Đức Thánh Cha không muốn hình ngài trên tiền Euro Vatican

Đức Thánh Cha không muốn hình ngài trên tiền Euro Vatican

VATICAN. ĐGH Phanxicô không muốn cho in hình ngài trên đồng tiền Euro Vatican nữa.

Thay vào đó, Đồng Euro Vatican từ năm nay 2017 sẽ in hình huy hiệu Giáo Hoàng.

Hôm 25-1-2017, Văn phòng về tem thư và tiền cắc của Vatican xác nhận tin trên đây với hãng thông tấn Công Giáo Đức KNA và có biết đó là quyết định của chính ĐGH Phanxicô. Trước đó, sự thay đổi này được đăng trên công báo của Liên hiệp Âu Châu số ra ngày 24-1-2017.

Đồng Euro Vatican được ấn hành lần đầu tiên hồi năm 2002 với hình vị Giáo Hoàng đương nhiệm. Cho đến nay, hình ĐGH Phanxicô được in trên các đồng tiền cắc từ 1 xu cho đến 2 Euro.

Mặc dù không phải là quốc gia thành viên của Liên hiệp Âu Châu (EU), nhưng Vatican vẫn được phép đúc tiền cắc Euro, và theo một hiệp định ký kết giữa hai bên, số lượng tiền cắc Euro Vatican là 2 triệu 300 ngàn Euro. Sau đó có một số lượng thay đổi nhỏ, được xác định lại thường xuyên.

 Giới sưu tập tiền cắc rất ái mộ đồng tiền cắc Euro Vatican, nhưng Vatican phải cam kết với EU là sẽ cho lưu hành ít nhất 51% tổng lượng tiền cắc Euro Vatican. (KNA 25-1-2017)

G. Trần Đức Anh OP 

Đức Thánh Cha bế mạc Tuần Hiệp Nhất Kitô 2017

Đức Thánh Cha bế mạc Tuần Hiệp Nhất Kitô 2017

ROMA. Lúc 5 giờ rưỡi chiều ngày 25-1-2017, ĐTC Phanxicô đã chủ sự buổi hát kinh chiều trọng thể tại Đền thờ Thánh Phaolô ngoại thành ở Roma, để bế mạc tuần cầu nguyện cho sự hiệp nhất các tín hữu Kitô.

Tuần này đã tiến hành từ 18 đến 25-1 vừa qua với chủ đề là câu trích từ thư thứ II của Thánh Phaolô Tông Đồ gửi tín hữu Corinto: ”Tình yêu Chúa Kitô thúc đẩy chúng ta tiến đến hòa giải” (Xc 2 Cr 14-20).

Hiện diện tại buổi cầu nguyện, có gần 20 HY, các GM, giáo sĩ, tu sĩ và giáo dân Roma, nhiều đại diện của các cộng đoàn Kitô khác, đặc biệt là TGM Gennadios Zervos, Đại diện tòa Thượng Phụ chung của Chính Thống giáo, đặc trách các tín hữu Chính Thống tại Italia, Malta và miền nam Âu Châu, ĐGM David Moxon, đại diện Đức Giáo Chủ Anh giáo, v.v. Ngoài ra có hàng chuc sinh viên của Học viện Đại kết Bossey, gần Genève bên Thụy Sĩ, và thuộc nhiều hệ phái Kitô.

Trong bài giảng, ĐTC khẳng định rằng để đáp lại lời mời gọi hòa giải của Chúa, các tín hữu Kitô thuộc các hệ phái phải sẵn sàng chấp nhận hy sinh. Ngài nói: ”Đối với Giáo hội, đối với mỗi hệ phái Kitô, lời mời gọi hòa giải là một lời mời đừng dựa trên các chương trình, các tính toán và lợi lộc của mình, không tín thác nơi cơ may, và những thời trang nhất thời, nhưng tìm kiếm con đường, bằng cách luôn nhìn lên thập giá của Chúa: nơi đó chính là chương trình sống của chúng ta. Đó là một lời mời gọi hãy ra khỏi sự cô lập của mình, vượt thắng cám dỗ tự tham chiếu cản trở chúng ta đón nhận điều mà Chúa Thánh Linh đang hoạt động bên ngoài không gian của mình. Một sự hòa giải đích thực giữa các tín hữu Kitô chỉ có thể thực hiện được khi chúng ta biết nhìn nhận những hồng ân của nhau và có khả năng khiêm tốn và ngoan ngoãn học hỏi nhau, mà không đợi người khác học nơi chúng ta trước”.

ĐTC cũng nhắc đến kỷ niệm 500 năm cuộc cải cách của tin lành. Ngài nói: ”Sự kiện ngày nay các tín hữu Công Giáo và Luther có thể cùng nhau tưởng niệm một biến cố đã gây chia rẽ giữa các Kitô hữu và làm điều đó trong niềm hy vọng, nhấn mạnh đến Chúa Giêsu và công trình hòa giải của Chúa, đó là một thành tựu đáng kể, đạt đến được nhờ Chúa và lời cầu nguyện qua 50 năm nhận biết nhau và đối thoại đại kết”.

Đức Hồng Y Kurt Koch

Cuối kinh chiều, ĐHY Kurt Koch, người Thụy Sĩ, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh hiệp nhất các tín hữu Kitô, đã đại diện mọi người hiện diện cám ơn ĐTC đã đến chủ sự Kinh Chiều này và nhắc đến buổi tưởng niệm cuộc cải cách của Luther mà ĐTC đã cùng với Đức GM Tin Lành Younan cử hành và đã ký tuyên ngôn chung ở Lund, bên Thụy Điển ngày 31-10-2016, trong đó có những lời này: ”Trong khi chúng tôi biết ơn sâu xa vì những hồn ân thiêng liêng và thần học đã nhận lãnh qua cuộc Cải Cách, chúng tôi tuyên xưng và đau buồn trước Chúa Kitô về sự kiện các tín hữu Luther và Công Giáo đã làm tổn tương sự hiệp nhất hữu hình của Giáo Hội”. (SD 25-1-2017)

G. Trần Đức Anh OP 

Phụ nữ cần được trợ giúp y khoa chứ không cần “phá thai an toàn”

Phụ nữ cần được trợ giúp y khoa chứ không cần “phá thai an toàn”

New Delhi – Giáo hội Công giáo tại Ấn độ khẳng định rằng các phụ nữ cần được trợ giúp y khoa chứ không cần “phá thai an toàn”. Nữ tu Julie George thuộc dòng Chúa Thánh Thần đã nói với hãng tin Á châu như thế.

Chị Julie George là giám đốc của hội “Tiếng nói phụ nữ”, một tổ chức đấu tranh để củng cố vị trí của phụ nữ trên thế giới, tham dự vào tranh luận về phá thai ở Ấn độ. Chị Julie cho biết là các vụ phá thai bất hợp pháp “là một trong yếu tố nguy hiểm cho phụ nữ, thường chết ở độ tuổi còn trẻ. Sự thiếu kiến thức và việc sử dụng các cách thức dễ dàng như uống thuốc và các phương thức tại gia dẫn đến những biến chứng nghiêm trọng. Chính quyền phải bảo đảm việc được chăm sóc tốt hơn, đăc biệt là đối với các phụ nữ sống ở những vùng nông thôn.”

Nữ tu Talisha Nadukudiyil, thư ký điều hành của Ủy ban Phụ nữ của hội đồng Giám mục Ấn độ nói thêm rằng chúng ta là người Công giáo, chống lại phá thai, làm sao chúng ta có thể không nói về việc phá thai không an toàn. Chị cũng nhấn mạnh lời của Đức Giáo hoàng Phanxicô trong thông điệp Laudato sì (số 10): “Nếu chúng ta đáng mất cảm tính cá nhân và xã hội về việc tiếp nhận một sự sống mới, thì ngay cả những hình thức tiếp nhận có ích khác đối với cuộc sống xã hội cũng trở nên cằn cỗi.” Chị đặt câu hỏi: “Làm sao chúng ta có thể phớt lờ tiếng kêu khóc của thai nhi máu thịt của chính mình mà có thể lắng nghe tiếng kêu của người lân cận? Chúng ta có bao giờ có thể mong đợi trong một tình huống tương tự như vậy những tội ác chống lại những người dễ bị tổn thương sẽ giảm bớt?”

Theo thống kê, mỗi ngày có 10 phụ nữ ở Ấn độ bị chết vì phá thai bất hợp pháp và mỗi năm số phá thai lên đến khoảng 7 triệu. Theo các nghiên cứu cũng cho thấy số các bà mẹ chết vì phá thai chiếm 1/3 số các bà mẹ qua đời.

Nữ bác sĩ Astrid Lobo Gajiwala, một thần học gia Công giáo cho biết các cuộc phá thai trong điều kiện không an toàn là một quan tâm bức xúc dù là luật pháp tự do. Ngoài ra xu hướng thiển cận xem việc có thể phá thai an toàn là giải pháp chính cho vấn đề. Bà nói: “Nếu một đàng buộc phải bảo đảm việc phá thai cách an toàn và gia tăng các thông tin về các cơ sở y tế, thì tốt hơn nên nhớ rằng ngay cả những điều kiên tốt hơn cũng có thể có nguy cơ biến chứng và tạo nên vô sinh và thương tổn tâm lý.” (Asia News 26/07/2017)

Hồng Thủy

 

Thiên Chúa cứu thoát chúng ta trong cách thế của Ngài

Thiên Chúa cứu thoát chúng ta trong cách thế của Ngài

Cũng giống như bà Giuđitha chúng ta đừng bao giờ đặt các điều kiện cho Thiên Chúa, nhưng hãy để cho niềm hy vọng chiến thắng các sợ hãi của chúng ta. Tín thác nơi Thiên Chúa có nghĩa là bước vào trong các chương trình của Ngài mà không yêu sách, và cả chấp nhận rằng ơn cứu độ và sự trợ giúp của Chúa đến với chúng ta trong cách thức khác với các chờ mong của chúng ta.

ĐTC Phanxicô đã nói như trên với 8.000 tín hữu và du khách hành hương tham dự buổi gặp gỡ chung hàng tuần sáng thứ tư trong đại thính đường Phaolô VI.

Trong bài huấn dụ ĐTC đã nhắc tới bà Giuđitha, một nữ anh hùng vĩ đại giữa các gương mặt phụ nữ nổi bật của lịch sử dân Do thái. Sách Giuđitha kể lại cuộc chinh phục quân sự của vua Nabucodonosor cai trị Ninive, trải rộng biên giới của đế quốc bằng cách chiến thắng và bắt các dân tộc chung quanh thần phục mình. Người đọc hiểu ngay rằng mình đang đứng trước một kẻ thù lớn không thể chiến thắng được, đang gieo vãi chết chóc tàn phá, đang đi cho tới Đất Hứa, và khiến cho cuộc sống của con cái Israel gặp hiểm nguy.

