GIÁO HỘI BOLIVIA KÊU GỌI CÁC ỬNG CỬ VIÊN TRÁNH CÁC LĂNG MẠ VÀ BÔI NHỌ NHAU TRONG CUỘC TRANH CỬ

GIÁO HỘI BOLIVIA KÊU GỌI CÁC ỬNG CỬ VIÊN TRÁNH CÁC LĂNG MẠ VÀ BÔI NHỌ NHAU TRONG CUỘC TRANH CỬ

SUCRE: Trong các ngày vừa qua các Giám Mục Bolivia đã mạnh mẽ kêu gọi các ứng cử viên tránh lăng mạ và bôi nhọ nhau trong cuộc tranh cử bầu tổng thống và quốc hội sẽ diễn ra ngày 12 tháng 10 tới đây.

Đức Cha Jesus Juarez Páraga, Tổng Giám Mục Sucre, nói với giới báo chí rằng các lời lăng mạ nhau giữa các nhà chính trị đi ngược lại luật cấm mọi hình thức kỳ thị. Thay vì nói xấu nhau, các ứng cử viên và các đảng phai chính trị nên trinh bầy cho cử tri biết chương trình hành động của mình khi đắc cử. Chửi bới bôi nhọ nhau không đưa tới tiến bộ nào cho nền dân chủ.

Tuần qua tổng thống mãn nhiệm Evo Morales đã từ chối cuộc hội thoại với ứng cử viên Samuel Soria Medina thuộc đảng đối lập ”Dân chủ thống nhất” và khuyên ông này về ”nói chuyện với bà ngoại của ông ta.” Ngày mùng 8 tháng 7 trong buổi lễ kỷ niệm 115 năm tỉnh Campero Cochabamba, Phó tổng thống Alvaro Garcia tuyên bố ”Đất nước Bolivia bị chia đôi giữa những người yêu nước và những kẻ bán nước”.

Chính trong cảnh lời qua tiếng lại này giữa các chính khách, Đức Cha Juarez đã mời gọi cac giới chức chính trị đừng rơi vào cuộc chiến chửi bới nhau, nhưng hãy khích lệ nhau lo cho công ích, phẩm giá và các quyền con người, là những điều Giáo Hội công giáo luôn cổ võ. Dư luận Bolivia rất cay đắng vì thiếu các tin tức liên quan tới các cuộc bầu cử, trong khi đã có 10 đảng phái chính trị ghi danh tham dự cuộc tổng tuyển cử và đã bắt đầu cuộc tranh cử.

Bolivia có 11 triệu dân gồm hàng chục bộ lạc khác nhau, trong đó có bốn nhóm đông nhất là Quechua, Aymara, Chiquitano và Guarani chiếm 55% tổng số dân, 30% là người lai giữa các thổ dân và da trắng, 15% là người da trắng. 78% dân Bolivia theo Công giáo, 19% theo Tin Lành và 3% thuộc các cộng đoàn Kitô khác (FIDES 10-7-2014)

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

GIÁO HỘI NAM HÀN SINH ĐỘNG VÀ LÔI CUỐN NHIỀU NGƯỜI THEO ĐẠO

GIÁO HỘI NAM HÀN SINH ĐỘNG VÀ LÔI CUỐN NHIỀU NGƯỜI THEO ĐẠO

SEOUL: Sức sinh động của Giáo Hội công giáo Nam Hàn khiến cho nhiều người muốn tìm hiểu và gia nhập đạo.

Đức Tổng Giám Mục Mario Toso, Tổng thư ký Hội Đồng Tòa Thánh Cnog Lý và Hòa Bình, đã cho biết như trên sau chuyến viếng thăm Nam Hàn trong các ngày 21-16 tháng 6 vừa qua. Đức Cha Toso đến Nam Hàn để thuyết trình về Tông huấn ”Niềm vui Phúc Âm” của Đức Thanh Cha Phanxicô trong ba tổng giáo phận Kwangju, Daegu và Seoul. Đức Cha cho biết ngài rất bị đánh động bởi gương của các linh mục Nam Hàn bệnh vực những người yếu đuối nhất, và chia sẻ các khổ đau của họ trong các bối cảnh xã hội khác nhau. Đây là bằng chứng cho thấy các Linh Mục Nam Hàn đang thực thi lời Đức Thánh Cha Phanxicô mời gọi các linh mục phải ”đi ra các vùng ngoại biên và có mùi của chiên”. Đức Cha Toso cho biết ngài thấy Giáo Hội công giáo Nam Hàn là gậy chống đỡ cho người nghèo và người thất nghiệp.

Giáo Hội công giáo Nam Hàn chiếm 12% tổng số dân. Tuy là một thiểu số nhưng Giáo Hội là một cộng đoàn mạnh mẽ có tới 30 dân biểu trong Quốc Hội. Báo chí đời cho Giáo Hội Nam Hàn là bảo thủ và đi với người giấu. Nhưng Đức Cha thấy Giáo Hội rất dấn thân trong việc loan báo Chúa Giêsu và Tin Mừng trong nền văn hóa thống trị của chủ thuyết duy vật và tiêu thụ tôn thờ tiền bạc quyền bình và coi những người yếu đuối là vô dụng. Trong nhiều thập niên qua Giáo Hội liên đới với dân nghèo trong các thời điểm xã hội khó khăn. Đức Cha Toso cũng có địp dâng thánh lễ cho những người thất nghiệp và cũng có nhiều người vô thần tham dự. Ngài có cảm tưởng dân chúng tìm kiếm Giáo Hội vì Giáo Hội gần gũi người dân. Và đó là lý do giải thích tai sao trong các năm qua có nhiều người xin gia nhập đạo công giáo. Chuyến viếng thăm của Đức Cha Thư ký Hội Đồng Toà Thánh Công Lý và Hòa Bình cũng là một kiểu chuẩn bị cho chuyến công du Nam Hàn của Đức Thánh Cha trong các ngày 13 tới 18 tháng 8 tới đây.

Năm 1949 Giáo Hội công giáo Nam Hàn chỉ chiếm 0.6% tổng số dân, nhưng năm 2010 đã tăng lên 10.9%. Và các Giám Mục Nam Hàn nhắm tới 20% trong năm 2020 (CNA 10-7-2014).

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

CARITAS GAZA LÊN ÁN CÁC VỤ DỘI BOM VÀ OANH KÍCH CỦA KHÔNG QUÂN ISRAEL

CARITAS GAZA LÊN ÁN CÁC VỤ DỘI BOM VÀ OANH KÍCH CỦA KHÔNG QUÂN ISRAEL

GAZA; Tổ chức Caritas hiện diện trong dải Gasa đã mạnh mẽ lên án các vụ đội bom và oanh kích của không quân Israel, và khẳng định rằng bạo lực chống lại những người vô tội, nhất là phụ nữ và trẻ em, không đem lại an ninh cho ai hết.

Trong thông cáo gửi hãng thông tấn Fides của Bộ Truyền Giáo, Caritas Gaza cho biết khác với trước đây các vụ bỏ bom và oanh tạc chỉ nhẳm vào các trạm cảnh sát và cơ sở của lực lượng Hamas, lần này không lực Israel tấn công các dinh thự dân sự và cả các trại ty nạn nữa. Ba ngày tấn công của không lực Israel đã khiến cho hơn 80 người thiệt mạng, trong đó có nhiều phụ nữ và trẻ em. Tám thường dân dã bị thiệt mạng đang khi theo dõi trấn đàu bán kết giữa Argentina và Hòa Lan trong một quán giải khát. Trong thông cáo Caritas Gaza nhấn mạnh rằng người dân dải Gaza đã phải sống cảnh phong tỏa từ 12 năm nay, và trong 8 năm qua đã gánh chịu 3 cuộc xung đột. Cả hai dân tộc Palestine và Israel đều có quyền sống trong hòa bình và an ninh. Nhưng quyền ấy sẽ không thể bảo đảm bởi bạo lực, tấn công chống lại các người vô tội. Con đường duy nhất giúp đạt hòa bình, an ninh và thoát ra khỏi cảnh chiến tranh, là công bằng và giải quyết chấm dứt xung khắc. Điều này chỉ có thể được thực hiện bằng cách thừa nhận quyền của dân tộc Palestine sống trong tự do trên đất của mình và cho phép dải Gaza rộng mở cho thế giới.

Caritas Gaza cho biết hiên nay không thể can thiệp, giúp đỡ và cứu trợ người tỵ nạn được, vì không lực Israel vẫn tiếp tục các vụ bỏ hom và bằn phá Gaza (FIDES 10-7-2014).

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Ngân sách Tòa thánh năm 2013 bị thiếu hụt gần 24.5 triệu Euro

Ngân sách Tòa thánh năm 2013 bị thiếu hụt gần 24.5 triệu Euro

VATICAN. Trong năm 2013, ngân sách của Tòa Thánh bị thiếu hụt gần 24 triệu 500 ngàn Euro (24,470,549), trong khi ngân sách năm 2012 trước đó dư được 2 triệu 100 ngàn Euro.

Theo thông cáo công bố hôm 8-7-2014, phần lớn số chi của Tòa Thánh, gồm 125 triệu Euro, là để trả lương có 2,886 nhân viên, tính đến ngày 31-12-2013.

Tuy nhiên, ngân sách năm ngoái của Phủ Thống đốc Quốc gia thành Vatican dư được hơn 33 triệu Euro (33,040,583), tức là tăng khoảng 10 triệu so với năm 2012 trước đó. Tính đến ngày cuối năm ngoái, Phủ Thống đốc có 1,951 nhân viên.

Số tiền Giáo Hội hoàn vũ đóng góp cho Tòa Thánh, chiếu theo khoản giáo luật số 1271, hầu như không thay đổi tức là 22 triệu 400 ngàn Euro, tức là chỉ tăng thêm 100 ngàn so với năm 2012.

Viện Giáo vụ (IOR), tức là ngân hàng Vatican, đóng góp cho Tòa Thánh 50 triệu Euro trong tài khóa 2013.
Hội đồng kinh tế của Tòa Thánh đã phê chuẩn kết toán ngân sách trên đây và mời gọi Văn phòng Tòa Thánh về Kinh Tế tiếp tục thích ứng các nguyên tắc kế toán của Vatican với các tiêu chuẩn quốc tế.

Viện Giáo Vụ tiến qua giai đoạn 2 trong tiến trình cải tổ

Mặt khác, Viện giáo vụ bắt đầu tiến qua giai đoạn thứ hai trong tiến trình cải tổ.

Trong thông cáo công bố ngày 8-7-2014, Viện giáo vụ cho biết trong năm 2013, lợi tức của Viện này suy giảm rất nhiều từ 86 triệu 600 ngàn Euro trong năm 2012 xuống còn 2 triệu 900 ngàn Euro. Tuy nhiên trong 6 tháng đầu năm nay, lợi tức được phục hồi đáng kể với 57 triệu 400 ngàn Euro.

Gia sản vốn (patrimonio netto) của Viện Giáo Vụ tính đến ngày 30-6 vừa qua là 775 triệu 400 ngàn Euro. Ngân khoản được khách hàng tín thác và các trái khoán của Viện này hiện nay là 6 tỷ Euro. Trong tiến trình kiểm soát các tài khoản, tính đến ngày 30-6-2014, Viện Giáo Vụ đã chấm dứt quan hệ với 3 ngàn khách hàng, trong đó có khoảng 2.600 tài khoản từ lâu không còn hoạt động. Ngoài ra có 396 khách hàng bị chấm dứt quan hệ do duyết định của Hội đồng giám sát Viện này ngày 4-7 năm 2013, nhắm thu hẹp con số khách hàng của Viện Giáo Vụ.

Do quyết định đó, Viện Giáo Vụ hiện nay chỉ cho phép các tổ chức Công Giáo, cơ quan Giáo Hội, nhân viên và cựu nhân viên Vatican, các đại sứ quán và nhân viên ngoại giao cạnh Tòa Thánh được mở tài quản trong Ngân hàng ngày.

Viện Giáo Vụ xác nhận sắp có ban lãnh đạo mới, làm việc trong một cơ cấu quản trị mới. (SD 8-7-2014)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

 

Hoạt động của Đức Giáo Hoàng Biển Đức XV trong Đệ Nhất Thế Chiến

Hoạt động của Đức Giáo Hoàng Biển Đức XV trong Đệ Nhất Thế Chiến

Phỏng vấn Linh Mục Massimo Mancini giáo sư Lịch sử Giáo Hội phân khoa Thần Học Triveneto Venezia bắc Italia

Trong các tuần tới đây Âu châu tưởng niệm 100 năm Đệ Nhất Thế Chiến bùng nổ, một cuộc chiến đã khiến cho 20 triệu người thiệt mạng và tàn khốc hơn tất cả mọi cuộc chiến trước đó, vì có sư tham dự của nhiều nước trên thế giới và việc sử dụng các vũ khí mới chưa từng có như máy bay, xe tăng, tầu ngầm, và cả vũ khí hóa học nữa.

Năm 1914 tình hình Âu châu căng thẳng vì các đối nghịch giữa các cường quốc lớn Pháp, Đức và Anh. Hai nước Pháp và Anh có nhiều thuộc địa rộng lớn cung cấp các nguyên liệu rẻ tiền và hầu như vô tận. Đức mặc dù có nền kinh tế phát triển vượt Pháp và bắt kịp Anh quốc, nhưng có ít thuộc địa, nên không có các nguồn tài nguyên phong phú và có thị trường quốc tế nhỏ hơn so với Pháp và Anh. Pháp và Anh muốn ngăn chặn nền kinh tế bành trướng đang lên của Đức. Ngoài sự cạnh tranh kinh tế này, còn có sự đua tranh chính trị nữa. Các cường quốc Âu châu muốn kiểm soát vùng Balcan và biển Địa Trung Hải, nhất là người Nga và người Áo muốn lợi dụng sự yếu kém của đế quốc Ottoman để bành trướng bằng cách chinh phục các vùng đất làm thành bán đảo Balcan. Có một yếu tố khác nữa tạo ra các căng thẳng lớn giữa các nước đó là khuynh hướng quốc gia, đặc biệt là của Pháp vì Pháp muốn chiếm các vùng đất Alsace và Lorraine đã bị mất trong chiến tranh Pháp – Phổ năm 1870-1871. Italia thì muốn chiếm lại miền Trento và Trieste.

Chính trong tình hình đua tranh căng thẳng đó Trưởng quận công Francesco Ferdinando, người sẽ kế vị vua Áo, và vợ bị một sinh viện người Serbi ám sát ngày 28 tháng 6 năm 1914 tại Sarajevo. Vụ ám sát này đã là cớ khiến cho Đệ Nhất Thế Chiến bùng nổ giữa các đế quốc vùng trung Âu châu là Đức, Áo, Hungari, Ottoman, và các cường quốc của Thỏa hiệp tay ba gồm Pháp, Anh và Nga. Đức mơ thành lập một nước lớn bao gồm tất cả các vùng nói tiếng Đức. Trong khi Nga ước muốn hiệp nhất tất cả các dân tôc nói tiếng Slave.

Thế là Áo tuyến chiến với Serbia, vì coi Serbia là nơi tiếp đón mọi lực lượng Slave đòi độc lập, và muốn trừng phạt vùng đất này một lần cho luôn mãi. Chỉ nội trong mấy ngày nhiều quốc gia khác nhau tham chiến. Bên cạnh Đức, Áo là Thổ Nhỉ Kỳ, Bulgaria, Nhật Bản và Rumania. Các người đảng xã hội và các tín hữu công giáo chủ trương hòa bình, nhưng lập trường của họ không được lắng nghe. Các phe lâm chiến cũng không chú ý đến các lời cảnh cáo rất nghiêm ngặt của Đức Giáo Hoàng Biển Đức XV coi chiến tranh là hậu qủa của ích kỷ, của chủ thuyết duỵ vật và việc thiếu các giá trị luân lý và tinh thần.

Ban đầu người ta chỉ nghĩ tới một cuộc chiến kết thúc nhanh chóng, nhưng mọi tính toán đều sai và cuộc chiến biến thành ”chiến tranh hầm trú” kéo dài hết năm này sang năm khác. Binh sĩ đào các đường hầm dài hàng trăm cây số, với các bãi mìn và hàng rào kẽm gai, rồi sống và di chuyển trong đó để cầm chân nhau. Mặt trận trải dài hàng ngàn cây số giữa hai bên và cần binh sĩ tới độ phải tổng động viên đàn ông con trai. Tình trạng này bắt buộc các phụ nữ phải làm việc trong các nhà máy sản xuất quân trang quân dụng. Tuy có các trận đánh đẫm máu nhưng không bên nào tiến được. Người ta đã phải dùng tới máy bay oanh tạc các đường hầm từ trên cao, cũng như xe tăng, hơi ngạt và súng phun lửa.

Phía ngoài biển hải quân Anh phong tỏa không cho quân Đức tiếp viện. Quân Đức bắt đầu sử dụng các tầu ngầm và nạn nhân thường là các tầu của Hoa Kỳ tiếp tế cho Anh quốc.

