Đấng Bảo Trợ

Đấng Bảo Trợ

(Trích trong ‘Sống Tin Mừng’)

Cuốn phim có tựa đề: “Đời Vẫn Đẹp” do Roberto đạo diễn và thủ diễn. Cuốn phim đã nêu lên câu truyện của người Do Thái cùng với vợ và đứa con trai nhỏ bị Đức Quốc Xã đưa vào trại. Nhờ tài khôi hài, ông đã giữ vững được tinh thần của đứa con khi quân đội đồng minh đến giải thoát.

Cuốn phim hẳn gợi lại kinh nghiệm của bác sĩ Victo Rey, ba năm lưu đày tại Ba-Lan và nhiều trại tập trung khác của Đức Quốc Xã, đã giúp cho vị bác sĩ chuyên gia tâm lý này khám phá được một chân lý quan trọng trong cuộc sống của con người, chân lý đó là, trong những hoàn cảnh nghiệt ngã đau thương nhất con người vẫn có thể tồn tại nếu họ có niềm tin và tìm được ý nghĩa của cuộc sống.

Bác sĩ Brand đã quan sát những phản ứng khác nhau của các bạn tù của ông, có những người trước khi vào tù thì được mọi người trọng vọng, ngưỡng mộ, thế nhưng bỗng chốc lộ nguyên hình của những kẻ hèn hạ có thể bán đứng anh em vì một chút lợi lộc nhỏ mọn. Một số khác thoạt tiên thể hiện bản lĩnh của những nhà lãnh đạo, thế nhưng liền sau đó thất vọng và ngã gục chỉ trong vài ngày. Trái lại, cũng không thiếu những người rất ít được mọi người chú ý đến, họ đã âm thầm chịu đựng cho đến cùng và được sống còn.

Tìm hiểu sự khác biệt giữa những hạng người trên đây, bác sĩ Brand khám phá ra rằng, chính mục đích và ý nghĩa của cuộc sống là sức mạnh làm cho con người tồn tại trong những điều kiện tột cùng khốn khổ của cuộc sống. Trong kinh nghiệm bản thân, bác sĩ Brand cho biết, chính tình yêu đối với vợ ông đã giúp cho ông tiếp tục tìm thấy ý nghĩa và lẽ sống trong tận đáy của hỏa ngục. Mặc dù không biết vợ mình bị giam giữ ở đâu, còn sống hay đã chết, bác sĩ Brand đã chia sẻ kinh nghiệm như sau:

Không có gì có thể tách tôi ra khỏi tình yêu, những ý nghĩ và hình ảnh người vợ yêu dấu của tôi, cho dẫu người ta có báo tin rằng vợ tôi đã chết thì tôi sẽ không bao giờ ngưng chiêm ngắm hình ảnh của nàng và thôi không chuyện vãn với nàng nữa. Càng lúc tôi càng cảm nghiệm được hình ảnh của vợ tôi; vợ tôi vẫn luôn ở bên cạnh tôi. Chính tình yêu đối với vợ đã mang lại hy vọng và sức mạnh giúp cho bác sĩ Brand chịu đựng mọi nghịch cảnh và tồn tại cho đến ngày được giải cứu khỏi các trại tập trung. Khám phá được ý nghĩa của cuộc sống, đây hẳn không phải là một điều xa xỉ hay phụ thuộc trong cuộc sống con người, mà là một nhu cầu hiện sinh còn quan trọng hơn cả các ăn thức uống của con người.

Ý nghĩa lẽ sống của người Kitô chúng ta chính là Chúa Giêsu Kitô, đây là điều một lần nữa hôm nay Giáo Hội muốn nhắc nhở chúng ta. Kitô giáo chúng ta không phải là một ý thức hệ; cũng không phải là một hệ thống luân lý chỉ gồm những điều luật phải tuân giữ; lại càng không phải là một xã hội theo thể chế chính trị nào đó. Kitô giáo thiết yếu là một con Người, con Người đó hôm qua, hôm nay và mãi mãi vẫn là một, Ngài đã hiện diện trong giáo hội và trong cuộc sống của mỗi người chúng ta, Ngài là sức sống của mỗi người Kitô chúng ta. Thường thì một vị thánh hiền, một bậc vĩ nhân đi qua trong lịch sử nhân loại và để lại sự nghiệp của mình, nhưng với Chúa Kitô lại khác, Ngài không hiện diện như một xác chết được tẩm liệm, Ngài cũng chẳng hiện diện qua những di tích Ngài để lại, Ngài cũng chẳng để lại sự nghiệp nào, Ngài đã chết và Ngài đã sống lại, chính vì đã sống lại cho nên Ngài vẫn có đó, Ngài hiện diện một cách sống động nơi đây, trong giây phút này đây, đó là niềm tin, là sức sống, là lịch sử của Giáo Hội từ hơn 2,000 năm qua, đó cũng là lẽ sống của không biết bao nhiêu người tín hữu đã đi trước chúng ta, trong Ngài họ đã tìm thấy ý nghĩa của cuộc sống và để có thể vui sống, nhất là kiên trì cho đến cùng giữa những thử thách và bách hại, tất cả đều sống niềm xác tín của thánh Phaolô như ngài đã viết trong thư gởi cho giáo đoàn Rôma: “Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu Chúa Kitô, phải chăng là gian truân, khắc khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo?”

Đây là niềm xác tín mà Giáo Hội mời gọi chúng ta hâm nóng lại khi cho chúng ta lắng nghe Tin Mừng hôm nay. Trong bài diễn văn tự thuật với các môn đệ trước khi đi vào cuộc tử nạn và phục sinh của Chúa Giêsu, họ được mời gọi để chuẩn bị tinh thần đón nhận cách thế hiện diện mới của Ngài, Ngài nói với các ông: “Thầy sẽ không bỏ các con mồ côi, Thầy sẽ đến với các con.” Quả thật, sau khi đón nhận Chúa Thánh Thần, các môn đệ đã cảm nhận được sự hiện diện của Chúa Giêsu, từ những con người quê mùa, dốt nát và nhát đảm, các môn đệ đã được Chúa Thánh Thần biến thành những nhà rao giảng không biết mỏi mệt và nhất là dùng chính cái chết của mình để làm chứng cho sự hiện diện ấy của Chúa Giêsu.

Hơn hai ngàn năm qua, sức sống được Chúa Thánh Thần thông ban cho các môn đệ đã tràn ngập thế giới, đã trở thành lẽ sống của không biết bao nhiêu người. Chính nhờ sức sống ấy mà các tín hữu Kitô tìm thấy ý nghĩa của cuộc sống và sống đúng ơn gọi làm người của mình. Sống công bình, sống bác ái, sống phục vụ, sống quên mình không phải là độc quyền của người Kitô giáo. Tôn giáo nào cũng đề cao những giá trị ấy; giới răn yêu thương cũng không phải là giới răn riêng của các tín hữu Kitô chúng ta. Thế nhưng Chúa Giêsu đã ban bố giới răn ấy như một giới răn mới mẻ và là riêng của Ngài, bởi vì Ngài ban chính sức sống và tình yêu của Ngài cho các tín hữu để họ yêu thương bằng chính tình yêu của Ngài.

Chúa Giêsu chính là tình yêu, Chúa Giêsu chính là sức sống của các tín hữu. Chúng ta họp nhau cử hành thánh lễ của mỗi ngày Chúa Nhật để xin Chúa Kitô bổ sức cho chúng ta, để chúng ta tiếp tục sống, để cho mọi người thấy rằng, Ngài thật sự là Đấng đang hiện diện và tác động trong chúng ta, Ngài chính là lẽ sống mang lại ý nghĩa cho cuộc sống của chúng ta, Ngài là sức mạnh để chúng ta tiếp tục chiến đấu, Ngài là niềm hy vọng để chúng ta tiếp tục tiến bước.

Veritas Radio

Sự sống mới

Sự sống mới

Nếu các Tin mừng Matthêu, Marcô và Luca mời gọi ta vào Vương quốc Thiên Chúa, thì Tin Mừng Gioan mời gọi ta vào tình yêu Chúa Giêsu Kitô. Thánh Gioan là người sống sau cùng. Sau khi đã nghiền ngẫm tất cả cuộc đời và những lời giảng dạy của Chúa Giêsu, thánh nhân nghiệm ra cái cốt lõi của cuộc sống người môn đệ là tình yêu chúa Giêsu Kitô, là kết hiệp với Chúa Giêsu Kitô, là sống sự sống của Thiên Chúa.

Tình yêu đó không phải là thứ tình yêu mơ mộng lãng mạn nhưng là một tình yêu sàng suốt của lý trí.Tình yêu đó không phải là chuyện đuổi bướm, hái hoa, rung động, xúc cảm, nhưng là một tình yêu với những việc làm cụ thể. Việc làm cụ thể đó là tuân giữ những điều Chúa Giêsu truyền dạy.

Đó chính là bí quyết Chúa Giêsu truyền lại cho các môn đệ, trước khi người giã từ các ông để đi vào thế giới đức tin. Từ nay để gặp gỡ Người, để yêu mến Người, để sống với Người, cần phải có đức tin và tình yêu.

Tin và Yêu là đôi mắt giúp ta nhìn thấy những sự thực siêu nhiên. Người không tin và không yêu sẽ không nhìn thấy như lời Chúa Giêsu nói trong Tin Mừng hôm nay: “Thầy ban cho anh em Thần chân lý, Đấng mà thế gian không thể đón nhận được vì thế gian không thấy và không biết Người”. Cũng như kiến thức ý khoa là khả năng chuyên môn giúp người bác sĩ nhận dạng được các loại vi trùng, định đúng được bệnh trạng của bệnh nhân; hoặc như kiến thức về thảo mộc củanhà thực vật học giúp họ nhận dạng phân loại và biết rõ đặc tính của những loải cây cỏ, tin và yêu cũng phải là khả năng chuyên môn giúp người môn đệ Chúa nhận ra những sự thực siêu nhiên, nhìn thấy, nhận biết và đón nhận Thiên Chúa.

Tin và Yêu, như vậy, là con đường dẫn đưa ta tới gặp gỡ Thiên Chúa.

Với đức tin và tình yêu, người môn đệ Chúa không còn thấy Thiên Chúa là một Đấng xa vời, mơ hồ, nhưng là một Đấng gần gũi, rất thật. Với đức tin và tình yêu ta sẽ gặp được Đức Chúa Cha, Đấng thương yêu, luôn chăm sóc cho ta, luôn mời gọi ta, luôn muốn ấp ủ ta, luôn muốn tha thứ cho ta.

Với đức tin và tình yêu, ta sẽ gặp được Chúa Giêsu trong bí tích Thánh Thể, trong Sách Thánh, trong những lời giáo huấn của Giáo hội và trong những anh em sống quanh ta.

Với đức tin và tình yêu, ta sẽ cảm nghiệm được sự hiện diện của Chúa Thánh Thần khi Người đốt lên trong tim ta ngọn lửa yêu mến, khi Người thúc đẩy ta dẫn thân phục vụ, khi Người soi sáng cho ta những sáng kiến trong những hoạt động mới.

Nhưng quan trọng nhất là: Tin và Yêu là hai cánh cửa mở vào sự sống thần linh. Tin và Yêu không chỉ cho ta nhìn thấy Chúa, gặp gỡ Chúa mà còn cho ta được tham dự vào sự sống của Chúa. Sự sống đó là hiệp thông, như lời Chúa Giêsu nói: “Ai có và giữ các giới răn của Thầy, người ấy là kẻ yêu mến Thầy. Mà ai yêu mến Thầy, thì sẽ được Cha của Thầy yêu mến”.

Chúa Cha ở trong Chúa Con và như Chúa Con ở trong Chúa Cha, ta sẽ được ở trong sự sống mầu nhiệm của Thiên Chúa Ba Ngôi và thật kỳ diệu, Ba Ngôi đến ở trong ta. Ở trong người nào tức là được người ấy yêu thương. Hiệp thông trong yêu thương là một thái độ cởi mở: mở tâm hồn ra để cho đi và nhận lãnh sự sống. Nhờ Tin và Yêu, ta mở lòng ra đón nhận Thiên Chúa, sự sống mới, sự sống sung mãn, sự sống vĩnh cửu.

Đúng như lời Chúa Giêsu nói: “Thầy sẽ không để anh em mồ côi”. Ai nhắm mắt đức tin, sẽ không nhìn thấy Chúa, sẽ trở thành mồ côi. Ai đóng cửa tình yêu, sẽ không gặp được Chúa, sẽ sống trong cô độc. Nhưng người môn đệ Chúa, nhờ có đức tin và tình yêu sẽ gặp được Thiên Chúa Ba Ngôi. Và như thế việc ta đi của Chúa Giêsu không những không thiệt hại mà còn ích lợi cho ta. Sự ra đi của Người dẫn ta đi đến kết hiệp với Thiên Chúa Ba Ngôi trong sự sung mãn, sự sống dồi dào.

Nhưng để đạt tới điều Chúa Giêsu đã hứa, ta hãy nhớ lại một lần nữa lời Người căn dặn: “Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em hãy giữ các giới răn của Thầy”. Đức tin được thể hiện bằng tình yêu. Tình yêu được chứng minh qua hành động. Đó là chìa khoá của đời sống Kitô hữu.

GỢI Ý CHIA SẺ

1- Theo bạn, tình yêu mến Chúa là những tình cảm bồng bột hay những việc làm cụ thể theo lý trí?

2- Có bao giờ bạn cảm nghiệm được sự hiện diện của Thiên Chúa trong đời sống không?

3- Bạn có cố gắng làm chứng cho người khác về sự hiện diện của Thiên Chúa qua đời sống cầu nguyện và bác ái của bạn không?

ĐTGM Ngô Quang Kiệt

Mồ côi

Mồ côi

Mỗi khi đi tham dự đám tang của một người cha, hay của một người mẹ trẻ vừa mới nằm xưống, nhìn giải khăn xô buộc hờ hững trên mái đầu xanh, chúng ta cảm động như muốn khóc lên được. Đứa bé ngây thơ nhìn những nắm đất được ném xuống lòng huyệt lạnh. Nó chẳng hiểu gì cả. Nó đâu có biết rằng chết là ra đi vĩnh viễn, hai bờ bến ngàn trùng xa cách. Nó tưởng rằng ba nó hay mẹ nó đi thăm ông bà nội ngoại, mai mốt sẽ về và cho nó thật nhiều quà. Người khác nhìn vào sẽ cảm thấy chua xót và khóc thầm cho cuộc đời của nó. Ngày mai nó sẽ ra sao? Lớn lên, nó mới hiểu được rằng: mất cha, mất mẹ là một nỗi bất hạnh quá lớn không thể lalm cho vơi giảm, là một mất mát quá to không thể nào bù đắp.

Vì thế, người Âu châu có một ngày lễ rất đẹp vào Chúa nhật thứ hai trong tháng năm, đó là là ngày lễ của những người mẹ. Ngày lễ này được tổ chức để ghi nhớ công ơn mẹ hiền. Và những ai còn mẹ, khi đi ra ngoài đường sẽ được cài một bông hồng trên áo, để nói lên rằng người ấy thật hạnh phúc vì còn được sống bên người mẹ của mình.

Nếu có dịp ghé thăm một cô nhi viện, chúng ta sẽ thấy những em bé mồ côi quấn quít bên chúng ta, mong muốn được nói chuyện với chúng ta vì các em thiếu vắng một tình yêu thương chăm sóc.

Từ những kinh nghiệm cụ thể ấy, chúng ta dễ dàng hiểu được lời Chúa phán:

– Thầy không bỏ các con mồ côi.

