Tòa Giám Quản Roma thu thập chứng tích về Cố Thuận

Tòa Giám Quản Roma thu thập chứng tích về Cố Thuận

 

Tòa Giám Quản Roma công bố sắc lệnh thu thập các chứng tích về vị sáng lập dòng Xitô Phước Sơn tại Việt Nam, Cha Benoit Thuận, tục danh là Henri Denis, để tiến hành án phong chân phước cho Cha.

 Sắc lệnh của ĐHY Giám quản Roma Angelo De Donatis, cùng với vị công chứng Marcello Terramani ký ngày 25-10 vừa qua (2018) và được công bố hôm 18-11-2018 với nội dung như sau:

 ”Ngày 24-7 năm 1933, vị Tôi Tớ Chúa Benoit Thuận, tu sĩ, qua đời tại Đan viện Thánh Mẫu Phước Sơn, Việt Nam.

 Vị Tôi Tớ Chúa, sau khi thụ huấn tại Chủng viện Thừa Sai Paris, thụ phong linh mục ngày 7-3-1903 và sau đó được sai đi truyền giáo tại Huế, Việt Nam. Sự dấn thân truyền giáo của Người thật quảng đại, mặc dù phải chịu những hy sinh rất lớn và thiếu thốn, mang lại thành quả dồi dào, không những qua việc đón nhận nhiều người Việt Nam vào Giáo Hội, nhưng còn thành lập Đan Viện Đức Mẹ Việt Nam ngày 15 tháng 8 năm 1918, đây là Đan viện đầu tiên của chi dòng Xitô Thánh Gia. Cuộc sống của Cha là một mẫu gương về lòng yêu mến Chúa Kitô, cầu nguyện, thanh bần, thống hối đền tội và nhiệt thành đối với phần rỗi các linh hồn. Danh thơm thánh thiện của Cha gia tăng với thời gian và chân dung của Cha trở thành điểm tham chiếu cho nhiều linh mục cũng như bao nhiêu giáo dân Việt Nam. Ngày nay, mặc dù bao nhiêu cuộc xung đột chiến tranh mà Việt Nam đã phải chịu, hơn 1 ngàn đan sĩ nam nữ Xitô có thể xưng mình là con cái của Cha.

 Vì tiếng tăm thánh thiện của Cha càng gia tăng qua dòng thời gian và đã có đơn chính thức xin mở án phong chân phước và hiển thánh cho vị Tôi Tớ Chúa, nên qua việc thông tri này cho cộng đồng Giáo Hội, chúng tôi mời gọi tất cả và từng tín hữu hãy thông báo trực tiếp cho chúng tôi hoặc gửi đến tòa án giáo phận Roma (ở địa chỉ: Quảng trường Thánh Gioan Laterano số 6, 00184 Roma) tất cả những tin tức, qua đó có thể rút ra được những yếu tố thuận lợi hoặc bất lợi cho thanh danh thánh thiện của Vị Tôi Chớ Chúa (Benoit Thuận).

 Ngoài ra, theo các qui định của luật, vì phải thu thập tất cả các bút tích của Cha hoặc được coi là của Cha, qua Sắc Lệnh này, chúng tôi truyền tất cả những ai sở hữu các bút tích ấy, hãy ân cần nạp cho tòa án giáo phận tất cả những gì vị Tôi Tớ Chúa đã viết, nếu chưa giao cho Văn phòng thỉnh nguyên viên án phong này.

 Chúng tôi nhắc nhở rằng từ ”bút tích” (scritti) ở đây không phải chỉ là các tác phẩm đã in ấn, (các tác phẩm này đã được thu thập rồi), nhưng cả các thủ bản, nhật ký, thư từ, và mọi điều khác được vị Tôi Tớ Chúa viết ra. Những ai muốn giữ lại bản chính các bút tích đó, thì có thể nạp bản sao có thị thực phải phép.

 Sau cùng, chúng tôi qui định rằng Sắc lệnh này được dán trong vòng 2 tháng tại cửa tòa Giám Quản Roma, và được công bố trên các trang mạng của chi dòng Xitô Thánh Gia, trên báo ”Quan sát viên Roma” (Osservatore Romano) và trên tờ thông tin của giáo phận Huế.

