Năm Thánh tại đây, và viếng mộ thánh nữ Faustina Kowalska tại nhà nguyện gần Đền Thánh. Tiếp đến, ĐTC sẽ cử hành thánh lễ với các LM, tu sĩ và chủng sinh. Tại Đền Thánh, ngài cũng sẽ ban phép giải tội cho một số bạn trẻ rồi dùng bữa trưa với một số đại diện của họ.

Tối thứ bẩy cùng ngày, ĐTC sẽ chủ sự buổi canh thức với các bạn trẻ và sáng chúa nhật hôm sau, cũng tại cánh đồng này, ngài sẽ cử hành thánh lễ bế mạc Ngày Quốc Tế giới trẻ với nghi thức sai các bạn trẻ ra đi.

Ban chiều cùng ngày, ĐTC gặp những người thiện nguyện, ban tổ chức và các ân nhân đã cộng tác vào việc tổ chức Ngày Quốc Tế giới trẻ, trước khi ra phi trường để đáp máy bay trở về Roma.

Tại Roma, Phòng báo chí Tòa Thánh chưa công bố chương trình chính thức cuộc viếng thăm của ĐTC nhưng chỉ mới xác nhận ngài sẽ viếng thăm Ba Lan từ ngày 27 đến 31-7 năm nay (SD 12-3-2016)

Trại tập trung Auschwitz

Mặt khác, ban giám đốc trại tập trung Auschwitz-Birkenau đã quyết định dành riêng những ngày từ 20 đến 28-7 và từ ngày 1 đến 3-8 năm nay cho các bạn trẻ dự ngày Quốc Tế giới trẻ muốn thăm viếng trại tập trung này.

Trại Auschwitz-Birkenau cách Cracovia khoảng 65 cây số và là nơi Đức quốc xã đã tiêu diệt hơn 1 triệu người, trong đó đa số là người Do thái, phần còn lại là người Ba Lan, người du mục, và tù nhân chiến tranh người Nga.

Trong số các tù nhân, có 2 người đã được phong hiển thánh, đó là cha Maximiliano Kolbe, dòng Phanxicô viện tu người Ba Lan, và thánh nữ Edith Stein, một nữ triết gia Do thái ở Đức trở lại Công Giáo và trở thành một nữ Đan sĩ dòng Cát Minh.

Năm 2015 có 1 triệu 720 ngàn người, đa số là người trẻ, đến viếng thăm trại tập trung này, một con số kỷ lục. Trong số người thăm viếng vừa nói có 425 ngàn người từ Ba Lan, 220 ngàn từ Anh quốc và 141 ngàn từ Hoa Kỳ. (CNS 12-3-2016)

G. Trần Đức Anh OP

Đức Thánh Cha tiếp kiến chung 50 ngàn tín hữu

Đức Thánh Cha tiếp kiến chung 50 ngàn tín hữu

Đức Thánh Cha tiếp kiến chung 50 ngàn tín hữu

VATICAN. ĐTC mời gọi các tín hữu hãy biểu lộ tình yêu thương qua việc phục vụ lẫn nhau, noi gương Chúa Giêsu đã rửa chân cho các môn đệ.

Ngài đưa ra lời nhắn nhủ trên đây trong buổi tiếp kiến sáng thứ bẩy 12-3-2016, dành cho 50 ngàn tín hữu hành hương. Đây là buổi tiếp kiến đặc biệt mỗi tháng một lần vào thứ bẩy, nhân dịp Năm Thánh Lòng Thương Xót.

Trong bài huấn dụ về đề tài ”Lòng thương xót và việc phục vụ”, sau khi diễn giải ý nghĩa việc Chúa Giêsu rửa chân cho các môn đệ, ĐTC nhấn mạnh rằng: ”Tình yêu là một việc phục vụ cụ thể chúng ta làm cho nhau. Một việc phục vụ khiêm tốn, làm trong thinh lặng và âm thầm, như Chúa Giêsu đã nói: ”Đừng để tay phải biết việc tay trái làm” (Mt 6,3). Việc phục vụ này cũng bao hàm việc đặt để những hồng ân Chúa Thánh Linh ban cho chúng ta để cộng đoàn có thể tăng trưởng (Xc 1 Cr 12,4-11).”

