Thiên Chúa ban cho chúng ta các đặc sủng khác nhau để mưu ích cho tất cả mọi người

Thiên Chúa ban cho chúng ta các đặc sủng khác nhau để mưu ích cho tất cả mọi người

Thiên Chúa ban cho Giáo Hội tràn đầy các ơn của Chúa Thánh Thần và các đặc sủng khác nhau để sinh ích lợi cho tất cả mọi người, để cho toàn cộng đoàn kitô lớn lên hài hòa trong đức tin và tình yêu của Người như một thân thể duy nhất của Chúa Kitô.

Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói như trên với các tín hữu và du khách hành hương năm châu tham dự buổi tiếp kiến chung sáng thứ tư hàng tuần 1-10-2014 tại quảng trường thánh Phêrô.

Tham dự buổi tiếp kiến đã có hàng ngàn nhóm hành hương đến từ các nước Bắc Mỹ và châu Âu, trong đó có phái đoàn 90 người Việt Nam ở Houston do cha Nguyễn Ngọc Thụ hướng dẫn. Cũng có các đoàn hành hương đến từ các nước Phi châu như Côte d'Ivoire, Camerun, Nam Phi, Namibia; hay từ Á châu như Nhật Bản, Đài Loan, Ấn Độ, Malaysia, Philippines, Sri Lanka; hoặc từ châu Mỹ Latinh như Argentina, Mêhicô, Costa Rica, El Salvador, Paraguay, Colombia, Perù, Chile, Brasil, và từ Australia.

Trong bài huấn dụ Đức Thánh Cha đã khai triển đề tài giáo lý: ”Các đặc sủng: khác biệt trong hiệp nhất”. Ngài nói: Ngay từ đầu Chúa đã làm tràn đầy Giáo Hội với các ơn của Thần Khí Ngài, và như thế khiến cho Giáo Hội luôn sống động và phong phú. Trong các ơn đó có vài ơn đặc biệt quý báu cho việc xây dựng và con đường của cộng đoàn kitô: đó là các đặc sủng. Vậy trong bài giáo lý hôm nay chúng ta muốn tìm hiểu đặc sủng là gì? Làm sao nhận ra nó và đón nhận nó? Và nhất là sự kiện trong Giáo Hội có nhiều đặc sủng khác nhau và sự khác biệt và đa diện đó của các đặc sủng bị coi là điều tốt đẹp hay là một vấn đề.

Trong ngôn ngữ chung, khi nói tới ”đặc sủng” người ta thường hiểu nó là một tài năng, một sự khéo léo tự nhiên. Vì thế, đứng trước một người đặc biệt tài giỏi và hấp dẫn người ta thường nói: ”Đó là một người có đặc sủng”. ”Nó có nghĩa là gì?”. ”Tôi không biết, nhưng họ là người đặc sủng”. Chúng ta nói như vậy. Tuy không biết nhưng chúng ta nói như thế: ”Đó là một người đặc sủng”.

Tuy nhiên, trong viễn tượng kitô, thì đặc sủng cao hơn một đức tính cá nhân, một bẩm tính mà người ta có thể có; đặc sủng là một ơn thánh, một ơn do Thiên Chúa Cha rộng ban, qua hoạt động của Chúa Thánh Thần. Và nó là một ơn được ban cho ai đó không phải vì họ giỏi hơn những người khác hay xứng đáng hơn, nhưng đó là một món qùa Thiên Chúa ban cho, để với chính sự nhưng không và tình yêu thương họ có thể dùng để phục vụ toàn cộng đoàn, cho thiện ích của tất cả mọi người. Một cách nhân loại thì người ta nói như thế này: Thiên Chúa ban cho đặc tính này, đặc sủng kia cho người này nhưng không phải cho cá nhân họ, mà là để phục vụ toàn cộng đoàn.

Hôm nay trước khi ra quảng trường tôi đã tiếp kiến biết bao nhiêu trẻ em tàn tật trong đại thính đường Phaolô VI, đông lắm. Có một hiệp hội tận hiến cho việc săn sóc các trẻ em này: là cái gì vậy? Hiệp hội này, các người nam nữ này có đặc sủng săn sóc các trẻ em tàn tật. Đó là một đặc sủng.

Cần phải nhấn mạnh ngay một điều quan trọng là sự kiện một người không thể tự mình hiểu mình có một đặc sủng hay không và đặc sủng nào. Biết bao nhiêu lần chúng ta đã nghe có người nói: ”Tôi có phẩm chất này, tôi biết hát hay lắm”, và không ai có can đảm nói với họ: ”Tốt hơn là bạn nên im đi, bởi vì bạn hành hạ tất cả chúng tôi khi bạn hát!” Không ai có thể nói tôi có đặc sủng này. Chính bên trong cộng đoàn nảy nở ra các ơn mà Thiên Chúa Cha ban tràn đầy cho chúng ta. Và chính trong lòng cộng đoàn mà người ta học và nhận ra các đặc sủng như là một dấu chỉ tình yêu thương của Người đối với mọi con cái Người. Vì thế thật là tốt, nếu từng người trong chúng ta tự hỏi: ”Chúa có khơi dậy nơi tôi đặc sủng nào không, trong ơn thánh của Thần Khí Người, và các anh em tôi trong cộng đoàn kitô đã nhận biết ra và khích lệ? Và tôi đã có cung cách hành xử như thế nào đối với đặc sủng đó: tôi có sống quảng đại bằng cách dùng nó để phục vụ mọi người hay không, hay tôi lơ là với nó và cuối cùng quên nó? Hay nó lại trở thành cớ cho tôi kiêu ngạo, đến độ luôn luôn than vãn về người khác và yêu sách rằng trong cộng đoàn người ta phải làm theo kiểu của tôi?” Đó là các câu hỏi mà chúng ta phải đưa ra. Nếu có một đặc sủng trong tôi, nếu đặc sủng đó được Giáo Hội thừa nhận, và nếu tôi có bằng lòng với đặc sủng đó hay tôi hơi ghen tương các đặc sủng của người khác và muốn có đặc sủng đó… Không, đặc sủng là một ơn. Chỉ có Thiên Chúa mới ban tặng cho mà thôi.

Tuy nhiên, kinh nghiệm đẹp nhất là khám phá ra biết bao nhiêu đặc sủng khác nhau và biết bao ơn của Thần Khí, mà Thiên Chúa Cha đã ban tràn đầy cho Giáo Hội. Đức Thánh Cha giải thích sự khác biệt của các đặc sủng như sau:

Điều này không được coi như là một lý do của sự lẫn lộn, khó chịu: tất cả là các món qùa Thiên Chúa Cha tặng ban cho cộng đoàn kitô, dể nó có thể lớn lên hài hoà, trong đức tin và tình yêu của Người, như một thân thể duy nhất, thân mình của Chúa Kitô. Cùng Thần Khí, Đấng ban sự khác biệt của các đặc sủng, làm thành sự hiệp nhất của Giáo Hội: cùng Thần Khí. Do đó, đứng trước sự đa diện này của các đặc sủng, con tim chúng ta phải rộng mở cho niềm vui và phải nghĩ: ”Đẹp biết bao! Biết bao nhiêu ơn khác nhau, bởi vì chúng ta tất cả đều là con cái Thiên Chúa và đều được yêu thương một cách duy nhất”.

Vì vậy, khốn cho chúng ta nếu các ơn này trở thành lý do của ghen tương và chia rẽ! Như thánh tông đồ Phaolô nhắc nhớ trong thư thứ I gửi tín hữu Côrintô chương 12, mọi đặc sủng đều quan trọng dưới mắt Thiên Chúa, đồng thời không có ai là không thể thay thế được. Điều này có nghĩa là trong cộng đoàn kitô chúng ta cần nhau, và mỗi ơn nhận lãnh được thể hiện tràn đầy, khi được chia sẻ với các anh em khác, cho thiện ích của tất cả mọi người. Đó là Giáo Hội! Và khi Giáo Hội, trong sự đa diện của các đặc sủng, được diễn tả ra trong sự hiệp thông, thì không thể sai lầm: đó là vẻ đẹp và sức mạnh của ý thức đức tin, của ý nghĩa siêu nhiên của đức tin, do Chúa Thánh Thần ban để chúng ta tất cả cùng nhau bước vào trọng tâm của Tin Mừng và học đi theo Chúa Giêsu trong cuộc sống.

Hôm nay Giáo Hội mừng nhớ thánh nữ Terexa Hài Đồng Giêsu. Chị thánh qua đời năm 24 tuổi và đã rất yêu thương Giáo Hội, muốn làm thừa sai, muốn có mọi đặc sủng và nói: ”Không, tôi muốn làm cái này cái nọ”, và muốn có mọi đặc sủng. Chị đã cầu nguyện và cảm thấy đặc sủng của mình là tình yêu và đã nói câu hay đẹp này: ”Trong lòng Giáo Hội con sẽ là tình yêu”. Và đặc sủng này tất cả chúng ta đều có: đó là khả năng yêu thương. Hôm nay chúng ta hãy xin thánh nữ Terexa Hài Đồng Giêsu khả năng yêu thương Giáo Hội biết bao này, yêu thương Giáo Hội nhiều và chấp nhận mọi đặc sủng với tình yêu thương của con cái Giáo Hội, của Mẹ Thánh Giáo Hội phẩm trật.

Các bạn thân mến, đó là điều Chúa xin chúng ta hôm nay: nhận biết các đặc sủng với niềm vui và lòng biết ơn, các đặc sủng mà Chúa phân phát trong cộng đoàn, và dấn thân cho nhau, theo các sứ vụ và phục vụ mà chúng ta được mời gọi. Như thế Giáo Hội lớn lên với ơn thánh của Chúa và trong mọi thời và mọi nơi, trở thành dấu chỉ đáng tin cậy và là chứng tá sống động cho tình yêu của Thiên Chúa.

Chào các tín hữu nói tiếng Đức Đức Thanh Cha nhắc cho họ biết tháng Mười là tháng Mân Côi. Ngài mời gọi mọi người suy gẫm cuộc sống và công trình của Chúa Kitô với đôi mắt của Mẹ Maria. Ngài nói: anh chị em hãy lần hạt Mân Côi và như thế đồng hành với công việc của Thượng Hội Đồng Giám Mục về gia đình.

Trong tiếng Tây Ban Nha ngài đã đặc biệt chào Đức Cha Javier Echevarría. Giám hạt Opus Dei và tín hữu về tham dự lễ phong chân phước cho Đức Cha Alvaro del Portillo. Ngài xin gương sáng của chân phước trợ giúp họ quảng đại đáp trả lại lời Thiên Chúa mời gọi sống thánh thiện, làm việc tông đồ trong cuộc sống thường ngày, phục vụ Giáo Hội và toàn nhân loại.

Chào các bạn trẻ, người đau yếu và các cặp vợ chồng mới cưới Đức Thánh Cha cầu mong tình yêu mà thánh nữ Terexa Hài Đồng Giêsu có đối với Giáo Hội là giáo huấn cho cuộc sống thiêng liêng của họ. Ngài cầu chúc các anh chị em bệnh nhân dùng lời cầu nguyện như dụng cụ đương đầu với những lúc khổ đau khó khăn nhất. Ngài nhắn nhủ các cặp vợ chồng mới cưới biết xây dựng cuộc sống hôn nhân trên sự tôn trọng và lòng chung thủy với nhau.

Buổi tiếp kiến đã kết thúc với Kinh Lạy Cha và phép lành tòa thánh Đức Thánh Cha ban cho mọi người.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio
 

Tổng Đại hội của phong trào Tổ ấm Focolarini

Tổng Đại hội của phong trào Tổ ấm Focolarini

Phỏng vấn ông Franco Pizzorno, phối hợp viên Ủy ban chuẩn bị tổng đại hội

Từ ngày mùng 1-9-2014, 500 đại biểu của phong trào Tổ ấm Focolarini từ khắp nơi trên thế giới đã tề tưu về Trung tâm Mariapoli tại Castel Gandolfo cách Roma 30 cây số, để tham dự tổng đại hội. Cùng tham dự cũng có 49 khách mời, trong đó có 15 vị thuộc các Giáo Hội Kitô khác.

Trong tổng đại hội các tham dự viên sẽ bầu chị tân Chủ tịch, vị đồng chủ tịch và các vị lãnh đạo khác của phong trào cũng như đề ra các đường hướng hoạt động cho sáu năm tới. Vào cuối đại hội sẽ có buổi tiếp kiến Đức Thánh Cha Phanxicô dành cho các tham dự viên tại Vatican.

