Lớp Sáu – Bài Học 16 – Kho Báu và Ngọc Quý

Bài Học 16 – Kho Báu và Ngọc Quý

americangoldentopaz

Một em học sinh thuộc câu lạc bộ bơi lội Saint Clara, Hoa Kỳ, mỗi ngày thức dậy lúc 5 giờ 30 sáng, rồi em ra hồ bơi luyện tập suốt hai tiếng đồng hồ, sau đó vội vàng lo đi học. Sau suốt ngày học ở trường, chiều về em lại ra hồ bơi luyện tập thêm hai tiếng đồng hồ nữa rồi mới về nhà làm bài và ngủ đúng chín giờ tối. Ngày nào cũng vậy, em luôn luôn trung thành với chương trình luyện tập, và chỉ nhận sinh hoạt khi nào sinh hoạt đó không cản trở chương trình học và luyện tập bơi lội của em.

Có người tò mò hỏi, tại sao em dám làm như vậy?

Em trả lời cách xác quyết, vì em muốn đoạt giải vô địch trong kỳ thi thế vận hội sắp tới.

KhoTangTrongBinhDeVo

Giáo Hội luôn trân quý, yêu thương và biết ơn người già là kho tàng khôn ngoan của xã hội

Giáo Hội luôn trân quý, yêu thương và biết ơn người già là kho tàng khôn ngoan của xã hội

Bỏ rơi không săn sóc thăm viếng cha mẹ già là một tội trọng. Vô tâm, thờ ơ, khinh rẻ và gạt bỏ người già là một tội. Một xã hội không sự gần gũi, trong đó sự nhưng không và lòng yêu thương trìu mến không cần đáp trả đang biến mất, là một xã hội đồi bại.

Kính thưa quý vị thính giả, ĐTC Phanxicô đã khẳng định như trên với gần 20,000 tín hữu và du khách hành hương tham dự buổi tiếp kiến chung tại quảng trường thánh Phêrô sáng thứ tư hôm qua.

Mở đầu bài huấn dụ ĐTC nói ngài dành hai bài giáo lý để nói về điều kiện hiện nay của người già, trong gia đình là các ông bà nội ngoại, và ơn gọi của tuổi già trong xã hội ngày nay.

Dựa trên kinh nghiệm đã có khi là Tổng Giám Mục Buenos Aires ĐTC nói về các vấn đề của người già như sau:

Các người già bị bỏ rơi, và không phải chỉ bị bỏ rơi trong sự bấp bênh vật chất. Họ bị bỏ rơi trong sự bất lực ích kỷ chấp nhận các hạn hẹp của họ phản ánh các hạn hẹp của chúng ta, trong nhiều khó khăn mà ngày nay họ phải vượt thắng để sống còn trong một nền văn minh không cho phép họ tham gia, nói lên suy tư của họ, cũng không là những người được quy chiếu theo mô hình tiêu thụ của chủ trương chỉ có người trẻ là ích lợi và có thể hưởng thụ. Trái lại đối với toàn xã hội, các người già này đáng lý ra phải là kho dự trữ khôn ngoan của dân tộc chúng ta. Người già là kho dự trữ khôn ngoan của dân tộc chúng ta. Chúng ta để cho lương tâm ngủ một cách dễ dàng biết bao khi không có tình yêu!

Và xảy ra như vậy. Tôi còn nhớ khi viếng thăm các nhà dưỡng lão, tôi đã nói chuyện với ai đó và biết bao lần tôi đã nghe điều này: “Bác khỏe không? Con cái ra sao rồi?” “Tôi khỏe, tôi khỏe” “Bác có mấy con?” “Nhiều lắm”. “Chúng có tới thăm bác không?” “Có, có, luôn luôn, vâng chúng có đến, chúng có đến”. “Lần cuối cùng các con đến thăm bác là khi nào?” Và bà cụ già, tôi đặc biệt nhớ một bà cụ đã nói: “Ôi, vào lễ Giáng Sinh”. Lúc đó chúng tôi đang ở trong tháng 8! Tám tháng không được con cái thăm viếng, bị bỏ rơi tám tháng! Điều này gọi là tội trọng, anh chị em hiểu không? Hồi còn bé bà nội tôi kể cho chúng tôi câu chuyện của một ông cụ già khi ăn làm bẩn tùm lum vì ông không thể đưa muỗng súp lên miệng một cách đúng đắn được. Người con, hay người cha gia đình, đã quyết định dời chỗ của cụ từ bàn ăn chung xuống cái bàn nhỏ trong nhà bếp, nơi không ai trông thấy vì ông ăn một mình. Và như thế ông khỏi bị mất mặt, khi có bạn bè tới dùng bữa trưa hay bữa tối. Ít ngày sau đó, ông về nhà và thấy đứa con nhỏ nhất của mình chơi với gỗ, cái búa và đinh. Nó đang làm cái gì đó. Ông hỏi: “Con đang làm gì đấy?” Nó trả lời: “Thưa cha con làm một cái bàn nhỏ”. “Một cái bàn nhỏ, tại sao?” “Để có nó khi ba trở thành già yếu, ba có thể ăn ở đấy”. Trẻ em có ý thức hơn chúng ta!

Nhờ các tiến bộ của y khoa sự sống con người “được kéo dài ra”, nhưng xã hội đã không “rộng mở ra” đối với sự sống. Số người già gia tăng, nhưng các xã hội chúng ta không được tổ chức đủ để dành chỗ cho họ, với lòng kính trọng đúng đắn và sự chú ý cụ thể đối với sự giòn mỏng và phẩm giá của họ. Cho tới khi nào chúng ta còn trẻ , chúng ta bị thúc đầy không biết tới tuổi già, làm như thể nó là một bệnh cần tránh xa. Nhưng rồi khi chúng ta già nua, đặc biệt khi chúng ta nghèo túng, đau yếu và cô đơn, chúng ta sống kinh nghiệm các thiếu sót của một xã hội được dự phóng trên sự hữu hiệu, và kết qủa là nó không biết tới người già. Nhưng người già là một sự giầu có, không thể không biết tới.

Khi thăm viếng một nhà dưỡng lão ĐTC Biển Đức XVI đã dùng các từ chìa khóa có tính cách ngôn sứ. Ngài nói: “Phẩm chất của một xã hội, tôi muốn nói của một nền văn minh, cũng được xét xử theo cách nó đối xử với người già và chỗ nó dành cho họ trong cuộc sống chung” (12-11-2012). Thật thế, sự chú ý tớí người già làm thành điểm khác biệt của một nền văn minh. Trong một nền văn minh có sự chú ý tới người cao niên không? Có chỗ cho người già không? Nền văn minh này sẽ tiến tới, nếu biết tôn trọng sự khôn ngoan, sự khôn ngoan của người già. Trong một nền văn minh mà không có chỗ cho người già, họ bị gạt bỏ, bởi vì họ tạo ra các vấn đề, thì xã hội đó đem theo trong mình vi rút của sự chết chóc. Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã tuyên bố như vậy.

ĐTC nói thêm trong bài huấn dụ: Bên Tây phương các nhà nghiên cứu trình bầy thế kỷ này như là thế kỷ của sự già nua: con cái giảm xuống, người già gia tăng. Sự mất quân bình này gọi hỏi chúng ta, còn hơn thế nữa nó là một thách đố lớn đối với xã hội hiện đại. Thế nhưng có một nền văn hóa lợi nhuận nào đó cố nhấn mạnh việc coi người già như một gánh nặng, một khối nặng vô ích. Chẳng những họ không sản xuất, mà còn là gánh nặng; và đâu là kết qủa của suy nghĩ như thế? họ bị gạt bỏ. Thật là xấu, khi thấy người già bị gạt bỏ, nó là điều xấu, nó là tội. Người ta không dám công khai nói lên điều ấy, nhưng người ta làm. Có một cái gì hèn hạ trong thái độ này của nền văn hóa gạt bỏ. Nhưng chúng ta quen gạt bỏ con người rồi. Chúng ta muốn lấy đi nỗi sợ hãi gia tăng của sự yếu đuối và dễ bị tổn thương; nhưng khi làm như vậy là chúng ta khiến gia tăng nơi người già nỗi âu lo bị chịu đựng và bị bỏ rơi. Trong truyền thống của Giáo Hội có một hành trang của sự khôn ngoan đã luôn luôn nâng đỡ một nền văn hóa gần gũi người già, một sự sẵn sàng tiếp đón yêu thương trìu mến và liên đới trong phần cuối của cuộc đời này. Truyền thống đó đâm rễ sâu trong Thánh Kinh, như các kiểu nói của sách Huấn Ca làm chứng: “Đừng bỏ qua chuyện các vị cao niên kể lại, vì chính các ngài đã học hỏi nơi tổ tiên mình; nhờ học với các ngài mà con có được sự hiểu biết, và khi cần, con biết đưa ra câu trả lời thích hợp” (Hc 8,9). ĐTC khẳng định lập trường của Giáo Hội đối với người già như sau:

Giáo Hội không thể và không muốn thuận theo một tâm thức không chịu đựng, lại càng không thờ ơ và khinh rẻ đối với người già. Chúng ta phải thức tỉnh ý thức tập thể biết ơn, qúy trọng, hiếu khách khiến cho người già cảm thấy họ là thành phần sống dộng của cộng đoàn.

Các người già là những người nam nữ, là cha mẹ đã đi trước chúng ta trên cùng con đường của chúng ta, trong nhà của chúng ta, trong cuộc chiến đấu thường ngày của chúng ta cho một đời sống xứng đáng hơn. Họ là những người nam nữ từ đó chúng ta đã nhận được rất nhiều, Người già không phải là một người xa lạ. Người già là chính chúng ta: trong ít lâu nữa, hay lâu sau này, nhưng không thể tránh được, cả khi chúng ta không nghĩ tới nó. Và nếu chúng ta không học đối xử tốt với ngưòi già, thì người ta cũng sẽ đối xử với chúng ta như vậy.

Tất cả người già chúng ta đều ít nhiều giòn mỏng. Tuy nhiên, một vài người đặc biệt yếu đuối, nhiều người cô đơn và bị ghi dấu bởi tật bệnh. Vài người tùy thuộc các chữa trị không thể thiếu và sự chú ý của người khác.Vì thế mà chúng ta sẽ lui bước, bỏ rơi họ cho số phận của họ hay sao? Một xã hội không sự gần gũi, trong đó sự nhưng không và lòng yêu thương trìu mến không cần đáp trả, đang biến mất, là một xã hội đồi bại.

Trung thành với Lời Chúa Giáo Hội không thể nhân nhượng với các suy đồi này. Một cộng đoàn kitô trong đó sự gần gũi và nhưng không không còn được coi là không thể thiếu, sẽ đánh mất đi linh hồn của nó. Nơi đâu không có lòng tôn kính người già, thì không có tương lại cho người trẻ.

ĐTC đã chào nhiều đoàn hành hương như các linh mục Canđê toàn Âu châu được Đức Cha Ramsi Garmou hướng dẫn và nhiều nhóm trẻ. Ngài khích lệ họ gần gũi, quý trọng, yêu thương trìu mến, biết ơn người già và tận dụng học hỏi kinh nghiệm và sự khôn khoan của họ.

Ngài cũng chào các đoàn hành hương Anh quốc, Đức, Áo, Đan Mạch, Thụy Điển, Nhật Bản, Nam Hàn và Hoa Kỳ và cầu chúc chuyến hành hương Roma củng cố đức tin và giúp họ sống kinh nghiệm sự hiệp thông với Giáo Hội hoàn vũ.

Chào các tín hữu Tây Ban Nha, Mêhicô, Argentina ngài khuyên mọi người sống dễ thương và tế nhị đối với người già, đặc biệt những người già nghèo túng, bệnh tật và cô đơn.

Với các tín hữu Ba Lan ĐTC nhắc lại các lời nhắn nhủ của thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II: Tuổi thứ ba hay thứ bốn thường bị đánh giá thấp, và chính người già cũng tự hỏi cuộc sống của họ có còn ích lợi không. Trong khi cộng đoàn kitô có thể nhận được rất nhiều từ sự hiện diện thanh thản của người cao niên. Người già có khả năng trao ban can đảm qua lời cố vấn yêu thương, lời cầu nguyện thinh lặng, chứng tá của khổ đau được đón nhận với sự tín thác kiên nhẫn, và họ trở thành qúy báu trong chương trình của Thiên Chúa Quan Phòng. Chúng ta hãy nhớ tới các ông bà nội ngoại của chúng ta và xin Chúa chúc lành đặc biệt cho các ngài.

Trong số các nhóm Italia ĐTC đặc biệt chào các giáo sư và sinh viên Đại học giáo hoàng Salesien đang kỷ niệm 200 năm thánh Bosco sinh ra; các Phó tế tổng giáo phận Milano; nhiều thành viên hiệp hội Rotary; tín hữu giáo phận Anzio cử hành năm Đức Giáo Hoàng Innocenzo XII; và hàng trăm người tàn tật giáo phận Mondovi do ĐC Luciano Pacomio GM sở tại hướng dẫn. Ngài nói: Ước chi thời đại chúng ta bị ghi dấu bởi biết bao bóng tối, được soi sáng bởi mặt trời hy vọng là Chúa Kitô. Ngài đã hứa sẽ luôn luôn ở với chúng ta và tỏ hiện sự hiện diện của Ngài trong nhiều cách thức. Chúng ta có bổn phận loan báo và làm chứng cho Ngài. Anh chị em đừng mệt mỏi tín thác nơi Chúa Kitô và phổ biến Tin Mừng của ngài trong mọi môi trường.

Chào các bạn trẻ, người đau yếu và các đôi tân hôn ĐTC cầu mong Mùa Chay là dịp giúp mọi người hoán cải đích thực và trưởng thành trong lòng tin.

Buổi tiếp kiến đã kết thúc với Kinh Lạy Cha và phép lành toà thánh ĐTC ban cho mọi người.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

 

Đức Thánh Cha tiếp kiến 60 Giám Mục bạn Phong Trào Tổ Ấm

Đức Thánh Cha tiếp kiến 60 Giám Mục bạn Phong Trào Tổ Ấm

VATICAN. ĐTC đề cao vai trò của các GM trong việc tăng cường tình hiệp nhất của các tín hữu Kitô quanh bàn tiệc Thánh Thể.