ĐTC nói thêm rằng ”việc phục vụ cũng được diễn tả qua sự chia sẻ của cải vật chất, để không ai phải ở trong tình cảnh túng thiếu. Sự chia sẻ và tận tụy dành cho người túng thiếu là một lối sống mà Thiên Chúa cũng gợi ý cho cả những người không Kitô, như con đường tình người đích thực”.

Sau cùng, ĐTC nhắc nhủ rằng Chúa Giêsu cũng mời gọi chúng ta xưng thú với nhau những khiếm khuyết và cầu nguyện cho nhau để biết thành tâm tha thứ cho nhau. (SD 12-3-2016)

G. Trần Đức Anh OP

Đọc Kinh Truyền Tin với Đức Thánh Cha – Chúa Nhật V Mùa Chay

Đọc Kinh Truyền Tin với Đức Thánh Cha – Chúa Nhật V Mùa Chay

Đọc Kinh Truyền Tin với Đức Thánh Cha - Chúa Nhật V Mùa Chay

 

VATICAN. Trong buổi đọc Kinh Truyền Tin trưa Chúa Nhật, ngày 13.03, với vài chục ngàn tín hữu và du khách hành hương năm châu, Đức Thánh Cha Phanxicô nói rằng Thiên Chúa không muốn kẻ tội lỗi phải chết, nhưng muốn nó ăn năn sám hối và được sống.

Sau đây là nguyên văn bài huấn dụ của Đức Thánh Cha:

“Anh chị em thân mến,

Tin Mừng của ngày Chúa Nhật V Mùa Chay hôm nay rất đẹp (Ga, 8, 1-11). Tôi rất thích đọc và suy gẫm về đoạn Tin Mừng này. Thánh Luca đã trình bày cho chúng ta câu chuyện về người phụ nữ ngoại tình, qua đó làm nổi bật chủ đề lòng thương xót của Thiên Chúa. Thiên Chúa không muốn kẻ tội lỗi phải chết, nhưng muốn nó ăn năn sám hối và được sống. Câu chuyện diễn ra trong khuôn viên đền thờ. Khi ấy, Đức Giêsu đang giảng dạy dân chúng. Các kinh sư và người Pha-ri-sêu dẫn đến trước mặt Ngài một phụ nữ bị bắt gặp đang ngoại tình. Họ để chị ta đứng ở giữa Đức Giêsu và dân chúng (x. câu 3), tức là đứng giữa lòng xót thương của Con Thiên Chúa và sự công kích của những người tố cáo chị. Trong thực tế, họ không đến với Thầy Giêsu để xin ý kiến nhưng là để gài bẫy Ngài. Thật vậy, nếu Đức Giêsu theo sự nghiêm khắc của lề luật, tức là chấp thuận việc ném đá người phụ nữ, thì ngay lập tức Ngài sẽ mất đi uy tín. Những gì Ngài rao giảng về sự hiền lành, lòng thương xót mà dân chúng đang say mê lắng nghe sẽ trở nên giả dối. Nhưng nếu Ngài nói không, tức là muốn tỏ lòng thương xót với người phụ nữ, thì Ngài đang đi ngược lại với lề luật. Như vậy Đức Giêsu cũng tự mẫu thuẫn với chính mình vì trước đây Ngài từng tuyên bố: ‘Tôi đến không phải là để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn lề luật’ (x. Mt 5,17). Đức Giêsu đã bị đặt vào hoàn cảnh khó khăn như thế.