Năm 1917 các cuộc tàn sát thê thảm bị phơi bầy trước mắt mọi người. Mặc dù Đức Giáo Hoàng Biển Đức XV liên tục kêu gọi ngưng chiến và dịnh nghĩa nhân loại đáng xấu hổ, chiến tranh vẫn tiếp diễn khiến cho các dân tộc Âu châu mệt mỏi vì đói khát, hàng ngàn người tị nạn về nhà với thân thể què cụt. Không còn nông dân để cầy cấy, cũng không còn công nhân trong các hãng xưởng, tất cả đều do phụ nữ, trẻ em và người già đảm trách.

Mùa xuân năm 1917 nhiều vụ nổi dậy đã bắt buộc Nga hoàng Nicola II phải từ chức, hàng triệu binh sĩ Nga mệt nỏi đói khát bỏ chiến tuyến về nhà. Đảng Bônxêvích của Lenin lên nắm quyền, và ký thỏa hiệp đình chiến và hòa bình với Đức. Nga ra khỏi chiến tranh nhưng mất Ba Lan, Estonia, Lettonia, Lituania và Phần Lan. Được rảnh tay, Áo và Đức dồn toàn lực đánh Pháp, Anh và Italia.

Vụ tầu xuyên đại tây dương Lusitania bị quân Đức đánh chìm làm cho 124 người Mỹ bị chết, khiến cho vào mùa xuân năm 1917 Hoa Kỳ tuyên chiến với Đức. Cùng với các binh sĩ Mỹ là các đồ tiếp tế, quân trang quân dụng và thực phẩm. Trên bình diện quân sự tuy không tiến xa hơn, nhưng Đức và Áo xem ra còn vững. Nhưng trên bình diện kinh tế thì vô cùng thảm hại, vì đồng ruộng bị bỏ hoang không có người canh tác, thiếu nhiên liệu, thực phẩm, cả đến phần ăn của binh sĩ cũng bị hạn chế. Sau các nỗ lực cuối cùng tấn công mà không chiến thắng, tháng 11 năm 1918 Áo ký thỏa hiệp ngưng bắn với Italia, và Đức xin cầu hòa. Các vụ nổi loạn của dân chúng đã khiến cho hai hoàng đế Áo và Đức phải từ chức.

Chính trong bối cảnh chiến tranh trên đây ngày mùng 3 tháng 9 năm 1914 Đức Hồng Y Giacomo Della Chiesa, Tổng Giám Mục Bologna, được bầu làm Giáo Hoàng, lấy tên là Biển Đức XV. Vụ bầu cử đã diễn ra giữa tiếng bom đạn của Đệ Nhất Thế Chiến, mà Đức tân Giáo Hoàng định nghĩa là một ”tai ương vô ích”. Trong hơn 7 năm làm Giáo Hoàng Đức Thánh Cha Biển Đức XV tìm cách ngăn chặn cuộc xung khắc, hăng say tái phát động các tương quan với miền nam thế giới và Viễn Đông, công bố Bộ giáo luật mới, giảm các giọng điệu của phong trào duy tân tiến, tái tổ chức việc truyền giáo, và ủng hộ tín hữu công giáo trong cuộc sống chính trị. Nhưng hoạt động lớn nhất của ngài là hoạt động cho hòa bình.

Sau đậy chúng tôi xin gửi tới qúy vị và các bạn bài phỏng vấn Linh Mục Massimo Mancini, giáo sư Lịch sử Giáo Hội phân khoa Thần Học Triveneto Venezia bắc Italia, về hoạt động của Đức Thánh Cha Biển Đức XV cho hòa bình.

Hỏi: Thưa cha Mancini, trong lịch sử Giáo Hội thuộc thế kỷ XX gương mặt của Đức Thánh Cha Biển Đức XV xem ra là một gương mặt lu mờ, ít đựơc biết tới, có đúng thế không?

Đáp: Đức Biển Đức XV là một vị Giáo Hoàng đã sống trong các hoàn cảnh khó khăn, khi Tòa Thánh chưa được thừa nhận trên bình diện quốc tế, nhưng ngài đã thành công trong việc là một đối tác có giá trị và hữu hiệu bên cạnh các quốc gia hùng mạnh để đi tới hòa bình. Cả khi hòa bình đã chỉ tới sau bốn năm chiến tranh. Đức Giáo Hoàng Biển Đức XV mời gọi mọi dân tộc lâm chiến làm hòa với nhau. Ngài đã không bênh vực bên nào hết, và đây là một khía cạnh sẽ bị nhiều người chỉ trích. Nhưng Đức Biển Đức XV biết rằng nhiệm vụ của ngài là cha của tất cả mọi kitô hữu, là đưa mọi người tới hòa bình, mà không ủng hộ nước nào cả. Và điều này đã không được người ta hiểu.

Hỏi: Đã không chỉ có các lời kêu gọi hòa bình, nhưng nhờ kinh có nghiệm ngoại giao Đức Giáo Hoàng Biển Đức XV tìm mọi cách để giải quyết các xung khắc, có đúng thế không thưa cha?

Đáp: Đúng thế, một mặt ngài lo cống hiến sự trợ giúp cho tất cả những người bị thiệt hại bởi chiến tranh chừng nào có thể. Mặt khác sau ba năm chiến tranh đẫm máu và thê thảm Đức Biển Đức XV đã đưa ra một đề nghị và gửi một văn thư ngoại giao cho tất cả các cường quốc lâm chiến, bằng cách chỉ cbo họ thấy các giải pháp cho các vấn đề cụ thể. Nhưng lời đề nghị cụ thể của ngài bị các cường quốc khước từ, ngoại trừ vua Carlo I của nhà Asburgo. Chắc chắn đó đã không phải là một chiến thắng, nhưng là một thời điểm tiên tri lớn từ phía Đức Giáo Hoàng.

Hỏi: Liên quan tới công tác truyền giáo, Đức Biển Đức XV cũng đã để lại dấu vết hoạt động của ngài, có đúng thế không thưa giáo sư?

Đáp: Vâng, với Tông thư ”Maximum illud” công bố ngày 30 tháng 11 năm 1919 Đức Giáo Hoàng Biển Đức XV đã trao ban cho công tác truyền giáo một sức đẩy mới, băng cách tìm thực hiện chương trình của một hàng giáo sĩ địa phương. Như thế các giám mục, linh mục là những người dân bản địa, một việc truyền giáo không gắn liền với chế độ thực dân của các cường quốc âu châu, nhưng để cho nổi bật lên các tài gnuyên và nhân lực của các dân tộc địa phương cần được rao truyền Tin Mừng, cho một sứ điệp thực sự tin mừng.

Hỏi: Đức Biển Đức XV đã là một vị Giáo Hoàng canh tân nhìn xa thấy rộng liên quan tới cả sự dấn thân của tín hữu công giáo trong lãnh vực chính trị nữa, có đúng thế không thưa cha?

Đáp: Vâng, Đức Giáo Hoàng Biển Đức XV cũng là một người rất chú ý tới sự hiện diện của tín hữu công giáo trong lãnh vực chính trị tại các nước khác nhau. Trước tiên là tại Italia ngài đã ủng hộ việc thành lập Đảng nhân dân mới Italia của linh mục Luigi Turzo. Đây là đảng phái chính trị đầu tiên tại Italia có nguồn hứng công giáo. Dưới triều đại của Đức Biển Đức XV cũng đã có các thương thảo ngầm để đem lại giải pháp cho ”Vần đế của Roma” đã kéo dài hàng chục năm trời và là nguyên do xung khắc giữa Italia và Tòa Thánh.

(RG 29-6-2014)

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Đức Thánh Cha Phanxicô tái lên án nạn giáo sĩ lạm dụng tính dục trẻ em

Đức Thánh Cha Phanxicô tái lên án nạn giáo sĩ lạm dụng tính dục trẻ em

VATICAN. Sáng ngày 7-7-2014, trong cuộc gặp gỡ 6 nạn nhân bị giáo sĩ lạm dụng tính dục, ĐTC xin lỗi và tái nghiêm khắc lên án tệ nạn này.

6 nạn nhân, 3 nam 3 nữ, nay đã trưởng thành, đến từ Ireland, Đức và Anh quốc, mỗi người có một người thân hoặc một người tháp tùng cũng là người thông dịch. Cùng với ĐHY Sean O'Malley, TGM giáo phận Boston Hoa kỳ, Chủ tịch Ủy ban Tòa thánh bảo vệ trẻ em và một số thành viên của Ủy ban, họ đã tham dự thánh lễ do ĐTC cử hành lúc 7 giờ sáng tại nguyện đường Nhà Trọ thánh Martha ở nội thành Vatican.

Bài giảng của ĐTC

Trong bài giảng ứng khẩu bằng tiếng Tây Ban Nha, ĐTC nghiêm khắc tố giác và bày tỏ đau buồn vì tội ác của một số giáo sĩ, GM và LM, đã chà đạp sự ngây thơ trong trắng của các trẻ vị thành niên và ơn gọi tư tế của mình, qua việc lạm dụng tính dục của những người trẻ ấy. Tội ác này không phải chỉ là những hành vi đáng lên án, nhưng nó giống như một việc phạm thánh, vì những trẻ em nam nữ ấy đã được ủy thác cho đoàn sủng LM của các giáo sĩ ấy để dẫn đưa các em về cùng Thiên Chúa, vậy mà các giáo sĩ đó đã hiến tế các em cho thần tượng đam mê của họ. Họ đã xúc phạm đến chính hình ảnh Thiên Chúa. Tuổi thơ là một kho tàng quí giá. Con tim người trẻ, cởi mở và đầy tín thác, chiêm ngưỡng các mầu nhiệm tình yêu của Thiên Chúa và tỏ ra sẵn sàng một cách đặc biệt được nuôi dưỡng trong đức tin. Ngày hôm nay con tim của Giáo hội nhìn đôi mắt của Chúa Giêsu nơi các trẻ em nam nữ ấy và muốn khóc lóc. Giáo Hội xin được ơn khóc lóc trước những hành vi tội ác lạm dụng chống lại các trẻ vị thành niên, những hành vi để lại những vết tích suốt đời cho những người trẻ ấy.

ĐTC nói với các nạn nhân: ”Tôi biết rằng những vết thương của anh chị em là một nguồn đau khổ sâu đậm về cảm xúc và tinh thần, và cũng là một nguồn tuyệt vọng. Nhiều người chịu kinh nghiệm ấy đã tìm cách bù trừ bằng sự nghiện ngập. Những người khác đã cảm thấy những xáo trộn trầm trọng trong các quan hệ với cha mẹ, vợ chồng và con cái. Đau khổ của các gia đình đặc biệt nặng nề xét vì thiệt hại do sự lạm dụng ấy gây ra làm thương tổn những quan hệ sinh tử ấy.

”Một số người khác đã chịu thảm kịch kinh khủng của sự tự tử của một người thân yêu. Cái chết của những người con được Thiên Chúa yêu thương ấy đè nặng trên con tim và lương tâm của tôi và của toàn thể Giáo Hội. Với các gia đình ấy, tôi bày tỏ những tâm tình yêu thương và đau khổ. Chúa Giêsu bị tra tấn và hỏi cung trong sự thù ghét và Ngài bị dẫn đến một nơi khác và nhìn. Chúa nhìn một trong những người thân yêu, người đã chối bỏ Ngài và cái nhìn ấy làm cho người ấy khóc. Chúng ta hãy cầu xin ơn đền tạ ấy.

”Các tội giáo sĩ lạm dụng tính dục chống lại các trẻ vị thành niên là có một hậu quá phá vỡ niềm tin và và lòng cậy trông nơi Thiên Chúa. Một số nạn nhân còn bám vào đức tin trong khi đối với những người khác, sự phản bội và bỏ rơi như thế làm hao mòn niềm tin của họ nơi Thiên Chúa. Sự hiện diện của anh chị em ở đây nói về phép lạ của niềm hy vọng, lướt thắng tăm tối sâu đậm. Chắc chắn thật là một dấu chỉ lòng từ bi của Thiên Chúa sự kiện chúng ta có cơ hội gặp nhau hôm nay, thờ lạy Chúa, nhìn thẳng nhau và tìm kiếm ơn hòa giải”.

”Trước mặt Thiên Chúa và dân của Ngài, tôi rất đau buồn vì những tội lỗi và tội ác trầm trọng giáo sĩ lạm dụng tính dục của anh chị em và tôi khiêm tốn xin lỗi. Tôi khiêm tốn xin lỗi vì những tội thiếu sót từ phía các vị lãnh đạo Giáo Hội đã không đáp trả một cách thích hợp những lời tố giác lạm dụng mà thân nhân và những nạn nhân bị lạm dụng nêu lên. Điều này càng gia tăng đau khổ cho những người bị lạm dụng và gây nguy hiểm cho các trẻ vị thành niên khác ở trong tình trạng rủi ro”.

ĐTC cam kết rằng: ”Chúng tôi sẽ tiếp tục cảnh giác về đào tạo các ứng sinh linh mục. Tôi hy vọng các thành viên ủy ban Tòa Thánh giúp đỡ để bảo vệ trẻ vị thành niêm, tất cả trẻ vị thành niên thuộc mọi tôn giáo, là những người bé nhỏ mà Chúa đang nhìn với lòng thương mến. Tôi xin sự giúp đỡ của Ủy ban để có thể có những chính sách tốt đẹp và các biện pháp trong Giáo hội hoàn vũ để bảo vệ các trẻ emvà huấn luyện nhân sự của Giáo Hội để thi hành các chính sách và biện pháp ấy. Chúng ta phải làm tất cả những gì có thể để làm sao cho các tội ấy không tái diễn trong Giáo Hội nữa”.

Sau thánh lễ ĐTC đã chào thăm các nạn nhân và sau bữa ăn sáng ngài đã gặp riêng họ trong hơn 3 tiếng đồng hồ cho đến 12 giờ 20 trưa, bình quân ngài gặp riêng mỗi người 30 phút.

Trong cuộc họp báo trưa 7-7-2014, Cha Lombardi cho biết đã gặp các nạn nhân và họ cảm thấy biết ơn đối với ĐTC vì được lắng nghe với tất cả sự quan tâm và sẵn sàng.

Ủy ban Tòa Thánh bảo vệ trẻ em

Hôm chúa nhật 6-7-2014, Ủy ban Tòa Thánh bảo vệ trẻ em, dưới quyền chủ tọa của ĐHY Sean O'Malley, dòng Capuchino, TGM giáo phận Boston, đã nhóm họp sáng vào chiều tại Vatican. Hiện diện trong khóa họp có một số thành viên tiên khởi. Họ bàn về việc đề nghị thêm các thành viên khác đến từ Á, Phi và các nơi khác để xin ĐTC bổ nhiệm. Ủy ban cũng bàn về việc soạn thảo qui chế. Ủy ban sẽ nhóm khóa họp tới đây vào tháng 10 năm nay.

G. Trần Đức Anh OP  – Vatican Radio

Angelus với ĐTC: Chia sẻ gánh nặng cho nhau

Angelus với ĐTC: Chia sẻ gánh nặng cho nhau

Kính thưa quý vị thính giả,

Trong hai tháng hè 7 và 8 này, nhiều hoạt động của Đức Thánh Cha đã bị hủy bỏ, nhưng ngài vẫn muốn giữ lại giờ đọc kinh Truyền Tin với các tín hữu hành hương tại Quảng Trường Thánh Phêrô vào trưa Chúa Nhật hàng tuần. Chia sẻ với các tín hữu hôm Chúa Nhật 6.7 vừa qua, Ngài đã lấy cảm hứng từ bài Tin Mừng, trong đó có lời mời gọi của Đức Giêsu: “Hỡi tất cả những ai vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến với Tôi, Tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng”. Đức Thánh Cha nói rằng, lời mời gọi này của Đức Giêsu dành cho hết thảy mọi người, xưa cũng như nay, giàu cũng như nghèo, nhưng đặc biệt, Đức Giêsu dành cho những ai đang chịu đau khổ nhất.

Ngài cũng chia sẻ thêm rằng khi mang lấy ách của Chúa theo lời mời gọi của Ngài, chúng ta cũng phải trở nên những con người biết chia sẻ gánh nặng với anh chị em mình, trở thành người mang đến cho họ niềm an ủi.

Ngài nói:

“Trong bài Tin Mừng của Chúa Nhật hôm nay, chúng ta nghe thấy lời mời gọi của Đức Giêsu. Ngài nói: "Hãy đến với Ta, hỡi những ai vất vả mang gánh nặng nề, Ta sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng" (Mt 11,28). Khi Đức Giêsu nói điều này, đang hiện diện trước mắt Ngài là những con người mà Ngài gặp gỡ hàng ngày trên đường đi lên Galilea: rất nhiều người đơn sơ, người nghèo, bệnh nhân, tội nhân, người bị gạt ra bên ngoài xã hội… Những con người này thường đi theo Ngài để nghe lời Ngài – lời trao ban hy vọng! Những lời của Đức Giêsu luôn trao ban niềm hy vọng! Họ cũng muốn chỉ cần chạm vào vạt áo của Ngài. Chính Đức Giêsu cũng đã đi tìm những đám đông mệt mỏi và bất lực như đàn chiên không có người chăm sóc này (x. Mt 9,35-36) và Ngài tìm họ để rao giảng cho họ biết về Nước Chúa và để chữa lành nhiều người trong số họ về thể xác cũng như tinh thần. Bây giờ, Ngài mời gọi hết thảy họ hãy đến với mình: "Hãy đến với tôi" và Ngài hứa ban cho họ nghỉ ngơi và bồi dưỡng.”