Ngỏ lời với các tham dự viên đại hội kéo dài cho tới ngày 28-9-2014, chị Maria Voce, Chủ tịch mãn nhiệm của Phong Trào Tổ Ấm, đã lấy lại tư tưởng của tháng, trích từ thư thánh Phaolô Tông Đồ gửi tín hữu Roma chương 15 câu 7: ”Anh em hãy đón nhận nhau như Chúa Kitô đã đón nhận anh em, để sáng danh Thiên Chúa” (Rm 15,7). Chị mời gọi mọi người hãy có thái độ đó.

Đây không phải là điều đương nhiên, vì các đại biểu đến từ mọi miền của trái đất, và đem theo mình các thảm cảnh của các dân tộc đang phải sống trong chiến tranh gây chết chóc tàn phá tang thương, hay bị thiên tai, hoặc bị thử thách bởi các khủng hoảng kinh tế.

Tiếp đến chị Maria Voce đã đọc vài điện thư bầy tỏ tình hiệp thông với các đại biểu Phong Trào. Anh Gerhard Pross, tin lành, thuộc tổ chức Ymca tỉnh Esslingen bên Đức, viết: ”Tôi xin gửi lời chào nồng nhiệt tới các tham dự viên Tổng Đại Hội. Tôi rất ý thức được tầm quan trọng của các ngày này đối với anh chị em, đối với từng người cũng như với tất cả Phong Trào Tổ Ấm. Tôi ước mong đồng hành với các anh các chị trong những ngày này với một lời cầu nguyện đặc biệt, xin Chúa Thánh Thần hiện diện và hướng dẫn anh chị em”.

Nhóm ”Thân hữu Fon” tỉnh Fonjumetaw bên Cameroon thì cầu chúc cuộc họp tinh thần quan trọng này, nhằm tiếp nối gia tài tình yêu thương hướng tới tình huynh đệ đại đồng của chị Chiara Lubich, gặt hái nhiều thành qủa tốt đẹp.

Tiến sĩ Walter Baier, Tổng thư ký mạng lưới các nhà trí thức cánh Tả Âu châu ”Transform-europe”, viết trong điện thư: ”Mục đích một nhân loại công bằng, liên đới và huynh đệ hơn hiệp nhất chúng ta, trong đó sự khác biệt được sống, không phải như chia rẽ nhưng như sự phong phú… Xin cầu chúc các anh các chị sự khôn ngoan: để các anh các chị có thể diễn đạt sự chuyên biệt của các anh các chị trong cuộc sống ngày nay, và tôi bảo đảm với các anh các chị sự gần gũi của tôi”.

Tiếp theo đó mọi người đã xem một video nhắc lại ”gia tài của chị Chiara Lubich” trong đó có đoạn chị trả lời cho những người hỏi về tương lai của Phong Trào sau khi chị qua đời. Chị Chiara Lubich đã trả lời rằng chị tin tưởng rằng sự hiện diện của Chúa Giêsu giữa những người yêu thương nhau nhân Danh Chúa (Mt 18,20) sẽ tiếp tục hướng dẫn Phong Trào tiến bước. Sau đó các tham dự viên đã bỏ phiếu chấp thuận luật lệ của Đại Hội. Các ngày từ mùng 2 tới mùng 4 tháng 9 được dành cho việc tĩnh tâm, trước khi chính thức bước vào các cuộc thảo luận và sinh hoạt khác của đại hội.

Phong trào Tổ Ấm nảy sinh vào năm 1943 trong thời Đệ Nhị Thế Chiến, do sáng kiến của chị Chiara Lubich (1920-2008) như là một phong trào canh tân tinh thần và xã hội. Chị Chiara Lubich định nghĩa phong trào là ”một dân tộc nảy sinh từ Tin Mừng”. Được thúc đẩy bởi lời cầu nguyện của Chúa Giêsu cho các môn đệ ”Để tất cả chỉ là một” (Ga 17,21) Phong trào nhắm mục đích cộng tác vào việc xây dựng một thế giới hiệp nhất hơn, trong thái độ tôn trọng và trân qúy sự khác biệt. Phong trào ưu tiên dùng sự đối thoại như phương thế, và liên lỉ dấn thân xây dựng các cây cầu và tương quan huynh đệ giữa các cá nhân, các dân tộc, và các môi trường văn hóa. Thành viên của Phong trào bao gồm người thuộc mọi lứa tuổi, ơn gọi, tôn giáo, xác tín, chủng tộc, quốc gia và văn hóa.

Sau đây chúng tôi xin gửi tới qúy vị và các bạn bài phỏng vấn ông Franco Pizzorno, thành viên phong trào, có gia đình, và là một trong hai phối hợp viên của Ủy ban chuẩn bị đại hội.

Hỏi: Thưa ông Pizzorno, Ủy ban chuẩn bị này đã được thành lập khi nào vậy?

Đáp: Vào tháng 9 năm 2013 chị Maria Voce, Chủ tịch phong trào, đã thành lập Ủy ban gồm 20 thành viên thuộc mọi miền địa lý và văn hóa. Ủy ban đã đã tìm cách thu thập mọi ý kiến, nhận xét, cảm tưởng, đề nghị và nguyện vọng của mọi thành viên phong trào, đặc biệt là của người trẻ, liên quan tới các đề tài mà họ cảm thấy liên hệ nhất với thời điểm này của phong trào. Và năm ngoái đã có khoảng 3,000 đề nghị được gửi tới Ủy ban.

Hỏi: Từ các đề nghị đó Ủy ban đã lựa chọn một số đề tài: 12 đề tài sẽ được thảo luận trong đại hội, có đúng thế không thưa ông?

Đáp: Vâng, đúng thế. chúng tôi đã có thể nhận diện khoảng một chục đề tài nền tảng, trong đó có 3 đề tài đã được nhiều người cảm thấy nhất, chúng là các đề tài ”hàng ngang”. Đó là sự quan trọng của việc rộng mở cho thế giới bên ngoài, tầm quan trọng của việc duy trì và đào sâu sự hiệp nhất của phong trào, và tầm quan trọng của việc đào tạo các thành viên. Có thể tóm tắt ba điểm này trong một câu sau đây: ”đi ra ngoài, cùng nhau, được chuẫn bị”, hay ”được chuẩn bị, cùng nhau, đi ra ngoài”. Trên ba đề tài chính này sẽ được ghép vào 8-9 đề tài chuyên biệt khác như: vấn đề của gia đình ngày nay, tương quan giữa Giáo Hội và các Giáo Hội, sự rộng mở cho tất cả các tôn giáo khác vv….

Hỏi: Chỉ nghe các đề tài không thôi, người ta cũng nhận ra rằng Phong trào được mời gọi đi ra một cách mạnh mẽ, nhìn vào thế giới nhiều hơn và dìm mình vào trong thực tế nhiều hơn, có đúng thế không thưa ông?

Đáp: Chúng ta hãy nói rằng cởi mở đối với thế giới nằm trong yếu tố di truyền của Phong trào Tổ Ẩm. Thật thế, mục đích của chúng tôi là ”Ut unum sint” Xin cho tất cả mọi người trở nên một. Nhưng dĩ nhiên là việc đọc hiểu những gì xảy ra trên thế giới với các mâu thuẫn của nó, các vết thương của nó, các khó khăn của nó cũng đã khích lệ chúng tôi hơn nữa trong việc mở rộng chân trời của phong trào theo hướng này. Thế rồi, đặc biệt lời nói và gương sống của Đức Thánh Cha Phanxicô, việc rộng mở ra cho các vừng ngoại biên… như là phong trào công giáo chúng tôi cũng muốn đáp trả lại chỉ dẫn này của Giáo Hội.

Hỏi: Khi nhìn giai đoạn chuẩn bị cho tổng đại hội cũng như chính tổng đại hội, người ta thấy nổi bật lên nét phong phú của sự trao đổi giữa các nền văn hóa, các chủng tộc, các quốc gia khác nhau. Làm thế nào để gộp chung lại một dân tộc đa diện như thế, mà vẫn chú ý tới các khác biệt?

Đáp: Chắc chắn rồi, thách đố không phải là đơn sơ, nhưng như là kinh nghiệm bé nhỏ mà chúng tôi đã sống trong tư cách là Ủy ban chuẩn bị: chúng tôi là những người đến từ nhiều vùng địa lý, nền văn hóa và ơn gọi khác nhau, nhưng chúng tôi đã thành công trong việc tạo ra một sự hiệp nhất lớn giữa chúng tôi, và như thế cũng làm trung gian để tìm thu thập các đề nghị khác nhau. Như vậy tôi tin tưởng rằng bên trong Phong trào, nơi nền tảng là việc liên tục thực thi trở thành một người trong chúng tôi, và lắng nghe người khác cho tới tận cùng. Điều này chắc chắn sẽ lá dụng cụ giá trị để đi tới chổ đưa ra các đường hướng cụ thể. Cũng bởi vì sự hiệp nhất giữa chúng tôi, mà chúng tôi muốn kiên trì theo đuổi, sẽ đem tới ánh sáng của Chúa Thánh Thần giúp phân định một cách cụ thể các con đường cần đi theo.

Hỏi: Thưa ông Pizzorno, trong một thế giới trong đó xem ra xung đột lại thắng thế, đặc sủng của Phong trào Tổ Ấm cổ võ sống yêu thương hiệp nhất và rộng mở xem ra vô cùng thời sự và rất mạnh mẽ, có đúng thế không?

Đáp: Chắc chắn rồi. Tôi còn cho là thời sự hơn bao giờ hết nữa, nơi đâu các vết thương của xã hội và của nhân loại hiển nhiên như thế, nếu không nói là thê thảm như thế, thì chính ở đó chúng tôi cảm thấy được mời gọi đem phần đóng góp của sự hiệp nhất vào trong các đổ bể đó, là thuốc chữa và giải pháp duy nhất đích thật cho tất cả mọi chấn thương này. Đặc sủng của chị Chiara Lubich đã là điều này: đặc sủng của sự hiệp nhất tự nó mời gọi từng người trong chúng ta trở thành người đem sự hiệp nhất ấy tới khắp nơi chúng ta sống, bắt đầu bằng cuộc sống thường ngày, bắt đầu bằng các cơ cấu, trong đó chúng ta đang sống, bắt đầu từ Giáo Hội, cũng như bắt đầu từ các cơ cấu quốc tế.

(RG 1-9-2014)

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Tòa Thánh cổ võ đối phó hữu hiệu với nạn khủng bố quốc tế

Tòa Thánh cổ võ đối phó hữu hiệu với nạn khủng bố quốc tế

NEW YORK. Tòa Thánh kêu gọi LHQ canh tân các qui luật của mình để đối phó hữu hiệu với những hình thức mới của nạn khủng bố quốc tế.

Lập trường trên đây được ĐHY Pietro Parolin, Quốc vụ khanh Tòa Thánh, trình bày trong bài tham luận hôm 29-9-2014 tại Đại hội đồng thứ 69 của LHQ đang tiến hành tại New York.

ĐHY nhận xét rằng LHQ cho đến nay có thái độ thụ động trước những hành vi thù nghịch mà dân chúng vô tội phải chịu. Vì thế trong thư đề ngày 9-8 năm nay gửi ông tổng thư ký LHQ, ĐTC Phanxico đã kêu gọi các ”cơ quan thẩm quyền của LHQ, đặc biệt những cơ quan trách nhiệm về an ninh, hòa bình, công pháp nhân đạo và trợ giúp người tị nạn, tiếp tục nỗ lực hoạt động, phù hợp với Lời Tựa và những điều khoản quan trọng trong Hiến chương LHQ.”

ĐHY Parolin gọi tình trạng bi thảm ở miền bắc Irak và một số nơi ở Siria là một hiện tượng hoàn toàn mới mẻ: đó là sự hiện hữu của một tổ chức khủng bố đe dọa mọi quốc gia, thề giải tán các nước và thay thế bằng một chính phủ thế giới ngụy tôn giáo. Như ĐTC đã nói, rất tiếc là ngày nay có những người muốn đạt tới quyền lực bằng cách cưỡng bách lương tâm, tước đoạt sự sống, bách hại và giết người nhân danh Thiên Chúa (Xc Oss.Rom. 3-5-2014).

ĐHY Quốc vụ khanh Tòa Thánh nhấn mạnh rằng ”hiện tượng mới mẻ trên đây với mọi khía cạnh bi thảm của nó, phải thúc đẩy cộng đồng quốc tế thăng tiến một câu trả lời thống nhất, dựa trên các tiêu chuẩn pháp lý vững chắc và thái độ sẵn sàng cộng tác cho công ích.”