Ý định và cạm bẫy nham hiểm của các kinh sư và người Pha-ri-sêu ẩn núp dưới câu hỏi mà họ chất vấn Đức Giêsu: ‘Còn Thầy, Thầy nghĩ sao?’ Đức Giêsu im lặng không trả lời và làm một cử chỉ bí ẩn, rất khó hiểu: ‘Ngài cúi xuống lấy ngón tay viết trên đất’ (c. 7). Dường như Đức Giêsu vẽ cái gì đó. Có người cho rằng Ngài viết tội của người Pha-ri-sêu… Tuy nhiên, việc Đức Giêsu viết cũng giống như những việc khác Ngài đã làm thôi. Nhưng chắc chắn rằng, bằng cách viết trên đất như thế, Đức Giêsu muốn mời gọi mọi người bình tĩnh lại, đừng hành động vì sự nôn nóng bốc đồng nhưng hãy tìm kiếm sự công bình của Thiên Chúa. Tuy nhiên, họ lại nhất quyết chờ đợi một câu trả lời từ Đức Giêsu. Dường như họ đang khát máu. Vì họ cứ hỏi mãi nên Đức Giêsu ngẩng lên và bảo họ: ‘Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi.’ (c. 7) Câu trả lời này đã hạ đo ván những người đang lên án tố cáo, tước bỏ tất cả vũ khí của họ trong chính nghĩa đen của từ ngữ: tất cả họ đều hạ ‘vũ khí’ xuống, đó là những viên đá đang sẵn sàng để ném ra. Một cách công khai họ muốn giết chết người phụ nữ, nhưng cách âm thầm và đầy ngụ ý họ muốn chống đối và loại trừ Đức Giêsu. Và trong khi Đức Giêsu tiếp tục viết trên đất, những kẻ tố cáo bỏ đi hết, kẻ trước người sau, bắt đầu từ những người lớn tuổi, đó là những người ý thức hơn về tình trạng không sạch tội của mình. Chính chúng ta cũng phải ý thức rằng chúng ta là kẻ tội lỗi. Khi kết án người khác, chúng ta biết rõ tội lỗi của họ. Nhưng sẽ thật tốt đẹp nếu chúng ta có cam đảm bỏ xuống đất hòn đá nắm trong tay để ném người khác và suy nghĩ về tội lỗi của mình.

Cuối cùng chỉ còn lại người phụ nữ và Đức Giêsu: sự khốn khổ và lòng thương xót đối diện với nhau. Điều này cũng xảy ra với mỗi người chúng ta. Khi đến trước tòa giải tội, với sự xấu hổ, thẹn thùng, chúng ta nhận thấy tình trạng khốn khổ của mình và nài xin ơn tha thứ. Đức Giêsu cất tiếng hỏi: ‘Này chị, họ đâu cả rồi?’ (c.10). Như vậy, vụ thẩm tra đã kết thúc. Với đôi mắt tràn đầy xót thương và tình yêu mến, Đức Giêsu nhận thấy rằng người phụ nữ vẫn có phẩm giá của mình. Chị không đáng tội chết. Chị vẫn có thể thay đổi đời sống, vẫn có thể thoát ra khỏi kiếp nô lệ tội lỗi và bước đi trên một con đường mới.

Chị đại diện cho tất cả chúng ta, những tội nhân. Cách nào đó, chúng ta cũng là những người ngoại tình trước mặt Thiên Chúa, là những kẻ phản bội lòng trung tín của Ngài. Kinh nghiệm của chị cũng tượng trưng cho ý định của Thiên Chúa dành cho tất cả chúng ta: Thiên Chúa không kết án chúng ta nhưng cứu độ chúng ta nhờ Đức Giêsu. Đức Giêsu chính là ân sủng, cứu vớt chúng ta khỏi tội lỗi và cái chết. Ngài đã lấy ngón tay viết trên đất, trên cái bụi mà từ đó con người được tạo dựng nên (x. St 2,7). Phán quyết của Thiên Chúa là: ‘Ta không muốn con phải chết, nhưng muốn con được sống.’ Chúa không cứ tội ta mà trách phạt, cũng chẳng đồng nhất ta với những lỗi lầm trót phạm. Chúa muốn giải thoát chúng ta. Chúa muốn ở với ta và muốn chúng ta cũng ở lại với Ngài. Chúa mong ước chúng ta đừng sử dụng tự do để làm điều xấu nhưng biết làm điều thiện. Và chúng ta có thể làm được điều ấy với ân sủng Chúa ban.