Ngài nhắc lại đạo lý trên đây trong buổi tiếp kiến sáng thứ tư 4-3-2015, dành cho 60 GM bạn của Phong trào Focolare (Tổ Ấm), tham dự khóa hội thảo thứ 38 từ 3 đến 6-3-2015 tại Castel Gandolfo về đề tài: ”Thánh Thể, mầu nhiệm hiệp thông”.

Hiện diện tại buổi tiếp kiến, cũng có chị Maria Voce, Chủ tịch Phong trào Tổ Ấm và vị đồng chủ tịch là LM Jesús Morán Cepedano người Tây Ban Nha.

Lên tiếng tại buổi tiếp kiến, ĐTC nhận xét rằng ”đoàn sủng hiệp nhất là một đặc điểm của Phong trào Tổ Ấm, ăn rễ sâu nơi Thánh Thể.. Nếu không có Thánh Thể thì sự hiệp nhất sẽ mất đi một nguồn thu hút thần thiêng và bị thu hẹp thành một thứ tình cảm và một năng động nhân bản, tâm lý và xã hội học mà thôi. Trái lại, Thánh Thể đảm bảo cho sự hiệp nhất có trung tâm là Chúa Kitô và chính Thánh Linh của Chúa thúc đẩy những bước đường và sáng kiến gặp gỡ và hiệp thông của chúng ta”.

ĐTC cũng nhắc lại chân lý: GM chính là nguyên lý hiệp nhất của Giáo Hội, nhưng điều này sẽ không xảy ra nếu không có Thánh Thể. GM tụ họp Dân Chúa không phải quanh bản thân và những tư tưởng của GM, nhưng là quanh Chúa Kitô hiện diện trong Lời Chúa và trong bí tích Mình và Máu Chúa… Như thế Giám mục, được Chúa Kitô củng cố, trở thành Tin Mừng sinh động, trở thành Bánh được bẻ ra để nuôi sống nhiều người, cùng với lời giảng và chứng tá của GM.”

ĐTC tái bày tỏ tình liên đới đặc biệt với một số GM hiện diện đến từ những vùng đất đẫm máu là Siria và Irak, cũng như từ Ucraina. Ngài nói: ”Trong đau khổ mà anh em đang sống cùng với dân của mình, anh em cảm nghiệm sức mạnh đến từ Chúa Giêsu Thánh Thể, sức mạnh để tiến bước hiệp nhất trong đức tin và hy vọng”.

Trong số 60 GM bạn của Phong trào Tổ Ấm tại cuộc Hội thảo có các vị đến từ 4 nước Á châu là Hàn quốc, Thái Lan, Myanmar và Ấn độ. Điều hợp viên khóa hội thảo là Đức Tân Hồng Y Phanxicô Xavie Kiengsak Kovithananij, TGM giáo phận Bangkok, Thái Lan.

Các GM đã nghe chứng từ của các GM đến từ các nước đang có chiến tranh như Siria, Irak, Liban và cả Ucraina. (SD 4-3-2015)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Các phôi thai đông lạnh

Các phôi thai đông lạnh

Phỏng vấn Đức Ông Renzo Pegoraro, chưởng ấn Hàn lâm viện giáo hoàng Cho sự sống

Trong những ngày đầu tháng hai vừa qua dư luận Italia đã bàn tán về phán quyết của các thẩm phán tỉnh Bologna, trung bắc Italia, cho phép cấy một phôi thai đã được cho thụ thai cách đây 19 năm vào tử cung của một bà góa 50 tuổi muốn có con.

Từ nhiều thập niên qua tại Âu châu việc thụ thai trong ống nghiệm đã trở thành một thực tại kỹ nghệ hay ít nhất đó là giấc mộng của những người có tham vọng làm giầu với nó. Các phôi thai này được tạo thành bởi tinh trùng của một người nam và trứng của một phụ nữ, rất thường khi vô danh, nhằm đáp ứng nhu cầu có con của một số cặp vợ chồng muốn có con, nhưng vì nhiều lý do không thể thụ thai. Trứng tạo thành phôi thai có thể là của phụ nữ muốn có con, và tinh trùng của một người cho không phải là chồng bà. Nó cũng có thể là tinh trùng của người chồng muốn có con và trứng của một phụ nữ nào đó mà không phải là của vợ ông. Rất thường khi phôi thai thành hình trong ống nghiệm là trẻ mồ côi, vì không biết ai là cha mẹ mình. Lý do là vì những người sẵn sàng hiến trứng và tinh trùng không cho biết danh tánh của họ.

Ban đầu xem ra việc cho thụ thai trong ống nghiệm nhằm đáp ứng các nhu cầu cấp thiết của các cặp vợ chồng muốn có con mà không hội đủ điều kiện tâm sinh vật thể lý. Nhưng dần dà nó đi xa hơn và trở thành cuộc chạy đua thử nghiệm “chế tạo người” để lấy các tế bào gốc nhằm chữa trị một số bệnh.

Sau khi lấy các tế bào gốc của phôi thai, người ta hủy hoại các phôi thai ấy. Và để có số dự trữ sẵn người ta cho thụ thai trong ống nghiệm hàng trăm ngàn hay hàng triệu các phôi thai, và đông lạnh chúng để sử dụng khi cần. Nhưng việc đông lạnh các phôi thai người có thể khiến cho phôi thai bị hư hại, nên cứ sau một thời gian người ta lại hủy các phôi thai đông lạnh đi, và thay thế bằng các phôi thai mới. Sự kiện giết các phôi thai người này đã khiến cho các tín hữu công giáo và các phong trào bảo vệ sự sống đó đây trên thế giới phản đối bằng cách tổ chức các cuộc tuần hành, biểu tình, canh thức cầu nguyện, đọc kinh Mân Côi hay dâng thánh lễ phạt tạ tại Hoa Kỳ, bên Anh quốc vv…

Tuy đã phải giết bao nhiêu triệu phôi thai nhưng thật ra kỹ nghệ chế tạo phôi thai và dùng các tế bào gốc lấy từ phôi thai người đã không đem lại nhiều kết qủa như mong muốn của các người chủ trương hy vọng có thể làm giầu với nó. Trong khi đó việc sử dụng các tế bào gốc lấy từ các cuống rốn và các tế bào gốc trưởng thành của chính các bệnh nhân đã đem lại nhiều thành quả rất đáng khích lệ, và đã chữa lành hay chỉnh sửa được các cơ phận bị bệnh.

Với các kỹ thuật tối tân ngày nay người ta còn có thể chế tạo các phôi thai người theo các chi tiết phù hợp với ước muốn của “người đặt hàng” liên quan tới mầu mắt, mầu da, mầu tóc và nhiều đặc tính khác. Và người ta vẫn có tham vọng đi tới chỗ sản xuất người hàng loạt như mong muốn.

Sau đây chúng tôi xin gửi tởi quý vị một số nhận định của Đức Ông Renzo Pegoraro, chưởng ấn Hàn lâm viện giáo hoàng Cho sự sống về vấn đề nêu trên.

Đức Ông Perogaro là chuyên viên luân lý sinh học, chủ tịch tổ chức Lanza, thành viên của Ủy ban luân lý sinh học các nhà thương Italia và là giáo sư tại phân khoa thần học vùng Triveneto đông bắc Italia. Ngày 12 tháng 9 năm 2013 Đức Ông đã được ĐTC Biển Đức XVI chỉ định làm chưởng ấn Hàn lâm viện giáo hoàng bảo vệ sự sống. Hàn lâm viện giáo hoàng bảo vệ sự sống đã do Đức Gioan Phaolô II thành lập năm 1994. Ủy ban gồm 37 chuyên viên có nhiệm vụ thăng tiến và bảo vệ sự sống cũng như phổ biến các giáo huấn luân lý đạo đức của Giáo Hội liên quan tới lãnh vực này.

Hỏi: Thưa Đức Ông, như là chuyên viên luân lý sinh học Đức Ông nghĩ gì về trường hợp nói trên?

Đáp: Trong trường hợp chuyên biệt này, các phôi thai đã hiện hữu, chúng đã được tạo thành cách đây 19 năm, rồi được đông lạnh. Vấn đề đặt ra cũng là vấn đề cống hiến một khả thể có thể sinh con. Như thế, một đàng có khả thể này là một giai pháp tích cực, và đàng khác, sau 19 năm đông lạnh, kể cả trên bình diện y khoa và kỹ thuật sít sao, thật khó mà thành công. Hơn thế nữa còn có sự kiện tuổi của người đàn bà đã cao, hầu như 50 rồi, và sự kiện ở góa: một trật tự lứa đôi và gia đình đã thay đổi so với 19 năm trước đây.

Hỏi: Chúng ta nhấn mạnh điều này: đó là tình trạng này đã nảy sinh trước khi luật 40 liên quan tới lãnh vực này bắt đầu có hiệu lực, thưa Đức Ông?

Đáp: Thật ra đạo luật 40 thấy trước rằng mỗi một chu kỳ kết thúc trong chính nó và tất cả các phôi thai có được phải cấy ngay lập tức, tránh bị đông lạnh, chính là để tránh các tình trạng như thế này, trong đó mọi chuyện trở thành phức tạp.

Hỏi: Nhưng trong thời gian đó thì đạo luật 40 đã bị tháo gỡ bởi các phán quyết, vậy có cần một sự tái tổ chức mới hay không?

Đáp: Tôi đồng ý với việc tổ chức trở lại và hệ thống hóa vấn đề với một việc đưa ra luật lệ chú ý hơn, chính xác hơn và bảo vệ các đương sự có liên hệ một cách tốt đẹp hơn, đặc biệt là bảo vệ sự sống đang sinh ra, sự sống của các bào thai, nhưng cũng bảo vệ sự sống người đàn bà của cặp vợ chồng và của gia đình trong tổng thể của nó. Luật 40 đã đưa ra các hạn chế để có các bảo vệ chính xác hơn. Hiện nay người ta đang đứng trước tình trạng tháo gỡ khung tổng quát của luật này, và sự kiện mỗi tòa án có thể quyết định từng trường hợp riêng rẽ, mà không có một tiêu chuẩn chung chính xác hơn.

Hỏi: Thế là chúng ta lại đang đứng trước một thực tạ,i trong đó người ta đông lạnh một sự sống, người ta để nó trong một tình trạng treo lơ lửng, và người ta không biết điều gì sẽ xảy ra… có phải thế không thưa Đức Ông?

Đáp: Luật 40 đã muốn tránh có quá nhiều phôi thai để chúng không bị đông lạnh như đã xảy ra. Trong trường hợp của người đàn bà nói trên vấn đề là phôi thai đã được tạo thành cách đây 19 năm. Bây giờ làm thế nào để ra khỏi tình trạng này, và ít nhất thử cống hiến khả thể này cho các phôi thai đã hiện hữu và bà mẹ là mẹ chúng?

Hỏi: Thưa Đức Ông, Giáo Hội luôn luôn tôn trọng và bảo vệ sự sống, và như thế Giáo Hội chống lại mọi lèo lái, trái lại Giáo Hội ủng hộ việc chống lại sự hiếm muộn. Thế mà nhiều người tiếp tục con đường được định nghĩa như là “có con bằng bất cứ giá nào”. Đức Ông nghĩ sao?

Đáp: Tôi tin rằng có biết bao nhiêu lần các kỹ thuật đã thúc đẩy theo một hướng cho nhanh hơn và hữu hiệu hơn, và đánh mất đi tất cả những gì có thể là nhiệm vụ của chính y khoa biết chú ý tới một môi sinh nhân bản và một việc tôn trọng nhân bản trong việc phòng ngừa sự hiếm muộn hay chữa trị các hạch nội tiết, hoặc giải phẫu để có thể đem lại các hiệu qủa trong sự tôn trọng việc truyền sinh, tôn trọng phẩm giá của con người.

Hỏi: Như vậy theo Đức Ông, cần phải có một suy tư sâu xa về vấn đề này?

Đáp: Dầu sao đi nữa một suy tư là điều cần thiết từ quan điểm luân lý đạo đức và từ quan điểm của điều lệ và lập pháp: một nền luân lý đạo đức yểm trợ một việc tiếp cận việc truyền sinh trong các phạm trù của tinh thần trách nhiệm, bảo vệ những người yếu đuối nhất, đặc biệt là bào thai, chính phụ nữ, tính cách xác thể của họ và cả một luật chính xác hơn, bởi vì việc tháo gỡ luật 40 đã mở ra tất cả một loạt các tình huống trở thành khó điều khiển.

(RG 11-2-2015)

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Công bố qui chế 3 cơ quan kinh tế, tài chánh và kiểm toán của Tòa Thánh

Công bố qui chế 3 cơ quan kinh tế, tài chánh và kiểm toán của Tòa Thánh

VATICAN. Hôm 3-3-2015, qui chế của 3 cơ quan về kinh tế và tài chánh của Tòa Thánh đã được công bố, gồm Hội đồng kinh tế, Văn phòng kinh tế và viện kiểm toán.

Ba qui chế được ĐTC Phanxicô ký ngày 22-2-2015 tức là trước khi đi tĩnh tâm mùa chay, có giá trị thử nghiệm, được yết thị trong những ngày qua tại Sân Damaso trong Nội thành Vatican và bắt đầu có hiệu lực từ ngày 1-3-2015.

1. Hội đồng kinh tế là cơ quan giám sát và đề ra hướng đi về các hoạt động kinh tế của Tòa Thánh và gồm có 15 thành viên, trong đó có 8 vị Hồng Y, GM và 7 vị còn lại là giáo dân chuyên gia. Hội đồng do 1 HY làm điều hợp viên (hiện là ĐHY Reinhard Marx, TGM Munich, Chủ tịch HĐGM Đức) và có 1 giáo dân là phó điều hợp viên. Hội đồng này nhóm họp 4 lần một năm. Trước đây, phần lớn công việc này do hội đồng về các vấn đề kinh tế và quản trị của Tòa Thánh đảm trách và gồm 15 HY, nhóm họp một năm 2 lần.