Thật thế, dưới sự lãnh đạo của tướng Hôlôphécnê, đạo binh của vua Nabucodonosor đang bao vây một thành phó vùng Giudea là Betula, bằng cách cắt đứt việc tiếp tế nước, và làm suy yếu sự kháng cự của dân. ĐTC cho thấy thảm cảnh của dân thành Betulia như sau:

Tình hình thê thảm đến độ dân thành xin với các kỳ mục đầu hàng quân địch. Các lời của họ tuyệt vọng: “Vì thế, giờ đây chẳng có ai đến cứu giúp chúng tôi. Trái lại, Thiên Chúa đã bán đứng chúng tôi vào tay chúng, khiến chúng tôi phải phơi xác trước mặt chúng, phải chết khát và bị tận diệt.” Họ đi đến chỗ nói điều này: “Thiên Chúa đã bán đứt chúng ta rồi”; Nỗi tuyệt vọng nơi dân chúng rất lớn. Họ nói với các thủ lãnh: “Vậy các ông hãy gọi ngay chúng lại và trao nộp thành cho dân của Hô-lô-phéc-nê và cho toàn thể đạo quân của ông tha hồ cướp phá” (Gđ 7,25-26). Kết cục xem ra không thế tránh được, khả năng tín thác nơi Thiên Chúa đã cạn kiệt. Khả năng tín thác nơi Thiên  Chúa đã cạn kiệt. Và biết bao lần chúng ta đi tới các tình trạng tận cùng trong đó chúng ta cũng không còn cảm thấy khả năng tin tưởng nơi Chúa nữa. Đây là một cám dỗ xấu! Và một cách mâu thuẫn, xem ra là để thoát chết, chỉ còn cách tự nộp mình vào tay kẻ giết mình. Họ biết rằng các binh sĩ này sẽ vào cướp bóc thành phố, để bắt các phụ nữ làm nô lệ, và giết chết tất cả mọi người khác. Đây chính là “sự tận cùng”.

** ĐTC nói tiếp trong bài huấn dụ: Và trước biết bao tuyệt vọng như thế, thủ lãnh dân thử đề nghị một yểm trợ hy vọng: kháng cự trong vòng 5 ngày nữa, và chờ đợi sự can thiệp cứu rỗi của Thiên Chúa. Nhưng đó là một hy vọng yêu ớt, khiến cho ông kết luận rằng: “Nếu những ngày ấy trôi qua mà chẳng ai đến cứu giúp, tôi sẽ làm theo lời anh em” ( Gđt 7,31). Tội nghiệp cho con người: không có lối thoát. Năm ngày được cho Chúa để can thiệp; và tội lỗi chính là đây; năm ngày được dành cho Thiên Chúa để can thiệp, năm ngày chờ đợi, nhưng với viễn tượng của cái chết. Họ cho Chúa năm ngày để cứu họ, nhưng họ biết họ không tin tưởng, họ chờ đợi điều tồi tệ nhất. Trên thực tế, không còn ai nữa trong dân còn có khả năng hy vọng. Họ đã tuyệt vọng.

Chính trong tình trạng như thế bà Giuđitha xuất hiện trên sân khấu. Là một phụ nữ goá bụa rất xinh đẹp và khôn ngoan bà ngỏ lời  với dân chúng trong ngôn ngữ của lòng tin. Bà can đảm quở trách dân chúng thẳng mặt và nói: “Các vị muốn thử thách Thiên Chúa toàn năng… Quả thật, đối với các vị, tâm khảm con người đã khôn dò, suy tưởng con người đã khôn thấu, thì làm sao các vị có thể hiểu được Thiên Chúa, Đấng làm nên mọi sự, làm sao hiểu được tư tưởng và thấu suốt được dự tính của Người? Không, nhất định không, thưa anh em, đừng chọc giận Chúa, Thiên Chúa chúng ta. Giả như trong năm ngày ấy, Người không muốn cứu giúp chúng ta, thì vào những ngày Người muốn, Người vẫn thừa sức bảo vệ chúng ta hoặc tiêu diệt chúng ta trước mặt kẻ thù… Vì thế, một khi chúng ta kiên nhẫn đợi chờ Người cứu độ và kêu cầu Người đến cứu giúp, Người sẽ đoái nghe lời chúng ta, nếu điều ấy đẹp lòng Người” (Gđt 8,13.14-15.17). Đó là ngôn ngữ của niềm hy vọng. Chúng ta hãy gõ cửa con tim Thiên Chúa. Ngài là Cha, Ngài có thể cứu thoát chúng ta. Người phụ nữ goá bụa này cũng có nguy cơ bị xấu mặt trước những người khác! Nhưng bà can đảm! Bà tiến tới! Đây là một ý kiến của tôi: các phụ nữ can đảm hơn nam giới – Tín hữu vỗ tay tán đồng.

Và với sức mạnh của một ngôn sứ bà Giuđitha kêu gọi mọi người trong dân để đưa họ trở lại với lòng tin tưởng nơi Thiên  Chúa; với cái nhìn của một ngôn sứ bà trông thấy xa hơn chân trời chật hẹp của các thủ lãnh và sự sợ hãi còn khiến cho nó hẹp hơn nữa. Bà khẳng định: chắc chắn Thiên Chúa sẽ hành động, trong khi đề nghị chờ đợi năm ngày là một kiểu để thử thách Ngài và để tránh ý muốn của Ngài. Chúa là Thiên Chúa của việc cứu độ – và bà tin vào điều đó – bất kỳ nó xảy ra trong hình thức nào. Là ơn cứu độ giải thoát khỏi thù địch và làm cho sống, nhưng trong các chương trình khôn dò của Ngài, có thể là cứu độ cả việc nộp mình cho cái chết. Là phụ nữ của đức tin, bà biết điều đó. Thế rồi chúng ta biết kết cục, như câu chuyện kết thúc: Thiên Chúa cứu. ĐTC nói thêm trong bài huấn dụ:

** Anh chị em thân mến,  chúng ta đừng bao giờ đặt các điều kiện cho Thiên Chúa, nhưng hãy để cho niềm hy vọng chiến thắng các sợ hãi của chúng ta. Tín thác nơi Thiên Chúa có nghĩa là bước vào trong các chương trình của Ngài mà không yêu sách, và cả chấp nhận rằng ơn cứu độ và sự trợ giúp của Chúa đến với chúng ta trong cách thức khác với các chờ mong của chúng ta. Chúng ta xin Chúa sự sống, sức khoẻ, tình thương mến, hạnh phúc. Và thật đúng đắn làm điều ấy, nhưng trong ý thức rằng Thiên Chúa biết rút ra sự sống từ cả cái chết, rằng chúng ta có thể sống kinh nghiệm sự bình an cả trong bệnh tật, và rằng có thể thanh thản cả trong cô đơn, và hạnh phúc cả trong khóc lóc. Không phải chúng ta có thể dậy cho Thiên Chúa điều Ngài phải làm, điều chúng ta cần. Ngài biết hơn chúng ta và chúng ta phải tín thác, bởi vì các con đường và các tư tưởng của Ngài khác với các con đường và các tư tưởng của chúng ta.

Con đường của bà Giuđitha chỉ cho chúng ta là con đường của sự tin tưởng, của việc chờ đợi trong an bình, của lời cầu nguyện và của sự vâng phục. Đó là con đường của niềm hy vọng. Không có các chịu trận dễ dàng, bằng cách làm tất cả những gì trong các khả năng của chúng ta, nhưng luôn luôn ở lại trong luống cầy ý muốn của Chúa. Và tại sao chúng ta biết?:  bà đã cầu nguyện biết bao, bà đã nói với dân biết bao và rồi, can đảm và ra đi, bà đã tìm cách tới gần tướng chỉ huy đạo binh, và thành công trong việc chặt đầu ông ta. Bà can đảm trong đức tin và trong các hoạt động. Và bà luôn luôn kiếm tìm Chúa! Thật vậy bà Giuđitha có một chương trình của bà, bà hoàn thành nó một cách thành công, và đưa dân tới chiến thắng, nhưng luôn luôn trong thái độ của đức tin của người chấp nhận tất cả từ tay Thiên Chúa, chắc chắn về lòng lành của Ngài.

Như vậy, một phụ nữ đầy lòng tin và can đảm sẽ trao ban trở lại cho dân chúng đang gặp nguy hiểm chết chóc sức mạnh và dẫn họ đi trên các nẻo đường của niềm hy vọng, bằng cách chỉ chúng cho cả chúng ta nữa. Và chúng ta, nếu chúng ta có một chút ký ức: có biết bao lần chúng ta đã nghe các lời khôn ngoan, can đảm, từ những người khiêm tốn, từ những phụ nữ khiêm tốn mà một người nghĩ rằng – tuy không khinh rẻ họ – là những người dốt nát… Nhưng đó là các lời của sự khôn ngoan của Thiên Chúa! Các lời nói của các bà nội bà ngoại. Có biết bao lần các bà nội bà ngoại biết nói lời đúng đắn, lời của niềm hy vọng, bởi vì các ngài có kinh nghiệm cuộc sống, đã đau khổ nhiều, các ngài đã tín thác nơi Thiên Chúa, và Chúa ban ơn này để các ngài cho lời khuyên hy vọng.

Và khi bước đi trên các con đường ấy sẽ là niềm vui và ánh sáng phục sinh tín thác nơi Chúa với các lời của Chúa Giêsu: “Lậy Cha, nếu Cha muốn, xin hãy cho chén này xa con. Nhưng không phải theo ý con mà theo ý Cha” (Lc 22,42). Và đó là lời cầu nguyện của sự khôn ngoan, tin tưởng và niềm hy vọng

** ĐTC đã chào các tín hữu nói tiếng Pháp, đặc biệt tín hữu giáo phận Arras. Ngài nói: hôm nay chúng ta kính nhớ lễ thánh Phaolô hoán cải.Thánh nhân mời gọi chúng ta để cho Chúa Thánh Thấn hướng dẫn. Xin thánh nhân giúp chúng ta lớn lên trong sự tin tưởng nơi sự Quan phòng của Thiên Chúa và trở thành các chứng nhân của niềm hy vọng.

Chào các đoàn hành hương nói tiếng Anh đến từ Hoa Kỳ, trong bối cảnh của tuần cầu nguyện cho sự hiệp nhất các kitô hữu ngài đặc biệt chào các sinh viên của học viện đại kết Bossey và ca đoàn đan viện Westminster Anh quốc, và cám ơn lời ca tiếng hát của họ. Ngài xin Thiên  Chúa ban chọ họ và gia đình họ niềm vui và sự an bình.