Thực vậy. Trước khi từ giã các môn đệ, Chúa Giêsu đã cầu nguyện cho các ông, đã căn dặn các ông những điều cuối cùng và nhất là đã trăn trối cho các ông bổn phận phải yêu thương nhau. Ngài đã phác họa cho các ông thấy cả một tương lai đen tối:

– Họ đã bắt bớ Thầy, thì họ cũng sẽ bắt bớ các con.

Tuy nhiên, để các ông được yên tâm, không hoảng sợ, không thất vọng, Ngài đã hứa ban Chúa Thánh Thần cho các ông và nhất là đã hứa ở với các ông một cách mầu nhiệm:

– Thầy không bỏ các con mồ côi.

Bây giờ, chúng ta đi vào lãnh vực cá nhân của mỗi người. Thực vậy, đời sống giống như một mặt biển đầy bão táp. Vậy bão táp ấy là gì? Đó là những tội lỗi, những khuynh hướng xấu xa, những lo lắng về tiền bạc vật chất… Tất cả là như những con sóng mốn nhận chìm con người bé bỏng chúng ta. Thế nhưng, người Kitô hữu không hề hoảng sợ và thất vọng, bởi vì chúng ta không chiến đấu đơn độc một mình, nhưng chúng ta chiến đấu bên cạnh những người anh em khác và nhất là chúng ta chiến đấu cùng với Chúa Giêsu. Ngài luôn ở bên chúng ta. Có Ngài, chúng ta sẽ làm được tất cả. Có Ngài, chúng ta sẽ vượt qua được mọi gian nan thử thách. Có Ngài, chúng ta sẽ chiến thắng vẻ vang. Chúng ta không phải là những đứa trẻ mồ côi, lạc lõng giữa chợ đời, nhưng chúng ta bước đi trong tình thương của Chúa, một người Cha nhân từ và giàu lòng xót thương.

Người ta kể lại rằng: Sau nghi lễ đăng quang, Đức Piô XI đã trở về phòng riêng, ngồi vào chiếc ghế vị tiền nhiệm là Đức Bênêdictô XV, tự nhiên một nỗi lo âu xâm chiếm. Ngài nhìn thấy con đường trước mặt thật tăm tối: Một Giáo hội bị tấn công về mọi mặt. Cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất vừa chấm dứt, nhưng chiếc ngòi nổ vẫn còn âm ỉ. Trong lúc chán nản, ngài đã làm công việc duy nhất mà một người lo âu có thể làm, đó là quì xuống cầu nguyện. Trong khi cầu nguyện như thế, tay ngài đưa ra và chạm vào một bức ảnh còn lại trên bàn giấy của đức Bênêdictô. Ngài cầm bức ảnh ấy lên xem và bổng nỗi lo sợ tan dần. Tâm hồn ngài tràn ngập an bình. Đó là bức ảnh Chúa Giêsu đang truyền cho sóng gió yên lặng. Từ đó, ngài luôn để bức ảnh ấy trên bàn và mỗi khi lo âu chuyện gì, ngài liền nhìn vào và nhớ lại rằng: Chúa Giêsu chỉ cần phán một lời là sóng yên biển lặng.

Chúa Giêsu ở trong chúng ta và Ngài đã mang lại sự bình an cho tâm hồn. Bởi đó, giữa những cơn sóng gió của cuộc đời, chúng ta hãy bắt chước các môn đệ, chạy đến với Ngài và nài xin: Lạy Chúa, xin cứu chúng con, kẻo chúng con chết mất. Chắc chắn Chúa sẽ không để chúng ta mồ côi, nhưng Ngài sẽ nâng đỡ để chúng ta vượt thắng được những gian nan thử thách và luôn trung thành phụng sự Ngài.

Sưu tầm

Cặp mắt của trái tim

Cặp mắt của trái tim

(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)

Thánh Phanxicô Assisi có lòng mến Chúa và yêu người rất sâu xa. Một hôm ngài gặp một người bạn, người này nói với thánh nhân rằng ông ta không thể nào yêu mến Thiên Chúa được. Đang khi hai người đi đường thì gặp một người hành khất vừa mù vừa què. Thánh nhân hỏi người hành khất:

– Nếu tôi chữa cho anh thấy và đi được thì anh có yêu mến tôi không?

Người hành khất trả lời:

– Dạ thưa ngài, không những tôi yêu mến ngài mà tôi xin dâng hiến trọn phần còn lại của đời tôi để phục vụ ngài.

Nghe câu trả lời của người hành khất xong, thánh nhân quay sang người bạn đang đứng bên ngài nói:

– Đấy anh thấy không, người hành khất này chỉ thấy được, đi được, thế mà còn hứa với tôi như thế, huống hồ là anh, anh không những được Chúa dựng nên với chân tay mắt mũi lành lặn. Ngài lại còn chịu chết để cứu chuộc anh nữa, đang khi đáng lý ra anh phải chết vì tội của anh. Vậy mà anh lại không yêu mến Chúa sao?

Thưa anh chị em, yêu mến Chúa là bổn phận của mỗi người chúng ta. Nhưng thế nào là yêu mến Chúa? trong Tin Mừng hôm nay, chính Chúa Giêsu đã trả lời cho chúng ta câu hỏi này. Trước hết, yêu là thấy. Chúa Giêsu đã nói: “Chẳng bao lâu nữa, thế gian sẽ không còn thấy Thầy. Phần anh em, anh em sẽ được thấy Thầy, vì Thầy sống và anh em cũng sẽ được sống”. Thực thì ngay trong cuộc sống của xã hội con người, chúng ta cũng có thể gặp những trường hợp một người đã ra đi một chuyến đi xa, nhưng những người còn ở lại vẫn cảm thấy người đó như đang hiện diện ở đâu đây, thật gần gũi, nơi từng sự vật, trong từng căn phòng, nơi mỗi lối đi. Chính tình yêu, sự quen thuộc, sự cảm thông đã tạo nên cái điều lạ lùng này. Giữa những người thân yêu, sự vắng mặt không tạo nên sự xa cách: “Xa mặt mà không cách lòng”. Vì vậy, Đức Giêsu đã nói: “Thế gian sẽ không thấy Thầy, còn anh em, anh em sẽ được thấy Thầy”. “Cái thấy” Chúa Giêsu muốn nói ở đây không còn là cái thấy ngang qua cặp mắt của thân xác; cái thấy ấy có những giới hạn nhất định, ở ngoài tầm nhìn thì không thấy được nữa. Còn “cái thấy” ở đây là cái thấy bằng con tim, bằng sự cảm nhận, bằng sự hoà nhập. Tình yêu làm cho người xa cách trở nên gần gũi. Vì yêu mến Thầy, các môn đệ vẫn cảm thấy Thầy hiện diện ở khắp nơi.

Nguyên trong đoạn Tin Mừng này, chúng ta đã thấy Chúa Giêsu lặp lại đến năm lần từ “yêu mến”. Yêu mến trở thành mối quan hệ giữa môn đệ và Thầy, giữa môn đệ và Thiên Chúa Cha. Yêu mến đưa đến sự hoà nhập: “Anh em ở trong Thầy và Thầy ở trong anh em”“Thầy sẽ tỏ mình ra cho anh em thấy Thầy”.

Thì ra, trái tim cũng có “cặp mắt” của nó. Cặp mắt của trái tim thấy được những cái mà cặp mắt thể xác không thể thấy được. Chính cái thấy bằng cặp mắt của trái tim sẽ giúp chúng ta thấy được mối quan hệ mật thiết giữa sự hiện diện của Chúa Giêsu với cuộc đời của một người Kitô hữu và của cộng đoàn. Có yêu mến Chúa, chúng ta mới thấy được sự hiện diện thân thiết của Chúa ở giữa chúng ta.

Yêu còn là tuân giữ: Tình yêu không dừng lại ở cái nhìn thấy. Tình yêu sẽ dẫn tới hành động. Không có hành động, tình yêu chỉ là giả dối. Hành động mới là bằng chứng của tình yêu đích thực. Chúa Giêsu đã nói: “Ai yêu mến Thầy thì tuân giữ các giới răn của Thầy. Ai giữ các giới răn của Thầy mới là người yêu mến Thầy”. Nói rằng: “Tôi yêu mến Chúa” thì ai cũng có thể nói được. Nhưng nếu không tuân giữ các giới răn của Chúa thì những lời nói đó chỉ là những lời nói dối.

Tất cả chúng ta đều có kinh nghiệm rằng: Khi yêu ai, chúng ta cảm thấy được những gì làm vui lòng người chúng ta yêu và không có gì cưỡng bức chúng ta tự nhiên làm tất cả để người yêu được vui, được hạnh phúc. Yêu mến Chúa cũng vậy. Yêu mến Chúa là sống theo ý Chúa muốn, là giữ các giới răn của Chúa, là thực thi ý Chúa muốn, là giữ các giới răn của Chúa, là thực thi ý muốn của Chúa trên cuộc sống chúng ta và trên cuộc sống của xã hội loài người.

Nhưng các giới răn của Chúa là gì, thưa anh chị em?

Các giới răn của Chúa là chính Chúa Giêsu với các giáo huấn, với những chọn lựa của Ngài. Tất cả cuộc sống của Chúa Giêsu trở thành mẫu mực cho cuộc sống của người Kitô hữu. Giữ các giới răn ở đây là biến đổi chính con người của mình để có thể trung tín với Chúa trong cuộc sống. Như thế, giữ các giới răn là sống trong tình yêu của Chúa.

Chúa Giêsu đã xác định: “Ai giữ các giới răn của Thầy sẽ được Cha Thầy yêu mến. Cha và Thầy sẽ yêu mến người ấy và sẽ đến và ở trong người ấy”. Giữ các giới răn là ta ở với Chúa và Chúa ở với ta, là lưu lại trong tình yêu của Chúa. Kitô giáo là đạo của tình yêu: yêu Chúa và yêu người. Tình yêu sẽ chắp cho chúng ta đôi cánh để bay lên cao. Vậy mà có nhiều người lại coi Kitô giáo như những giới răn cấm kỵ và trừng phạt, như những gông cùm tròng vào cổ hay những gánh nặng đèn lên vai. Vì vậy cuộc sống đạo của họ trở thành một bài toán khô khan và nghèo nạn, nhiều khi quá máy móc. Họ bóp méo đạo yêu thương thành đạo sợ hãi. Đạo sợ hãi làm người ta mất nhiệt tình và cởi mở, mất nét vui tươi trên khuôn mặt của những người con cái Thiên Chúa.

Anh chị em thân mến, người Kitô hữu đích thực phải sống đạo bằng con tim. Tình yêu làm cho cuộc sống đầy sức sáng tạo và năng động. Chính cuộc sống tích cực và đầy sức sáng tạo này mới thực sự là một bằng chứng về sự hiện diện của Chúa Giêsu, Đấng đã chết nhưng đã sống lại và đang tiếp tục hoạt động nơi những kẻ tin ở Ngài, và là bằng chứng của lòng tin nơi sự hiện diện sống động của Ngài. Chính đời sống yêu thương nhau chân thành, hy sinh phục vụ nhau theo mẫu mực của tình yêu Chúa yêu thương chúng ta sẽ biểu lộ cho mọi người nhận thấy sự hiện diện sống động của Chúa, Ngài đang sống và đang có mặt sống động trên trái đất chúng ta, như Ngài đã nói khi từ biệt các môn đệ: “Thầy không bỏ anh em cô độc. Thầy sẽ đến với anh em. Anh em sẽ được thấy Thầy, vì Thầy sống và anh em cũng sẽ được sống”.

Đức Thánh Cha Phanxicô viếng thăm Vương Quốc Giordani (Jordan)

Đức Thánh Cha Phanxicô viếng thăm Vương Quốc Giordani (Jordan)

JORDAN-VATICAN-RELIGION-POPEĐTC được Vua và Hoàng hậu của nước Jordan tiếp rước tại hoàng gia (Courtesy photo AFP)

AMMAN. Trưa ngày 24-5-2014, ĐTC Phanxicô đã đến thủ đô Amman của Giordani, chặng đầu tiên trong chuyến viếng thăm Thánh Địa trong vòng 3 ngày cho đến hết thứ hai, 26-5 tới đây, nhân dịp kỷ niệm 50 năm cuộc gặp gỡ lịch sử giữa Đức Phaolô 6 và Đức Thượng Phụ Athenagoras của Giáo Hội Chính Thống Constantinople, là vị đứng đầu trong tất cả các vị Thượng Phụ Chính Thống giáo.

Cuộc viếng thăm được giới báo chí quốc tế mô tả là rất khó khăn, xét vì tình hình địa phương, nhưng ĐTC đã đặt biến cố này dưới sự bảo trợ của Mẹ Maria. Thực vậy, sáng thứ sáu 23-5-2014, ngài đã trở lại Đền Thờ Đức Bà Cả lần thứ 8 để cầu nguyện trước ảnh Đức Mẹ là Phần Rỗi của dân Roma và phó thác cho Mẹ cuộc viếng thăm này.

Cuộc gặp gỡ cách đây nửa thế kỷ giữa Đức Phaolô 6 và Đức Thượng Phụ Athenagoras đáng kỷ niệm đặc biệt vì đã mở ra một trang mới trong lịch sử ngàn năm giữa hai khối Giáo Hội và chuyến viếng thăm lần này của ĐTC Phanxicô không những để kỷ niệm biến cố đó, nhưng còn nhắm tăng cường các quan hệ đại kết, và không quên phát triển cuộc đối thoại liên tôn với Hồi giáo.

Cùng đi với ĐTC trên chuyến bay dài 4 tiếng từ Roma có 30 vị thuộc đoàn tùy tùng và 70 ký giả quốc tế.

Vương quốc Giordani chỉ rộng gần 89 ngàn cây số vuông, bằng 1 phần 4 Việt Nam, nhưng lại rộng gấp quá 4 lần lãnh thổ của Israel và Palestine cộng lại, vì hai nước này chỉ có 20.700 cây số vuông, tuy rằng họ có dân số đông hơn, gần 8 triệu người, so với 6 triệu 400 ngàn dân cư của Giordani. Cũng vậy về con số tín hữu Công Giáo: tại Giordani chỉ có 107 ngàn tín Công Giáo, trong khi tại Israel và Palestine có 266 ngàn tín hữu Công Giáo, tức là gần gấp 3.

Tại Giordani có 3 giáo phận với 4 GM và 69 giáo xứ và 143 LM triều và dòng, 210 nữ tu. Các tín hữu Công Giáo la tinh ở Giordani thuộc quyền Tòa Thượng Phụ Công Giáo la tinh ở Jerusalem với Đức Thượng Phụ hiện nay là Fouad Twal, người Giordani.

Đón tiếp

Từ trên máy bay bước xuống, ĐTC đã được đại diện Quốc vương Abdullah II là hoàng thân Ghazi bin Muhammed, cố vấn trưởng về tôn giáo và văn hóa của quốc vương, tiếp đón, cùng với đại diện của giáo quyền, trong đó có Đức Thượng Phụ Fouad Twal, các GM và Cha Pierbattista Pizzaballa, Bề trên dòng Phanxicô tại Thánh Địa tiếp đón. Hai em bé, một trai một gái, dâng tặng ĐTC đóa hoa phong lan (orchidea) màu đen là biểu tượng của Vương quốc Giordani. Trong khi 200 trẻ em đón chào ngài bên trong sân bay và 2 ngàn em khác chờ ngài từ bên ngoài phi trường.

Có 10 người gia nhập phái đoàn chính thức của ĐTC sau khi ngài đặt chân lên đất Giordani, đặc biệt là Rabbi Do thái Abraham Skorka, Viện trưởng Học viện đào tạo Rabbi ở Buenos Aires, và Imam Hồi giáo Omar Abboud, Tổng thư ký tổ chức đối thoại liên tôn, cả hai đều là bạn của ĐTC từ khi ngài là TGM giáo phận thủ đô của Argentina.