2. Văn phòng kinh tế là cơ quan kiểm soát và canh chừng về vấn đề quản trị và tài chánh trên các cơ quan trung ương Tòa Thánh, và các cơ quan phụ thuộc, cũng như việc quản trị Quốc gia thành Vatican.

Văn phòng này có 2 phân bộ: a. phân bộ kiểm soát và canh chừng, b. phân bộ quản trị, cả hai ở dưới sự điều hành của một Hồng Y chủ tịch (hiện là ĐHY George Pell người Úc), và có 2 vị Giám Chức Tổng thư ký và thư ký.

– Phân bộ kiểm soát và canh chừng có chức năng giống như Sở kinh tế trước đây của Tòa Thánh với nhiệm vụ kế hoạch hóa, làm ngân sách dự chi và kết toán, quản lý nhân sự, tài chánh.

– Phân bộ quản trị có nhiệm vụ đề ra đường hướng, kiểu mẫu đấu thầu, xác định lương bổng, và thu nhận các nhân viên mới. Tuy nhiên Phủ quốc vụ khanh Tòa Thánh vẫn giữ nguyên thẩm quyền kiểm chứng xem các ứng viên có đầy đủ năng khiếu và điều kiện cần thiết hay không để được thu nhận.

3. Viện kiểm toán gồm có vị Tổng kiểm toán và hai kiểm toán viên. Việc gia tăng từ 1 lên 3 kiểm toán viên so với đề nghị ban đầu là để bảo đảm sự độc lập của các chuyên gia này, kiểm soát lẫn nhau. Viện có mục đích kiểm soát kế toán tất cả các cơ quan Tòa Thánh và các cơ quan phụ thuộc.

Hội đồng Tòa Thánh về các văn bản luật đã đề nghị gia tăng số kiểm toán viên lên 3 người và đề nghị này đã được ĐTC chấp thuận. (SD 3-3-2015)

G. Trần Đức Anh OP  – Vatican Radio

Đức Thánh Cha tiếp kiến các Giám Mục Bắc Phi về Roma thăm Tòa Thánh

Đức Thánh Cha tiếp kiến các Giám Mục Bắc Phi về Roma thăm Tòa Thánh

VATICAN. Trong buổi tiếp kiến 10 GM thuộc các nước Bắc Phi sáng hôm qua, 2-3, ĐTC nhiệt liệt khích lệ các Giáo Hội địa phương tăng cường đối thoại liên tôn và các hoạt động bác ái.

Các GM thuộc HĐGM Bắc Phi, gọi tắt là Cerna, về Roma hành hương, viếng mộ hai thánh Tông Đồ Phêrô Phaolô và thăm Tòa Thánh. Giáo Hội Công Giáo tại 4 nước ở miền bắc Phi châu chỉ là một đoàn chiên rất bé nhỏ, toàn là người nước ngoài, giữa đại đa số dân theo Hồi giáo.

Trong bài huấn dụ trao cho các GM tại buổi tiếp kiến, ĐTC nhận xét rằng: ”Đối thoại liên tôn là một phần quan trọng trong đời sống các giáo phận của anh em. Cả trong lãnh vực này, đức bác ái với tinh thần sáng tạo biết mở ra vô số những con đường để mang tinh thần của Tin Mừng vào trong các nền văn hóa và cac môi trường xã hội rất khác nhau. Anh em biết rõ sự ngộ nhận nhau là nguồn mạch gây ra bao nhiêu hiểu làm và nhiều khi đưa đến xung đột.”

ĐTC Phanxicô nhắc lại lời ĐGH Biển Đức 16 trong Tông huấn ”Africae Munus”, các nghĩa vụ của Phi Châu, rằng ”Nếu tất cả chúng ta, những người tin nơi Thiên Chúa, ước muốn phục vụ hòa giải, công lý và hòa bình, chúng ta phải cùng nhau hoạt động để bài trừ mọi hình thức kỳ thị, bất bao dung, tôn giáo cực đoan” (n.94). Liều thuốc hữu hiệu nhất chốn glại mọi hình thức bạo lực chính là giáo dục về sự khám phá và chấp nhận sự khác biệt như một sự phong phú và mang lại nhiều thành quả. Vì thế, điều quan trọng là trong các giáo phận của anh em, các LM, nữ tu và giáo dân được huấn luyện về lãnh vực này.”

ĐTC ca ngợi Giáo Hội tại các nước Bắc Phi, mặc dù nghèo về nhân sự và phương tiện nhưng vẫn muốn phục vụ tất cả mọi người không phân biệt ai. ”Với những phương tiện nhiều khi ít ỏi, anh em biểu lộ tình thương của Chúa Kitô và Giáo Hội cho những người nghèo khổ nhất, các bệnh nhân, người già, phụ nữ trong hoàn cảnh khó khăn, túng thiếu, hoặc các tù nhân. Tôi nồng nhiệt cám ơn anh em vì đã giúp đỡ nhiều người di dân, gốc Phi châu, tìm kiếm nơi các đất nước anh em một nơi chuyển tiếp hoặc sự tiếp đón”

Tình hình Giáo Hội tại 4 nước Bắc Phi

Đứng đầu danh sách Giáo Hội tại 4 nước Bắc Phi là Algéri rộng gần 2 triệu 400 ngàn cây số vuông với 37 triệu 500 ngàn dân, trong số này chỉ có 9 ngàn tín hữu Công Giáo gồm 4 giáo phận, họp thành một giáo tỉnh Algéri.

Tiếp đến là Libia, rộng 1 triệu 700 ngàn cây số vuông, nhưng chỉ có 6 triệu 500 ngàn dân cư, trong số này hiện nay chỉ còn lại từ 2 đến 3 ngàn tín hữu Công Giáo, họp thành 2 giáo phận đại diện Tông Tòa Tripoli và Bengasi. Dưới thời nhà độc tài Ghedafi, tại đây có 150 ngàn tín hữu, hầu hết là các công nhân di dân. Trong buổi gặp gỡ hôm qua (2-3), ĐTC đặc biệt cám ơn hai vị GM và một vài LM nhất quyết ở lại nước này, mặc dù tình hình khó khăn và đầy nguy hiểm.

Thứ ba là Vương quốc Maroc, rộng 460 ngàn cây số vuông với 32 triệu rưỡi dân cư, trong số này có khoảng 30 ngàn tín hữu Công Giáo, tất cả là người ngoại quốc, họp thành 2 tổng giáo phận Rabat và Tangeri.

Sau cùng là nước Tunisi rộng 163 ngàn cây số vuông với 9 triệu dân cư, trong đó có 25 ngàn tín hữu Công Giáo họp thành 1 giáo phận là Tunis.

Trong cuộc phỏng vấn dành cho đài Vatican, Đức Cha Vencent Landel, TGM giáo phận Rabat, Maroc, Chủ tịch HĐGM Bắc Phi, cho biết thách đố chính của Giáo Hội Công Giáo tại miền này là đối thoại với Hồi giáo. Ngài nói: ”Chúng tôi sống yên hàn và thanh thản với người Hồi giáo tại Maroc, Algéri và Tunisi… Tuy nhiên tình hình tại Libia thật là bi thảm sau những biến cố gần đây, hầu hết các tín hữu Kitô, như người Philippines hoặc Trung Đông đã phải ra đi. Tại thủ đô Tripoli chỉ còn lại Đức Cha Martinelli và một nhóm nhỏ người Philippines. Toàn nước Libia chỉ còn lại 4, 5 Linh mục. (SD 28-2-2015)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Đức Thánh Cha kêu gọi cầu nguyện cho Syria, Iraq và Venezuela

Đức Thánh Cha kêu gọi cầu nguyện cho Syria, Iraq và Venezuela

VATICAN. Trong buổi đọc kinh Truyền Tin trưa chúa nhật 1-3-2015 với gần 50 ngàn tín hữu tại Quảng trường Thánh Phêrô, ĐTC Phanxicô tái kêu gọi cầu nguyện cho các nạn nhân bạo lực tại Syria, Iraq, và cho bình an tại Venezuela.

Trong bài huấn dụ ngắn trước khi đọc kinh, ĐTC quảng diễn bài Tin Mừng chúa nhật thứ 2 mùa chay về cuộc hiển dung của Chúa Giêsu trên núi nhân bạo lực tại Syria, Iraq, và Venezuela.

Huấn dụ của ĐTC

Anh chị em thân mến, chào anh chị em,

Chúa nhật tuần trước phụng vụ đã trình bày cho chúng ta Chúa Giêsu bị Satan cám dỗ trong hoang địa, nhưng Chúa chiến thắng cám dỗ này. Dưới ánh sáng Tin Mừng ấy, chúng ta tái ý thức về thân phận tội nhân của chúng ta, và cả chiến thắng trên sự ác được ban cho những người tiến bước trên con đường hoán cải, và cũng như Chúa Giêsu, họ muốn thi hành thánh ý Chúa Cha. Trong chúa nhật thứ hai mùa chay này, Giáo Hội chỉ cho chúng ta mục tiêu của hành trình hoán cải ấy, nghĩa là được tham dự vào vinh quang của Chúa Kitô, vinh quang chiếu tỏa trên khuôn mặt của Người là Tôi Tớ vâng phục, chịu chết và sống lại vì chúng ta.

Trang Phúc Âm thuật lại biến cố hiển dung, được đặt nơi cao điểm sứ vụ công khai của Chúa Giêsu. Người đang trên đường tiến về Jerusalem, nơi mà các lời tiên trì về ”Người Tôi Tớ” Thiên Chúa sẽ được ứng nghiệm viên mãn và hy tế cứu chuộc của Người sẽ được hoàn thành. Đứng trước viễn tượng một Đấng Messia trái ngược với mong đợi trần tục của mình, đám đông rời bỏ Người. Họ nghĩ rằng Đấng Messia là vị giải thoát quê hương họ khỏi sự thống trị của người Roma; nhưng viễn tượng này của Chúa Giêsu không làm cho họ hài lòng và họ bỏ Người. Cả các Tông Đồ cũng không hiểu những lời Chúa Giêsu loan báo sự kết thúc sứ mạng của Người trong cuộc khổ nạn vinh hiển. Họ không hiểu, vì thế Chúa Giêsu tỏ cho Phêrô, Giacôbê và Gioan thấy trước vinh quang của Người, sẽ diễn ra sau khi Người sống lại, để củng cố họ trong đức tin và khích lệ họ theo Người trên con đường Thập Giá. Trên núi cao ấy, chìm đắm trong kinh nguyện, Chúa hiển dung trước mặt họ: Mặt Người và toàn thân tỏa sáng chói lòa. Cả 3 môn đệ kinh hãi, trong khi một đám mây bao phủ các vị và từ trên cao vang vọng tiếng Chúa Cha – giống như khi Chúa Giêsu chịu phép rửa ở sông Giordan-: ”Đây là Con yêu dấu của Ta: Hãy nghe lời Người!” (Mc 9,7). Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa trở thành Tôi Tớ, được sai xuống trần thế để thực thi dự án cứu độ qua Thập Giá. Sự hoàn toàn gắn bó với Thánh Ý Chúa Cha làm cho nhân tính của Người chiếu tỏa vinh quang Thiên Chúa là Tình Thương”.

Thế là Chúa Giêsu tỏ mình ra như một hình ảnh hoàn hảo của Chúa Cha, tỏa lan vinh quang Thiên Chúa. Đó là sự viên mãn mạc khải, vì thế ở cạnh Người lúc hiển dung có Môisê và Elia xuất hiện, tượng trưng cho Lề Luật và các Ngôn Sứ. Như thể cho thấy rằng tất cả đều bắt đầu và kết thúc trong Chúa Giêsu.

Mệnh lệnh được truyền cho các môn đệ và chúng ta là: ”Các con hãy nghe Người! Hãy lắng nghe Chúa Giêsu. Chính Người là Đấng Cứu Thế, hãy bước theo Người. Thực vậy, lắng nghe Chúa Kitô bao hàm sự đón nhận con đường mầu nhiệm phục sinh của Chúa, lên đường đồng hành với Chúa để biến cuộc sống của mình thành một món quà tình thương cho tha nhân, trong sự ngoan ngoãn tuân phục thánh ý Thiên Chúa, với thái độ không dính bén những sự trần thế và tự do trong nội tâm. Nói khác đi, cần phải sẵn sàng ”mất mạng sống mình” (Xc Mc 89,35), hiến mạng sống của mình, để mọi người được cứu thoát và như thế chúng ta gặp lại nhau trong hạnh phúc vĩnh cửu. Con đường của Chúa Giêsu luôn mang lại cho chúng ta hạnh phúc. Trên con đường ấy có thánh giá, thử thách, nhưng luôn có hạnh phúc. Chúa Giêsu không đánh lừa chúng ta: Người hứa cho chúng ta được hạnh phúc và Người sẽ ban cho chúng ta hạnh phúc nếu chúng ta tiến bước trên con đường của Người”.

Và ĐTC kết luận rằng ”Cùng với thánh Phêrô, Giacôbê và Gioan, cả chúng ta cũng lên núi Hiển Dung và dừng lại chiêm ngắm tôn nhan Chúa Giêsu, để đón nhận từ đó sứ điệp và diễn tả sứ điệp đó trong cuộc sống của chúng ta; để cả chúng ta cũng có thể được Đấng Là Tình thương biến đổi. Trong thực tế, Tình Thương biến đổi mọi sự. Anh chị em có tin điều đó hay không?.. Xin Đức Trinh Nữ Maria nâng đỡ chúng ta trong hành trình này, và giờ đây chúng ta cầu khẩn Mẹ qua kinh Truyền tin”.

Lời kêu gọi

Sau khi ban phép lành, ĐTC đã nhắc đến tình hình thê thảm tại Siria và Irak, nơi vẫn chưa chấm dứt bạo lực. Ngài nói:

”Anh chị em thân mến, rất tiếc là từ Siria và Irak vẫn không ngừng có những tin tức bạo lực kinh khủng, những vụ bắt cóc người và đàn áp gây hại cho các tín hữu Kitô và những nhóm khác. Chúng tôi muốn đoan chắc với những người ở trong những tình trạng ấy rằng chúng tôi không quên họ, nhưng gần gũi họ và kiên trì cầu nguyện để sớm chấm dứt bạo lực không thể dung thứ mà họ đang phải chịu. Với các thành viên của Giáo triều Roma, tôi đã dâng thánh lễ cuối cùng trong cuộc tĩnh tâm sáng thứ sáu vừa qua (27-2-2015) để cầu nguyện cho ý chỉ đó. Đồng thời tôi xin tất cả mọi người, theo khả năng của mình, hãy hoạt động để thoa dịu đau khổ của những người đang ở trong thử thách thường vì đức tin mà họ tuyên xưng”.