Đức Thánh Cha giải thích rằng:

“Lời mời gọi này của Đức Giêsu nới rộng cho đến chúng ta ngày nay, vươn đến nhiều anh chị em đang bị đè nặng bởi những hoàn cảnh khó khăn của cuộc sống, bởi những tình huống sinh tồn vất vả và nhiều khi chẳng có giá trị gì để nhắc tới. Trong những quốc gia nghèn nàn hơn, mà thậm chí nơi những vùng ngoại ô của những nước giàu, ta vẫn có thể tìm thấy nhiều người mệt mỏi và bất lực dưới sức nặng không thể chịu nỗi của việc bị bỏ rơi và sự hờ hững. Sự hờ hững: hờ hững của con người đối với những người thiếu thốn thật tệ hại biết bao! Tệ hại hơn, sự hờ hững của các Kitô hữu! Những người ở bên lề xã hội là những người nam nữ bị cái nghèo hành hạ, nhưng cũng có khi bị chính sự bất mãn của cuộc sống và sự hụt hẫng. Nhiều người bị buộc phải tỵ nạn khỏi quê cha đất tổ của mình, đánh liều chính cuộc sống của mình. Nhiều người hơn nữa mỗi ngày phải mang gánh nặng của một hệ thống kinh tế bóc lột con người, đè nặng trên họ cái "ách" không thể vác nỗi mà số ít những người có đặc lợi không muốn mang. Đức Giêsu nói với từng người con của Cha trên trời rằng: "Hãy đến với Ta, hỡi tất cả". Nhưng Ngài cũng nói điều này với những ai sở hữu nhiều thứ mà trong con tim của họ trống trơn, không có Thiên Chúa. Đức Giêsu cũng gửi gắm đến những người này: "Hãy đến với ta". Lời mời gọi của Đức Giêsu dành cho tất cả. Nhưng cách đặc biệt, Ngài dành cho những ai đang đau khổ nhất.”

Đức Thánh Cha nói thêm rằng:

“Đức Giêsu hứa cho tất cả mọi người được nghỉ ngơi nhưng Ngài cũng trao ban cho chúng ta một lời mời gọi nữa, lời mời gọi nhưng cũng giống như một mệnh lệnh: "Hãy mang lấy ách của Ta và hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng" (Mt 11,29). "Ách" của Chúa bao gồm cả việc giúp chia sẻ gánh nặng với người khác bằng tình yêu huynh đệ. Cứ mỗi khi nhận được sự nghỉ ngơi và êm ái nơi Đức Kitô, chúng ta cũng được mời gọi để trở nên sự nghỉ ngơi và êm ái cho anh chị em mình, với thái độ hiền lành và khiêm nhường, noi gương Thầy Chí Thánh. Sự hiền lành và khiêm nhường trong lòng giúp chúng ta không chỉ chia sẻ gánh nặng của người khác nhưng còn không đè nặng lên họ quan điểm cá nhân, phán đoán, phê bình và sự hờ hững của chúng ta nữa.”

Cuối cùng, Ngài mời gọi người hãy hướng lòng về Mẹ Maria:

“Chúng ta hãy cầu xin Mẹ Rất Thánh, đón nhận dưới tà áo mẹ tất cả những ai mệt mỏi và bất lực để nhờ đức tin tỏa sáng, được chứng thực trong cuộc sống, chúng ta có thể trở thành nơi nghỉ ngơi cho những ai đang cần giúp đỡ, cần sự hiền lành và niềm hy vọng.”

Pr. Lê Hoàng Nam, SJ – Vatican Radio

Đức Thánh Cha viếng thăm Tổng Giáo phận Campobasso

Đức Thánh Cha viếng thăm Tổng Giáo phận Campobasso

VATICAN. Sáng thứ Bẩy 5 tháng 7-2014, ĐTC Phanxicô đã viếng thăm mục vụ tại tổng giáo phận Campobasso và ngài dành buồi chiều để thăm giáo phận Isernia thuộc miền Molise, nam Italia.

Tổng Giáo phận Campobasso cách Roma 185 cây số về hướng đông nam và có 124 ngàn tín hữu.

ĐTC đã đáp trực thăng đến Campobasso lúc qua 9 giờ sáng và gặp gỡ giới lao động và công nghệ tại Đại thính đường đại học Molise.

Giáo phận Cambopasso

Sau lời chào thăm của giáo sư viện trưởng đại học, một bà mẹ trẻ công nhân của hãng xe Fiat, và một thanh niên nông dân 28 tuổi đã trình bày lên ĐTC tình trạng của giới công nhân và nạn thất nghiệp của người trẻ, ngài đã ngỏ lời với mọi người trong bài huấn dụ và đặc biệt nói đến vấn đề nghỉ việc chúa nhật, một vấn đề liên hệ tới tất cả mọi người, chứ không phải chỉ liên quan đến các tín hữu. ĐTC nói:

”Chúa nhật nghỉ việc – trừ những dịch vụ cần thiết – nhắm khẳng định rằng ưu tiên không ở nơi kinh tế, nhưng nơi con người, nơi sự nhưng không, nơi những quan hệ không phải thương mại, nhưng là gia đình, thân hữu, và đối với các tín hữu, nơi quan hệ với Thiên Chúa và cộng đoàn. Có lẽ đã đến lúc chúng ta tự hỏi làm việc ngày chúa nhật có phải là thực sự hay không?”

Đề cập đến nạn thất nghiệp đang đè nặng trên miền Molise, ĐTC ghi nhận nỗ lực của miền này đang tìm cách vượt thắng thảm trạng thiếu công ăn việc làm, liên kết tất cả những lực lượng trong tinh thần xây dựng. Ngài nói: ”Bao nhiêu việc làm có thể được phục hồi qua một chiến lược có phối hợp với chính quyền quốc gia, một ”hiệp ước về lao động” biết đón nhận những cơ may do các quy luật quốc gia và Âu Châu mang lại. Tôi khuyến khích anh chị em hãy tiếp bước trên con đường đó, có thể mang lại những thành quả tốt cho cả miền khác nữa”.

Thánh lễ

Giã từ đại học Campobasso, ĐTC đã tới tại sân thể thao Romagnoli của thành phố để cử hành thánh lễ lúc gần 10 giờ sáng, trước sự tham dự của gần 80 ngàn tín hữu. Các GM miền Molise và khoảng 40 linh mục đồng tế tại lễ đài thật đơn sơ với mái che bằng các lá cây.

Trong bài giảng thánh lễ, ĐTC đề cao chứng tá bác ái như con đường trổi vượt để loan báo Tin Mừng: ”Giáo Hội luôn đi hàng đầu, là một sự hiện diện từ mẫu và huynh đệ, chia sẻ những khó khăn và sự dòn mỏng yếu đuối của con người”.

ĐTC ca ngợi những nỗ lực của cộng đồng giáo phận Campobasso đang quảng đại thực hiện, với sự nâng đỡ của vị GM mục tử nhiệt thành. Ngài nói: ”Tôi khích lệ tất cả anh chị em, LM, tu sĩ nam nữ, tín hữu giáo dân, hãy kiên trì trên con đường này, phụng sự Thiên Chúa và anh chị em mình, phổ biến khắp nơi nền văn hóa liên đới. Sự dấn thân này rất cần thiết đứng trước những tình cảnh bấp bênh về vật chất và tinh thần, nhất là đứng trước nạn thất nghiệp, một tai ương đang đòi cố gắng và can đảm của tất cả mọi người. Nạn thất nghiệp đặc biệt đòi hỏi trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, của giới chủ xí nghiệp và tài chánh. Cần đặt phẩm giá con người ở trung tâm mọi viễn tượng và hoạt động. Các lợi ích và quan tâm khác, dù là hợp pháp, đều là điều thứ yếu”.

ĐTC cũng nói đến tự do mà Chúa ban cho con người: trước tiên là tự do khỏi tội lỗi, khỏi tính ích kỷ dưới mọi hình thức.. Chúng ta cảm nghiệm tự do này trong cộng đoàn Kitô khi chúng ta đặt mình phục vụ nhau. Khi ấy Chúa giải thoát chúng ta khỏi những tham vọng và cạnh tranh, làm thương tổn tình đoàn kết và hiệp thông. Chúa giải thoát chúng ta khỏi sự nghi kỵ, buồn sầu, sợ hãi và trống rỗng nội tâm, cô lập, tiếc nuối và than vãn…”

Các hoạt động kế tiếp

Sau Thánh lễ, ĐTC đã viếng thăm và cầu nguyện tại Nhà thờ chính tòa Campobasso. Ngài chào thăm đại diện các bệnh nhân tại nhà thờ, trước khi đến dùng bữa trưa với 50 người nghèo tại trung tâm Caritas địa phương, gọi là ”Nhà các thiên thần”, được biến cải từ một trường học cũ.

Rất đông tín hữu và dân chúng đứng hai bên những con đường ở trung tâm thành phố nơi ĐTC đi qua trên chiếc xe díp màu trắng mui trần. Họ reo hò vui mừng, vẫy cờ màu vàng trắng.

Sau bữa trưa, ĐTC trở lại sân trực thăng ở đại học Molise để bay về Đền thánh Castelpetroso, nơi có tôn kính tượng ảnh Đức Mẹ Sầu Bi.

Tại đây vào lúc 3 giờ 15, ngài để gặp gỡ giới trẻ miền Abruzzo và Molise.

Chặng chót trong cuộc viếng thăm của ĐTC diễn ra vào lúc 4 giờ rưỡi chiều tại nhà tù ở thành phố Isernia. Sau đó, ngài đến nhà thờ chính tòa để gặp các bệnh nhân vào lúc 5 giờ 45, trước khi gặp gỡ các tín hữu và dân chúng tại Quảng trường bên ngoài, để công bố năm thánh kỷ niệm 800 năm sinh nhật của thánh Phêrô Celestino Giáo Hoàng (1215-2015).

Theo chương trình, ĐTC đáp trực thăng từ sân của doanh trại lính cứu hỏa ở địa phương vào lúc 7 giờ rưỡi để bay về Vatican cách đó 150 cây số vào lúc 8 giờ 15 phút tối (SD 5-7-2014)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio
 

Mạc khải cho kẻ bé mọn

Mạc khải cho kẻ bé mọn

(Trích trong ‘Sống Tin Mừng’)

Bài Phúc Âm của Chúa nhật XIV Mùa thường niên hôm nay được trích trong một đoạn văn hay nhất của thánh Matthêu, người ta gọi đoạn văn này là “Hạt Ngọc Quý Nhất” của Thánh Matthêu. Dòng tư tưởng của đoạn Phúc Âm này thật cao siêu và êm dịu, chúng ta thấy ngay về sự bay bổng và suy tư về Nước Trời. Có lẽ lời cầu nguyện này được thốt ra khi Chúa Giêsu nghe các Tông đồ đi truyền giáo trở về và kể lại cho Chúa các điều họ đã thực hiện, các mối liên lạc giữa Chúa và Chúa Cha về sứ mệnh cứu rỗi làm trung gian, và mời gọi mọi người đến với Ngài. Điều ấy là các mầu nhiệm Nước Trời.

Thánh Phaolô đã cảm nghiệm được mạc khải này cho chính mình và cho các Tông đồ: “Hết thảy những ai khó nhọc và gánh nặng…” Theo mạch văn và ý muốn của Chúa mà chúng ta hiểu, đây là những người Do thái đang bị đè nặng bởi lề luật và các truyền thống của những biệt phái. Chúa Giêsu đã giải thoát họ khỏi ách lề luật và đem họ đến chỗ thảnh thơi. Vì từ nay những ai đến với Chúa phải đến với tất cả tâm hồn, phải được ghi khắc lề luật mới là luật của Thánh Thần ở bên trong và tự nguyện.

Đoạn văn này rất súc tích tư tưởng, không bao giờ khám phá ra hết, song ít ra chúng ta có thể nhận thấy chính những tư tưởng sau:

Trước hết là lời cầu nguyện của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu chúc tụng Cha Ngài trên trời vì đã mạc khải những điều này cho các trẻ nhỏ, mà lại không cho những kẻ thông thái và quân tử biết. Những nhà thông thái tự cao tự đại thường cho rằng mình biết tất cả. Lòng tự ái tự cao làm cho họ không nhận ra Lời Chúa, còn những bậc quân tử thì lại tự mãn về lối sống của mình, tự cho mình là chân chính và không cần đến sự giúp đỡ của Thiên Chúa, không cần ơn cứu rỗi của Ngài. Trái lại những kẻ bé mọn lại biết rằng mình dốt nát trước sự cao cả của Thiên Chúa, họ thấy mình bé nhỏ khốn nạn, và sẵn sàng đón nhận với lòng biết ơn về những hồng ân của Thiên Chúa, sẵn sàng đón nhận ơn cứu rỗi, cảm thấy cần Chúa: “Chúa hạ người quyền hành xuống khỏi vị cao và nâng người hèn mọn lên”.

Chúa Giêsu tự mạc khải Ngài: “Sự thực đã được Cha trao phó cho Ta và không ai biết Cha trừ ra Ta, và cũng không ai biết Ta trừ ra Cha” (Mt 11,27). Lời đó mạc khải về Chúa Giêsu, Ngài đồng bản tính với Thiên Chúa Cha. Một mình Cha biết đầy đủ về Con, vì Cha đã sinh ra Con trong trí và do sự hoàn toàn sung mãn của Ngài. Và chỉ có Con mới biết đầy đủ về Cha và hình ảnh của Con là sự trung thực nhất, là tư tưởng, ý nghĩ của Cha. Chỉ có Thiên Chúa mới hiểu biết Thiên Chúa, chỉ có Thiên Chúa mới hiểu biết đầy đủ về Thiên Chúa. Đây là một mạc khải vô cùng quí báu cho chúng ta. Chúa Giêsu sống giữa chúng ta, song không phải hoàn toàn như chúng ta: “Mọi sự đã được Chúa Cha trao, không ai biết Con trừ ra Cha, và kẻ nào Con muốn mạc khải cho”.

Một tư tưởng nữa của Phúc Âm hôm nay đó là lời kêu gọi những kẻ đói khát, những ai mệt nhọc hãy đến với Ngài: “Tất cả hãy đến với Ta, hỡi những kẻ khó nhọc gánh nặng, Ta sẽ bổ sức lại cho”.

Lời kêu gọi đầy lòng nhân hậu và giàu lòng thương xót mà Chúa hứa cho những ai đói khát, những ai mệt nhọc, Chúa sẽ nâng đỡ và Chúa luôn luôn trung thành giữ lời hứa của Ngài. Qua mọi thời đại, tất cả những ai đói khát công chính đều no nê, những ai nặng trĩu tội lỗi đến với Ngài đều được nhẹ nhõm, được bổ sức và được tha thứ. Chỉ có Chúa Giêsu mới nói được: “Tội con đã được tha thứ” (Mt 9,2), và chỉ có Chúa Giêsu mới nói được: “Đừng sợ, Ta đã thắng thế gian”, (Ga 16,33) và “Ách Ta thì êm ái, gánh Ta thì nhẹ nhàng”, (Mt 11,30).

Chúng ta hết thảy đều phải mang gánh nặng và vất vả, nhưng ở đây chúng ta không có ý nói đến những gánh nặng bên ngoài đè trên vai của mình. Như khốn nỗi, chính trong lãnh vực của tâem linh, thường thì chúng ta cũng phải vất vả nặng nề, xác thịt đè nặng, các ham muốn của tình dục, nhiều tật xấu nào đó kìm hãm tinh thần con người, và sức nặng nào đó đã cản trở con người cũ, không chịu buông tha cuộc đời chúng ta để chúng ta được đi theo Chúa một cách an vui.

Hôm nay Chúa Giêsu kêu gọi chúng ta hãy đến với Ngài, Ngài muốn cất gánh nặng đi cho chúng ta. Đúng hơn, Ngài muốn đặt trên vai chúng ta một ách khác êm ái hơn, Ngài đến để phục hồi con người vất vả của chúng ta. Chính Ngài đã nói: “Hãy mang lấy ách của Ta và hãy thụ giáo với Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhượng trong lòng, và các ngươi sẽ tìm ra được sự nghỉ ngơi cho tâm hồn”. (Mt 11, 29-30).

Vậy chúng ta hãy năng chạy đến với Chúa, để tìm được nguồn an vui và sự bình an trong tâm hồn. Amen.


Veritas Radio

“Hãy học cùng Ta…”

"Hãy học cùng Ta…"

Cuối mỗi cấp, học sinh hoặc sinh viên phải thi lấy bằng tốt nghiệp ra trường, gọi là tốt nghiệp trung học, tốt nghiệp đại học. Không biết có ai đã dùng từ tốt nghiệp cho những người học Giáo Lý, Giáo Lý Dự Tòng, Giáo Lý Hôn Nhân không, nhưng hình như mới đây, hai từ “tốt nghiệp” cũng dành cho những Đại Chủng Sinh hoàn tất chương trình Đào Tạo Linh Mục tại các Đại Chủng Viện.

Thiết tưởng, ấy cũng chỉ là chuyện từ ngữ theo cách của xã hội mà thôi.