Liền đó, ngài cùng với đoàn tùy tùng đi xe về hoàng cung Al-Husseini ở trung tâm thủ đô Amman cách đó 38 cây số nơi diễn ra nghi thức đón tiếp chính thức. Quốc vương và hoàng hậu Rania đón tiếp ĐTC ngay tại cổng vào hoàng cung và tiến qua đoàn quân danh dự.

Vua Abdullah 2 là cháu đích tôn 43 đời của Ngôn sứ Muhammad sáng lập Hồi giáo. Còn hoàng hậu Rania năm nay 44 tuổi là người Palestine sinh trưởng tại Kuwait.

Diễn văn đầu tiên của ĐTC

Trong lời đáp từ sau lời chào mừng của Vua Abdullah, ĐTC nói bằng tiếng Ý:

”Tôi cảm tạ Thiên Chúa vì được viếng thăm Vương quốc Giordani, theo vết các vị tiền nhiệm của tôi Phaolô 6, Gioan Phaolô 2 và Biển Đức 16, và tôi cám ơn Quốc Vương Abdullah II vì những lời chào đón nồng nhiệt, nhớ lại cuộc viếng thăm mới đây của Quốc vương tại Vatican. Tôi cũng chào thăm Hoàng gia, chính phủ và nhân dân Giordani, đất nước có lịch sử phong phú và ý nghĩa lớn về mặt tôn giáo đối với Do thái, Kitô và Hồi giáo.

”Đất nước này quảng đại đón tiếp đông đảo ngừơi tị nạn Palestine, Irak và những người đến từ các vùng khác bị khủng hoảng, đặc biệt là từ Siria láng giềng, bị đảo lộn vì cuộc xung đột kéo dài đã quá lâu. Sự đón tiếp đó đáng được cộng đồng quốc tế ngưỡng mộ và hỗ trợ. Giáo Hội Công Giáo theo khả năng của mình, muốn dấn thân trong việc trợ giúp người tị nạn và những người sống trong cảnh túng thiếu, đặc biệt là qua trung gian của Caritas Giordani. ”Trong khi tôi đau lòng nhận thấy những căng thẳng cao độ vẫn kéo dài ở vùng Trung Đông, tôi cám ơn chính quyền của Vương quốc Giordani vì những gì đang thực hiện và tôi khích lệ tiếp tục dấn thân trong việc tìm kiếm hòa bình lâu bền mong ước cho toàn vùng; để đạt mục đích ấy, người ta thấy hơn bao giờ hết cần có một giải pháp hòa bình cho cuộc khủng hoảng ở Siria, và giải pháp công chính cho cuộc xung đột giữa Israel và Palestine.

”Nhân cơ hội này, tôi tái bày tỏ lòng kính trọng sâu xa và sự quí chuộng của tôi đối với Cộng đoàn Hồi giáo, đánh giá cao vai trò lãnh đạo của Quốc vương trong việc thăng tiến một sự hiểu biết thích hợp hơn về các nhân đức mà Hồi giáo tuyên dạy, cũng như sự sống chung thanh thản giữa tín đồ các tôn giáo khác nhau. Tôi biết ơn đối Giordani vì đã khích lệ các sáng kiến quan trọng cổ võ cuộc đối thoại liên tôn để thăng tiến sự cảm thông giữa người Do thái, Kitô và Hồi giáo, trong đó có sáng kiến ”Sứ điệp liên tôn từ Amman” và vì đã cổ võ giữa lòng LHQ việc cử hành hàng năm ”tuần lễ hòa hợp giữa các tôn giáo”.

”Giờ đây tôi muốn thân ái gửi lời chào thăm các cộng đoàn Kitô hiện diện tại đất nước này từ thời các thánh Tông Đồ, và đang góp phần xây dựng công ích của xã hội trong đó họ hoàn toàn hội nhập. Tuy ngày nay con số của họ bị giảm bớt, nhưng họ vẫn có cách thi hành một hoạt động có chất lượng cao và được quí chuộng trong lãnh vực giáo dục và y tế, qua các trường học và nhà thương, và họ có thể yên hàn tuyên xưng đức tin, trong niềm tôn trọng tự do tôn giáo là một quyền cơ bản của con người, và tôi nồng nhiệt cầu mong quyền này được đặc biệt tôn trọng ở mọi nơi tại Trung Đông cũng như trên toàn thế giới. Quyền này bao gồm tự do cá nhân và tập thể được chọn lựa tôn giáo mà mình tin là thật và công khai bày tỏ tín ngưỡng của mình” (Biển Đức 16, Tông huấn ”Giáo Hội tại Trung Đông”,26). Các tín hữu Kitộ cảm thấy và là những công dân đúng nghĩa và muốn góp phần vào việc xây dựng xã hội cùng với các đồng bào Hồi giáo của họ, đóng góp phần đặc thù của mình.

Sau cùng tôi đặc biệt cầu chúc hòa bình và thịnh vượng cho Vương quốc Giordani, cho nhân dân nước này, và tôi cầu mong cuộc viếng thăm này góp phần gia tăng và thăng tiến những quan hệ tốt đẹp và nồng nhiệt giữa các tín hữu Kitô và Hồi giáo”.

Ngài cũng ứng khẩu cám ơn Vua Abdullah đã bảo vệ cộng đồng Kitô tại Giordani và là một người hòa bình, người xây dựng hòa bình.

Cử hành thánh lễ đầu tiên

Giã từ hoàng gia Giordani, ĐTC đã tới sân vận động quốc tế Al-Hussein cách đó 11 cây số để cử hành thánh lễ lúc gần 3 giờ chiều cho các tín hữu.

Hiện diện tại Sân Vận động có 30 ngàn tín hữu, không kể hàng ngàn người khác tham dự thánh lễ từ bên ngoài qua các màn hình khổng lồ. Trong số các tín hữu có nhiều người tị nạn Công Giáo đến từ Palestine, Siria và Irak, đặc biệt có 1.400 em được rước lễ lần đầu trong thánh lễ này.

Đồng tế với ĐTC có 5 Hồng y thuộc đoàn tùy tùng của ngài, 6 HY khác đến từ các Giáo Hội địa phương, đứng đầu là ĐHY Becharai Rai, Giáo chủ Công Giáo Maronite từ Liban, ngoài ra có 6 vị Thượng Phụ, 115 LM, 60 phó tế và đan sĩ đến từ các nước Arập.

Pope waves to the faithful upon his arrival to attend a mass in Amman

Bài giảng của ĐTC

Trong bài giảng, ĐTC khai triển 3 hoạt động chính của Chúa Thánh Linh là chuẩn bị, thúc giục và sai đi. Ngài nói:
“Trong Tin Mừng chúng ta đã nghe lời Chúa Giêsu hứa với các môn đệ: ”Thầy sẽ xin Chúa và Người sẽ ban cho các con Đấng An ủi khác để Ngài ở lại với các con mãi mãi” (Ga 14,16). Đấng An ủi thứ I là chính Chúa Giêsu; Đấng thứ 2 là Chúa Thánh Linh.

”Ở đây chúng ta không xa nơi Chúa Thánh Linh đã ngự xuống trong quyền năng trên Đức Giêsu thành Nazareth, sau khi Gioan đã làm phép rửa cho Đức Giêsu trong sông Giordan (Xc Mt 3,16). Vì thế Tin Mừng chúa nhật này, và cả nơi mà nhờ ơn Chúa tôi ở đây như người hành hương, mời gọi chúng ta hãy suy tư về Chúa Thánh Linh, về điều mà Chúa thực hiện trong Chúa Kitô và nơi chúng ta, và chúng ta có thể tóm tắt thế này: Chúa Thánh Linh thực hiện 3 hành động: chuẩn bị, thúc đẩy và sai đi.

– ”Trong lúc Chúa Giêsu chịu phép rửa, Thánh Linh ngự xuống trên Đức Giêsu để chuẩn bị Người thi hành sứ mạng cứu độ; sứ mạng này có đặc tính như của một Đầy tớ khiêm hạ và hiền lành, sẵn sàng chia sẻ lịch sử cứu độ và tận hiến toàn toàn. Nhưng Chúa Thánh Linh, hiện diện ngay từ đầu lịch sử cứu độ, đã hoạt động trong Đức Giêsu khi Người được chịu thai trong lòng đồng trinh của Đức Maria thành Nazareth, thực hiện biến cố lạ lùng là sự nhập thể. Thiên Thần nói với Đức Maria: ”Chúa Thánh Linh đã bao phủ Trinh Nữ, sẽ che bóng cho Trinh Nữ và Trinh Nữ sẽ sinh Con và được đặt tên là Giêsu” (Xc Lc 1,35). Tiếp đến Chúa Thánh Linh đã hành động trong ông Simeon và bà Anna, trong ngày dâng Chúa Giêsu vào Đền thờ (Xc Lc 2,22). Cả hai vị chờ đợi Đức Thiên Sai, được Chúa Thánh Linh soi sáng và đến thăm Hài Nhi Giêsu, cả hai trực giác thấy rằng đó chính là Đấng toàn dân mong đợi…

– Thứ hai, Thánh Linh thúc đẩy. Ngài đã xức dầu trong nội tâm cho Đức Giêsu và xức dầu cho các môn đệ, để họ có cùng tâm tình của Đức Giêsu và nhờ đó có thể đảm nhận trong đời sống của họ những thái độ tạo điều kiện dễ dàng cho hòa bình và hiệp thông. Với sự xức dầu của Thánh Linh, nhân tính của chúng ta được ghi đậm sự thánh thiện của Đức Giêsu Kitô và làm cho chúng ta có thể yêu thương anh chị em với cùng tình thương mà Thiên Chúa yêu thương chúng ta. Vì thế, cần có những cử chỉ khiêm tốn, huynh đệ và tha thứ, hòa giải. Những cử chỉ này là tiền đề và điều kiện để có hòa bình chân thực, vững chắc và lâu bền. Chúng ta hãy cầu xin Chúa Cha xức dầu chúng ta để chúng ta hoàn toàn trở thành những người con của Ngài, luôn phù hợp với Đức Kitô, để chúng ta cảm thấy tất cả là anh chị em và như thế xua đuổi khỏi chúng ta những oán hận và chia rẽ, đồng thời yêu thương nhau như anh chị em. Và đó là điều Đức Giêsu yêu cầu chúng ta trong Phúc Âm: ”Nếu các con yêu mến Thầy, thì hãy tuân giữ giới răn của Thầy, và Thầy sẽ xin Chúa và Ngài sẽ ban cho các con một Đấng An ủi khác, để Người ở lại với các con mãi mãi” (Ga 14,15-16).

– Và sau cùng Chúa Thánh Linh sai đi. Đức Giêsu là Đấng Được Sai Đi, đầy Thánh Linh của Cha. Được xức dầu với cùng Thánh Linh, cả chúng ta cũng được sai đi như sứ giả và chứng nhân hòa bình.

”Hòa bình không thể mua được: đó là một hồng ân cần kiên nhẫn tìm kiếm và xây dựng một cách khéo léo nhờ những cử chỉ lớn nhỏ bao gồm đời sống hằng ngày của chúng ta. Con đường hòa bình được củng cố nếu chúng ta nhìn nhận rằng tất cả chúng ta có cùng máu mủ và là thành phần của nhân loại; nếu chúng ta không quên mình có một người Cha duy nhất trên trời và tất cả đều là con cảu Ngài được dựng nên theo hình ảnh giống Ngài.

ĐTC thân ái chào thăm Đức Thượng Phụ, các anh em GM và linh mục, tu sĩ giáo dân, các em Rước lễ lần đầu.. và ngài kết luận rằng:

”Các bạn thân mến, Chúa Thánh Linh đã ngự xuống trên Đức Giêsu cạnh sông Giordan, và khởi sự công trình cứu chuộc hầu giải thoát thế gian khỏi tội lỗi và sự chết. Chúng ta hãy xin Chúa chuẩn bị con tim chúng ta để gặp gỡ anh chị em vượt lên trên những khác biệt về tư tưởng,ngôn ngữ, văn hóa, tôn giáo; xin Chúa xức dầu toàn thể con người chúng ta bằng dầu từ bi của Ngài, chữa lành các vết thương sai lầm, thiếu cảm thông, tranh biện, và sai chúng ta đi với lòng khiêm tốn và từ bi trên những nẻo đường khó khăn nhưng phong phú trong công trình tìm kiếm hòa bình.

ĐTC giảng hoàn toàn bằng tiếng Ý, và sau bài giảng, có một Đức Cha dịch sang tiếng Arập.

Trong phần hiệp lễ, 118 LM và Phó tế đã phân phát Mình Thánh Chúa cho các tín hữu.

Cuối thánh lễ, Đức Thượng Phụ Fouad Twal đã đại diện mọi người chào mừng ĐTC và nói đến những thách đố mà Giáo Hội địa phương đang phải đương đầu. Ngài nói: Thánh Địa bị quá nhiều chia rẽ, và Giáo Hội Công Giáo địa phương, đặc biệt là Tòa Thượng Phụ Công Giáo la tinh Jerusalem hết sức cố gắng hiệp nhất nội bộ, hiệpnhất giữa các Giáo Hội và toàn dân. Chúng con là một Giáo Hội nhỏ bé, nhưng cũng là một Giáo Hội lắng nghe, tháp tùng và cộng tác theo khả năng khiêm hạ của mình, vào hành trình hoán cải, vì chúng ta luôn ở trong tình trạng hoán cải trường kỳ (Evan. gaudium 25).

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

ĐHY Quốc vụ khanh hy vọng nơi thành quả cuộc viếng thăm của Đức Thánh Cha tại Thánh Địa

ĐHY Quốc vụ khanh hy vọng nơi thành quả cuộc viếng thăm của Đức Thánh Cha tại Thánh Địa

VATICAN. ĐHY Pietro Parolin, Quốc vụ khanh Tòa Thánh, hy vọng nơi thành quả cuộc viếng thăm của ĐTC Phanxicô tại Thánh Địa.

Trong cuộc phỏng vấn dành cho Đài Vatican, trước ngưỡng cửa cuộc viếng thăm của ĐTC tại Thánh Địa từ ngày 24 đến 26-5-2014, ĐHY Parolin nói: ”Tôi thực sự hy vọng rằng thành quả cuộc viếng thăm này là giúp tất cả các vị hữu trách và mọi người thiện chí đề ra những quyết định quan trọng trên con đường hòa bình”.

ĐHY tái bày tỏ lập trường của Tòa Thánh về vấn đề tại Thánh Địa, đó là ”quyền của Israel được hiện hữu, được hòa bình và an ninh trong ranh giới được quốc tế nhìn nhận; quyền của dân tộc Palestine có một tổ quốc có chủ quyền và độc lập, quyền được tự do đi lại, quyền được sống trong phẩm giá. Tiếp đến là sự nhìn nhận tính chất thánh thiêng và phổ quát của thành Jerusalem, gia sản văn hóa và tôn giáo của thành này như một nơi hành hương của các tín hữu thuộc 3 tôn giáo độc thần. Đó là những điểm cố hữu theo chính sách của Tòa Thánh đối với cuộc xung đột giữa Israel và Palestine”.