Đức Trinh Nữ Maria sẽ giúp chúng ra biết tín thác cách tuyệt đối vào lòng thương xót của Thiên Chúa, nhờ đó mà chúng ta sẽ được trở nên những thụ tạo mới.”

Sau khi đọc Kinh Truyền Tin, Đức Thánh Cha đã gởi lời chào thân ái đến tất cả các tín hữu ở Roma và khách hành hương đến từ Italia cũng như các quốc gia khác.

Đức Thánh Cha cũng nhắn nhủ rằng: “Hôm nay, tôi muốn nhắc lại ý nghĩa cử chỉ của việc anh chị em trao tặng các sách Tin Mừng bỏ túi. Đó là sách Tin Mừng theo thánh Luca mà chúng ta đọc vào mỗi Chúa Nhật trong năm phụng vụ này. Cuốn sách ấy có nhan đề: ‘Tin Mừng về lòng thương xót Chúa theo Thánh Luca’. Thánh sử Luca đã thuật lại lời của Chúa Giêsu rằng: ‘Anh em hãy có lòng nhân từ, như Cha anh em là Đấng nhân từ’ (Lc, 6, 36). Chính những lời ấy đã gợi hứng cho Năm Thánh này. Anh chị em sẽ được phát miễn phí sách Tin Mừng bỏ túi ấy bởi các tình nguyện viên. Tôi mời gọi anh chị em hãy nhận lấy và đọc mỗi ngày, để nhờ đó lòng thương xót của Thiên Chúa sẽ cư ngụ trong tâm hồn anh chị em và anh chị em cũng có thể diễn tả lòng thương xót ấy cho những người mà anh chị em gặp gỡ.”

Cuối cùng Đức Thánh Cha chúc mọi người ngày Chúa nhật an lành và cũng xin mọi người đừng quên cầu nguyện cho ngài.

Vũ Đức Anh Phương, SJ

Năm Thánh gia tăng số người xưng tội tại Đền Thờ Thánh Phêrô

Năm Thánh gia tăng số người xưng tội tại Đền Thờ Thánh Phêrô

Năm Thánh gia tăng số người xưng tội tại Đền Thờ Thánh Phêrô

VATICAN. Năm Thánh đưa nhiều người đến tòa giải tội trong đền thờ Thánh Phê rô hơn, Cha Rocco Rizzo dòng Phanxicô viện tu, trưởng nhóm  các cha giải tội tại đền thờ Thánh Phêrô cho biết như thế.

Cha nói với báo Osservatore Romano rằng: “Số người xưng tội trong đền thờ thánh Phê rô gia tăng thấy rõ trong những tháng đầu của năm Thánh Thương xót, nhưng không phải giữa những người nói tiếng Anh, những người có lẽ vì sợ khủng bố nên tránh xa châu Âu”.

Cha cho biết là ngài đã giải tội cho khoảng 2000 người trong đền thờ Thánh Phêrô, kể từ ngày khai mạc Năm Thánh cho đến hết tháng 2, nhưng phần lớn các hối nhân là người Ý. Cha nghĩ là số người ngoại quốc ít đi là do những cảnh báo về khủng bố sau những vụ tấn công ở Paris vào tháng 11 năm ngoái. Đây là lý do các cha giải tội bằng tiếng Anh có ít người xưng tội hơn trong năm nay.

