Sự quan tâm của Toà Thánh đối với Đông Âu và Đông Phương

Sự quan tâm của Toà Thánh đối với Đông Âu và Đông Phương

Nội dung bài phỏng vấn ĐHY Pietrro Parolin, Quốc Vụ Khanh Toà Thánh, về sự quan tâm của Toà Thánh đối với Đông Âu và Đông Phương  

Sau hai chuyến viếng thăm Bielorussia năm 2015 và Ucraina năm 2016, vào cuối tháng 8 tới đây ĐHY Pietro Parolin, Quốc Vụ Khanh Toà Thánh sẽ viếng thăm Nga. Qua các chuyến viếng thăm này Toà Thánh khẳng định sự chú ý của mình đối với Đông Âu và các thế quân bình mới nảy sinh sau khi đế quốc Liên Xô sụp đổ và đặc biệt là nước Nga. Đó là điều chúng ta đã nhận ra trong các sứ điệp mà ĐTC Phanxicô đã gửi cho tổng thống Nga Vladimir Putin trong nhiều dịp khác nhau, và trên một bình diện khác không kém ảnh hưởng, là bình diện đối thoại đại kết kể từ cuộc gặp gỡ giữa Giám Mục Roma với Đức Thượng Phụ Mátscơva Kirill I tại thủ đô La Habana của Cuba hồi năm ngoái 2016.

Sau đây chúng tôi xin gửi tới quý vị bài phỏng vấn ĐHY Quốc Vụ Khanh Toà Thánh đã dành cho nhật báo “Mặt trời 24 giờ” về vấn đề này.

Hỏi: Thưa ĐHY chuyến viếng thăm của ĐHY được tháp vào lộ trình này như thế nào?

Đáp: Sự chú ý của Toà Thánh đối với Đông Âu không phải mới có ngày nay, nhưng đã có từ lâu đời rồi và đã không thuyên giảm, kể cả trong những năm đen tối nhất. Toà Thánh đã luôn luôn coi là quan trọng các tương quan với  Đông Âu và với nước Nga trong các giai đoạn khác nhau của lịch sử. Có hai biến cố ý nghĩa thật đáng nhớ nhưng ít người biết tới. Trong chuyến viếng thăm Roma hồi năm 1845 Nga hoàng Nicola I đã hội kiến với ĐGH Gregorio XVI hai lần.

Hai năm sau Nga hoàng đã ký một thỏa hiệp với Đức Pio XI. Các Giáo Hội địa phương đã sát cánh với các dân tộc của mình cả trong những lúc thê thảm nhất  của các cuộc bách hại. Không phải chỉ có sự kiện nó gần biên giới Âu châu khiến cho Đông Phương quan trọng, mà cả địa vị lịch sử của nó trong bối cảnh của nền văn minh , của nền văn hoá và niềm tin kitô của nó nữa. Có người nhận xét rẳng khi thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II tưởng tượng một Âu châu trải dài từ Đại Tây Dương tới vùng Ural, ngài đã không nghĩ tới một “chủ trương bành trướng tây âu, nhưng nghĩ tới một sự gần gũi hiệp nhất hơn của toàn đại lục.

Hỏi: Sau các năm khó khăn tiếp nối sự sụp đổ của Liên Xô, ngày nay chúng ta đang chứng kiến việc Matscơva trở lại chính trường quốc tế. Đây là một việc trở lại hiếu chiến. Chỉ cần nghĩ tới Ucraina và Siria thì đủ biết. ĐHY nghĩ thế nào?

Đáp: Đương nhiên là đã có một giai đoạn không chắc chắn liên quan tới lập trường của nước Nga đối với nhiều vấn đề khác nhau, nhưng tôi không nghĩ rằng có thể nói là quốc gia này cả trong những lúc khó khăn nhất, đã ra khỏi sân khấu quốc tế. Ngày nay người ta thường nhấn mạnh trên các khác biệt giữa các nước tây âu và Nga, làm như thể chúng là hai thế giới khác biệt, mỗi bên với các giá trị riêng, lợi lộc, sự kiêu hãnh quốc gia hay liên quốc gia của mình, và cả đến một quan niệm về quyền quốc tế chống lại các nước khác nữa. Trong một bối cảnh như thế thách đố là việc góp phần hiểu biết nhau hơn giữa các nước có nguy cơ trình diện mình như hai cực đối kháng nhau.

Cố gắng tìm hiểu nhau không có nghĩa là bên này nhượng bộ lập trường của bên kia, nhưng có nghĩa là một cuộc đối thoại kiên nhẫn, xây dựng và tôn trọng. Cuộc đối thoại này càng quan trọng hơn liên quan tới nguồn gốc của các cuộc xung đột thường xuyên xảy ra và liên quan tới các vấn đề có nguy cơ gây ra việc gia tăng căng thẳng. Trong nghĩa đó vấn đề hoà bình và tìm kiếm giải pháp cho các cuộc khủng hoảng  khác nhau đang xảy ra phải được đặt lên trên bất cứ lợi lộc quốc gia hay thiên vị nào. Ở đây không thể có các kẻ thắng người thua. Nhân nhượng trên các lợi lộc riêng rẽ là một trong các đặc tính trong thời trở lại của các khuynh hướng quốc gia này khiến cho người ta không nhìn thấy khả thể của một tai ương có thể xảy ra. Tôi xác tín rằng nhấn mạnh trên điểm này thuộc sứ mệnh của Toà Thánh.

Hỏi: Liên quan tới các xung đột đang xảy ra ĐTC Phanxicô đã mạnh mẽ nhắc tới việc sử dụng đồi bại tôn giáo, khi Ngài phát biểu trước Quốc Hội Hoa Kỳ, có đúng thế không thưa ĐHY?

Đáp: Vâng, đúng thế. ĐTC đã nói rằng thế giới chúng ta luôn ngày càng là một nơi của các xung khắc bạo lực, thù hận và bạo lực tàn ác, bị vi phạm nhân danh cả Thiên Chúa và tôn giáo nữa và ngài nói tiếp: Chúng ta biết rằng không có tôn giáo nào được miễn khỏi các hình thức lừa dối cá nhân hay quá khích ý thức hệ. Điều này có nghĩa là chúng ta phải đặc biệt chú ý tới mọi hình thức cuồng tín tôn giáo cũng như mọi thứ khác. Cần có một thế quân bình tế nhị để chống lại bạo lực nhân danh một tôn giáo, một ý thức hệ, hay một hệ thống kinh tế, trong khi đồng thời phải cứu vãn tự do tôn giáo, tự do trí thức và các quyền tự do cá nhân. Nó là một sự quân bình khó khăn trong đó cũng có việc bảo vệ các cộng đoàn kitô và mọi cộng đoàn có nguy cơ bị thù hận đảo lộn.

Hỏi: Chuyến viếng thăm Hoa Kỳ của ĐTC Phanxicô và các lời ngài phát biểu trước Quốc Hội giờ đây được đọc lại, với chính quyền mới, ĐHY có thấy rằng xem ra chúng xa vời không?

Đáp: Cần có thời gian để phán đoán. Không thể vội vã được. Một chính quyền mới, khác và đặc biệt như vậy, và không phải chỉ vì các lý do chính trị, các biến cố xảy ra lần đầu tiên, sẽ cần thời gian để tìm ra thế quân bình của nó. Mọi phán đoán vội vã, cả khi có thể gây kinh ngạc việc phơi bầy của sự không chắc chắn. Chúng tôi cầu mong Hoa Kỳ và các tác nhân khác của sân khấu quốc tế không xa rời trách nhiệm quốc tế của họ liên quan tới các đề tài khác nhau mà họ đã thực thi cho tới nay trong lịch sử. Chúng tôi đặc biệt nghĩ tới các thách đố mới của khí hậu: giảm việc hâm nóng trái đất có nghĩa là cứu vãn căn nhà chung trong đó chúng ta sống, và giảm thiểu ngay lập tức các bất bình đẳng và cảnh nghèo túng mà việc hâm nóng trái đất tiếp tục gây ra. Chúng tôi cũng nghĩ tới các cuộc xung đột đang xảy ra nữa.

Hỏi: ĐHY không sợ rằng sự lo lắng của Giáo Hội đối với nền hoà bình duới con mắt và trong lỗ tai của nhiều người trở thành giảm thiểu hay cả hùng biện trước vấn đề sự hữu hiệu của nó hay sao?

Đáp: Ngoại giao của Giáo Hội  công giáo là một ngoại giao của hoà bình. Nó không có các lợi lộc quyền bính: chính trị, kinh tế hay ý thức hệ. Chính vì vậy nên nó có thể trình bầy với sự tự do lớn hơn cho các người này biết các lý do của các người khác, và tố cáo cho từng bên biết các nguy hiểm mà một quan niệm tự quy chiếu có thể có đối với tất cả mọi người.

Chuyến viếng thăm Bielorussia đã được làm vào thời các nước tây âu cấm vận, và chuyến viếng thăm Ucraina đã được thực hiện khi đang có chiến tranh.  Chuyến viếng thăm này đã là dịp để đem tình liên đới của Giáo Hội và của ĐTC đến cho toàn dân Ucraina bị lôi cuốn vào cuộc xung đột. Và để cho mọi người đều thấy, chúng tôi đã tới gần vùng Donbass, có đầy người tỵ nạn, bằng cách sử dụng tình liên đới với các nạn nhân của bạo lực mà không hỏi căn tính địa lý hay chính trị của họ.

ĐTC Phanxicô đã mở ra con đường với việc thăng tiến một cuộc thu nhận các trợ giúp của các Giáo Hội Âu châu và với phần đóng góp nhiều của riêng ngài. Nếu người ta bênh vực nhân phẩm của tất cả mọi người, chứ không phải chống lại ai đó, thì khi ấy một con đường khác là điều có thể.

Toà Thánh không tìm kiếm gì cho chính mình cả. Toà Thánh không hiện diện khi nơi này khi nơi khác để không mất đi phần nào hết. Cố gắng của Toà Thánh là một cố gắng khó khăn nói một cách nhân loại, nhưng lại không thể khước từ trên bình diện tin mừng, để cho các thế giới gần nhau trở lại,  đối thoại với nhau và ngừng xâu xé nhau vì thù hận trước khi xâu xé nhau vì bom đạn.

Hỏi: Thưa ĐHY Quốc Vụ Khanh, trong điều này ĐTC Phanxicô tiếp tục một truyền thống đã nổi lên trong thế kỷ XX và được củng cố từ thời ĐTC Gioan XXIII: sự ngoại giao của các cử chỉ, các dấu hiệu gần gũi chú ý trước hết tới phẩm giá của người đối thoại, có phải vậy không?

Đáp: Chúng tôi không chỉ là các lời nói, nhưng cũng là các cử chỉ nữa. Các hành động của chúng tôi cụ thể, nhất là khi các lời nói xem ra không có hiệu quả, bởi vì chúng đã bị soi mòn hay không thể nghe được nữa. Có một ngôn ngữ đại đồng bao gồm trong các cử chỉ: Giáo Hội học nó mỗi ngày từ việc loan báo Tin Mừng có thể trợ giúp ngừng lại, và thay đổi một hướng đi sai lầm, trong những lúc khó khăn. Viễn tượng của chúng tôi chỉ có thể là viễn tượng đã được ngôn sứ Isaia nhắc tới và được Phúc Âm lấy lại: “Trong việc trả tự do cho người bị áp bức”, và “bẻ gẫy mọi gông cùm”, “chia sẻ bánh ăn với người đói, rước vào nhà những người bần cùng không nhà cửa.. không lơ là với những người cùng nhà” (Is 58,6-7). Điều quan trọng là việc chữa lành, giải thoát, luôn luôn tái xây dựng con người từ các tình trạng cụ thể của họ. Vì thế chúng ta phải có các cử chỉ cụ thể, các dấu chỉ rằng chúng ở ngọn nguồn của khả thể chung sống cùng nhau. Có các cử chỉ và xin các cử chỉ.

Hỏi: Nếu chúng ta nhìn vào các biểu tượng, thì khi đó cả từ một quan điểm chính trị, cũng nổi lên vài biểu tượng có ý nghĩa tới độ rộng mở cho niềm hy vọng, tới độ bắt đầu từ các biến cố buồn thương. Chẳng hạn ĐHY không thấy rằng đám táng của ông Kohl có thể được coi như các đám táng âu châu đầu tiên của một vị lãnh đạo âu châu hay sao?

Đáp: Ông Kohl đã có công lịch sử tin vào lý tưởng âu châu như lý tưởng chính trị cụ thể. Biến cố bức tường Berlini sụp đổ và việc tái hiệp nhất nước Đức đối với ông đã không chỉ là một vấn đề nội bộ của nước Đức và lịch sử thảm khốc của nó, nhưng là dấu chỉ của sự phát triển  của Âu châu trong đó một nước lớn như nước Đức đã có thể hoạt động một cách hợp pháp và phong phú. Không phải là một Âu châu bị đức hoá, nhưng là một nước Đức được âu châu hoá. Ông Kohl đã hiểu  rằng cả việc sát nhập âu châu trong một mức độ nào đó cũng đã là con đẻ của nền chính trị hai khối Đông Tây. Và khi hai khối được vượt thắng Âu châu phải hiện hữu như là chủ thể chính trị chứ không phải chỉ như chủ thể kinh tế mà thôi. Ngày nay người ta thường có cảm tưởng rằng ý tưởng Âu châu xem ra trở lại sau một thời gian dài của phản ứng chống âu châu trong dư luận công cộng và chiến thắng của ý tưởng này của các vị lãnh đạo trong các quốc gia khác nhau đã ngưng khá sớm. Nó đã có một sự hăng hái ngắn, như dụng cụ hơn là lý tưởng.