Điều quan trọng ở chỗ: học không phải chỉ để tốt nghiệp, càng không phải để lấy bằng tốt nghiệp, nhưng là để có một cuộc biển đổi nên người trưởng thành. Học sinh nên người trưởng thành là có ý thức và trách nhiệm về tư tưởng, lời nói việc làm của mình. Cũng vậy, người học Giáo Lý nên người trưởng thành, ấy là có ý thức chuẩn xác về ơn gọi được làm con cái Thiên Chúa, nhờ Chúa Giêsu Kitô, và có trách nhiệm sống cho ra người con của Thiên Chúa.

Tin Mừng hôm nay cũng nhắc đến chữ “học”: “Hãy mang lấy ách của Ta và hãy học cùng Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhượng trong lòng, và tâm hồn các ngươi sẽ gặp được bình an”.

Trong Tin Mừng, tất cả những câu mệnh lệnh của Chúa Giêsu đều nói đến việc “làm”, như: “Hãy tin”, “hãy từ bỏ”, “hãy cầu nguyện”, “hãy tha thứ”, “hãy yêu nhau”… “Đừng thù oán”, “đừng lên án”… Và chỉ có một câu duy nhất này, Chúa bảo “hãy học”.

Như vậy, hẳn là môn học mà Chúa Giêsu bảo chúng ta hãy học, ấy là môn học quan trọng lắm. Đã vậy Chúa lại bảo “hãy học cùng Ta”, không học ở nơi thầy nào khác, cho thấy rằng chỉ có Chúa Giêsu mới xứng đáng là thầy dạy môn học nầy. Môn học đó là “hiền lành và khiêm nhượng trong lòng”.

Hãy học cùng Chúa Giêsu, vì Chúa hiền lành và khiêm nhượng trong lòng.

Quả thật, chỉ có Chúa Giêsu mới là người hiền lành kiểu mẫu, hiền lành đến mức chấp nhận thương tích mà không đánh trả, hay báo thù; hiền lành vì yêu và yêu cả người phản bội, sỉ nhục, thóa mạ hay hành hung tàn nhẫn… đúng như Ngôn Sứ Isaia đã tiên báo: “Người hiến thân vì Người tình nguyện và không mở miệng như con chiên hiền lành bị đem đi giết, và như chiên non trước mặt người xén lông, Người thinh lặng chẳng hé môi” (Is 53, 7). Và Thánh Vịnh 30 mô tả chân dung của Chúa Giêsu: “Con đã nên trò cười cho thù địch và cho cả hàng xóm láng giềng. Bạn bè thân thích đều kinh hãi, thấy con ngoài đường, ai cũng tránh xa” (Tv 30).

Sự hiền lành ấy còn mang nét đẹp trung tín đến ngàn đời, không có gì thay đổi được bản tính “hiền lành, hay thương xót” của Thiên Chúa Cha, phản chiếu nơi Chúa Giêsu, Người Con chí ái. Ấy vậy, Ngôn Sứ Giêrêmia nói: “Tôi giống như con chiên trung tín bị đem đi giết, và tôi không hề biết họ đang trù tính những điều độc ác chống lại tôi” (Gr 11, 19).

Chỉ có Chúa Giêsu mới là người khiêm tốn, như Ngôn Sứ Dacaria ca tụng: “Này vua ngươi đến với ngươi. Người khiêm tốn ngồi trên lừa con, con của lừa mẹ” (Dcr 9, 9).

Và Thánh Tông Đồ Phaolô còn khẳng định lòng khiêm nhượng của Chúa Giêsu sâu thẳm đến mức không giữ cho mình địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng lại khiêm hạ vâng phục Thiên Chúa Cha mọi đàng: “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. (Pl 2, 6-8)

Bài học “hiền lành và khiêm nhượng” của Chúa Giêsu quả là một bài học khó nuốt, vì có vẻ như bài học ấy muốn dẫn học viên đến cái chết vì yêu, như Ngài đã chết vì yêu vậy. Hơn nữa, lại không thấy Chúa nói gì đến lễ tốt nghiệp, hay được vinh quang gì khi tốt nghiệp.

Thực ra, Chúa đã nói đến lễ tốt nghiệp ấy rồi: “và tâm hồn các ngươi sẽ gặp được bình an”.

Chúa muốn chúng ta được bình an trong cuộc đời. Bình an có một giá trị lớn lao trong đời sống con người, vì khi có bình an hồn xác, ta mới có được hạnh phúc. Bình an là kết quả của lòng hiền lành khiêm nhượng, vì Chúa biết khi không có lòng hiền lành và khiêm nhượng thì chỉ chuốc lấy đau khổ, khó nhọc và gánh nặng.

Vì muốn chúng ta được bình an, Chúa Giêsu đang mời gọi chúng ta đến và học cùng Ngài: "Tất cả hãy đến với Ta, hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng, Ta sẽ nâng đỡ bổ sức cho các ngươi. Hãy mang lấy ách của Ta và hãy học cùng Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhượng trong lòng, và tâm hồn các ngươi sẽ gặp được bình an. Vì ách của Ta thì êm ái, và gánh của Ta thì nhẹ nhàng".

Nhìn lại cuộc sống chúng ta, quả là đang khó nhọc và gánh nặng.

Khó nhọc, gánh nặng là vì chưa khiêm nhượng trong lòng đủ để có thể ký thác đường đời cho Chúa, lại ảo tưởng với trí tuệ, khả năng, sự khôn khéo của mình có thể giải quyết mọi vấn đề để mang lại cho mình bình an hạnh phúc.

Khó nhọc và gánh nặng là vì không đủ hiền lành nhẫn nhịn chấp nhận sự thua kém, lại nông nổi lao mình vào chỗ tranh chấp hơn thua để chuốc lấy cái mất bình an cứ dày vò, đày đọa tâm hồn.

Khó nhọc và gánh nặng cho nhau trong cuộc đời, là vì không đủ hiền lành và khiêm tốn nhìn nhận mỗi sự hiện diện của người bạn đời, của tha nhân, kể cả của người nghèo hèn thấp kém, mất tư cách, mất phẩm hạnh… đều có thể mang lại cho ta một hồng ân quí giá của Thiên Chúa.

Khó nhọc và gánh nặng vì lòng tự phụ, vì tính chủ quan của người lớn hoặc tự cho mình là lớn, hoặc chỉ thích “chức” quyền, mà không chấp nhận thi hành nhiệm “vụ”, chắc chắn sẽ có lúc vấp ngã trên đường đời, để lộ chân tướng dối trá của lòng mình ra cho thiên hạ đàm tiếu.

Khó nhọc và gánh nặng là vì mình đành lòng chấp nhận làm nô lệ cho những đam mê xác thịt hay hư nát này: hư danh, lạc thú, giàu sang, hưởng thụ…dẫn đến sự suy sụp tinh thần, kiệt quệ sức lực, mất cả ý chí nghị lực trong cuộc đời.

Thánh Phaolô khuyến cáo: “Chúng ta không phải là những kẻ mắc nợ xác thịt, để chúng ta sống theo xác thịt. Vì chưng, nếu anh em đã sống theo xác thịt, anh em sẽ phải chết; nhưng nếu nhờ Thần Trí mà anh em đã giết được các hành động xấu xa của thân xác, thì anh em sẽ được sống” (Rm 8, 11 – 13).

Vâng, chính những món nợ xác thịt làm cho chúng ta ra khó nhọc và gánh nặng, ra đau khổ và mất bình an. Món nợ hư danh, món nợ nhục dục, món nợ của cải phù vân, món nợ hưởng thụ. Như tâm sự của một tác giả:

…Tôi đã vay của trần gian,

mấy ngàn mảnh hữu danh vô thực

Tôi đã mượn của thân xác phù vân,

những thoáng mơ màng hạnh phúc

Tôi phải trả cho người,

bằng sự nô lệ cả đời tôi

Tôi phải trả cho phù vân,

bằng sự chết nghìn thu tan tác.

Có còn được nghe niềm bình an ca hát

Nơi vực thẳm lòng kiêu ngạo của tôi ?

Ôi ! Đức Khiêm Hạ trên cao vời

Hãy nhỏ xuống lòng tôi,

mấy giọt ân tình lòng thứ tha, thương xót

một kiếp đời không chịu học Chúa Giêsu.

(Tuyết Mai Texas)

Chúa Giêsu luôn mời gọi chúng ta sống “hiền lành và khiêm nhượng” theo gương Ngài, không phải để chúng ta phải chết, nhưng là để chúng ta được vinh dự chết cái tôi kiêu hãnh, cái tôi mặt dày mặt dạn của mình, cái tôi khó từ bỏ của mình để sống cho người khác được sống; để chúng ta cất được những khó nhọc, những gánh nặng do làm nô lệ tính xác thịt của mình; và cuối cùng, là để tâm hồn chúng ta được bình an.

Lạy Chúa Giêsu hiền lành khiêm nhượng trong lòng, xin cho chúng con biết yêu mến Chúa, tin tưởng Chúa và học cùng Chúa sự hiền lành khiêm nhượng, để chúng con được thanh thản, bình an, hạnh phúc trong Chúa luôn. Amen.

PM Cao Huy Hoàng

Khiêm nhường

Khiêm nhường

Chúng ta thường tuyên xưng Thiên Chúa là Đấng Toàn Năng, phép tắc vô cùng. Khi tuyên xưng Thiên Chúa là Đấng Toàn Năng, ta thường nghĩ đến một Thiên Chúa oai nghi bệ vệ, cao sang quyền thế, xa cách. Ta không nghĩ hay không dám nghĩ rằng Thiên Chúa thật rất khiêm nhường. Thực sự Thiên Chúa rất khiêm nhường.

Vì khiêm nhường nên Thiên Chúa ẩn mình trong vô hình. Ở đời, một người quyền thế chiếm rất nhiều không gian của người khác. Người quyền thế ở nhà lớn, ngồi ghế rộng. Sự hiện diện của họ khiến mọi người khép nép, nói năng mất tự nhiên, đi đứng phải nhìn trước nhìn sau. Nếu bây giờ Thiên Chúa hiện hình đứng giữa chúng ta. Chắc hẳn chúng ta chẳng thể ngồi thoải mái như bây giờ. Trái lại chúng ta sẽ quì sụp xuống, gục đầu, đấm ngực ăn năn. Nhưng Thiên Chúa đã che giấu dung nhan. Người ẩn mình trong vô hình để cho ta được tự do. Người nhường không gian cho con người. Người tự trở nên một Đấng nghèo hèn, bé nhỏ đến độ bị người đời quên lãng.

Vì khiêm nhường nên Thiên Chúa im lặng. Trong xã hội, người uy quyền thường nói nhiều. Người nhỏ phải nghe người lớn, người nhỏ có muốn nói cũng bị tiếng người lớn át đi. Thiên Chúa đã tự trở nên bé nhỏ. Người im lặng nhường lời cho con người. Người lắng nghe con người cả khi họ chỉ trích, chống đối, lên án Người. Người trở nên một Đấng bé nhỏ nghèo hèn, khép nép, im lặng trong thế giới ồn ào của loài người.

Vì khiêm nhường nên Thiên Chúa đã cúi xuống thân phận con người. Con người chẳng là gì mà Chúa vẫn thương. Người còn cúi xuống sâu hơn nữa trước những kẻ tội lỗi để nâng họ lên. Khi người ta cúi xuống trước một kẻ cao trọng, sự khiêm nhường ấy đáng nghi ngờ. Nhưng khi người ta cúi xuống trước một thân phận tội lỗi, nghèo hèn, sự khiêm nhường ấy rất chân thực.

Chính sự khiêm nhường thẳm sâu làm chứng quyền năng vô biên của Thiên Chúa. Thông thường ở đời, quyền năng là để chiến thắng, để chế ngự, để đè bẹp. Ai chống lại quyền lực, quyền lực sẽ nghiền nát người ấy. Trái lại, nơi Thiên Chúa, quyền năng là để chịu thua, để yêu thương, để tha thứ. Sức mạnh không ở nơi quyền lực. Quyền lực bộc phát là quyền lực không tự kiềm chế được. Trái lại, khiêm nhường là chế ngự được sức mạnh của mình. Đó mới chính là quyền năng thực sự mạnh mẽ.

Thiên Chúa vô hình. Có lẽ ta sẽ khó mà hiểu biết sự khiêm nhường của Thiên Chúa, nếu ta không nhìn thấy sự khiêm nhường của Chúa Giêsu.

Cuộc đời Chúa Giêsu là một cuộc đời khiêm nhường. Vì khiêm nhường nên Ngài không ngừng đi xuống. Từ trời cao Người đã hạ mình xuống thế. Từ thân phận là Thiên Chúa Người đã hạ mình xuống làm một người bình thường. Là Thiên Chúa cao sang, Người đã tự nguyện xuống làm một người dân dã nghèo hèn. Là thánh thiện vô cùng, Người đã tự nhận lấy thân phận tội đồ. Là Đấng hằng sống, Người đã tự nguyện chết đi. Suốt cuộc đời, Người đã không ngừng cúi xuống những thân phận tăm tối, nghèo hèn, tội lỗi, bị loại trừ. Và một cử chỉ không thể nào quên là trong bữa tiệc ly, Người đã quỳ xuống rửa chân cho các môn đệ. Người đã hạ mình xuống tận cùng, không còn có thể xuống hơn được nữa.

Vì Thiên Chúa khiêm nhường luôn tìm đường đi xuống, nên những ai kiêu căng tìm nâng mình lên sẽ chẳng bao giờ gặp được Người. Thiên Chúa khiêm nhường nên chỉ ai khiêm nhường nhỏ bé mới gặp được Người.

Hôm nay Chúa Giêsu tha thiết mời gọi: “Hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng”. Hãy ghi danh vào học trường Chúa Giêsu. Hãy học bài học khiêm nhường. Hãy học bài học Giêsu. Hãy học với Thầy Giêsu. Hãy bước theo Thầy Giêsu xuống những bậc thang khiêm nhường thẳm sâu. Ở bậc thang cuối cùng, Thiên Chúa đang chờ đợi ta, ta sẽ gặp được Người. Ta sẽ kết hiệp với Người. Ta sẽ rũ sạch mọi vất vả lo âu. Ta sẽ được bình an.

Lạy Chúa Giêsu hiền lành và khiêm nhường trong lòng. Xin uốn lòng con nên giống như trái tim Chúa. Amen.

GỢI Ý CHIA SẺ

1. Những dấu nào cho thấy sự khiêm nhường của Chúa?

2. Có quyền ăn nói, nhưng im lặng nhường lời cho người khác. Có vị thế cao, nhưng ẩn mình nhường chỗ cho người khác. Có dễ không?

3. Sức mạnh bùng nổ trên người khác. Và sức mạnh chế ngự chính mình. Đàng nào mạnh hơn?

4. Thiên Chúa tuyệt đối khiêm nhường. Khám phá này có tác động gì trên bạn không?


ĐTGM Ngô Quang Kiệt

Hiền lành

Hiền lành

Trước hết, chúng ta biết hiền lành là một trong những đức tính Chúa Giêsu đã đặt vào số tám mối phúc: “Phúc thay ai hiền lành, vì họ sẽ được Đất Hứa làm gia nghiệp”. Rồi hôm nay, chúng ta lại thấy Chúa nói: “Hãy học với tôi vì tôi hiền lành”. Có lẽ không ai dám khuyên một lời như thế. Chúa Giêsu đả đưa ra lời khuyên đó, vì chính Ngài đã sống gương mẫu và kêu mời mọi người hãy sống như thế để chính mình được an bình, hạnh phúc, và đồng thời cũng đem lại bình an và phúc lộc cho những người chung quanh.

Quả thực, Chúa Giêsu đã sống hiền lành và làm gương mẫu cho chúng ta. Chúng ta có thể nêu ra một số trường hợp cụ thể: Chẳng hạn, khi những người Pharisêu nhục mạ Ngài là bị quỉ ám, Ngài vẫn bình thản và nhắc nhở họ: “Đừng xét đoán theo bề ngoài. Hãy xét đoán cho công minh”. Chúa rao giảng giáo lý của Chúa một cách hiền hòa, không chua cay, nóng nảy, bực tức hay thách đố những người chống đối, xuyên tạc và bắt bẻ Ngài. Nhiều khi thấy đương đầu với họ không có lợi, Ngài tự ý lánh đi, để cho sự tức giận hay ghen ghét của họ dần dần lắng xuống. Đối với các môn đệ quê mùa, nóng tính, tham vọng. Ngài bình thản chấp nhận và nhẹ nhàng dạy bảo. Trước tòa án Do thái, người ta đổ vạ vu oan cho Ngài đủ điều, Ngài chỉ làm thinh. Tại dinh Philatô cũng thế, Ngài không nói nửa lời để minh oan, bào chữa, đến nỗi Philatô phải ngạc nhiên. Bị tát vào má, nhổ vào mặt, đánh trên lưng, đội vòng gai trên đầu, bị nhạo cười mắng nhiếc, Ngài chịu đựng tất cả, không một lời phản đối, bực tức, phẫn uất. Trên thập giá, Ngài còn biện hộ cho những người làm khổ mình: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm”. Ngài đã tắt thở và an nghỉ trong sự suy phục sứ mạng Chúa Cha trao cho Ngài một cách toàn vẹn: “Mọi sự đã hoàn tất”, “Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha”.

Đó, chúng ta thấy Chúa Giêsu đã sống hiền lành một cách trọn vẹn, nên Ngài dám nói, dám kêu gọi chúng ta hãy học, hãy sống như Ngài. Ngài thực sự là mẫu gương cho mọi người. Qua mẫu gương hiền lành của Chúa, chúng ta rút ra được ý nghĩa của sự hiền lành là tự chủ, kiên nhẫn, chịu đựng và tha thứ hết lòng.