Mọi người hiệp với ĐTC cầu nguyện trong thinh lặng một lát và ngài nói tiếp:

”Tôi cũng muốn nhắc đến nước Venezuela lại phải sống những căng thẳng cực độ. Tôi cầu nguyện cho các nạn nhân, và đặc biệt cho thiếu niên (14 tuổi) bị giết cách đây vài ngày tại thành phố San Cristobal. Tôi nhắn nhủ tất cả mọi người hãy từ bỏ bạo lực và tôn trọng phẩm giá của mỗi người, tôn trọng tính chất thánh thiêng của sự sống con người và tôi khuyến khích mở lại hành trình chung để mưu ích cho đất nước, mở lại cuộc gặp gỡ và đối thoại chân thành và xây dựng. Tôi phó thác đất nước Venezuela yêu quí cho sự chuyển cầu từ mẫu của Đức Mẹ Coromoto”.

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Đức Thánh Cha kêu gọi các Hợp tác xã ở Italia tìm phương thức mới

Đức Thánh Cha kêu gọi các Hợp tác xã ở Italia tìm phương thức mới

VATICAN. ĐTC Phanxicô kêu gọi các hợp tác xã tìm ra những hình thức và phương pháp mới để bài trừ thứ ”văn hóa gạt bỏ”, đồng thời hoàn vũ hóa tình liên đới.

Ngài đưa ra lời kêu gọi trên đây trong buổi tiếp kiến sáng hôm qua, 28-2, dành cho phái đoàn gồm 7 ngàn người thuộc Liên đoàn các hợp tác xã miền Emilia Romagna, bắc Italia. Họ đại diện cho 1,700 hợp tác xã với 385 ngàn xã viên, với khoảng 73 ngàn nhân viên, và doanh số của họ lên tới gần 27 tỷ Euro với các ngân hàng tín dụng hợp tác xã.

Lên tiếng tại buổi tiếp kiến, sau khi nhắc đến sự cổ võ của Giáo Hội trong quá khứ đối với các hợp tác xã, ĐTC mời gọi các vị hữu trách và các xã viên hãy hướng đến những viễn tượng, trách nhiệm, và những hình thức sáng kiến mới của các xí nghiệp hợp tác. Ngài nói: ”Đây là một sứ mạng đích thực đòi chúng ta phải có tinh thần sáng tạo để tìm ra những hình thức, phương pháp và thái độ để bài trừ ”thứ văn hóa gạt bỏ” do những quyền lực đang điều khiển các chính sách kinh tế tài chánh của thế giới hoàn cầu hóa cổ võ”.

ĐTC giải thích rằng: ”Ngày nay, hoàn cầu hóa tình liên đới có nghĩa là nghĩ đến sự tăng vọt con số những người thất nghiệp, đến những giọt lệ không ngừng của người nghèo, nghĩ đến sự phát triển đích thực và toàn diện cho con người, một sự phát triển chắc chắn là cần lợi nhuận, nhưng không phải chỉ có lợi nhuận mà thôi!”

Trong bài huấn dụ tại buổi tiếp kiến, ĐTC cũng nhắc đến những nhu cầu sức khỏe mà chế độ an sinh xã hội truyền thống không còn đáp ứng được, những đòi hỏi cấp thiết của tình liên đới đặt phẩm giá con người ở trung tâm nền kinh tế thế giới.

Ngài nhắn nhủ các thành viên hợp tác xã ở Italia rằng: ”Anh chị em hãy tiếp tục kiện toàn, củng cố và canh tân những thực tại tốt đẹp và vững chắc mà anh chị em đã kiến tạo. Nhưng anh chị em hãy có can đảm ra khỏi những thực tại ấy, với những kinh nghiệm và phương pháp mới, để mang sự hợp tác tới những biên cương mới của những thay đổi, cho đến tận những khu vực ngoại ô của đời sống, nơi mà chúng ta cần làm nổi bật niềm hy vọng, và tới những nơi mà chế độ chính trị xã hội hiện nay dường như bóp nghẹt hy vọng bằng cách gia tăng những rủi ro và đe dọa”. (SD 28-2-2015)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

BA NGỌN NÚI

BA NGỌN NÚI

Núi là biểu tượng cho sự uy nghi, hùng vĩ, cao cả. Trong Thánh Kinh, núi thường được xem là nơi gặp gỡ giữa trời và đất, giữa thần linh và con người. Những mạc khải quan trọng trong Thánh Kinh đều diễn ra trên núi.

Trong tác phẩm “Đức Giêsu thành Nadarét”, suy niệm về biến cố Hiển Dung, Đức giáo hoàng Bênêđictô XVI đã viết những lời thật ý nghĩa về các ngọn núi: “Chúa Giêsu đem theo các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan riêng với mình và dẫn họ lên một ngọn núi cao (x. Mc 9,2). Chúng ta lại gặp ba vị này trong vườn Cây Dầu (x. Mc 14,33), lúc đó cơn âu lo cuối cùng của Đức Giêsu như hình ảnh nghịch lại với Hiển Dung, dù vậy cả hai vẫn thuộc vào nhau. Ở đây không nên bỏ qua đoạn Xh 24, ông Môsê lên núi cùng với Aaron, Nadab và Abihu, có lẽ cùng với 70 vị trưởng lão của Israel.

Ở đây, như lời bài giảng trên núi và trong những đêm cầu nguyện của Đức Giêsu, chúng ta lại gặp núi như vị trí gần gũi cách đặc biệt với Thiên Chúa. Chúng ta nhìn tổng hợp một lần những ngọn núi khác nhau trong đời sống Đức Giêsu: núi cám dỗ; núi lúc Người ngồi rao giảng; núi cầu nguyện; núi Hiển Dung; núi âu lo; núi thập tự và cuối cùng là núi Thăng Thiên, trên đó – nghịch lại với lời mời đón nhận vương quyền thế giới do quyền lực của ma quĩ – Chúa tuyên bố: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất” (Mt 28,18). Nhưng trong hậu cảnh, người ta cũng thấy xuất hiện các ngọn núi Sinai; Horep; Morija- các ngọn núi mạc khải của Cựu Ước, kết hợp làm một với núi khổ nạn và núi mạc khải; tất cả chúng đều hướng đến núi Đền Thờ, nơi đó mạc khải trở thành phụng vụ.

Nếu chúng ta đi tìm một lời giải thích, sẽ gặp ở hậu cảnh biểu trưng chung về núi: núi là vị trí nâng cao, không những phải trèo lên bên ngoài, nhưng ngay cả bên trong; núi như giải thoát gánh nặng thường nhật, như hít thở không khí trong lành của sáng tạo; núi cho chúng ta một cái nhìn thật xa và vẻ đẹp của vũ trụ; núi cho tôi một cảm giác nâng cao trong tâm hồn và cho tôi cảm nghiệm về Đấng Sáng Tạo. Ngoài lịch sử, còn có cảm nghiệm về một Thiên Chúa, Đấng đang nói và kinh nghiệm về cuộc khổ nạn mà đỉnh cao đạt được trong cuộc hy tế Isaac, trong hy tế Con chiên, tiền ảnh của Con Chiên cuối cùng bị sát tế trên núi Golgotha. Trên núi, ông Môisen và ông Êlia được đón nhận mạc khải của Thiên Chúa; các ngài đàm đạo với Đấng là mạc khải của Thiên Chúa nơi bản thân Người” (x. Đức Giêsu thành Nadarét, Lm Aug. Nguyễn Văn Trinh biên dịch, trang 266-267).

Các bài đọc Thánh Kinh của Chúa nhật hôm nay nói đến ba ngọn núi. Núi Moria đức tin, Tabor vinh quang và Golgotha tình yêu.

1/ Núi Moria, núi niềm tin
 
Bài đọc 1 kể về ngọn núi Moria. Trên núi cao, Tổ phụ Ápraham sẵn sàng hiến tế con trai duy nhất cho Thiên Chúa.

Tổ phụ Ápraham có quê hương miền Lưỡng Hà. Chúa gọi ông tại Haran, lúc ông 75 tuổi. Chúa hứa cho ông có một dòng dõi đông đúc như sao trên trời, như cát bãi biển (x. St 12,1-5). Chờ đợi mãi, dài đến 25 năm sau, bà Sara mới sinh cho ông được một người con duy nhất. Ápraham bước vào tuổi 100, lời hứa của Thiên Chúa được thực hiện. Niềm vui quá lớn trong ngày con trẻ chào đời (x. St 21,1-7). Bồng ẵm con trẻ, ông thấy tương lai của cả một dân tộc hùng mạnh. Vợ chồng già hạnh phúc ngập tràn trong tiếng khóc tiếng cười trẻ thơ. Isaác là đứa con của lời hứa, là cây gậy nương tựa tuổi già.

Thế rồi vào một ngày kia, Chúa phán với ông: “ Ápraham, Ápraham! Ngươi hãy đem Isaac, đứa con một yêu dấu của ngươi, và đi đến đất Moria, ở đó, ngươi sẽ dâng nó làm của lễ toàn thiêu trên núi Ta sẽ chỉ cho ngươi “. Tiếng sét ngang tai làm ông chết lặng. Lệnh truyền sát tế Isaac, vượt quá tầm nghĩ của con người. Lời chúc phúc của Thiên Chúa cho ông làm tổ phụ các dân tộc, sẽ thành mây khói. Lệnh truyền làm ông đau nhói ruột gan.

Nhưng với niềm tin mãnh liệt, Ápraham thi hành lập tức lệnh truyền ấy. Ngay khi ông đang giơ cao con dao để hạ sát con trai, Thiên Chúa đã ngăn cản bàn tay ông. Chúa phán: “Đừng giết con trẻ và đừng động đến nó, vì giờ đây Ta biết ngươi kính sợ Chúa, đến nỗi không từ chối dâng đứa con duy nhất cho Ta".

Đức tin và lòng vâng phục của tổ phụ Abraham trở nên gương mẫu cho muôn thế hệ.

Tác giả thư Do Thái viết: “Bởi tin, Ápraham được kêu gọi vâng lời ra đi đến xứ ông sẽ lấy làm cơ nghiệp, ông ra đi mà chẳng biết mình đi đâu” (Dt 11,8). Tin là sẵn sàng làm theo lời Chúa dạy, hy vọng Chúa sẽ thực hiện điều Người hứa, dù trước mắt chưa thấy chút gì là hiện thực cả. Vâng lời Chúa, ông đã bỏ quê cha đất tổ lên đường và đặc biệt ông đã dám dâng Isaac làm lễ tế Thiên Chúa. Đức tin thật vững chắc, không do dự, không mặc cả. Vì một dạ tín trung với Chúa, Ápraham đã nên “bạn thân của Thiên Chúa” (Gc 2,23). Chúa gọi ông là “Tôi Tớ của Ta” và nói “Ta ở với ngươi” (St 26,24). Vì Chúa “Chúc lành cho các dân tộc trong dòng giống ông và dòng giống ông sẽ nên đông như cát biển” (Hc 44,21), nên ông là cha chúng ta trong đức tin.

2/ Núi Tabor, núi vinh quang
 
Chuẩn bị bước vào cuộc khổ nạn, Chúa Giêsu loan báo cho các môn đệ biết : Người sẽ lên Giêrusalem để chịu khổ nạn và chịu chết. Các môn đệ chao đảo niềm tin. Phêrô đại diện cho các anh em phản đối kiệt liệt. Phêrô không chấp nhận thập giá khổ nhục. Để cũng cố niềm tin cho các môn đệ, Chúa Giêsu đưa họ lên núi cao. Chúa biến hình, cho họ thấy một thoáng Phục sinh trước Phục sinh, cho hưởng nếm một chút Thiên đàng trước Thiên đàng. Nhờ đó các môn đệ thêm niềm tin tưởng, thêm mạnh mẽ can đảm.

Chúa đưa ba môn đệ lên núi cao. Các ông được đi vào một thế giới vừa kỳ diệu vừa lạ lùng, làm biến đổi ý nghĩa cuộc đời.

Các ông thấy: “Dung mạo Người bỗng đổi khác, y phục Người trở nên rực rỡ, trắng tinh, không có thợ nào ở trần gian giặt trắng được như vậy” (Mc 9,3); “Dung nhan Người chói lọi như mặt trời, và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng” (Mt 17,2); “Đang lúc Người cầu nguyện, dung mạo Người đổi khác, y phục Người trở nên trắng tinh chói lòa” (Lc 9,29).

Chính nơi đây nổi bật sự liên hệ và sự khác biệt với gương mặt ông Môisen: “Khi ông Môisen từ trên núi Sinai xuống, tay cầm hai tấm bia Chứng Ước, khi xuống núi, ông Môisen không biết rằng da mặt ông sáng chói bởi đã đàm đạo với Thiên Chúa” (Xh 34,29-35). Qua việc đàm đạo với Thiên Chúa, ánh sáng của Thiên Chúa chiếu sáng trên ông và làm cho ông sáng chói. Như thế, ánh sáng từ bên ngoài chiếu vào ông làm cho ông sáng chói. Đức Giêsu chói sáng tự bên trong, không những Người đón nhận ánh sáng mà chính Người là ánh sáng bởi ánh sáng” (sđd trang 268).

Và có một đám mây bao phủ các ông. Và từ đám mây, có tiếng phán rằng:Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người!” (Mc 9,7). Đám mây thiên linh, là dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa. Đám mây ngự trên Lều Hội Ngộ cho thấy sự hiện diện của Đức Chúa. Đức Giêsu là Lều Thánh, đám mây của sự hiện diện Thiên Chúa đậu trên Người và từ đó cũng sẽ “bao phủ” mọi người. Sự kiện thánh tẩy Đức Giêsu được tái hiện, nơi đó Chúa Cha từ đám mây công bố Đức Giêsu là Con: “Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con” (Mc 1,11). (sđd trang 172).