Nguy cơ đó là ngưòi ta dừng lại nơi việc sử dụng Âu châu trong chià khoá quốc gia. Như thể là nhiều người nói rằng sau thí dụ Anh quốc ra khỏi Liên Hiệp Âu Châu thì tốt hơn là nên ở trong căn nhà chung âu châu, mỗi người tuỳ theo ý của mình. Khuynh hướng duy quốc gia, kể cả việc trở lại  như việc khởi đầu có các gốc rễ riêng trong cuộc khủng hoảng văn hoá và tôn giáo của Âu châu và rốt cuộc nó khiến cho Âu châu trống rỗng các giá trị và các lý lẽ của mình. Âu châu có một trách nhiệm không thể thay thế được. Và khi nó tỏ ra thờ ơ, như trong trường hợp đối với hiện tượng di cư, thì nó khước từ thiện ích có thể có.

Hỏi: Chúng ta hãy hướng sang Đông Phương: từ Việt Nam cho tới Trung Quốc. Viễn Đông có một con đường đối thoại của nó với Giáo Hội hay không?

Đáp: Viễn Đông là một vùng của thế giới khá rộng, phức tạp và khác nhau. Từ bao thế kỷ qua phần đất rộng rãi đó của nhân loại đã tiếp xúc với Kitô giáo và hậu quả với Giáo Hội công giáo, nhờ các con đường và các hình thức riêng biệt khác nhau từ nước này sang nước khác. Các tiếp xúc văn hoá và tôn giáo cổ xưa với thế giới á châu ngày nay cũng cống hiến nhiều điểm quan trọng cho cuộc gặp gỡ giữa các nền văn hoá. Chỉ cần nghĩ tới các tiếp xúc đã xảy ra bên Ấn Độ nơi các kitô hữu đầu tiên, hay với đế quốc trung gian qua con đường tơ lụa hay các tiếp xúc với các khám phá địa lý của các thế kỷ XV và XVI cho tới các tiếp xúc với Nhật Bản và Philippines. Chắc chắn so sánh với quá khứ ngày nay có các thách đố mới đang chờ các câu trả lời chưa từng có và sáng tạo, nhưng nói cho cùng mục đích của Giáo Hội vẫn luôn luôn như thế và nó thuộc bản chất mục vụ: đem Thiên Chúa đến cho con người và đem con người đến với Thiên  Chúa. Trong cụ thể Giáo Hội công giáo xin được bảo đảm quyền tự do tuyên xưng đức tin lợi ích cho tất cả mọi người và cho sự hoà hợp của xã hội. Các tín hữu công giáo ước mong sống đức tin trong thanh bình tại các quốc gia của họ như là các công dân tốt, dấn thân cho việc phát triển tích cực cộng đoàn quốc gia.

Trong khung cảnh đó tôi nghĩ cần tiếp nhận con đường đối thoại đã bắt đầu từ lâu với các chính quyền của các nước trong vùng, trong đó có Cộng hoà nhân dân Trung Quốc. Cuộc đối thoại tự nó đã là một sự kiện tích cực rồi, mở ra cho cuộc gặp gỡ  và làm cho sự tin tưởng lớn lên. Chúng tôi đương đầu với nó với tinh thần của một khuynh hướng thực tiễn lành mạnh, vì biết rằng các số phận của nhân loại truớc hết nằm trong tay Thiên Chúa.

Linh Tiến Khải

Toà Thánh và Giáo Hội luôn bảo vệ nhân quyền và tự do tôn giáo

Toà Thánh và Giáo Hội luôn bảo vệ nhân quyền và tự do tôn giáo

ROVERETO: Toà Thánh và Giáo Hội sẽ luôn luôn dấn thân bênh vực và thăng tiến các quyền con người, trong đó có quyền tự do tôn giáo, sự thánh thiêng của sự sống và gia đình xây dựng trên hôn nhân giữa một người nam và một người nữ.

Đức Ông Paolo Rudelli, quan sát viên thường trực của Toà Thánh cạnh Hội Đồng Âu châu Strasbourg, đã khẳng định như trên trong bài tham luận về đề tài “Việc thăng tiến các quyền con người  trong hoạt dộng quốc tế của Toà Thánh”, trong khuôn khổ các buổi diễn thuyết tại Rovereto, tỉnh Trento chiều 28 tháng 7 vừa qua. Buổi diễn thuyết do Hiệp hội “Campana dei Caduti Maria dolens “Chuông tử sĩ Đức Maria khổ đau”, tổ chức. Đây là hiệp hội cổ võ giáo dục các thế hệ trẻ yêu chuộng hoà bình và tôn trọng nhân quyền qua các hoạt động văn hoá và ngoại giao.

Quả chuông tưởng niệm các binh sĩ tử trận trong Đệ Nhất Thế Chiến, cũng như mọi người đã chết vì bất cứ lý do gì. Quả chuông được đúc bằng đồng lấy từ các khẩu súng đại bác của 19 quốc gia tham dự đệ nhất thế chiến. Nó được đúc năm 1924 và đưa về đặt tại Rovereto năm 1925.  Sau đó nó được đúc lại ba lần nữa: lần cuối cùng năm 1964 và đã được ĐGH Phaolo VI làm phép ngày 31 tháng 10 năm 1965 tại quảng trường thánh Phêrô rồi được đưa về đặt trên đồi Miravalle. Quả chuông nặng 22 tấn 639 ký cao 3 thuớc 36, đường kính 3 mét 21 và có nốt Si Bemol. Đây là quả chuông lớn hàng thứ tư trên thế giới sau quả chuông của công viên Gotemba bên Nhật Bản nặng 36 tấn, quả chuông Millenium Newport bên Hoa Kỳ nặng 33 tấn, và quả chuông Petersglocke của nhà thờ chính toà Koeln bên Đức nặng 24 tấn.

Trong bài thuyết trình  Đức Ông Rudelli đã tóm tắt các hoạt động nổi bật của Toà Thánh và các Giáo Hoàng trong hai thế kỷ XIX-XX, đặc biệt các nỗ lực của các Giáo Hoàng trong việc bảo vệ các quyền con người đặc biệt là quyền tự do tôn giáo. Vị đại diện Toà Thánh đã nhấn mạnh phần đóng góp của các Giáo Hoàng từ Leo XIII đến Gioan XXIII và của Công Đồng Chung Vaticăng II. Cách riêng các đóng góp của Đức Phaolô VI, Gioan Phaolô II, Biển Đức XVI và Đức Phanxicô qua các giáo huấn, các thông điệp, sứ điệp và các diễn văn của các vị truớc các tổ chức quốc tế. Dữ kiện mạc khải con người được tạo dựng nên giống hình ảnh của Thiên  Chúa là điểm khởi hành và là nền tảng của phẩm giá và các quyền bất khả xâm phạm của con người, mà Toà Thánh và Giáo Hội luôn luôn mạnh mẽ giảng dậy, bảo vệ và bênh vực (REI 28-7-2017)

Linh Tiến Khải

 

Niềm vui tìm thấy Thiên Chúa

Niềm vui tìm thấy Thiên Chúa

VATICAN. Lúc 12 giờ trưa Chúa nhật 30.07.2017, Đức Thánh Cha chủ sự buổi đọc kinh Truyền Tin với hàng chục ngàn tín hữu và du khách hành hương hiện diện tại Quảng trường Thánh Phêrô. Trước khi đọc kinh, Đức Thánh Cha quảng diễn bài Tin Mừng Chúa nhật nói về dụ ngôn kho báu và ngọc quý, và Ngài làm nổi bật niềm vui của nhưng ai tìm thấy Thiên Chúa. 

Bài huấn dụ của Đức Thánh Cha

Anh chị em thân mến,

Trong chương 13 Tin Mừng theo thánh Mát-thêu, Chúa Giêsu kể cho chúng ta bảy dụ ngôn. Và hôm nay là ba dụ ngôn cuối trong số bảy dụ ngôn ấy. Ba dụ ngôn đó là: dụ ngôn kho báu (Mt 13:44) và ngọc quý (Mt 13:45-46), dụ ngôn chiếc lưới (Mt 13:47-48). Cha muốn dừng lại ở dụ ngôn kho báu và ngọc quý, với điểm nhấn là nhân vật chính trong hai dụ ngôn ấy đều bán tất cả mọi sự họ có, để có được điều họ tìm thấy. Trong dụ ngôn kho báu, người nông dân vô tình gặp được kho báu chôn giấu trong ruộng mà ông canh tác. Vì đây không phải là ruộng của ông, nên ông quyết định liều bán hết những gì ông có, để mua thửa ruộng ấy, nhằm giữ được kho báu. Ông không để mất dịp đặc biệt ấy. Trong dụ ngôn ngọc quý, chúng ta thấy một thương gia tìm được viên ngọc quý. Là chuyên gia, ông xác định được giá trị của viên ngọc ấy. Ông cũng quyết định bán tất cả mọi thứ để mua cho được viên ngọc quý.

Tìm kiếm và hy sinh

Những điểm tương đồng nổi bật của hai dụ ngôn ấy, làm sáng tỏ hai đặc tính liên quan để có được Nước Thiên Chúa: đó là tìm kiếm và hy sinh. Đúng là Nước Thiên Chúa được ban tặng cho tất cả mọi người. Đó là một món quà, một ơn ban, nhưng không phải là có sẵn trên đĩa bạc. Nước Thiên Chúa đòi hỏi một sự năng động, đó là cuộc kiếm tìm, là cần tiến bước, là cần phải làm gì đó. Thái độ kiếm tìm chính là điều kiện thiết yếu cho cuộc tìm kiếm. Cần có một trái tim đầy nhiệt huyết và khát khao giá trị cao quý, giá trị ấy chính là Nước Thiên Chúa hiện diện ngay nơi Chúa Giêsu. Người là kho báu ẩn giấu, Người là viên ngọc quý giá. Người chính là Đấng mà chúng ta cần khám phá, cần tìm thấy, vì Người có tác động mang tính quyết định trên cuộc đời chúng ta, vì Người làm cho cuộc đời chúng ta đầy tràn ý nghĩa.

Không bỏ lỡ cơ hội duy nhất

Trước những khám phá bất ngờ, người nông dân cũng như thương gia đã nhận ra trước mắt họ cơ hội duy nhất không thể bỏ qua, vì thế họ đã dám bán đi tất cả. Việc lượng định giá trị vô song của kho báu, đã dẫn tới quyết định có tính hy sinh, có tính tách rời, có tính từ bỏ. Khi kho báu và ngọc quý được tìm thấy, có nghĩa là khi chúng ta tìm thấy Chúa, chúng ta không nên bỏ qua cuộc khám phá này, nhưng chúng ta sẵn sàng hy sinh cho những gì cao quý hơn. Khi từ bỏ và bán hết những gì mình có, không có nghĩa là chúng ta coi khinh những điều ấy, nhưng có nghĩa là chúng ta đặt những điều ấy dưới Chúa Giêsu, có nghĩa là chúng ta thấy Chúa Giêsu là trên hết. Đó là ơn ban. Người môn đệ của Chúa Kitô không phải là người bị tước đoạt những điều thiết yếu, nhưng môn đệ là tìm thấy những gì cao quý hơn. Người môn đệ tìm thấy niềm vui đầy tràn mà chỉ có Chúa mới có thể ban tặng. Đó là niềm vui Tin Mừng của những người bệnh được chữa lành, niềm vui của những tội nhân được tha thứ, niềm vui của kẻ trộm được vào Nước Trời.  

Niềm vui tìm thấy Thiên Chúa

Niềm vui Tin Mừng lấp đầy trái tim và cuộc sống của những ai gặp gỡ Chúa Giêsu. Đó là những người để cho mình được Chúa cứu rỗi, đó là những người tự do khỏi tội lỗi, khỏi những buồn sầu, khỏi sự trống rỗng nội tâm, khỏi nỗi cô đơn. Cùng với Chúa Giêsu Kitô, niềm vui luôn nảy sinh luôn tái sinh (Niềm Vui Tin Mừng, 1). Hôm nay chúng ta được mời gọi chiêm ngắm niềm vui của người nông dân và thương gia trong dụ ngôn. Đó là niềm vui của tất cả chúng ta. Đó là niềm vui, khi chúng ta khám phá ra sự gần gũi và sự hiện diện của Chúa trong cuộc đời chúng ta. Sự hiện diện ấy biến đổi tâm hồn chúng ta, và mở lòng chúng ta, để chúng ta có thể đón nhận các anh chị em, đặc biệt là những người yếu đuối.