Trong cuộc phỏng vấn, ĐHY Parolin cũng nhấn mạnh tới tính chất đại kết Kitô trong cuộc viếng thăm của ĐTC và nói rằng: ”Tôi cầu mong cuộc gặp gỡ giữa ĐGH Phanxicô và Đức Thượng Phụ Bartolomaios sẽ khơi dậy ngọn lửa đại kết, vì lòng hăng say tiến bước trên hành trình đại kết phải linh hoạt toàn thể các sáng kiến trong lãnh vực này. Cần phải có lòng hăng hái và sự say mê đối với chính nghĩa hiệp nhất như lời nguyện nồng nhiệt của Chúa Giêsu trong Nhà Tiệc Ly trước khi ra đi chịu khổ nạn và chịu chết”.

Cũng liên quan đến Thánh Địa, hôm 22-5 vừa qua, 20 LM Palestine thuộc Tòa Thượng Phụ Công Giáo la tinh Jerusalem, đã viết thư xin ĐTC Phanxicô can thiệp với Nhà cầm quyền Israel để các vị được tự do đi lại, đặc biệt là đến Jerusalem.

Lá thư có đoạn viết: ”Theo Nhà Nước Israel là một quyền lực chiếm đóng bất hợp pháp theo công pháp quốc tế, chúng con không có quyền đến Jerusalem nếu không có giấy phép do chính quyền quân sự Israel cung cấp, và càng ngày chúng con càng không thể xin được giấy phép đó, và điều này thực là một chướng ngại cản trợ việc mục vụ của chúng con”.

Tòa Khâm Sứ Tòa Thánh ở Jerusalem sẵn sàng cung cấp cho các LM ấy giấy thông hành (laissez-passer/passport), nhưng không có thị thực vì Israel từ chối không đóng dấu trên giấy của Tòa Thánh, vì thế các LM không được tự do di chuyển. Các vị viết: ”Nếu những hạn chế này tiếp tục và gia tăng như hiện nay, thì đời sống Giáo Hội tại Jerusalem càng bị đe dọa và trở nên bấp bênh hơn nữa. Thành Jerusalem ngày càng bị khép kín đối với các tín hữu Kitô ở miền Cisjordani”.

Tòa Thượng Phụ Công Giáo la tinh Jerusalem đảm trách 17 giáo xứ với 17,800 tín hữu Công Giáo la tinh tại miền Cisjordani. Tại lãnh thổ này cũng có 22,500 tín hữu Chính Thống (Apic 22-5-2014)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Ơn hiểu biết giúp chúng ta nhận ra tình yêu của Thiên Chúa trong mọi loài mọi vật

Ơn hiểu biết giúp chúng ta nhận ra tình yêu của Thiên Chúa trong mọi loài mọi vật

Ơn hiểu biết khiến cho chúng ta đồng cảm sâu xa với Đấng Tạo Hóa, cho chúng ta tham dự vào cái nhìn và sự phán xử trong sáng của Người, giúp nhận ra nơi các người khác tuyệt đỉnh sự tạo dựng của Thiên Chúa và thừa nhận họ như là anh chị em. Nó cũng giúp chúng ta không rơi vào thái độ lầm lạc coi mình là chủ nhân của các thụ tạo muốn làm gì thì làm và nhận ra sự hạn hẹp của các thụ tạo.

Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói như trên với khoảng 70,000 tín hữu và du khách hành hương năm châu trong buổi tiếp kiến chung tại quảng trường thánh Phêrô sáng thứ tư 21-5-2014 .

Trong bài huấn dụ Đức Thánh Cha đã giải thích một ơn khác của Chúa Thánh Thần: đó là ơn khoa học hay ơn hiểu biết. Khi đề cập tới khoa học, chúng ta nghĩ ngay tới khả năng của con người trong việc luôn hiểu biết hơn thực tại bao quanh nó, và khám phá ra các luật lệ điều khiển thiên nhiên và vũ trụ. Đức Thánh Cha giải thích ơn hiểu biết như sau:

Tuy nhiên khoa học tới từ Chúa Thánh Thần không chỉ hạn hẹp nơi sự hiểu biết nhân loại: nó là một ơn đặc biệt giúp chúng ta tiếp nhận, qua thụ tạo, sự cao cả và tình yêu của Thiên Chúa và tương quan sâu xa của Người với từng thụ tạo.

Khi đôi mắt chúng ta được soi sáng bởi Thần Khí, chúng mở ra cho việc chiêm ngưỡng Thiên Chúa trong vẻ đẹp của thiên nhiên và sự vĩ đại của vũ trụ, và đưa chúng ta tới chỗ khám phá ra rằng mọi sự nói về Thiên Chúa và mọi sự nói về tình yêu của Người. Tất cả khơi dậy nơi chúng ta sự kinh ngạc lớn lao và tâm tình biết ơn sâu xa. Đó là cảm xúc mà chúng ta có khi ngắm nhìn một tác phẩm nghệ thuật hay bất cứ kỳ công nào khác, kết qủa của tài khéo và óc sáng tạo của con người. Trước tất cả những điều đó Thần Khí dẫn đưa chúng ta tới chỗ chúc tụng Chúa từ tận cùng thẳm con tim, và thừa nhận trong tất cả những gì chúng ta có và những gì chúng ta là, một ơn vô giá của Thiên Chúa và một dấu chỉ tình yêu thương vô tận của Ngài đối với chúng ta.

Chương đầu tiên của sách Sáng Thế minh nhiên rằng Thiên Chúa hài lòng về thụ tạo của Người, bằng cách nhấn mạnh vẻ đẹp và sự tốt lành của mọi vật. Vào cuối mỗi ngày tạo dựng Thánh Kinh viết: ”Thiên Chúa thấy đó là điều tốt lành” (1,12.18.21.5). Và nếu Thiên Chúa thấy rằng thụ tạo là một điều tốt lành và xinh đẹp, cả chúng ta nữa cũng phải bước đi trong thái độ đó, trông thấy rằng thụ tạo tốt lành và xinh đẹp. Đó là ơn hiểu biết vẻ đẹp: chúng ta hãy chúc tụng Thiên Chúa, cảm tạ Thiên Chúa đã cho chúng ta biết bao vẻ đẹp. Đó là đường đi. Và khi Thiên Chúa hoàn thành việc tạo dựng con người, Thánh Kinh không nói: ”Ngài thấy đó là điều tốt lành”, nhưng nói nó ”rất tốt lành”. Ngài làm cho chúng ta gần Ngài. Dưới mắt của Thiên Chúa chúng ta là điều xinh đẹp nhất, cao cả nhất, tốt lành nhất của việc tạo dựng. ”Nhưng mà thưa cha, các thiên thần”. Không, các thiên thần còn dưới chúng ta, chúng ta hơn các thiên thần”. Chúng ta đã nghe trong sách Thánh Vịnh rằng Chúa yêu thương chúng ta. Chúng ta phải cám ơn Chúa về điều này.

Ơn hiểu biết đặt để chúng ta vào trong sự đồng cảm với Đấng Tạo Hóa và làm cho chúng ta tham dự vào cái nhìn và sự phán xử trong sáng của Người. Chính trong viễn tượng này mà chúng ta thành công trong việc nhận ra được nơi người nam và người nữ tột đỉnh của việc tạo dựng, như là việc thành toàn một chương trình tình yêu được in dấu nơi từng người trong chúng ta, và khiến cho chúng ta thừa nhận nhau như là anh chị em.

Tất cả là lý do sự thanh thản và bình an và khiến cho kitô hữu trở thành một chứng nhân tươi vui của Thiên Chúa theo gót thánh Phanixcô thành Assisi và biết bao nhiêu vị thánh đã biết chúc tụng và ca ngợi tình yêu thương của Thiên Chúa qua việc chiêm ngưỡng thụ tạo. Tuy nhiên đồng thời ơn khoa học, ơn hiểu biết cũng giúp chúng ta không rơi vào vài thái độ qúa đáng hay sai lầm. Thái độ sai lầm thứ nhất là nguy cơ coi mình như chủ nhân ông của thụ tạo. Đức Thánh Cha giải thích điểm này như sau:

Nhưng thụ tạo không phải là một tư hữu, mà chúng ta có thể làm chủ tùy thích. Nó lại càng không phải là một tư hữu của một vài người, của ít người. Thụ tạo là một ơn, một ơn tuyệt vời mà Thiên Chúa đã ban cho chúng ta, để chúng ta săn sóc và sử dụng nó cho thiện ích của tất cả mọi người, luôn luôn với sự tôn trọng lớn lao và lòng biết ơn.

Thái độ sai lầm thứ hai là cám dỗ dừng lại nơi các thụ tạo, làm như chúng có thể cống hiến câu trả lời cho các chờ mong của chúng ta. Chính Chúa Thánh Thần, với ơn khoa học giúp chúng ta không rơi vào điều đó. Nhưng tôi muốn trở lại con đường sai lầm đầu tiên. Giữ gìn thụ tạo chứ không phải là làm chủ thụ tạo. Chúng ta phải gìn giữ thụ tạo. Đó là một ơn mà Chúa đã ban cho chúng ta: đó là món qùa Thiên Chúa cho chúng ta. Chúng ta là những người giữ gìn thụ tạo. Nhưng khi chúng ta khai thác thụ tạo, chúng ta phá hủy giấc mộng tình yêu của Thiên Chúa. Tàn phá thụ tạo là nói với Thiên Chúa: ”Con không thích, điều này không tốt”. ”Thế thì cái gì làm con thích?”. ”Con thích chính con”. Đó là tội. Anh chị em thấy chưa? Và việc giữ gìn thụ tạo chính là việc giữ gìn ơn của Thiên Chúa và cũng là nói với Chúa: ”Con cám ơn Chúa, con là chủ của thụ tạo. Nhưng để làm cho nó tiến tới, con sẽ không bao giờ phá hủy ơn của Chúa”. Đó phải là thái độ của chúng ta đối với thụ tạo. Giữ gìn nó, bởi vì nếu chúng ta tàn phá thụ tạo, thụ tạo sẽ tàn phá chúng ta. Đừng quên điều đó nhé! Có một lần tôi ở trong đồng quê và đã nghe một người đơn sơ rất yêu thích và săn sóc hoa, nói với tôi: ”Chúng ta phải giữ gìn các điều xinh đẹp mà Thiên Chúa đã ban cho chúng ta. Thụ tạo là cho chúng ta và chúng ta phải lợi dụng chúng một cách tốt đẹp. Không khai thác nó nhưng giữ gìn nó. Bởi vì cha biết không Thiên Chúa luôn luôn tha thứ”. ”Đúng, Thiên Chúa luôn luôn tha thứ”. ”Chúng ta là người chúng ta tha thứ đôi lần”. ”Nhưng cha ạ, thụ tạo không bao giờ tha thứ, nếu bạn không giữ gìn nó, nó sẽ tàn phá bạn”. Điều này phải khiến cho chúng ta suy nghĩ và xin Chúa Thánh Thần ơn khoa học, ơn hiểu biết để hiểu rằng thụ tạo là món quà đẹp nhất của Thiên Chúa, là Đấng đã nói: ”Đây là điều tốt lành, đây là điều tốt lành, đây là điều tốt lành và là món qùa cho điều tốt lành nhất mà Ta đã tạo dựng là con người”.

Đức Thánh Cha đã chào tín hữu và chúc họ những ngày hành hương bổ ích giúp củng cố đức tin nơi Chúa. Ngài đặc biệt chào các đoàn hành hương đến từ các nước Phi châu như Congo, Nam Phi, cũng như từ Á châu như Ấn Độ, Thái Lan, Singapore, Indonesia, Nhật Bản; và từ các nước châu Mỹ Latinh như Mexico, Argentina, Panamá, Costa Rica, Paraguay, Perù, Colombia, Brasil.

Chào tín hữu Ba Lan Đức Thánh Cha nói lễ kính Đức Mẹ Nữ Vương Ba Lan cũng như lễ thánh Stanislao Giám Mục tử đạo, lễ kỷ niệm Thánh Gioan Phaolô II và kỷ niệm trận đánh tại Monte Cassino là những biến cố quan trọng trong cuộc sống của Giáo hội Ba Lan. Ước chi chúng là đề tài suy tư trong các buổi cử hành mừng kính Đức Mẹ trong tháng 5 và củng cố tinh thần đức tin của anh chị em. Xin anh chị em cầu nguyện cho chuyến viếng thăm Thánh Địa của tôi.

Ngày 24 tháng 5 là lễ Đức Mẹ Phù hộ các kitô hữu rất được tôn kính tại trung tâm thánh mẫu Xà Sơn ở Thượng Hải. Đức Thánh Cha xin mọi người cầu nguyện để dưới sự chở che của Đức Mẹ Phù Hộ, các tín hữu công giáo Trung Quốc tiếp tục sống đức tin cậy mến và trong mọi hoàn cảnh, là men của sự chung sống hài hòa với các công dân khác.

Đức Thánh Cha cũng cho mọi người biết thứ bẩy tới đây tại Aversa sẽ có lễ phong chân phước cho Linh Mục Mario Vergara thuộc Hiệp hội truyền giáo nước ngoài Milano, viết tắt là PIME, và giáo lý viên Isidoro Ngei Ko Lat, hai vị bị giết vì đạo bên Miến Điện năm 1950. Ngài cầu mong lòng trung thành anh hùng của các vị khích lệ và nêu gương truyền giáo cách riêng cho các giáo lý viên trong các vùng truyền giáo. Toàn Giáo hội biết ơn công tác tông đồ không thể thay thế được của họ.

Chào các bạn trẻ người đau yếu và các cặp vợ chồng mới cưới Đức Thánh Cha nói Giáo Hội mới mừng lễ thánh Bernardino thành Siena. Ngài cầu mong tình yêu của thánh nhân đối với Thánh Thể chỉ cho giới trẻ thấy Thiên Chúa là trung tâm cuộc sống; khích lệ các người đau yếu đương đầu với khổ đau trong đức tin; và giúp các cặp vợ chồng mới cưới xây dựng căn nhà hôn nhân trên sự hiệp nhất.

Sau cùng ngài xin mọi người cầu nguyện cho chuyến viếng thăm Thánh Địa bắt đầu vào thứ bẩy tới đây. Đức Thành Cha nói: Đây là một chuyến viếng thăm hoàn toàn tôn giáo. Trước hết để gặp gỡ người anh em Bartolomaios I nhân kỷ niệm 50 năm cuộc gặp gỡ giữa Đức Phaolô VI với Đức Thượng phụ Athenagora I. Phêrô và Anrê lại gặp nhau một lần nữa, và đây là điều rất đẹp. Thứ hai là để cầu nguyện cho hòa bình trong vùng đất đã đau khổ qúa nhiều rồi.

Buổi tiếp kiến đã kết thúc với Kinh Lạy Cha và phép lành tòa thánh Đức Thánh Cha ban cho mọi người.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Giáo sĩ Do Thái và lãnh đạo Hồi giáo cùng Đức Giáo Hoàng công du Đất Thánh

Giáo sĩ Do Thái và lãnh đạo Hồi giáo cùng Đức Giáo Hoàng công du Đất Thánh

Một giáo sĩ Do Thái và một nhà lãnh đạo Hồi giáo sẽ cùng tham gia với Đức Giáo Hoàng Phanxicô trong chuyến thăm Đất Thánh sắp đến. Đây là lần đầu một phái đoàn chính thức của giáo hoàng có các thành viên của các tôn giáo khác, Vatican cho biết hôm thứ Năm.

Hai người bạn và cộng tác viên lâu năm của Đức Phanxicô từ những ngày ngài còn là tổng giám mục Giáo phận Buenos Aires, là vị giáo sĩ Do Thái Abraham Skorka và Omar Abboud, nhà lãnh đạo cộng đoàn Hồi giáo Argentina, có mặt trong phái đoàn chính thức chuyến thăm Jordan, Bờ Tây, Israel từ ngày 24-26 tháng 5.