Các môn đệ còn thấy: “Có hai nhân vật đàm đạo với Người, đó là ông Môsê và ông Êlia”. Đây là hai nhân vật quan trọng nhất trong Cựu ước, đại diện cho hai thực tại quan trọng nhất của Do Thái giáo. Môisen đại diện cho luật pháp. Êlia đại diện cho các ngôn sứ. Hai ông là biểu tượng tiên báo sự ra đời của Đức Giêsu. “Lề luật và ngôn sứ đàm đạo với Đức Giêsu và nói về Người. Trong một chú thích ngắn ngũi, thánh Luca trình thuật cho chúng ta về điều hai chứng nhân của Thiên Chúa nói với Đức Giêsu: “Hai vị hiện ra, rạng ngời vinh hiển, và nói về cuộc xuất hành Người sắp hoàn thành tại Giêrusalem” (Lc 9,31). Đề tài đàm đạo của các ngài là thập giá, nhưng hiều ngầm là cả cuộc “Xuất hành của Đức Giêsu” phải diễn ra tại Giêrusalem. Thập giá Đức Giêsu là cuộc xuất hành, một việc bước ra khỏi cuộc sống này, vượt qua Biển Đỏ của cuộc khổ nạn và tiến đến vinh quang, dù vẫn còn mang thương tích của cuộc khổ nạn”. (sđd trang 268).

Ba môn đệ Phêrô, Gioan và Giacôbê có những trải nghiệm tuyệt vời về Thầy của mình. Cũng vẫn là Đức Giêsu bằng xương bằng thịt mà các ông vẫn thường gặp gỡ tiếp xúc hằng ngày, nhưng lần này, các ông được nhìn thấy Người dưới một dung mạo mới: thật sáng ngời, thật hấp dẫn và đầy uy nghi. Các ông vững lòng tin tưởng.

3/ Núi Golgotha, núi tình yêu
 
Trên núi cao, Đức Giêsu gặp gỡ thân mật với Chúa Cha. Bỗng chốc Người biến hình. Các môn đệ ngất ngây trong niềm hạnh phúc tuyệt vời. Các ông muốn ở lại trên núi để sống niềm hạnh phúc ngập tràn ấy. Các ông muốn níu kéo khoảnh khắc thần tiên ấy lại nên Phêrô thay mặt anh em thưa với Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, chúng con ở đây, thật là hay! Chúng con xin dựng tại đây ba cái lều, một cho Thầy, một cho ông Môisen, và một cho ông Êlia”.

Các môn đệ muốn đăng ký thường trú trên núi Tabor, muốn đắm mình trong hào quang rực rỡ. Họ bỏ lại dưới chân núi các bạn đồng môn, các cuộc truyền giáo của Thầy. Họ muốn xa rời dân chúng đang khao khát Lời Chúa. Nhưng Đức Giêsu đưa các môn đệ trở xuống. Người chỉ lên đỉnh Tabor trong chốc lát rồi xuống núi chuẩn bị vác thập giá lên núi Golgotha. Xuống núi để chu toàn nhiệm vụ trần gian. Đức Giêsu phải chịu khổ nạn, chịu chết rồi mới Phục Sinh mở lối vào thiên đàng. “Cảm nghiệm sự kiện Hiển Dung đã giúp cho thánh Phêrô nhận thức trong lúc ngất trí, những thực tại được biểu trưng trong các nghi thức của ngày lễ đã được hoàn tất, biến cố Hiển Dung loan báo thời đại Mêsia đã bắt đầu. Mãi khi xuống núi, thánh Phêrô lại phải học hỏi một lần nữa, thời đại Mêsia trước tiên là thời đại của thập giá và việc Hiển Dung, Chúa biến dạng thành ánh sáng, sẽ bao trùm chúng ta trong ánh sáng của cuộc khổ nạn” (sđd trang 269).

Hai đỉnh núi: núi Tabor và núi Golgotha cách nhau không xa về địa lý nhưng lại là con đường vạn lý. Chỉ có con đường thập giá tình yêu mới nối liền hai núi mà thôi.

Thánh Phêrô cùng các Tông đồ còn phải vượt qua những yếu đuối, sa ngã, còn phải nỗ lực vượt qua mọi khó khăn thử thách, còn phải chịu đau khổ vì Thầy chí thánh, còn phải trải qua cái chết đớn đau rồi mới tới được Núi Thánh thiên quốc như lòng mong ước. Các ngài chỉ đi một con đường Thầy mình đã đi qua. Đó là con đường thánh giá tình yêu.

4/ Muốn tới vinh quang phải đi qua thập giá tình yêu và niềm tin
 
Ba môn đệ thân tín được Đức Giêsu dẫn lên núi Tabor. Ở đó cả ba nhìn thấy vinh quang của vương quốc Thiên Chúa chói sáng nơi Đức Giêsu. Trên núi, đám mây thánh thiện của Thiên Chúa bao phủ họ. Trên núi, trong cuộc đàm đạo của Đức Giêsu Hiển Dung với Lề luật và Tiên tri, họ hiểu rằng, giờ của ngày Lễ Lều đích thực đã đến. Trên núi, họ cảm nghiệm, Đức Giêsu chính là Tora sống động, là lời trọn vẹn của Thiên Chúa. Trên núi, họ thấy “quyền lực” của vương quốc đang đến trong Đức Kitô. Nhưng chính trong sự gặp gỡ đáng sợ với vinh quang của Thiên Chúa nơi Đức Giêsu, họ phải học biết điều thánh Phaolô nói trong lá thư thứ nhất gởi giáo đoàn Côrintô với các môn đệ thuộc mọi thời đại: “Chúng tôi rao giảng một Đức Kitô bị đóng đinh, điều mà người Do thái coi là ô nhục không thể chấp nhận, và dân ngoại cho là điên rồ. Nhưng đối với những ai được Thiên Chúa kêu gọi, dù là Do thái hay Hy lạp, Đấng ấy chính là Đức Kitô, Người là sức mạnh và là sự khôn ngoan của Thiên Chúa” (1,23-24). Sức mạnh của vương quốc tương lai xuất hiện nơi Đức Giêsu Hiển Dung, Đấng nói với các chứng nhân Cựu ước về sự cần thiết của cuộc khổ nạn như con đường tiến đến vinh quang (x. Lc 24,26-27). Như thế, họ được tiền dự vào ngày quang lâm; nhờ đó dần dần họ được dẫn vào mầu nhiệm sâu thẳm của Đức Giêsu.(sđd trang 273).

Muốn đạt tới vinh quang núi Tabor, cần phải vượt qua được hai ngọn núi Moria đức tin và Golgotha tình yêu một cách trọn vẹn. Lúc ấy, thật là hạnh phúc được chiêm ngưỡng vinh quang Thiên Chúa.

Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

 

Biến hình

Biến hình

Trong đời, có những giây phút mà ta mong muốn kéo dài mãi, nhưng nó lại trôi qua nhanh như làn gió thoảng. Đó là những giây phút hạnh phúc. Giây phút ấy thánh Phêrô hôm nay đã được hưởng khi nhìn ngắm dung nhan Đức Giêsu biến hình. Đức Giêsu đưa ba môn đệ thân tín theo trong cuộc biến hình để huấn luyện họ. Cuộc biến hình của Người diễn tiến qua ba giai đoạn.

Giai đoạn thứ nhất: lên núi.

Theo quan niệm của người Do thái núi cao là nơi Chúa ngự. Vì thế lên núi là đi gặp gỡ Chúa. Lên núi là một việc làm đòi nhiều cố gắng. Phải dứt bỏ khỏi những ràng buộc của cuộc sống thường ngày với những lo toan bận bịu cho bản thân, cho gia đình. Phải dành thời giờ rộng rãi cho việc leo núi. Phải phấn đấu với bản thân khi leo lên độ cao dốc dác khó đi. Nhưng lên đỉnh rồi ta sẽ thấy tâm hồn nhẹ nhàng thư thái. Đức Giêsu chỉ đưa theo ba môn đệ thân tín vì gặp gỡ với Chúa là một gặp gỡ thân tình. Chúa muốn ta đến với Chúa trong tình thân mật. Chúa muốn cùng ta thực hiện một tương giao giữa tâm hồn với tâm hồn. Chúa muốn cùng ta đối thoại riêng tư diện đối diện. Tình yêu triển nở trong thiên nhiên và trong thanh vắng. Núi cao thanh vắng là nơi chốn thuận tiện cho ta đón nhận tình yêu của Chúa và bày tỏ với Người tình yêu của ta.

Giai đoạn thứ hai: biến hình.

Trên núi cao, Đức Giêsu gặp gỡ thân mật với Chúa Cha. Bỗng chốc Người biến hình. Y phục trở nên trắng như tuyết. Khuôn mặt Người sáng láng. Thực ra, ai gặp được Chúa cũng đều biến hình. Ta hãy nhớ lại ông Môsê. Sau khi ở trên núi Sinai 40 đêm ngày tiếp xúc thân mật với Chúa, mặt ông trở nên sáng láng đến độ, khi ông xuống núi, dân chúng không dám nhìn vào. Ông phải lấy khăn che mặt, dân chúng mới dám đến gần ông. Gần đèn thì sáng. Tiếp xúc thân mật với Chúa sẽ làm thay đổi tâm hồn ta. Tình yêu của Chúa sẽ đốt nóng tâm hồn ta, xua đi sự thờ ơ nguội lạnh. Sự dịu dàng của Chúa sẽ làm cho ta bớt đi tính độc ác khắc nghiệt. Sự khiêm nhường của Chúa sẽ diệt trừ thói kiêu căng trong ta. Sự bao dung của Chúa sẽ mở rộng tâm hồn để ta biết đón nhận anh em. Sự tha thứ của Chúa đổi mới tâm hồn, rửa sạch mọi nhơ uế trong ta. Càng gần gũi Chúa, tâm hồn ta càng được thanh luyện khỏi mọi nhỏ nhen, ích kỷ. Càng yêu mến Chúa, ta càng thêm yêu mến anh em. Càng kết hiệp mật thiết với Chúa, tâm hồn ta càng nên giống Chúa hơn.

Giai đoạn ba: xuống núi.

Khi đã hưởng nếm hạnh phúc ngọt ngào ở bên Chúa rồi, ta chẳng muốn lìa xa Chúa nữa. Thánh Phêrô, trong giây phút hạnh phúc tuyệt vời, đã xin Chúa cho dựng ba lều để ở lại vĩnh viễn trên núi. Nhưng giây phút hạnh phúc thật ngắn ngủi. Đức Giêsu đưa các môn đệ trở xuống. Xuống núi để chu toàn nhiệm vụ trần gian. Nhiệm vụ ấy rất nặng nề. Đức Giêsu phải chịu đau khổ, chịu vác thánh giá, chịu đóng đinh, chịu chết rồi mới phục sinh. Thánh Phêrô cùng các tông đồ còn phải phấn đấu với những yếu đuối, sa ngã, còn phải nỗ lực vượt qua mọi khó khăn thử thách trong việc rao giảng Tin Mừng, còn phải chịu đau khổ vì Thày chí thánh, còn phải trải qua cái chết đớn đau rồi mới tới được Núi Thánh thiên quốc như lòng mong ước.

Trong cuộc sống người tín hữu, lên núi chính là những giây phút dành cho việc cầu nguyện, tiếp xúc thân mật với Chúa. Đó là những buổi tham dự thánh lễ, đọc kinh và nhất là những giờ cầu nguyện riêng tư, những buổi tĩnh tâm lâu giờ trong thinh lặng. Để đến với Chúa và nhất là để kết hiệp với Chúa trong những giờ cầu nguyện, ta phải phấn đấu rất nhiều.

Trong thân mật, Chúa sẽ dạy bảo ta về đường lối của Chúa, sẽ uốn nắn ta theo chương trình của Người và sẽ biến đổi ta nên giống hình ảnh Người. Ta có thể cộng tác vào cuộc biến hình khi khao khát kết hiệp với Chúa, khi cố gắng thanh luyện bản thân, khi quên mình, ngoan ngoãn để mặc Chúa hướng dẫn bước đường.

Kỷ niệm ngọt ngào trong những giờ sống hạnh phúc bên Chúa sẽ là sức mạnh nâng đỡ ta trong những khó khăn gian khổ của đời sống. Núi thánh sẽ trở thành quê hương yêu dấu để tâm hồn ta luôn hướng về, dù còn phải vượt qua rất nhiều trở ngại cách ngăn. Thiên đàng thoáng thấy qua những giờ kết hiệp với Chúa sẽ là nguồn động viên giúp ta chu toàn mọi nghĩa vụ của con người. Như thế, khi đã xuống núi rồi, ta vẫn còn mong ước và sẽ trở lên núi mỗi khi có dịp.

Lạy Trái Tim Chúa Giêsu hiền lành và khiêm nhường trong lòng, xin uốn lòng con nên giống Trái Tim Chúa. Amen.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1- Một số bạn trẻ tiêu tốn nhiều thời giờ và tiền bạc cho sắc đẹp bên ngoài. bạn nghĩ gì về tương quan giữa vẻ đẹp bên ngoài và vẻ đẹp bên trong tâm hồn?

2- Cầu nguyện có thể làm con người 'biến hình'. Bạn có tin điều đó không? bạn có quen ai đã biến đổi sâu xa nhờ cầu nguyện không?

3- Bạn đã có kinh nghiệm về việc sống hạnh phúc với Chúa bao giờ chưa?

4- Mùa Chay này bạn có thực sự muốn 'biến hình' không? Bạn sẽ làm gì để thực hiện ước nguyện đó?

ĐTGM Ngô Quang Kiệt

 

CHÚA TỎ VINH QUANG NGÀI

CHÚA TỎ VINH QUANG NGÀI

Suy niện của Noel Quesson

“Đừng kể lại cho ai nghe… cho tới khi Con Người từ cõi chết sống lại”.