Chúng ta hãy cầu nguyện, nhờ lời chuyển cầu của Đức Trinh Nữ Maria, để với từng lời ăn tiếng nói, từng cử chỉ việc làm hằng ngày, mỗi người chúng ta biết làm chứng cho niềm vui tìm được kho báu là Nước Thiên Chúa. Niềm vui ấy chính là tình yêu mà Chúa Cha ban cho chúng ta qua Chúa Giêsu.

Đức Thánh Cha ngỏ lời chào thăm

Anh chị em thân mến,

Hôm nay là Ngày Thế Giới chống nạn buôn người. Mỗi năm hàng ngàn người nam nữ và trẻ em là nạn nhân vô tội của nạn bóc lột lao động và khai thác tình dục cũng như nạn buôn bán cơ phận. Những điều ấy có vẻ quá quen đến nỗi chúng ta thấy là bình thường. Không, không phải thế, những điều ấy là xấu xa, là độc ác, là tội ác! Tôi muốn cho mọi người thấy rằng, những điều tệ hại ấy là hình thức nô lệ thời hiện đại, và chúng ta phải chống lại tội ác ấy. Chúng ta hãy cầu nguyện cùng Đức Trinh Nữ Maria, để Mẹ nâng đỡ các nạn nhân và hoán cải những kẻ buôn người. Chúng ta hãy cũng nhau cầu nguyện với Đức Mẹ:

Kính mừng Maria…

Sau đó Đức Thánh Cha chào thăm các tín hữu hành hương đến từ Italia cũng như từ khắp nơi trên thế giới. Ngài kết thúc bằng lời mời gọi mọi người đừng quên cầu nguyện cho Ngài.  

Tứ Quyết SJ

Ngày giới trẻ Á châu bên Indonesia

Ngày giới trẻ Á châu bên Indonesia

YOGYAKARTA: Hôm nay 30 tháng 7 hai ngàn bạn trẻ tới từ 21 nước Á châu sẽ bắt đầu tham dự Ngày giới trẻ Á châu kéo dài cho tới ngày mùng 9 tháng 8 bên Indonesia.

Ngày giới trẻ Á châu có đề tài: “Giới trẻ Á châu tươi vui: Sống Tin Mừng trong châu Á đa văn hoá” do Liên Hội Đồng Giám Mục Á châu tổ chức lấy hứng từ Ngày Quốc Tế Giới Trẻ đo thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II khởi xướng hồi năm 1985. Ngày quốc tế giới trẻ Á châu lần đầu tiên đã được tổ chức tại Hua Hin bên Thái Lan năm 1999. Sau đó ngày này được tổ chức cách quãng 2, 3 hay 5 năm một lần. Năm 2014 nó đã được tở chức tại Daejon bên Nam Hàn với sự tham dự của ĐTC Phanxicô.

Trong các ngày từ 30 tháng 7 tới mùng 2 tháng 8 các phái đoàn bạn trẻ sẽ được 11 trên 37 giáo phận tiếp đón. Đây là dịp để các bạn trẻ gặp gỡ trao đổi và học biết cuộc sống trong các giáo phận Indonesia. Sau đó từ mùng 2 tới mùng 6 tháng 8 các bạn trẻ tham dự chương trình chung tại Yogyakarta trong giáo phận Semarang với nhiều sinh hoạt khác nhau: thánh lễ, học hỏi giáo lý, thảo luận, chia sẻ kinh nghiệm, chứng từ, chầu Mình Thánh Chúa, xưng tội,  sinh hoạt nhóm, triển lãm, trình diễn văn nghê, nghệ thuật văn hoá. Ba ngày từ mùng 6 tới mùng 9 là cuộc gặp gỡ của giới trẻ thừa tác.

Cha Deepak, thư ký văn phòng giới trẻ của HĐGM Ấn Độ, cho biết phái đoàn Ấn gồm 84 bạn trẻ đến từ nhiều giáo phận khác nhau. Các bạn tới giáo phận Palembang và Pontiniak. Trong các màn giới thiệu văn hoá các bạn sẽ  trình diễn văn hoá vùng Tây và vùng Goa, cũng như trình diễn 10 phút nhạc cảnh ( REI 26-7-2017)

Linh Tiến Khải

 

Cảm nhận Đức Tin của nam sinh đạt Huy Chương Vàng Toán Quốc Tế

Cảm nhận Đức Tin của nam sinh đạt Huy Chương Vàng Toán Quốc Tế

“Em rất sung sướng, hạnh phúc! Tạ ơn Chúa, cám ơn cha mẹ, quý thầy cô và mọi người”. Đó là tâm sự chân thành với người viết của Antôn Phan Nhật Duy, sau vài giờ em biết mình được huy chương vàng tại kỳ thi Olympic Toán học quốc tế (International Mathematical Olympiad), lần thứ 58, năm 2017 (IMO 2017), vừa tổ chức tại Jio de Janeiro, Brazil.

Nhìn lại hoàn cảnh xuất thân và lắng nghe tâm sự của Nhật Duy, để thấy phần nào sự chăm chỉ, khiếm tốn và lòng đạo đức của cậu học sinh xuất sắc, đáng tự hào này.

Em Antôn Phan Nhật Duy là con thứ hai của anh Giuse Phan Tình Nguyện và chị Maria Võ Thị Lài, giáo dân họ Tân Vạc, xứ Kẻ Đọng, thuộc xã Sơn Tiến, Hương Sơn, Hà Tĩnh.

Vốn làm nông thuần túy, kinh tế còn khó khăn, việc cho bốn người con ăn học đầy đủ cũng là cố gắng lớn của bố mẹ Nhật Duy. Hằng ngày, ngoài giờ học, phụ giúp gia đình trồng trọt, chăn nuôi trở thành nhiệm vụ quen thuộc đối với anh em Duy.

Trước khi vào thành phố Hà Tĩnh học cấp III ở trường Chuyên, Phan Nhật Duy là học sinh trường Tiểu học II và Trung học cơ sở Sơn Tiến. Suốt các năm học phổ thông, em đều là học sinh giỏi toàn diện. Riêng môn Toán, Nhật Duy thường xuyên đạt giải cao trong các kỳ thi học sinh giỏi các cấp huyện, tỉnh và quốc gia.

Điều đáng ghi nhận nữa là Nhật Duy cũng thường xuyên đạt giải cao trong các kỳ thi Giáo lý.

Sang Brazil thi Olympic lần này, ngoài sách vỡ, ít tiền bạc và tư trang, Antôn Phan Nhật Duy còn mang theo hai thứ đặc biệt đó là: bức ảnh “Chúa Thương xót” với hàng chữ “Lạy Chúa Giêsu, con tín thác vào Chúa” và tràng Chuỗi Mân Côi. Duy kể: “Em thường xuyên cầu nguyện, xin Đức Mẹ và thánh Antôn quan thầy bầu cử cho”.

Nói về thi Olympic, Nhật Duy tâm sự: “Mỗi thí sinh phải làm sáu bài thi, mỗi ngày thi ba bài. Em khá lo lắng sau ngày thứ nhất, chỉ biết cố gắng, cầu nguyện và phó thác. Thi xong vẫn chưa hết hồi hộp, thật may mắn cho em vừa đủ để đạt huy chương vàng. Em cảm thấy đó là hồng ân lớn lao Chúa thương ban, đền đáp công sức của cha mẹ, các thầy cô và mọi người”.

Huy chương vàng của Phan Nhật Duy góp phần quan trọng giúp đội tuyển Toán Việt Nam đứng thứ ba trong tổng số 112 quốc gia và vùng lãnh thổ tham gia IMO 2017. Đây là thành tích cao nhất của nước ta trong 43 lần tham gia sân chơi này.

Người Công Giáo xác tín “Tôi có là gì, cũng là nhờ ơn Thiên Chúa” (1Cr 15,10). Để có được tấm huy chương vàng tại IMO, dĩ nhiên ngoài tố chất thông minh và sự cố gắng vượt bậc của cá nhân Antôn Phan Nhật Duy là bao mồ hôi và công lao của cha mẹ, các thế hệ thầy cô, đặc biệt là những người trực tiếp bồi dưỡng. Ngang qua những con người bình thường đó, Chúa dệt nên điều phi thường. Cá nhân Nhật Duy (chàng trai chưa đầy mười tám tuổi) ý thức điều đó, nên cảm nhận đầu tiên khi giành chiến thắng là “tạ ơn Chúa và cám ơn tất cả mọi người”. Đó cũng là vẻ đẹp của Đức tin Công giáo, vì khi ta càng cố gắng sống trọn tình với Chúa là Cha thì ta mới có thể sống vẹn nghĩa với anh em mình.

“Việc Chúa làm cho ta, ôi vĩ đại
Ta thấy mình chan chứa một niềm vui”
(Tv 125,3).

Xin chúc mừng Antôn Phan Nhật Duy, xin Chúa tiếp tục đồng hành cùng em để niềm tự hào hiện tại sẽ được tiếp tục trong tương lai.

Antôn Hùng Mạnh

http://giaophanvinh.net/modules.php?name=News&op=viewst&sid=13589

Tái đặt 15 tượng Đức Mẹ Lộ Đức trong các làng vùng Ninive

Tái đặt 15 tượng Đức Mẹ Lộ Đức trong các làng vùng Ninive

QARAQOSH:  Trong những ngày từ 20 đến 25 tháng 7 này, nhiều làng mạc và thị trấn vùng bình nguyên Ninive từng có đa số dân cư là tín hữu ky tô, đã đặt lại 15 tượng Đức Mẹ Lộ Đức tại những nơi các tượng này bị phá hủy hay chuyển dời do các nhóm thánh chiến hồi giáo IS trong thời gian họ chiếm nơi đây.

Sáng kiến này đã có thể thực hiện với sự trợ giúp của hiệp hội công giáo Pháp Oeuvre d’Oriente sau một chuyến viếng thăm của cha Pascal Gollnish, tổng giám đốc hiệp hội trong vùng này. Cha đã chứng kiến tận mắt số lớn những thánh giá bị phạm thánh, bao nhiêu tượng ảnh Chúa Giêsu và Mẹ Maria bị đập phá tan tành trong ba năm vùng này bị quân hồi giáo IS chiếm đóng. Từ tháng ba vừa qua, 15 bức tượng tạc theo mẫu Đức Mẹ Lộ Đức được Đức GM Nicolas Brouwet chúc lành, đã được đưa lên xe camion chở đến Ninive.

Trong những ngày vừa qua, nghi lễ tái an vị các tượng Đức Mẹ tại các giáo xứ, đền thánh và nơi công cộng đã được tổ chức với sự hiện diện của các Giám Mục, linh mục tu sĩ và giáo dân địa phương, rất nhiều người vừa hồi hương sau ba năm tỵ nạn. Bây giờ, các tín hữu ky tô tại những nơi ấy lại có thể cầu nguyện trước tượng ảnh Đức Mẹ Lộ Đức, Đấng đã hỗ trợ họ suốt thời gian dài tha hương. (FIDES 240717)

Mai Anh

 

Trung Quốc muốn hạ thấp địa vị của Đức Hồng y Zen

Trung Quốc muốn hạ thấp địa vị của Đức Hồng y Zen

Lãnh đạo ban tuyên giáo của Trung Quốc lệnh cho các phóng viên đại lục không được gọi Đức Hồng y trực tính Joseph Zen Ze-kiun là giám mục “danh dự” của Hồng Kông, nhưng thay vào đó bằng từ “cựu”.

Cách gọi mới cho Đức Hồng y Zen nằm trong danh sách các từ ngữ bị “cấm hay sử dụng cách thận trọng”, tờ Tân Hoa Xã của nhà nước thông báo với các nhân viên truyền thông tại Trung Quốc.

“Nên dùng từ ‘cựu giám mục’ thay cho từ ‘giám mục danh dự’ khi gọi Zen Ze-kiun và các giám mục nghỉ hưu khác của giáo phận Công giáo Hồng Kông”, theo điểm số 48 trong danh sách được nhiều phương tiện truyền thông Trung Quốc loan tải.

Đức Hồng y Zen nổi tiếng chỉ trích đảng Cộng sản cầm quyền. Ngài lớn tiếng nói về quyền tự do chính trị, nhân quyền và ngược đãi tôn giáo, đặc biệt trong sáu năm rưỡi ngài làm giám mục của Hồng Kông cho đến khi ngài nghỉ hưu vào tháng 9-2009, và việc này thường gây sự chỉ trích từ phía Bắc Kinh.

Kể từ đó, đức hồng y tiếp tục những nỗ lực ủng hộ và việc ngài sẵn sàng tham gia các cuộc tranh luận về tương lai chính trị trên lãnh thổ này làm cho ngài trở thành một người được các nhóm ủng hộ dân chủ ở Hồng Kông yêu mến.

Gần đây ngài lên tiếng nói về việc chính quyền cộng sản ngược đãi ông Liu Xiaobo (Lưu Hiểu Ba), người được trao Giải Nobel Hòa bình qua đời hôm 13-7.

Lệnh cấm dùng từ ngữ này khiến nhiều blogger Công giáo ở đại lục tức giận, họ đang phải đối phó với lệnh cấm dùng các mạng ảo cá nhân, một công cụ họ dùng để tránh bức tường lửa, chương trình kiểm duyệt Internet của Trung Quốc.

“Đức Giám mục Danh dự. Thế đấy, đến đây bắt tôi đi?”, một blogger Công giáo thách thức trên mạng xã hội.