Người hiền lành là người làm chủ được chính mình, chiến thắng được chính mình, tức là thắng được cái tôi kiêu hãnh, ganh tị, giận hờn, tự ái, nóng nảy, tham lam của mình. Trong mỗi người có hai phần: phần thượng là ơn thánh, lý trí và ý chí. Còn phần hạ là cái dục vọng. Chiến thắng được chính mình là biết dùng ơn Chúa, dùng lý trí và ý chí điều khiển các dục vọng của mình, không để ngoại cảnh hoặc người khác chi phối, không phản ứng theo niềm vui nỗi buồn để đưa mình lên hay hạ người khác xuống.

Cũng thế, người hiền lành thì kiên nhẫn, chịu đựng mọi hoàn cảnh bất trắc hay những điều ngoài ý muốn của mình. Không tự mãn hay phóng đại công việc của mình, khoe mã, cầu danh, tự hào về những chuyện nhỏ nhen, bắt bẻ hay bực tức về chuyện sơ suất của người khác. Chúng ta mỗi người mỗi tính, mỗi người mỗi sở thích, và có những khả năng, tài năng khác nhau, không ai giống ai. Chúng ta sống với nhau, chúng ta phải biết kiên nhẫn, chịu đựng để hòa hợp với nhau, chia sẻ cho nhau. Vì thế, đòi hỏi chúng ta phải biết chịu đựng nhau, chấp nhận nhau. Chịu đựng chấp nhận cái hay cái tốt của người khác thì dễ nhưng chấp nhận chịu đựng cái xấu cái dở của người khác mới khó và đó mới là nhân đức. Có những trường hợp chúng ta phải chịu đựng, chấp nhận không phải một hai lần mà rất nhiều lần. Chấp nhận và chịu đựng được mới thực sự là người hiền lành.

Lại nữa, bao lâu còn là người, chúng ta còn lỗi lầm, còn cần được sửa sai, còn cần được tha thứ, và tha thứ mãi. Tha thứ nhiều là dấu chúng ta chịu đựng nhiều. Tha thứ nhiều sẽ chứng tỏ được tấm lòng quảng đại bao dung làm cho thêm bạn bớt thù. Tha thứ không phải là yếu thế hơn người được tha thứ, nhưng chính là tấm lòng rộng lớn hơn họ. Càng tha thứ sẽ làm cho đối phương nhận ra lỗi lầm của họ và họ sẽ thấy cần được tha thứ hơn. Cho nên, người nào muốn tập đức tính hiền lành là phải tập tha thứ.

Có lẽ tất cả chúng ta đều phải thú nhận mình còn thiếu rất nhiều đức tính hiền lành. Sống trong gia đình và sống trong bất cứ tập thể nào, chúng ta vẫn còn nhiều lần tỏ ra thiếu hiền lành, chưa hiền lành hoặc không hiền lành. Cho nên, Lời Chúa hôm nay thực là một bài học hữu ích, một lời kêu gọi chúng ta hãy sửa chữa hoặc cố gắng hơn nữa, để sống hiền lành. Nếu lịch sự được coi là bông hoa của đức ái, thì huống nữa là hiền lành. Vì thế, Chúa Giêsu đã kêu gọi chúng ta hãy sống theo gương mẫu hiền lành của Ngài.

Sưu tầm

Chướng ngại

Chướng ngại

Trên chuyến xe lửa tiến về Paris, một anh sinh viên trẻ ngồi bên cạnh một cụ già. Sau khi đoàn tàu chuyển bánh, cụ già rút trong túi áo ra một cỗ tràng hạt và từ từ chìm đắm trong việc cầu nguyện.

Anh sinh viên nhìn cụ già với vẻ khinh bỉ. Một lát sau anh nói: – Thưa ông, ông vẫn còn tin vào những chuyện nhảm nhí à?

Cụ già thản nhiên đáp:

– Đúng vậy, tôi vẫn tin. Còn cậu, cậu không tin sao?

Anh sinh viên cười ngạo nghễ rồi nói:

– Lúc còn con nít tôi có tin. Nhưng bây giờ khoa học đã mở mắt cho tôi và tôi không thể tin được nữa. Ông hãy quăng xâu chuỗi ấy đi và hãy học hỏi những khám phá mới, ông sẽ thấy những gì ông tin từ trước đến giờ đều là mê tín dị đoan.

Cụ già khiêm tốn hỏi:

– Cậu vừa nói về những khám phá khoa học mới. Cậu có thể giúp tôi hiểu được những khám phá ấy?

Anh sinh viên hăng hái trả lời:

– Được chứ. Ông cứ cho tôi địa chỉ, tôi sẽ gửi tặng ông những cuốn sách khoa học rồi ông sẽ thấy sự phong phú kỳ diệu của nó.

Cụ già rút trong túi ra một tấm danh thiếp và đưa cho anh sinh viên. Đọc qua tấm danh thiếp, anh thanh niên tái mặt và lặng lẽ cúi đầu đi sang toa khác, bởi vì trên tấm danh thiếp có ghi: Louis Pasteur, viện nghiên cứu khoa học Paris. Ông Louis Pasteur là một nhà bác học đã có nhiều phát minh trong lãnh vực hóa học và sinh vật học. Chính ông đã tìm ra thuốc chích ngừa bệnh chó dại. Dù thông thái như thế, nhưng ông vẫn khiêm tốn nhìn nhận Thiên Chúa là Đấng Tối Cao, vẫn nỗ lực tìm kiếm Chúa để sống gắn bó với Người. Vì thế ông đã nghe được tiếng Chúa và đón nhận được những mặc khải của Người.

Còn anh sinh viên kia khả năng và sự hiểu biết không được bao nhiêu, nhưng đã tỏ ra kiêu căng tự phụ về sự hiểu biết ấy. Sự kiêu căng của anh đã che khuất đi khuôn mặt của Thiên Chúa, đã làm át đi tiếng nói của Người trong tâm hồn anh. Chính vì thế anh đã không thể nhận ra dung mạo của Thiên Chúa, không nghe được tiếng nói của Người trong cuộc đời mình.

Thời đại hôm nay nền khoa học kỹ thuật tiến bộ vượt bực. Cuộc sống kinh tế của con người càng ngày càng phát triển. Người ta giàu có hơn, đầy đủ tiện nghi hơn. Nhưng tất cả những tiến bộ và phát triển ấy không đủ để phủ nhận sự hiện hữu của Thiên Chúa và niềm tin tôn giáo. Chỉ có điều là người ta quá tự hào về những thành quả khám phá của mình, tự hào về sự giàu sang của mình. Và sự tự hào ấy đã ngăn cản, đã che mờ đôi mắt làm họ không còn nhận ra được những mặc khải của Thiên Chúa cho họ.

Phần chúng ta thì sao? Chúng ta chọn thái độ của nhà bác học Louis Pateur hay của anh sinh viên trong câu chuyện trên?

Sưu tầm

Khóa họp thứ 5 của Hội đồng Hồng Y cố vấn của Đức Giáo Hoàng

Khóa họp thứ 5 của Hội đồng Hồng Y cố vấn của Đức Giáo Hoàng

VATICAN. Khóa họp thứ 5 của Hội đồng Hồng Y cố vấn của ĐTC về việc cải tổ giáo triều Roma đang tiến hành tại Vatican từ ngày 1 đến 4-7-2014.

Trong cuộc họp báo trưa ngày 2-7-2014, Cha Lombardi, Giám đốc Phòng báo chí Tòa Thánh cho biết ĐTC tham dự tất cả các phiên họp của Hội đồng và hiện nay Hội đồng gồm 9 Hồng Y thành viên, thay vì 8 vị như khi mới thành lập, vì ĐHY Pietro Parolin, Quốc vụ khanh Tòa Thánh, nay cũng là thành viên trọn vẹn của Hội đồng.

Trong khóa họp này, Hội đồng bàn về việc cải tổ Phủ Thống đốc Quốc gia thành Vatican, Phủ Quốc vụ khanh và các Hội đồng của Tòa Thánh. Hiện nay Hội đồng còn ở giai đoạn trao đổi và nghiên cứu thông tin về các cơ quan này và chưa thể nói là có một dự thảo Hiến chế mới thay thế Hiến Chế Pastor Bonus (Mục Tử Nhân Lành) có từ năm 1988 và hiện còn giá trị liên quan đến các cơ quan trung ương Tòa Thánh.

Ngoài ra, Hội đồng cũng bàn về Viện Giáo Vụ (IOR), quen gọi là ngân hàng Vatican. Khi bàn về vấn đề này, cũng có sự tham dự của Hội đồng các HY giám sát viện giáo vụ.

Về những tin tức gần đây cho rằng chủ tịch viện giáo vụ là Ông Ernst von Freyberg, người Đức, sắp từ chức sau 17 tháng tại nhiệm, Cha Lombardi tuyên bố rằng: ”Viện Giáo Vụ đang ở trong giai đoạn chuyển tiếp và phát triển, và ở trong sự thanh thản. Sự đóng góp của ông Ernst vonFreyberg tiếp tục được đánh giá rất cao và được coi là rất tích cực. Việc làm sáng tỏ hơn là điều rất có thể, vì sắp có cuộc họp của Hội đồng Kinh tế của Tòa Thánh vào ngày 5-7-2014, và cũng sẽ bàn về qui chế của viện IOR. (SD 2-7-2014)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

 

Bài trừ nạn tra tấn để bảo vệ sự tự do và phẩm giá của con người

Bài trừ nạn tra tấn để bảo vệ sự tự do và phẩm giá của con người

Phỏng vấn Đức Tổng Giám Mục Silvano Maria Tomasi, Quan sát viên thường trực của Tòa Thánh cạnh các tổ chức Liên Hiệp Quốc ở Genève

Trong hai ngày 5-6 tháng 5 năm 2014 khóa họp thứ 52 của Ủy ban Liên Hiệp Quốc về Hiệp ước chống tra tấn, gọi tắt là CAT, đã diễn ra tại Genève bên Thụy Sĩ. Tham dự khóa họp có phái đoàn của Tòa Thánh do Đức Tổng Giám Mục Silvano Maria Tomasi, Quan sát viên thường trực của Tòa Thánh cạnh các tổ chức Liên Hiệp Quốc, hướng dẫn. Thuộc thành phần phái đoàn có Đức Ông Christophe El-Kassis, giáo sư Vincenzo Buonomo, và Đức Ông Richard Gyhra.

Trong hai ngày họp phái đoàn Tòa Thánh đã điều trần theo lượt trước Ủy ban này, giống như trường hợp nhiều nước khác. Đức Tổng Giám Mục Silvano Maria Tomasi dã nhấn mạnh rằng Tòa Thánh dấn thân chống lại tra tấn với ý muốn đầu tiên là bảo vệ các quyền bất khả xâm phạm của bản vị con người”. Tòa Thánh coi ”Hiệp ước chống tra tấn” là một dụng cụ có giá trị để chống lại các hành động xúc phạm nặng nề tới phẩm giá con người, và đánh giá cao Hiệp ước mà quốc gia thành Vaticăng đã phê chuẩn năm 2002. Hiệp ước cũng được áp dụng cho quốc gia Thành Vaticăng, nhưng thật là sai lầm, khi nghĩ rằng Tòa Thánh có quyền tài phán trên mọi thành phần của Giáo Hội Công Giáo, sống rải rác trong nhiều nước trên thế giới.

Đức Tổng Giám Mục Tomasi đã bác bỏ những phê bình của một số thành viên Ủy ban Liên Hiệp quốc chống nạn tra tấn. Các thành viên này cho rằng Tòa Thánh đã không có hành động xử lý những vụ tra tấn liên quan đến lạm dụng tính dục trẻ em tại một số nơi trong Giáo Hội công giáo; hoặc có thành viên cho rằng khi chủ trương cấm phá thai là Giáo Hội Công Giáo góp phần tạo ra sự ”tra tấn” đối với những người cảm thấy cần phải phá thai.

Đức Tổng Giám Mục cho biết cần phải phân biệt Tòa Thánh, Giáo Hội Công Giáo và Quốc gia Thành Vatican. Tòa Thánh ký và phê chuẩn Hiệp ước chống tra tấn nhân danh quốc gia Thành Vatican và muốn là một uy tín tinh thần để cổ võ việc chống tra tấn trên thế giới. Tuy nhiên, Tòa Thánh không có quyền tài phán trên các tín hữu công giáo là công dân của một quốc gia.

Nếu một tín hữu công giáo vi phạm luật cấm tra tấn, thì thẩm quyền xét xử và trừng phạt thuộc về quốc gia nơi đương sự là công dân. Chính quyền các nước có bổn phận phải bảo vệ, và khi cần, truy nã các người sống dưới quyền tài phán của mình. Chính quyền mỗi nước có thẩm quyền hợp pháp hành động như chủ thể có trách nhiệm công lý đối với các tội phạm và các lạm dụng do các người dưới quyền tài phán của mình vấp phạm. Mỗi cá nhân, bất kể tùy thuộc một cơ cấu công giáo nào, thuộc quyền đặc biệt của quốc gia nơi họ sinh sống.

Tòa Thánh cũng thực thi quyền bính đó trên những ai sống trong quốc gia thành Vaticăng theo các luật lệ riêng của mình. Tòa thánh tôn trọng các nguyên tắc về sự độc lập và chủ quyền của mỗi nước.

Tòa Thánh cầu mong rằng trong việc áp dụng Hiệp ước vào trong tất cả mọi hoàn cảnh mới các hoàn cảnh đó ở trong lãnh vực chuyên biệt của Hiệp ước. Cần phải chú ý tới điều này vì đưa các đề tài khác mà Hiệp ước không đề cập tới giảm thiểu mục đích ban đầu của Hiệp ước, và gây nguy hiểm cho các tình trạng của những người bị lạm dụng và tra tấn. Từ đó có nguy cơ công việc của Ủy ban chẳng những vô hiệu, mà còn gây thiệt hại nữa. Đức Tổng Giám Mục Tomasi cũng nhắc tới nhiều lập trường của các giới chức cấp cao của Giáo Hội chống lại tra tấn, đặc biệt là giáo huấn của các Giáo Hoàng sau thời Đệ Nhị Thế Chiến. Tòa Thánh đã và sẽ tiếp tục là tiếng nói tinh thần mạnh mẽ nhất trên thế giới bênh vực các quyền con người.

Sau đây chúng tôi xin gửi tới qúy vị và các bạn một số nhận định của Đức Tổng Giám Mục Silvano Maria Tomasi, về vấn đề này.

Hỏi: Thưa Đức Cha Tomasi, Tòa Thánh đã ký nhận Thỏa hiệp chống tra tấn này trong tư cách là quốc gia thành Vaticăng. Như vậy Tòa Thánh có thái độ nào trước các phản bác hay các tố cáo không thể tránh được tìm cách đưa vấn đề vào trong bình diện tổng quát hơn của Giáo Hội công giáo?

Đáp: Trách nhiệm của Tòa Thánh được thi hành theo hai thể thức khác nhau. Thứ nhất là qua thẩm quyền triệt để tư pháp – hợp pháp mà Tòa Thánh có trên lãnh thổ của Quốc gia thành Vaticăng và nó được thực thi giống y như mọi chính quyền khác. Thứ hai là việc thực thi thẩm quyền có tính cách tinh thần của mình với một hình thức quyền bính dựa trên sứ mệnh chuyên biệt của Giáo Hội và lôi cuốn sự gằn bó tự nguyện của tín hữu với các nguyên tắc đức tin công giáo. Các quốc gia duy trì quyền tài phán riêng và triệt để trên các công dân của mình theo công giáo, chẳng hạn trong trường hợp các người này phạm tội. Đối với nhiều người thật là khó hiểu sự kiện việc thực thi quyền bính tinh thần có các phương thế và nguyên tắc khác với việc thi hành quyền bính chính trị và pháp luật. Vì Đức Thánh Cha có quyền trên toàn Giáo Hội người ta nghĩ rằng ngài có thể quyết định trên các cung cách hành xử và các trừng phạt mà các thành phần của Giáo Hội đáng bị. Quyền chìa khóa của Phêrô không giống như quyền bính đời. Các thành phần của Giáo hội sống rải rác trên toàn thế giới gồm các giám mục, linh mục, tu sĩ và giáo dân nam nữ, nhưng họ không phải là công dân của quốc gia thành phố Vaticăng, mà là công dân của các quốc gia trong đó họ sinh sống, vì thế họ có các quyền lợi và các bổn phận công dân của các nước đó.

Hỏi: Ngày mùng 5 tháng hai năm nay Tòa Thánh đã kinh ngạc khi nhận được bản tường trình của Ủy ban Liên Hiệp Quốc về quyền của các trẻ vị thành niên tại Genève liên quan tới Tòa Thánh: đây là một hành vi tố cáo gay gắt các vụ làm dụng tính dục trẻ vị thành niên từ phía một số nhân viên của Giáo Hội, mà theo Đức Cha, nó đã được viết ra trước khi Đức Cha phát biểu hồi tháng giêng năm 2014. Đức Cha có tin rằng kiểu đọc hiểu phiến diện này về Giáo Hội Công Giáo có thể vẫn còn đè năng trên việc tiếp nhận bản tường trình của Đức Cha hay không?