Để đối phó với nạn khủng bố hoàn cầu như thế, Tòa Thánh đặc biệt lưu ý về hai lãnh vực: trước tiên là xử lý nguồn gốc văn hóa và chính trị của những thách đố hiện nay, nhìn nhận nhu cầu phải có những chiến lược mới để giải quyết các vấn đề quốc tế này, trong đó các nhân tố văn hóa giữ một vai trò cơ bản.

Lãnh vực thứ hai là nghiên cứu sâu rộng hơn về hiệu năng của công pháp quốc tế ngày nay, nhất là những cơ cấu mà LHQ sử dụng để phòng ngừa chiến tranh, ngăn chặn những kẻ gây hấn, bảo vệ dân chúng và giúp đỡ các nạn nhân.

ĐHY Parolin khẳng định rằng ”những thách đố do các hình thức khủng bố mới mẻ đề ra không được làm cho chúng ta có những quan điểm thái quá và coi các nền văn hóa đối nghịch nhau. Thái độ thu hẹp trong việc giải thích tình trạng đụng độ khủng bố như thế, coi chúng là ”sự đụng độ giữa các nền văn minh”, là điều lợi dụng sự sợ hãi và những thành kiến hiện có, và chỉ dẫn tới những phản ứng bài người ngoại quốc, rốt cục chỉ ủng cố chính những tâm tình ở nơi trọng tâm chủ nghĩa khủng bố. Những thách đố chúng ta đang đương đầu phải dẫn tới một lời tái kêu gọi đối thoại về tôn giáo và liên văn hóa, thực hiện những phát triển mới trong công pháp quốc tế, thăng tiến những sáng kiến hòa bình công chính và can đảm”. (SD 30-9-2014)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Đức Thánh Cha gặp gỡ và cử hành thánh lễ với người cao niên

Đức Thánh Cha gặp gỡ và cử hành thánh lễ với người cao niên

VATICAN. Sáng chúa nhật 28-9-2014, ĐTC Phanxicô đã gặp gỡ 40 ngàn người cao niên và dâng thánh lễ với hơn 80 ngàn tín hữu sau đó.

Từ 8.30 sáng, đã có khoảng 40 ngàn người cao niên đến từ 20 quốc gia, tụ tập tại quảng trường thánh Phêrô, để tham dự cuộc gặp gỡ do Hội đồng Tòa Thánh về gia đình tổ chức với chủ đề ”Phúc lành sống lâu”.

Họ sinh hoạt với những bài đọc Kinh Thánh, trong đó có trình thuật về bà Sarah, người vợ son sẻ của tổ phụ Abraham, chuyện bà Ruth được con dâu Noemi săn sóc và tháp tùng, bà Elisabeth và chồng là Zacharia, rồi chứng từ, suy tư, chuyện kể, xen lẫn những bản nhạc.

Sinh hoạt

Lúc 9 giờ 22 phút, Đức nguyên Giáo Hoàng Biển Đức 16 tiến vào quảng trường. Năm nay đã 87 tuổi và nhận lời mời của ĐTC và tham dự phần gặp gỡ. Đây là lần thứ 3 ngài xuất hiện trước công chúng kể từ khi từ nhiệm. Lần đầu tiên ngày 22-2 năm nay tại Đền thờ Thánh Phêrô trong buổi lễ tấn phong các Hồng y mới. Lần thứ hai ngày 27-4 trong lễ tôn phong hiển thánh cho hai ĐGH Gioan 23 và Gioan Phaolô 2.

Gần 9 giờ rưỡi, ĐTC Phanxicô đến và được một số ông bà nội với các cháu đón tiếp. Ngài ngồi trước bàn thờ cạnh Đức TGM Vincenzo Paglia, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh về gia đình.

Trong lời chào mừng, Đức TGM gọi Đức Biển Đức 16 là ”ông nội đầu tiên” trong các ông bà nội ngoại hiện diện tại quảng trường, và nhắc đến tuổi già thường bị sống như một cuộc đắm tàu và mong manh, như một án phạt. Nhưng Đức TGM cũng gợi lại lời bà Anna Magnani hãnh diện vì những vết nhăn trên mặt mà bà đạt được từng nét một”.

Chứng từ đầu tiên được trình bày trước ĐTC và mọi người sau lời chào mừng của Đức TGM Paglia là ông bà Mubarak 74 tuổi và Anneesa Hano, người Irak, thành hôn từ 51 năm nay và có 10 người con, 12 người cháu. Họ đến từ thành phố Qaraqosh, gần Mossul ở miền bắc Irak. Họ đại diện cho rất nhiều gia đình Kitô bị trục xuất và tị nạn trước sự tấn công của lực lượng thánh chiến Nhà Nước Hồi giáo. Đức TGM Vincenzo Paglia, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh về gia đình giải thích rằng: ”Chứng từ của đôi vợ chồng già người Irak này nhắc nhớ cho tất cả mọi người rằng chiến tranh thực là điều điên rồ; chúng tôi hy vọng thế giới học bài học này, như ĐGH Phanxicô đã nhắc nhở”.

Cùng với những lời kể của Ông bà Mubarak và Anneesa Hano, có một băng Video được Elisa Grevo và Federico Fazzuoli thực hiện, kể lại những địa điểm và các tiếng chuông nhà thờ ở thành Alqosh như từ 2 ngàn năm nay ở vùng bình nguyên Ninive. Tiếng chuông này cùng với chuông của tất cả các nhà thờ Kitô khác tại đây đã im bặt từ ngày 6-8 năm nay sau khi bị dân quân của Nhà Nước Hồi giáo chiếm. Thay thế thánh giá trên tháp chuông thánh đường là lá cờ đen.

Một chứng từ khác là của cha Sebastiano, dòng Capuchino, cha gọi mình là một ông nội tinh thần của những người già, 120 người ở trong trung tâm tiếp đón ”Phanxicô và Clara”, cạnh đó có một hang đá Lộ Đức ở trong vườn. Trong số những người già ở trung tâm có những người bị bệnh suy thoái não bộ.

Huấn từ của Đức Thánh Cha

Sau phần chứng từ, ĐTC Phanxicô đã ngỏ lời với mọi người. Ngài đặc biệt cám ơn sự hiện diện của Đức nguyên Giáo Hoàng Biển Đức 16 và nhắc lại là ngài rất hài lòng vì sự hiện diện của Người ở Vatican, như một ông nội khôn ngoan. ĐTC cám ơn Ông bà Mubarak từ Qarakos đã đến đây với các con cháu, đại diện cho bao nhiêu tín hữu Kitô tại Irak bị bách hại dữ dội. Ngài nói: ”Bạo hành đối với người già là điều vô nhân đạo, cũng như bạo hành đối với trẻ em. Nhưng Thiên Chúa không bỏ rơi anh chị em! Ngài ở với anh chị em! Các anh chị em này chứng tỏ cho chúng ta thấy trong những thử thách khó khăn nhất, những người già có đức tin như những cây tiếp tục mang lại hoa trái. Và điều này cũng giá trị đối với những tình trạng bình thương hơn, nhưng trong đó có thể có những cám dỗ khác, và những hình thức kỳ thị, như chúng ta đã nghe trong một số chứng từ.

ĐTC cũng tái khẳng định tuổi già là một thời kỳ hồng ân, trong đó Chúa lập lại lời kêu gọi hãy bảo tồn và thông truyền đức tin, Chúa mời gọi chúng ta cầu nguyện, và nhất là chuyển cầu cho người khác: Chúa mời gọi chúng ta hãy gần gũi những người đang cần. Những người già, những ông bà nội ngoại có khả năng hiểu những hoàn cảnh khó khăn và lời cầu nguyện của họ thật mạnh mẽ.

ĐTC nhắc đến tình trạng những nước bị bách hại tôn giáo, như ở Albani, chính các ông bà đã giúp rửa tội bí mật cho các cháu, mang lại đức tin cho các cháu. Họ can đảm trong cơn bách hại và đã cứu vãn đức tin tại các nước ấy.
Ngài tái lên án nạn gạt bỏ người già, bỏ rơi họ. Đó là hậu quả của nền văn hóa gạt bỏ gây hại lớn cho thế giới chúng ta. Trẻ em bị gạt bỏ, người trẻ cũng vậy, họ không có công ăn việc làm. Người già cũng bị gạt bỏ viện cớ là để duy trì một hệ thống kinh tế quân bình, nơi trung tâm của nền kinh tế ấy không có con người, nhưng chỉ có tiền bạc. Tất cả chúng ta được mời gọi chống lại thứ văn hóa gạt bỏ, bị nhiễm độc như thế.

Cuộc gặp gỡ kết thúc lúc 10 giờ 20. ĐTC Phanxicô tiến đến chào và cám ơn vị tiền nhiệm của ngài, rồi chào thăm một số nhân vật trước khi chuẩn bị bắt đầu thánh lễ cũng tại quảng trường.

Thánh lễ

Đồng tế với ngài có một số GM và 100 LM cao niên. Phần thánh ca, ngoài ca đoàn Sistina của Tòa Thánh còn có ca đoàn Mẹ Giáo Hội gồm 80 ca viên. Quảng trường thánh Phêrô tăng thêm số người tham dự, họ đứng tràn ra tới đường Hòa Giải.

Trong bài giảng Thánh lễ, ĐTC đã diễn giải cuộc gặp gỡ giữa Mẹ Maria và bà chị họ Elisabeth và rút ra những bài học cho tương quan giữa các thế hệ già trẻ. Ngài nói:

”Bài Tin Mừng mà chúng ta vừa nghe, ngày hôm nay chúng ta đón nhận như Tin Mừng cuộc gặp gỡ giữa người trẻ và ngườ già: một cuộc gặp gỡ đầy vui mừng, đầy đức tin và hy vọng.

Maria là một người trẻ. Elisabeth là một người già, nhưng nơi bà có biểu lộ lòng từ bi của Thiên Chúa và từ 6 tháng nay, cùng với chồng là ông Zacaria, bà đang chờ đợi một người con.

Maria, trong hoàn cảnh ấy, tỏ cho chúng ta sự sống: đi gặp một người họ hàng già, ở với bà, chắc chắn là để giúp đỡ bà, nhưng nhất là cũng để học hỏi nơi bà, là người già, một sự khôn ngoan trong cuộc sống.

Bài đọc thứ I, với những kiểu diễn tả khác nhau, vang vọng giới răn thứ tư: ”Hãy thảo kính cha mẹ, để ngươi được sống lâu tại đất nước mà Chúa là Thiên Chúa ngươi, ban cho ngươi” (Xh 20,12). Không có tương lai đối với dân tộc nào không có cuộc gặp gỡ giữa các thế hệ, không có những người con với lòng biết ơn đón nhận chứng nhân của cuộc sống từ tay cha mẹ. Và trong sự biết ơn đối với người đã thông truyền cho bạn sự sống, cũng có lòng biết ơn đối với Chúa Cha ở trên trời.

Đôi khi có những thế hệ người trẻ, vì những lý do phức tạp về lịch sử và văn hóa, sống và cảm thấy một nhu cầu mạnh mẽ tự lập với cha mẹ, hầu như thể ”giải thoát mình” khỏi tàn tích của thế hệ trước đó. Thái độ đó như thể là thời kỳ niên thiếu nổi loạn. Nhưng nếu sau đó không phục hồi cuộc gặp gỡ, nếu không tìm lại một sự quân bình mới mẻ, phong phú giữa các thế hệ, thì hậu quả là một sự nghèo nàn đối với dân tộc và tự do thống trị trong xã hội là một thứ tự do giả tạo, hầu như luôn biến thành một chế độ độc đoán.

Cùng sứ điệp ấy cũng được thánh Phaolô gửi đến Timôthê, và qua thánh nhân, gửi đến cộng đoàn Kitô. Chúa Giêsu không bãi bỏ luật gia đình và sự chuyển tiếp giữa các thế hệ, nhưng đã kiện toàn luật ấy. Chúa đã hình thành một gia đình mới, trong đó liên hệ với Chúa và việc thi hành thánh ý Chúa Cha trổi vượt hơn các mối liên hệ máu mủ. Nhưng tình yêu đối với Chúa Giêsu và Chúa Cha đưa tới mức độ viên mãn tình yêu đối với cha mẹ, anh chị em, đối với các ông bà nội ngoại, đổi mới các quan hệ gia đình nhờ nhựa sống của Tin Mừng và Thánh Linh. Và như thánh Phaolô đã nhắn nhủ Timôthê, là một Chủ Chăn và vì thế cũng là cha của cộng đoàn, hãy có lòng kính trọng đối với những ngườ già và các thân nhân, và Ngài khuyên ông thi hành điều đó với thái độ con thảo: các ông cụ già ”như cha của mình”, ”bà cụ già như mẹ của mình” (Xc 1 Tm 5,1). Thủ lãnh cộng đoàn không được chuẩn chước khỏi thánh ý Chúa, trái lại, tình yêu Chúa Kitô thúc đẩy thủ lãnh thi hành điều ấy với một tình yêu lớn lao hơn nữa. Như Đức Trinh Nữ Maria, tuy là Mẹ của Đấng Messia, nhưng cảm thấy được tình yêu Chúa thúc đẩy, Đấng đang nhập thể trong lòng Mẹ, và chạy đến bà chị họ già.