Một blogger khác nói “Từ trước giờ Giáo hội gọi giám mục nghỉ hưu là giám mục danh dự. Thay đổi cách gọi là sai thực tế”.

Điều chỉnh những việc nên và không nên làm

45 điểm đầu trong danh sách các từ bị cấm được đưa tin trên báo chí đã được phát hành hồi tháng 11-2015. Danh sách điều chỉnh đã được lưu hành từ ngày 19-7, thêm vào 57 điểm mới và cập nhật tính tới tháng 7-2016 – nhưng chỉ mới được tiết lộ cho các phương tiện truyền thông gần đây.

Đức Hồng y Zen là chức sắc Công giáo duy nhất có tên trong danh sách, và là một trong hai nhân vật tôn giáo được nêu tên, người thứ hai là Tiên tri Mohammed, nhà sáng lập đạo Hồi. Danh sách này nhắc nhớ các phóng viên nêu tên đầy đủ của những người mang họ Mohammed, để phân biệt họ với Tiên tri Mohammed.

Danh sách được chia thành 5 loại: xã hội và chính trị; pháp lý và pháp luật; tôn giáo và dân tộc; Hồng Kông, Macao và Đài Loan và liên quan đến chủ quyền; cũng như quan hệ quốc tế.

Năm trong 8 điểm về tôn giáo và dân tộc nói về Hồi giáo, như không xem dân tộc Hồi là Hồi giáo; không dùng từ “giết” nhưng dùng từ “mổ” gia súc bởi người Hồi giáo; và không đề cập đến heo trong các câu chuyện liên quan đến đạo Hồi. Những điểm này đã có trong danh sách năm 2015.

Hầu hết các từ ngữ “bị cấm hay sử dụng cách thận trọng” mới được thêm vào nói về quan hệ giữa hai bờ eo biển, do tình trạng căng thẳng chính trị với Đài Loan gia tăng từ khi bà Thái Anh Văn đảm nhận chức tổng thống, và diễn biến chính trị tại Hồng Kông.

Số 48 trong danh sách mới yêu cầu các phương tiện truyền thông ở đại lục không được gọi 3 nhà tổ chức Phong trào chiếm trung tâm “bất hợp pháp” ở Hồng Kông bằng lời tôn trọng “Bộ ba lãnh đạo Phong trào chiếm trung tâm” nhưng dùng cụm từ mang tính hạ nhục “Ba kẻ xấu xa”.

UCANEWS

Người trẻ Ấn Độ chia sẻ đức tin tại Đại hội Giới trẻ

Người trẻ Ấn Độ chia sẻ đức tin tại Đại hội Giới trẻ

Người trẻ Công giáo Ấn Độ sẽ lên đường tham dự Đại hội Giới trẻ Á châu lần thứ 7 tại Indonesia hy vọng sự kiện này sẽ làm mới quan điểm của họ về đức tin.

Cha Deepak K.J. Thomas, thư ký điều hành Ủy ban Giới trẻ của Hội đồng Giám mục Công giáo Ấn Độ, cho biết phái đoàn Ấn Độ có 84 người trẻ sẽ tham dự Đại hội Giới trẻ Á châu tại Yogyakarta từ ngày 2-6/8.

Họ sẽ cùng với khoảng 3.000 người trẻ đến từ 26 quốc gia châu Á đến thành phố của Indonesia tham dự đại hội với chủ đề “Giới trẻ Á châu hân hoan sống Phúc Âm tại châu Á đa văn hóa”.

Tham dự viên Ấn Độ chủ yếu là lãnh đạo giới trẻ và nhận thức được “những gì đang xảy ra trong Giáo hội, cơ cấu và cách hoạt động của Giáo hội”, cha Thomas nói.

“Tương tác với các bạn trẻ khác về vai trò của họ trong Giáo hội, cách làm việc và trao đổi về những kinh nghiệm này sẽ hữu ích cho đời sống của họ”.

Thành viên phái đoàn Ấn Độ đến từ các vùng khác nhau là do các giáo phận tuyển chọn. Tất cả sẽ tự lo chi phí, theo cha Thomas.

Leon Pereira, phó chủ tịch Phong trào Giới trẻ Công giáo Ấn Độ, cho biết ông có tên trong danh sách 12 người được giáo phận Vasai ở miền tây Ấn Độ chọn đi tham dự sự kiện này, và họ mong muốn gặp gỡ các bạn trẻ Công giáo đến từ các nước khác.

“Họ thuộc nhiều thành phần khác nhau – vai trò của họ trong Giáo hội, cách cầu nguyện và văn hóa sẽ khác. Tương tác với họ, tôi chắc chắn sẽ củng cố đức tin, đời sống cầu nguyện và vai trò của chúng tôi trong xã hội”.

Pereira, 24 tuổi, cho biết thêm anh đang mong muốn hiểu được người Công giáo đến từ các nước khác hành đạo như thế nào.

Jenny Joy, 26 tuổi, đến từ tổng giáo phận Delhi, nói bản thân người Ấn Độ đến từ các vùng khác nhau cũng là “một trải nghiệm” vì “chúng ta khác nhau về thói quen ăn uống, văn hóa và ngôn ngữ”.

Joy cho biết tính đa dạng của Ấn Độ sẽ tạo thách thức cho phái đoàn khi kể lại toàn bộ câu chuyện của họ.

“Hoàn cảnh sống, văn hóa và ngôn ngữ của Kitô hữu Ấn Độ đến từ các vùng khác nhau rất đa dạng, khiến cho việc khái quát hóa tình hình của Kitô hữu Ấn Độ khá khó khăn”, chị nói.

Tại Đại hội Giới trẻ Á châu này, phái đoàn Ấn Độ sẽ trình diễn âm nhạc và các vũ điệu trong 10 phút.

Chương trình Đại hội Giới trẻ Á châu bao gồm 3 ngày sinh hoạt tại các gia đình trong 11 giáo phận, 3 ngày tham gia chương trình chính và một ngày họp mặt thừa tác viên giới trẻ.

UCANEWS

Nữ tác giả Công giáo Nhật Bản một đời vì tha nhân

Nữ tác giả Công giáo Nhật Bản một đời vì tha nhân

Michiko Inukai, một tác giả Công giáo Nhật Bản nổi tiếng trên cả nước ủng hộ người tị nạn và nước ngoài, qua đời hôm 24-7 vì tuổi già, thọ 96 tuổi.

Michiko là cháu gái của Thủ tướng Tsuyoshi Inukai, người bị các sĩ quan hải quân trẻ ám sát năm 1932 và vụ ám sát này đánh dấu sự kết thúc quyền kiểm soát dân sự hiệu quả của chính quyền Nhật Bản cho đến sau Chiến tranh thế giới thứ hai.

Michiko và gia đình bà được rửa tội theo Công giáo trong thời chiến sau khi các thừa sai dòng Tên làm bạn với họ và nhiều người lánh xa họ vì sợ bị quân đội trả thù.

Sau chiến tranh, bà học triết tại Mỹ, nghiên cứu Kinh thánh và làm phóng viên ở Paris.

Khi trở về Nhật Bản năm 1958, bà xuất bản quyển sách đầu tiên nói về những trải nghiệm ở nước ngoài. Sau đó bà xuất bản nhiều sách nói về Kinh Thánh và Kitô giáo và nhiều tác phẩm nói về lợi ích chung, trong đó có một tác phẩm được chuyển thể thành phim nhiều tập trên truyền hình.

Sau khi gặp một người tị nạn Việt Nam ở Paris năm 1979, Michiko viếng thăm các trại tị nạn ở Thái Lan, và chuyến viếng thăm này thôi thúc bà bắt đầu làm việc cho người tị nạn ở châu Á và châu Phi.

Sau đó bà thành lập Quỹ Michiko Inukai và hợp tác với tổ chức Trợ giúp Người Tị nạn của dòng Tên giúp giáo dục cho trẻ em tị nạn trên toàn thế giới. Bà còn ủng hộ các dự án trồng rừng ở Pakistan.

Michiko qua đời tại thành phố Hadano, gần Tokyo, Nhật Bản.

UCANEWS

ĐTC Phanxicô câu nguyện cho Charlie Gard và cha mẹ em

ĐTC Phanxicô câu nguyện cho Charlie Gard và cha mẹ em

Vatican: “ĐTC Phanxicô cầu nguyện cho Charlie Gard và cha mẹ bé trong lúc khổ đau vô biên này”. Ngài xin nọi người hiệp ý cầu nguyện để cha mẹ bé có thể tìm thấy niềm an ủi và tình yêu của Thiên Chúa”. 

Ông Greg Burke, phát ngôn viên Toà Thánh, đã tuyên bố như trên hôm 24 tháng 7 vừa qua,  sau khi cha mẹ của bé tử bỏ ý định tranh đấu với pháp luật để chữa chạy cho con. Bé Charlie Gard 11 tháng bị một chứng bệnh của hệ di truyền làm hư não bộ, mà các bác sĩ cho là không thể chữa trị được. Từ nhiều tháng nay cha mẹ của bé là ông Chris Gard và bà Connie Yates đã quyết liệt tranh đấu với nhà thương và hệ thống pháp luật để đem bé sang Hoa Kỳ thử một phương pháp trị liệu mới với hy vọng cứu sống bé. Vì số tiền chữa trị lên tới 1 triệu mỹ kim, nên cha mẹ bé đã mở chiến dịch quyên góp trên mạng và đã có được 4 triệu mỹ kim. Nhưng ban giám đốc nhà thương nhi đồng Luân Đôn đường Great Ormond quyết định rút các ống trợ giúp để cho bé chết. Ngày 27 tháng 6 Toà án các quyền con người đã khước từ lời xin của hai ông bà đem con sang Hoa Kỳ chữa trị, và Tối cao pháp viện Anh quốc cũng phán quyết ủng hộ nhà thương rút các ống trợ sinh để cho Charli chết.
Tuy Nhà thương nhi đồng Chúa Hài Đồng Giêsu của Toà Thánh ở Roma sẵn sáng tiếp nhận để chữa trị cho cháu. Nhưng vì chờ đợi quá lâu các bác sĩ bên Mỹ cho biết dù áp dụng kiểu trị liệu mới cũng không hy vọng cứu được Charlie. Trong nhiều tuần qua qua đã có hàng trăm người biểu tình truớc nhà thương yêu cầu cứu sống Charlie Gard. 

Ngày mùng 2 tháng 7 ĐTC Phanxicô đã “cầu mong người ta không lơ là bỏ qua ước mong của cha mẹ bé đồng hành và chữa trị bé cho tới cùng”. Trước đó ĐTC cũng đã viết trên Twitter rằng: “Bênh vực sự sống con người, nhất là khi nó bị thương bởi bệnh tật, là một dấn thân của tình yêu thương mà Thiên Chúa tín thác cho mọi người”

** Mặt khác, trong cùng ngày 24 tháng 7 HĐGM Anh quốc cũng ra thông cáo bầy tỏ tình liên đới và cảm thương sâu xa với hai ông bà Gard và con họ. Lập lại những gì ĐTC đã làm trên đây các Giám Mục Anh quốc khẳng định: “Chúng ta tất cả đều cầu nguyện cho Charlie, cha mẹ và gia đình em, hy vọng rằng họ được yểm trợ và tìm được bình an trong những ngày sắp tới. Việc vĩnh biệt người con bé bỏng của họ đánh động con tim của tất cả những ai, như ĐTC Phanxicô, đã theo dõi câu chuyện buồn thương này. Sự sống của Charlie sẽ được yêu thương cho tới lúc kết thúc tự nhiên. Trong lúc này thật là quan trọng nhớ rằng tất cả những người liên lụy trong các quyết định hấp hối này đã tìm hành động với sự nguyên vẹn và cho hạnh phúc của Charlie như họ thấy. Sự chuyên môn, tình yêu thương săn sóc cho các trẻ em bị bệnh nặng liên tục cho thấy tại nhà thương nhi đồng Great Ormond Street cũng đáng được thừa nhận và hoan nghênh.”

Tuy nhiên, trường hợp của Charlie Gard khiến cho người ta không khỏi đặt ra  câu hỏi luân lý đạo đức: Tại sao xã hội tân tiến ngày nay lại có thể giao toàn quyền quyết định sống chết  vào tay của các thẩm phán và các bác sĩ nhà thương như thế?  (REI – ZENIT 24-7-2017)

Linh Tiến Khải

Giới lãnh đạo các tôn giáo tại Kenya lên án các vụ khủng bố bạo lực

Giới lãnh đạo các tôn giáo tại Kenya lên án các vụ khủng bố bạo lực

NAIROBI: Trong một cuộc họp báo tuần vừa qua giới lãnh đạo các tôn giáo tại Kenya đã mạnh mẽ lên án các hành động khủng bố phá hoại nhằm khuynh đảo tình hình trong nước.

Tham dư cuộc họp báo cũng có ĐC Cornelius Kipng’eno Arap Korir, Giám Mục Eldoret kiêm chủ tịch Ủy ban Công Lý và Hoà Bình của HĐGM Kenya, ĐC Zaccheus Okoth, TGM Kisumu, và ĐC Joseph Obanyi Sagwe, GM Kakamega kiêm chủ tịch Uỷ ban truyền thông của HĐGM Kenya.