Với các nhóm nói tiếng Đức ĐTC nói bà Giuđitha là phụ nữ của niềm tin và lòng can đảm được công bố là “có phúc trước mặt Thiên Chúa hơn mọi phụ nữ” (Gđt 13,18). Bà nhắc nhớ Trinh nữ diễm phúc Maria, Mẹ Chúa Kitô và mẹ của niềm hy vọng. Nơi Mẹ chúng ta hãy học bước đi trên các nẻo đường hy vọng và tín thác nơi Chúa là Đấng dẫn chúng ta từ bóng tối tới sự sáng phục sinh.

Chào các nhóm nói tiếng Bồ Đào Nha, đặc biệt là các tín hữu Brasil, ngài nói nếu họ biết hát bài thánh ca chúc tụng Đức Bà Aparecida thì có thể hát. Tôi mời gọi anh chị em trung thành với Chúa Giêsu Kitô. Chúa thách đố chúng ta ra khỏi thế giới bé nhỏ chật hẹp của mình để tiến tới Nước của Thiên Chúa và của sự tụ do đích thực. Xin Chúa Thánh Thần soi sáng anh chị em để anh chị em đem phúc lành của Thiên Chúa đến cho mọi người.

ĐTC cũng chào các nhóm nói tiếng Ý, đặc biệt các bề trên tỉnh dòng Anh em hèn mọn, hiệp hội cảnh sát Caserta, và huynh đoàn thánh Stefano Rieti. Ngài khích lệ mọi người trung thành với Chúa Kitô để niềm vui Phúc Âm có thể rạng ngời trong xã  hội.

Chào các bạn trẻ, người đau yếu và các đôi tân hôn ngài nhắc tới lễ kính thánh Phaolô trở lại. Ước chi gương mặt của thánh nhân trở thành mẫu gương cuộc sống môn đệ cho các bạn trẻ. ĐTC mời gọi các bệnh nhân dâng hy sinh khổ đau cầu nguyện cho sự hiệp nhất giữa các tín hữu kitô. Ngài nhắn nhủ các đôi tân hôn noi gương thánh nhân dành chỗ nhất cho Thiên Chúa và cho tình yêu trong cuộc sống gia đình.

Buổi tiếp kiến đã kết thúc với Kinh Lạy Cha và phép lành toà thánh ĐTC ban cho mọi người

Linh Tiến Khải

Sứ điệp Đức Thánh Cha nhân ngày Thế giới Truyền thông thứ 51

Sứ điệp Đức Thánh Cha nhân ngày Thế giới Truyền thông thứ 51

VATICAN. Trong sứ điệp nhân Ngày Thế Giới truyền thông công bố hôm 24-1-2017, ĐTC kêu gọi nhìn thực tại trong nhãn giới Tin Mừng và truyền thông trong niềm hy vọng.

Ngày Thế giới truyền thông lần thứ 51 sẽ được cử hành vào chúa nhật 28-5-2017 với chủ đề ”Đừng sợ, vì Ta ở với con” (Is 43,5). Thông truyền hy vọng và tín thác trong thời đại ngày nay”.

Trong sứ điệp, ĐTC nhận xét rằng nhờ tiến bộ kỹ thuật, rất nhiều người ngày nay có thể đồng thời nhận được và phổ biến sâu rộng các tin tức, những tin lành hoặc những tin dữ, tin thật hoặc tin giả. Tâm trí con người giống như cối xay nước, có thể xay các tin tức như các hạt thành bột làm bánh ngon, hoặc xay những cỏ lùng, cỏ dại.

Ngài viết: ”Tôi muốn sứ điệp này có thể đi tới và khích lệ tất cả những người trong lãnh vực nghề nghiệp cũng như trong các tương quan giữa con người với nhau, mỗi ngày có thể ”xay” bao nhiêu thông tin để tạo nên bánh thơm ngon cho những người nuôi dưỡng mình bằng thông tin. Tôi muốn nhắn nhủ tất cả hãy thực hiện một hoạt động truyền thông xây dựng, từ khước những thành kiến đối với nhau, cổ võ một nền văn hóa gặp gỡ, nhờ đó họ có thể học cách nhìn thực tại với niềm tin tưởng đầy ý thức”.

ĐTC kêu gọi hãy phá vỡ cái vòng lẩn quẩn lo âu và chặn đứng cái vòng sợ hãi, kết quả của thói quen chỉ tập trung sự chú ý với những ”tin dữ” như chiến tranh, khủng bố, gương xấu và mọi thứ thất bại trong cuộc sống con người”.

Với ý hướng đó, ĐTC cổ võ nhìn thực tại và những biến cố dưới ánh sáng Tin Mừng, như đeo một ”đôi kiếng” thích hợp để nhìn thực tại từ Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô, với niềm xác tín: Thiên Chúa liên đới với con người trong mọi hoàn cảnh, tỏ cho chúng ta thấy chúng ta không đơn độc, vì chúng ta có một Người Cha không bao giờ quên con cái mình. ”Đừng sợ, vì Ta ở với con” (Is 43,5).. Nơi Chúa, cả tăm tối và chết chóc cũng trở thành nơi hiệp thông với Ánh sáng và Sự sống. Từ đó nảy sinh một niềm hy vọng ai cũng có thể đạt tới, chính tại nơi mà cuộc sống gặp phải sự cay đắng vì thất bại”. ĐTC viết:

”Nước Thiên Chúa đã ở giữa chúng ta, như một hạt giống ẩn giấu đối với cái nhìn hời hợt và sự tăng trưởng của hạt giống đó diễn ra trong thầm lặng. Ai có đôi mắt được Thánh Linh làm cho trong sáng, thì thấy được hạt giống ấy nầm, và không để cho mình bị cướp mất niềm vui của Nước Trời vì những cỏ lùng cỏ dại luôn hiện diện”.

ĐTC xác quyết rằng ”niềm tín thác ấy làm cho chúng ta có khả năng hành động – trong nhiều hình thức truyền thông – với xác tín rằng có thể nhận thấy và soi sáng tin vui hiện diện trong thực tại của mỗi lịch sử và nơi khuôn mặt của mỗi người”.

”Ai tin tưởng, để cho mình được Thánh Linh hướng dẫn, thì có khả năng phân định trong mỗi biến cố điều xảy ra giữa Thiên Chúa và nhân lại, nhìn nhận chính Chúa đang dệt nên lịch sử cứu độ trong bối cảnh bi thảm của thế giới này” (SD 24-1-2017)

G. Trần Đức Anh

Đức Thánh Cha kêu gọi chống buôn lậu di dân và buôn người

Đức Thánh Cha kêu gọi chống buôn lậu di dân và buôn người

VATICAN. ĐTC kêu gọi các giới chức an ninh Italia chống nạn buôn người và nạn buôn lậu người di dân.

Ngài đưa ra lời kêu gọi trên đây trong buổi tiếp kiến sáng ngày 23-1-2017 dành cơ quan lãnh đạo toàn quốc Italia chống nạn mafia và chống khủng bố.

Lên tiếng trong buổi tiếp kiến, ĐTC ca ngợi công việc quan trọng của cơ quan này và nói rằng: ”Xã hội cần được chữa trị khỏi nạn tham nhũng, tống tiền, buôn bán ma túy và võ khí bất hợp pháp, cũng như khỏi nạn buôn người, trong đó có các trẻ em bị biến thành nô lệ. Đó thực là những tai ương xã hội, đồng thời cũng là những thách đố hoàn cầu mà cộng đồng quốc tế được kêu gọi quyết liệt đương đầu”.

”Tôi khuyên anh chị em đặc biệt dành mọi nỗ lực để chống lại nạn buôn người và buôn lậu di dân: đây là những tội ác rất trầm trọng đánh vào những người yếu thế nhất trong những người yếu. Về vấn đề này, cần gia tăng hoạt động bảo vệ các nạn nhân, dự trù trợ giúp pháp luật và xã hội cho các anh chị em chúng ta đang tìm kiến an bình và tương lai. Bao nhiều người rời bỏ quê hương để trốn chạy chiến tranh, bạo lực và bách hại, họ có quyền tìm được một sự tiếp đón thích hợp và một sự bảo vệ thích đáng nơi những quốc gia tự định nghĩa là văn minh”.

ĐTC không quên đề cao vai trò quan trọng của việc giáo dục các thế hệ trẻ trong nỗ lực chống lại nạn mafia. Để đạt tới mục tiêu này, các tổ chức giáo dục khác nhau, trong đó có các gia đình, học đường, các cộng đoàn Kitô, các tổ chức thể thao và văn hóa, được kêu gọi giúp dân chúng và con người ý thức về luân lý đạo đức và luật pháp, nhắm đến những mẫu gương cuộc sống lương thiện, an bình, liên đới, dần dần giúp chiến thắng sự ác và dọn đường cho sự thiện” (SD 23-1-2017)

G. Trần Đức Anh OP

Tân Bề trên Giám hạt tòng nhân Opus Dei

Tân Bề trên Giám hạt tòng nhân Opus Dei

ROMA. Đức Ông Fernando Ocáriz người Tây Ban Nha đã được bầu làm tên Bề trên Giám hạt tòng nhân Opus Dei.

Đức Ông Ocáriz đã được Tổng Hội của Giám hạt nhóm tại Roma bầu lên và được ĐTC phê chuẩn chiều tối ngày 23-1-2017, và trở thành người kế nhiệm thứ ba của vị sáng lập là thánh Josémaría Esquivá de Balaguer, thay thế Đức Cha Javier Echevarría qua đời ngày 12-12 năm 2016.

Đức ông Ocáriz năm nay 73 tuổi, sinh năm 1944 tại Paris trong một gia đình Tây Ban Nha lưu vong sang Pháp thời nội chiến 1936-1939 và là con út trong số 8 người con. Ngài tốt nghiệp vật lý học tại Đại học Barcelona năm 1966, rồi đậu cao học thần học tại Đại học Giáo hoàng Laterano ở Roma, sau đó đậu tiến sĩ tại Đại học Navarra của giám hạt tòng nhân Opus Dei. Sau khi thụ phong linh mục, cha Ocáriz làm việc mục vụ với giới trẻ và sinh viên đại học. Trong thập niên 1980, cha là một trong những giáo sư khởi xướng Đại học Thánh Giá của Opus Dei ở Roma và giảng dạy môn thần học cơ bản tại đây.