Và chúng ta hãy trở lại ”hình ảnh' đầy vui mừng và hy vọng, đầy đức tin và đức ái. Chúng ta có thể nghĩ rằng Đức Trinh Nữ Maria, ở nhà bà Elisabeth, cũng như bà và Zacaria chồng bà cầu nguyện với những lời của thánh vịnh đáp ca hôm nay: ”Lạy Chúa, Chúa là niềm hy vọng của con, là niềm tín thác của con ngay từ thời trẻ trung của con.. Xin đừng để con lâm vào tuổi già, đừng bỏ rơi con khi sức lực con tàn tạ.. Khi tuổi già đến và tóc bạc, lạy Chúa, xin đừng bỏ rơi con, cho đến khi con loan báo quyền năng Chúa, những công trình của Chúa cho mọi thế hệ” (Tv 71,5.9.18). Mẹ Maria trẻ trung lắng nghe và cẩn giữ mọi sự trong lòng. Sự khôn ngoan của bà Elisabeth và Zacharia đã làm cho tâm hồn trẻ được phong phú; họ không phải là chuyên gia về việc làm cha làm mẹ, vì đối với họ đó cũng là lần mang thai đầu tiên, nhưng là chuyên gia về đức tin, niềm tin nơi Thiên Chúa, về niềm hy vọng đến từ Chúa: đó là điều mà thế giới đang cần, trong mọi thời đại. Mẹ Maria đã biết lắng nghe các cha mẹ già và đầy kinh ngạc, đã cẩn giữ như kho tằng sự khôn ngoan của họ, và đó là điều quí giá đối với Mẹ, trong hành trình như một phụ nữ, một người vợ, người mẹ.

Như thế, Mẹ Maria chỉ cho chúng ta con đường: con đường gặp gỡ giữa những người trẻ và người già. Tương lai của một dân tộc nhất thiết đòi phải có cuộc gặp gỡ ấy: những người trẻ mang lại sức mạnh để dân tiến bước và người già củng cố sức mạnh ấy với ký ức và sự khôn ngoan bình dân.

Trong phần lời nguyện phổ quát bằng các ngôn ngữ Anh, Hoa, Đức, Ba Lan và Pháp, cộng đoàn đã cầu cho Giáo Hội, cho những người bị bách hại vì đức tin, xin Chúa ban cho họ sức mạnh trong con thử thách và bách hại, trong những tủi nhục và ngỡ ngàng; cầu cho những người già cô độc và bệnh tật, xin Chúa an ủi tâm hồn họ trong đau khổ và bỏ rơi, trong thử thách và sầu muộn; cầu cho các ông bà nội ngoại, xin Chúa tháp tùng công việc của họ trong quảng đại và khôn ngoan, trong sự mong manh và âm thầm.

Cuối thánh lễ, như thường lệ, ĐTC đã chủ sự buổi đọc kinh Truyền tin. Trong bài huấn dụ ngắn, ngài mời gọi các tín hữu, các cộng đoàn, cầu nguyện cho Thượng HĐGM thế giới sẽ khai diễn chúa nhật tới 5-10-2014 về việc mục vụ gia đình. Ngài không quên phó thác biến cố quan trọng này cho sự chuyển cầu của Mẹ Maria là Phần rỗi của dân Roma và xin Mẹ phù hộ những người già trên toàn thế giới.

ĐTC cũng trao cho một số người cao niên đại diện cho mọi người khác sách Phúc Âm theo thánh Marco, ấn bản chữ to.

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Đức Thánh Cha chủ sự Kinh Chiều tạ ơn 200 năm tái lập dòng Tên

Đức Thánh Cha chủ sự Kinh Chiều tạ ơn 200 năm tái lập dòng Tên

ROMA. ĐTC Phanxicô mời gọi các tu sĩ dòng Tên tiếp tục phục vụ Giáo Hội, can đảm cùng nhau đương đầu với những thách đố ngày nay.

Ngài đưa ra lời kêu gọi này trong bài giảng tại buổi hát kinh chiều thứ bẩy 27-9-2014 tại Nhà Thờ Chúa Giêsu ở Roma, nhân dịp tạ ơn kỷ niệm 200 năm ĐGH Piô 7 tái lập dòng Tên.

Dòng Tên được thánh Ignatio Loyola thành lập năm 1539 nhưng bị ĐGH Clémente 14 giải tán năm 1773 dưới sức ép của các triều đình Âu Châu. Ngày 7 tháng 8 năm 1814, ĐGH Piô 7 ban sắc chỉ ”Sollicitudo omnium ecclesiarum” (mối quan tâm của toàn thể các Giáo Hội) tái lập dòng Tên.

Nhà Thờ Chúa Giêsu của dòng Tên ở trung tâm Roma là nơi có giữ hài cốt thánh Ignatio cũng như một cánh tay của Thánh Phanxicô Xavie, Tông đồ miền viễn đông, và cũng có mộ của nhiều Bề trên Tổng quyền của dòng. Kể từ khi làm Giáo Hoàng ngày 13-3 năm ngoái, ĐTC Phanxicô đã đến Nhà thờ Chúa Giêsu 4 lần. Hiện diện tại thánh đường này trong buổi hát Kinh Chiều, ĐHY João Aviz de Braz, Tổng trưởng Bộ các dòng tu, Cha Bề Trên Tổng Quyền Adolfo Nicolas và khoảng 300 tu sĩ dòng Tên cùng với một số tín hữu.

Trong bài giảng, ĐTC nhắc lại những biến cố đau thương dòng Tên đã trải qua, từ những vụ bị nhà cầm quyền trục xuất khỏi Tây Ban Nha, Pháp, Bồ đào nha cho đến khi bị Đức Clemente XIV giải tán năm 1773. Ngài nhắc đến tinh thần vâng phục của dòng giữa những tủi nhục, giữa những mất mát tất cả, thậm chỉ cả căn tính công khai của mình. Cha Ricci, Bề Trên Tổng quyền bấy giờ, vẫn nhắn nhủ anh em duy trì tinh thần bác ái, hiệp nhất, tuân phục, kiên nhẫn, đơn sơ theo Phúc Âm, và sống tình bạn đích thực với Thiên Chúa.

ĐTC khẳng định rằng ”Con thuyền dòng Tên đã bị sóng gió vùi dập và không nên ngạc nhiên vì sự kiện đó. Cả con thuyền thánh Phêrô ngày nay cũng có thể bị như vậy. Đêm tối và quyền lực của bóng đen vẫn luôn gần kề.. Các tu sĩ dòng tên phải luôn là ”những tay chèo lành nghề và dũng cảm” (Piô VII, Sollecitudo omnium ecclesiarum): anh em hãy chèo dù thế nào đi nữa! Hãy chèo, hãy vững mạnh, kể cả khi gặp gió ngược! Hãy chèo để phục vụ Giáo Hội! Hãy cùng nhau chèo! Nhưng trong khi chèo – tất cả chúng ta đều chèo, kể cả Giáo Hoàng cũng chèo với con thuyền thánh Phêrô – chúng ta phải cầu nguyện thật nhiều: 'Lạy Chúa, xin cứu chúng con! Lạy Chúa, xin cứu dân Chúa!”.

ĐTC nói thêm rằng: ”Ngày nay, dòng Tên đang đương đầu một cách khôn ngoan và cần cù với cả vấn đề bi thảm của những người tị nạn và di tản; trong tinh thần phân định, Dòng đang cố gắng liên kết việc phục vụ đức tin với sự thăng tiến công lý, phù hợp với Tin Mừng. Ngày hôm nay tôi tái khẳng định điều mà ĐGH Phaolô 6 đã nói với Tổng tu nghị thứ 32 của chúng ta mà chính tôi đã nghe: “Bất kỳ nơi nào trong Giáo Hội, cả trong những cánh đồng khó khăn và khắc nghiệt nhất, nơi các ngã tư của các ý thức hệ, nơi các chiến hào xã hội, đã và đang có sự đối chiếu giữa những đòi hỏi nóng bỏng của con người và sứ điệp ngàn đời của Tin Mừng, tại những nơi đó đã và đang có các tu sĩ Dòng Tên”. (SD 27-9-2014)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Thái độ vâng phục

Thái độ vâng phục

(Trích trong ‘Sống Tin Mừng’)

Thomas Mertin mồ côi cha mẹ lúc lên mười sáu tuổi, hai mươi tuổi ông theo Đảng Cộng Sản, lúc hai mươi ba tuổi thì trở lại đạo Kitô, hai mươi bốn tuổi làm phóng viên cho tuần báo New York, sau khi nghỉ phóng viên đến hai mươi sáu tuổi từ bỏ mọi sự cuốn gói đi theo Chúa.

Thomas Mertin đến ở nhà Dòng Kentucky và trở thành tu sĩ sống đời chiêm niệm. Trong tập sách tự thuật về "Cuộc Đời Của Mình", Thomas mô tả lại những bước đầu tiên của cuộc trở lại như sau:

Lúc đó tôi vừa mới xong trung học và đang dùng xe lửa để đi thăm khắp nơi Âu Châu với một cuộc sống khá phung phí. Một hôm nằm trong khách sạn, tôi chợt ý thức về những tội lỗi của mình, tất cả mọi sự qua đi thật nhanh. Tôi như được soi sáng để nhìn biết sự khốn cùng của tâm hồn tôi. Tôi nhất định thoát ra khỏi hoàn cảnh này, khỏi những ồn ào và lần đầu tiên Thomas Mertin đã ý thức là mình đã có kinh nghiệm cầu nguyện, cầu nguyện để xin Thiên Chúa giải thoát mình khỏi mọi ràng buộc.

Bài Phúc Âm hôm nay xem ra như người con thứ nhất nói không đi rồi lại đi, anh ta có một thái độ thay đổi cách tự động máy móc. Nhưng trong thực tế, trong đời sống thiêng liêng của mỗi người chúng ta, cần phải có thời gian cùng với những lời cầu nguyện, xin Chúa thương nâng đỡ chúng ta, đưa chúng ta ra khỏi hoàn cảnh hiện tại là đang sống trong tội lỗi, đam mê của xác thịt. Mỗi người cần phải ăn năn trở lại, cần phải thưa vâng với Lời Chúa mời gọi, vì không ai có thể nói là mình đã hoàn toàn thưa vâng với Chúa.

Mỗi người đều cảm thấy nhiều khó khăn làm mình khó trở lại, khó chấp nhận với hoàn cảnh hiện tại của mình, cảm thấy trống vắng và muốn thay đổi, cảm thấy có một sự không ổn nào đó trong tâm hồn mỗi người chúng ta. Đó là bước đầu tiên của tiến trình trở lại cùng Chúa. Rồi một biến cố nào đó đánh động và mở ra một quyết định, một bất ngờ như Thomas Mertin đang ở trong khách sạn, bất ngờ cảm thấy sự khốn cùng của mình và muốn vượt ra khỏi sự khốn cùng ấy.

Nói theo ngôn ngữ thần học thì đây là giây phút của ân sủng đánh động, mời gọi chúng ta trở về với Ngài để đời sống chúng ta được ăn khớp với lời dạy của Chúa. Cuối cùng cần phải có một quyết định cụ thể để thực hiện một việc làm theo hướng đi mới. Mỗi ngày chúng ta cần cầu nguyện nhiều và tiếp xúc thân mật với Chúa để xin Chúa ban ơn soi sáng cho chúng ta có một quyết định dứt khoát theo đúng hướng đi mà Chúa muốn chúng ta tiến bước. Hơn nữa, mỗi ngày chúng ta cần trở về với Chúa và thưa với Chúa "Lạy Chúa, này con xin đến để thực thi ý Chúa".

Xin Chúa soi sáng giúp con nhận ra thánh ý Chúa trong những việc làm hàng ngày, trong những biến cố xảy ra trong đời sống của con và xin Chúa ban cho con được ơn can đảm chu toàn đến cùng, xin Chúa gìn giữ mỗi người trong đức tin mà chúng con tuyên xưng qua kinh Tin Kính.