Các vị lãnh đạo tôn giáo xác tín rằng các vụ tấn công bị lột mặt nạ như là khủng bố hay cướp bóc, trái lại đã được phối hợp nhằm làm cho dân chúng phải tản cư chạy loạn, để không thể tham gia cuộc tổng tuyển cử dự trù vào ngày mùng 8 tháng 8 tới đây.

Các tấn công mới đây bị gán cho lực lượng hồi cuồng tín Al Shabab Somali tại Lamu, đã khiến cho 9 người chết và thêm 5 người khác tử vong, khi cảnh sát tìm cách giải thoát các con tin. Thêm vào đó là các vụ cướp bóc tại Baringo và Laikipia đã khiến cho tình hình thêm căng thẳng, khiến người ta nhớ tới bầu khí bạo lực trong cuộc bầu cử hồi năm 2007. Các vị lãnh đạo các tôn giáo yêu cầu Uỷ ban bầu cử độc lập duy trì sự trong sáng tuyệt đối trong việc ghi danh các cử tri, và mau chóng công bố kết quả cuộc bầu cử.  Lý do đầu tiên của các vụ bạo động hồi năm 2007 đó là sự chậm trễ công bố kết quả  cuộc đầu phiếu (FIDES 18-72017)

Linh Tiến Khải

Toà Thánh đề cao phần đóng góp tích cực của người di cư

Toà Thánh đề cao phần đóng góp tích cực của người di cư

NEW YORK: Toà Thánh đề cao phần đóng góp tích cực của người di cư cho mọi chiều kích  phát triển xã hội tiếp đón và trợ giúp họ.

Linh Mục Michael Czerny dòng Tên, Phó thư ký Bộ Phát triển nhân bản toàn vẹn, đã khẳng định như trên trong bài phát biểu tại phiên họp thứ tư của Liên Hiệp Quốc về đề tài “Sự đóng góp của người di cư và hải ngoại cho mọi chiều kích của sự phát triền có thể thực hiện được, bao gồm cả việc gửi và chuyển các lợi tức kiếm được về quê”, nhóm tại New York trong hai ngày 23-24 tháng 7. Vị đại diện Toà Thánh đã nhắc đến nhiều lý do khiến cho hàng chục triệu người phải di cư trên thế giới ngày nay như: nạn nghèo đói, bạo lực, công việc làm không thích hợp, môi sinh tồi tệ, hạn hán, các cơ cấu yếu kém và nạn gian tham hối lộ, cùng nhiều lý do khác được nêu ra trong lịch trình hành động phát triển năm 2030. Nhưng trước hết cần tái minh xác quyền của từng người được sống trong quê hương đất nước của họ trong phẩm giá, hoà bình và an ninh. Phải làm sao để không ai bị bắt buộc phải rời bỏ quê hương của mình vì thiếu phát triển hay hoà bình.

Cộng đoàn quốc tế phải cố gắng thế nào để thăng tiến phát triển trong đất nước của họ và cho phép họ trở thành các tác nhân sự phát triển của chính họ. Không thể phủ nhận sự mất mát trên bình diện xã hội, kinh tế và văn hoá mà nạn di cư gây ra cho các quốc gia này, khi công dân của chúng cảm thấy bị bó buộc phải bỏ nước ra đi. Chính nạn nghèo đói đã khiến cho nhiều cá nhân và gia đình tìm đường để sống còn tại các nước xa xôi. Họ thường là các thành phần ưu tú nhất như người trẻ, người có tài, can đảm và hy vọng. Họ liều mạng vượt Địa Trung Hải hay các đại dương khác để tìm một cuộc sống tốt đẹp hơn.  Điều này có là lợi lộc cho họ, cho gia đình hay đất nước họ đi đến, hay một ngày kia có lẽ cho quê hương của họ hay không đều tuỳ thuộc việc họ có được đón tiếp, che chở, thăng tiến và hội nhập hay không. Điều quan trọng là biết tận dụng nền giáo dục, các tài khéo, các tham vọng, kinh nghiệm, sư khôn ngoan họ có, và tất cả những gì có thể giúp gia tăng việc học hiểu và tập tành cho việc phát triển xã hội. Chính vì các lợi ích hai chiều đó cần phải tiếp nhận và đối xử với người di cư như các bản vị con người có phẩm giá và tôn trọng các quyền lợi của họ, bảo vệ họ khỏi mọi hình thức khai thác bóc lột hay xua đuổi trên bình diện xã hội, kinh tế hay pháp luật. Các cộng đoàn tiếp nhận họ phải cung cấp cho họ sự trợ giúp thích đáng và hội nhập làm sao để họ không bỏ quê hương nghèo túng của họ. Một trong các cách thúc giúp thực hiện điều này là các đường lối chính trị dành ngân khoản cho việc cải tiến các cơ cấu hạ tầng cho các xã hội địa phương bị thiệt thòi. Đàng khác các người di cư cũng có trách nhiệm tôn trọng các giá trị, truyền thống và luật lệ của các cộng đoàn tiếp đón họ. Như thế việc hội nhập sẽ là một cơ may cho việc hiểu biết nhau, mở rộng các chân trời và giúp phát triển lớn hơn cho tất cả mọi người. Như ĐTC Phanxicô đã nói: Sự hiện diện của các anh chị em di cư là một cơ may cho sự trưởng thành nhân bản, cho sự gặp gỡ , đối thoại giữa các nền văn hóa nhằm thăng tiến hoà bình và tình huynh đệ giữa các dân tộc (REI 24-7-2017).

Linh Tiến Khải

ĐHY Lenonardo Sandri thăm viếng Ukraine

ĐHY Lenonardo Sandri thăm viếng Ukraine

Trong các ngày từ 11 đến 17 tháng 7 vừa qua ĐHY Leonardo Sandri, Tổng trưởng Bộ các Giáo Hội đông phương, đã viếng thăm Ukraine, theo lời mời của ĐTGM Trưởng Giáo Hội công giáo Hy lạp Sviatoslav Shevchuk, và nhân cuộc hành hương toàn quốc tới Đền thánh Đức Bà Zarvanytsia. ĐHY được ĐTGM Claudio Gugerotti, Sứ Thần Toà Thánh tại Ukraine, và Đức ĐTGM Trưởng Shevchuk tháp tùng đã bắt đầu viếng thăm thủ dô Kyiv, đặt vòng hoa và cầu nguyện trước Thánh Giá tại quảng trường Maidan. Tiếp đến ĐHY thăm Viện bảo tàng Holomodor và tưởng niệm các nạn nhân cuộc diệt chủng Ucraina, do Stalin gây ra giữa các năm 1929-1933 khiến cho 6 triệu người bị chết đói.

Sáng ngày 12 tháng 7, lễ kính hai thánh Phêrô Phaolô theo lịch Giuliano, ĐHY Sandri đã đồng tế thánh lễ do ĐTGM Trưởng Shevchuk chủ sự trong nhà thờ Phục Sinh và chia sẻ Lời Chúa. ĐHY nói trong bài giảng: “Anh chị em không lẻ loi. Anh chị em có một chỗ đặc biệt trong con tim của ĐTC Phanxicô”. Ngài mời gọi tín hữu Ucraina “đừng nhượng bộ trước các khó khăn hay trước quyền bình nhân loại muốn lấy mất đi niềm hy vọng của một cuộc sống công bằng và liêm chính của một đất nước được tôn trọng trong sự toàn vẹn của nó và được hoà giải giữa các tâm hồn khác nhau”.

ĐHY đã chuyển đến tín hữu công giáo Latinh và Hy Lạp cũng như mọi người thiện chí lời chào thăm và phép lành toà thánh của ĐTC, với tất cả lòng trìu mến, và sự gần gũi liên đới của ngài với dân tộc bị thử thách bởi khổ đau và các thiếu thốn do các xung khắc và chiến tranh gây ra. ĐTC khích lệ mọi người dấn thân đẩy mạnh sự hoà giải và hoà bình, tôn trọng quyền lợi, và sống bác ái liên đới với biết bao nhiêu người di cư tỵ nạn.

Vào cuối thánh lễ ĐHY đã chuyển phép lành Toà Thánh của ĐTC tới Giáo Hội địa phương và nhân danh ĐTC trao tặng ĐTGM trưởng mề đai kỷ niệm năm thứ tư triều đại Giáo Hoàng của Đức Phanxicô. Sau thánh lễ mọi người đã xuống viếng mộ ĐHY Lubomyr Husar, qua đời mấy tuần trước đó.

Sáng ngày 13 tháng 7 ĐHY Sandri tham dự thánh lễ tại nhà thờ chính toà của chuẩn giáo phận Kharkiv, với nghi thức làm phép nhà nguyện dưới hầm nhà thờ và làm phép các thánh giá trên mái tròn nhà thờ. Vào ban chiều ĐHY và phái đoàn đã đi Kramatorsk và Sloviansk, cách đó 200 cây số, là những vùng đã được quân đội Ucraina tái chiếm sau khi bị chiếm đóng hồi năm 2014 và là các “vùng xám” giáp giới với vùng Donbass hiện nằm dưới quyền kiểm soát của các lực lượng theo Nga.

** Ngày 14 tháng 7 đã bắt đầu với thánh lễ đồng tế cử hành trong nhà nguyện thánh Elia bằng gỗ với sụ tham dự của ĐC Stephan Menick, Giám Mục giáo quận Donetsk, và nhiều linh mục giáo quận, các tín hữu công giáo hy lạp và latinh. Giảng trong thánh lễ ĐTGM Trưởng Shevchuk đã quảng diễn ý nghĩa bải Phúc Âm nói về viên ngọc quý. Ngài đã nhắc lại kỷ niệm các chuyến viếng thăm đầu tiên trong vùng sau các trận đánh và cuộc tái chiếm. Ngài đã trông thấy và nghe được biết bao trang sử đau thương. Chính nhà nguyện thánh Elia cũng còn mang dấu vết đạn bắn khiến hư hại một phần. Tuy nhiên, việc tìm lại nhau ngày hôm nay cho dù đã có các xung khắc lớn, niềm tin vào Chúa đã là một viên ngọc quý đối với từng người, đáng để tiếp tục sống, mặc dù chúng ta bị bắt buộc mất đi tất cả vì các hy sinh khổ đau của các trang lịch sử này. ĐTGM Trưởng đã cám ơn các linh mục vì chứng tá lòng tận tuỵ anh hùng của các vị trong các năm qua. Ngỏ lời trong dịp này ĐHY Sandri hiệp ý với lòng biết ơn đó và coi các linh mục là các mục tử tốt không chạy trốn khi thấy sói đến, nhưng ở lại để bảo vệ đoàn chiên đã được giao phó cho mình.

Trong buổi điểm tâm sau đó ĐHY đã nghe các linh mục chia sẻ vài chứng từ. Vài vị đã có tên trong danh sách bị xử bắn bởi các lực lượng chủ trương theo Nga tách rời khỏi Ucraina; các vị khác đã bỏ công việc mục vụ tại vùng Tây Ucraina  để bắt đầu làm tuyên uý quân đội sống bên cạnh các tín hữu của mình phải nhập ngũ để bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ quốc gia. Vị linh mục trẻ tuổi nhất cho biết chính trong các đợt bỏ bom đầu tiên, thì hiền thê của cha đang chờ sinh đứa con đầu lòng, gắn liền trang sử khổ đau của dân chúng với trang sử của một sự sống sinh ra. Một linh mục trẻ theo lễ nghi Latinh cũng chia sẻ kinh nghiệm 6 tháng bị tù. Trong thời gian này cha dấn thân bảo đảm sự trợ giúp tinh thần cho các tù nhân không phân biệt niềm tin kitô. Hiện nay cha là tuyên uý một nhà thương quân đội, và làm việc mục vụ giữa các tín hữu công giáo la tinh cũng như công giáo hy lap. ĐHY và Đức Sứ Thần Toà Thánh rất vui mừng vì tinh thần cộng tác huynh đệ này giữa các linh mục thuộc các nghi lễ khác nhau, nhưng ý thức cùng nhau đại diện cho Giáo Hội công giáo duy nhất.

ĐHY Sandri đã cám ơn sự tận tuỵ và chứng tá tin mừng của các linh mục. Phát biểu dịp này Đức Sứ Thần Toà Thánh đã nêu bật tầm quan trọng chuyến viếng thăm và sự hiện diện của ĐHY Tổng trưởng. Lập trường của Giáo Hội công giáo là tìm gặp gỡ tất cả mọi người để xây các cây cầu hiệp thông, và không quên các con cái của mình đã đau khổ  vì trung thành với Người Kế vị thánh Phêrô. Cần phải giáo dục tín hữu sông tinh thần đại đồng và chứng tá bác ái, mà ĐHY nhìn thấy và sờ mó được trong các ngày viếng thăm. Nó xác nhận tầm quan trọng và quyền hiện hữu của các cộng đoàn công giáo hy lạp trong vùng đất này. Cùng với việc ngoại giao sức mạnh của tín hữu trong thời buổi khổ đau này giúp hy vọng vào một tương lai hoà giải và hoà bình tái thiết một cuộc sống mới.