Năm 1994 Đức Ông Ocáriz được bổ nhiệm làm Tổng đại diện của Giám hạt Opus Dei và 10 năm sau, 2014, làm Đại diện phụ tá của Bề trên Giám hạt. Trong những ngày tới đây, ngài sẽ chọn các vị đại diện và thành viên hội đồng theo đề nghị của Tổng Hội với nhiệm kỳ 8 năm.

Theo niên giám năm 2016 của Tòa Thánh, Giám hạt tòng nhân Opus Dei, phần nào giống như một giáo phận không biên giới, hiện có 2094 Linh mục với 1797 nhà thờ và trung tâm mục vụ, 300 chủng sinh và gần 92 ngàn giáo dân (SD 24-1-2017)

G. Trần Đức Anh OP 

Dù giận Thiên Chúa nhưng vẫn cầu nguyện

Dù giận Thiên Chúa nhưng vẫn cầu nguyện

Làm theo ý muốn của Thiên Chúa không có nghĩa là chúng ta không càm ràm hoặc giận Ngài, điều quan trọng là chúng ta phải sống thực – không giả dối, và rồi cuối cùng chúng ta thưa với Chúa: “Này con đây!”. Đức Thánh Cha chia sẻ như thế trong thánh lễ sáng nay tại nhà nguyện Marta.

Câu chuyện của lời thân thưa “Này con đây!”

Theo bài đọc trích thư gửi tín hữu Do thái, khi đến thế gian, Chúa Kitô nói: “Lạy Cha, của lễ hy tế, của lễ hiến dâng, của lễ toàn thiêu và của lễ đền tội, Ngài không muốn. Thì này con đây, con đến để thi hành thánh ý Cha”. Lịch sử cứu độ chính là câu chuyện về lời thưa “Này con đây!”. Sau khi Adam lẩn trốn vì sợ hãi Thiên Chúa, Chúa đã bắt đầu gọi mời và lắng nghe những lời đáp lại “Này con đây! Con sẵn lòng. Con sẵn sàng.” Những lời ấy được vang lên trong dòng lịch sử qua lời thưa của Abraham, của Mose, Elia, Isaia, Gieremia, cho tới lời thưa xin vâng tuyệt hảo của Mẹ Maria, và chóp đỉnh là lời thưa xin vâng của chính Chúa Giêsu. Lịch sử của lời thưa “Này con đây!” không phải theo kiểu tự động, bởi vì Thiên Chúa ngỏ lời với những ai Ngài mời gọi.

Thiên Chúa luôn luôn trong cuộc đối thoại với những ai mà Ngài ngỏ lời trên con đường này, con đường của tiếng thưa “Này con đây!”. Thiên Chúa hết sức kiên nhẫn. Khi đọc sách ông Gióp, chúng ta thấy tất cả những lời than vãn, những điều không hiểu, những phản ứng, và Chúa đã nói với ông, Chúa sửa đổi tâm hồn ông… và cuối cùng, ông thú nhận: “Vâng. Lạy Chúa, Chúa thật phải lẽ. Lâu nay con chỉ biết Chúa dựa vào những tiếng đồn thổi. Giờ đây mắt con đã nhìn thấy Ngài”. Đó là lời thưa xin vâng, và đời sống Kitô hữu là thế, là thân thưa: Này con đây, con đến để thực thi ý Chúa. Hết lần này đến lần khác… Thật là tuyệt khi đọc Kinh Thánh, vì ở đó chúng ta tìm thấy những lời thân thưa của dân đối với Chúa, đó là những câu trả lời và điều ấy quá đẹp: “Này con đây, con đến để làm theo ý Ngài”.

Đừng bao giờ sống giả vờ trước Thiên Chúa

Làm thế nào để tôi có thể thưa lên lời xin vâng “Này con đây!” đối với Thiên Chúa? Có lẽ tôi giống như Adam, tức là chạy trốn, ẩn núp và không đáp lại. Hoặc là khi Chúa gọi tôi, thay vì thưa lên “Này con đây!” thì tôi lại nói “Chúa muốn gì ở con chứ?”. Hoặc là tôi trốn chạy giống như Giona, ông không muốn làm điều Chúa nói với ông. Hoặc là tôi chỉ giả bộ làm theo ý Chúa, tức là chỉ sống kiểu bề ngoài thôi, giống như các kinh sư và luật sĩ, và Chúa Giêsu đã mắng cho những người như thế là kẻ đạo đức giả. Hoặc là chúng ta sống kiểu “”chọn đường khác mà đi” giống như các thầy Levi và thầy tư tế trong câu chuyện người Samari nhân hậu. Vì thầy Levi và thầy tư tế trong câu chuyện ấy đã bỏ mặc nạn nhân nửa sống nửa chết trên đường, và tránh qua một bên mà đi. Chúng ta đáp lại Thiên Chúa trong cách thức nào?

Dù giận Thiên Chúa thì hãy cứ cầu nguyện

Thiên Chúa thích nói chuyện với chúng ta. Một số người nói với tôi rằng: “Nhưng thưa Cha, nhiều lần khi con đi cầu nguyện, con tức giận với Chúa…” Tôi đáp lại: Đúng thế, nhưng hãy cứ tiếp tục cầu nguyện! Thiên Chúa thích những điều ấy, ngay cả khi bạn giận Ngài, và Ngài sẽ nói về những gì mà bạn đang cảm nhận, được diễn tả trên gương mặt bạn. Ngài yêu mến bạn bởi vì Ngài là Người Cha. Còn bạn, bạn sẽ thân thưa “Này con đây!” Hay là bạn ẩn núp? Hoặc là chạy trốn? Hoặc là sống giả vờ? Hoặc là chọn con đường khác? Mỗi người chúng ta có thể tự đưa ra câu trả lời. Nguyện xin Chúa Thánh Thần thương ban ân sủng để chúng ta tìm thấy lời đáp của chính mình.

Tứ Quyết SJ

Trang web mới của viện bảo tàng Vatican

Trang web mới của viện bảo tàng Vatican

Vatican – Với nỗ lực chia sẻ những tác phẩm quý giá của mình cho nhiều người trên thế giới hơn, viện bảo tàng Vatican đã thành lập một kênh YouTube và đổi mới trang web để đăng tải các hình ảnh có độ phân giải cao và các thông tin thích hợp với điện thoại di động.

Kênh YouTube của viện bảo tàng Vatican có những tour giới thiệu ngắn về các bộ sưu tập cùng với các video quảng cáo về các tour thích hợp và các dịch vụ có trên trang web, bao gồm đăng ký hướng dẫn cho người khiếm thính.

Trang web museivaticani.va của viện bảo tàng cũng được đổi mới để thích hợp với các nền tảng ứng dụng và các dụng cụ để có thể tiếp cận tới ngay cả những vùng xa xôi trên trái đất.

Trang web được trình bày bằng 5 ngôn ngữ với thiết kế đẹp hơn, văn bản đơn giản hơn và truy cập nhanh hơn.Các đường dẫn (link) đến các trang có thể được chia sẻ qua Twitter, Facebook hay email. Trang web cung cấp thông tin về việc đăng ký thăm và mua vé vào viện bảo tàng, vườn Vatican, khu nghĩa địa cổ "Via Triumphalis" bên dưới đồi Vatican và các dinh thự Giáo hoàng ở Castel Gandolfo, ở miền nam Roma.

Hiện tại trang web trưng bày khoảng 3000 photo có độ phân giải cao của các tác phẩm trong các bộ sưu tập của bảo tàng. Bà Barbara Jatta, tân giám đốc của viện bảo tàng cho biết, kế hoạch lý tưởng là, trong một năm sẽ có thêm các  tấm hình của tất cả 20 ngàn vật thể đang được trưng bày cho công chúng và sau đó sẽ tiếp tục với photo của hơn 200 ngàn tác phẩm nghệ thuật được lưu giữ trong kho.

Trang web cũng cho phép công chúng tham khảo và tìm kiếm một mục lục online của một số bức họa, tượng điêu khắc và các tác phẩm nghệ thuật khác của viện bảo tàng. Bà cũng cho biết là viện bảo tàng đã có đăng ký tất cả tác phẩm của họ nhưng việc đưa mọi thứ vào cơ sở dữ liệu vẫn đang được thực hiện. (CNS 23/01/2017)

Hồng Thủy

 

Báo El País, Tây Ban Nha, phỏng vấn Đức Thánh Cha

Báo El País, Tây Ban Nha, phỏng vấn Đức Thánh Cha

VATICAN. ĐTC kêu gọi đừng phán đoán về tân tổng thống Mỹ và hãy đợi xem những gì xảy ra. Ngài cũng cho biết sẽ sẵn sàng viếng thăm Trung Quốc nếu được mời.

ĐTC cho biết như trên trong cuộc phỏng vấn dài dành cho tờ El País là nhật báo có số ấn hành lớn nhất tại Tây Ban Nha.

Được hỏi nhận xét về tổng thống Donald Trump, ĐTC nói: ”Hãy đợi xem điều gì xảy ra. Tôi không kinh hãi hoặc vui mừng vì những gì có thể xảy ra, vì tôi nghĩ chúng ta có nguy cơ lâm vào thái độ thiếu khôn ngoan. Không nên làm tiên tri về những tai ương hoặc những điều tốt lành sẽ xảy ra. Chúng ta hãy xem điều gì ông sẽ làm rồi sẽ thẩm định. Luôn luôn cần cụ thể. Kitô giáo là điều cụ thể, nếu không thì chẳng là Kitô giáo…

Về hoạt động ngoại giao của Tòa Thánh đối với Trung Quốc, ĐTC cho biết có một Ủy ban Tòa Thánh từ nhiều năm nay đã và đang làm việc với Trung Quốc, cứ 3 tháng nhóm họp một lần, khi thì tại Vatican khi thì tại Bắc Kinh. Có nhiều đối thoại với Trung Quốc. Trung quốc vẫn có cái hào quang huyền bí thu hút. Cách đây hai ba tháng có cuộc triển lãm của Bảo tàng viện Vatican ở Bắc Kinh, và họ vui mừng về điều đó. Và họ cũng sẽ triển lãm các đồ nghệ thuật Trung Quốc tại Vatican.

Trước câu hỏi: 'Ngài có sẵn sàng đi Trung Quốc hay không?', ĐTC đáp: ”Có, khi nào họ mời tôi. Họ biết điều đó. Ngoài ra, tại Trung Quốc, các thánh đường đầy tín hữu. Người ta có thể hành đạo tại Trung Quốc”.