 Làm tại Roma ngày 25 tháng 10 năm 2018

 ký tên: Hồng Y Angelo De Donatis, Giám quảm Giáo Phận Roma

 Marcello Terramani, Công chứng viên.

 

Giuse Trần Đức Anh, OP

Giáo phận Rouen bắt đâu thu thập tài liệu phong chân phước cho cha Hamel

Giáo phận Rouen bắt đâu thu thập tài liệu phong chân phước cho cha Hamel

Hôm thứ 7, 20/5 vừa qua, tại Giáo phận Rouen đã diễn ra buổi trình bày chứng từ đầu tiên trong tiến trình thu thập tài liệu cho án phong chân phước của cha Jacques Hamel, linh mục Giáo phận Rouen, bị hai người Hồi giáo cắt cổ, sát hại dã man, tại nhà thờ giáo xứ của cha ở Saint-Etienne-du-Rouvray vào ngày 26/7/2016 khi đang dâng Thánh lễ.

Theo tin của Giáo phận Rouen, trong những tháng tới đây, 69 nhân chứng sẽ trình bày các điều liên quan đến cha Jacques Hamel.

Vị thỉnh nguyện viên của án phong chân phước, cha Paul Vigouroux đã nói với Đức tổng giám mục Dominique Lebrun về “danh tiếng của vị tử đạo” –  Tôi tớ Chúa Jacques Hamel – được Pháp và thế giới yêu mến. Từ khi cha bị giết, đã có nhiều thư được những người vô danh, các chính quyền, các Giám mục Công giáo Pháp và khắp thế giới, lãnh đạo của các Giáo hội Kitô khác, những người Do thái và Hồi giáo, gửi về.

Danh tiếng về sự thánh thiện của cha Hamel cũng được Đức Giáo hoàng Phanxicô cảm nhận. Ngài đã nói trong Thánh lễ vinh danh cha Hamel tại nhà nguyện thánh Marta ngày 14/09/2016: “Cha ấy là một vị tử đạo. Và các vị tử đạo được chúc phúc, chúng ta phải cầu nguyện với cha.”

Vị thỉnh nguyện viên nói tiếp: “Cha Jacques Hamel đã sống đời sống linh mục một cách đơn giản nhất có thể, luôn luôn ở vùng ngoại biên, cả ở vùng ngoại ô phát triển của thành phố Rouen và vùng ngoại ô nơi có rất nhiều các người đồng thời với chúng ta. Tại một đô thị có nhiều người nước ngoài sinh sống, cha đã có mối quan hệ tốt với cộng đồng Hồi giáo.”

Và vì danh tiếng của cha – người của đức tin, phục vụ toàn dân, vượt trên những liên hệ tôn giáo” – cộng đồng Saint-Etienne-du-Rouvray đã quyết định dựng một tác phẩm điêu khắc ở trung tâm thành phố để vinh danh cha.

Đức cha Lebrun đã giải thích rằng giai đoạn một của tiến trình phong thánh sẽ được thực hiện ở cấp giáo phận ở Rouen, Sau đó, giai đoạn hai sẽ được chuyển sang Roma cho Bộ Phong thánh. Quyết định cuối cùng sẽ do Đức Giáo hoàng. Đức cha cũng nhắc là trong giai đoạn một, không được cầu kêu cầu danh cha Hamel trong các lời nguyện chính thức như một chân phước hay một vị thánh. (SIR 25/07/2017)

Hồng Thủy

BA NGỌN NÚI

BA NGỌN NÚI

Núi là biểu tượng cho sự uy nghi, hùng vĩ, cao cả. Trong Thánh Kinh, núi thường được xem là nơi gặp gỡ giữa trời và đất, giữa thần linh và con người. Những mạc khải quan trọng trong Thánh Kinh đều diễn ra trên núi.