** Tiếp đến ĐHY Sandri đã ghé thăm trung tâm Caritas Kramatorsk. Cha giám đốc và các nhân viên đã tiếp đón ĐHY và trình bầy các sinh hoạt khác nhau: đóng các gói thực phẩm, trợ giúp dân chúng tỵ nạn tìm công ăn việc làm, trợ giúp tinh thần và tâm lý cho các trẻ em và những người bị chấn thương tinh thần do các cuộc dội bom và các tấn công trong các năm qua gây ra. Các công tác trợ giúp bác ái này không phân biệt ai, và không có biên giới. Trong ba năm qua trung tâm đã trợ giúp 40,000 người bị chấn thương tinh thần. Ngoài ra Caritas Ucraina cũng bảo đảm sự trợ giúp phòng ngừa nạn buôn người, khai thác lao động và khai thác mại dâm.

Các nhân viên Caritas cũng thường xuyên qua các vùng xám của vùng Donbass nằm dưới quyền kiểm soát của các lực lượng theo Nga muốn độc lập khỏi Ukraine. Họ phải mang áo chắn đạn và mũ để mỗi tuần vài ngày đi thăm các anh chị em vùng này. Linh mục giám đốc Caritas đặc biệt nêu bật vài trò quan trọng hữu hiệu của các phụ nữ trong công tác này. Không có họ sẽ không thể làm được biết bao sinh hoạt trợ giúp đó.

Ngỏ lời với mọi người trong dịp này ĐHY Sandri nhắc tới lời Chúa Giêsu nói trong cảnh phán xét ngày sau hết: “Ta đói các con đã cho ăn, Ta khát các con đã cho uống…Tất cả những gì các con làm cho một trong những anh em bé mọn nhất của Thầy là các con làm cho Thầy”. Ngài cũng nhắc tới một thực tại ít được nói đến là nạn mang thai mướn, nhưng Ucraina lại nằm trong số các quốc gia đầu tiên hợp thức hoá việc buôn bán sự sống con người này. Truớc biết bao khổ đau và thách đố đó ĐHY đã nhân danh ĐTC cám ơn mọi hoạt động của các nhân viên Caritas và định nghĩa họ là các “thừa tác viên của tình yêu thương xót và phục vụ”. Công việc thường ngày của họ nhập thể Tin Mừng phục vụ của Chúa. ĐHY hứa sẽ kể cho ĐTC nghe tất cả những gì ngài đã chứng kiến trong chuyến viếng thăm này. Quan trọng hơn mọi khốn khó mà họ đang phải trải qua là việc phục vụ hoà bình qua sinh hoạt bác ái.

Vào ban chiều trên đường trở về Kharkiv phái đoàn đã viếng thăm Caritas Sloviansk, là một vùng khác nữa đã bị chiếm và được quân đội Ucraina tái chiếm. Cùng với các nhân viên Caritas cũng có ông phó thị trưởng tiếp đón phái đoàn. Sau khi chầu Mình Thánh Chúa trong nhà nguyện của trung tâm phái đoàn đã lắng nghe chứng từ của dân chúng. Một phụ nữ đã giãi bầy mọi khổ đau của bà và nói bà không hy vọng tình hình có thể thay đổi. Ngỏ lời với mọi người ĐHY nói ngài hiểu nỗi thất vọng của bà, nhưng không được chờ đợi hoà bình từ trời rơi xuống, mà phải đón nhận nó như ơn mỗi ngày, bắt đầu từ những chuyện nhỏ nhặt nhất, và dĩ nhiên là không ngừng kêu lên để những người nắm giữ vận mệnh của các dân tộc có thể thay đổi đường lối và kiếm tìm hoà bình, cả khi rất tiếc như ĐTC Phanxicô hay lập đi lập lại, họ thiếu can đảm hoà bình. Cần phải bênh vực các lập trường của mình, nhưng cũng phải tìm ra một con đường cho phép thực hiện một nền hoà bính công chính cho tất cả mọi người dân trong vùng. Nhưng để được như vậy cần làm việc nhiều, khổ đau, chịu đựng và yểm trợ tất cả các sáng kiến giúp xây dựng hoà giải và hoà bình, như các sinh hoạt mà Caritas Sloviansk đang tiếp tục làm. Đây là trung tâm duy nhất trợ giúp các trẻ em và những người bị chấn thương tâm thần vì chiến tranh.

** Sau khi trở về Kharkiv ĐHY Tổng trưởng đã dùng bữa tối tại toà Giáo quận, nơi có vài nữ tu dòng thánh Giuse tạm trú. Dòng này đã được thành lập hồi thế kỷ 19 và hiện nay các nữ tu cũng hoạt động tại Brasil, Ba Lan và Canada trong việc dậy giáo lý cho trẻ em và đào  tạo giới trẻ. Khi nào việc trung tu nhà thờ chính toà và trung tâm mục vụ hoàn tất các nữ tu sẽ có nơi sinh hoạt thuận tiện hơn. ĐHY đã cám ơn các chị và nói lên các cảm tưởng khâm phục của ngài đối với sức sống đạo và sự hiện diện đông đảo của người trẻ trong các lễ nghi phụng vụ, trong khi tại các nước tây âu, giới trẻ hầu như vắng bóng trong các thánh lễ. ĐHY đã khích lệ mọi người duy trì kho tàng đức tin quý báu này mà Chúa đã đặt để trong Giáo Hội công giao hy lạp Ukraine.

Ngày 15 tháng 7 ĐHY đến Ivano Frankivsk gặp gỡ ĐTGM Volodymyr Viytyshyn  và nhập đoàn hành hương tới đền thánh Đức Bà Zarvanytsia trong tổng giáo phận Ternopil-Zhoriv do DTGM Vaylij Seminiuk cai quản. Giảng trong thánh lễ cử hành tại đền thánh Đức Mẹ, ĐHY nói cuộc hành hương là một tuyên xưng niềm tin nơi Chúa và là một cử chí tín thác cho sự bầu của của Mẹ Thiên Chúa. Quảng diễn bài Phúc Âm kể lại biến cố Chúa Giêsu chữa lành người bất toại vì thấy niềm tin của những kẻ khiêng anh ta đến với Ngài, ĐHY xin Chúa gia tăng niềm tin nơi tất cả mọi người để hiểu rằng những gì chúng ta làm trong cuộc hành hương này đòi buộc chúng ta dành con tim và cuộc sống cho Chúa Kitô trong các hình thức khác nhau tuỳ theo cuộc sống của từng người.

Truyền thống đông phương định nghĩa con đường cuộc sống  con người được ơn thánh cứu chuộc giống như một lộ trình thần linh hoá từ từ, trong đó Mẹ Maria chói sáng như một ngọn đèn đặc biệt. Ai tin nơi Chúa và được rửa tội trong máu thánh Chúa cũng được mời gọi tham dự vào quyền năng tha thứ và chữa lành của Ngài. Hình thái bí tích được dành cho các linh mục, nhưng hình thái thường ngày đối với tha nhân được dành cho tất cả mọi người. Hôm nay chúng ta có sẵn sàng từ bỏ mọi tâm tình thù hận trói buộc con tim chúng ta để dấn thân thực thi quyền bính tha thứ như chúng ta đọc trong Kinh Lạy Cha không? Biết bao dòng sông ơn thánh có thể chảy ra, khi mỗi người có thể thực thi một cử chỉ hoà giải và hoà bình, bắt đầu từ trong gia đình mình! Cuộc hành hương đền thánh Đức Mẹ nhắm mục đích cầu nguyện cho hoà bình hoà giải của dân tộc Ukraine, nhưng cũng để kỷ niệm 150 năm thánh Giosaphát được tôn phong, và 150 năm đội triều thiên cho Đức Bà Zarvanytsia, cũng như kỷ niệm 125 năm ngày ĐHY Josyf Slipij sinh ra.

Lấy lại lời của Đức Gioan Phaolô II nói ngày 12 tháng 11 năm 1979 trong thánh lễ tấn phong Giám Mục cho ĐC Myroslav Lubachivsky, TGM Philadelphia cùng với ĐHY Josyf Slipij, ĐHY Sandri nói: “Tôi xin lợi dụng dịp này để bầy tỏ sự tôn kính mà Toà Thánh và toàn thể Giáo Hội Công Giáo dưỡng nuôi đối với Giáo Hội của anh chị em. Chứng tá trung thành với Phêrô và các Nguời kế vị Ngài bắt buộc chúng tôi phải có một lòng biết ơn đặc biệt và một sự trung thành đối với những người đã duy trì nó với biết bao kiên vững và tâm hồn cao quý như thế. Chúng tôi ước mong cống hiến cho họ một đóng góp của sự thật và tình yêu thương. Với tất cả sức lực chúng tôi ước mong làm vơi nhe các thử thách của những người khổ đau vì lòng trung thành của họ. Với hết tâm lòng chúng tôi ước mong bảo đảm sự hiệp nhất nội tại của Giáo Hội anh em và sự hiệp nhất với Ngai Toà Thánh Phêrô”. ĐHY Sandri đã kết thúc bài giảng bằng cách phó thác cho sự chở che hiền mẫu của Đức Bà Zarvanytsia giới trẻ Ukraine.

Vào ban chiều đã có cuộc rước nến kính Đức Mẹ. Đêm hành hương tại đền thánh Đức Bà sáng như ban ngày: tín hữu hành hương, kể cả người già và trẻ em không ngớt canh thức, cầu nguyện, xưng tội và hát thánh ca suốt đêm cho tới sáng.

ĐHY Sandri cũng đã viếng thăm nhà thờ chính toà công giáo hy lạp thánh Giorgio và cầu nguyện trên mộ ĐTGM Andrey Sheptytsky và ĐHY Josef Slipij, trước khi từ giã Ukraine để trở về Roma ngày 17 tháng 7.

Linh Tiến Khải

Nhờ lòng kiên nhẫn chờ đợi, cỏ lùng có thể trở thành sản phẩm tốt

Nhờ lòng kiên nhẫn chờ đợi, cỏ lùng có thể trở thành sản phẩm tốt

Qua dụ ngôn cỏ lùng mọc chung với lúa Chúa Giêsu dậy chúng ta biết quan sát thực tại và có một cái nhìn khác đối với thế giới, học hiểu các thời điểm của Thiên Chúa và có được chính cái nhìn của Ngài. Ranh giới giữa sự thiện và sự dữ đi qua trái tim con nguời. Nhưng nhờ ảnh hưởng tốt lành của sự âu lo chờ đợi  điều đã là cỏ lùng hay xem ra đã là cỏ lùng có thể trở thành một sản phẩm tốt. Đó là viễn tượng của sự hoán cải và niềm hy vọng.

ĐTC Phanxicô đã nói như trên với hàng chục ngàn tín hữu và du khách hành hương tham dự buổi đọc Kinh Truyền Tin chung trưa Chúa Nhật 23.07.2017 tại quảng trường thánh Phêrô.

Quảng diễn bài Phúc Âm Chúa Nhật kể lại dụ ngôn cỏ lùng mọc chung với lúa, minh giải vấn đề sự dữ trong thế giới và nêu bật lòng kiên nhẫn của Thiên Chúa (Mt 13,24-30.36-43) ĐTC nói: Thiên Chúa kiên nhẫn biết bao! Mỗi người trong chúng ta cũng có thể nói: Thiên Chúa kiên nhẫn với tôi chừng nào! Trình thuật Phúc Âm cho thấy hai tác nhân đối chọi nhau. Một đàng là ông chủ ruộng diễn tả Thiên Chúa là Đấng đã gieo hạt giống tốt, đàng khác là Satan, kẻ thù gieo vãi cỏ xấu.

Với thời gian qua đi cỏ lùng cũng mọc giữa lúa. Trước sự kiện này ông chủ và các đầy tớ có các thái độ khác nhau. Các đầy tớ muốn can thiệp nhổ cỏ lùng; nhưng ông chủ lo lắng trước nhất cho số phận của lúa phản đối và nói: “Đừng để xảy ra là khi nhổ cỏ lùng các anh cũng nhổ cả lúa” (c. 29). ĐTC giải thích:

Với hình ảnh này Chúa Giêsu nói với chúng ta rằng trong thế giới này sự thiện và sự dữ  giao thoa với nhau tới độ không thể tách rời chúng ra được và nhổ hết sự dữ. Chỉ có Thiên Chúa mới làm được điều này, và Ngài sẽ làm nó vào ngày phán xử sau hết. Với các không rõ ràng và tính cách phức tạp của nó tình hình hiện nay là cánh đồng của sự tự do, cánh đồng sự tự do của các kitô hữu, trong đó hoàn thành việc phân định giữa sự thiện và sự dữ thật khó khăn.

Và trong cánh đồng ấy, với lòng tin tưởng nơi Thiên Chúa và trong sự quan phòng của Ngài, đây là việc nối liền hai thái độ xem ra mâu thuẫn nhau: sự cuơng quyết và lòng nhẫn nại. Sự cương quyết là ý muốn là hạt giống tốt, là điều tất cả mọi người chúng ta đều muốn – chúng ta tất cả muốn điều này – với tất cả các sức mạnh của nó và vì thế tránh xa kẻ dữ và các quyến rũ của nó. Sự nhẫn nại có nghĩa là thích một Giáo Hội là men trong bột hơn, một Giáo Hội không sợ hãi bẩn tay bằng cách giặt quần áo của con cái mình hơn là một Giáo Hội của “những nguời trong trắng”, yêu sách phán xử trước thời gian xem ai ở trong Nước Thiên Chúa, ai không.