Đáp một câu hỏi khác, ĐTC nói rằng: “Bình thường trong Giáo Hội cũng có các thánh nhân và người tội lỗi, người liêm chính và người tham ô.. Tại giáo triều Roma có những người thánh thiện. Tôi thích nói điều đó. Vì người ta thường dễ dàng nói về sự tham nhũng của giáo triều Roma. Có những người thối nát, nhưng có rất nhiều người thánh thiện.. Nhiều người cả đời làm việc ở Vatican này, phục vụ dân chúng trong sự âm thầm, vô danh. Những nhân vật chính trong lịch sử Giáo Hội là các thánh, là những người tiêu hao cuộc đời mình để Tin Mừng được cụ thể, và ở đây những người cứu vãn chúng ta chính là các thánh”.

Trả lời câu hỏi về sự phê bình của những người bảo thủ coi bất kỳ thay đổi nào cũng là một sự phản bội đạo lý, ĐTC đáp: ”Tôi không thực hiện một cuộc cách mạng nào. Tôi chỉ tìm cách tiến bước với Tin Mừng.. Nhưng sự mới mẻ của Tin Mừng tạo nên sự ngạc nhiên ngỡ ngàng, vì Tin Mừng cốt yếu là cớ vấp phạm.. Tôi không cảm thấy mình không được cảm thông, được hiểu biết, nhưng được tất cả mọi loại người đồng hành, già, trẻ.. Nếu ai không đồng ý thì cứ đối thoại, chứ đừng ném đá giấu tay. Làm như thế không phải là nhân bản, nhưng là tội phạm. Tất cả đều có quyền thảo luận, thảo luận gia tăng tình huynh đệ, sự vu khống không có đặc tính đó” (El País 20-1-2017)

G. Trần Đức Anh OP 

 

Đức Thánh Cha gửi lời Chúc Tết âm lịch tới các gia đình

Đức Thánh Cha gửi lời Chúc Tết âm lịch tới các gia đình

VATICAN. Trong buổi đọc Kinh Truyền Tin với các tín hữu và du khách hành hương trưa Chúa Nhật 22.01.2017 tại quảng trường thánh Phêrô, sau khi quảng diễn sứ điệp Tin Mừng, Đức Thánh Cha đã gửi lời chúc mừng Năm Mới đến các gia đình đang chuẩn bị đón Tết âm lịch. Đức Thánh Cha nói:

Anh chị em thân mến!

Đức Thánh Cha mời gọi cầu nguyện cho sự hiệp nhất các tín hữu Kitô

Chúng ta đang trong Tuần cầu nguyện cho sự hiệp nhất Kitô. Chủ đề năm nay được lấy từ thư của Thánh Phao-lô: “Tình yêu Đức Kitô thúc bách chúng ta tiến tới sự hòa giải” (x. 2Cr 5,14). Thứ tư tới đây sẽ kết thúc Tuần cầu nguyện với việc cử hành giờ kinh chiều tại Vương Cung Thánh Đường Thánh Phaolô Ngoại thành, với sự tham dự của các anh chị em thuộc các giáo hội khác và cộng đoàn các Kitô hữu tại Roma. Cha mời gọi anh chị em hãy cầu nguyện, để thực hiện nguyện ước của Chúa Giê-su: “Để tất cả được nên một” (Ga 17,21).

Đức Thánh Cha mời gọi cầu nguyện cho các nạn nhân tại miền Trung Italia

Trong những ngày qua, các trận động đất và bão tuyết đã làm thiệt hại cho nhiều anh chị em thuộc miền Trung Italia. Cha bày tỏ sự gần gũi và cầu nguyện cho các gia đình có người bị nạn. Cha khuyến khích mọi người trong nỗ lực cứu trợ và hỗ trợ để giúp giảm bớt những khó khăn và đau khổ. Cám ơn anh chị em rất nhiều vì công việc phục vụ ấy. Cha mời mọi người cùng nhau cầu nguyện với Đức Mẹ cho các nạn nhân và cho những người đang quảng đại dấn thân trong công tác cứu trợ.

Đức Thánh Cha gửi lời Chúc Tết tới các gia đình trong dịp Tết âm lịch

Tại miền Viễn Đông và nhiều nơi trên thế giới, hàng triệu người đang chuẩn bị mừng Năm Mới âm lịch. Tôi xin gửi lời chào thân ái đến mọi gia đình, với hy vọng rằng mỗi gia đình ngày càng trở nên mái trường mà nơi đó mọi người học cách tôn trọng nhau, học cách tương quan và quan tâm chăm sóc nhau một cách vô vị lợi. Cầu chúc niềm vui của tình yêu mến chan hòa trong mỗi gia đình và tỏa lan ra toàn xã hội.

Tứ Quyết SJ

 

Đọc Kinh Truyền Tin với Đức Thánh Cha, Chúa nhật 22.01.2017: Hãy theo Tôi!

Đọc Kinh Truyền Tin với Đức Thánh Cha, Chúa nhật 22.01.2017: Hãy theo Tôi!

VATICAN. Trong buổi đọc Kinh Truyền Tin với các tín hữu và du khách hành hương trưa Chúa Nhật 22.01.2017 tại quảng trường thánh Phêrô, Đức Thánh Cha mời gọi mọi người quảng đại đáp lại tiếng gọi của Chúa Giê-su để cộng tác với Người trong sứ mạng cứu độ, nhất là đem Tin Mừng đến những vùng ngoại biên. Đức Thánh Cha nói:

Hôm nay Tin Mừng (x. Mt 4,12-23) kể lại cho chúng ta về khởi đầu việc rao giảng của Chúa Giê-su tại Ga-li-lê. Người rời khỏi ngôi làng Na-za-ret và đến ở thành Ca-phac-na-um. Đây là một thành trung tâm quan trọng thuộc miền duyên hải, là nơi sinh sống của hầu hết là người ngoại, và là điểm giao nhau giữa Địa Trung Hải và miền Lưỡng Hà. Khi Chúa chọn lựa như thế, có nghĩa là Người không chỉ rao giảng cho người đồng hương của mình, mà Người còn rao giảng cho biết bao người khác nữa tại Galilê “miền đất của dân ngoại” (x. Mt 2,15 và Is 8,23). Nếu nhìn từ thủ đô Giê-ru-sa-lem thì Galilê là vùng ngoại vi và là vùng đất người ta sống pha trộn với đầy những người ngoại đạo, những người không thuộc về dân It-ra-en. Từ Galilê người ta đã chẳng mong đợi gì nhiều từ lịch sử cứu độ. Thế mà chính từ đây lại bừng lên “ánh sáng”: ánh sáng ấy chính là Chúa Kitô. Ánh sáng ấy tỏa lan khởi đi từ vùng ngoại vi.

Sứ điệp của Chúa Giê-su chính là loan báo Nước Trời (Mt 4,17). Vương quốc này không phải là việc thiết lập một quyền lực chính trị mới, nhưng là hoàn tất giao ước giữa Thiên Chúa và dân Ngài. Đó chính là thiết lập nền hòa bình và công lý. Để thực hiện giao ước với Thiên Chúa, mọi người được mời gọi để biến đổi tâm trí và cuộc sống. Điều này rất quan trọng: biến đổi không chỉ có nghĩa là thay đổi cách sống mà còn là thay đổi cách nghĩ. Đó là cuộc biến đổi tâm trí. Đây không phải là chuyện thay đổi theo kiểu thay áo, mà là thay đổi thói quen.

Điều làm nên sự khác biệt giữa Chúa Giê-su và Gio-an Tẩy Giả chính là phong cách và phương pháp. Chúa Giê-su chọn lựa cách thế của một ngôn sứ luôn rảo bước. Chúa không chờ đợi người ta đến với mình, nhưng Chúa chủ động đến gặp họ. Chúa luôn luôn rảo bước trên những con đường. Sứ vụ đầu tiên là Chúa đi dọc theo biển hồ Ga-li-lê và tiếp xúc với dân chúng, đặc biệt là các ngư dân. Chúa không chỉ loan báo về Nước Thiên Chúa đã gần đến, mà Chúa còn đi tìm bạn đồng hành trên con đường thực thi sứ mạng cứu độ. Ở đó, Chúa đã gặp hai bộ anh em: Si-mon và An-rê, Gia-cô-bê và Gio-an. Chúa gọi các ông rằng: “Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh trở thành những kẻ lưới người như lưới cá” (Mt 4,19). Tiếng gọi đã chạm tới họ trong cái đời thường của cuộc sống: Chúa đã tỏ mình cho chúng ta không phải trong những chuyện giật gân hoặc đặc biệt nhưng chính trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta. Ở đó chúng ta tìm thấy Chúa và ở đó Chúa tỏ hiện chính Ngài cho chúng ta, và chúng ta cảm nhận được tình yêu của Ngài trong trái tim chúng ta. Ở đó có cuộc đối thoại với Chúa trong chính cuộc sống thường ngày của chúng ta. Ở đó Chúa biển đổi tâm hồn chúng ta.

Hôm ấy, bốn người ngư phủ đã đáp lại ngay lập tức và rất sẵn sàng. Tin Mừng kể lại: “Lập tức, họ bỏ chài lưới và đi theo Người” (Mt 4,20). Chúng ta biết rằng họ là các môn đệ của Gio-an Tẩy Giả và nhờ lời chứng của Gio-an mà họ bắt đầu tin rằng Chúa Giê-su là Đấng Mê-si-a (x. Ga 1,35-42).

Chúng ta, những Kitô hữu thời nay, vui mừng loan báo và làm chứng cho đức tin của chúng ta, vì đã có những người môn đệ đầu tiên ấy với đầy can đảm và khiêm tốn mà quảng đại đáp lại lời mời gọi của Chúa Giê-su. Khó mà tưởng tượng được, chính bên bờ hồ ở vùng đất Ga-li-lê mà cộng đoàn đầu tiên của các môn đệ Chúa Kitô được sinh ra. Suy tư về sự khởi đầu này sẽ truyền cảm hứng cho chúng ta trong việc đem Lời Chúa, tình yêu và sự dịu hiền của Chúa đến mọi hoàn cảnh, cho dù là khó khăn vất vả. Đó là đem Lởi Chúa đến tất cả các vùng ngoại vi! Mọi hoàn cảnh cuộc sống đều là mảnh đất để hạt giống Tin Mừng có thể gieo vãi, và để mang lại ơn cứu độ.

Xin Mẹ Maria cầu thay nguyện giúp chúng ta để chúng ta có thể đáp lại lời mời gọi của Chúa Giê-su, đó chính là dấn thân vào việc phục vụ Nước Thiên Chúa.

Tứ Quyết SJ

Đức Thánh Cha bế mạc năm kỷ niệm 800 năm lập dòng Đa Minh

Đức Thánh Cha bế mạc năm kỷ niệm 800 năm lập dòng Đa Minh

ROMA. Lúc 4 giờ chiều thứ bẩy 21-1-2017, ĐTC đã chủ sự thánh lễ trọng thể tại Đền thờ Thánh Gioan Laterano ở Roma nhân dịp bế mạc năm kỷ niệm 800 năm DGH Onorio III phê chuẩn dòng Đa Minh.