Phát ngôn viên Vatican, linh mục Federico Lombardi, cho biết sự hiện diện của hai vị này trong phái đoàn là một “điều hoàn toàn mới lạ” mà Đức Phanxicô rất mong muốn cho thấy điều hoàn toàn “bình thường” khi có các bạn bè thuộc niềm tin tôn giáo khác.

Giáo sĩ Skorka và Đức Hồng Y Jorge Mario-Bergoglio trước đây đã cùng viết cuốn “Trên Trời và Dưới Đất”, nhằm tìm hiểu các khía cạnh của Do Thái giáo và Công giáo về nhiều vấn đề. Trong khi đó, nhà lãnh đạo Hồi giáo Abboud là người đối thoại Hồi giáo chính của Hồng y Bergoglio tại giáo phận Buenos Aires và gần đây tham gia chuyến thăm liên tôn giáo tại các điểm dừng chân chính trong chuyến thăm sắp đến của Đức Phanxicô.

Mục đích chính trong suốt chuyến thăm của Đức Phanxicô là kỷ niệm 50 năm chuyến thăm lịch sử đến Jerusalem của Đức Giáo Hoàng Phaolô VI, chuyến công du nước ngoài đầu tiên của giáo hoàng.

Trong chuyến công du năm 1964, Đức Giáo Hoàng Phaolô đã gặp các lãnh đạo tinh thần của các Kitô hữu Chính Thống giáo trên thế giới, Đức Thượng Phụ Đại kết Athenagoras, kết thúc hàng trăm năm bất hoà giữa người Công giáo và Chính Thống giáo. Đức Phanxicô cũng sẽ gặp Đức Thượng Phụ Đại kết hiện nay, Đức Bartholomew I, bốn lần khác nhau trong chuyến thăm ba ngày. Điểm nổi bật là cùng cầu nguyện tại nhà thờ Mộ Thánh, một trong những địa điểm thiêng liêng nhất của Kitô giáo nơi các tín hữu tin rằng Chúa Giêsu đã chịu đóng đinh và phục sinh.

Cha Lombardi nói rằng buổi cầu nguyện chung bản thân là một “sự kiện lịch sử” vì cả ba cộng đoàn Kitô cùng chia sẻ một giáo hội, Chính Thống Hy Lạp, Công giáo La Mã và Armenia cùng lúc cầu nguyện chung.

Các buổi cầu nguyện tại nhà thờ cổ thường riêng biệt, mỗi cộng đoàn thường bảo vệ một lãnh địa riêng và chương trình cầu nguyện riêng.

Nguồn: NY Daily News/AP

Trích từ UCANEWS VN

Tám nước khắc nghiệt nhất về tôn giáo

Tám nước khắc nghiệt nhất về tôn giáo

Báo cáo của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ nêu tên 4 nước Á Châu trong số 8 nước

Từ năm 1999, Bộ Ngoại giao Mỹ đã theo dõi những lạm dụng tồi tệ nhất thế giới về quyền tôn giáo. Theo báo cáo gần đây nhất ghi nhận với dữ liệu đầy đủ nhất. Các cuộc bách hại những người có đức tin đang gia tăng trên toàn cầu.

Trong số những xu hướng đáng lo ngại nhất theo Bộ Ngoại giao là “chính phủ độc tài hạn chế khả năng việc người dân thực hành tôn giáo của họ.”

Với ngôn ngữ thông thường, Báo cáo kêu gọi “những nước này cần quan tâm đặc biệt.” Nhưng quyết định thì cần đi đôi với hành động.

Ví dụ ở Sudan, một phụ nữ Kitô giáo đã bị kết án tử hình trong tuần này vì bỏ đạo Hồi giáo, và nước ngoài không thể can thiệp.

Cùng với Sudan, đây là “những nước được quan tâm đặc biệt” của Bộ Ngoại Giao. Bạn có thể gọi những nước đó là “những nơi tồi tệ nhất thế giới về tín ngưỡng.”

Miến điện: Chính phủ Miến Điện chèn ép mọi tôn giáo ngoại trừ Phật giáo Nguyên thủy.

Theo Bộ Ngoại giao, một số quan chức chính phủ thậm chí còn lôi cuốn những người không phải là phật tử theo đạo Phật, và người Hồi giáo ở bang Rakhine, đặc biệt là người Hồi giáo Rohingya, là đối tượng bị phân biệt đối xử và bị đánh chết.

Trung Quốc: “Chính phủ sách nhiễu, bắt giữ, giam hãm, hoặc kết án tù một số tín đồ tôn giáo vì các hoạt động liên quan đến niềm tin và thực hành tôn giáo”.

Không chỉ bắt giam nhóm Uyghur theo đạo Hồi, một số trong họ đã bị kết án 10 năm tù vì “bán tài liệu tôn giáo bất hợp pháp,” và hàng giáo sĩ Công giáo bị bắt vì không thuộc Hiệp hội Công giáo Yêu nước của quốc gia này.

Điều đó không ăn thua so với chính sách khủng bố Phật giáo Tây Tạng, theo Bộ Ngoại Giao, người dân đã trải qua “cuộc đàn áp có tổ chức dữ dội tại các tu viện và ni viện, bắt giữ tùy tiện và tra tấn, thậm chí gây chết người.”

Eritrea: Chỉ bốn nhóm tôn giáo được chính cho phép công khai thực hành đức tin trong quốc gia châu Phi này; phần còn lại thì bị đàn áp, bị bỏ tù hoặc tệ hơn nữa.

Vì vậy, nếu bạn không phải là một Chính thống giáo Eritrea, một người Hồi giáo Sunni, một người Công giáo La Mã hoặc một người Tin lành Cải cách, cuộc sống có thể rất khó cho bạn ở đây. Theo Báo cáo, ở đây có luật bắt bớ khắt khe về những người không tuân theo tôn giáo.

Iran: Đất nước này đa số theo Hồi giáo, việc tôn trọng quyền tôn giáo đã thực sự suy giảm trong những năm gần đây.

“Báo cáo cho rằng chính quyền giám sát tôn giáo và các vùng dân tộc thiểu số với điều luật (chống lại Thượng Đế), ‘tuyên truyền chống Hồi giáo”, hay nghi ngờ tội phạm an ninh quốc gia cho các hoạt động tôn giáo của họ”, báo cáo cho biết.

Cụ thể, chính phủ đã bắt giữ nhiều thành viên thuộc giáo phái Baha’i và Saeed Abedini, một mục sư Mỹ gốc Iran đã bị lạm dụng về thể lý và tâm lý, theo Bộ Ngoại giao.

Bắc Triều Tiên: Các nhóm nhân quyền cung cấp nhiều thông tin cho rằng các thành viên thuộc giáo hội thầm lặng đã bị bắt giữ, đánh đập, tra tấn hoặc bị giết vì niềm tin tôn giáo của họ.

Quốc gia độc tài này đã bỏ tù 200,000 tù nhân chính trị phần lớn là vì lý do tôn giáo, theo Báo cáo. Đất nước này không khuyến khích bất kỳ hoạt động tôn giáo nào mà chưa được chính phủ thừa nhận.

Kenneth Bae, một người Mỹ gốc Hàn bị buộc tội truyền bá đạo Thiên Chúa giáo ở Bắc Triều Tiên, đã bị kết án vào năm 2013 với 15 năm lao động khổ sai.

Saudi Arabia: Một nước quân chủ giàu dầu mỏ đã làm ngơ không tôn trọng tự do của bất kỳ tôn giáo nào ngoài Hồi giáo.

Hồi giáo Sunni là tôn giáo chính thức, hiến pháp của đất nước dựa trên Kinh Qur’an và những lời dạy của tiên tri Mohammed. Các việc thực hành tôn giáo khác đều bị cấm, theo Bộ Ngoại giao, và chính quyền Ả Rập đã chặt đầu một người đàn ông vào năm 2012 vì tin vào “phù phép”.

Sudan: Đất nước này đã lọt vào danh sách đất nước cứng đầu của Bộ Ngoại giao kể từ khi thành lập từ năm 1999.

Sudan phạt những người báng bổ và bỏ đạo Hồi, một phụ nữ Kitô giáo bị kết án cho đến chết trong tuần này. Chính quyền còn bắt giữ và trục xuất các Kitô hữu Phương Tây bị nghi ngờ rao truyền đức tin.

Một đất nước có “giới cảnh sát đạo đức” đòi hỏi sự vâng phục nghiêm ngặt theo luật Hồi giáo, đã đánh đập và ném đá một người phụ nữ bị buộc tội hành động “vô luân.”

Uzbekistan: Về kỹ thuật, pháp luật của đất nước này tôn trọng các quyền tôn giáo.

Nhưng trong thực tế, quốc gia Trung Á này duy trì kiểm soát chặt chẽ phần lớn dân số theo đạo Hồi.

“Chính phủ tiếp tục bỏ tù các cá nhân dựa trên sự kìm hãm của chủ nghĩa cực đoan; đột kích vào các nhóm tôn giáo và các cộng đồng xã hội tôn giáo không đăng ký cũng như đăng ký; tịch thu và phá hủy các sách tôn giáo, bao gồm cả sách thánh, và cấm trẻ vị thành niên thực hành đức tin của họ”, Bộ Ngoại Giao cho biết điều này từ năm 2012.

Người dân bị bắt giam về tội “chủ nghĩa tôn giáo cực đoan” đã bị đánh đập, tra tấn và thậm chí bị giết.

Daniel Burke cho CNN Belief Blog

Trích từ UCANEWS VN

Lần đầu tiên một đại hội của Hội đồng Giám Mục Italia được Đức Thánh Cha đích thân khai mạc

Lần đầu tiên một đại hội của Hội đồng Giám Mục Italia được Đức Thánh Cha đích thân khai mạc

VATICAN. Lần đầu tiên ĐTC Phanxicô đã đọc diễn văn khai mạc Đại hội lần thứ 66 của HĐGM Italia.

Chiều ngày 19-5-2014, tại Hội trường Thượng HĐGM ở nội thành Vatican 300 GM Italia đã nghe ĐTC đề ra những đường hướng chính cho hoạt động của HĐGM và Giáo Hội tại Italia.

Trong bài diễn văn dài, sau kinh nguyện và lời chào mừng của ĐHY Angelo Bagnasco, Chủ tịch HĐGM Italia, ĐTC đã đề cập đến nhiều vấn đề khác nhau, và nhấn mạnh rằng ”Sự vắng bóng tình hiệp thông hoặc sự nghèo nàn trong lãnh vực này chính là một gương mù lớn nhất, một lạc giáo làm biến thái khuôn mặt của Chúa và sâu xé Giáo Hội của Chúa. Không gì có thể biện minh cho sự chia rẽ.. Vì thế, trong tư cách là chủ chăn, chúng ta phải xa tránh những cám dễ làm cho chúng ta bị biến dạng: việc quản lý thời gian theo kiểu cách riêng, như thể có một thiện ích tách biệt với thiện ích của các cộng đoàn chúng ta; những thói nói hành nói xấu, sự thật nửa vời trở thành nói dối, một chuỗi những lời than trách chứng tỏ sự thất vọng bất mãn trong lòng”.

Đề cập đến các LM, ĐTC nói với các GM Italia rằng: ”Như anh em biết, các LM của chúng ta thường bị thử thách vì những đòi hỏi của sứ vụ, và nhiều khi họ nản chí vì có cảm tưởng kết quả chẳng được bao nhiêu: anh em hãy giáo dục các LM đừng dừng lại, tính toán những người vào người ra, kiểm điểm xem những điều mình thu thập có tương ứng với những gì mình cho đi hay không”.

ĐTC cũng nhắn nhủ các GM hãy là những mục tử có lối sống đơn sơ, không dính bén, thanh bần và từ bi”.

Đàng khác những thách đố ngày nay rất nhiều, vì cuộc khủng hoảng không phải chỉ xảy ra trên bình diện kinh tế, nhưng nhất là về tinh thần và văn hóa. Cần có một thuyết nhân bản mới. Để được vậy, cần bảo vệ sự sống, từ lúc mới thụ thai cho đến lúc chết tự nhiên. Và luôn luôn có tinh thần từ bi thương xót. ĐTC nói: ”Anh em đừng ngại thương xót cúi mình trên những người bị thương tích trong tình cảm, và thấy dự phóng đời mình bị thương tổn… Anh em cần hết sức chú ý đến cuộc khủng hoảng vì công ăn việc làm, khiến cho người người thất nghiệp; quan tâm đến những người di dân đang tìm kiến một cơ may cho cuộc sống:

”Thảm kịch của người không biết làm sao mang cơm bánh về nuôi gia đình, đi đổi với thảm trạng của người không biết làm sao làm cho xí nghiệp của mình có thể tiếp tục hoạt động. Đó là một tình trạng khẩn cấp lịch sử, đang gọi hỏi trách nhiệm xã hội của tất cả mọi người. Trong tư cách là Giáo Hội, chúng ta hãy giúp họ đừng lâm vào thái độ coi thực trạng làm một thảm họa và có thái độ cam chịu, hãy nâng đỡ vất vả của những người cảm thấy bị mất cả phẩm giá trong công ăn việc làm, nâng đỡ họ bằng mọi hình thức liên đới với tinh thần sáng kiến”. (SD 20-5-2014)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Đức Thánh Cha cổ võ cách giải quyết xung đột trong cộng đoàn

Đức Thánh Cha cổ võ cách giải quyết xung đột trong cộng đoàn

VATICAN. Trong buổi đọc kinh Lạy Nữ Vương Thiên Đàng với hơn 50 ngàn tín hữu trưa chúa nhật 19-5-2014 tại Quảng trường Thánh Phêrô, ĐTC Phanxicô đã cổ võ cách thức giải quyết các xung đột trong cộng đoàn Giáo Hội.

Ngài đã quảng diễn đoạn sách Tông Đồ công vụ, đọc trong thánh lễ Chúa nhật thứ 5 mùa Phục Sinh năm A nói đến những căng thẳng trong cộng đoàn Kitô và quyết định của các Tông Đồ chuyên lo việc cầu nguyện và sứ vụ Lời Chúa và thiết lập các phó tế để chăm sóc cộng đoàn về vật chất. Từ đó ĐTC rút ra bài học để giải quyết các vấn đề trong cộng đoàn Giáo Hội.

Bài huấn dụ của ĐTC

Anh chị em thân mến, chào anh chị em
Hôm nay bài đọc Sách Tông Đồ công vụ cho chúng ta thấy cả trong Giáo Hội sơ khai cũng xảy ra những căng thẳng và bất thuận đầu tiên. Trong cuộc sống, có những xung đột, vấn đề là ta đối phó với chúng như thế nào. Cho đến bấy giờ sự hiệp nhất của cộng đoàn Kitô được dễ dàng nhờ sự kiện các tín hữu thuộc về một chủng tộc và văn hóa duy nhất, văn hóa Do thái. Nhưng khi Kitô giáo, do ý muốn của Chúa Giêsu, được mở ra cho tất cả mọi dân tộc, mở ra đối với môi trường văn hóa Hy Lạp, thì sự đồng nhất không còn nữa và nảy sinh những khó khăn đầu tiên. Khi đấy có những người bất mãn, trách móc, và có những tiếng đồn về sự thiên vị và không được đối xử đồng đều. Điều này cũng xảy ra trong các giáo xứ của chúng ta. Sự giúp đỡ của cộng đoàn dành cho những người túng thiếu – các góa phụ, cô nhi và người nghèo nói chung, dường như ưu đãi các tín hữu Kitô gốc Do thái so với những người khác.