ĐTC nói tiếp trong bài huấn dụ:

Chúa là Sự Khôn Ngoan nhập thể, hôm nay giúp chúng ta hiểu rằng sự thiện và sự dữ không thể được nhận diện với các vùng đất xác định hay các nhóm người xác định. Những người này tốt, những người kia xấu. Ngài nói với chúng ta rằng đường ranh giới giữa sự thiện và sự dữ đi qua trái tim mỗi một người, đi qua con tim của từng người trong chúng ta, nghĩa là chúng ta tất cả đều là người tội lỗi. Tôi muốn hỏi anh chị em: Ai không là người tội lỗi, xin hãy giơ tay lên!  Không có ai hết, bởi vì tất cả chúng ta đều là người tội lỗi. Với cái chết trên thập giá và sự phục sinh của Ngài, Chúa Giêsu Kitô đã giải thoát chúng ta khỏi nô lệ tội lỗi, và ban cho chúng ta ơn bước đi trong một cuộc sống mới; nhưng với bí tích Rửa Tội Ngài cũng đã ban cho chúng ta bí tích Giải Tội, bởi vì chúng ta luôn luôn cần được tha thứ khỏi các tội lỗi của chúng ta. Chỉ luôn luôn nhìn sự dữ ở bên ngoài chúng ta có nghĩa là không muốn thừa nhận tội lỗi ở bên trong chúng ta.

Thế rồi Chúa Giêsu dậy chúng ta một kiểu nhìn cánh đồng thế giới và quan sát thực tại khác. Chúng ta được mời gọi học biết các thời điểm của Thiên Chúa – không phải thời điểm của chúng ta –  và học có cả cái nhìn của Thiên Chúa nữa: nhờ ảnh hưởng tốt của một sự âu lo chờ đợi  điều đã là cỏ lùng hay xem ra đã là cỏ lùng có thể trở thành một sản phẩm tốt. Đó là thực tại của việc hoán cải. Đó là viễn tượng của niềm hy vọng!

Xin Trinh Nữ Maria giúp chúng ta biết tiếp nhận trong thực tại bao quanh chúng ta không chỉ sự bẩn thỉu và sự dữ, mà cả sự thiện và vẻ đẹp nữa; lột mặt nạ công việc của Satan, nhưng nhất là tín thác nơi hành động của Thiên Chúa, là Đấng khiến cho lịch sử được phong phú.

Tiếp đến ĐTC đã đọc Kinh Truyền Tin và ban phép lành toà thánh cho mọi người.

Sau Kinh Truyền Tin ĐTC đã kêu gọi hoà bình cho Thánh Địa. Ngài nói: tôi âu lo theo dõi các căng thẳng trầm trọng và các bạo lực xảy ra trong các ngày này tại Giêrusalem. Tôi cảm thấy cần phải lên tiếng tha thiết kêu gọi hoà hoãn và đối thoại. Tôi mời gọi anh chị em hiệp nhất với tôi trong lời cầu nguyện, để Chúa gợi hứng cho tất cả mọi quyết định hoà giải và hoà bình.

Tiếp đến ngài cũng chào nhiều nhóm hiện diện trong đó có các tín hữu Ailen, các nữ tu Phan Sinh Elisabết Bigie, ca đoàn Enna, giới trẻ Casamassima đã đến làm việc thiện nguyện tại Roma, các người trẻ tham dự “Trại hè con người thế giới” dấn thân làm chứng cho niềm vui Tin Mừng trong các vùng ngoại biên của nhiều đại lục khác nhau.

Sau cùng ngài xin mọi người nhớ cầu nguyện cho ngài và  chúc tất cả một ngày Chúa Nhật tuơi vui an bình.

Linh Tiến Khải

Đức Thánh Cha góp tượng trưng 25 ngàn Euro để chống đói

Đức Thánh Cha góp tượng trưng 25 ngàn Euro để chống đói

VATICAN. ĐTC đã đóng góp tượng trưng 25 ngàn Euro cho tổ chức Lương Nông Quốc Tế, gọi tắt là FAO, để góp phần trợ giúp dân chúng tại miền Đông Phi châu đang bị nạn đói và hạn hán đe dọa.

Trong sứ điệp gửi Ông Tổng thư ký tổ chức FAO hôm 3-7-2017, nhân dịp khai mạc khóa họp thứ 40 hiện nay, ĐTC viết: ”Với mục đích khuyến khích các chính phủ, tôi muốn góp phần vào chương trình của FAO để cung cấp hạt giống cho các gia đình nông thôn đang sống trong những vùng phải chịu những hậu quả của xung đột và hạn hán. Cử chỉ này, cùng với công việc mà Giáo Hội đang thi hành theo ơn gọi của mình là đứng cạnh những người nghèo trên thế giới và đồng hành với sự dấn thân thực sự của mọi người để giúp đỡ họ”.

Thông cáo của tổ chức FAO cho biết tình trạng trầm trọng tại Nam Sudan, với vẫn còn 6 triệu người phải chiến đấu mỗi ngày để tìm được đủ lương thực để sống con. Số người cần được trợ giúp tại 5 nước khác ở vùng Đông Phi châu là Somalia, Etiopia, Kenya, Tanzania và Uganda, hiện nay được ước lượng vào khoảng 16 triệu người, tức là tăng thêm 16% tính từ cuối năm ngoái” (REI 21-7-2017)

G. Trần Đức Anh OP 

Đức Hồng Y Quốc vụ khanh liên đới với ĐHY Sabino, Venezuela

Đức Hồng Y Quốc vụ khanh liên đới với ĐHY Sabino, Venezuela

VATICAN. ĐHY Pietro Parolin, Quốc vụ khanh Tòa Thánh, đã gửi điện liên đới với ĐHY Jorge Urosa Sabino, TGM Caracas thủ đô Venezuela, nạn nhân của bạo lực.

Chúa nhật 16-7-2017, những người tham dự cuộc trưng cầu dân ý ở Caracas đã bị một nhóm dân quân theo phe tổng thống Nicola Maduro tấn công và họ phải chạy vào tị nạn trong một thánh đường nơi ĐHY Savino đang cử hành thánh lễ. Cuộc tấn công đã làm cho 1 người chết và nhiều người bị thương.

Sau vụ đó, Tổng thống Maduro tố cáo các ”GM là làm tôi cho tư bản và sự đồi bại trên thế giới, cũng như làm cho bạo lực gia tăng”. Hồi tháng 4 năm nay, một thánh lễ do ĐHY Urosa Sabino cử hành cũng bị những thành phần ủng hộ tổng thống Maduro phá rối.

Điện văn của ĐHY Parolin hôm 17-7-2017 gửi ĐHY có đoạn viết: ”Tôi muốn bày tỏ sự gần gũi với ĐHY, với các LM, phó tế và toàn thể giáo dân đã bị tấn công tại Nhà thờ Đức Mẹ Camêlo di Catia, và quyết liệt lên án cuộc bao vây và hành hung tại đây. Ngày 16-7, tôi đã cầu nguyện thật nhiều xin Đức Mẹ Camêlô, rất được tôn kính tại Venezuela, xin Chúa Con của Mẹ một giải pháp hòa bình và dân chủ cho đất nước này, và để chính quyền lắng nghe tiếng kêu của dân chúng đang đòi tự do, hòa giải, hòa bình và an sinh vật chất cũng như tinh thần cho tất cả mọi người, nhất là những người nghèo khổ nhất và bị gạt ra ngoài lề”.

Hôm 18-7-2017, trang thông tin trực tuyến 2001.com.ve ở Venezuela khẳng định rằng tổng thống Maduro đã cam đoan là ”Venezuela sẽ không theo lệnh của ĐHY Parolin”.

Ăn chay cầu nguyện

Mặt khác, thứ sáu 21-7-2017, các tín hữu Công Giáo và những người thiện chí ở Venezuela cử hành ngày ăn chay và cầu nguyện theo lời mời gọi HĐGM nước này đưa ra hôm 12-7 vừa qua, sau khi kết thúc khóa họp khoáng đại.

Các GM kêu gọi mọi người ”cầu xin Chúa chúc lành cho mọi nỗ lực của nhân dân Venezuela để đạt được tự do, công lý và hòa bình, và được Thánh Linh soi sáng, cũng như nhờ sự bảo vệ hiền mẫu của Đức Mẹ Coromoto bổn mạng đất nước, họ tiếp tục xây dựng hòa bình và sự sống chung huynh đệ tại đất nước này”.

HĐGM Venezuela tuyên bố hỗ trợ ”tiếng kêu của những người đang bị đói, không được những bảo đảm về săn sóc sức khỏe, không tìm được thuốc men và phải chịu tình trạng bất an trong mọi lãnh vực”. Các vị kêu gọi tôn trọng ước muốn của nhân dân, chiếu theo luật pháp và hiến pháp quốc gia, để nhân dân Venezuela được sống trong hòa hợp, an bình, tự do và phát triển nhân bản”.

Sáng kiến trên đây của HĐGM Venezuela đã từng được thực hiện ngày 2-8 năm ngoái và ngày 21-5 năm nay. Ngoài ra, tại mỗi giáo phận, từ nhiều tháng nay, hàng ngàn tín hữu đã biểu lộ đức tin của các cuộc rước, các buổi canh thức và các buổi lễ khác để xin ơn phù trợ của Chúa trong giai đoạn quan trọng đất nước Venezuela đang trải qua. (imedia 19-7-2017)

G. Trần Đức Anh OP 

Các Giám Mục Mỹ thỉnh cầu chính phủ nhận thêm người tị nạn

Các Giám Mục Mỹ thỉnh cầu chính phủ nhận thêm người tị nạn

WASHINGTON. Chủ tịch Ủy ban GM Mỹ về di dân, Đức Cha Joe Vásquez, thỉnh cầu chính phủ Mỹ nâng con số tối đa người tị nạn được nhận vào Mỹ lên 75 ngàn người.

 Theo mức được tổng thống Mỹ ấn định hồi tháng 3 năm nay, con số tối đa người tị nạn được nhận vào trong năm 2017 là 50 ngàn người, và mức tối đa này đã đạt được trong tuần lễ trước đây.

 Nhân danh HĐGM Mỹ, hôm Đức Cha Vásquez, cũng là GM giáo phận Austin, Texas, đã gửi thư hôm 15-7-2017 cho tổng thống Mỹ để bày tỏ quan tâm về những hậu quả thảm hại vì sự giới hạn số người tị nạn và những ảnh hưởng tiêu cực trên những người tị nạn dễ bị tổn thương nhất, như các trẻ không có người đi kèm, người già và người bệnh, cũng như những người thuộc tôn giáo thiểu số.

 Các GM Mỹ cũng nhận xét rằng con số tối đa 50 ngàn người tị nạn được nhận vào Mỹ không tương ứng với những nhu cầu thực sự của việc tiếp đón, xét vì trên thế giới có khoảng 22 triệu người tị nạn, và đồng thời cũng không phản ánh lòng thương xót và khả năng của đất nước chúng ta. Chúng tôi xác tín rằng Hoa Kỳ có thiện chí, có khả năng đi hàng đầu và tài nguyên để giúp đỡ nhiều hơn những người dễ bị tổn thương nhất và đang tìm kiếm sự bảo vệ. Về phần mình, Giáo Hội sẽ tiếp tục đồng hành và đón tiếp những người tị nạn đến Mỹ và bảo đảm cho họ những dịch vụ cần thiết”. (REI 17-7-2017)

 G. Trần Đức Anh OP

Nhiệm vụ của giới lãnh đạo chính trị tôn giáo trong việc phòng ngửa bạo lực

Nhiệm vụ của giới lãnh đạo chính trị tôn giáo trong việc phòng ngửa bạo lực

NEW YORK: ĐTGM Bernardito Auza, quan sát viên thường trực của Toà Thánh tại Liên Hiệp Quốc, nêu bật nhiệm vụ của giới lãnh đạo chính trị và tôn giáo trong việc phòng ngừa bạo lực và tội phạm trên thế giới.

Phát biểu trong phiên họp phát động Chương trình hành động cho các vị lãnh đạo tôn giáo và các tác nhân phòng ngừa việc kích động bạo lực có thể dẫn đưa tới các tội phạm, ĐTGM Auza đã nhấn mạnh nhiệm vụ ưu tiên của các chính quyền và giới lãnh đạo là che chở dân chúng khỏi các tội phạm tàn ác cũng như việc khích động bạo lực. ĐC ca ngợi các mục tiêu của chương trình nhằm giúp hiểu biết hơn, phối hợp và khích lệ tiềm năng của các vị lãnh đạo tôn giáo góp phần phòng ngừa kích động bạo lực và sát nhập công việc của các vị vào trong các nỗ lực đề phòng các tội phạm tàn các. Đó cũng là điều được yêu cầu đối với các quốc gia, các cơ cấu xã hội dân sự, các tổ chức và giới truyền thông, vì việc phòng ngừa bạo lực và các tội phạm chống lại nhân loại đòi hỏi sự cộng tác của tất cả mọi người. Toà Thánh không thể ủng hộ mọi điểm trong số 177 mục tiêu được đề ra do 9 nhóm làm việc liên quan tới 35 mục đích. Nó là một bước tiến cụ thể trong việc cổ võ nền văn hoá và xã hội tiến tới.