 Thánh lễ này cũng kết thúc 4 ngày hội nghị quốc tế (17-21/1/2017) tại Đại học Thánh Tômaso Aquino (Angelicum) ở Roma về các khía cạnh trong sứ vụ của dòng Đa Minh. Hơn 600 tu sĩ và giáo dân Đa Minh từ nhiều nước đã tham dự sinh hoạt này.

Đồng tế với ĐTC trong thánh lễ tạ ơn có 20 Hồng Y, Giám Mục và khoảng 100 LM, đặc biệt là ĐHY Dominik Duka OP, TGM Praha thuộc Cộng hòa Tiệp, Đức TGM Carlos Azpiros OP, người Argentina, nguyên Bề trên Tổng quyền dòng Đa Minh và Cha đương kim Tổng quyền Bruno Cadoré, O.P. Hiện diện trong thánh đường có khoảng hơn 3 ngàn người, trong đó có đông đảo các tu sĩ nam nữ và giáo dân Đa Minh đến từ các nước. Phần thánh ca do ca đoàn Ba Lan từ Cracovia đảm trách.

Trong bài giảng, ĐTC đã quảng diễn hai bài đọc (2 Tm 4,1-8 và Mt 5,13-19) trong đó thánh Phaolô nhắn nhủ môn đệ Timothê hãy kiên trì rao giảng rao giảng, dù con người chỉ thích tìm kiếm những điều mới mẻ, không chịu nghe chân lý, nhưng chỉ thích những huyền thoại; tiếp đến là lời Chúa Giêsu nhắn nhủ các môn đệ hãy trở thành muối đất và ánh sáng thế gian, hãy tôn vinh Chúa Cha bằng những công việc lành, và nhờ đó, làm cho những người chứng kiến ngợi khen Chúa Cha trên trời.

Toàn văn bài giảng của ĐTC

”Lời Chúa hôm nay trình bày cho chúng ta hai cảnh tượng của con người trái ngược nhau: một bên là ”hội hóa trang” (carnevale) của sự hiếu kỳ trần tục, và bên kia là sự tôn vinh Chúa Cha qua các công việc lành. Và đời sống chúng ta cũng luôn tiến qua hai cảnh tượng ấy. Thực vậy, những cảnh tượng này ở mọi thời đại đều có, như lời thánh Phaolô nói với Timothê (Xc 2 Tm 4,1-5). Và cả thánh Đa Minh với các anh em đầu tiên của Người, cách đây 800 năm, cũng trải qua hai cảnh tượng ấy.

Thánh Phaolô cảnh giác Timôthê hãy loan báo Tin Mừng giữa một bối cảnh trong đó người ta luôn tìm kiếm những ”thầy mới”, ”những huyền thoại”, các đạo lý khác, các ý thức hệ.. họ ”ngứa tai” (2 Tm 4,3). Đó là ”hội hóa trang” theo sự hiếu kỳ trần tục, quyến rũ. Vì thế thánh Phaolô dạy môn đệ Ngài với những động từ mạnh mẽ, như ”hãy nhấn mạnh”, ”hãy khuyên nhủ”, ”khiển trách”, ”khuyên bảo” rồi ”cảnh thức”, ”chịu đựng đau khổ' (vv.2.5)

Thật là hay khi thấy rằng hồi đó, 2 ngàn năm về trước, các tông đồ của Tin Mừng đã đứng trước quang cảnh đó, và ngày nay, cảnh tượng ấy đã phát triển nhiều và được hoàn cầu hóa vì sự thu hút của trào lưu duy tương đối chủ quan. Xu hướng tìm kiếm điều mới mẻ của con người tìm được một môi trường lý tưởng trong xã hội trọng bề ngoài, xã hội tiêu thụ, trong đó nhiều khi người ta ”xào lại' những thứ cũ kỹ, nhưng điều quan trọng là làm cho chúng có vẻ tân kỳ, có sức thu hút, hấp dẫn. Cả chân lý cũng bị giả mạo. Chúng ta bước đi trong ”xã hội gọi là lỏng”, không có những điểm cố định, không dựa vào căn bản nào, thiếu những điểm tham chiếu vững chắc và bền vững; chúng ta sống trong thứ văn hóa phù du, ”dùng rồi vứt bỏ”.

Đứng trước thứ ”hội hóa trang” trần tục ấy, có một quang cảnh hoàn toàn đối nghịch lại, như chúng ta thấy qua những lời Chúa Giêsu vừa nghe đọc: ”Những việc làm ấy tôn vinh Cha các con ở trên trời” (Mt 5,16). Vậy sự chuyển tiếp từ sự hời hợt của lễ hội giả tạo tiến đến sự tôn vinh diễn ra như thế nào? Thưa nó diễn ra nhờ những công việc lành của những người, khi trở thành môn đệ Chúa Giêsu, họ trở thành ”muối” và ”ánh sáng”. Chúa Giêsu nói: ”Ánh sáng của các con phải chiếu tỏa rạng ngời trước mặt loài người để người ta thấy việc lành của các con mà tôn vinh Cha các con ở trên trời” (Mt 5,16).

Giữa thứ ”hội hóa trang” quá khứ và hiện nay, câu trả lời của Chúa Giêsu và của Giáo Hội, sự nâng đỡ vững chắc giữa môi trường ”lỏng” chính là những công việc lành chúng ta có thể thực hiện nhờ Chúa Kitô và Thánh Linh của Ngài, và những việc ấy làm nảy sinh trong tâm hồn lời cảm tạ Chúa Cha, lời chúc tụng, hoặc ít là sự ngưỡng mộ và câu hỏi: ”tại sao?”, ”tại sao người ấy cư xử như thế?”; sự băn khoăn của thế giới đứng trước chứng tá Tin Mừng.

Nhưng để sự đánh động ấy xảy ra được, thì điều cần là muối không bị mất vị và ánh sáng không bị che giấu (Xc Mt 5,13-15). Chúa Giêsu đã nói rất rõ điều đó: nếu muối nhạt thì nó chẳng có ích gì. Khốn cho muối nếu mất vị! Khốn cho một Giáo Hội mất hương vị! Khốn cho một linh mục, một tu sĩ, một hội dòng đánh mất hương vị!

Hôm nay, chúng ta tôn vinh Chúa Cha vì công việc mà thánh Đa Minh, đầy ánh sáng và muối của Chúa Kitô, đã thực hiện trong 800 năm qua; một công trình phục vụ Tin Mừng, được rao giảng bằng lời nói và bằng cuộc sống; một công trình, nhờ ơn của Chúa Thánh Linh, đã làm cho bao nhiêu người nam nữ được trợ giúp để không bị tản mát giữa ”thứ hội hóa trang” của sự hiếu kỳ trần tục, trái lại họ cảm thấy hương vị của đạo lý lành mạnh, của Tin Mừng, và đến lượt họ, họ trở thành ánh sáng và muối, thành những người thực hiện những công lành.. thành những anh chị em đích thực, tôn vinh Thiên Chúa và họ dạy cách tôn vinh Chúa bằng những công việc lành trong cuộc sống” (SD 21-1-2017)

G. Trần Đức Anh OP 

Sứ điệp của Đức Thánh Cha gửi tân tổng thống Mỹ

Sứ điệp của Đức Thánh Cha gửi tân tổng thống Mỹ

VATICAN. ĐTC chúc mừng và cầu nguyện cho Tổng Thống thứ 45 của Hoa Kỳ, Ông Donald Trump, nhân dịp ông tuyên thệ nhậm chức hôm 20-1 vừa qua.

Trong sứ điệp, ĐTC viết ”Tôi nồng nhiệt cầu chúc Tổng Thống những điều tốt đẹp và cầu xin Thiên Chúa Tối Cao ban cho Tổng Thống sự khôn ngoan và sức mạnh trong khi thi hành chức vụ cao cả. Giữa lúc gia đình nhân loại chúng ta đang chịu những cuộc khủng hoảng nhân đạo trầm trọng đòi phải có những câu trả lời sáng suốt và hiệp nhất về chính trị, tôi cầu nguyện để những quyết định của Tổng Thống được hướng dẫn nhờ những giá trị tinh thần và luân lý đạo đức phong phú đã hình thành lịch sử nhân dân Hoa Kỳ và sự dấn thân của quốc gia Tổng Thống để thăng tiến phẩm giá con người và tự do trên thế giới.

”Ước gì dưới sự lãnh đạo của Tổng Thống, vị thế của Hoa Kỳ tiếp tục được đo lường trên hết theo mối quan tâm đối với người nghèo, những người bị gạt ra ngoài lề và những người túng thiếu, như Ông Lazarô, đang ở trước cửa nhà chúng ta. Với những tâm tình ấy, tôi cầu xin Chúa ban cho Tổng thống và gia đình cũng như toàn thể nhân dân Hoa kỳ yêu quí, phúc lành bình an, hòa thuận và mọi sự thịnh vượng về vật chất và tinh thần” (SD 20-1-2017)

G. Trần Đức Anh OP 

Đức Thánh Cha tiếp Tòa Thượng Thẩm Rota ở Roma

Đức Thánh Cha tiếp Tòa Thượng Thẩm Rota ở Roma

VATICAN. ĐTC kêu gọi tăng cường việc huấn luyện chuẩn bị hôn phối và đồng hành với các đôi tân hôn để họ sống đời sống hôn nhân và gia đình theo ý định của Thiên Chúa.

Ngài đưa ra lời kêu gọi trên đây trong buổi tiếp kiến sáng thứ bẩy 21-1-2017 dành cho đoàn thẩm phán và các nhân viên của tòa Thượng Thẩm Rota ở Roma nhân dịp khai mạc năm tư pháp mới. Tòa này có hơn 20 vị thẩm phán quốc tế, chuyên cứu xét các đơn xin tuyên bố hôn nhân vô hiệu, từ cấp 2 trở lên.

Lên tiếng trong dịp này, ĐTC nói đến mối liên hệ mật thiết giữa đức tin và hôn nhân, giữa tình yêu và chân lý, như Đức Giáo Hoàng Biển Đức 16 đã nói: ”Nếu tình yêu không có tương quan với chân lý, thì nó sẽ chịu những thay đổi của tình cảm và sẽ không vượt qua được những thử thách của thời gian.. Chỉ khi nào dựa trên chân lý thì tình yêu mới kéo dài trong thời gian, vượt thắng những thứ phù du nhất thời và tiếp tục kiên vững để nâng đỡ cuộc hành trình chung”.