Trong cuộc phỏng vấn ngày 10 tháng 3, Cha Rizzo cho báo  Osservatore Romano biết, ngoài 14 cha Phanxi cô viện tu giải tội thường trực trong đền thờ, thì cũng có thêm 30 cha được gửi đến ngồi tòa trong Năm Thánh. Các cha sẽ giải tội hàng ngày, ban sáng từ 10 giờ sáng đến 1 giờ trưa, và ban chiều, vào mùa đông, từ 3 giờ 30 đến 6 giờ 30 chiều, còn mùa xuân và hè thì các ngài sẽ giải tội cho đến 7 giờ chiều. Ngoài các ngôn ngữ chính như: Ý, Tây ban nha, Anh, Pháp, Đức, Bồ đào nha, và Ba lan, cũng có một số cha có thể ban phép gỉai tội bằng tiếng Hoa, Malta và Cro-át 

Cha Rizzo thường giải tội cho khoảng 20 đến 30 người một ngày bằng tiếng Ý và Tây ban nha, nhưng vào dịp cuối tuần thứ 7 và Chúa nhật, số người đến xưng tội thường tăng lên, và Cha sẽ nghe khoảng 50 người xưng tội.

Cha cũng nói về một hiện tượng đang gia tăng là số người không Công giáo đến xưng tội. Họ muốn xưng tội để xem nó như thế nào. Cha nói: “Các vị giải tội có thể lắng nghe và khuyên nhủ những người không Công giáo, nhưng những trường hợp đó không được coi là  bí tích giải tội.”

Theo Cha, ngay cả các khách du lich hay nhũng người hành hương Công giáo thăm viếng đền thờ thánh Phê rô cũng không quen với việc lãnh nhận bí tích hòa giải. Nhiều người trẻ cho biết họ đã không xưng tội từ khi họ rước lễ lần đầu. Cha kể: “Cha đã giải tội cho những ngườì đã phạm tội trọng cách đây 30 hay 40 năm, bây giờ họ nghe những lời của Đức Thánh Cha Phanxicô và muốn hòa giải với Chúa. Đặc biệt, có những phụ nữ đã từng phá thai, đến xưng tội với Cha. Họ mang vết thương không bao giờ lành nên dù đã xưng tội đó rồi họ vẫn muốn xưng tội lại.”  

Trong năm Lòng Thương xót, cha Rizzo và các cha giải tội ở đền thờ thánh Phê rô và các đền thờ lớn ở Roma được ban năng quyền đặc biệt, có thể ban phép giải tội cho cả những trường hợp như phá thai, điều mà bình thường cần tham vấn Giám mục địa phương, hay có khi là Vatican.

Cha Rizzo cho biết thêm: “có một điều thay đổi nữa trong năm Lòng Thương xót, đó là trong phần đền tội, nhiều cha giải tội tại đền thờ đã yêu cầu các hối nhân thể hiện sự thống hối của họ bằng một việc làm cụ thể, thay vì đọc kinh. Các việc làm này có thể là thăm viếng người đau yếu, đi chợ cho người già, trả bill cho những người không có tiền, hoặc là giúp ai đó đi đến nhà thờ.” (CNS 10-3-2016)

Hồng Thủy OP

Công bố qui luật mới về quản trị tài sản án phong thánh

Công bố qui luật mới về quản trị tài sản án phong thánh

Công bố qui luật mới về quản trị tài sản án phong thánh

VATICAN. Hôm 10-3-2016, qui luật mới về việc Quản trị tài sản liên quan đến các án phong chân phước và hiển thánh đã được Tòa Thánh công bố.

Qui luật này có hình thứ một phúc chiếu (Rescriptum ex audientia Santissimi), được ĐTC phê chuẩn ngày 4-3-2016, được công bố trên báo ”Quan sát viên Roma của Tòa Thánh”, có hiệu lực thử nghiệm trong 3 năm từ ngày được ký và thay thế cho qui luật cũ đã được Thánh Gioan Phaolô 2 phê chuẩn ngày 20-8 năm 1983.