Trong tác phẩm “Đức Giêsu thành Nadarét”, suy niệm về biến cố Hiển Dung, Đức giáo hoàng Bênêđictô XVI đã viết những lời thật ý nghĩa về các ngọn núi: “Chúa Giêsu đem theo các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan riêng với mình và dẫn họ lên một ngọn núi cao (x. Mc 9,2). Chúng ta lại gặp ba vị này trong vườn Cây Dầu (x. Mc 14,33), lúc đó cơn âu lo cuối cùng của Đức Giêsu như hình ảnh nghịch lại với Hiển Dung, dù vậy cả hai vẫn thuộc vào nhau. Ở đây không nên bỏ qua đoạn Xh 24, ông Môsê lên núi cùng với Aaron, Nadab và Abihu, có lẽ cùng với 70 vị trưởng lão của Israel.

Ở đây, như lời bài giảng trên núi và trong những đêm cầu nguyện của Đức Giêsu, chúng ta lại gặp núi như vị trí gần gũi cách đặc biệt với Thiên Chúa. Chúng ta nhìn tổng hợp một lần những ngọn núi khác nhau trong đời sống Đức Giêsu: núi cám dỗ; núi lúc Người ngồi rao giảng; núi cầu nguyện; núi Hiển Dung; núi âu lo; núi thập tự và cuối cùng là núi Thăng Thiên, trên đó – nghịch lại với lời mời đón nhận vương quyền thế giới do quyền lực của ma quĩ – Chúa tuyên bố: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất” (Mt 28,18). Nhưng trong hậu cảnh, người ta cũng thấy xuất hiện các ngọn núi Sinai; Horep; Morija- các ngọn núi mạc khải của Cựu Ước, kết hợp làm một với núi khổ nạn và núi mạc khải; tất cả chúng đều hướng đến núi Đền Thờ, nơi đó mạc khải trở thành phụng vụ.

Nếu chúng ta đi tìm một lời giải thích, sẽ gặp ở hậu cảnh biểu trưng chung về núi: núi là vị trí nâng cao, không những phải trèo lên bên ngoài, nhưng ngay cả bên trong; núi như giải thoát gánh nặng thường nhật, như hít thở không khí trong lành của sáng tạo; núi cho chúng ta một cái nhìn thật xa và vẻ đẹp của vũ trụ; núi cho tôi một cảm giác nâng cao trong tâm hồn và cho tôi cảm nghiệm về Đấng Sáng Tạo. Ngoài lịch sử, còn có cảm nghiệm về một Thiên Chúa, Đấng đang nói và kinh nghiệm về cuộc khổ nạn mà đỉnh cao đạt được trong cuộc hy tế Isaac, trong hy tế Con chiên, tiền ảnh của Con Chiên cuối cùng bị sát tế trên núi Golgotha. Trên núi, ông Môisen và ông Êlia được đón nhận mạc khải của Thiên Chúa; các ngài đàm đạo với Đấng là mạc khải của Thiên Chúa nơi bản thân Người” (x. Đức Giêsu thành Nadarét, Lm Aug. Nguyễn Văn Trinh biên dịch, trang 266-267).

Các bài đọc Thánh Kinh của Chúa nhật hôm nay nói đến ba ngọn núi. Núi Moria đức tin, Tabor vinh quang và Golgotha tình yêu.

1/ Núi Moria, núi niềm tin
 
Bài đọc 1 kể về ngọn núi Moria. Trên núi cao, Tổ phụ Ápraham sẵn sàng hiến tế con trai duy nhất cho Thiên Chúa.

Tổ phụ Ápraham có quê hương miền Lưỡng Hà. Chúa gọi ông tại Haran, lúc ông 75 tuổi. Chúa hứa cho ông có một dòng dõi đông đúc như sao trên trời, như cát bãi biển (x. St 12,1-5). Chờ đợi mãi, dài đến 25 năm sau, bà Sara mới sinh cho ông được một người con duy nhất. Ápraham bước vào tuổi 100, lời hứa của Thiên Chúa được thực hiện. Niềm vui quá lớn trong ngày con trẻ chào đời (x. St 21,1-7). Bồng ẵm con trẻ, ông thấy tương lai của cả một dân tộc hùng mạnh. Vợ chồng già hạnh phúc ngập tràn trong tiếng khóc tiếng cười trẻ thơ. Isaác là đứa con của lời hứa, là cây gậy nương tựa tuổi già.