Từ tiền đề trên đây, ĐTC nhận xét rằng ”sự thiếu sót các giá trị tôn giáo và đức tin có ảnh hưởng cả tới sự ưng thuận kết hôn. Kinh nghiệm về đức tin của những người xin kết hôn theo Kitô giáo rất khác nhau.. người thì tích cực tham gia vào đời sống giáo xứ, có đời sống cầu nguyện nhiệt thành, trái lại có những người chỉ có những tâm tình mơ hồ về tôn giáo, nhiều khi xa lìa hoặc thiếu sót về đức tin”.

Đứng trước tình trạng đó, ĐTC kêu gọi tìm ra những phương dược thích hợp: ”trước tiên cần có hành trình chuẩn bị hôn phối thích hợp, giúp các đôi vợ chồng tương lai đón nhận và nếm hưởng ân thánh, vẻ đẹp và niềm vui của tình yêu chân thực, tình yêu được Chúa Giêsu cứu chuộc. Cộng đồng Kitô được kêu gọi nồng nhiệt loan báo Tin Mừng cho những người chuẩn bị kết hôn.. Cần coi tiến trình chuẩn bị hôn phối như một cơ hội thích hợp để loan báo Tin Mừng cho người lớn, và nhiều khi cho những người xa lạ với đức tin”.

Như phương dược thứ hai, ĐTC kêu gọi giúp các đôi tân hôn. Ngài nói: ”Cần can đảm và với tinh thần sáng tạo đề ra một dự án huấn luyện cho các đôi vợ chồng trẻ, với những sáng kiến giúp họ ngày càng ý thức về bí tích họ đã nhận lãmh. Vấn đề ở đây là khuyến khích họ cứu xét những khía cạnh khác nhau của đời sống lứa đôi thường nhật, là dấu chỉ và là dụng cụ tình yêu của Thiên Chúa..

ĐTC nói thêm rằng: ”Cộng đồng Kitô được kêu gọi đón nhận, đồng hành và giúp đỡ các đôi vợ chồng trẻ, cống hiến những cơ hội và phương thế thích hợp bắt đầu việc tham dự thánh lễ Chúa nhật, để chăm sóc đời sống thiêng liêng trong gia đình, cũng như trong khuôn khổ chương trình mục vụ tại xứ đạo hoặc trong các hội đoàn.. Nhiều khi các đôi vợ chồng trẻ bị bỏ mặc một mình, chỉ vì họ ít xuất hiện trong giáo xứ, hoặc nhất là sau khi họ sinh con.. Nhưng chính trong những lúc đầu tiên ấy của đời sống gia đình, cần phải bảo đảm cho họ sự gần gũi và nâng đỡ mạnh mẽ về tình thần, cả trong việc giáo dục con cái..” (SD 21-1-2017)

G. Trần Đức Anh OP

Đức Thánh Cha tiếp kiến 30 Giám Mục Ireland

Đức Thánh Cha tiếp kiến 30 Giám Mục Ireland

VATICAN. Sáng ngày 20-1-2017, ĐTC đã tiếp kiến 30 GM thuộc 4 giáo tỉnh của Ireland, nhân dịp các vị về Roma viếng mộ hai thánh Tông Đồ và thăm Tòa Thánh.

Sau cuộc gặp gỡ, các GM đã mở cuộc họp báo tại trụ sở đài Vatican và cho biết buổi tiếp kiến là một cuộc nói chuyện như trong gia đình trong đó tất cả các vấn đề được bàn đến: từ sự sống cho đến gia đình, từ nạn nghèo đói cho đến giáo dục, cả vấn đề các vụ lạm dụng tính dục trẻ vị thành niên do một số giáo sĩ và tu sĩ gây ra trước đây cũng được nói đến.   Về vấn đề này, Đức TGM Diarmuid Martin của giáo phận thủ đô Dublin, Phó Chủ tịch HĐGM Ailen, nói rằng: ”Những vụ lạm dụng tính dục xảy ra giữa lòng Giáo Hội ít hơn so với mức độ toàn thể xã hội Ireland, nhưng có sự khác biệt về mức độ trầm trọng, vì một vụ lạm dụng trong Giáo Hội, nơi mà chính Chúa Giêsu đã đặt trẻ em như dấu chỉ Nước Thiên Chúa, có mức độ nặng nề và tiêu cực hơn so với những lạm dụng xảy ra trong xã hội”.

Về tình hình Giáo Hội Công Giáo tại Ireland, Đức TGM Martin cho biết so với tình trạng cách đây 10 năm, đã có những tiến bộ trong Giáo Hội, tuy rằng đây không phải là tiến bộ về phương diện những con số, vì có sự sa sút ơn gọi, số người dự lễ chúa nhật giảm bớt.. Nhưng có những dấu hiệu chứng tỏ sự tăng trưởng và canh tân tinh thần đáng kể. Thay vì phê bình Giáo Hội tại Ireland, nhiều người muốn khích lệ chúng tôi trên con đường canh tân”. (RG 20-1-2017)

G. Trần Đức anh OP

 

 

Takayama Ukon, “võ sĩ samurai của Chúa Kitô” sẽ được phong chân phước ngày 7/2

Takayama Ukon, “võ sĩ samurai của Chúa Kitô” sẽ được phong chân phước ngày 7/2

Osaka – Ngày 7/2 tới đây, nghi lễ trọng thể phong chân phước cho Justo Takayama Ukon (1552-1615), được gọi là “võ sĩ samurai của Chúa Kitô”, một nhân vật được yêu quý của Giáo hội Nhật bản, sẽ được cử hành tại Osaka.

Đức cha Isao Kikuchi của Giáo phận Niigata và chủ tịch cơ quan bác ái của Nhật nói với hãng tin Fides là thời gian cử hành Thánh lễ đã chính thức được Tòa Thánh và hội đồng Giám mục Nhật đồng ý.

Đức Thánh Cha Phanxicô đã ký sắc lệnh phong chân phước vào tháng 1/2016 và Giáo hội Nhật bản đã chuẩn bị cho sự kiện này suốt một năm qua. Đức Hồng y Angelo Amato, Bộ trưởng Bộ phong thánh sẽ chủ sự Thánh lễ. Thánh lễ sẽ được phát trực tiếp trên truyền hình ở Nhật bản.

Trong tất cả 42 thánh và 393 chân phước Nhật bản, tất cả đều tử vì đạo, thì Takayama là một nhân vật đặc biệt. Đó là một giaó dân, một chính trị gia, một quân nhân, một võ sĩ samurai, đã không được tôn vinh trên bàn thờ vì bị giết mà vì đã chọn con đường theo Chúa Kitô, nghèo khó, vâng phục và chịu đóng đinh. Ukon đã từ bỏ địa vị cấp cao trong xã hội, sự thượng lưu và giàu có để trung thành với Chúa Kitô và Tin mừng.

Sinh ra trong một gia đình địa chủ, Ukon trở lại Kitô giáo lúc 12 tuổi, liên lạc với các thừa sai dòng Tên và theo bước người cha của mình. Được thánh Phanxicô Xaviê loan truyền đến Nhật bản vào năm 1549, Tin mừng Chúa Kitô đã nhanh chóng lan rộng khắp nơi. Nhưng khi Toyotomi Hideyoshi lên nắm quyền ông cấm việc thực hành Kitô giáo. Tất cả các địa chủ lớn đều vâng lệnh, chỉ trừ Ukon. Ông sẽ mất tài sản, chức nghiệp, địa vị xã hội, danh dự và sự kính trọng. Ông sẽ trở thành một người vô gia cư và phải sống lưu vong. Cùng với 300 Kitô hữu Công giáo Nhật bản khác, Ukon đào tẩu đến Manila, và chỉ 40 ngày sau khi đến đây, ông ngã bệnh và qua đời ngày 4/2/1615.

Từ thế kỷ XVII, các tín hữu Nhật bản đã loan truyền sự thánh thiện của Ukon nhưng chính sách cô lập của quốc gia đã ngăn cản các nhà điều tra giáo luật thu thập các chứng cứ cần thiết để tuyên thánh. Đến năm 1965, các Giám mục Nhật bản mới tiếp tục lại hồ sơ và cùng nhau thúc đẩy quá trình phong chân phước.

Một bộ phim tài liệu về cuộc đời của Ukon đã được thực hiện với tựa đề “Ukon võ sĩ Samurai: con đường của gươm giáo, con đường của thập giá” với sự bảo trợ của Hội đồng Tòa Thánh về Văn hóa , sự cộng tác của Tòa đại sứ Nhật bản cạnh Tòa Thánh, của Hội đồng Giám mục Nhật bản, của dòng Tên ở Italia, của "Trentino Film Commission”. 

Logo được chọn cho lễ phong chân phước được thiết kế bởi nữ tu M. Ester Kitazume, với 7 ngôi sao tròn dấu hiệu của dòng họ Takayama, với thánh giá và 3 cái nhẫn ở khung hình nền. 7 ngôi sao chỉ về gia đình của Ukon nhưng cũng là 7 phép bí tích và 7 ơn Chúa Thánh Thần. Thánh giá là dấu chỉ của sự trao tặng sự sống của Ukon. (Fides 20/1/2017)

Hồng Thủy

Gương tha thứ cho kẻ sát hại mình của Steven McDonald, cảnh sát ở New York

Gương tha thứ cho kẻ sát hại mình của Steven McDonald, cảnh sát ở New York

Ngày 10 tháng 1 vừa qua (10/01/2017), 4 ngày sau một cơn nhồi máu cơ tim, thám tử Steven McDonald, nguyên là một sĩ quan cảnh sát của thành phố New York, đã qua đời tại bệnh viện Island sau 30 năm nằm liệt, hưởng dương 59 tuổi. McDonald sinh ngày 1 tháng 3 năm 1957 tại Queens Village, New York, là con thứ 8 của ông bà David và Anita McDonald. Mc Donald lớn lên ở vùng Long Island và đã tiếp nối truyền thống của cha ông, tham gia vào ngành cảnh sát và phục vụ tại New York.