Qui luật mới gia tăng sự minh bạch trong việc quản trị ngân quĩ dành cho việc chi phí án phong đồng thời tăng cường sự kiểm soát của nhà chức trách có thẩm quyền và của Bộ Phong Thánh đối với việc quản trị. Các ngân quĩ được thiết lập để trang trải các chi phí cho việc phong chân phước và hiển thánh: từ việc phổ biến cuộc sống của vị Tôi Tớ Chúa hoặc Chân Phước, cho đến cuộc điều tra ở cấp giáo phận, và sau cùng là lễ phong chân phước hoặc hiển thánh.

Luật qui định rằng sau khi chủ án (thường là một dòng tu hay giáo phận) chấp nhận việc xin mở án phong, thì sẽ thiết lập một ngân quĩ để chi phi cho án ấy. Ngân quĩ này do tiền dâng cúng của tín hữu hoặc của các pháp nhân và được coi như một ”thiện quĩ” (fondo di causa pia).

Người quản trị quĩ đó có thể là chính vị thỉnh nguyện viên hoặc người được bổ nhiệm cho công việc này. Người quản trị phải làm kết toán và bá cáo hàng năm. Bộ phong thánh có thể yêu cầu bá cáo bất kỳ lúc nào về việc quản trị quĩ này. Bộ có thể ban hành các biện pháp kỷ luật trong trường hợp có sai trái.

Nếu chủ án (giáo phận, dòng tu..) muốn sử dụng, dù chỉ một phần tài sản, để chi vào một việc có mục đích khác với án phong thánh thì phải xin phép của Bộ Phong Thánh.

Quản trị viên ngân quĩ phong thánh phải chuyên cần tuân hành tất cả các qui luật do Bộ Phong thánh ban hành liên quan đến hoạt động quản trị và tài chánh của một án phong.

Bộ phong thánh cũng yêu cầu chủ án phải đóng góp vào việc tổ chức lễ phong chân phước và phong thánh cử hành ở Roma. Nếu cần Bộ có thể yêu cầu đóng góp đặc biệt.

Qui luật cũng xác định chi biết các giai đoạn phải đóng góp cho các chi phí để xin nhìn nhận cuộc tử đạo, các nhân đức anh hùng, hoặc tước hiệu tiến sĩ Hội Thánh, nhìn nhận phép lạ.

Sau khi cử hành lễ phong chân phước hoặc hiển thánh, quản trị viên của ngân quĩ phải tường trình toàn bộ việc quản lý tài sản đã được phê chuẩn đúng phép.

Sau khi phong hiển thánh, Bộ Phong thánh sẽ quyết định về số tài sản còn lại, để ý đến những yêu cầu sử dụng từ phía chủ án phong và những đòi hỏi của ”ngân quĩ liên đới”. Sau đó, ngân quĩ án phong và chức vụ thỉnh nguyện viên không còn hiện hữu nữa. (SD 10-3-2016)

G. Trần Đức Anh OP

 

Ý chỉ cầu nguyện tháng Ba của Đức Thánh Cha: Cầu nguyện cho các gia đình

Ý chỉ cầu nguyện tháng Ba của Đức Thánh Cha: Cầu nguyện cho các gia đình

 

VATICAN: Trong tháng Ba, ý chỉ cầu nguyện của Đức Thánh Cha Phanxicô đặc biệt hướng về gia đình. Đức Thánh Cha chia sẻ: “Gia đình là một trong những tài sản quý giá nhất của nhân loại. Nhưng gia đình chẳng phải cũng dễ bị thương tổn nhất sao? Khi gia đình không được chăm sóc và bảo vệ, khi gặp phải những khó khăn về kinh tế, sức khỏe hay bất cứ một hình thức nào khác; con cái sẽ phải lớn lên trong những hoàn cảnh bấp bênh, buồn chán.”