Veritas Radio

SÁM HỐI LÀ KHỞI ĐIỂM

SÁM HỐI LÀ KHỞI ĐIỂM

Nói và làm đó là hai thái độ khác nhau. Có người nói mà không làm. Có người không nói nhưng lại làm. Đó chính là hai thái độ mà Chúa đề cập đến trong bài dụ ngôn hôm nay. Hạng người nói mà không làm đó là những người biệt phái và luật sĩ. Họ tự cho là mình đạo đức, nhưng khi Chúa Giêsu rao giảng, họ không những không tin mà còn phê phán chỉ trích những người tin Chúa, chỉ trích chính Chúa đã đón tiếp người tội lỗi. Hạng người không nói mà làm đó là những người thu thuế và những người tội lỗi. Tuy sống tội lỗi, nhưng khi nghe Chúa rao giảng, họ đã ăn năn sám hối và tin vào Chúa. Qua dụ ngôn này Chúa muốn dạy ta những bài học sau.

Bài học thứ nhất: Việc làm trọng hơn lời nói. Trong đời sống, chúng ta gặp không ít những người nói hay, nói nhiều, nhưng làm chẳng bao nhiêu. Tục ngữ Việt Nam có câu “Mười voi không được bát nước sáo” là thế. Nhưng trái lại có những người không nói giỏi, có khi không nói gì cả, nhưng lại làm rất nhiều. Nhất thời ta có thể thích những người nói hay. Nhưng sống càng lâu, ta càng mến những người nói ít làm nhiều. Trong đời sống thiêng liêng cũng thế. Chúa yêu chuộng những người làm việc hơn là những người chỉ biết nói suông. Có lần Chúa đã vạch rõ những giả dối này: “Không phải những ai nói rằng: Lạy Chúa, lạy Chúa mà được vào Nước Trời, nhưng là những kẻ làm theo ý Cha Ta trên trời” (Mt 7,21). Đức tin phải biểu lộ bằng việc làm mới là đức tin sống động. Như thánh Giacôbê dạy: “Đức tin không có việc làm là đức tin chết” (Gc 2,17). Tình yêu cũng phải có việc làm. Việc làm minh chứng tình yêu đích thực. Tin yêu Chúa phải được biểu lộ bằng việc làm.

Bài học thứ hai: Con người có thể thay đổi. Con người còn sống ở trần gian là còn thay đổi. Đó là một điều ta phải cảnh giác. Biết đâu ta đang tốt bỗng trở nên xấu. Cũng như các biệt phái và luật sĩ tự hào mình tốt, nhưng khi Chúa Giêsu đến, họ đã trở nên xấu vì không tin vào Chúa, không hoán cải đời sống. Con người có thể thay đổi. Đó là điều làm cho chúng ta hy vọng. Vì nếu ta tội lỗi yếu hèn, ta vẫn có cơ hội ăn năn trở lại. Ta không bị kết án trong tội lỗi của ta. Chúa còn cho ta có thời giờ trở lại với Chúa. Miễn là ta nhận biết mình và quyết tâm đổi mới cuộc đời.

Bài học thứ ba: Sám hối là việc cần thiết của mọi người. Đã là người ai cũng có sai lầm. Vì con người yếu đuối bất toàn. Chúa không đòi ta phải hoàn hảo không bao giờ sai lỗi. Nhưng Chúa đòi ta mỗi khi sai lỗi phải biết sám hối ăn năn. Sám hối thật cần thiết vì có sám hối ta mới được Chúa thứ tha. Chúa yêu thương và sẵn sàng tha thứ cho những tâm hồn sám hối như lời Thánh Vịnh: “Một tấm lòng tan nát dày vò, Chúa sẽ chẳng khinh chê” (Tv 50). Ta hãy xem Chúa đã tha thứ cho bà Mađalena. Nhất là Chúa đã tha thứ cho người trộm lành, để thấy Chúa nhân từ thương xót biết bao. Nhưng Chúa lại chê ghét những tâm hồn kiêu căng cứng cỏi không chịu ăn năn sám hối. Trong Phúc Âm ta thấy Chúa chỉ mắng nhiếc những người tự xưng mình đạo đức nên kiêu căng khinh miệt người khác và không nghe lời Chúa. Nhưng Chúa luôn nhân từ, khoan dung, tha thứ cho những tội lỗi thật lòng ăn năn. Sám hối thật cần thiết vì tất cả chúng ta ai cũng có lầm lỗi trước mặt Chúa, cần được Chúa khoan hồng thứ tha. Sám hối thật cần thiết vì đó là khởi điểm để nên tốt, nên thánh thiện. Có sám hối ta mới biết từ bỏ nếp sống cũ. Có sám hối ta mới bắt đầu một nếp sống mới đẹp lòng Chúa.

Như thế, ta đừng chỉ nói suông mà không làm, nhưng hãy biết thực hành điều Chúa dạy. Ta đừng tự hào vì mình tốt lành mà phê bình chỉ trích người khác. Hãy tự xét mình để thấy mình tội lỗi. Và khi biết mình tội lỗi, hãy ăn năn sám hối ngay. Có sám hối ta sẽ được Chúa tha thứ. Có sám hối sẽ được anh chị em yêu thương. Nhất là có sám hối ta mới khởi sự tiến lên trên con đường thánh thiện.

Lạy Chúa xin tha thứ tội con đã phạm đến Chúa và đến anh em. Amen.

GỢI Ý CHIA SẺ

1) Nói và làm, việc nào cần hơn và tốt hơn?

2) Có nhiều chương trình tốt đẹp nhưng không thực hiện, có ích gì không?

3) Biết nhận lỗi, xin lỗi và sửa lỗi. Điều này đáng trọng hay đáng chê trách?

ĐTGM Ngô Quang Kiệt

Lời nói đi đôi với việc làm

Lời nói đi đôi với việc làm

(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)

Hôm nay, Thánh sử Matthêu kể cho chúng ta nghe một câu chuyện khá thú vị:

Một người cha có hai người con. Một hôm ông nói với hai con: “Hôm nay, hai con đi làm vườn nho cho cha nghe!”Hai người con đã đáp lại bằng hai thái độ khác nhau: Người con thứ nhất đã dùng tiếng “không”để đáp lại lời mời gọi của cha. “không, con không đi”. Nhưng sau đó, anh ta nghĩ lại, rồi quyết định đi làm vườn nho như ý cha muốn.

Ngược lại, người con thứ hai, ngay từ đầu đã tỏ ra lễ phép và vâng phục. Anh ta đáp lại: “Thưa cha, vâng ạ!”, nhưng đó chỉ là câu nói lừa bịp đối với cha, vì anh ta không đi làm vườn nho như ý cha muốn. Anh chỉ nói mà không làm.

Thưa anh chị em,

Ai cũng hiểu Chúa Giêsu muốn nói gì qua câu chuyện người cha và hai đứa con này. Chúa muốn nói với chúng ta: Muốn vào Nước Trời, vấn đề không phải chỉ nói “có”ngoài môi miệng mà phải làm theo ý của Chúa Cha. Hai người con, không có người nào đem lại niềm vui trọn vẹn cho cha. Cả hai đều không làm cha mình hài lòng. Nhưng người con thứ nhất rõ ràng là tốt hơn người con thứ hai. Bởi vì, tuy lúc đầu anh đã nói “không”, rồi sau đó anh đã đi làm ngay, thì thật là tốt biết mấy!

Trong cuộc sống thường ngày, chúng ta thường gặp hai hạng người này: Thứ nhất là hàng người nói nhiều hơn làm, họ hứa hẹn đủ điều, nhưng rồi không làm gì cả. Thứ hai là hạng người làm nhiều hơn nói, họ không hứa hẹn, ba hoa khoác lác, nhưng người ta thấy họ làm những việc đạo đức, nhân hậu, tốt lành, có khi làm một cách kín đáo. Chúng ta thích hạng người này hơn, vì họ chân thành, lấy việc làm chứng minh lời nói.

Lời hứa không bao giờ có thể thay thế được việc làm, và lời nói hoa mỹ không bao giờ thay thế được nghĩa cử. Người con thứ hai tỏ ra lịch sự bên ngoài, khi lễ phép trả lời; “Thưa cha, vâng ạ”. Nhưng rồi lại không đi làm. Lễ phép suông là một việc giả dối, hảo huyền. Lễ phép thật là vâng lời, thực hiện một cách sẵn lòng, vui vẻ. Đạo Kitô dạy các tín hữu thực hành chứ không phải hứa hẹn. Người Kitô hữu đích thực là người đón nhận mệnh lệnh của Cha với thái độ vâng phục và kính trọng, là người chấp hành mệnh lệnh trọn vẹn: nói làm là làm ngay.

Thưa anh chị em,

Ngày nay, người ta thường nói: “Con đường dài nhất là con đường từ đầu đến tay”. Người Kitô hữu chúng ta vẫn có nguy cơ rơi vào một thứ “duy tâm”nào đó. Chúng ta cần để cho Lời Chúa “đi từ lỗ tai đến tim óc và cuối cùng đến đôi tay”. Nhiều người chỉ nghe Lời Chúa bằng tai thôi- tai này lọt qua tai kia là hết- Nhiều người khác đã để cho Lời Chúa đánh động quả tim và trí tuệ, nhưng rồi họ ngừng lại tại đó, không dám đi xa hơn, vì sợ phải hy sinh, từ bỏ… Rốt cuộc Lời Chúa vẫn là cái gì mông lung, không thực tế, không liên hệ gì đến đời thường: đời sống làm ăn, đời sống gia đình, đời sống tình cảm… Lời Chúa vẫn bị nhốt trong nhà thờ, trong các cuộc tĩnh tâm, các buổi cầu nguyện chia sẻ. Làm sao để Lời Chúa được “đến đôi tay”, nghĩa là được người kitô hữu đem ra thực hành ở giữa chợ, ở trường học, ở cơ quan, và cả ở những nơi giải trí… Chỉ như thế, men Lời Chúa mới có thể được trộn đều vào khối bột loài người và làm bột dậy men Tin Mừng.

Quả thực, con đường đi từ quả tim đến đôi tay là một con đường dài và gian khổ. Để đi trên con đường này, người kitô hữu phải được giải phóng khỏi cái tôi nặng nề, với những lo toan và sợ hãi, những tính toán và vun quén cho mình. Rung động trước nỗi khổ của người khác là một chuyện, chia sẻ cho người khác cái áo còn tốt của mình lại là chuyện khác. Thánh Gioan đã cảnh giác chúng ta: “Hỡi anh em, đừng yêu mến bằng lời nói suông, nhưng bằng việc làm thực sự” (1Ga 3,18).

Thời Chúa Giêsu, những người Luật Sĩ và Biệt Phái Pharisêu bị lên án dữ dội vì họ giả hình- nói mà không làm, đặt gánh nặng lên vai người khác nhưng tránh né cho chính mình. Ngày nay cũng vậy: có Pharisiêu thời xưa thì cũng có Pharisiêu ngày nay: dạy con cái phải giữ đạo, phải cầu nguyện, dự lễ, nhưng chính mình lại biếng nhác, tự chước chuẩn cho mình.

Kitô giáo là một tôn giáo của lòng tin. Nhưng lòng tin bên trong của chúng ta phải được thể hiện ra việc làm bên ngoài: “Đức tin không có việc làm là đức tin chết” (Gc 2,17). Chúa Giêsu đã định nghĩa Kitô hữu là “ánh sáng cho thế giới”. Thế giới hôm nay cần thấy việc tốt của chúng ta trước khi họ tin nhận giáo lý của Chúa Kitô. Họ tin vào Đạo vì thấy những người dám sống đạo, dù phải chịu thiệt thòi và nguy hiểm. “Ánh sáng của anh em cũng phải chiếu giải trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời” (Mt 5,16).

Chỉ có Chúa Giêsu là Người Con lý tưởng, Người Con đã thưa VÂNG ngay từ đầu và thưa VÂNG mãi mãi suốt cả đời. Nơi Ngài luôn là CÓ chứ không phải khi CÓ khi KHÔNG. Ngài đã thưa với Chúa Cha: “Này con xin đến để thi hành ý Cha” (Dt 10,9), và Ngài đã thi hành cho đến lúc hoàn tất trên Thập Giá. Như thế, Chúa Giêsu đã thi hành ý Chúa Cha một cách hoàn hảo để nêu gương cho chúng ta. Chúng ta hãy noi gương Ngài để trở nên những người con đích thực của Cha chúng ta trên trời.