Đức giám mục Curtis một lần tới thăm Đức hồng y Newman. Hai người đàm đạo lâu giờ về đủ thứ chuyện. Đức hồng y Newman cho Đức giám mục Curtis biết: Tòa Thánh đã cho ngài đặc ân được đặt Mình Thánh trong phòng. Không ngờ tin này làm Đức giám mục Curtis xúc động mạnh, đến nỗi khi Đức hồng y mời Đức giám mục Curtis ở lại ban đêm, ông trả lời: “Tôi không thể nào ngủ được khi biết Chúa của tôi đang ở với tôi chung một mái nhà”.

Đã hẳn bao giờ Thiên Chúa cũng ở bên ta vì Người là Thiên Chúa toàn năng hiện diện khắp nơi, nhưng một khi chúng ta ý thức điều đó, một khi có bằng chứng nhắc nhớ tới sự kiện đó, thì thường làm ta xúc động mãnh liệt. Ta biết điều này khi đọc thấy thái độ của các Tông đồ được chứng kiến Chúa tỏ vinh quang. Chúa là niềm vui tột đỉnh, là an ủi tràn đầy cho các tâm hồn. Và có thể định nghĩa thiên đàng là sự ý thức rõ ràng mình được sống bên sự hiện diện của Thiên Chúa. Nhưng muốn thưởng thức niềm hân hoan đó, niềm hân hoan làm các Tông đồ hầu như ngất ngây đó, chúng ta phải có một số điều kiện.

Trước hết ta cần bắt chước các Tông đồ lên một đồi cao. Khi lên cao chúng ta dễ có ý thức siêu thoát hơn. Vì vậy hầu hết các cuộc xuất hiện quan trọng của Thiên Chúa trong Kinh Thánh đều xảy ra trên núi cao. Không nhất thiết phải là một đỉnh núi, nhưng chắc chắn phải là sự vươn lên của tâm hồn, tránh được sự ám ảnh, vương vấn của cuộc đời trần tục. Cần có một đỉnh cao nội tâm, gắng đạt tới những chân trời xa rộng. Muốn vậy phải rời bỏ thung lũng thấp, cố gắng đi xa, chịu đựng gian khổ, ngột ngạt của độ cao… và tránh đám đông ồn ào gây nhiễu.

Chúa cho ba Tông đồ chứng kiến Chúa biến hình: Phêrô, Giacôbê và Gioan. Đây không phải tình cờ. Khi làm phép lạ cho bé gái 12 tuổi đã chết được sống lại, Chúa cũng đưa ba Tông đồ này theo để các ông được chứng kiến (Mc 5,37). Cũng chính ba ông là những người gần gũi Chúa khi Chúa cầu nguyện và hấp hối trong vườn Cây Dầu (Mc 14,33). Chúa cho ba ông chứng kiến quyền uy Thiên Chúa của Người và cũng được thấy nỗi khổ đau của nhân tính Chúa, để các ông thành chứng nhân cho niềm tin của mình và của anh em.

Một điều kiện nữa để thành môn đệ gần gũi của Chúa đã được chính Thiên Chúa Ngôi Cha phán bảo: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy nghe lời Ngài”. Đây là lần thứ hai có tiếng từ trời phán xuống, nhưng lần này rõ ràng tiếng đó nói với chúng ta. Là môn đệ Chúa, thì phải nghe lời Chúa. Nghe lời Chúa trong Kinh Thánh, trong tìm tòi suy luận, nhưng nhất là trong Kinh Nguyện một mình riêng rẽ đối diện với Chúa nơi thanh vắng. Môn đệ của Chúa cần thiết phải được Chúa đích thân dạy dỗ, mặc khải cho.

Sự biến hình, bộc lộ đôi chút vinh quang Thiên Chúa, làm vui thỏa tâm hồn các môn đệ. Khi xuống núi, Chúa dặn các ông đừng kể lại với ai ‘cho tới khi Con Người từ cõi chết sống lại’. Vì Chúa biết rằng chỉ sau cái chết và Phục Sinh của Chúa, các ông mới hiểu rõ về Chúa. Khuôn mặt đích thực của Chúa Cứu Thế chỉ biểu lộ đầy đủ khi đã chết trên thập tự chứng tỏ tình yêu đối với nhân loại và sống lại khải hoàn do quyền lực Thiên Chúa.

Lạy Chúa, xin mở mắt lòng tin chúng con, cho chúng con được nhìn thấy Ngài luôn hiện diện trong cuộc sống chúng con.

Hai khuôn mặt một tình yêu

Hai khuôn mặt một tình yêu

(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)

Tại nước Mexico, người ta thường tổ chức những cuộc đấu võ rất ác liệt. Đó là một loại võ tự do, nên các võ sĩ có thể phục sức tuỳ sở thích và có thể mang cả mặt nạ trong khi đấu võ.

Một linh mục tên là Gaêtanô đang làm công tác xã hội để giúp nuôi các trẻ em nghèo và mồ côi. Để có thêm tiền cho mục đích này, cha Gaêtanô liền nghĩ đến chuyện ghi danh tham dự các trận đấu.

Với một thân bình to lớn, thông thạo võ thuật và đầy lòng dũng cảm, mỗi khi lên võ đài, cha Gaêtanô mang một chiếc mặt nạ màu vàng để che dấu tung tích của mình. Ngài thường đấu với những đối thủ hung hãn nhất. Tất cả tiền thưởng hoặc thù lao nhận được, cha đều dành cho quĩ cứu trợ các trẻ em nghèo và mồi côi. Từ đó, chiếc mặt nạ vàng trở thành biểu tượng cho tấm lòng vàng của cha Gaêtanô.

Thưa anh chị em,

Hai khuôn mặt, một tình yêu: Trên võ đài cha Gaêtanô là một võ sĩ mang mặt nạ vàng, ở giữa đàn con cô nhi của cha. Cha là một linh mục sống hoàn toàn cho người khác, phản ảnh tình yêu cuả Thiên Chúa, một tình yêu cho đi mà không tính toán, không so đo, không sợ thương tích.

Hai khuôn mặt, một tình yêu: Trên núi Tabo, khuôn mặt Chúa Giêsu bừng sáng ánh hào quang của một Thiên Chúa. Ơ giữa loài người, Con Thiên Chúa vẫn mang khuôn mặt bình thường như chúng ta. Ba môn đệ đã quá quen với khuôn mặt Thầy Giêsu, khuôn mặt dãi dầu mưa nắng vì sứ vụ, khuôn mặt chan chứa mọi thứ tình cảm con người. Rồi đây, ba môn đệ này còn phải làm quen với khuôn mặt khổ đau trong Vườn Cây Dầu và khuôn mặt đẫm máu trên Thập giá của Thầy Giêsu. Biến hình chỉ là một hào quang phục sinh sắp đến. Thân xác Chúa Giêsu sẽ được vào vinh quang viên mãn khi thân xác âý chịu lăng nhục vào đóng đinh vì yêu Cha và yêu con người đến tột cùng.

Ở bài đọc 1 hôm nay, sách Sáng thế đã cho ta thấy: Thiên Chúa đã dung tha cho Abraham khỏi sát tế Isaac, người con duy nhất của lời Hứa. Nhưng Thiên Chúa đã không dung tha chính Con Một yêu quí của Ngài. Như lời Thánh Phaolô: “Thiên Chúa đã không dung tha chính Con Một mình, nhưng lại phó nộp vì tất cả chúng ta, há Ngài lại chẳng ban cho chúng ta mọi sự cùng với Con của Ngài sao? (Rm 8,32). Nếu Thiên Chuá đã ban cho chúng ta Người Con duy nhất của Ngài thì Ngài còn tiếc gì với chúng ta nữa? Abraham là hình ảnh của Cha trên trời, không ngại dẫn con mình đến thật giá trên núi Sọ. Hơn nữa, hình ảnh của Isaac vác củi đi theo cha và bằng lòng để cho sát tế, cũng hướng chúng ta về cuộc Thương Khó: Chúa Giêsu vác lấy Thập giá rồi tự biến mình trên Thập giá theo ý Chúa Cha.

Trong cuộc biến hình huy hoàng rực rỡ của Chúa Giêsu trên núi Tabo, chính Chúa Cha đã xác quyết một lần nữa: “Chúa Giêsu chính là Người Con yêu quý của Thiên Chúa”. Người con trong thực tế rực rỡ vinh quang của Thiên Chúa, nhưng đã ẩn che vinh quang đó để đi vào con đường vâng phục cho đến chết và chết trên Thập giá, để dẫn đưa nhân loại đi qua cùng một con đường Thập giá đến vinh quang phục sinh. Cảnh tượng huy hoàng của núi Tabo hôm nay sẽ củng cố lòng tin của chúng ta khi đứng trước cảnh tượng tang thương trên Núi Golgôtha, đồng thời nhắn nhủ chúng ta phải biết tìm ra sức sống phong phú bên kia cái chết với Chúa để sống lại vinh quang với Ngài, đó là định luật căn bản của Kitô giáo. Abraham, “người Cha của mọi kẻ có lòng tin” đã lấy chính cuộc đời mình làm sáng tỏ định luật căn bản đó. Và cuộc biến hình trên núi Tabo cũng nhằm chứng minh định luật tất yếu chết để sống cuộc đời Chúa Kitô cũng như của chúng ta trên đường về cõi sống.

Chúng ta cũng được biến hình, được bừng sáng, nếu chúng ta dám yêu thương, dám từ bỏ cái tôi ích kỷ, để cái tôi đích thực được lộ ra, trong sáng. Thế giới hôm nay không thấy Chúa biến hình sáng láng, nhưng họ ó thể cảm nghiệm được phần nào, khi thấy các Kitô hữu có khuôn mặt vui tươi, chan chứa niềm tin, tình thương và hy vọng, như khuôn mặt mang mặt nạ vàng của Cha Gaêtanô trên võ đài, tượng trưng tấm lòng vàng của Cha đối với các em nghèo và mồ côi.

Thưa anh chị em,

Chúa Giêsu, “Người Con Một yêu quý của Cha, người đẹp lòng Cha”, đã chấp nhận tạm gác bỏ, dấu kín vinh quang Ngài vốn có từ thuở nơi Chúa Cha, để hoá thân làm người hầu cứu rỗi chúng ta, Ngài còn hy sinh đến cùng độ, hy sinh chính mạng sống mình theo ý Chúa Cha nữa. Vì thế, Ngài đã được Chúa Cha tôn vinh trên hết mọi loài, sau khi cho Ngài được Phục Sinh từ cõi chết.

Mầu nhiệm này đã được thực hiện trọn vẹn một lần trong lịch sử, nhưng hằng ngày, đặc biệt trong thánh lễ, mầu nhiệm ấy còn được tưởng niệm, tái hiện trên bàn thờ. Tham dự Thánh Thể, dấu hiệu và bằng chứng tình yêu của Chúa Kitô, chúng ta bày tỏ lòng yêu mến Chúa, biết ơn Chúa và cố gằng đổi mới đời sống hằng ngày của chúng ta,góp phần làm cho thế giới này biến hình đổi dạng trở nên Trời Mới Đất Mới trong ngày Chúa Giêsu Kitô trở lại trong vinh quang.

Cha Lombardi lên án các bài của tuần báo Espresso

Cha Lombardi lên án các bài của tuần báo Espresso

VATICAN. Hôm 27-2-2015, Cha Lombardi, Giám đốc Phòng báo chí Tòa Thánh, mạnh mẽ lên án các bài trong tuần báo Espresso đăng các tài liệu mật nhắm chống ĐHY George Pell, Chủ tịch Văn phòng kinh tế của Tòa Thánh.

Tuần báo Espresso ở Italia, theo xu hướng tả phái, số ra ngày 27-2-2015 đã đăng tải một cuộc điều tra với mục đích chứng tỏ đang có ”cuộc chiến nội bộ” ở Vatican về vấn đề kinh tế. Báo này đăng biên bản cuộc họp ngày 12-9-2014 giữa các Hồng y với những ý kiến khác nhau về các vấn đề kinh tế, trong đó nhiều Hồng y có những ý kiến trái ngược với ĐHY Pell, người Úc. Các bài này cũng cho rằng ĐHY Pell đang tìm cách nắm trọn quyền bính về kinh tế tài chánh trong Vatican, gán cho ngài những danh hiệu như ”Nga hoàng (Za) về kinh tế”, hoặc tệ hơn nữa gọi ĐHY là ”căng-gu-ru”. Trả lời câu hỏi của giới báo chí về vấn đề này, Cha Lombardi ra thông cáo nói:

”Về vấn đề đăng tải những bài báo sáng nay, tôi chỉ muốn nêu lên 3 nhận xét rất đơn sơ:

– Việc chuyển các tài liệu mật cho báo chí với mục đích tranh biện hoặc để nuôi dưỡng sự đối nghịch không phải là điều mới mẻ, nhưng luôn luôn cần phải quyết liệt lên án, và đó là điều bất hợp pháp.

– Sự kiện những vấn đề phức tạp về phương diện kinh tế hoặc pháp lý đã hoặc đang trở thành đối tượng thảo luận và có những quan điểm khác nhau, đó là điều bình thường. Dưới ánh sáng những ý kiến được nêu lên, ĐGH đề ra những hướng đi của ngài và tất cả các vị hữu trách tuân theo hướng đi đó.

– Bài báo nhắm trực tiếp tấn công cá nhân phải bị coi là không xứng đáng và hẹp hòi. Nói rằng Văn phòng kinh tế không thi hành công việc của mình một cách liên tục và hiệu năng, đó là điều không đúng. Để khẳng định điều này, trong những tháng tới đây, Văn phòng Kinh tế của Tòa Thánh dự kiến sẽ công bố kết toán chi thu năm 2014 và ngân sách dự chi năm 2015 cho tất cả các cơ quan Tòa Thánh, kể cả chính Văn phòng kinh tế.

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Hơn 300,000 người nước ngoài đăng ký dự Ngày Quốc Tế giới trẻ tại Ba Lan

Hơn 300,000 người nước ngoài đăng ký dự Ngày Quốc Tế giới trẻ tại Ba Lan

CRACOVIA. Cho đến nay đã có hơn 300 ngàn người từ nước ngoài đăng ký tham dự Ngày Quốc Tế giới trẻ sẽ tiến hành tại Cracovia, ở miền nam Ba Lan, vào tháng 7 năm 2016.