Đáp: Trong hai ngày mùng 5 và mùng 6 tháng 5 Tòa Thánh trình bầy bản báo cáo của mình trong phiên họp thứ 52 của Ủy ban Liên Hiệp Quốc y như các nước khác. Đây là một tiến trình nhằm áp dụng Hiệp Ước một cách tôt đẹp hơn. Tuy nhiên, từ việc duyệt xét ngắn gọn ”Các nhận xét kết luận” mà Ủy ban Liên Hiệp Quốc đưa ra đối với các bản tường trình của các nước trong hai năm qua, đã nảy sinh một loạt các đề tài chỉ liên quan một cách gián tiếp, qua một sinh hoạt giải thích rất là nới rộng, đối với văn bản và các chủ ý của Ủy ban Liên Hiệp Quốc về Hiệp ước chống tra tấn. Thí dụ đưa vào trong Ủy ban CAT thảo luận về việc lạm dụng tính dục trẻ em thì thật là rườm rà, vì nó đã được Hiệp ước về các quyền của Trẻ em đề cập tới rồi. Điều này đặc biệt đúng vì bản văn chính và ý nghĩa của nó không bao gồm các từ liên quam tới tội phạm này. Các đọc hiểu khác về Hiệp ước rất có thể có.

Trong bối cảnh quốc tế của Liên Hiệp Quốc và của nền văn hóa công cộng quốc tế chúng ta đang ở trên hai mặt khác nhau liên quan tới các giá trị nền tảng phải hướng dẫn cuộc sống chung xã hội, chẳng hạn việc bảo vệ quyền sống và sự chú ý tới các nhóm yếu đuối dễ bị thương tích hơn của xã hội. Đặc biệt trên điểm này sự đối nghịch của hai nền văn hóa khác nhau thật là hiển nhiên. Chắc chắn là các trẻ em bị để cho chết chịu một hình thức tra tấn rõ ràng. Chẳng hạn, bên Canada giữa các năm 2000 và 2011 đã có 622 trẻ còn sống sau khi phá thai, nhưng bị để cho chết, cũng như 66 trẻ em bên Anh quốc năm 2005. Một vài phương pháp phá thai chậm trễ cũng là một tra tấn, đặc biệt trong trường hợp gọi là ”giãn nở và rút ra”: bào thai bị cắt chặt thành từng mảnh, rồi bị kéo ra khỏi tử cung. Đương nhiên là Tòa Thánh sẽ ủng hộ quan niệm về bản vị con người phát xuất từ truyền thống kitô và từ khuynh hướng thực tế gắn liền với quyền tự nhiên.

Hỏi: Thưa Đức Cha Tomasi, Tòa Thánh đã phê chuẩn hiệp ước chống tra tấn ngày 22 tháng 6 năm 2002, nhưng bản tường trình đầu tiên đã chỉ được đưa ra vào năm nay 2014, tức hơn mười năm sau khi ký kết. Tại sao lại có sự chậm trễ như thế?

Đáp: Tòa Thánh tham dự vào cuộc sống của cộng đồng quốc tế một cách tích cực. Tòa Thánh góp phần mình như tiếng nói của lương tâm. Tòa Thánh không có các quyền lực to lớn và các lợi lộc kinh tế và quân sự, nhưng muốn bênh vực con người và các giá trị nền tảng nâng đỡ phẩm gía của nó như: quyền tự do tín ngưỡng, tự do phát biểu ý kiến, quyền liên đới, chống lại nghèo dói và các lạm dụng quyền bính. Tòa Thánh làm điều đó cho quốc gia thành Vaticăng như dấu chỉ, nhất là như dấu chỉ của việc khước từ mọi hình thái bạo lực hạ nhục bản vị con người. Việc chậm trễ soạn thảo bản tường trình cho Ủy ban của Hiệp ước cũng một phần dễ hiểu, bởi vì không phải là một bí mật gì sự kiện Tòa Thánh tiếp tục bênh vực các nguyên tắc và kiểu hành xử mà Hiệp Ước thừa nhận. Dầu sao đi nữa giờ đây Tòa Thánh chu toàn bổn phận này và không phải chỉ một cách hình thức, nhưng như là một gặp gỡ xây dựng với các chuyên viên của Ủy ban để thăng tiến sứ điệp của Hiệp ước, mà một cách lịch sử nó đã được thương lượng trong kỷ niệm các kinh hoàng của Đệ Nhị Thế Chiến và trong ước mong che chở các tù nhân khỏi bị tra khảo và các đối xử tàn tệ vi phạm mọi hình thái phẩm giá và quyền tự do của con người.

(RG 3-5-2014; KNA 5-5-2014)

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Kinh Truyền Tin với Đức Thánh Cha: 29-6-2014

Kinh Truyền Tin với Đức Thánh Cha: 29-6-2014

VATICAN. Trưa chúa nhật 29-6-2014, ĐTC Phanxicô đã chủ sự buổi đọc kinh Truyền Tin với 50 ngàn tín hữu tại Quảng trường Thánh Phêrô sau thánh lễ trước đó tại Đền thờ để trao dây Pallium cho 24 vị TGM chính tòa.

Trong bài huấn dụ trước khi đọc kinh, ĐTC nhắc đến truyền thống rất cổ kính của Giáo Hội Roma vẫn mừng lễ hai thánh Phêrô và Phaolô chung vào ngày 29-6. Niềm tin nơi Chúa Giêsu Kitô biến các vị thành anh em và cuộc tử đạo làm cho hai vị thành một. Thánh Phêrô và Phaolô rất khác nhau về mặt con người, nhưng được Chúa Giêsu đích thân trọn và hai vị đã đáp lại lời mời gọi và hiến dâng trọn cuộc sống. Nơi cả hai, ơn thánh của Chúa Kitô đã thực hiện những điều vĩ đại, đã biến đổi các vị: Simon trước đó đã chối Chúa Giêsu trong giờ phút khổ nạn bi thảm; Saulo đã bách hại khốc liệt các tín hữu Kitô. Nhưng cả hai đã đón nhận tình yêu của Chúa Kitô và để cho mình được lòng từ bi của Chúa biến đổi; thế là các vị trở thành bạn hữu và tông đồ của Chúa Kitô. Vì thế, hai vị tiếp tục nới với Giáo Hội và ngày nay vẫn còn chỉ cho chúng ta con đường cứu độ.

Sau khi quảng diễn thêm những đặc điểm nổi bật của hai thánh Tông Đồ, ĐTC kết luận rằng:

”Anh chị em thân mến, đại lễ này khơi dậy nơi chúng ta một niềm vui lớn lao, vì đặt chúng ta trước công trình từ bi của Thiên Chúa trong tâm hồn hai người, hai người tội lỗi. Và Thiên Chúa cũng muốn làm cho chúng ta được tràn đầy ân sủng của Ngài như đã làm cho hai thánh Phêrô và Phaolô. Xin Mẹ Maria giúp chúng ta đón nhận ơn thánh như hai vị với con tim rộng mở, và không nhận ơn thánh một cách vô ích! Xin Mẹ nâng đỡ chúng ta trong giờ thử thách, để làm chứng về Chúa Giêsu Kitô và Tin Mừng của Chúa. Ngày hôm nay chúng ta đặc biệt xin ơn ấy cho các vị TGM được bổ nhiệm trong năm vừa qua, và sáng nay đã đồng tế thánh lễ với tôi tại đền thờ Thánh Phêrô. Chúng ta chào mừng tất cả các vị cùng với các tín hữu và thân nhân của các vị. Chúng ta hãy cầu nguyện cho họ.

Sau kinh truyền tin và phép lành, ĐTC còn lên tiếng kêu gọi hòa bình cho Irak. Ngài nói:

”Những tin tức đến từ Irak đáng tiếc là rất đau thương. Tôi hiệp với các GM tại Iraq kêu gọi các nhà cầm quyền, để qua cuộc đối thoại, bảo tồn sự thống nhất đất nước và tránh được chiến tranh. Tôi gần gũi với hàng ngàn gia đình, nhất là các gia đình Kitô, đã phải rời bỏ gia cư và đang ở trong tình trạng nguy hiểm trầm trọng. Bạo lực sinh ra bạo lực khác; đối thoại là con đường duy nhất để đạt tới hòa bình”.

ĐTC cũng nhắc đến sự kiện tại Italia chúa nhật 29-6 này có cuộc lạc quyên hỗ trợ hoạt động bác ái của ĐGH, quen gọi là gọi là Đồng tiền Thánh Phêrô. ĐTC cám ơn các GM, các cha sở và tất cả các tín hữu về tình liên đới cụ thể và lời cầu nguyện đi kèm.

Ngài cũng chúc mừng các nghệ sĩ thực hiện 4 bức tranh như thảm hoa tại Đường Hòa giải và Quảng trường Piô 12 cạnh Quảng trường thánh Phêrô với sự cộng tác cảu chính quyền thành Roma, 1 ngàn chuyên gia về hoa. Họ sử dụng nửa triệu cánh hoa để tạo nên những bức tranh thảm hoa đó.

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Đức Thánh Cha trao giây Pallium cho Đức Cha Bùi Văn Đọc và 23 Tổng Giám Mục chính tòa

Đức Thánh Cha trao giây Pallium cho Đức Cha Bùi Văn Đọc và 23 Tổng Giám Mục chính tòa

VATICAN-POPE-MASS-PALLIUM

VATICAN. Lúc 9 giờ 30 sáng chúa nhật 29-6-2014, ĐTC Phanxicô đã chủ sự thánh lễ trọng thể mừng kính thánh Phêrô và Phaolô Tông Đồ, và trao dây Pallium cho 24 vị TGM chính tòa, trong đó có Đức Cha Phaolô Bùi Văn Đọc, TGM Sàigòn.

24 vị TGM đến từ 22 quốc gia, trong đó có 6 vị từ Á châu là Việt Nam, Ấn độ, Pakistan, Indonesia, 2 vị Philippines. Từ Mỹ có Đức Cha Leonard Paul Blair, TGM giáo phận Hartfort (CT).

Ngoài ra có 3 vị TGM không đến được và xin nhận dây Pallium tại giáo phận thuộc quyền, do vị Đại diện Tòa Thánh trao.

Dây Pallium là một dây làm bằng lông chiên màu trắng, bề ngang chừng 5 centimét, có 6 hình thánh giá kết bằng tơ màu đen, được đeo ở cổ, có 2 giải ngắn một ở phía trước ngực và một ở phía sau lưng. Dây này biểu tượng quyền của vị TGM đứng đầu giáo tỉnh và tượng trưng tình hiệp thông với Đấng kế vị thánh Phêrô.

Đồng tế thánh lễ có 50 HY, 70 GM và 350 Linh mục tất cả đều trong phẩm phục màu đỏ, cùng với trên 8 ngàn tín hữu, trong đó có 7 người thuộc phái đoàn Đức TGM Sàigòn, đặc biệt là chị ruột của ngài là bà Bùi Thị Hữu.

Ở chỗ danh dự trước bàn thờ chính có phái đoàn Tòa Thượng Phụ Chính Thống Constantinople do Đức TGM Loannis hướng dẫn.

Nơi hông bên phái Đền thờ, tượng thánh Phêrô bằng đồng đen được mặc phẩm phục là áo choàng mầu đỏ, theo một thói quen rất cổ kính.

Phần thánh ca, ngoài ca đoàn Sistina của Tòa Thánh, còn ca đoàn của Tòa Thượng Phụ Chính Thống Nga, và ca đoàn ”Mẹ Giáo Hội” ở Roma.

Trao dây Pallium

Nghi thức trao dây Pallium thật đơn sơ và diễn ra vào đầu thánh lễ. 4 Phó tế xuống mộ Thánh Phêrô để mang 27 dây Pallium lên cạnh bàn thờ chính để ĐTC chuẩn bị làm phép.

ĐHY Renato Martino, tân Trưởng Đẳng Phó Tế, giới thiệu các vị TGM chính tòa lên ĐTC và xin ngài trao dây Pallium cho các vị. ĐHY cũng nhắc đến 3 vị TGM không thể đến Roma được và xin được nhận dây Pallium này trong giáo phận thuộc quyền, từ vị Đại diện Tòa Thánh, đó là các vị TGM giáo phận Lilongwe bên Malawi Phi châu, Mandaly bên Myanmar và Đức Cha Stepan Burger, thụ phong TGM cùng ngày hôm qua ở Freiburg im Breisgau bên Đức, nên không thể đến dự.

Kế đến các TGM tuyên thệ luôn trung thành và vâng phục Thánh Phêrô Tông Đồ, Tòa Thánh, Giáo Hội, ĐTC và các Đấng Kế vị hợp pháp.

ĐTC đọc công thức làm phép các dây Pallium, xin Thiên Chúa là Đấng đã đặt Con của Ngài làm Mục Tử nhân lành chăn dắt Giáo hội là đoàn chiên của Chúa đổ tràn đầy ơn lành trên các dây Pallium và trên các tân TGM, nhờ ơn Chúa, sẽ đeo dây này, để được nhìn nhận như những Mục Tử đoàn chiên Chúa, và biểu lộ trong cuộc sống của mình thực tại ý nghĩa của dây nay. Xin cho các vị Mục Tử này nhận lấy ách Tin Mừng đặt trên vai mình và ách ấy trở nên dịu dàng để các vị đi trước người khác trong việc sống các giới răn của Chúa, nêu gương trung thành kiên trì, cho đến khi đáng được đưa vào đồng cỏ vĩnh cửu trong nước Chúa.

ĐTC cũng đọc công thức trong đó có đoạn nói rằng: ”Ước gì giây Pallium này, đối với anh em, là biểu hiệu sự hiệp nhất và là dấu chỉ sự hiệp thông với Tòa Thánh, là mối giây bác ái và là một khích lệ can đảm mạnh mẽ để trong ngày Thiên Chúa và Đức Giêsu Kitô, vua của các Mục Tử, đến và tỏ hiện, anh em cùng với đoàn chiên được ủy thác cho anh em, có thể được mặc lấy áo của sự bất tử và vinh quang”.

Tiếp đến từng vị tân TGM tiến lên quỳ trước mặt ĐTC để ngài đeo dây Pallium cho. Sau cùng, Đức TGM Ilsonde Jesus Montanari, người Brazil, Tổng thư ký Bộ Giám Mục, đã tiến lên trước mặt ĐTC để nhận các dây Pallium còn lại để chuyển tới các vị TGM vắng mặt.

Bài giảng Thánh Lễ

Trong bài giảng thánh lễ, dựa vào bài đọc sách Tông Đồ Công Vụ, ĐTC quảng diễn sự kiện thánh Phêrô được Chúa giải thoát khỏi mọi sợ hãi và ngài mời gọi các vị Mục Tử và tín hữu tín thác và theo Chúa. Ngài nói:

Trong ngày lễ trọng kính thánh Phêrô và Phaolô, bổn mạng chính của Roma, chúng ta vui mừng và biết ơn đón tiếp Phái đoàn do Đức Thượng Phụ chung, người anh em đáng kính và quí mến Bartolomeo gửi đến, và được Đức TGM Ioannis hướng dẫn. Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho cuộc viếng thăm này có thể củng cố các mối giây huynh đệ của chúng ta trong hành trình tiến tới sự hiệp thông trọn vẹn giữa hai Giáo Hội anh em, mà chúng ta rất mong ước.

”Chúa đã sai thiên thần của Ngài và giải thoát tôi khỏi tay Hêrôđê” (Cv 12,11). Vào đầu sứ vụ của Phêrô trong cộng đồng Kitô ở Jerusalem, vẫn còn một sự sợ hãi lớn vì những bách hại của vua Hêrôđê chống lại một số thành phần của Giáo Hội. Thánh Giacôbê đã bị giết và giờ đây chính thánh Phêrô cũng bị cầm tù để làm hài lòng dân chúng. Trong khi thánh nhân bị giam trong ngục và bị xiềng xích, Người nghe tiếng thiên thần nói: 'Hãy đứng lên! .. thắt lưng và đi dép vào… mặc áo và theo tôi!” (Cv 12,7-8). Xiềng xích rơi xuống và cửa nhà tù tự động mở ra. Phêrô nhận thấy rằng mình được Chúa giải thoát khỏi sợ hãi và xích xiềng. Đúng vậy, Chúa đã giải thoát chúng ta khỏi mọi sợ hãi và mọi xiềng xích để chúng ta có thể thực sự tự do. Buổi lễ hôm nay diễn tả thật rõ thực tại ấy với những lời trong điệp khúc trong thánh vịnh đáp ca: ”Chúa đã giải thoát tôi khỏi mọi sợ hãi”.

Đây là vấn đề đối với chúng ta ngày nay: sợ hãi và những nương náu mục vụ.

Anh em GM thân mến, tôi tự hỏi: chúng ta có sợ hãi hay không? Chúng ta sợ cái gì? và nếu có sợ thì đâu là nơi nương náu chúng ta tìm kiếm trong đời sống mục vụ để được an toàn chắc chắn? Phải chăng chúng ta tìm kiếm sự hỗ trợ của những người quyền lực trần thế? Hoặc chúng ta để cho mình bị lừa đảo vì kiêu ngạo tìm kiếm những thỏa mãn và ca tụng, tuyên dương, và chúng ta tưởng sẽ được an toàn như thế? Chúng ta đặt an ninh của chúng ta ở đâu?