Cách đây 30 năm, khi còn là một cảnh sát trẻ, trong buổi đi tuần hành ngày 12 tháng 7 năm 1986, McDonald gặp 3 thiếu niên ở công viên trung tâm. Nghi ngờ là một người trong họ có vũ khí trong vớ của cậu ta, McDonald đã yêu cầu họ dừng lại để kiểm tra. Một thiếu niên trong số 3 cậu bé này, đó là Shavod Jones, 15 tuổi, đã rút vũ khí ra và bắn McDonald. Sau đó cả 3 cùng  bỏ chạy đi, để cho McDonald nằm một mình chờ chết ở đó. McDonal đã bị trúng 3 phát đạn, trong đó có một viên đâm vào tủy sống của anh, khiến anh bị liệt toàn thân. Ban đầu bác sĩ nói với Patti, người vợ đang mang thai đứa con được 3 tháng của họ là, McDonald không thể sống sót. Tuy nhiên, thật là may mắn, McDonald đã vượt qua được điều dự đoán xấu này; anh đã sống sót cách kỳ diệu. Vào ngày 1 tháng 3 năm 1987, nhân dịp Conor, đứa con trai của họ được rửa tội, McDonald đã nhờ vợ của anh đọc những cảm tưởng của anh về kẻ đã bắn anh, anh viết: “Tôi tha thứ cho cậu ta và hy vọng cậu ta có thể tìm thấy một mục đích trong cuộc sống của mình.” Sau tai nạn này, McDonald vẫn thuộc biên chế cảnh sát và sau đó được gọi là thám tử.

Một thời gian dài, McDonald đã hy vọng là anh và Jones, người bắn anh, có thể gặp nhau để hòa giải. Jones đã bị kết án 10 năm tù vì tội cố sát. Trong thời gian này 2 người đã trao đổi thư từ qua lại với nhau. Hai người chỉ chấm dứt liên lạc khi gia đình của Jones xin McDonald giúp đỡ để được giảm án nhưng McDonald từ chối vì anh không nhận thức đầy đủ hoặc không có khả năng can thiệp vào bản án. Một thời gian không lâu sau khi được giảm án và được tự do, Jones bị tai nạn môtô và qua đời vào năm 1995.

McDonald thường thảo luận về niềm tin Công giáo của mình và lý do ông đã tha thứ cho thiếu niên sát hại mình, là bởi vì ông tin những gì xảy ta với ông là ý muốn của Thiên Chúa và ông được chọn để trở thành một sứ giả của sứ điệp bình an, tha thứ và hòa giải của Thiên Chúa trên thế giới này.

Nhiều năm sau khi bị bắn, McDonald thu hút sự chú ý rộng rãi và sóng truyền thông. Năm 1995, McDonald đã được gặp Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II. Dù chỉ có thể thở nhờ máy trợ giúp, McDonald đã đi khắp quốc gia, nói chuyện tại các trường học và nơi chốn khác nhau về tầm quan trọng của tha thứ và hòa bình. McDonald cũng trở thành một người tranh đấu cho hòa bình tại những cùng đất đang có xung đột; ông đã thăm Bắc Ai len, Israel và Bosnia để mang sứ điệp của mình đến các cộng đồng đang sống trong căng thẳng chiến tranh.

Con trai của McDonald, là Conor Donald cuối cũng cũng đã gia nhập ngành cảnh sát tại thành phố New York và đã trở thành trung sĩ vào năm 2016. Anh là thế hệ thứ tư của gia đình phục vụ trong ngành cảnh sát.

Đức Hồng y Timothy Dolan của New York đã gọi McDonald là một ngôn sứ, không rao giảng, nhưng đã cổ võ cho sự sống. McDonald đã chỉ cho chúng ta biết là giá trị của sự sống không dựa vào khả năng thể lý, nhưng vào trái tim và linh hồn của một người, cả hai điều mà McDonald sở hữu cách tràn đầy. Đức Hồng y cho biết là ngài đã đến thăm McDonald tại khu chăm sóc đặc biệt của bệnh viện và nhiều chuỗi tràng hạt và các tượng ảnh ở đó là những dấu hiệu bên ngoài của một đức tin Công giáo đã được nhà thám tử thực hành rất nhiều. Chúng ta có thể thấy ông là một tín hữu Công giáo nhiệt thành. Thánh lễ an táng McDonald được Đức Hồng Y Dolan chủ sự vào ngày 13 tháng 1 vừa qua tại nhà thờ chánh tòa thánh Patrick ở New York. (CNS 11/01/2017)

Hồng Thủy

Cha Francisco Lopez Sedano: Trừ tà là một sứ vụ thiêng liêng

Cha Francisco Lopez Sedano: Trừ tà là một sứ vụ thiêng liêng

Mexico – Cha Francisco Lopez Sedano 80 tuổi, thuộc dòng các Thừa sai Chúa Thánh Linh, là một Linh mục chuyên trừ quỷ người Mêhicô. Trong 40 năm qua, cha Sedano đã thực hiện ít nhất 6000 vụ trừ quỷ. Cha nói là quỷ sợ cha.

Chia sẻ với báo Los Angeles Ngày nay, cha cho biết khi ma quỷ nói với cha qua người bị quỷ nhập, cha trả lời rằng: “Ta không là ai cả, nhưng tôi đến từ Chúa Kitô, Chúa và Chủ của mày và bây giờ mày xuất ra ngay. Nhân danh của Người, ta ra lệnh cho mày xuất ra. Đi ra!”

Trong cuộc phỏng vấn, cha Sedano nêu bật 4 điều mà cha nhận thấy trong những năm thực hiện việc trừ quỷ. Thứ nhất, quỷ là một người chứ không phải là một đồ vật. Chúa Giêsu đã đối mặt với quỷ và nói với nó nhiều lần. Quỷ muốn chia cắt chúng ta khỏi Thiên Chúa, làm chúng ta sợ hãi, đe dọa chúng ta, làm chúng ta run sợ. Nó mang đến cho chúng ta sự lười biếng, mệt mỏi, buồn ngủ, mất lòng tin, thất vọng, hận thù; mọi thứ tiêu cực.

Điều thứ hai, cha Sedano lưu ý, đó là ma quỷ đi vào trong con người là bởi vì họ cho phép nó làm điều này. Cha nói: “Quỷ không thể đi vào trong chúng ta nếu chúng ta không mở cửa cho nó. Bởi vì điều này, Thiên Chúa cấm việc thực hành phép thuật, mê tín dị đoan, ma thuật, phù thủy, bói toán, tư vấn người chết, các lực lượng vô hình và chiêm tinh học. Đây là bảy vùng đất của những lời dối trá và lừa dối.”

Một điều nữa cha Sedano nhận thấy đó là người bị quỷ nhập có những cách cư xử đặc biệt. Cha đã quan sát những người bị quỷ ám, “họ bắt đầu la hét, sủa như chó, hét hay quằn quại và  họ bò trườn như một con rắn trên mặt đất. Có hàng ngàn hình thức.” Cha cho biết, có một thanh niên 18 tuổi đã đẩy 5 ghế dài lớn  rất nặng mà bình thường cần sức của 10 người để di chuyển. Họ đã cần 3 người để giữ anh ta khi cha thực hiện việc trừ quỷ. Họ có thể leo lên các bức tường và cũng có thể bay.” Thỉnh thoảng người bị quỷ nhập nghe các tiếng nói, cảm thấy bị Thiên Chúa ghét hay loại bỏ. Có người bị đau lưng nhưng mà bác sĩ nói là sưc khỏe của họ không có vấn đề. Cha Sedano nói: “Những thương tổn của Satan nằm ngoài sự kiểm soát của y học.

Điều cuối cùng cha Sedano nhận thấy là việc trừ quỷ là một nhiệm vụ thiêng liêng. Cha xem việc trừ quỷ của mình đến từ nhu cầu cần thiết sau khi chứng kiến những trường hợp nặng nề và đau đớn. Cha cho biết, một Linh mục bạn đã giúp cha nhận thấy rằng chiến đấu chống lại Ác thần là một đòi buộc. 3 mệnh lệnh được Chúa truyền là mang lời của Chúa, chữa người đau bệnh và xua trừ ma quỷ. (CNA 19/01/2017)

Hồng Thủy

Đạo luật gây sốc của Nebraska ngăn cản một nữ tu được dạy học

Đạo luật gây sốc của Nebraska ngăn cản một nữ tu được dạy học

Sister Madeleine Miller

Lincoln, Nebraska – Những nỗ lực để dạy học tại một trường công lập ở Nebraska của nữ tu Madeleine Miller đã gặp khó khăn vì một đạo luật có từ cả thế kỷ. Điều này cũng nhắc các cơ quan lập pháp quốc gia có một cái nhìn khác về quá khứ đen tối của pháp luật.

Nữ tu Miller 37 tuổi, thuộc dòng các nữ tu Thừa sai Biển đức ở Norfolk, một dòng yêu cầu các nữ tu luôn mang tu phục ở chốn công cộng. Chị Miller có bằng dạy học của Nebraska, bằng cử nhân của học viện Wayne State của Nebraska và bằng cao học của đại học Chicago. Chị đã nộp đơn vào dạy tại các trường công lập Norfolk vì thiếu các trường Công giáo. Chị được thông báo rằng nếu được nhận vào dạy học, chị không được mặc tu phục. Chị cho biết là chị bị sốc. Chị nói: “Đó là vào năm 2015. Làm sao mà điều này có thể hợp pháp?” Chị cũng cho biết là chị đã có thể bị bắt, bị bỏ tù, bị phạt hay bị tước bằng nếu chị cố dạy học.

Đạo luật 1919 được Ku Klux Klan và các nhóm chống Công giáo ủng hộ. Các vi pham điều luật này là tội hình sự. Các giáo viên vi phạm lần đầu đối mặt với án tù treo một năm, và vi phạm lần hai sẽ bị tước quyền giảng dạy vĩnh viễn. Điều luật cũng cấm khăn choàng của đạo Chính thống và Hồi giáo. Đã có 36 tiểu bang có luật tương tự nhưng hiện nay chỉ Nebraska và Pennsylvania là còn cấm trang phục tôn giáo đối với các giáo viên tại các trường công lập. Oregon là bang mới nhất bãi bỏ luật này vào năm 2010.

Jim Scheer, phát ngôn viên của cơ quan lập pháp đề nghị một dự luật để chấm dứt đạo luật này, vì theo ông, nó vi phạm quyền tự do ngôn luận của các giáo viên và tạo nên tình trạng thiếu hụt giáo viên trong 18 lãnh vực ở Nebraska. Nhiều nhóm ủng hộ việc bãi bỏ luật này.

Vì không tìm được công việc ở đông Nebraska, nữ tu Miller đã chuyển về tu viện của dòng ở Winnebago, Nebraska để daỵ tại một trường Công giáo ở Sioux City, bang Iowa. Chị cho biết mục đích dạy học của mình là giúp học sinh hoc chứ không để cải đạo. Chị nói: “Tôi nghĩ mọi người có quyền làm việc trong khả năng chuyên nghiệp của họ bất kể niềm tin tôn giáo của họ. Bạn làm những gì bạn được thuê làm và bạn đi về nhà. Và mọi người có quyền đó.” (CNA 18/01/2017)

Hồng Thủy