Bấy giờ, trước xung đột ấy các Tông Đồ đối phó với tình thế: các vị triệu tập một cuộc họp mở rộng cho các môn đệ, cùng nhau thảo luận vấn đề. Thực vậy các vấn đề được giải quyết không phải bằng cách làm bộ như thể chúng không hề hiện hữu! Và thật là đẹp cuộc đối chất thẳng thắn giữa các mục tử và các tín hữu khác. Vì thế họ đi đến sự phân chia nhiệm vụ. Các tông đồ đưa ra một đề nghị được mọi người chấp nhận: các vị chuyên chăm việc cầu nguyện và sứ vụ Lời Chúa, trong khi 7 người, các phó tế, sẽ lo việc phục vụ bàn ăn cho người nghèo. 7 người này không được chọn vì là chuyên gia, nhưng vì họ là những ngừơi lương thiện và có tiếng tốt, đầy Thánh Linh và khôn ngoan; họ được bổ nhiệm công tác phục vụ nhờ sự đặt tay của các Tông Đồ.

Và thế là từ sự bất mãn ấy, từ sự kêu trách đó, từ những tiếng đồn về sự thiên vị và đối xử không đồng đều, người ta đi đến một giải pháp. Qua sự đối chiếu, thảo luận và cầu nguyện, các xung đột trong Giáo Hội được giải quyết. Đối chiếu, thảo luận và cầu nguyện. Với xác tín rằng những sự nói hành nói xấu, ghen tương, phân bì không bao giờ có thể đưa chúng ta đến sự hòa hợp, thuận hòa hoặc an bình. Trong những trường hợp như thế, chính Thánh Linh giúp đạt tới thỏa thuận và điều này làm cho chúng ta hiểu rằng khi chúng ta để cho Thánh Linh hướng dẫn, Ngài sẽ dẫn chúng ta đến sự hòa hợp, hiệp nhất và tôn trọng các năng khiếu và tài năng khác nhau? Anh chị em có hiểu rõ không? Không nói hành nói xấu, không ghen tương, không phân bì.

Xin Đức Trinh Nữ Maria giúp chúng ta ngoan ngoãn đối với Chúa Thánh Linh, để chúng ta biết quí chuộng nhau và ngày càng đồng qui sâu xa hơn trong đức tin và tình bác ái, giữ cho con tim được cởi mở đối với các nhu cầu của anh chị em.

Kêu gọi và chào thăm

Sau khi ban phép lành cho các tín hữu, ĐTC nói với các tín hữu rằng:

Anh chị em thân mến,
Nạn lụt nặng nề đã tàn phá nhiều miền ở vùng Balcan, nhất là tại Serbia và Bosnia. Trong khi tôi phó thác cho Chúa các nạn nhân của thiên tai này, tôi bày tỏ sự gần gũi của tôi với những người đang phải sống những giờ phút lo âu và đau khổ này.

”Hôm 17-5-2014, tại thành phố Iasi bên Rumani, ĐGM Anton Durcovici tử đạo đã được phong chân phước. Ngài là một mục tử nhiệt thành và can đảm, bị chế độ cộng sản Rumani bách hại và chết trong tù năm 1951 vì đói khát. Cùng với các tín hữu tại Iasi và toàn thể Rumani, chúng ta hãy cảm tạ Thiên Chúa!”

Đức Cha Antôn Durcovici sinh năm 1888 tại Altenburg bên Áo. Năm lên 6 tuổi, cậu Anton di cư sang Rumani với mẹ và anh. Thầy Anton gia nhập chủng viện tại Bucarest, rồi được gửi sang Roma theo học, đậu tiến sĩ triết học, thần học và giáo luật, thụ phong linh mục năm 1910 và năm 1947 cha được Tòa Thánh bổ làm GM giáo phận Iasi.
Dưới thời cộng sản ở Rumani, ngài đã phải chịu những đau khổ kinh khủng trong 2 năm tù ngục ở một trại tập trung bên Moldavia thời thế chiến thứ I, vì gốc gác tại Áo.

Trong những năm chế độ cộng sản Rumani bách hại Giáo Hội, mặc dù nhiều lần bị nhà nước hăm dọa, nhưng Đức Cha Durcovici vẫn tận tụy thi hành sứ vụ mục tử, viếng thăm các giáo xứ và loan báo Tin Mừng. Ngài bị bắt năm 1949 và giam tại nhà tù nghiêm ngặt ở Sighet và chết rũ tù tại đây ngày 10-5 năm 1951 lúc mới được 63 tuổi. Sáng sớm hôm sau, tài xế của nhà tù chở thi hài trần trụi của Đức Cha và quẳng xuống một huyệt chung tại nghĩa trang Do thái, gần nhà tù.

ĐTC cũng chào thăm tất cả các tín hữu Roma và khách hành hương, các gia đình, các nhóm giáo xứ, hội đoàn và trường học. Ngài cũng đặc biệt nhắc đến các học sinh các trường Công Giáo ở Madrid và Pamplona bên Tây Ban Nha, các học sinh đếntừ Messico và Colombes bên Pháp và nhiều trường học khác.

Ngai nói thêm rằng ”tôi khuyến khích các hội thiện nguyện đến dự Ngày bệnh nhân ung thư. Tôi cầu nguyện cho anh chị em, các bệnh nhân và các gia đình. Và xin Anh chị em nhớ cầu nguyện cho tôi nữa”.

Chúa nhật 17-5-2014 đã có hơn 60 ngàn người, trong đó có 5 ngàn phụ nữ mặc áo hồng, tham dự cuộc đi bộ lần thứ 15 ở Roma để hỗ trợ cuộc chiến đấu chống bệnh ung thư vú đồng thời thăng tiến sức khỏe của phụ nữ.

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio
 

Đức Thánh Cha tiếp kiến 112 Giám Mục Mexico

Đức Thánh Cha tiếp kiến 112 Giám Mục Mexico

VATICAN. ĐTC Phanxicô kêu gọi thăng tiến tinh thần hòa hợp tại Mexico trước làn sóng bạo lực đang lan tràn tại nước này.

Ngài đưa ra lời kêu gọi trên đây trong bài huấn dụ trao cho 112 GM Mexico buổi tiếp kiến sáng 19-5-2014, nhân dịp các vị về Roma hành hương viếng mộ hai thánh Tông Đồ và thăm Tòa Thánh.

ĐTC nhận định rằng: ”Trong tình trạng hiện nay, nhiều bạo lực đang gây đau thương cho xã hội Mexico, đặc biệt là người trẻ. Tình trạng ấy là một lời kêu gọi mới mẻ hãy canh tân tinh thần hòa hợp qua nền văn hóa gặp gỡ, đối thoại và hòa bình. Chắc chắn các vị mục tử không có nhiệm vụ phải mang lại những giải pháp chuyên môn hoặc các biện pháp chính trị, vượt ra ngoài lãnh vực mục vụ, nhưng các vị khôn gthể ngưng loan báo cho mọi người Tin Mừng, theo đó Thiên Chúa, theo lượng từ bi của Ngài, đã làm người và trở nên người nghèo (Xc 2 Cr 8,9); Chúa đã chịu đau khổ với người khổ đau, để cứu vớt chúng ta”.

ĐTC khích lệ những cố gắng của các GM Mexico trong việc giúp đỡ những người túng thiếu, thất nghiệp hoặc những người phải làm việc trong những điều kiện không xứng đáng với con người, những người không được hưởng các dịch vụ xã hội, những người di cư tìm kiến những điều kiện sống tốt đẹp hơn, các nông dân nghèo.

ĐTC cũng viết: ”Tôi biết mối quan tâm lo lắng của anh em đối với các nạn nhân của tệ nạn buôn bán ma túy và các nhóm xã hội dễ bị tổn thương, và quyết tâm bảo vệ các quyền con người cũng như sự phát triển toàn diện con người. Tất cả những điều đó biểu lộ mối liên hệ sâu xa giữa việc loan báo Tin Mừng và sự tìm kiếm thiện ích của người khác (Evang. gaudium 178), chắc chắn mang lại uy tín cho Giáo Hội và tầm quan trọng cho tiếng nói của các mục tử của Hội Thánh”. Cũng trong bài huấn dụ, ĐTC đề cao vai trò của giáo dân trong sứ mạng của Giáo Hội: giáo dân kín múc sức mạnh từ Lời Chúa, các bí tích và việc cầu nguyện, sống đức tin giữa lòng gia đình, trường học, xí nghiệp, phong trào nhân dân, công đoàn, đảng phái và cả trong chính phủ, làm chứng về niềm vui Phúc Âm”.

ĐTC mời gọi các GM Mexico tăng cường việc mục vụ giới trẻ, đặc biệt ngài viết: ”Tôi khích lệ anh em tăng cường việc mục vụ gia đình, là giá trị quí giá nhất trong các dân tộc chúng ta, để, đứng trước nền văn hóa chết chóc hạ giá con người, gia đình biến thành những người cổ võ nền văn hóa tôn trọng sự sống trong mọi giai đoạn, từ lúc mới thụ thai cho đến lúc chết tự nhiên”.

ĐTC không quên mời gọi các GM quan tâm đến các LM, tăng cường việc thường huấn cho các vị, thăng tiến mục vụ ơn gọi LM và đời sống thánh hiến, và đẩy mạnh việc tìm đến những người đã xa lìa Giáo Hội.

112 GM thuộc 91 giáo phận Mexico chia thành 9 nhóm về Roma thăm Tòa Thánh trong khoảng thời gian từ 12 đến 31-5 tới đây. Trong những ngày tới, ĐTC tiếp tục gặp các nhóm thuộc HĐGM này (SD 19-5-2014)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Thư Mục Vụ và Thông báo của Ban Chấp Hành Cộng Đồng Công Giáo VN Giáo Phận Orange: Tổ chức đêm thắp nến

THƯ MỤC VỤ CHÚA NHẬT V MÙA PHỤC SINH

Kính gửi tín hữu Công Giáo và Cộng đồng Việt Nam Nam Cali:

Trong ba ngày qua, các cơ quan truyền thông cho chúng ta biết là Trung Cộng đã ngang nhiên đưa tầu bè đến giàn khoan HD-981 ở Biển Đông, với tầu chiến và võ khí nhằm chiếm các mỏ dầu tại Biển Đông. Dưới đây là nguyên văn bức thư của Đức Tổng Phaolô Bùi văn Đọc, chủ tịch Hội Đồng Giám Mục Việt Nam:

. . . trước tình hình nguy hiểm và căng thẳng, HĐGMVN với trách nhiệm của mình, xin nêu lên những quan điểm dưới đây:

1. Giáo Hội Công Giáo luôn kiên trì lập trường xây dựng hòa bình … Hòa bình không tách rời ra khỏi công lý nhưng nuôi dưỡng bởi hy sinh và tình yêu (cf Thông Điệp Hòa Bình 1975)

2. Chính phủ Việt Nam phải kiên trì đường lối ngoại giao, đối thoại để giải quyết xung đột.

3. Với người Việt Công Giáo, đây là lúc chúng ta cần biểu lộ lòng ái quốc theo lời của Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI “ là người Công Giáo tốt cũng là người công dân tốt “

4. Hội Đồng Giám Mục Việt Nam xin các giáo phận tổ chức một ngày cầu nguyện cho quê hương, tiết giảm chi tiêu ăn uống, mua sắm để góp phần nâng đỡ các ngư dân, nạn nhân của tầu Trung Quốc.

Trong lúc cha linh hướng và phối trí Cộng Đồng vắng mặt, tôi đã đại diện thư cho ông Lâm Kim Bảo thông báo cho toàn lời kêu gọi của HĐGMVN tổ chức một tối thắp nến cầu nguyện cho quê hương tại Trung Tâm Công Giáo càng sớm càng tốt.

Xin mọi người tích cực tham gia và cổ động cho buổi cầu nguyện này, một khi đã biết rõ thời giờ và chi tiết. Nguyện xin các chư thánh Tử Đạo Việt Nam và Đức Mẹ La Vang phù giúp chúng ta.

ĐC Mai Thanh Lương

 

THÔNG CÁO VÀ THƯ MỜI CỦA BAN CHẤP HÀNH CỘNG ĐỒNG CÔNG GIÁO VIỆT NAM: TỔ CHỨC ĐÊM THẮP NẾN HIỆP THÔNG TRONG NỔ LỰC CHỐNG TRUNG CỘNG XÂM LĂNG

Ý  thức bổn phận của người Công Giáo gốc Việt đối với quốc gia dân tộc trước tình hình nghiêm trọng hiện nay: Tung Cộng càng ngày càng tỏ rõ ý đồ xâm lăng, gần đây nhất là hành động đặt giàn khoan dầu trên Biển Đông, đồng thời liên tục giết hại, gây thương vong cho ngư dân hành nghề trên hải phận nhà. Bên cạnh đó, nhà cầm quyền cộng sản lại còn cấu kết trong âm mưu bán nước, đàn áp người yêu nước . . .

– Hưởng ứng lời kêu gọi của Đức Tổng Giám Mục Phaolô Bùi văn Đọc, Chủ Tịch Hội Đồng Giám Mục Việt Nam “ xin các giáo phận tổ chức một ngày cầu nguyện cho quê hương Việt Nam “

Ban Chấp Hành Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam Giáo Phận Orange, với sự khích lệ và yểm trợ của Đức Cha Mai Thanh Lương, Giám Mục Phụ Tá Giáo Phận Orange, Cha Linh Hướng Nguyễn Thái, sẽ tổ chức buổi thắp nến để liên đới, hiệp thông, và cầu nguyện cho quê hương và đồng bào trong công cuộc chống ngoại xâm, đồng thời cho những ngư phủ nạn nhân của cuộc xâm lăng này.

Xin trân trọng kính mời: Quý Đức Ông, quý Linh Mục, quý Tu Sĩ nam nữ, toàn thể Cộng Đoàn Dân Chúa và quý đồng hương hải ngoại, không phân biệt tôn giáo, cùng toàn thể những người đang đáu tranh cổ vũ tự do và công lý trên quê hương Việt Nam; vui lòng thu xếp thời giờ đến tham dự buổi thắp nến và cầu nguyện cho quê hương sớm thoát cảnh phá hoại xâm lăng từ Trung Quốc, và dân tộc sớm được hưởng một nền dân chủ, tự do trong công lý và hòa bình chân thực.

         Địa điểm: Trung Tâm Công Giáo

         Thời gian: 7:00 pm, tối thứ Sáu ngày 23 tháng 5 năm 2014

Xin trân trọng kính mời,

Ban Tổ Chức Đêm Thắp Nến:

Ban Chấp Hành Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam Giáo Phận Orange

 

Đức Thánh Cha cổ võ cách giải quyết xung đột trong cộng đoàn

Đức Thánh Cha cổ võ cách giải quyết xung đột trong cộng đoàn

VATICAN. Trong buổi đọc kinh Lạy Nữ Vương Thiên Đàng với hơn 50 ngàn tín hữu trưa chúa nhật 19-5-2014 tại Quảng trường Thánh Phêrô, ĐTC Phanxicô đã cổ võ cách thức giải quyết các xung đột trong cộng đoàn Giáo Hội.

Ngài đã quảng diễn đoạn sách Tông Đồ công vụ, đọc trong thánh lễ Chúa nhật thứ 5 mùa Phục Sinh năm A nói đến những căng thẳng trong cộng đoàn Kitô và quyết định của các Tông Đồ chuyên lo việc cầu nguyện và sứ vụ Lời Chúa và thiết lập các phó tế để chăm sóc cộng đoàn về vật chất. Từ đó ĐTC rút ra bài học để giải quyết các vấn đề trong cộng đoàn Giáo Hội.