Tuyên bố hôm 25-2-2015 với giới báo chí, ĐHY Stanislaw Dziwisz, TGM Cracovia, cho biết trong con số vừa nói có 200 ngàn người từ Italia và 80 ngàn từ Pháp, 16 ngàn từ Đức. Thêm vào đó có hơn 10 ngàn người từ Ucraina, Slovak và Hoa Kỳ.

ĐHY Dziwisz cũng nói rằng ngoại trưởng Ba Lan, Ông Grzegorz Schetyna, cho biết sẽ đơn giản hóa thủ tục cấp thị thực nhập cảnh (visa) cho các bạn trẻ đến tham dự Ngày Quốc Tế giới trẻ lần thứ 23 tại Cracovia từ 25 đến 31-7-2016.

ĐHY cũng xác nhận lễ khai mạc và cuộc gặp gỡ đầu tiên của ĐTC Phanxicô với các bạn trẻ sẽ diễn ra tại công viên Blonia, rộng 48 hécta, trong khi buổi canh thức và thánh lễ bế mạc sẽ diễn ra tại khu vực Brzegi cácH trung tâm thành phố Cracovia 15 cây số. Khu này rộng 200 hécta, đủ để đón tiếp hơn 1 triệu người tham dự thánh lễ. Tuy nhiên chưa có quyết định chung kết về vấn đề này.

Đây là lần thứ hai Ba Lan đón tiếp Ngày Quốc Tế giới trẻ. Lần đầu vào năm 1991 tại Tổng giáo phận Czestochowa, nơi có Đền thánh Đức Mẹ Đen, Nữ Vương Ba Lan.

Ngày Quốc Tế giới trẻ, cấp hoàn vũ, liền trước đây, được cử hành tại thành phố Rio de Janeiro hồi tháng 7-2014 với sự tham dự của 3 triệu 700 ngàn bạn trẻ cùng với ĐTC Phanxicô (KNA 26-2-2015)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Phủ Quốc vụ khanh minh xác lời Đức Thánh Cha

Phủ Quốc vụ khanh minh xác lời Đức Thánh Cha

VATICAN. Qua việc dùng thành ngữ ”tránh Mexico hóa” (evitar la mexicanización) trong một điện thư (email) riêng tư, ĐTC tuyệt đối không hề muốn làm thương tổn tình cảm của nhân dân Mexico mà ngài rất yêu quí, và cũng không hề không muốn biết tới sự dấn thân của chính phủ Mexico trong việc bài trừ nạn buôn bán ma túy.

Trên đây là nội trung công hàm ngoại giao Phủ Quốc vụ khanh Tòa Thánh trao cho Đại sứ nước Mexico cạnh Tòa Thánh để làm sáng tỏ thành ngữ ”tránh Mexico hóa”.

Quả thực ĐTC đã gửi email riêng cho người bạn của ngài là Ông Gustavo Vera, Đại biểu nghị viện tỉnh Buenos Aires, kiêm chủ tịch Tổ chức La Alameda, trong đó ngài viết: ”Tôi hy vọng chúng ta vẫn còn thời gian để tránh tình trạng Mexico hóa nước Argentina”. Điện thư này đã được đăng trên mạng của tổ chức La Alameda.

Phản ứng về sự kiện này, trong những ngày qua chính phủ Mexico đã gửi công hàm tới Vatican để phản đối nhận định của ĐTC Phanxicô về viễn tượng nước Argentina có thể trở nên giống Mexico (Mexico hóa) vì nạn buôn bán ma túy ngày càng gia tăng tại nước nước này. Ngoại trưởng José Antonio Meade của Mêhicô cho biết đã gặp Đức TGM Christophe Pierre, Sứ Thần Tòa Thánh, tại Mexico để thông báo về công hàm phản đối. Ông nói: ”Chúng tôi bày tỏ đau buồn và lo âu vì những thông tin đã được phổ biến liên quan đến một thư riêng của ĐGH Phanxicô”.

Công hàm của Phủ Quốc vụ khanh Tòa Thánh viết:

”Như đã biết, thành ngữ ”evitar la mexicanización” đã được ĐTC sử dụng trong một email hoàn toàn có tính chất riêng tư và không chính thức, để trả lời một người bạn Argentina của ngài rất dấn thân trong cuộc chiến chống ma túy, và ông đã dùng câu nói đó”.

Công hàm cũng làm nổi bật sự kiện hiển nhiên là ĐGH không có ý gì khác ngoài việc nêu rõ tính chất trầm trọng của hiện tượng buôn bán ma túy, đang đè nặng trên Mêhicô và các nước Mỹ châu la tinh khác. Chính vì sự trầm trọng ấy cuộc chiến trống nạn buôn bán ma túy là một ưu tiên của Chính phủ; để chống lại bạo lực và mang lại hòa bình và sự thanh thản cho các gia đình Mexico, đánh vào những nguyên nhân gây ra tai ương này.

Đây là một hiện tượng, những như những hiện tượng khác ở Mỹ châu la tinh, trong nhiều dịp và cả trong các cuộc gặp gỡ với các ĐTC đã Giám Mục, ĐTC vẫn lưu ý về sự cần thiết phải đưa ra những chính sách cộng tác và phối hợp trên mọi bình diện.

G. Trần Đức Anh O.P – Vatican Radio

30 triệu Mỹ Kim cho Đại Hội gia đình Công Giáo thế giới

30 triệu Mỹ Kim cho Đại Hội gia đình Công Giáo thế giới

PHILADELPHIA. Ban tổ chức Đại hội các gia đình Công Giáo thế giới tại Philadelphia Hoa Kỳ cho biết đã quyên góp được 30 triệu mỹ kim tiền mặt và hiện vật để hỗ trợ biến cố này.

Đại hội kỳ 8 các gia đình Công Giáo thế giới sẽ tiến hành từ ngày 22 đến 25-9 năm nay với sự hiện diện của ĐTC Phanxicô vào những ngày kết thúc.

Đại hội sẽ đón tiếp các diễn giả và tham dự viên, Công Giáo cũng như không Công Giáo, đến từ Hoa kỳ và các nước trên thế giới, để thảo luận về những phương thức củng cố và nâng đỡ các gia đình, giúp họ đương đầu với những thách đố ngày nay.

Số tiền 30 triệu mỹ kim quyên góp được tương ứng với 67% trong tổng số ngân sách dự chi cho Đại Hội là 45 triệu mỹ kim. Chi phí cho Đại hội bao gồm cả các biện pháp an ninh, kỹ thuật, chuyên chở, lao động và tăng cường các cơ cấu hạ tầng, hệ thống viễn thông, và những hàng rào kiểm soát người đi bộ.

Ban tổ chức Đại Hội sẽ xác định rõ hơn con số dự chi, có lẽ vào mùa hè tới đây, sau khi được thông báo lộ trình chính thức cuộc viếng thăm của ĐTC.

Đức Cha Charles Chaput, TGM giáo phận Philadelphia sở tại, chào mừng tin về cuộc lạc quyên và nói rằng: ”Lòng quảng đại tuyệt vời và lòng hăng say đối với Đại hội các gia đình Công Giáo thế giới cũng như đối với ĐGH Phanxicô là những đặc tính nỗ lực quyên góp khởi đầu của chúng ta.. Chúng tôi thường nghe những người ủng hộ biến cố này nói về tầm quan trọng cơ bản của gia đình trong việc củng cố các cộng đoàn của chúng ta nói chung, và – bất phân biệt tín ngưỡng – tất cả đều bày tỏ ước muốn nâng đỡ định chế gia đình, vốn là nền tảng xã hội chúng ta”.

Đức TGM cũng cho biết dân chúng rất phấn khởi vì cuộc viếng thăm của ĐGH Phanxicô và sự hiện diện của Người tại Philadelphia vào tháng 9 tới đây thu hút dân chúng thuộc mọi tín ngưỡng cùng nhau nói chuyện, phục vụ, và xét cho cùng, là cùng nhau yêu thương”.

Văn phòng về hội nghị và du khách ở Philadelphia ước lượng ảnh hưởng kinh tế trong miền của Đại hội này và cuộc viếng thăm của ĐGH sẽ ở mức độ hơn 418 triệu mỹ kim (CNS 23-2-2015)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio
 

Đức Thánh Cha tĩnh tâm mùa chay

Đức Thánh Cha tĩnh tâm mùa chay

VATICAN. Lúc 4 quá giờ chiều chúa nhật 22-2-2015, ĐTC và các vị lãnh đạo tại Tòa Thánh, đã rời Vatican đi tĩnh tâm mùa chay cho đến sáng thứ sáu, 27-2 tới đây.

Giống như năm ngoái, các vị dùng xe bus để tới trung tâm ”Nhà Thầy Chí Thánh” (Casa Divin Maestro) của tu đoàn thánh Phaolo ở Ariccia, cách Roma khoảng 30 cây số về hướng nam.

Tuần tĩnh tâm năm nay có chủ đề là ”Tôi Tớ và các Ngôn Sứ của Thiên Chúa hằng sống”. Vị giảng tĩnh tâm là cha Bruno Secondin, 75 tuổi, dòng Cát Minh, nguyên là giáo sư tu đức thuộc Đại học Giáo Hoàng Gregoriana ở Roma và hiện là cố vấn tại Bộ các dòng tu. Các bài suy niệm của cha trình bày về Ngôn Sứ Elia dưới khía cạnh mục vụ.

Tuần tĩnh tâm bắt đầu lúc 6 giờ chiều với buổi Chầu Mình Thánh Chúa và kinh chiều. Những ngày sau đó có kinh sáng lúc 7 giờ rưỡi, tiếp đến là bài suy niệm thứ I lúc 9 giờ rưỡi, rồi thánh lễ đồng tế.

Ban chiều lúc 6 giờ có bài suy niệm thứ II, tiếp đến là Chầu Thánh Thể và kinh chiều.

Sáng thứ sáu 27-2, sẽ có thánh lễ lúc 7 giờ rưỡi và một bài kết thúc lúc 9 giờ rưỡi.

Trong cuộc phỏng vấn dành cho đài Vatican, Cha Bruno Secondin cho biết trong các bài suy niệm cha trình bày về phương diện mục vụ ngôn sứ Elia, một trong những ngôn sứ lớn nhất trong Cựu Ước, và là vị nhiệt thành bảo vệ lòng trung thành với Thiên Chúa chống lại các thần tượng.

Ngôn sứ Elia sống vào thế kỷ thứ 9 trước Chúa Kitô, bị nhà cầm quyền thời ấy bách hại, nên phải chạy trốn vào hoang địa. Trong hành trình này, có lúc nản chí quá, ngôn sứ ao ước được chết. Nhưng Elia được nuôi sống bằng bánh và nước một cách huyền nhiệm và tìm lại sinh lực để tiếp tục bước đi trong 40 đêm, ngày, để tới núi Hobeb, Núi của Chúa, trên đó Ngài tỏ mình cho ngôn sứ không phải như cuồng phong, nhưng như một làn giá nhẹ. Thế là trong sự yếu nhược của mình, ngôn sứ đạt được một cảm nghiệm thực sự về Thiên Chúa.

Theo cha Secondin, hành trình của ngôn sứ Elia phản ánh đức tin chân chính: đề tài các bài suy niệm làm nổi bật sự cần thiết phải trở về căn cội, có can đảm phủ nhận thái độ mơ hồ, tiến từ những thần tượng hư vô đến lòng đạo đức chân thật, từ sự trốn chạy đến sự lữ hành. Trong hành trình ấy có sự vượt thắng lo âu để tiến về sự sống. Nhưng cũng cần để Thiên Chúa làm cho ngạc nhiên, vì Chúa là làn gió nhẹ, một giọng nói thì thấm nhẹ nhàng, khác với điều chúng ta tưởng tượng.

Khi nói về cuộc gặp gỡ của ngôn sứ Elia với bà góa ở Zarepta, cha Secondin nhắc nhở rằng những người nghèo loan báo Tin Mừng cho chúng ta. Vì vậy cha Secondin cũng trình bày các tín hữu Kitô như những chứng nhân về sự công chính, tình liên đới và là những người loan báo về tình huynh đệ.

Trong các bài suy niệm, cha Secondin sử dụng phương pháp lectio divina: nguyện gẫm Lời Chúa, đọc Kinh Thánh kèm theo việc cầu nguyện, thực hiện một cuộc nói chuyện thân tình trong đó, khi đọc Sách Thánh, ta lắng nghe Thiên Chúa phán, và khi cầu nguyện, ta đáp lại Chúa với lòng cởi mở tín thác nơi Chúa.

ĐGH Biển Đức 16 đã từng khẳng định rằng ”Lectio divina hệ tại dừng lại lâu dài nơi một đoạn Kinh Thánh, đọc đi đọc lại, như thể ”nhai lại” như các Giáo Phụ vẫn nói, và có thể núi rút ra từ đó tất cả những tinh túy, để nuôi dưỡng sự suy niệm và chiêm ngắm, và tưới gội cuộc sống cụ thể bằng nhựa sống. Điều kiện của lectio divina là tâm trái phải được Thánh Linh soi sáng, nghĩa là từ chính Đấng đã linh hứng Kinh Thánh và nhờ đó ta đặt mình trong thái độ chăm chú lắng nghe Chúa”. (SD 21-2-2015)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Giáo Hội có thêm một vị Tiến Sĩ Hội Thánh

Giáo Hội có thêm một vị Tiến Sĩ Hội Thánh

VATICAN. ĐTC sẽ tôn phong thánh Gregorio làng Narek người Armeni là Tiến sĩ Hội Thánh.

Hôm 21-2-2015, ĐTC đã tiếp kiến ĐHY Angelo Amato, Tổng trưởng Bộ Phong Thánh, và đã phê chuẩn quyết định của các Hồng Y và GM thành viên của Bộ trong khóa họp toàn thể về việc tôn thánh Gregorio làng Narek làm Tiến Sĩ Hội Thánh. Đây là vị Tiến Sĩ thứ 36 của Giáo Hội.

Thánh nhân sinh năm 950 tại làng Narek thuộc cộng hòa Arméni trong một gia đình văn sĩ và mồ côi mẹ khi còn nhỏ. Thân phụ của ngài là Cha Khosrov sau này trở thành Tổng Giám mục. Gregorio cùng với em là Gioan được thân phụ ủy thác cho một người họ hàng là bà Anania Narek cũng là người đã lập ra trường học và làng Narek, chăm sóc.