Thật vậy, trong đoạn video có cảnh một bé gái đang ngồi trên cầu thang với vẻ mặt lo lắng, buồn bã. Em đang lắng nghe tiếng đập cửa, tiếng khóc la rên rỉ dường như đang bị tắc nghẹt trong cổ họng của một đứa trẻ khác bên trong cánh cửa đóng kín sau lưng em.

Đức Thánh Cha nói: “Cha muốn chia sẻ với các con, hiệp cùng với Đức Giêsu, ý chỉ cầu nguyện của cha trong tháng này: ‘Cầu cho các gia đình đang gặp khó khăn nhận được sự trợ giúp cần thiết và cho các trẻ em được lớn lên trong môi trường lành mạnh và an toàn.’”

Vũ Đức Anh Phương (SJ)

Đại diện Tòa Thánh tại LHQ kêu gọi tôn trọng quyền sức khỏe

Đại diện Tòa Thánh tại LHQ kêu gọi tôn trọng quyền sức khỏe

Đại diện Tòa Thánh tại LHQ kêu gọi tôn trọng quyền sức khỏe

GENÈVE. Đại diện Tòa Thánh cạnh các tổ chức LHQ ở Genève, Đức Ông Richard Gyhra, kêu gọi đừng đặt những lợi lộc kinh tế lên trên hết đến độ không còn tôn trọng quyền của dân nghèo được săn sóc sức khỏe.

Đức ông Gyhra hiện xử lý thường vụ Phái bộ quan sát thường trực của Tòa Thánh ở LHQ, Genève. Trong bài tham luận hôm 10-3-2016, ngài kêu gọi tôn trọng quyền sức khỏe của con người như được nhìn nhận trong tuyên ngôn quốc tế nhân quyền, và đừng chấp nhận một sự kỳ thị nào trong việc cung cấp những dịch vụ sức khỏe, trong đó có việc cung cấp những thuốc men thiết yếu, phân phối công bình các dịch vụ y tế và chấp nhận các chiến lược quốc gia để phòng ngừa và bài trừ bệnh Sida (Aids).

Đức Ông Gyhra nhận xét rằng mặc dù bao nhiêu sáng kiến tích cực đã được thi hành trong 10 năm gần đây để chấm dứt bệnh dịch Sida, nhưng vẫn còn rất nhiều điều cần làm. Trong số các thách đố chính, có thách đố không coi lợi lộc kinh tế do thuốc men và các dụng cụ chẩn bệnh mang lại như một ưu tiên, để tránh tình trạng giá thuốc men quá cao khiến các bệnh nhân không thể mua nổi.

Đức Ông Gyhra nhận xét rằng trong hơn 30 năm, bệnh Sida đã gây ra chết chóc và đau khổ khôn tả cho hàng triệu trẻ em và người lớn, và khiến cho hàng triệu trẻ em mồ côi, đưa các gia đình và cộng đoàn đến tình trạng sụp đổ về mặt xã hội, kinh tế và cảm xúc.

Sau cùng Đức Ông Gyhra kết thúc bài tham luận với lời ĐTC Phanxicô tại Trụ sở LHQ ở Nairobi, Kenya ngày 26-11-2015: ”Sự lệ thuộc lẫn nhau và hội nhập các nền kinh tế không được gây thiệt hại nào cho hệ thống y tế và bảo vệ xã hội hiện nay, trái lại, nó phải tạo điều kiện dễ dàng cho sự thiết lập và điều hành các hệ thống ấy. Một số vấn đề y tế đòi các giới chức chính trị ưu tiên lưu tâm, vượt lên trên bất kỳ lợi lộc thương mại hoặc chính trị nào” (SD 11-3-2016)

G. Trần Đức Anh OP