ĐTC nói tiếp:

”Chứng từ của thánh Phêrô Tông Đồ nhắc nhở chúng ta rằng nơi nương náu đích thực của chúng ta là lòng tín thác nơi Thiên Chúa: lòng tín thác ấy đẩy xa mọi sợ hãi và làm cho chúng ta được giải thoát khỏi mọi nô lệ và cám dỗ trần tục. Ngày nay, GM Roma và các GM khác, đặc biệt là các vị TGM đã nhận dây Pallium, cảm thấy được gương của thánh Phêrô gọi hỏi hãy kiểm chứng lòng tín thác nơi Chúa.

Thánh Phêrô tìm lại được niềm tín thác khi Chúa Giêsu ba lần nói với Người: ”Hãy chăn các chiên của Thầy” (Ga 21.15.16.17). Và đồng thời, thánh nhân, Simon, ba lần tuyên xưng lòng yêu mến đối với Chúa Giêsu, qua đó thánh nhân chữa lành ba lần chối Chúa trong cuộc khổ nạn. Phêrô còn cảm thấy bị thiêu đốt trong tâm hồn vì vết thương làm cho Chúa đau buồn trong đêm phản bội. Giờ đây Chúa hỏi thánh nhân: ”Con có yêu mến Thầy không?”. Phêrô không tín thác nơi bản thân và sức riêng của mình, nhưng nơi Chúa Giêsu và lòng từ bi của Ngài: ”Lạy Chúa, Chúa biết mọi sự; Chúa biết con rất mến Thầy” (Ga 21.17). Và thế là sợ hãi, tình trạng bất an và nhút nhát biến mất.

”Phêrô đã nghiệm thấy rằng lòng trung tín của Thiên Chúa lớn hơn những bất trung của chúng ta và mạnh mẽ hơn những chối bỏ của chúng ta. Người nhận thấy rằng lòng trung tín của Chúa xua tan sợ hãi của chúng ta và vượt lên trên mọi tưởng tượng của con người. Ngày hôm nay, Chúa Giêsu cũng hỏi chúng ta: ”Con có mến Thầy không?” Chúa hỏi như thế vì Ngài biết những sợ hãi và cơ cực của chúng ta. Phêrô chỉ đường cho chúng ta: hãy tín thác nơi Chúa, Đấng 'biết mọi sự' về chúng ta, Chúa tin tưởng không phải nơi khả năng trung thành của chúng ta đối với Ngài, nhưng về lòng trung tín không thể lay chuyển của Ngài. Chúa Giêsu không bao giờ bỏ rơi chúng ta, vì Ngài không thể chối bỏ chính mính (Xv 2 Tm 2,13). Lòng trung tín – mà Thiên Chúa không ngừng khẳng định cả với các Mục Tử chúng ta, vượt lên trên những công trạng của chúng ta, – chính là nguồn mạch lòng tín thác và an bình của chúng ta. Lòng trung tín của Chúa đối với chúng ta luôn khơi lên nơi chúng ta ước muốn phụng sự Chúa và phục vụ anh chị em trong tình bác ái.

Tình yêu của Chúa Giêsu phải đủ cho Phêrô. Thánh nhân không được chiều theo cám dỗ tò mò, ghen tương, như khi thấy Gioan ở cạnh, thánh nhân hỏi Chúa Giêsu: ”Lạy Chúa, anh ấy sẽ ra sao?” (Ga 21,21). Chúa trả lời Phêrô: ”Điều ấy có hệ gì đến con? Phần con hãy theo Thầy” (Ga 21,22).

Và ĐTC kết luận rằng:

”Hỡi các anh em TGM quí mến, kinh nghiệm này của Phêrô là một sứ điệp quan trọng cho cả chúng ta ngày nay. Hôm nay Chúa cũng lập lại với tôi, với anh em, và với tất cả các Mục Tử: Hãy theo Thầy! Đừng mất thời giờ trong những câu hỏi hoặc những chuyện tầm phào vô ích; đừng dừng lại ở những điều phụ thuộc, nhưng hãy nhìn điều cốt yêu và theo Thầy. Hãy theo Thầy mặc dù có những khó khăn. Hãy theo Thầy trong việc rao giảng Tin Mừng. Hãy theo Thầy trong cuộc sống chứng tá tương ứng với hồng ân phép rửa tội và truyền chức thánh. Hãy theo Thầy khi nói về Thầy với những người anh em đang sống, ngày qua ngày, trong những cơ cực cảu công việc, đối thoại và tình thân hữu. Hãy theo Thầy trong việc loan báo Tin Mừng cho tất cả mọi người, nhất là những người rốt cùng, để không một ai bị thiếu Lời Sự Sống, giải thoát khỏi mọi sợ hãi và mang lại lòng tín thác nơi lòng trung tín của Thiên Chúa”.

Các lời nguyện giáo dân đã được xướng lên bằng các thứ tiếng Nga, Bồ đào nha, tiếng Hoa, Pháp, và tiếng Yoruba ở miền tây nam Nigeria và tây Phi châu, lần lượt cầu nguyện cho Giáo Hội, cho tân TGM nhận dây Pallium, cho các dân tộc trên trái đất và các nhà cầm quyền, người nghèo, bệnh nhân, những người lẻ loi và đau khổ, sau cùng là cho toàn thể các tín hữu Kitô.

Thánh lễ kéo dài 1 giờ 40 phút và kết thúc lúc 11 giờ 10, với bài ca: ”Chúng con chạy đến nương náu nơi sự bảo trợ của Mẹ Thiên Chúa:

ĐTC đã cùng với vị TGM trưởng Phái đoàn chính thống Constantinople xuống cầu nguyện tại Mộ của Thánh Phêrô Tông Đồ và trước tượng thánh nhân bên hông Đền Thờ.

Sau đó, ngài về dinh tông tòa và lúc 12 giờ trưa, ngài xuất hiện tại cửa sổ lầu 3 để chủ sự buổi đọc kinh truyền tin chung với hàng chục ngàn tín hữu tụ tập tại quang trường thánh Phêrô.

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

 

TỪ BỎ MỌI SỰ MÀ ĐI THEO CHÚA

TỪ BỎ MỌI SỰ MÀ ĐI THEO CHÚA

Chúa Giêsu đã nói với những người muốn theo Ngài: “Ai yêu cha mẹ hơn Thầy, thì không xứng với Thầy. Ai yêu con trai con gái hơn Thầy, thì không xứng với Thầy”. Lời Chúa là một đòi hỏi thật mãnh liệt và sâu xa đối với mọi Kitô hữu. Thế nhưng, con đường theo Chúa không phải cứ phẳng lì như mặt nước. Cuộc hành trình theo Đức Kitô có những lúc thật êm xuôi nhưng có những lúc thật dậy sóng.Chúa nói những điều trên để môn đệ của Chúa luôn ý thức việc theo chúa đòi hỏi môn đệ phải biết từ bỏ, quảng đại và hy sinh.

Cuộc hành trình theo Đức Kitô có thể gọi nôm na là một cuộc hải hành. Trong cuộc hải hành đức tin, thực tế có những lúc người môn đệ cảm thấy êm xuôi, lặng lẽ, tuy nhiên, có lần Chúa đã từng nói: “Hãy đến mà xem” và Ngài cũng đã từng nói trắng với những người muốn theo Ngài : “Chồn có hang.Chim có tổ. Con người không đá gối đầu”. Nói lên thực tế như vậy, Chúa Giêsu muốn các môn đệ của Ngài phải bám chặt vào Ngài, phải sống thanh thản và đặt dưới sự quan phòng của Ngài.Trong đoạn Tin Mừng của thánh Matthêu hôm nay Chúa Giêsu kết thúc bài giảng nói về truyền giáo. Chúa nói với các Tông đồ và qua các Tông đồ, Ngài nói với mọi Kitô hữu về sự từ bỏ tất cả để đi theo làm môn đệ của Chúa. Sự từ bỏ mà Chúa nói, đòi hỏi các môn đệ một cách thật nghiêm túc, và sâu xa đến nỗi muốn theo Ngài: “Phải vác Thập giá mà theo Ngài”. Thập giá là điều khó khăn, thử thách mà người môn đệ phải phấn đấu, hy sinh và quảng đại để làm theo ý Chúa, theo ý Cha của Ngài như Ngài đã vâng phục Cha để chết trên thập giá mà cứu độ gian trần, cứu độ con người. Ngài nói tiếp : “Ai giữ lấy mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mắt mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm thấy được”. Chúa muốn các môn đệ của Ngài khi đã chọn Ngài thì phải liều mình, đến nỗi nếu cần phải hiến dâng cả mạng sống để làm chứng cho Ngài. Theo Chúa, làm môn đệ của Chúa quả thực đòi hỏi con người nhiều lắm. Theo Chúa để sống với Chúa luôn là một thách thức đối với người tín hữu. Bởi vì, những điều Chúa nói luôn là những đòi hỏi con người phải từ bỏ, phải quảng đại, phải hy sinh.

Chúa Giêsu hứa ban thưởng gấp bội cho những ai đã thực hành điều Ngài muốn, những điều Ngài đòi hỏi, yêu cầu. Tại sao Chúa lại đòi hỏi như vậy và đòi hỏi như vậy có khác thường, có nghịch lý không ? Con đường theo Chúa đầy những nghịch lý và cái nghịch lý để theo chúa là từ bỏ tất cả : Cha mẹ, anh em, gia đình thân thương, gia tài, của cải, danh vọng và cả mạng sống của mình.Đó là nghịch lý lớn nhất để theo Chúa.

Làm môn đệ Chúa, ở lại và đi theo, sống với Chúa là phải từ bỏ vì Chúa đã sống như vậy, nghĩa là Ngài đã bỏ gia đình, bỏ tất cả để chỉ làm theo ý Thiên Chúa Cha. Ngài đã sống thật thảo hiền với Chúa Cha và làm gương cho mọi người, cho nhân loại về sự từ bỏ. Không chỉ những người dấn thân, đi tu trong các Dòng tu, trong các Tu hội là phải từ bỏ. Nhưng người Kitô hữu cũng được Chúa mời gọi sống triệt để “đón tiếp anh em là đón tiếp Thầy” và sống lời Chúa : “Và ai cho một trong những kẻ bé nhỏ này uống, dù chỉ một chén nước lã thôi, vì kẻ ấy là môn đệ của Thầy”. Trong cuộc sống hằng ngày giữa trăm ngàn bề bộn của công việc, gia đình, cha mẹ, anh em luôn là giằng co giữa người môn đệ Chúa với đòi hỏi của chúa Giêsu và sự gắn bó với Chúa. Rồi những giằng co giữa danh vọng, tiền tài, của cải với sự trung thành với bổn phận, với giới răn của Chúa.

Giữa những giằng co của tình cảm gia đình, những người thân thương, danh vọng,tiền tài, của cải, môn đệ của Chúa phải làm gì, phải chọn lựa làm sao? Lời Chúa ngày hôm nay sẽ giúp soi sáng, hướng dẫn để người môn đệ Chúa chọn lựa đúng và thực hành đúng!

Hôm nay, Giáo Hội cũng mừng kính hai thánh Tông đồ Phêrô và Phaolô. Hai cột trụ của Giáo Hội Chúa. Thánh Phêrô là Vị thủ lãnh trong việc tuyên xưng đức tin, thánh Phaolô là người bảo vệ lừng danh trong việc tìm hiểu đức tin. Với việc tuyên tín của thánh Phêrô về Chúa Giêsu, là Đấng Cứu Thế, là Con Thiên Chúa hằng sống.Chúa Giêsu tỏ mình cho các Tông đồ và tuyên bố thiết lập Nước Thiên Chúa cụ thể trên thế giới, trên trần gian dựa trên nền tảng đá là các Tông đồ, đặc biệt là thánh Phêrô và sau này, khi trắc nghiệm tình yêu của thánh Phêrô, Chúa Giêsu đã đặt Phêrô làm đầu Giáo Hội của Chúa. Chúa Giêsu đã nói với Phêrô: “Hãy chăn dắt chiên con, chiên mẹ của Ta”.

Lạy Chúa Giêsu, hai thánh Phêrô và Phaolô cùng các Tông đồ khác đã bỏ mọi mà theo Chúa, sống chết cho Chúa. Xin cho chúng con cũng biết từ bỏ để chúng con luôn làm theo ý Chúa như Chúa đã hoàn toàn làm theo ý Chúa Cha. Amen.

GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :

1. Chúa đòi hỏi người môn đệ những gì để theo Ngài ?
2. Tại sao môn đệ lại phải vác Thập giá mà theo Chúa ?
3. Thánh Phêrô và thánh Phaolô là ai ?
4. Tại sao khi Phêrô tuyên tín Chúa là Đấng Cứu Thế, là Con Thiên Chúa. Chúa Giêsu lại tỏ mình ra cho các Tông đồ và thiết lập Giáo Hội của Chúa ở trần gian này ?

Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT

Lễ Thánh Phêrô và Phaolô

Lễ Thánh Phêrô và Phaolô

Biến cố xảy ra gần thành Xêsarê thật quan trọng, chúng ta được mời gọi chiêm ngắm thêm một lần nữa nhân dịp Lễ Kính hai Thánh Phêrô và Phaolô Tông Đồ hôm nay. Đây không phải chỉ có một lời tuyên xưng của Phêrô mà thôi, nhưng là hai lời tuyên xưng, đó là của Phêrô và của Chúa Giêsu.

Lời tuyên xưng thứ nhất của Phêrô: “Thầy là Đức Kitô Con Thiên Chúa Hằng Sống”. Thiên Chúa yêu thương con người đến độ sai Con Một Người xuống thế để cứu rỗi nhân loại. Lời tuyên xưng của Phêrô nhìn nhận chương trình của Thiên Chúa đang diễn ra trong lịch sử con người: “Thầy là Đức Kitô Con Thiên Chúa Hằng Sống”.

Đáp lại lời tuyên xưng này, có thể nói dựa vào lời tuyên xưng Chúa Giêsu tuyên bố vinh hạnh của Phêrô, đồng thời cũng là vinh hạnh của con người, của tất cả mọi người được qui tụ trong đại gia đình của Thiên Chúa, trong một cộng đoàn con cái Thiên Chúa: “Này Simon Phêrô, trên tảng đá này Thầy sẽ xây Giáo Hội của Thầy”.

Phêrô tuyên xưng vinh quang của Thiên Chúa, Chúa Giêsu tuyên xưng vinh quang của Phêrô. Phêrô được chọn làm đá tảng và sự lựa chọn đó bền vững muôn đời, cho dù Phêrô có thế nào đi nữa thì Thiên Chúa vẫn không thay đổi chương trình, không hủy bỏ sự lựa chọn: “Phêrô con là đá, trên đá này Thầy sẽ xây Giáo Hội của Thầy”. Vinh quang của Phêrô được Chúa Giêsu tuyên bố ra đây không phải là để Phêrô khoe khoang vinh quang hay hưởng thụ quyền lực và danh vọng, mà là vinh quang của thập giá, của hy sinh chiến đấu, của sự từ bỏ mọi sự cho đến cả mạng sống mình, và chúng ta biết rõ con đường vinh quang thập giá mà Phêrô đã trải qua.

Phêrô vừa mới tuyên xưng một sự thật: “Thầy là Đức Kitô Con Thiên Chúa Hằng Sống”, tiếp đó Chúa Giêsu tuyên bố một sự thật khác:”Trên đá tảng là chính con đây, Thầy sẽ xây Giáo Hội của Thầy”. Phêrô mới nhìn nhận mầu nhiệm Con Thiên Chúa nơi chính con người Giêsu thành Nazareth đang đứng trước mặt mình, thì Chúa Giêsu liền mạc khải thêm mầu nhiệm Nhập Thể thường hằng mãi mãi trong lịch sử, không phải cho một người mà cho nhiều người được qui tụ lại làm con Thiên Chúa trong một cộng đoàn, một Giáo Hội của Người. Giáo Hội là một mầu nhiệm nhập thể kéo dài mãi mãi của Con Thiên Chúa, đó là Giáo Hội mà chúng ta đang là phần tử và đó cũng chính là Giáo Hội mà Chúa Giêsu muốn thiết lập.

Thiên Chúa mời gọi chúng ta đến với Ngài trong Giáo Hội, để chúng ta được biến đổi thành con cái Thiên Chúa, sống trong sự hiệp thông với Chúa và với nhau. Tất cả mọi sinh hoạt của người đồ đệ Chúa đều được diễn ra trong Giáo Hội của Ngài, và mọi Kitô hữu đều được qui tụ lại với nhau trong Chúa, trong một thân thể huyền nhiệm của Chúa. Đây là Giáo Hội của Thầy, trên tảng đá Phêrô, Thầy sẽ xây Giáo Hội của Thầy và cửa hỏa ngục sẽ không thắng được.

Giáo Hội yếu hèn vì gồm những con người tội lỗi, nhưng Giáo Hội cũng rất thánh thiện, tràn đầy thánh sủng của Chúa và được gìn giữ đến tận cùng: “Con là Phêrô nghĩa là đá, trên đá này Thầy sẽ xây Giáo Hội của Thầy và cửa hỏa ngục sẽ không thắng được”. Lời công bố long trọng của Chúa Giêsu đã trấn an các Tông Đồ, đồng thời mạc khải tính cách thường hằng mãi mãi. Giáo Hội sẽ hiện diện mãi mãi trong lịch sử cho đến tận thế, dù cửa hỏa ngục, tức quyền lực của hỏa ngục tấn công vào Giáo Hội, nhưng hỏa ngục sẽ không thắng được. Chúng ta hãy tin tưởng vào Giáo Hội cho đến cùng, chúng ta hãy chiến đấu với chính sự dữ nằm trong bản thân để giúp Giáo Hội chiến thắng trên mọi sự dữ.