Bài huấn dụ của ĐTC

Anh chị em thân mến, chào anh chị em,

Hôm nay bài đọc Sách Tông Đồ công vụ cho chúng ta thấy cả trong Giáo Hội sơ khai cũng xảy ra những căng thẳng và bất thuận đầu tiên. Trong cuộc sống, có những xung đột, vấn đề là ta đối phó với chúng như thế nào. Cho đến bấy giờ sự hiệp nhất của cộng đoàn Kitô được dễ dàng nhờ sự kiện các tín hữu thuộc về một chủng tộc và văn hóa duy nhất, văn hóa Do thái. Nhưng khi Kitô giáo, do ý muốn của Chúa Giêsu, được mở ra cho tất cả mọi dân tộc, mở ra đối với môi trường văn hóa Hy Lạp, thì sự đồng nhất không còn nữa và nảy sinh những khó khăn đầu tiên. Khi đấy có những người bất mãn, trách móc, và có những tiếng đồn về sự thiên vị và không được đối xử đồng đều. Điều này cũng xảy ra trong các giáo xứ của chúng ta. Sự giúp đỡ của cộng đoàn dành cho những người túng thiếu – các góa phụ, cô nhi và người nghèo nói chung, dường như ưu đãi các tín hữu Kitô gốc Do thái so với những người khác.

Bấy giờ, trước xung đột ấy các Tông Đồ đối phó với tình thế: các vị triệu tập một cuộc họp mở rộng cho các môn đệ, cùng nhau thảo luận vấn đề. Thực vậy các vấn đề được giải quyết không phải bằng cách làm bộ như thể chúng không hề hiện hữu! Và thật là đẹp cuộc đối chất thẳng thắn giữa các mục tử và các tín hữu khác. Vì thế họ đi đến sự phân chia nhiệm vụ. Các tông đồ đưa ra một đề nghị được mọi người chấp nhận: các vị chuyên chăm việc cầu nguyện và sứ vụ Lời Chúa, trong khi 7 người, các phó tế, sẽ lo việc phục vụ bàn ăn cho người nghèo. 7 người này không được chọn vì là chuyên gia, nhưng vì họ là những ngừơi lương thiện và có tiếng tốt, đầy Thánh Linh và khôn ngoan; họ được bổ nhiệm công tác phục vụ nhờ sự đặt tay của các Tông Đồ.

Và thế là từ sự bất mãn ấy, từ sự kêu trách đó, từ những tiếng đồn về sự thiên vị và đối xử không đồng đều, người ta đi đến một giải pháp. Qua sự đối chiếu, thảo luận và cầu nguyện, các xung đột trong Giáo Hội được giải quyết. Đối chiếu, thảo luận và cầu nguyện. Với xác tín rằng những sự nói hành nói xấu, ghen tương, phân bì không bao giờ có thể đưa chúng ta đến sự hòa hợp, thuận hòa hoặc an bình. Trong những trường hợp như thế, chính Thánh Linh giúp đạt tới thỏa thuận và điều này làm cho chúng ta hiểu rằng khi chúng ta để cho Thánh Linh hướng dẫn, Ngài sẽ dẫn chúng ta đến sự hòa hợp, hiệp nhất và tôn trọng các năng khiếu và tài năng khác nhau? Anh chị em có hiểu rõ không? Không nói hành nói xấu, không ghen tương, không phân bì.

Xin Đức Trinh Nữ Maria giúp chúng ta ngoan ngoãn đối với Chúa Thánh Linh, để chúng ta biết quí chuộng nhau và ngày càng đồng qui sâu xa hơn trong đức tin và tình bác ái, giữ cho con tim được cởi mở đối với các nhu cầu của anh chị em.

Kêu gọi và chào thăm

Sau khi ban phép lành cho các tín hữu, ĐTC nói với các tín hữu rằng:

Anh chị em thân mến,

Nạn lụt nặng nề đã tàn phá nhiều miền ở vùng Balcan, nhất là tại Serbia và Bosnia. Trong khi tôi phó thác cho Chúa các nạn nhân của thiên tai này, tôi bày tỏ sự gần gũi của tôi với những người đang phải sống những giờ phút lo âu và đau khổ này.

”Hôm 17-5-2014, tại thành phố Iasi bên Rumani, ĐGM Anton Durcovici tử đạo đã được phong chân phước. Ngài là một mục tử nhiệt thành và can đảm, bị chế độ cộng sản Rumani bách hại và chết trong tù năm 1951 vì đói khát. Cùng với các tín hữu tại Iasi và toàn thể Rumani, chúng ta hãy cảm tạ Thiên Chúa!”

Đức Cha Antôn Durcovici sinh năm 1888 tại Altenburg bên Áo. Năm lên 6 tuổi, cậu Anton di cư sang Rumani với mẹ và anh. Thầy Anton gia nhập chủng viện tại Bucarest, rồi được gửi sang Roma theo học, đậu tiến sĩ triết học, thần học và giáo luật, thụ phong linh mục năm 1910 và năm 1947 cha được Tòa Thánh bổ làm GM giáo phận Iasi.

Dưới thời cộng sản ở Rumani, ngài đã phải chịu những đau khổ kinh khủng trong 2 năm tù ngục ở một trại tập trung bên Moldavia thời thế chiến thứ I, vì gốc gác tại Áo.

Trong những năm chế độ cộng sản Rumani bách hại Giáo Hội, mặc dù nhiều lần bị nhà nước hăm dọa, nhưng Đức Cha Durcovici vẫn tận tụy thi hành sứ vụ mục tử, viếng thăm các giáo xứ và loan báo Tin Mừng. Ngài bị bắt năm 1949 và giam tại nhà tù nghiêm ngặt ở Sighet và chết rũ tù tại đây ngày 10-5 năm 1951 lúc mới được 63 tuổi. Sáng sớm hôm sau, tài xế của nhà tù chở thi hài trần trụi của Đức Cha và quẳng xuống một huyệt chung tại nghĩa trang Do thái, gần nhà tù.

ĐTC cũng chào thăm tất cả các tín hữu Roma và khách hành hương, các gia đình, các nhóm giáo xứ, hội đoàn và trường học. Ngài cũng đặc biệt nhắc đến các học sinh các trường Công Giáo ở Madrid và Pamplona bên Tây Ban Nha, các học sinh đếntừ Messico và Colombes bên Pháp và nhiều trường học khác.

Ngài nói thêm rằng ”tôi khuyến khích các hội thiện nguyện đến dự Ngày bệnh nhân ung thư. Tôi cầu nguyện cho anh chị em, các bệnh nhân và các gia đình. Và xin Anh chị em nhớ cầu nguyện cho tôi nữa”.

Chúa nhật 17-5-2014 đã có hơn 60 ngàn người, trong đó có 5 ngàn phụ nữ mặc áo hồng, tham dự cuộc đi bộ lần thứ 15 ở Roma để hỗ trợ cuộc chiến đấu chống bệnh ung thư vú đồng thời thăng tiến sức khỏe của phụ nữ.

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

 

Niềm tin vào đời sau

Niềm tin vào đời sau

Chúa Giêsu đã hứa rằng: “Thầy đi trước để dọn chỗ cho các con, để Thầy ở đâu các con cũng ở đó với Thầy”. Đây là một lời hứa thật đẹp. Đẹp vì nó mở ra cho chúng ta một khung trời hy vọng vì ngày mai tốt đẹp hơn. Đẹp vì cuộc sống của chúng ta không đi vào ngõ cụt. Cuộc sống của chúng ta từ nay đã có một lối đi về. Cuộc sống của chúng ta không dừng lại ở cái chết là hết một kiếp người. Cuộc sống vẫn tiếp diễn. Cuộc sống được nối dài vĩnh viễn trong sự hiệp thông trọn vẹn với Thiên Chúa là Cha, là cội nguồn sự sống.

Người ta kể rằng: Có một gia đình kia. Chồng là người ngoại đạo. Ông không tin vào Chúa. Ông còn luôn miệng nhạo báng, khinh miệt những hành vi thờ phượng kính mến Chúa. Ngược lại, bà vợ thì rất sùng đạo, luôn dạy con giữ đạo sốt sắng. Ngày nào bà cũng dắt con đi lễ cầu nguyện. Dù sống giữa hai niềm tin trái ngược nhau, nhưng đứa con trai duy nhất của họ vẫn hiếu thảo với cha mẹ. Cho tới một hôm, em lâm bệnh hiểm nghèo. Em biết rằng mình chẳng còn sống được bao lâu ở dương gian. Em đã mạnh dạn hỏi bố rằng: “Bố ơi, trong ít ngày nữa con sẽ không còn sống ở dương gian nữa! Con xin bố hãy dạy cho con biết, con phải tin theo ai? Theo bố hay theo mẹ? Tin theo bố thì chẳng có thiên đàng để tiếp tục sự sống, chẳng có Chúa hay có Mẹ để yêu thương và bảo vệ cho con được hạnh phúc đời đời? Còn tin theo mẹ, thì có Thiên Chúa là cha nhân lành sẽ ban thưởng hạnh phúc thiên đàng vĩnh cửu và có Mẹ Maria luôn bầu cử chở che.

Ông bố nghe mà tái tê lòng. Ông ôm con vào lòng và nói: “Con hãy tin theo mẹ”. Đứa bé lại nói tiếp: “Nhưng nếu bố không tin theo mẹ, thì làm sao con có thể chờ đợi bố ở trên thiên đàng được?” Trước lời nói đơn sơ và chân thành của em bé, ông bố đã không kiềm nổi những giọt nước mắt ứ tràn nơi khoé mắt, và để mặc cho nó tuôn tràn trên gò má già nua của ông. Kể từ ngày đó, ông đã đổi đời, ông chọn Chúa là lẽ sống và là cùng đích của đời mình.

Vâng câu nói: “Con hãy tin theo Mẹ” của người cha là câu nói hay nhất trong cuộc đời của ông. Câu này đã giúp cho con ông cảm thấy thanh thản khi bước vào đời sau. Câu này cũng giúp ông thay đổi đời sống mà từ trước tới nay ông đã cố tình không sống theo. Ông biết rằng phải có đời sau. Ông biết rằng là người thì hơn muôn loài muôn vật, vì con người có sự sống thần linh, con người có hồn thiêng bất tử. Thế nhưng, vì lười biếng và cố chấp ông đã không dám nhìn nhận sự thật từ trong sâu thẳm lòng mình là tin có Trời, có thần thánh, có hồn thiêng và cả đời sau. Ông lừa đối chính mình và lừa dối tha nhân. Hôm nay, ông đã phải nuốt những giọt nước mắt mặn đắng để nói lên sự thật của lòng mình trước mặt đứa con yêu dấu, sắp sửa từ giã ông tiến vào đời sau.

Thực vậy, là người ai cũng tin có đời sau. Là người ai cũng tin có quả phúc. Có thưởng có phạt đời sau. Từ trong sâu thẳm tâm hồn luôn có tiếng nói của Thượng Đế nhắc nhở con người phải sống ngay lành, sống thánh thiện như tình trạng ban đầu là “nhân chi sơ tính bản thiện”. Sống đúng theo lề luật tối thượng của Thượng Đế, con người mới được bình an và hạnh phúc. Người khôn ngoan phải biết sống thuận theo ý trời mới được trời chúc phúc cho cuộc sống an khang hạnh phúc. Đạo lý đó đã được cha ông ta gom lại thành đạo lý tam tài: “Thiên thời – Địa lợi – Nhân hòa”.

Chúa Giêsu trong tư cách là một con người. Ngài đã luôn tìm kiếm ý Cha trên trời để thực thi. Cuộc sống của Ngài luôn mang hai chiều kích: hướng về Thiên Chúa và hướng về tha nhân. Ngài phục vụ tha nhân để tôn vinh Thiên Chúa. Ngài phụng sự Thiên Chúa qua việc phục vụ nhân loại theo thánh ý Chúa Cha. Có thể nói, Ngài đã sống cả cuộc đời vì yêu thương nhân loại và tôn vinh Chúa Cha. Vì Chúa Cha mà Ngài đã nhập thể làm người. Vì Chúa Cha mà Ngài đã hy sinh chịu chết cho con người được sống dồi dào.

Là người kytô hữu, chúng ta được mời gọi bước theo con đường Chúa Giêsu đã đi. Đó là con đường đi tìm thánh ý Chúa và thực thi đến hơi thở cuối cùng. Đó không phải là con đường trải thảm rộng thênh thang mà là con đường hẹp, đầy chông gai giăng kín hành trình. Đó là con đường từ bỏ, đường thập giá, đường hiến tế đẫm máu trên đỉnh đồi Calve. Đó là con đường của tình yêu, tận hiến và hy sinh như thầy Chí Thánh Giêsu. Và như thế, đó chính là con đường duy nhất để chúng ta tiến vào nhà Cha, nơi đó, Chúa đã đi trước để dọn chỗ cho chúng ta.

Nguyện xin Chúa Giêsu Phục Sinh luôn đồng hành với chúng ta trong cuộc sống. Xin Người nâng đỡ những yếu đuối của chúng ta. Xin Người chỉ đường dẫn lối để chúng ta luôn tiến bước về nhà Cha trong an bình và thanh thoát với những bận rộn của cuộc sống bon chen hôm nay. Amen.

LM Giuse Tạ Duy Tuyền

Đường Giêsu

Đường Giêsu

Băn khoăn về nguồn cội con người, thắc mắc về ý nghĩa cuộc đời, thao thức truy tìm cứu cánh của đời người đã tiếp nối bằng bao thế kỷ mà không có được câu trả lời thoả đáng. Con người bơ vơ giữa ngã ba không biết phải đi về đâu. Khi xuống trần, Chúa Giêsu đã cho ta biết nguồn cội của Người là Đức Chúa Cha, ý nghĩa đời Người là thi hành thánh ý Chúa Cha, và cùng đích đời Người là trở về với Chúa Cha. Muốn về với Đức Chúa Cha, ta phải theo một con đường. Đường ấy có tên là GIÊSU. Đường này chắc chắn an toàn đi đến nơi về đến chốn vì Chúa Giêsu là người mở đường. Người chính là con đường và Người là tâm điểm của đích tới.

Chúa Giêsu là người mở đường.

Đi đâu cũng cần có đường. Không con đường nào tự nhiên có. Phải có người mở đường.

Có người mở ra những con đường vật chất, nhờ có óc phiêu lưu mạo hiểm, có tầm nhìn bao quát, có óc tính toán thực tế.

Có người mở ra những con đường suy tư triết học, sáng tác nghệ thuật, nhờ trí tuệ thông minh xuất chúng, có tư duy sáng tạo, có trực giác bén nhạy, có trí tưởng tượng phong phú.

Nhưng không ai có thể mở con đường lên trời. Đường lên trời hoàn toàn vượt khả năng con người. Phải có Đấng, ấy là Chúa Giêsu, Người đã đến từ Đức Chúa Cha, nay Người trở về cùng Đức Chúa Cha. Người lại hứa dọn chỗ cho ta trong Nhà Cha. Với những thông tin như thế, Người đã cho ta biết Trời chính là Nhà Cha. Quê Trời trở thành Quê Cha. Nước Trời trở thành một cõi đi về thân thương của con người. Con đường đi về ấy, chính Chúa Giêsu đã mở.

Chúa Giêsu là đường.

Không chỉ là người mở đường. Chúa Giêsu chính là con đường. Để về Nhà Cha, ta không chỉ đi theo, đi với mà còn phải đi trong Người. Không chỉ đi trong đường lối, trong tinh thần, nhưng trong chính bản thân Người. Như cành nho gắn liền với thân nho và sống bằng sự sống của thân nho. Như bánh rượu tan hoà vào trong máu thịt trở nên thành phần của bản thân ta. Như bản tính Thiên Chúa kết hợp với bản tính loài người trong bản thân Người. Đi trong Người để ta ở trong Người như Người ở trong Chúa Cha. Đi trong Người để ta mang hình ảnh của Người, để ai thấy ta cũng như thấy Người, như “Ai thấy Thầy là thấy Cha Thầy”.