Thế rồi vào một ngày kia, Chúa phán với ông: “ Ápraham, Ápraham! Ngươi hãy đem Isaac, đứa con một yêu dấu của ngươi, và đi đến đất Moria, ở đó, ngươi sẽ dâng nó làm của lễ toàn thiêu trên núi Ta sẽ chỉ cho ngươi “. Tiếng sét ngang tai làm ông chết lặng. Lệnh truyền sát tế Isaac, vượt quá tầm nghĩ của con người. Lời chúc phúc của Thiên Chúa cho ông làm tổ phụ các dân tộc, sẽ thành mây khói. Lệnh truyền làm ông đau nhói ruột gan.

Nhưng với niềm tin mãnh liệt, Ápraham thi hành lập tức lệnh truyền ấy. Ngay khi ông đang giơ cao con dao để hạ sát con trai, Thiên Chúa đã ngăn cản bàn tay ông. Chúa phán: “Đừng giết con trẻ và đừng động đến nó, vì giờ đây Ta biết ngươi kính sợ Chúa, đến nỗi không từ chối dâng đứa con duy nhất cho Ta".

Đức tin và lòng vâng phục của tổ phụ Abraham trở nên gương mẫu cho muôn thế hệ.

Tác giả thư Do Thái viết: “Bởi tin, Ápraham được kêu gọi vâng lời ra đi đến xứ ông sẽ lấy làm cơ nghiệp, ông ra đi mà chẳng biết mình đi đâu” (Dt 11,8). Tin là sẵn sàng làm theo lời Chúa dạy, hy vọng Chúa sẽ thực hiện điều Người hứa, dù trước mắt chưa thấy chút gì là hiện thực cả. Vâng lời Chúa, ông đã bỏ quê cha đất tổ lên đường và đặc biệt ông đã dám dâng Isaac làm lễ tế Thiên Chúa. Đức tin thật vững chắc, không do dự, không mặc cả. Vì một dạ tín trung với Chúa, Ápraham đã nên “bạn thân của Thiên Chúa” (Gc 2,23). Chúa gọi ông là “Tôi Tớ của Ta” và nói “Ta ở với ngươi” (St 26,24). Vì Chúa “Chúc lành cho các dân tộc trong dòng giống ông và dòng giống ông sẽ nên đông như cát biển” (Hc 44,21), nên ông là cha chúng ta trong đức tin.

2/ Núi Tabor, núi vinh quang
 
Chuẩn bị bước vào cuộc khổ nạn, Chúa Giêsu loan báo cho các môn đệ biết : Người sẽ lên Giêrusalem để chịu khổ nạn và chịu chết. Các môn đệ chao đảo niềm tin. Phêrô đại diện cho các anh em phản đối kiệt liệt. Phêrô không chấp nhận thập giá khổ nhục. Để cũng cố niềm tin cho các môn đệ, Chúa Giêsu đưa họ lên núi cao. Chúa biến hình, cho họ thấy một thoáng Phục sinh trước Phục sinh, cho hưởng nếm một chút Thiên đàng trước Thiên đàng. Nhờ đó các môn đệ thêm niềm tin tưởng, thêm mạnh mẽ can đảm.

Chúa đưa ba môn đệ lên núi cao. Các ông được đi vào một thế giới vừa kỳ diệu vừa lạ lùng, làm biến đổi ý nghĩa cuộc đời.

Các ông thấy: “Dung mạo Người bỗng đổi khác, y phục Người trở nên rực rỡ, trắng tinh, không có thợ nào ở trần gian giặt trắng được như vậy” (Mc 9,3); “Dung nhan Người chói lọi như mặt trời, và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng” (Mt 17,2); “Đang lúc Người cầu nguyện, dung mạo Người đổi khác, y phục Người trở nên trắng tinh chói lòa” (Lc 9,29).