Tiếp đến Vị đại diện Toà Thánh nhấn mạnh trên nhiệm vụ ưu tiên của các chính quyền quốc gia và quốc tế phải bảo vệ dân chúng, trong đó có việc ngăn ngừa kích thích cằng thẳng và xung đột có thể trở thành dip cho các tội phạm tàn ác. Tuy không có các phương tiện chấm dứt các tàn ác và tội phạm nhưng giới lãnh đạo tôn giáo có thể ảnh hưởng trên cung cách hành xử và tâm thức của dân chúng. Ảnh hưởng này đã bị lạm dụng và làm cho sai lạc bởi các vị lãnh đạo dùng quyền bính và ảnh hưởng của mình để biện minh cho bạo lực. Một trong các cách thức giúp loại trừ bạo lực và tội phạm tàn ác là đối thoại, và ý thức được chiều kích xã hội cộng đồng của tôn giáo. Các thiện ích phát xuất từ tôn giáo phải được trân trọng và thăng tiến làm sao để các vị lãnh đạo tôn giáo có thể lột mặt nạ các gian dối và tố cáo lên án các vi phạm nhân phẩm và nhân quyền, cũng như việc biện minh cho mọi hình thức thù ghét nhân danh tôn giáo.

Từ ngay sau khi được bầu làm Giáo Hoàng Đức Phanxicô đã hoạt động và cổ võ việc đối thoại liên tôn, vì nó là điều kiện cần thiết cho hoà bình trên thế giới. Nó trao ban mẫu mực cho tín hữu trong việc thảo luận các khác biệt, lớn lên trong sự trân trọng các viễn tượng của nhau, và cùng nhau tiến tới hoà bình và lo cho công ích. Nó không chỉ giúp ngăn chặn việc khích động bạo lực mà còn khích lệ con người sống đạo hạnh và tạo dựng các xã hội hoà bình hoà hợp. (REI 14-7-2017)

Linh Tiến Khải

Lễ an táng ĐHY Joachim Meisner, nguyên Tổng Giáo Mục Koeln

Lễ an táng ĐHY Joachim Meisner, nguyên Tổng Giáo Mục Koeln

KOELN. ĐHY Joachim Meisner, cố TGM giáo phận Koeln bên Đức, đã được an táng trọng thể sáng thứ bẩy 15-7-2017, tại Nhà Thờ chính tòa giáo phận địa phương.

 ĐHY Meisner đã qua đời sáng sớm ngày 5-7 vừa qua tại nơi nghỉ hè Bad Fuessing ở nam Đức, hưởng thọ 84 tuổi, sau 25 năm làm TGM giáo phận Koeln.

 ĐHY Woelki TGM Koeln đã chủ sự thánh lễ và phần giảng thuyết do ĐHY Peter Erdoe, TGM giáo phận Esztergom Budapest ở Hungari đảm nhận.

  Hiện diện trong thánh lễ an táng, ngoài các vị lãnh đạo Công Giáo Đức, từ Roma đặc biệt có ĐHY Gerhard Mueller, nguyên Tổng trưởng Bộ Giáo lý đức tin, và Đức TGM Georg Gaenswein, Bí thư của Đức nguyên Giáo Hoàng Biển Đức 16 và cũng là Chủ tịch Phủ Giáo Hoàng.

 Đức TGM Gaenswein đã cảm động đọc thư của Đức Biển Đức 16 kể lại rằng khi nghe tin ĐHY Meisner qua đời ngài không thể tin được vì ngày hôm trước hai vị còn nói chuyện với nhau qua điện thoại. Thư của Đức nguyên Giáo Hoàng có đoạn viết: “Chúng ta biết rằng Đức Cố Hồng Y, như một mục tử hăng say, ngài cảm thấy khó rời bỏ sứ vụ này giữa lúc Giáo Hội đang cấp thiết cần các mục tử đầy xác tín cần chống lại sự độc tài của tinh thần thế gian và đã quyết liệt sống và suy tư từ đức tin..”

Đức Biển Đức 16 cũng kể lại: ”Trong các cuộc nói chuyện gần đây với Đức Cố Hồng Y Meisner, điều gây ấn tượng mạnh nơi tôi là sự thanh thản, niềm vui nội tâm và sự tín thác của Người.. Tôi cảm động hơn cả là khi thấy Đức Cố HY đã sống giai đoạn cuối đời trong niềm xác tín sâu xa 'Chúa không bỏ rơi Giáo Hội của Ngài, cho dù nhiều khi con thuyền đầy đến độ hầu như bị lật”.

Đức Biển Đức 16 cũng viết rằng ”Buổi sáng cuối cùng, ĐHY Meisner không xuất hiện tại nơi làm lễ, và người ta tìm thấy Người đã chết trong phòng. Sách nguyện tuột khỏi tay Người. ĐHY chết trong lúc cầu nguyện, hướng nhìn về Chúa, đối thoại với Chúa. Cách thức chết của Đức Cố Hồng Y mà Chúa ban cho Người, một lần nữa, tỏ cho thấy cách Người đã sống: đó là hướng nhìn lên Chúa và đối thoại với Chúa”.

Tại buổi lễ Đức TGM Nicola Eterovic, Sứ thần Tòa Thánh tại Đức, đã đọc điện văn chia buồn của ĐTC Phanxicô: ”Tôi xúc động sâu xa khi nghe tin ĐHY Joachim Meisner được Thiên Chúa từ bi thương xót kêu gọi đột ngột và bất ngờ từ trái đất này. Tôi gần gũi ĐHY và tất cả các tín hữu của Tổng giáo phận Koeln trong kinh nguyện cầu cho vị Chủ Chăn quá cố.”

”Với niềm tin sâu xa và lòng yêu mến chân thành đối với Giáo Hội, ĐHY Meisner đã tận tụy loan báo Tin Mừng. Xin Chúa Kitô trả công cho Người vì sự dấn thân trung thành và kiên cường bênh vực thiện ích của những người ở đông và tây, và cho Người được tham dự vào cộng đồng hiệp thông của các thánh trên trời”. (KNA 15-7-2017)

G. Trần Đức Anh OP 

Kinh Truyền Tin với Đức Thánh Cha: 16-7-2017

Kinh Truyền Tin với Đức Thánh Cha: 16-7-2017

VATICAN. Trong buổi đọc kinh Truyền Tin trưa chúa nhật 16-7-2017, ĐTC mời gọi các tín hữu thanh tẩy tâm hồn, đón nhận Lời Chúa và để Lời Chúa sinh hoa kết trái.

Đây là lần thứ 3 ngài xuất hiện trước các tín hữu trong tháng 7 này, vì đang là tháng nghỉ hè, các cuộc tiếp kiến của ngài bị ngưng lại.

Trong bài huấn dụ ngắn trước khi đọc kinh, ĐTC đã quảng diễn bài Tin Mừng theo thánh Mathêu chúa nhật thứ 15 thường niên năm A trong đó Chúa Giêsu trình bày dụ ngôn người ra đi gieo hạt giống bên vệ đường, và từ đó ngài rút ra những bài học áp dụng cho tâm hồn các tín hữu về việc đón nhận và thực hành Lời Chúa.

Bài huấn dụ của ĐTC

Tin Mừng hôm nay là dụ ngôn nổi tiếng về người gieo hạt giống (Xc Mt 13,1-23). Người gieo hạt giống là Chúa Giêsu. Chúng ta nhận xét rằng, với hình ảnh này, Chúa xuất hiện như một vị không áp đặt, nhưng đề nghị; không lôi kéo chúng ta bằng cách chinh phục, nhưng tự hiến cho chúng ta. Ngài kiên nhẫn và quảng đại gieo vãi Lời Ngài, Lời này không phải là một cái lồng hay cái bẫy, nhưng là hạt giống có thể sinh hoa kết trái. Bằng cách nào? Nếu chúng ta đón nhận hạt giống ấy.

Vì thế, dụ ngôn có liên hệ trước tiên tới chúng ta: thực vậy, dụ ngôn nói về mảnh đất hơn là về người gieo hạt giống. Có thể nói, Chúa Giêsu thực hiện một ”cuộc chụp quang tuyến tinh thần” tâm hồn chung ta, là thửa đất trên đó hạt giống Lời Chúa rơi xuống. Tâm hồn chúng ta như thửa đất, có thể là tốt, và như thế Lời Chúa mang lại hoa trái, nhưng đất ấy cũng có thể là khô cằn, không thấm nước. Điều này xảy ra khi chúng ta nghe Lời Chúa, nhưng Lời ấy bật lên, như khi rơi xuống trên một con đường.

Giữa thửa đất tốt và con đường có hai mảnh đất ở cấp độ giữa, mà chúng ta có thể có qua nhiều mức khác nhau. Thứ nhất là đất sỏi đá. Chúng ta cố tưởng tượng xem: một thửa đất sỏi đá là mảnh đất không có nhiều đất (Xc v.5), vì thế khi hạt giống nảy mầm, nó không ăn rễ sâu được. Đó là tâm hồn hời hợt, đón nhận Chúa, muốn cầu nguyện, yêu mến và làm chứng, nhưng không kiên trì, mệt mỏi và không lên cao được. Đó là một tâm hồn không có bề dầy, nơi mà những sỏi đá lười biếng trổi vượt, nơi mà tình yêu không bền bỉ và chóng qua. Nhưng người nào chỉ đón nhận Chúa khi mình thích, thì không mang lại hoa trái.

Rồi có thửa đất sau cùng, đất gai góc, đầy những bụi gai bóp nghẹt những cây tốt. Những bụi gai ấy tượng trưng cái gì? ”Thưa là những lo lắng trần tục và sự quyến rũ của giàu sang” (c.22), như Chúa Giêsu đã nói. Những gai góc chính là những tật xấu chống lại Thiên Chúa, chúng làm cho sự hiện diện của Ngài bị ngộp; nhất là những thần tượng giàu sang thế gian, sống ham hố, cho bản thân, để có của cải và quyền lực. Nếu chúng ta vun trồng những bụi gai ấy, thì chúng ta sẽ bóp nghẹt sự tăng trưởng của Thiên Chúa nơi chúng ta. Mỗi người có thể nhận ra những bụi gai lớn nhỏ của mình, những tật xấu trong con tim mình, những cây gai ăn rễ sâu hơn kém, không làm hài lòng Thiên Chúa và ngăn cản ta không có một con tim thanh sạch. Cần nhổ chúng đi, nếu không Lời Chúa sẽ không mang lại hoa trái.

ĐTC nói tiếp: ”Anh chi em thân mến, hôm nay Chúa Giêsu mời gọi chúng ta hãy nhìn vào nội tâm của mình: cảm tạ Chúa vì thửa đất tốt của chúng ta và làm việc trên những thửa đất chưa tốt. Chúng ta hãy tự hỏi xem con tim chúng ta có mở rộng để đón nhận hạt giống Lời Chúa trong đức tin hay không. Chúng ta hãy tự hỏi xem những sỏi đá lười biếng nơi chúng ta có còn nhiều và lớn hay không? Chúng ta hãy nhận diện và gọi đích danh những bụi gai tật xấu. Chúng ta hãy có can đảm làm sạch thửa đất, mang đến cho Chúa trong sự xưng tội và kinh nguyện những sỏi đá và những bụi gai của chúng ta. Làm như thế, Chúa Giêsu, người gieo hạt giống, sẽ vui mừng thực hiện một công việc bổ túc: đó là thanh tẩy tâm hồn chúng ta, cất đi những sỏi đá và gai góc bóp nghẹt Lời Chúa.

Mẹ Thiên Chúa mà hôm nay chúng ta kính nhớ dưới tước hiệu Đức Trinh Nữ Núi Camêlô, là người khôn sánh trong việc đón nhận Lời Chúa, và mang ra thực hành (Xc Lc 8,21) xin Mẹ giúp chúng ta thanh tẩy tâm hồn và giữ gìn sự hiện diện của Chúa trong tâm hồn chúng ta.

Chào thăm

Sau khi ban phép lành, ĐTC chào thăm các tín hữu Roma và những người hành hương đến từ các nơi trên thế giới: các gia đình, các nhóm giáo xứ và hội đoàn.

Ngài đặc biệt chào các nữ tu dòng ”nữ tử Đức Mẹ Sầu Bi” kỷ niệm 50 năm được Tòa Thánh phê chuẩn dòng, các nữ tu Phan Sinh Thánh Giuse kỷ niệm 150 năm thành lập, ban giám đốc và các khách trọ của Nhà Croát, Domus Croata, kỷ niệm 30 năm thành lập ở Roma.

Ngài cũng gởi lời đặc biệt chào thăm cộng đoàn Công Giáo người Venezuela ở Roma, và lập lại lời cầu nguyện cho đất nước yêu quí của họ.

Sau cùng, ĐTC cầu chúc mọi người một chúa nhật tốt đẹp, và xin họ đừng quên cầu nguyện cho ngài.

G. Trần Đức Anh OP