Lạy Chúa, xin hướng dẫn con trên đường về cùng Chúa, xin tăng triển nơi con tình yêu thương và tin tưởng vào Giáo Hội, xin củng cố đức tin và củng cố sự hiệp nhất giữa chúng con trong Chúa và trong Giáo Hội của Chúa. Amen.

Veritas Radio

Hai Vì Sao Sáng

Hai Vì Sao Sáng

Bài ca nhập lễ vang lên hùng tráng trong ngày Lễ kính hai Thánh Tông đồ Phêrô, Phaolô : Hai vì sao sáng chói, lấp lánh trên bầu trời, ngời sáng đêm trường, rực rỡ soi đường sưởi ấm yêu thương.Hai tình yêu chiến thắng,ngất ngây trong cuộc đời,từ trái tim nồng dòng máu anh hùng ngời sáng muôn trùng.

Phêrô-Phaolô, hai vì sao sáng ngời chiếu toả ánh sáng Chúa Kitô cho nhân loại.Hai con người xuất thân khác nhau, tính cách khác nhau nhưng cùng một niềm tin, cùng một sứ mạng và cùng một vinh quang được đội triều thiên vinh hiển để trở thành hai vì sao sáng cho Giáo hội.

Còn nhớ hôm nào, người ba lần chối Giêsu. Còn nhớ ngày nào, người bắt Chúa trong căm thù”. Lời ca ngắn đúc kết phần một trong cuộc đời hai Ngài : chối Thầy, bắt Thầy. Nhưng cuộc đời phần hai đã viết nên những trang hào hùng oanh liệt. Nhờ tình yêu Chúa dẫn lối, hai Ngài cầm đuốc Tông đồ rao truyền Tin mừng cho thế giới.

Phêrô-Phaolô, hai cột trụ Giáo hội. Một vị được Đức Giêsu đặt làm đá tảng. Một vị được Đức Giêsu sai đi làm tông đồ dân ngoại. Cả hai vị đã làm được những việc lạ lùng giống như Thầy: chữa lành mọi bệnh tật, xua trừ ma quỷ, cho người chết sống lại và cuối cùng cả hai được phúc tử đạo.

Phêrô-Phaolô, trước khi là thánh, hai vị cũng là người tội lỗi, yếu đuối, chập choạng trên con đường đức tin.Cả hai đều hăng say năng nổ, muốn dùng sức lực của mình và phương tiện thế gian để bảo vệ Chúa mình tôn thờ, và muốn tiêu diệt những kẻ không theo đạo giống mình. Chúa Giêsu đã cứu cả hai, mỗi người được cứu một cách. Chúa Giêsu không dùng một chút vốn liếng tài ba nào của Phaolô để xây dựng Giáo Hội, cũng như không thấy sự dốt nát hèn kém nào của Phêrô gây trở ngại cho việc thiết lập Giáo Hội.

Đọc lại cuộc đời của hai Thánh Tông đồ để nhận thấy sự quan phòng kỳ diệu của Thiên Chúa. Ơn Gọi Tông Đồ quả là một mầu nhiệm lạ lùng.

1. Thánh Phêrô

Cuộc đời Phêrô có nhiều sôi nổi. Gồm lại những sôi nổi, ta có thể chia đời ông ra làm hai : cuộc đời phần một, từ khi theo Thầy ở biển hồ Galilê đến lúc chối Thầy; phần hai, từ khi theo Thầy ở biển hồ Tibêria cho đến cuối đời chết ở Roma.

Trong cuộc đời phần một của Phêrô, ông đi từ lỗi lầm này sang lỗi lầm khác.Cuối đời của Chúa,Chúa đã bị ông từ chối thê thảm (Mc 14,66-72).Gom nhặt những đoạn phúc âm nói về Phêrô, ta thấy mãnh đời của ông có nét chân dung thế này: là tông đồ bị Chúa mắng nhiều nhất.

– Mắng lần đầu tiên : Quân yếu tin (Mt 14,31)

– Lần thứ hai : Ngu tối (Mt 15,16)

– Lần thứ ba : Satan (Mc 8,33)

Khi Chúa bị bắt, bị kết án, Phêrô đã chối Thầy 3 lần. Phêrô chối Chúa vì quá yếu đuối chứ không phải vì không yêu Thầy.Trước cái chết, Phêrô rùng mình chối bỏ, tìm đường chạy trốn.Thế nhưng trước yếu đuối ấy, Phêrô đã khóc lóc nhớ lại lời Chúa nói về thân phận mình, ông oà khóc nức nở như một đứa bé với dòng lệ sám hối. Chúa đã nhìn ông bằng ánh mắt thứ tha trìu mến. Đời ông là giằng co giữa yếu đuối và dũng mảnh, giữa trọn vẹn và dang dỡ, giữa xa và gần, giữa trời và đất. Trái tim ông có u tối đi tìm ánh sáng, có nuối tiếc đi tìm lý tưởng. Đời ông có tự tin gặp vấp ngã, có phấn đấu gặp thất bại. Trong sự vấp ngã yếu đuối cuộc đời phần một của người môn đệ này vẫn có một tâm hồn chân thành.

Phần hai cuộc đời ông là một thiên anh hùng ca.Thiên anh hùng ca được mở đầu bằng những lời chứng của Gioan (Ga 21,2-3). Lời chứng nói về một đêm đen mờ mịt của biển hồ Tibêria, rồi đưa đời ông từ đêm đen mờ mịt ấy về một cõi trời phiêu bạt mịt mù sương gió cho Nước Trời.

Sứ mạng theo Đức Kitô khởi đầu từ đây khi bảy anh em ra đi đánh cá, vất vả cả đêm mà không được gì. Đức Giêsu Phục sinh đến và ban cho họ mẻ cá lạ lùng.Chính Đấng Phục sinh đã hỏi: Phêrô, con có yêu mến Thầy không ? Phêrô đáp : Thưa Thầy,Thầy biềt rõ mọi sự, Thầy biết con yêu mến Thầy. Sau khi Phêrô trả lời câu hỏi ấy với tất cả chọn lựa cân nhắc, Chúa nói với ông : Thầy bảo cho anh biết lúc còn trẻ anh tự thắt lưng lấy và đi đâu tuỳ ý.Nhưng khi đã về già,anh đã phải giang tay ra cho người khác thắt lưng và dẫn tới nơi anh chẳng muốn. Phúc âm Gioan cắt nghĩa rõ con đường này là : Người nói như vậy có ý ám chỉ ông phải chết cách nào.Thế rồi Chúa bảo ông : hãy theo Thầy. Chỉ chờ đợi lời mời gọi này, Phêrô lập tức lên đường thực thi sứ mạng Thầy trao.Từ đây “trên tảng đá này Thầy xây Giáo hội của Thầy, cửa hoả ngục sẽ không thắng được”.Từ đây, những trang sử vẻ vang của Giáo hội sơ khai được viết nên bởi vị Tông đồ có lòng yêu mến Chúa thiết tha.

2. Thánh Phaolô

Đọc Công vụ Tông tồ từ chương 8 trở đi, chúng ta bắt gặp một Saolô, ở Tacxô, là người Do thái, trí thức, thông thạo nhiều thứ tiếng miền Do thái-Hy lạp, rất sùng đạo theo môn phái Gamaliên ở Giêrusalem. Cuộc đời phần một của Phaolô là biệt phái nhiệt thành đi lùng sục bắt bớ Đạo Chúa, tham gia vào vụ giết Stêphanô và trên đường Đamat truy lùng các Kitô hữu.

Được ơn trở lại trên đường Đamat, Saolô được biến đổi để trở nên chứng nhân vĩ đại là Phaolô,Tông Đồ dân ngoại. Cuộc đời phần hai của Phaolô đã viết nên thiên anh hùng ca.

Sách Công vụ tông đồ kể : trên đường Đamat, Phaolô rong ruổi trên yên ngựa hăng say truy bắt các Kitô hữu, thình lình, ánh sáng từ trời loé rạng bao lấy ông. Không bao giờ Phaolô còn thoát được ra ngoài ánh sáng đó.Từ đó trở đi, Chúa Kitô đã trở thành tất cả đối với Phaolô.Từ đó trở đi, chỉ có Chúa Kitô là đáng kể.

Khi đã biết Chúa Kitô “những gì xưa kia tôi cho là có lợi,thì nay,vì Đức Kitô,tôi cho là thiệt thòi.Hơn nữa, tôi còn coi tất cả mọi sự là thiệt thòi,so với mối lợi tuyệt vời là được biết Đức Giêsu Kitô,Chúa của tôi.Vì Ngài, tôi đành mất hết,và tôi coi tất cả như đồ bỏ,để được Đức kitô và được kết hợp với Người.Được như vậy,không phải nhờ sự công chính của tôi, sự công chính do luật Môsê đem lại,nhưng nhờ sự công chính do lòng tin vào Đức Giêsu ( Pl 3,7-9). Từ đó trở đi, Phaolô hiên ngang vì tư cách làm môn đệ Chúa Kitô và với tư cách ấy ngài tuyên xưng sự duy nhất, sự bình đẳng, tình huynh đệ thực sự giữa tất cả mọi người : “Vì anh em,phàm ai đã được thanh tẩy trong Đức Kitô,thì đã được mặc lấy Đức Kitô: không còn Do thái hay Hy lạp, không còn nô lệ hay tự do, không còn nam hay nữ, vì anh em hết thảy là một trong Đức Kitô Giêsu” (Gal 3,27-28).Vì Đức Kitô là “tất cả mọi sự và trong mọi người” (Col 3,11). Phaolô hiên ngang được sống và được chết cho Chúa Kitô.Các mối phúc thật được kết tinh nơi cuộc đời thánh nhân. Biết mình đã tin vào ai, Phaolô đã sung sướng sống nghèo, lấy việc lao động mà đổi miếng ăn, không để giáo hữu phải cung phụng mình (1Cor 9,3-18 ; 2Cor 11,8-10), hạnh phúc vì đã mất tất cả và chịu đủ thứ khốn khổ vì Chúa Kitô. Phaolô không ngại trở nên hùng hồn kể về những “… lao tù đòn vọt,bao lần suýt chết,năm lần bị người Do thái đánh bốn mươi roi bớt một,ba lần bị đánh đòn,một lần bị ném đá,ba lần bị đắm tàu,một đêm một ngày lênh đênh giữa biển khơi.Phải chịu đủ thứ nguy hiểm bởi ‘phải thực hiện nhiều cuộc hành trình,gặp bao nguy hiểm trên sông,nguy hiểm do trộm cướp,nguy hiểm do đồng bào,nguy hiểm vì dân ngoại,nguy hiểm ở thành phố,trong sa mạc,ngoài biển khơi,nguy hiểm do những kẻ giả danh là anh em;phải vất vả mệt nhọc,thường phải thức đêm,bị đói khát,nhịn ăn nhịn uống và chịu rét mướt trần truồng” (2 Cor 11, 23-27). Phaolô ra vào tù thường xuyên, có lần Ngài viết từ ngục thất cho Timôthê, người môn đệ, có khi không khỏi nao núng: “anh đừng hổ thẹn làm chứng cho Chúa chúng ta,cũng đừng hổ thẹn vì tôi,là kẻ bị tù vì Ngài”. Phaolô không hổ thẹn “vì tôi biết tôi đã tin vào ai …”(2 Tim 1,8-12).Vì Đức Kitô “tôi phải lao đao khốn khó đến cả xiềng xích như kẻ gian phi,nhưng Lời Thiên Chúa không bị xiềng xích” (2Tim 2,9). Phaolô đã sung sướng tự hào cả khi ý thức những yếu đuối của mình “ Ơn Ta đủ cho con vì chưng quyền năng trong yếu đuối mới viên thành” (2 Cor 12,9). Không gì có thể làm nao núng lòng tin mãnh liệt ấy  “chúng tôi bị dồn ép tư bề nhưng không bị đè bẹp;hoang mang nhưng không tuyêt vọng;bị ngược đãi nhưng không bị bỏ rơi;bị quật ngã nhưng không bị tiêu diệt”(2 Cor 4,8-9).

Vị Tông đồ dân ngoại đã nhiệt thành loan truyền Chúa Kitô với tất cả thao thức “Khốn thân tôi,nếu tôi không rao giảng Tin mừng”(1Cor 5,14). Ngài luôn sống trong niềm tin tưởng yêu mến vào Đấng đã kêu gọi Ngài “tôi sống trong niềm tin vào Con Thiên Chúa,là Đấng yêu mến tôi và thí mạng vì tôi”(Gal 2,20).

Vì Đức Kitô và vì Tin mừng, thánh nhân đã sống và chết cho sứ mạng. Cuộc sống buôn ba vì Nước trời được điểm tô muôn ngàn vạn nét đẹp của Phaolô mãi mãi được hát lên như một bài ca khải hoàn “Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô ? Phải chăng là gian truân,bắt bớ ,đói khát,trần truồng,nguy hiểm,gươm giáo? … Vì tôi thâm tín rằng sự chết hay sự sống,dù thiên thần hay thiên phủ,dù hiện tại hay tương lai,hay bất cứ sức mạnh nào,trời cao hay vực thẳm hay bất cứ tạo vật nào khác,không có gì có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu Thiên Chúa thể hiện cho chúng ta trong Đức Giêsu Kitô,Chúa chúng ta” (Rm 8,35-39).

3. Hai Vì Sao Sáng

Giáo hội mừng kính hai thánh Tông đồ cùng chung một ngày. Hai con ngưòi khác nhau từ cá tính đến thân thế nhưng cùng chung một ơn gọi từ Chúa Kitô, cùng chung một niềm tin vào Chúa Kitô, chung một sứ mạng Chúa Kitô trao phó và cuối đời cùng chịu tử đạo vì Chúa Kitô tại Roma. Cùng chia sẽ một niềm tin, cùng thi hành một sứ mạng, Chúa Kitô đã đưa hai ngài đến một cùng đích, một vinh quang đội triều thiên khải hoàn. Hai con người khác biệt ấy lại có những điểm tương đồng lạ lùng.Chúa Kitô đã nối những điểm tương đồng ấy để tất cả được nên một ở trong Người. Thánh Phêrô, trước đây hèn nhát, sợ hãi, chối Chúa, về sau yêu Chúa nồng nàn thiết tha.Thánh Phaolô, trước kia ghét Chúa thậm tệ, sau này yêu Chúa trên hết mọi sự. Trước kia hai vị rất khác biệt, bây giờ cả hai nên một trong tình yêu Chúa.

Sự nghiệp Tông đồ tiếp bước Chúa Kitô, hai vị hiệp nhất trong cùng một lòng chân thành tuyên xưng, hiệp nhất trong một tâm huyết nhiệt thành rao giảng để rồi mãi mãi hiệp nhất trong cùng một đức tin minh chứng. Mặc dù có nhiều khác biệt về thành phần bản thân, về ơn gọi theo Chúa về hướng truyền giáo, nhưng cả hai vị đã tạo nên sự hiệp nhất trong đa dạng. Cùng chịu tử đạo. Cùng trở thành nền móng xây toà nhà Giáo hội. Cùng trở nên biểu tượng hiên ngang của niềm tin Công Giáo. Hai Vì Sao Sáng được Giáo hội mừng chung vào một ngày lễ 29 tháng 6. Hai Tông Đồ cột trụ đã trở nên tượng đài của sự hiệp nhất trong Giáo hội. Hiệp nhất là một công trình được xây dựng với nhiều nổ lực của con người dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Linh.  “Khác nhau trong điều phụ, hiệp nhất trong điều chính, yêu thương trong tất cả”, đó là khuôn vàng thước ngọc cho tinh thần hiệp nhất trong Giáo hội.

Đón nhận ánh sáng từ nơi Chúa Kitô, hoạt động truyền giáo theo sự dẫn dắt của Chúa Thánh Linh, hai Thánh Tông đồ trở nên nền tảng hiệp nhất. Hai ngài trở thành chói sáng như hai vì sao trong vòm trời Giáo Hội, đáng được các tín hữu chiêm ngắm noi theo. Hai ngài đã biết khiêm tốn, nhận mình là thấp hèn tội lỗi rồi mở tâm hồn ra đón nhận tình thương của Thiên Chúa. Khi trả lời câu phỏng vấn: “Jorge Bergoglio là ai?”, Đức Thánh cha Phanxicô đáp: “Tôi là người tội lỗi được Chúa nhìn đến”. Và ngài tuyên bố: “Chính tôi là người tội lỗi đây, có gì lạ đâu! Cái lạ là ở chỗ được Chúa nhìn đến, được Chúa xót thương. Và từ đó người ta tìm xem Chúa xót thương ở chỗ nào”.

Xin hai Thánh Tông Đồ giúp chúng con luôn biết tín thác vào tình thương của Chúa. luôn biết tiến bước theo các ngài trên con đường theo Chúa. Amen.

LM. Giuse Nguyễn Hữu An