Chính nơi đây nổi bật sự liên hệ và sự khác biệt với gương mặt ông Môisen: “Khi ông Môisen từ trên núi Sinai xuống, tay cầm hai tấm bia Chứng Ước, khi xuống núi, ông Môisen không biết rằng da mặt ông sáng chói bởi đã đàm đạo với Thiên Chúa” (Xh 34,29-35). Qua việc đàm đạo với Thiên Chúa, ánh sáng của Thiên Chúa chiếu sáng trên ông và làm cho ông sáng chói. Như thế, ánh sáng từ bên ngoài chiếu vào ông làm cho ông sáng chói. Đức Giêsu chói sáng tự bên trong, không những Người đón nhận ánh sáng mà chính Người là ánh sáng bởi ánh sáng” (sđd trang 268).

Và có một đám mây bao phủ các ông. Và từ đám mây, có tiếng phán rằng:Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người!” (Mc 9,7). Đám mây thiên linh, là dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa. Đám mây ngự trên Lều Hội Ngộ cho thấy sự hiện diện của Đức Chúa. Đức Giêsu là Lều Thánh, đám mây của sự hiện diện Thiên Chúa đậu trên Người và từ đó cũng sẽ “bao phủ” mọi người. Sự kiện thánh tẩy Đức Giêsu được tái hiện, nơi đó Chúa Cha từ đám mây công bố Đức Giêsu là Con: “Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con” (Mc 1,11). (sđd trang 172).

Các môn đệ còn thấy: “Có hai nhân vật đàm đạo với Người, đó là ông Môsê và ông Êlia”. Đây là hai nhân vật quan trọng nhất trong Cựu ước, đại diện cho hai thực tại quan trọng nhất của Do Thái giáo. Môisen đại diện cho luật pháp. Êlia đại diện cho các ngôn sứ. Hai ông là biểu tượng tiên báo sự ra đời của Đức Giêsu. “Lề luật và ngôn sứ đàm đạo với Đức Giêsu và nói về Người. Trong một chú thích ngắn ngũi, thánh Luca trình thuật cho chúng ta về điều hai chứng nhân của Thiên Chúa nói với Đức Giêsu: “Hai vị hiện ra, rạng ngời vinh hiển, và nói về cuộc xuất hành Người sắp hoàn thành tại Giêrusalem” (Lc 9,31). Đề tài đàm đạo của các ngài là thập giá, nhưng hiều ngầm là cả cuộc “Xuất hành của Đức Giêsu” phải diễn ra tại Giêrusalem. Thập giá Đức Giêsu là cuộc xuất hành, một việc bước ra khỏi cuộc sống này, vượt qua Biển Đỏ của cuộc khổ nạn và tiến đến vinh quang, dù vẫn còn mang thương tích của cuộc khổ nạn”. (sđd trang 268).

Ba môn đệ Phêrô, Gioan và Giacôbê có những trải nghiệm tuyệt vời về Thầy của mình. Cũng vẫn là Đức Giêsu bằng xương bằng thịt mà các ông vẫn thường gặp gỡ tiếp xúc hằng ngày, nhưng lần này, các ông được nhìn thấy Người dưới một dung mạo mới: thật sáng ngời, thật hấp dẫn và đầy uy nghi. Các ông vững lòng tin tưởng.

3/ Núi Golgotha, núi tình yêu
 
Trên núi cao, Đức Giêsu gặp gỡ thân mật với Chúa Cha. Bỗng chốc Người biến hình. Các môn đệ ngất ngây trong niềm hạnh phúc tuyệt vời. Các ông muốn ở lại trên núi để sống niềm hạnh phúc ngập tràn ấy. Các ông muốn níu kéo khoảnh khắc thần tiên ấy lại nên Phêrô thay mặt anh em thưa với Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, chúng con ở đây, thật là hay! Chúng con xin dựng tại đây ba cái lều, một cho Thầy, một cho ông Môisen, và một cho ông Êlia”.