Hối hận nên lại đi

Hối hận nên lại đi

(Trích trong ‘Manna’)

Suy Niệm

"Người thu thuế và gái điếm vào Nước Trời trước các ông."

Lời nói của Đức Giêsu như một trái bom nổ trước mặt các thượng tế, kinh sư, pharisêu, những người đáng kính vì đạo đức và học thức, những người đáng trọng vì chức vụ.

Làm sao những người hư hỏng và tội lỗi lại có thể qua mặt các bậc đáng kính như vậy?

Đức Giêsu đã soi sáng trước bằng một dụ ngôn.

Người cha sai hai đứa con đi làm vườn nho. Đứa con thứ nhận lời, nhưng sau lại không đi làm. Đứa con cả từ chối, sau hối hận nên lại đi.

Con thứ tượng trưng cho các nhà lãnh đạo Do Thái Giáo. Họ tuyên bố mình sống nghiêm chỉnh theo Lề Luật. Tiếc thay chính sự đạo đức của họ lại làm cho họ tự mãn và khép kín đến nỗi không thể tin vào Đức Giêsu và đón lấy Ngài như quà tặng bất ngờ của Thiên Chúa.

Đứa con cả tượng trưng cho những người tội lỗi, những người bị đặt bên lề xã hội và tôn giáo. Đời sống của họ là một sự nhơ nhuốc đáng buồn. Nhưng chính tội lỗi đã làm cho họ khiêm tốn và dễ dàng hoán cải trước lời mời của Gioan. Rốt cuộc, họ lại là những người tin vào Đức Giêsu và gặp được ơn cứu độ trước nhiều người khác.

Đi làm hay không đi làm vườn nho đồng nghĩa với tin hay không tin vào Đức Giêsu.

Niềm tin có khả năng biến đổi cuộc sống.

Niềm tin thực sự luôn chuyển thành hành động.

"Chúng tôi phải làm gì, dân chúng hỏi Đức Giêsu, để được gọi là làm việc của Thiên Chúa?"

"Làm việc của Thiên Chúa là tin vào Đấng Ngài sai đến"

Đó là câu trả lời của Đức Giêsu (Ga 6,28-29).

Tin là một việc làm, một dấn thân nghiêm túc.

Niềm tin vào Đức Giêsu đòi hỏi một sự hoán cải và từ bỏ.

Giới lãnh đạo Do Thái Giáo sợ tin vào Đức Giêsu. Họ sợ mất chỗ đứng và quyền lợi, sợ phải thay đổi quan niệm của họ về Thiên Chúa.

Kitô giáo là tôn giáo của lòng tin.

Lòng tin bên trong phải được biểu lộ ra bên ngoài: "Đức tin không có việc làm là đức tin chết" (Gc 2,17).

Lòng tin không phải chỉ là một tuyên xưng ngoài miệng nhưng là một tuyên xưng bằng cuộc sống: "Không phải mọi kẻ nói với Thầy: Lạy Chúa, lạy Chúa, là sẽ được vào Nước Trời, nhưng là kẻ làm ý Cha Thầy" (Mt 7,21).

Tôi phải tránh lối giữ đạo hình thức: có tiếng là Kitô hữu, nhưng lại không thuộc về Đức Kitô, bởi có một khoảng cách rất xa giữa điều tôi tuyên xưng và điều tôi sống.

Gợi Ý Chia Sẻ

Đọc Lời Chúa, chia sẻ Lời Chúa là điều tốt, nhưng chưa đủ nếu không sống Lời Chúa. Bạn lượng giá thế nào về việc sống Lời Chúa của bạn trong đời thường đầy bon chen?

Bạn nghĩ gì về việc anh Giuse Nguyễn Đức Minh xin hiến thân xác anh cho y học? Bạn có coi đó là một hành vi đức tin cụ thể không?

Cầu Nguyện

Lạy Chúa Giêsu,

Sám hối không phải là điều dễ dàng, bởi lẽ chúng con không đủ khiêm tốn để nhận mình lầm lỗi.

Chúng con ngỡ ngàng khi thấy Chúa là Đấng vô tội mà lại đứng chung với các tội nhân, chờ Gioan ban phép rửa.

Chúa đã muốn nên bạn đồng hành với phận người mỏng dòn yếu đuối chúng con.

Xin cho chúng con biết thường xuyên điều chỉnh lối nghĩ và lối sống của mình, tỉnh táo để khỏi rơi vào ảo tưởng, thành thật để khỏi tự dối mình.

Ước gì Chúa ban cho chúng con ơn hoán cải, dám đi đến những hành động cụ thể, và chấp nhận những cắt tỉa đớn đau.

Nhưng xin đừng quên ban cho chúng con niềm vui của Giakêu, hạnh phúc vì được tự do và được yêu mến.

Đức Thánh Cha khuyến khích chuẩn bị Hội nghị Thánh Thể quốc tế thứ 51

Đức Thánh Cha khuyến khích chuẩn bị Hội nghị Thánh Thể quốc tế thứ 51

VATICAN. ĐTC Phanxicô cầu mong Hội nghị Thánh Thể quốc tế lần tới đây tại Cebu, Philippines, sẽ giúp các tín hữu thông ban niềm hy vọng đã nhận lãnh cho con người ngày nay.

Ngài bày tỏ lập trường trên đây trong buổi tiếp kiến sáng hôm 27-9-2014, dành cho 80 đại biểu của các HĐGM trên thế giới về Roma tham dự Đại hội chuẩn bị cho Hội nghị Thánh Thể quốc tế lần thứ 51, sẽ tiến hành tại thành phố Cebu bên Philippines từ ngày từ ngày 24 đến 31-1 năm 2016 với chủ đề ”Chúa Kitô ở trong anh chị em, niềm hy vọng vinh quang” (Cl 1,27)

ĐTC nhận xét rằng ”đề tài này làm sáng tỏ mối liên hệ giữa Thánh Thể, sứ mạng truyền giáo và niềm hy vọng Kitô. Ngày nay trên thế giới đang thiếu hy vọng, vì thế nhân loại đang cần được lắng sứ điệp về niềm hy vọng của chúng ta trong Chúa Giêsu Kitô”.

ĐTC nói thêm rằng ”Hội nghị Thánh Thể quốc tế lần thứ 51 là cơ hội để cảm nghiệm và hiểu Thánh Thể như một cuộc gặp gỡ biến đổi với Chúa trong lời Ngài và hy tế tình thương của Ngài, để tất cả có thể được sống và sống dồi dào” (Xc Ga 10,10). Hội nghị ấy là cơ hội thuận tiện để tái khám phá đức tin như nguồn mạch ân sủng, mang lại niềm vui và hy vọng, trong đời sống bản thân, gia đình và xã hội”.

ĐTC giải thích: ”Cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu trong phép Thánh Thể sẽ là nguồn hy vọng cho thế giới, nếu chúng ta được biến đổi nhờ quyền năng của Chúa Thánh Linh theo hình ảnh của Đấng mà chúng ta gặp gỡ, chúng ta đón nhận sứ mạng biến đổi thế giới bằng cách trao tặng cuộc sống sung mãn mà chính chúng ta đã nhận lãnh và cảm nghiệm, mang hy vọng, tha thứ, sự chữa lành và tình thương cho những người đang cần, đặc biệt là những người nghèo khổ, kém may mắn và bị áp bức, chia sẻ cuộc sống và khát vọng của họ, và đồng hành với họ trong cuộc tìm kiếm một cuộc sống nhân bản đích thực trong Chúa Giêsu Kitô”.

Tham dự khóa họp 3 ngày (25-27/9/2014) tại Vatican, dưới quyền chủ tọa của Đức TGM Piero Marini, Chủ tịch Ủy Ban Tòa Thánh về các Hội nghị Thánh Thể quốc tế, có một phái đoàn của tổng giáo phận Cebu, do Đức TGM sở tại José Palma hướng dẫn.

Hội nghị Thánh Thể quốc tế tiến hành 4 năm một lần. Lần trước đây vào năm 2012 tại Dublin, thủ đô Cộng hòa Ireland (SD 27-9-2014)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Đức Thánh Cha tiếp kiến Đại Hội Phong Trào Focolari

Đức Thánh Cha tiếp kiến Đại Hội Phong Trào Focolari

VATICAN. ĐTC Phanxicô mời gọi các thành viên Phong trào Focolari (Tổ Ấm), hăng say cộng tác vào công cuộc loan báo Tin Mừng của Giáo Hội cho con người thời này.

Ngài đưa ra lời mời gọi trên đây trong buổi tiếp kiến sáng 26-9-2014 tại Vatican dành cho 500 đại biểu sắp kết thúc Tổng Đại hội của Phong trào ở Castel Gandolfo từ ngày 1 đến 28-9-2014 và đã tái cử chị Maria Voce trong nhiệm vụ chủ tịch với nhiệm kỳ 6 năm. ĐTC nói: ”Trung thành với đoàn sủng từ đó phong trào được khai sinh và được nuôi dưỡng, Phong trào Tổ Ấm ngày nay đang đứng trước cùng một nghĩa vụ chờ đợi toàn thể Giáo Hội, đó là với tinh thần trách nhiệm và óc sáng tạo, đóng góp phần đặc thù của mình cho vận hội mới loan báo Tin Mừng”.

ĐTC gửi đến các thành viên của phong trào 3 lời sau đây, đó là: chiêm ngắm, đi ra ngoài, và huấn luyện.

Trước tiên là chiêm ngắm Thiên Chúa và các kỳ công tình thương của Chúa, ở lại trong Thiên Chúa, trong Chúa Giêsu Đấng đã đến cắm lều giữa chúng ta (Xc Ga 1,14).. Chiêm ngắm là điều kiện không thể thiếu được để hiện diện liên đới và hoạt động hiệu năng, thực sự hữu hiệu và tinh tuyền. ĐTC nhấn mạnh rằng: ”Tôi khích lệ anh chị em trung thành với lý tưởng chiêm ngắm này, kiên trì trong việc tìm kiếm sự kết hiệp với Thiên Chúa, trong tình yêu thương anh chị em mình, kín múc những phong phú từ Lời Chúa và Truyền thống của Giáo Hội”.

Thứ hai là đi ra ngoài. .. Ra ngoài như Chúa Giêsu xuất phát từ lòng Chúa Cha để loan báo lời tình thương cho tất cả mọi người, đến độ hy sinh bản thân trên thập gia.. Chúng ta hãy học nơi Chúa Giêsu động thái ra khỏi chính mình, tiến bước và luôn tái gieo vãi, đi xa hơn, để quảng đại thông truyền cho tất cả mọi người Tình Thương của Thiên Chúa, trong niềm tôn trọng và như Tin Mừng dạy chúng ta ”Các con đã lãnh nhận nhưng không, thì cũng hãy cho nhưng không” (Mt 10,8).

Sau cùng là ”lên lớp”, là huấn luyện. ĐTC mời gọi Phong trào Tổ Ấm quan tâm huấn luyện các thế hệ trẻ và nói rằng “Nếu không có công tác huấn luyện này thì thật là một ảo tưởng khi nghĩ mình có thể thực hiện một dự phóng nghiêm túc và lâu dài để phục vụ nhân loại mới”.

Ngài nhắc lại lập trường của Chị Chiara Lubich, vị sáng lập Phong trào Tổ Ấm, cổ võ các thành viên ”huấn luyện con người thế giới, nghĩa là những người nam nữ có tâm hồn của Chúa Giêsu để có thể nhận ra và giải thích những nhu cầu, những lo âu và hy vọng nơi tâm hồn mọi người”. (SD 26-9-2014).

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio
 

Tòa Thánh kêu gọi chống khủng bố trong sự tôn trọng luật pháp

Tòa Thánh kêu gọi chống khủng bố trong sự tôn trọng luật pháp

NEW YORK. Tòa Thánh kêu gọi thực thi các hoạt động chống khủng bố trong sự tôn trọng các giới hạn luân lý và luật pháp, đồng thời tìm cách bài trừ tận gốc rễ nạn khủng bố.

Lập trường trên đây được ĐHY Pietro Parolin, Quốc vụ khanh Tòa Thánh, trình bày tại Hội đồng bảo an LHQ hôm 24-9-2014, trong cuộc thảo luận về các chiến binh khủng bố ngoại quốc, liên quan tới vấn đề ”Những đe dọa hòa bình và an ninh quốc tế do các vụ khủng bố gây nên”.