Chúa Giêsu là đích tới của con đường.

Đi trong Chúa Giêsu là một hành trình dài. Đi suốt cả đời chưa chắc đã tới.

Để đi trong Chúa Giêsu ta phải từ bỏ hết những gì của bản thân mình, kết hiệp trọn vẹn với Người, cũng như Người đã từ bỏ ý riêng để hoàn toàn vâng phục thánh ý Chúa Cha, để trở nên một với Chúa Cha.

Khi đã hoàn toàn từ bỏ hết ý riêng và trở nên một với Người cũng là lúc ta đạt tới đích điểm, là lúc ta gặp được Chúa Cha, là lúc ta ở trong Nhà Cha, là lúc ta đạt tới Quê Hương yêu dấu trên trời.

Lạy Chúa Giêsu là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống, xin cho con biết đi trong con đường của Người.

GỢI Ý CHIA SẺ

1) Bạn hãy thử tìm ra những đặc điểm của con đường Giêsu (Vd: hiền lành, khiêm nhường…)

2) Bạn còn xa hay đã gần con đường Giêsu?

3) Bạn có mong đi trọn vẹn trong con đường Giêsu không? Nếu muốn, bạn cần những điều kiện nào nữa?

ĐTGM Ngô Quang Kiệt

Xin cho chúng con thấy Chúa Cha

Xin cho chúng con thấy Chúa Cha

Suy Niệm

Ông Philipphê xin với Thầy Giêsu: “Xin cho chúng con thấy Chúa Cha” (Ga 14,8).

Khao khát của ông cũng là khao khát của biết bao người, những người thiện chí không ngừng tìm kiếm Thiên Chúa, Đấng mà họ gọi bằng những tên khác nhau: Đấng Tối Cao, Đấng Tuyệt Đối, Đấng vượt trên mọi danh…

Con người muốn bắc một nhịp cầu với Đấng siêu việt, muốn có cảm nghiệm và tương quan với Tạo Hóa.

Thiên Chúa đã đáp lại khát vọng Ngài gieo nơi lòng người khi cho Con Một Ngài làm người, ở giữa chúng ta.

Nơi Đức Giêsu Kitô, chúng ta gặp được Thiên Chúa, dễ gần, dễ thấy, dễ quen.

Thiên Chúa đâu chỉ ở nơi cao thẳm ngàn trùng, Thiên Chúa hiện diện nơi con người Đức Giêsu khiêm hạ. Giữa Ngài và Thiên Chúa Cha có một gắn bó lạ lùng đến nỗi Đức Giêsu dám nói: “Ai biết Thầy là biết Cha” (14,7) “Ai thấy Thầy là thấy Cha” (14,9) vì “Thầy ở trong Cha và Cha ở trong Thầy”(14,10).

Lời nói và việc làm của Đức Giêsu chính là lời nói và việc làm của Thiên Chúa (14,10). Toàn bộ cuộc đời Đức Giêsu được Cha chiếm ngự. Ngài như tấm gương trong suốt, phản chiếu khuôn mặt và trái tim Thiên Chúa, đầy nhân ái và bao dung với hết mọi người.

Làm Kitô hữu là làm người như Đức Giêsu Kitô, là trở nên một Giêsu khác cho con người hôm nay, là ước ao nói được rằng: “Ai biết tôi là biết Đức Kitô, ai thấy tôi là thấy Đức Kitô.”

Như thế cũng là biết và thấy Thiên Chúa.

“Xin cho chúng con thấy Chúa Cha”

Xin dẫn chúng con đến gặp Thiên Chúa Cha.

Đức Giêsu không phải chỉ là người đưa đường dẫn lối; Ngài tự nhận mình là Con Đường, thậm chí là Con Đường độc nhất dẫn đến Cha: “Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy” (14,6). Mọi con đường cứu độ đều phải đi vào Con Đường Giêsu.

“Thiên Chúa không ban một danh nào khác dưới bầu trời,

để nhờ danh đó mà chúng ta được ơn cứu độ” (Cv 4,12).

Nhân loại được cứu độ nhờ Danh Đức Giêsu, kể cả những ai không biết Ngài – tuy không do lỗi của họ – nhưng đã sống theo những đòi hỏi của lương tâm.

Đức Giêsu đã về với Chúa Cha trong vinh quang phục sinh, sau khi đã sống một đời yêu thương tự hiến. Cuộc đời Đức Giêsu trở thành con đường cho chúng ta đi.

Khi chiêm ngắm Ngài trong Tin Mừng, chúng ta biết mình phải nghĩ gì, nói gì, làm gì.

Khi đi vào Con Đường Giêsu, chúng ta cũng trở nên nẻo đường cho con người hôm nay, nẻo đường dẫn đến Giêsu.

Gợi Ý Chia Sẻ

1. Người ta thường nói đạo nào cũng như đạo nào, đạo nào cũng dạy ăn ngay ở lành. Còn bạn, tại sao bạn là Kitô hữu? Đức Giêsu có gì đặc biệt khiến bạn chọn theo?

2. Có khi nào bạn thấy mình bị lạc hướng không? Cách sống của Đức Giêsu trong Tin Mừng có khi nào giúp bạn tìm thấy hướng giải quyết không?

Cầu Nguyện

Lạy Cha, Cha muốn cho mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý, chân lý mà Cha đã bày tỏ nơi Đức Giêsu, Con Cha.

Xin Cha nhìn đến hàng tỉ người chưa nhận biết Đức Giêsu, họ cũng là những người đã được cứu chuộc.

Xin Cha thôi thúc nơi chúng con khát vọng truyền giáo, khát vọng muốn chia sẻ niềm tin và hạnh phúc, niềm vui và bình an của mình cho tha nhân, và khát vọng muốn giới thiệu Đức Giêsu cho thế giới.

Chúng con thấy mình nhỏ bé và bất lực trước sứ mạng đi đến tận cùng trái đất để loan báo Tin Mừng.

Chúng con chỉ xin đến với những người bạn gần bên, giúp họ quen biết Đức Giêsu và tin vào Ngài, qua đời sống yêu thương cụ thể của chúng con.

Chúng con cũng cầu nguyện cho tất cả những ai đang xả thân lo việc truyền giáo.

Xin Cha cho những cố gắng của chúng con sinh nhiều hoa trái. Amen.

Trích từ Manna

Niềm tin

Niềm tin

Có năm anh mù sờ vào một con voi. Anh thứ nhất sờ vào cái bụng thì bảo con voi giống như một bức tường lớn. Anh thứ hai sờ vào chiếc ngà thì bảo con voi giống như một thanh gươm cùn. Anh thứ ba sờ vào cái vòi thì bảo con voi giống như một con đỉa khổng lồ. Anh thứ thứ tư sờ vào cái tai thì bảo con voi giống như một chiếc quạt nan. Anh thứ năm sờ vào cái đuôi thì bảo con voi giống như một sợi dây thừng.

Câu trả lời của mỗi người đều đúng theo quan điểm riêng của mìnnh. Chỉ nhờ đối thoại chung với nhau, họ mới có được một cái nhìn sáng suốt và một hình ảnh đầy đủ để hiểu biết con voi thực sự là như thế nào mà thôi.

Đối với Thiên Chúa cũng vậy. Người Do Thái có một cách hiểu về Ngài. Người theo Hồi giáo có cách hiểu thứ hai. Người theo Phật giáo có cách hiểu thứ ba. Người theo Ấn độ giáo có cách hiểu thứ tư. Và các Kitô hữu có cách hiểu thứ năm.

Như vậy, phải nhờ đến đối thoại chung với nhau, người ta mới có thể đạt được một cái nhìn đầy đủ hơn về Thiên Chúa.

Thế nhưng, tại sao các Kitô hữu lại dám xác quyết rằng mình có một cái chính xác về Thiên Chúa hơn bất kỳ một tôn giáo nào?

Câu trả lời dĩ nhiên phải được đặt nền tảng trên đức tin. Thực vậy, Chúa Giêsu đã tuyên bố: Ngài biết Thiên Chúa bằng một cách thức tuyệt vời mà không vị lãnh đạo tôn giáo nào dám mơ tưởng đến.

Hơn thế nữa, Ngài còn đồng hóa mình với Thiên Chúa. Điều này không một nhà lãnh đạo tôn giáo nào dám làm.

Chẳng hạn qua đoạn Tin mừng hôm nay, Ngài đã xác quyết với Philipphê:

– Ai thấy Ta là thấy Cha.

Nơi khác Ngài cũng nói:

– Cha Ta và Ta là một.

Nếu quả thực đúng như vậy, thì chúng ta, những người Kitô hữu đã có được một cái nhìn thật chính xác về Thiên Chúa hơn bất kỳ một tôn giáo nào khác trên mặt đất này.

Thực vậy, chỉ mình Chúa Giêsu mới dám nói:

– Ta ở trong Cha và Cha ở trong Ta.

Chỉ mình Chúa Giêsu mới dám bảo:

– Ta là đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến được với Cha mà không qua Ta.

Chỉ mình Chúa Giêsu mới dám xác quyết:

– Ta là ánh sáng thế gian. Ai theo Ta sẽ có ánh sáng ban sự sống…Ai theo Ta, sẽ không bao giờ phải bước đi trong tăm tối.

Chỉ mình Chúa Giêsu mới dám công bố:

– Ai tin vào Ta, sẽ không bao giờ phải chết, nhưng sẽ có sự sống đời đời… Và Ta, Ta sẽ cho họ sống lại ngày sau hết.

Vậy Đức Kitô là ai?

Đây cũng là vấn đề mà chính Ngài đã đưa ra cho các môn đệ:

– Người ta bảo Thày là ai?

Các ông thưa:

– Người thì bảo là Gioan tiền hô, là Elia, là Giêrêmia hay một tiên tri nào đó.

Và Chúa Giêsu đã đặt một câu hỏi cân não, đòi buộc các ông phải dứt khoát lập trường và tuyên xưng đức tin của mình:

– Còn các con, các con bảo Thày là ai?

Thánh Phêrô đã thay mặt cho nhóm mười hai đã dứt khoát lập trường và tuyên xưng đức tin của mình:

– Thày là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống.

Và Chúa Giêsu liền tỏ cho Phêrô được hay:

– Phúc cho con, không phải do xác thịt hay máu huyết, nhưng do Cha Thầy, Đấng ngự ở trên trời đã tỏ cho con biết.

Lời xác quyết này có nghĩa là chân lý này đến với thánh Phêrô không phải từ bất cứ ai, mà từ chính Chúa Cha, Đấng đã trực tiếp mạc khải cho thánh Phêrô.

Là người Kitô hữu, là người môn đệ của Chúa, ngay từ hồi còn tấm bé, chúng ta đã xác tín Ngài là Con Thiên Chúa và chúng ta cũng đã tin vào Ngài.

Thế nhưng, điều quan trọng hơn, đó là chúng ta phải biến niềm tin thành việc làm, biến xác tín thành cuộc sống, bằng cách tuân giữ những điều Ngài truyền dạy, nhờ đó chúng ta thực sự tuyên xưng Ngài trong thẳm sâu cõi lòng cũng như làm chứng về Ngài trong lòng cuộc đời chúng ta đang sống.

Sưu tầm

Đường hy vọng

Đường hy vọng

Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu? Nếu có một câu hỏi nào thường được các môn đệ đặt ra thì đó phải là câu hỏi thuộc về nơi chốn.

Thực vậy, thuở ban đầu, lúc mới gặp Chúa, các ông đã hỏi:

– Thưa Thầy, Thầy ở đâu?

Và rồi Chúa Giêsu đã trả lời:

– Hãy đến mà xem.

Trước bữa tiệc ly, các ông muốn biết một địa chỉ, một nơi chốn chính xác để mà chuẩn bị, nên đã hỏi Chúa Giêsu:

– Thưa Thầy, Thầy muốn chúng con ăn lễ vượt qua ở đâu?

Và hôm nay trước một tương lai còn mù mờ và bấp bênh, Tôma đã hỏi Chúa:

– Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết được đường đi.

Sở dĩ các ông bận tâm về nơi chốn là vì trong quãng đời theo Chúa, các ông luôn được dẫn vào những cuộc hành trình, nay đây mai đó, không có một địa chỉ, một nơi chốn cố định:

– Con cáo có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người thì không có cả chốn để mà tựa đầu.

Còn cuộc hành trình cuối cùng lại là cuộc hành trình tiến về Giêrusalem để chứng kiến Thầy mình chịu chết trên thập giá. Các ông đã coi đây là con đường thất bại của Chúa Giêsu, đồng thời đã trở nên con đường tuyệt vọng cho các ông. Mấy năm dài miệt mài theo Chúa những mong có ngày tả hữu vinh quang, nào ngờ Ngài lại bị đóng đinh như một tên tử tội… Đúng là dã tràng xe cát biển đông, nhọc nhằn mà chẳng nên công cán gì.

Khi mọi vốn liếng hy vọng đặt cả vào canh bạc cuộc đời, rồi bỗng dưng lật ngửa trắng tay. Các ông như từ trên cao rớt xuống. Hụt hẫng, chới với, chao đảo. Ước mơ bị sụp đổ, các ông như người bị phá sản. Thế mới hay mơ ước thì to lớn, nhưng khung đời lại chật hẹp. Mơ ước thật nhiều mà thực tế chẳng được bao nhiêu, nhiều lúc còn cay đắng phũ phàng.

Thầy đi đâu? Đằng sau câu hỏi này là tâm trạng hoang mang bất ổn trước một dĩ vãng vừa mới khép lại mà tương lai thì chưa kịp mở ra. Tương lai ấy hoàn toàn đổi mới hay chỉ là một dĩ vãng được lặp lai nơi chính bản thân mình. Đã một lần vỡ mộng, các ông băn khoăn là chuyện thường tình. Giống như đứa trẻ lỡ một lần bị phỏng, hễ thấy lửa, là tự nhiên rụt tay lại. Vì thế trong câu hỏi: Thầy đi đâu? Cũng nói lên nỗi âu lo rằng mình sẽ đi đâu? Thất vọng về dĩ vãng. Hoang mang trước tương lai đó là con đường các tông đồ đã nếm trải.

Thế nhưng, mở đầu đoạn Tin Mừng sáng hôm nay, Chúa Giêsu đã khuyên nhủ các ông:

– Các con đừng xao xuyến.

Đó là một lời an ủi, mở ra một con đường mới, tràn ngập hy vọng và tin yêu. Thực vậy, Chúa Giêsu nói tiếp:

– Thầy đi để dọn chỗ cho các con.

Và như thế một tương lai đã được hé mở. Tương lai ấy không còn xa xôi, nhưng đã bén rễ ngay từ cuộc đời này. Sống hiện tại là chuẩn bị cho tương lai. Ngày mai đang bặt đầu từ hôm nay. Hay nói cách khác, cuộc sống trong nước trời phải được chuẩn bị, phải được định hình ngay từ bây giờ.

Đi trong hy vọng là nhận ra rằng con người được tạo dựng để hướng tới một mục đích, chứ không phải sống một cách vất vưởng, như thuyền không lái, như ngựa không cương. Và mục đích chúng ta cần phải đạt tới là chính Thiên Chúa trong niềm hạnh phúc bất tận.

Để kết luận, tôi xin mượn lời cầu nguyện của thánh Augustinô:

– Lạy Chúa, Chúa dựng nên con là để cho Chúa, nên con luôn khắc khoải, cho đến khi được nghỉ yên trong Chúa.

Sưu tầm