Lớn lên, Gregorio đi tu làm Đan sĩ, rồi thụ phong LM và trở thành Viện Phụ một Đan viện. Ngài sống rất khiêm tốn và bác ái, dấn thân làm việc và cầu nguyện, đầy lòng kính mến Chúa Giêsu và Đức Mẹ.

Cha Gregorio là một thần học gia nổi bật và là một trong những thi sĩ quan trọng nhất của nền văn chương Arméni. Trong số các tác phẩm của ngài có cuốn chú giải Sách Nhã Ca, nhiều bài tán tụng Chúa và Đức Mẹ, cùng với một bộ sưu tập 95 kinh nguyện dưới hình thức thơ phú gọi là ”Narek” cũng là tên Đan viện nơi ngài sinh sống. Ngài qua đời năm 1010, thọ 60 tuổi. Mộ của thánh nhân trở thành nơi thu hút các tín hữu đến hành hương cho đến năm 1915 là thời kỳ cuộc tàn sát của Thổ nhĩ kỳ chống dân Arméni.

Trung thành với truyền thống Giáo Hội thánh Gregorio có lòng sùng mộ sâu xa đối với Đức Mẹ và theo lưu truyền Ngài đã được Đức Mẹ hiện ra. Trong số các tác phẩm của ngài, đặc biệt có bài tụng ca Đức Trinh Nữ Maria và kinh nguyện số 80 mang tựa đề ”Từ thẳm sâu tâm hồn, chuyện vãn mới Mẹ Thiên Chúa”. Trong kinh nguyện này, ngài cũng đào sâu mầu nhiệm Nhập Thể, kín múc từ đó những điểm để chúc tụng vẻ đẹp của Đức Mẹ.

Giáo Hội Công Giáo la tinh đã nhìn nhận sự thánh thiện của thánh Gregorio và gọi ngài là vị trổi vượt về đạo lý, các tác phẩm và khoa học thần bí. Lễ kính thánh nhân vào ngày 27-2 hằng năm. Giáo Hội Arméni ghi tên ngài vào số các vị Tiến Sĩ (SD 23-2-2015)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

 

Lớp Sáu – Bài Học 15 – Gieo Giống

Xem Bài Học-15 – Gieo Giống

Bác nông phu đi ra ruộng và gieo hạt giống. Đây là một hình ảnh đẹp và quen thuộc. Bác nông phu đi với dáng bộ nghiêm trang và thận trọng, vai đeo thúng lúa. Ông thọc tay phải vào thúng, bốc hạt giống xạ xuống trên ruộng đồng theo nhịp chân bước. Người gieo giống đi gieo và đã xảy ra là có những hạt rơi trên vệ đường và chim trời đến ăn mất. Những hạt khác rơi trên sỏi đá, chúng mọc lên nhưng vì không đủ đất, cho nên bị ánh nắng mặt trời làm cho khô héo. Còn những hạt rơi vào bụi gai, gai mọc lên làm cho chúng chết ngạt. Và sau cùng, những hạt khác rơi vào đất tốt, chúng sinh hoa kết quả, có hạt được 100, hạt 60, hạt 30.
Chúng ta có thể nghĩ rằng: gieo giống gì mà kỳ lạ quá vậy. Tại sao không gieo trên đất tốt, mà còn gieo cả trên vệ đường, trên đất xấu và cả vào trong bụi gai. Gieo như thế vì đó là phương pháp làm ruộng của người dân miền Palestina. Họ có cách gieo giống khác với chúng ta. Họ gieo giống trước rồi mới cày úp sau. Vì vậy, ông bạn gieo giống trong dụ ngôn, đi gieo trong ruộng chưa cày bừa chi cả. Suốt thời gian đất nghỉ, dân làng thường đi tắt qua những thửa ruộng đã gặt hái chỉ còn lại những gốc rạ. Vậy khi gieo, ông ta đã tung hạt giống trên cả thửa ruộng, trên cả những con đường tắt này với ý định là sẽ cày cả con đường này lên, nhưng chim trời đã nhìn thấy những hạt giống đó và đã ăn mất trước khi chúng nẩy mầm. Ông cũng chủ ý gieo vào cả bụi gai khô héo vì ông cũng định cày cả đám gai này nữa. Nhưng hạt gai đã rụng xuống đất, lại được cày úp lẫn lộn với những hạt lúa, do đó gai mọc lên và làm cây lúa non chết ngạt. Chúng ta cũng không ngạc nhiên khi thấy những hạt rơi trên sỏi đá. Đó là lớp sỏi đá cứng nằm ngầm dưới mặt đất, chỉ có một lớp đất mỏng phủ trên, người ta không trông thấy và chỉ khám phá ra khi lưỡi cày đụng phải. Nếu gặp lớp sỏi đá này, rễ lúa không thể đâm sâu xuống được và ánh nắng mặt trời sẽ làm cho chúng khô héo. Hình như người gieo giống không mấy lạc quan với công việc của mình. Nhưng may thay, phần lúa giống còn lại rơi trên đất tốt và đã sinh hoa kết quả tốt đẹp, hạt được 30, 60 hay 100.

GieoGiongViecPhanTam-Bridge

Đức Thánh Cha tặng sách trong buổi đọc kinh Truyền Tin

Đức Thánh Cha tặng sách trong buổi đọc kinh Truyền Tin

VATICAN. Trong buổi đọc kinh Truyền Tin trưa chúa nhật 22-2-2015 với 40 ngàn tín hữu tại Quảng trường Thánh Phêrô, ĐTC đã quảng diễn ý nghĩa mùa chay như một mùa chiến đấu và ngài tặng các tín hữu tập sách nhỏ giúp sống mùa chay.

Bài huấn dụ của ĐTC

Anh chị em thân mến, chào Anh chị em

Thứ tư vừa qua, với nghi thức bỏ tro, mùa chay đã bắt đầu và hôm nay là chúa nhật thứ I của mùa phụng vụ gợi lại 40 ngày Chúa Giêsu trải qua trong hoang địa, sau khi chịu phép rửa nơi sông Giordan. Thánh Marco đã viết trong Tin Mừng hôm nay: ”Thánh Linh thúc đẩy Chúa Giêsu vào hoang địa và Người ở lại trong hoang địa 40 ngày, chịu Satan cám dỗ. Người ở với các dã thú và các thiên thần hầu hạ Người” (Mc 1,12-13). Với những lời này, thánh sử Tin Mừng mô tả cuộc thử thách Chúa Giêsu tự nguyện đương đầu, trước khi khai mạc sứ vụ cứu thế. Đó là một thử thách từ đó Chúa chiến thắng vinh hiển và chuẩn bị Người loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa. Trong 40 ngày cô tịch, Người đương đầu với Satan ”giáp lá cà”, Người vạch trần những cám dỗ và đã chiến thắng hắn. Và trong Người, tất cả chúng ta đều chiến thắng, nhưng mỗi người chúng ta có nghĩa vụ bảo vệ chiến thắng ấy trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta”.

Giáo Hội nhắc nhớ cho chúng ta mầu nhiệm ấy vào đầu mùa chay, vì mầu nhiệm ấy mang lại cho chúng ta viễn tượng và ý nghĩa của mùa này, là một thời kỳ chiến đấu – trong mùa chay ta phải chiến đấu – một thời kỳ chiến đấu tinh thần chống lại thần dữ (Xc Lời nguyện thứ tư lễ tro). Và trong lúc chúng ta tiến qua hoang địa mùa chay, chúng ta hướng nhìn về lễ Phục Sinh, là chiến thắng chung kết của Chúa Giêsu chống lại Ma Quỷ, chống lại tội lỗi và chống lại sự chết. Đó chính là ý nghĩa chúa nhật thứ I mùa chay này: chúng ta quyết liệt lên đường theo Chúa Giêsu trên con đường dẫn đến sự sống. Như Chúa Giêsu, những điều Người đã làm, và đồng hành với Người”.

Con đường Chúa Giêsu tiến qua hoang địa. Hoang địa là nơi ta có thể lắng nghe tiếng Thiên Chúa và tiếng nói của kẻ cám dỗ. Trong sự ồn ào, huyên náo, ta không nghe được tiếng ấy mà chỉ nghe thấy những tiếng nói hời hợt. Trái lại trong hoang địa chúng ta có thể đi xuống chiều sâu, nơi quyết định thực sự về vận mệnh của chúng ta, sống hay chết. Nhưng làm sao chúng ta nghe thấy tiếng Chúa? Thưa chúng ta nghe thấy trong Lời của Ngài. Vì thế điều quan trọng là biết Kinh Thánh, nếu không chúng ta sẽ không biết cách đáp trả những mưu mô của ma quỷ. Và ở đây tôi muốn lập lại lời khuyên: mỗi ngày hãy đọc Tin Mừng, suy niệm một chút, chừng 10 phút; và luôn mang theo sách Tin Mừng: trong túi, trong sắc.. Nhưng luôn để sách Tin Mừng trong tầm tay. Hoang địa mùa chay giúp chúng ta chống lại những điều trần tục, những 'thần tượng”, giúp chúng ta đi tới những chọn lựa can đảm phù hợp với Tin Mừng và củng cố tình liên đới với anh chị em chúng ta”.

”Vậy chúng ta hãy đi vào hoang địa không chút sợ hãi vì chúng ta không lẻ loi: chúng ta ở cùng Chúa Giêsu, với Chúa Cha và Chúa Thánh Linh. Đúng hơn, cũng như trường hợp Chúa Giêsu, chính Thánh Linh hướng dẫn chúng ta trong hành trình mùa chay, chính Chúa Thánh Linh đã ngự xuống trên Chúa Giêsu và là Đấng được ban cho chúng ta trong phép rửa tội. Vì thế mùa chay là thời điểm thuận tiện giúp chúng ta ngày càng ý thức hơn về điều Chúa Thánh Linh mà chúng ta lãnh nhận trong phép rửa, đã và có thể làm trong chúng ta. Và vào cuối hành trình mùa chay, trong đêm Vọng Phục Sinh, chúng ta có thể canh tân giao ước phép rửa và những quyết tâm từ đó mà ra, với ý thức mạnh mẽ hơn”.

Và ĐTC kết luận rằng: ”Xin Đức Thánh Trinh Nữ là mẫu gương về sự ngoan ngoãn đối với Chùa Thánh Linh, giúp chúng ta để cho mình được Ngài dẫn dắt, Ngài là Đấng muốn làm cho mỗi người chúng ta trở nên một thụ tạo mới. Đặc biệt tôi phó thác cho Mẽ tuần tĩnh tâm của tôi bắt đầu từ chiều chúa nhật hôm nay, và các cộng sự viên của tôi trong giáo triều Roma cùng tham dự. Tôi xin anh chị em tháp tùng chúng tôi bằng lời cầu nguyện: Xin anh chị em hãy cầu nguyện để trong hoang địa này, chúng tôi có thể lắng nghe tiếng Chúa Giêsu và sửa chữa những khuyết điểm để đương đầu với những cám dỗ hằng ngày tấn công chúng tôi. Vì thế tôi xin anh chị em tháp tùng chúng tôi với lời cầu nguyện của anh chị em”

Chào thăm và tặng sách

Sau khi ban phép lành, ĐTC đã chào thăm các gia đình, các nhóm giáo xứ, hội đoàn và tất cả các khách hành hương. Ngài cũng loan báo sáng kiến trao tặng các tín hữu tập sách nhỏ, bỏ túi với tựa đề ”Bạn hãy gìn giữ con tim”. Ngài nói:

”Tập sách nhỏ này chứa đựng một số giáo huấn của Chúa Giêsu và những nội dung thiết yếu của đức tin chúng ta, chẳng hạn như 7 bí tích, các ơn của Chúa Thánh Linh, 10 giới răn, các nhân đức, các công việc từ bi (”thương người bẩy mối”). Bây giờ những người thiện nguyện sẽ phân phát các tập sách này, trong đó có nhiều người vô gia cư, đến đây hành hương. Những người túng thiếu cũng là những người trao cho chúng ta sự phong phú lớn lao này, sự phong phú của đạo lý chúng ta. Mỗi người anh chị em hãy nhận lấy cuốn sách nhỏ này và mang theo mình, như một trợ lực để hoán cải và tăng trưởng tinh thần, luôn khởi hành từ con tim…

Cuốn sách bỏ túi ĐTC tặng dầy 30 trang với tựa đề ”Bạn hãy gìn giữ tâm hồn” và tiểu đề là: ”Đức Giáo Hoàng: sống mùa chay như thế nào.”

Ngay trang đầu tiên, ĐTC mô tả chương trình mùa chay: ”Chúng ta phải trở thành những tín hữu Kitô can đảm”, thực hành điều chúng ta tin. Ngài nhắn nhủ các tín hữu hãy quan tâm đến việc huấn luyện con tim, làm cho nó trở nên giống trái tim của Chúa Giêsu vị Mục Tử Nhân Lành. Hình bìa của cuốn sách in lại bức bích họ trong hang toại đạo thánh Callisto, diễn tả Chúa Giêsu đang vác con chiên trên vai và có 2 con chiên khác ngoái đầu hướng về Chúa.

Trong Mùa chay, vang vọng mỗi năm lời mời gọi hoán cải từ con tim, nơi diễn ra những chọn lựa cụ thể, thường nhật, giữa sự thiện và sự ác, giữa những gì là phàm tục với Tin Mừng, giữa dửng dưng và chia sẻ, giữa thái độ khép kín ích kỷ và sự cởi mở quảng đại đối với Thiên Chúa và tha nhân.


ĐTC nhắc đến lời nguyện trong sứ điệp Mùa chay năm nay ngài đã cho phổ biến: ”Lạy Chúa xin làm cho trái tim chúng con nên giống Trái Tim Chúa”. Được như thế, chúng ta sẽ có một con tim mạnh mẽ và từ bi, tỉnh thức và quảng đại, không để cho mình bị khép kín, không rơi vào hố sâu là hoàn cầu hóa sự dửng dưng.

G. Trần Đức Anh OP  – Vatican Radio