ĐHY Parolin xác quyết rằng các quốc gia phải cùng nhau chu toàn nghĩa vụ tiên quyết là bảo vệ những người bị bạo lực đe dọa và những vụ trực tiếp tấn công phẩm giá con người. Ngài nhắc lại lời Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô 2 đã nói sau vụ khủng bố ngày 11-9 năm 2001 tại Mỹ, theo đó ”Quyền bảo vệ các quốc gia và dân tộc chống lại những hành vi khủng bố không cho phép sử dụng bạo lực để chống lại bạo lực, nhưng đúng hơn ”quyền đó phải được thực thi trong sự tôn trọng các giới hạn luân lý và luật pháp khi tôn trong các mục đích và phương tiện. Kẻ có tội phải được xác định rõ, vì tội phạm gian ác luôn có tính chất bản thân và không thể nới rộng cho cả một quốc gia, một nhóm chủng tộc hoặc tôn giáo mà những khủng bố là có thể là phần tử”.

ĐHY Quốc vụ khanh nói thêm rằng: ”Sự cộng tác quốc tế cũng phải giải quyết những nguyên nhân sâu xa tạo nên nạn khủng bố quốc tế. Trong thực tế, thách đố khủng bố hiện nay có một yếu tố mạnh mẽ về mặt văn hóa xã hội. Những người trẻ ra nước ngoài gia nhập các tổ chức khủng bố thường xuất thân từ những gia đình di dân nghèo, họ thất vọng vì cảm thấy như một tình trạng bị gạt bỏ, và thiếu sự hội nhập, thiếu các giá trị trong một số xã hội. Cùng với những phương tiện luật pháp và tài nguyên để ngăn cản các công dân của mình khỏi trở thành những chiến binh khủng bố, các chính quyền cũng cần phải làm việc với xã hội dân sự để giải quyết những vấn đề của cộng đồng có nguy cơ vị cực đoan hóa và bị tuyển mộ, để giúp họ hội nhập thỏa đáng vào xã hội”.

Trong bài tham luận, ĐHY Parolin cũng nhấn mạnh đến trách nhiệm nặng nề của những người có tín ngưỡng, phải lên án những kẻ lợi dụng tín ngưỡng để biện minh cho bạo lực. Như ĐGH Phanxicô đã nói trong cuộc viếng thăm mới đây tại Albani: ”Đừng ai coi mình là khiên thuẫn của Thiên Chúa trong khi đề ra kế hoạch và thi hành những hành vi bạo lực và đàn áp! Ước gì đừng ai lạm dụng tôn giáo như cái cớ để thực thi những hành động chống lại phẩm giá con người và chống lại các quyền căn bản của mỗi người nam nữ, nhất là quyền sống và quyền tự do tôn giáo của mỗi người”. (SD 25-9-2014)

Trong phiên nhóm hôm 24-9-2014, Hội đồng bảo an LHQ đã thông qua một nghị quyết có tính cách bắt buộc, đòi các nước thành viên phải ngăn chặn các công dân của mình, không được gia nhập các nhóm thánh chiến thuộc Nhà Nước Hồi giáo ở Iraq và Syria.

Tổng thống Mỹ, Barack Obama, đã chủ tọa khóa họp. Ông kêu gọi các chính phủ hãy hết sức cố gắng ngăn chặn việc tuyển mộ và tài trợ các dân quân khủng bố Hồi giáo, đồng thời ông kêu gọi thiết lập một chiến dịch hoàn cầu nhắm phá vỡ phong trào khủng bố.

Nghị quyết trên đây đã được tất cả các nước thành viên Hội đồng bảo an LHQ thông qua.

Từ tháng trước Hoa Kỳ đã mở các cuộc không tập chống lại Nhà Nước Hồi giáo ở Iraq và từ đêm 23-9-2014 trở đi, các cuộc oanh kích này cũng được thực hiện tại Syria với sự tham dự của 5 nước Arập. Theo tin từ Syria, các cuộc dội bom trong hai đêm đó đã làm cho ít nhất 14 chiến binh Hồi giáo và 5 thường dân bị thiệt mạng. Một nhà máy lọc dầu của Syria nằm trong tay các dân quân hồi giáo cũng bị oanh kích. Nhà máy này mang lại lợi nhuận mỗi ngày 2 triệu Mỹ kim cho Nhà Nước Hồi giáo (Asia News 25-9-2014)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio
 

Albania là mẫu gương của sự chung sống hòa bình và cộng tác giữa tín hữu các tôn giáo khác nhau

Albania là mẫu gương của sự chung sống hòa bình và cộng tác giữa tín hữu các tôn giáo khác nhau

Albania, vùng đất của các vị tử đạo, là mẫu gương của sự chung sống hòa bình và cộng tác giữa tín hữu các tôn giáo khác nhau.

Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói như trên với hơn hơn 70,000 tín hữu và du khách hành hương năm châu tham dự buổi gặp gỡ chung hằng tuần với Đức Thánh Cha Phanxicô tại quảng trường thánh Phêrô ngày 24-9-2014. Trong các đoàn hành hương cũng có đoàn hành hương 37 tín hữu Canada do cha Trần Trung Dung dòng Đa Minh hướng dẫn và một số tín hữu đến từ các nước Âu châu.

Như quý vị đã biết Đức Thánh Cha Phanxicô mới công dụ mục vụ tại Albania hôm Chúa Nhật 21-9-2014, vì thế trong bài huấn dụ ngài đã chia sẻ với mọi người một số cảm tưởng của ngài. Đức Thánh Cha cảm tạ Thiên Chúa đã cho ngài viếng thăm dân nước Albania để biểu lộ sự gần gũi của ngài và của toàn thể Giáo Hội. Ngài cám ơn Hội Đồng Giám Mục Albania, các linh mục, tu sĩ nam nữ, các giới chức đạo đời và tất cả những ai đã cộng tác vào việc tổ chức chuyến viếng thăm để mọi sự xảy ra tốt đẹp. Đề cập đến lý do chuyến viếng thăm Đức Thánh Cha nói:

Chuyến viếng thăm đã nảy sinh từ ước muốn đi đến một nước đang sống một kinh nghiệm chung sống hòa bình giữa các thành phần tôn giáo khác nhau, sau khi đã bị đàn áp lâu dài bởi một chế độ vô thần và vô nhân. Đối với tôi xem ra là điều quan trọng khích lệ dân nước Albania trên con đường này, để nó kiên trì tiếp tục con đường đó và đào sâu mọi mặt cho thiện ích chung. Vì vậy trung tâm điểm của chuyến viếng thăm đã là cuộc gặp gỡ liên tôn, nơi đó tôi đã có thể hài lòng nhận thấy rằng sự chung sống hòa bình và phong phú giữa những người thuộc các tôn giáo khác nhau không phải chỉ là điều đáng cầu chúc, nhưng một cách cụ thể là điều khả thể và làm được. Đây là một cuộc đối thoại đích thật và phong phú, khước từ chủ trương tương đối và chú ý tới căn tính của từng người. Thật thế, điều chung cho các biểu lộ tôn giáo khác nhau là con đường cuộc sống, thiện chí thực thi sự thiện cho tha nhân, mà không từ chối và giảm thiểu các căn tính của mình.

Cuộc gặp gỡ với các linh mục, các người sống đời thánh hiến, các chủng sinh và các phong trào giáo dân đã là dịp đặc biệt cảm động để tưởng niệm và nhớ ơn nhiều vị tử đạo của đức tin. Nhờ sự hiện diện của vài người cao niên đã sống trên da thịt mình các bách hại kinh khủng, được vang vọng lên đức tin của biết bao chứng nhân anh dũng của quá khứ, là những người đã theo Chúa Kitô cho tới các hậu quả tột cùng. Chính từ sự kết hiệp thân tình này với Chúa Giêsu, từ tương quan tình yêu với Người đã nảy sinh ra sức mạnh đối với họ cũng như đối với mọi vị tử đạo, giúp đương đầu với các biến cố đớn đau dẫn đưa họ tới chỗ tử đạo. Cả ngày nay cũng như hôm qua, sức mạnh của Giáo Hội không đến từ các khả năng tổ chức hay từ các cơ cấu, tuy đây cũng là những điều cần thiết. Sức mạnh của chúng ta là tình yêu của Chúa Kitô! Một sức mạnh nâng đỡ chúng ta trong những lúc khó khăn, và gợi hứng cho hoạt động tông đồ để cống hiến cho tất cả mọi người lòng tốt, sự tha thứ, và như thế chứng minh cho thấy lòng xót thương của Thiên Chúa.

Khi đi dọc con đường chính từ phi trường dẫn đến quảng trường trung ương thành phố Tirana, tôi đã có thể nhận ra chân dung của 40 linh mục đã bị sát hại trong thời độc tài cộng sản và hiện đang có án phong chân phước cho các vị. Đức Thánh Cha nói về các linh mục ấy như sau:

Các vị thêm vào con số hàng trăm tu sĩ, tín hữu kitô và hồi giáo đã bị ám sát, tra tấn, bỏ tù và đầy ải chỉ vì đã tin nơi Thiên Chúa. Đó là các năm đen tối, trong đó tự do tôn giáo đã bị san bằng, và việc tin nơi Thiên Chúa bị cấm ngặt; hàng ngàn nhà thờ Kitô và đền thờ hồi giáo đã bị phá hủy, biến thành các nhà kho và phòng chiếu bóng quảng bá ý thức hệ mác xít; các sách tôn giáo bị đốt, và người ta cấm các cha mẹ đặt các tên tôn giáo của cha ông cho con cái. Kỷ niệm các biến cố thê thảm này là điều nòng cốt đối với tương lai của một dân tộc. Ký ức về các vị tử đạo đã kháng cự trong niềm tin bảo đảm cho số phận của dân nước Albania; bởi vì máu đã không đổ ra vô ích, nhưng là một hạt giống sẽ đem lại hoa trái hòa bình và cộng tác huynh đệ.

Thật thế, ngày nay Albania không chỉ là một thí dụ sự tái sinh của Giáo Hội, nhưng cũng là gương mẫu của sự chung sống hòa bình giữa các tôn giáo nữa. Vì thế các vị tử đạo đã không phải là những kẻ bại trận, nhưng là những người chiến thắng: trong chứng tá anh hùng của họ rạng ngời lên quyền năng tuyệt đối của Thiên Chúa, là Đấng luôn luôn an ủi dân Người, bằng cách mở ra các con đường mới và các chân trời của niềm hy vọng.

Sứ điệp hy vọng này, dựa trên niềm tin nơi Chúa Kitô và trên ký ức của quá khứ, tôi đã tín thác cho toàn dân Albania, mà tôi thấy hứng khởi và tươi vui trong các nơi gặp gỡ và các buổi cử hành, cũng như trên đường phố thủ đô Tirana. Tôi đã khích lệ mọi người kín múc các năng lực luôn mới mẻ từ Chúa Phục Sinh, để có thể là men Tin Mừng trong xã hội và dấn thân như đã xảy ra, trong các sinh hoạt bác ái và giáo dục.

Một lần nữa tôi xin cảm ơn Chúa vì với chuyến viếng thăm này Người đã cho tôi gặp một dân tộc can đảm và mạnh mẽ, đã không để cho mình bị khổ đau bẻ gẫy. Tôi tái mời gọi các anh chị em Albani can đảm làm việc thiện để xây dựng hiện tại và tương lai cho đất nước và cho Âu châu. Tôi tín thác các hoa trái chuyến viếng thăm của tôi cho Đức Bà Chỉ Bảo Đàng Lành được tôn kính tại Đền thánh Scutari, để Mẹ tiếp tục hướng dẫn con đường của dân tộc tử đạo này. Ước chi kinh nghiệm khó khăn của qúa khứ luôn đâm rễ sâu trong việc rộng mở cho tha nhân, đặc biệt cho các người yếu đuối nhất, và khiến cho nó trở thành tác nhân của năng động bác ái cần thiết trong bối cảnh xã hội văn hóa hiện nay.

Đức Thánh Cha đã chào các đoàn hành hương Tây Âu và Bắc Mỹ cũng như các nhóm tín hữu đến từ Á châu như Trung quốc, Nhật Bản, Ấn Độ, hay từ Phi châu như Kenya, hoặc từ châu Mỹ Latinh như Porto Ricco, Mêhicô, Ecuador, El Salvador, Costa Rica, Uruguay, Argentina, Brasil.

Chào các tín hữu đến từ vùng Trung Đông ngài khích lệ họ luôn là các chứng nhân đích thực của Chúa Kitô và của sự thật, của hòa giải và sự hiệp nhất, chứng nhân của công lý, hòa bình và tình bác ái.