Các môn đệ muốn đăng ký thường trú trên núi Tabor, muốn đắm mình trong hào quang rực rỡ. Họ bỏ lại dưới chân núi các bạn đồng môn, các cuộc truyền giáo của Thầy. Họ muốn xa rời dân chúng đang khao khát Lời Chúa. Nhưng Đức Giêsu đưa các môn đệ trở xuống. Người chỉ lên đỉnh Tabor trong chốc lát rồi xuống núi chuẩn bị vác thập giá lên núi Golgotha. Xuống núi để chu toàn nhiệm vụ trần gian. Đức Giêsu phải chịu khổ nạn, chịu chết rồi mới Phục Sinh mở lối vào thiên đàng. “Cảm nghiệm sự kiện Hiển Dung đã giúp cho thánh Phêrô nhận thức trong lúc ngất trí, những thực tại được biểu trưng trong các nghi thức của ngày lễ đã được hoàn tất, biến cố Hiển Dung loan báo thời đại Mêsia đã bắt đầu. Mãi khi xuống núi, thánh Phêrô lại phải học hỏi một lần nữa, thời đại Mêsia trước tiên là thời đại của thập giá và việc Hiển Dung, Chúa biến dạng thành ánh sáng, sẽ bao trùm chúng ta trong ánh sáng của cuộc khổ nạn” (sđd trang 269).

Hai đỉnh núi: núi Tabor và núi Golgotha cách nhau không xa về địa lý nhưng lại là con đường vạn lý. Chỉ có con đường thập giá tình yêu mới nối liền hai núi mà thôi.

Thánh Phêrô cùng các Tông đồ còn phải vượt qua những yếu đuối, sa ngã, còn phải nỗ lực vượt qua mọi khó khăn thử thách, còn phải chịu đau khổ vì Thầy chí thánh, còn phải trải qua cái chết đớn đau rồi mới tới được Núi Thánh thiên quốc như lòng mong ước. Các ngài chỉ đi một con đường Thầy mình đã đi qua. Đó là con đường thánh giá tình yêu.

4/ Muốn tới vinh quang phải đi qua thập giá tình yêu và niềm tin
 
Ba môn đệ thân tín được Đức Giêsu dẫn lên núi Tabor. Ở đó cả ba nhìn thấy vinh quang của vương quốc Thiên Chúa chói sáng nơi Đức Giêsu. Trên núi, đám mây thánh thiện của Thiên Chúa bao phủ họ. Trên núi, trong cuộc đàm đạo của Đức Giêsu Hiển Dung với Lề luật và Tiên tri, họ hiểu rằng, giờ của ngày Lễ Lều đích thực đã đến. Trên núi, họ cảm nghiệm, Đức Giêsu chính là Tora sống động, là lời trọn vẹn của Thiên Chúa. Trên núi, họ thấy “quyền lực” của vương quốc đang đến trong Đức Kitô. Nhưng chính trong sự gặp gỡ đáng sợ với vinh quang của Thiên Chúa nơi Đức Giêsu, họ phải học biết điều thánh Phaolô nói trong lá thư thứ nhất gởi giáo đoàn Côrintô với các môn đệ thuộc mọi thời đại: “Chúng tôi rao giảng một Đức Kitô bị đóng đinh, điều mà người Do thái coi là ô nhục không thể chấp nhận, và dân ngoại cho là điên rồ. Nhưng đối với những ai được Thiên Chúa kêu gọi, dù là Do thái hay Hy lạp, Đấng ấy chính là Đức Kitô, Người là sức mạnh và là sự khôn ngoan của Thiên Chúa” (1,23-24). Sức mạnh của vương quốc tương lai xuất hiện nơi Đức Giêsu Hiển Dung, Đấng nói với các chứng nhân Cựu ước về sự cần thiết của cuộc khổ nạn như con đường tiến đến vinh quang (x. Lc 24,26-27). Như thế, họ được tiền dự vào ngày quang lâm; nhờ đó dần dần họ được dẫn vào mầu nhiệm sâu thẳm của Đức Giêsu.(sđd trang 273).

Muốn đạt tới vinh quang núi Tabor, cần phải vượt qua được hai ngọn núi Moria đức tin và Golgotha tình yêu một cách trọn vẹn. Lúc ấy, thật là hạnh phúc được chiêm ngưỡng vinh quang Thiên Chúa.

Lm. Giuse Nguyễn Hữu An