Nhắc tới các nạn nhân bệnh dịch Ebola tại nhiều nước Phi châu ngài mời gọi mọi người cầu nguyện cho họ. Ngài cũng cầu mong cộng đồng quốc tế trợ giúp người dân các nước này để làm vơi dịu các nỗi khổ đau của họ. Ngài đã cùng mọi người đọc một Kinh Kính Mừng cầu nguyện cho các anh chị em này.

Trong các nhóm nói tiếng Ý ngài chào các Tiểu Đệ Chúa Giêsu và các Thừa sai Đức Tin đang họp tổng tu nghị tai Roma, cũng như các tham dự viên Khóa đào tạo do Trung tâm linh hoạt truyền giáo tổ chức và các thành viên của Phong trào Cho một thế giới mới.

Chào các bạn trẻ, người đau yếu và các cặp vợ chồng mới cưới Đức Thánh Cha nhắc cho mọi người biết thứ ba vừa qua Giáo Hội kính nhớ thánh Giáo Hoàng Lino. Ngài đã sống trong thời có các cuộc bách hại gắt gao các kitô hữu. Ngài cầu chúc gương yêu thương Giáo Hội của thánh nhân linh hứng cho cuộc sống tinh thần của từng người, giúp tập can đảm đương đầu với các lúc khó khăn thử thách, xác tín rằng Chúa không bao giờ để cho con cái Người thiếu sự đỡ nâng và ơn thánh.

Buổi tiếp kiến đã kết thúc với Kinh Lạy Cha và phép lành tòa thánh Đức Thánh Cha ban cho mọi người.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Đức Thánh Cha kêu gọi liên đới và trợ giúp người di dân tỵ nạn

Đức Thánh Cha kêu gọi liên đới và trợ giúp người di dân tỵ nạn

VATICAN. ĐTC Phanxicô kêu gọi các tín hữu sống tinh thần của Giáo Hội như người mẹ, để quảng đại liên đới, đón nhận và giúp đỡ những người di dân và tỵ nạn.

Trên đây là nội dung nòng cốt sứ điệp của ĐTC công bố ngày 23-9-2014, nhân Ngày Thế Giới di dân và tỵ nạn sẽ được cử hành vào ngày 18-1-2015, với chủ đề ”Giáo Hội không biên giới: Mẹ của tất cả mọi người”.

Sứ điệp được ĐHY Antonio Maria Vegliò, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh mục vụ di dân và người lưu động, giới thiệu trong cuộc họp báo tại Phòng báo chí Tòa Thánh.

ĐTC viết ”Giáo Hội không biên giới, Mẹ của mọi người, phổ biến trên thế giới nền văn hóa đón tiếp và liên đới, theo đó không một ai bị coi là vô ích, ở ngoài lề hoặc bị gạt bỏ. Nếu cộng đồng Kitô sống thực chức phận làm mẹ của mình, thì sẽ nuôi dưỡng, định hướng và chỉ đường, kiên nhẫn tháp túng, trở nên gần gũi qua việc cầu nguyện và trong các hoạt động từ bi bác ái”.

ĐTC áp dụng nguyên tắc trên đây vào hiện tượng di dân và tị nạn đang lan rộng trên thế giới ngày nay: bao nhiêu người phải bỏ nguyên quán, thực hiện cuộc du hành hy vọng với nhiều rủi ro nguy hiểm, với một hành lý đầy ước muốn và sợ hãi, đi tìm kiếm những điều kiện sống nhân bản hơn. Nhưng nhiều khi làn sóng di dân ấy khơi lên sự ngờ vực và đố kỵ, cả trong các cộng đồng Kitô..”

ĐTC nhận xét rằng những nghi ngờ và thành kiến là điều trái ngược với giới răn của Kinh Thánh dạy phải tôn trọng đón tiếp và liên đới với người ngoại kiều túng thiếu.. Trong tình cảnh đó, ”lòng can đảm tin, cậy, mến, giúp thu hẹp khoảng cách giữa những thảm trạng của con người. Chúa Giêsu Kitô luôn chờ đợi được nhìn nhận trong những di dân và tị nạn, những người tản cư và lưu vong; cả trong thế giới ngày nay, Chúa mời gọi chúng ta chia sẻ tài nguyên, và nhiều khi cần từ bỏ một cái gì đó trong sự sung túc mà ta đã đạt được”.

Trong sứ điệp, ĐTC cũng nhận xét rằng ”Các phong trào di dân ngày nay ở mức độ rộng lớn đến độ chỉ có sự cộng tác có hệ thống và thực sự, trong đó có sự can dự của các quốc gia và các tổ chức quốc tế, mới có thể điều hành và xử lý các phong trào ấy một cách hữu hiệu. Thực vậy, các cuộc di dân đặt câu hỏi cho tất cả mọi người, không những vì thực tại những hiện tượng ấy, nhưng còn vì những vấn đề ”xã hội, kinh tế, chính trị, văn hóa và tôn giáo mà chúng khơi lên, vì những thách đố bi thảm chúng đề ra cho cộng đồng quốc gia và quốc tế” (Biển Đức 16, Thông điệp Caritas in veritate, 62).

ĐTC xác quyết rằng ”Đối lại sự hoàn cầu hóa hiện tượng di dân, cần phải có sự hoàn cầu hóa tình bác ái và cộng tác, để làm cho điều kiện sống của người di dân xứng với con người hơn. Đồng thời, cần tăng cường những nỗ lực để kiến tạo những điều kiện thích hợp hầu đảm bảo việc giảm bớt từ từ những nguyên do thúc đẩy cả một dân tộc phải rời bỏ quê hương vì chiến tranh và hạn hán, nhiều khi nguyên do này gây ra những nguyên do khác. Ngoài tình liên đới với người di dân và tị nạn, cần có lòng can đảm và óc sáng tạo cần thiết để phát triển trên bình diện thế giới, một trật tự kinh tế tài chánh công bằng và liên chính hơn, cùng với sự gia tăng dấn thân xây dựng hòa bình, là điều kiện không thể thiếu được để có tiến bộ đích thực”.

ĐHY Vegliò cho biết năm ngoái (2013) trên thế giới có khoảng 232 triệu người di dân, tức là tăng hơn 77 triệu người, tương đương với 50% trong khoảng thời gian từ 1990 đến 2013. (SD 23-9-2014)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Đức Thánh Cha lên án lạm dụng danh Thiên Chúa để giết người

Đức Thánh Cha lên án lạm dụng danh Thiên Chúa để giết người

TIRANA. ĐTC Phanxicô mạnh mẽ lên án những kẻ lạm dụng danh Thiên Chúa để giết người và gọi đó là hành động phạm thánh trầm trọng nhất.

Ngài bày tỏ lập trường trên đây trong cuộc gặp gỡ các vị lãnh đạo tôn giáo ở Albani tại trụ sở Đại Học Công Giáo ”Đức Bà chỉ bảo đàng lành”, ở Tirana, thủ đô Albani, chiều chúa nhật 21-9-2014.

Tham dự cuộc gặp gỡ có 6 Cộng đoàn tôn giáo chính ở Albani, gồm Hồi giáo, Huynh đoàn Hồi giáo Bektashi, Công Giáo, Chính Thống, Tin Lành và Do thái giáo. Mỗi vị lãnh đạo có 3, 4 người tháp tùng. Ngoài ra có các GM Công Giáo Albani và các vị trong đoàn tùy tùng của ĐTC.

Lên tiếng trong cuộc gặp gỡ, ĐTC bày tỏ lòng tôn trọng sâu xa đối với các vị lãnh đạo và các cộng đồng tôn giáo ở Albani. Ngài nhắc đến lời ĐTC Gioan Phaolô 2 đã nói khi viếng thăm Albani hồi năm 1993: ”Tự do tôn giáo là một thành trì chống lại mọi chế độ độc đoán và là một đóng góp quyết định cho tình huynh đệ của nhân loại.. Tự do tôn giáo chân thực tránh mọi cám dỗ có thái độ bất bao dung và phe phái, trái lại, thăng tiến những thái độ đối thoại tôn trọng và xây dựng” (Sứ điệp gửi quốc dân Albani ngày 25-4-1993).

ĐTC nói: ”Chúng ta không thể không nhìn nhận rằng sự bất bao dung đối với những ngừơi có xác tín tôn giáo khác với xác tín của mình là một kẻ thù nguy hiểm, ngày nay đang biểu lộ tại nhiều miền trên thế giới. Trong tư cách là tín hữu, chúng ta phải đặc biệt cảnh giác để tôn giáo và luân lý đạo đức mà chúng ta đang sống với xác tín và hăng say làm chứng luôn được biểu lộ qua những thái độ xứng đáng với mầu nhiệm mà chúng ta muốn tôn kính, quyết liệt loại bỏ – như điều không chân thật, vì không xứng đáng với Thiên Chúa và con người, – tất cả mọi hình thức lạm dụng tôn giáo một cách sai trái. Tôn giáo chân chính là nguồn an bình chứ không phải là nguồn sinh ra bạo lực! Không ai có thể sử dụng danh Thiên Chúa để phạm những hành vi bạo lực! Giết người nhân danh Thiên Chúa là một tội phạm thánh trầm trọng! Kỳ thị nhân danh Thiên Chúa là điều vô nhân đạo”. ĐTC nói đến hai thái độ đặc biệt hữu ích để thăng tiến quyền tự do căn bản là tự do tôn giáo:

”Thứ nhất là nhìn nơi mỗi người nam nữ, kể cả những người không thuộc truyền thống tôn giáo của mình, không phải như những người cạnh tranh, và càng không phải là kẻ thù, nhưng như những anh chị em. Ai chắc chắn về xác tín tôn giáo của mình thì không cần phải áp đặt, tạo sức ép trên người khác: họ biết rằng chân lý có sức mạnh riêng lan tỏa ra. Xét cho cùng tất cả chúng ta là những người lữ hành trên mặt đất này, và trong hành trình của chúng ta, trong khi chúng ta khao khát sự thật và vĩnh cửu, chúng ta không sống như những thực tại độc lập và tự mãn, và càng không phải như những cá nhân hoặc nhóm quốc gia, văn hóa và tôn giáo, nhưng chúng ta lệ thuộc nhau, chúng ta được ủy thác cho sự chăm sóc của nhau. Mỗi truyền thống tôn giáo, từ bên trong của mình, phải làm sao để ý đến sự hiện hữu của người khác.

”Thái độ thứ hai là dấn thân bênh vực công ích. Mỗi lần sự gắn bó với truyền thống tôn giáo của mình làm nảy mầm một sự phục vụ xác tín hơn, quảng đại hơn, vô vị lợi hơn cho toàn thể xã hội, thì có một sự thực thi đích thực và phát huy tự do tôn giáo. Như thế tự do này không phải chỉ là một không gian tự lập được đòi hỏi một cách chính đáng, nhưng như một tiềm năng làm cho gia đình nhân loại được phong phú nhờ sự dần dần thực thi tự do tôn giáo. Càng phục vụ tha nhân, ta càng tự do! Chúng ta hãy nhìn chung quanh: bao nhiêu nhu cầu của người nghèo, xã hội chúng ta còn phải tìm ra những con đường tiến tới công bằng xã hội rộng lớn hơn, hướng tới sự phát triển kinh tế bao gồm mọi người! Tâm hồn con người cần phải để ý đến ý nghĩa sâu xa của những kinh nghiệm cuộc sống và phục hồi hy vọng dường nào! Trong lãnh vực hoạt động này, những người nam nữ được hướng dẫn nhờ các giá trị thuộc truyền thống tôn giáo của mình có thể cống hiến quan trọng, một sự đóng góp không thể thay thế được. Đây là môi trường đặc biệt phong phú cho việc đối thoại liên tôn.

Sau cùng, ĐTC còn nhấn mạnh nguyên tắc: ”không thể đối thoại nếu không khởi hành từ chính căn tính của mình. Không có căn tính thì không thể có đối thoại. Chẳng vậy đó chỉ là một thứ đối thoại ảo tưởng, đối thoại trên không khí, chẳng mang lại ích lợi gì. Mỗi người chúng ta có căn tính tôn giáo và phải trung thành với căn tính ấy.”

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio
 

Lần đầu tiên Đức Thánh Cha Phanxicô khóc công khai

Lần đầu tiên Đức Thánh Cha Phanxicô khóc công khai

TIRANA. Đức Thánh Cha Phanxicô đã cảm động đến rơi lệ khi nghe chứng từ của 1 LM Albani đã bị kết án tử hình và của một nữ tu tại nước này.

Chiều chúa nhật 22-9-2014, trong chuyến viếng thăm mục vụ ”chớp nhoáng” từ sáng tới chiều ở Albani, ĐTC đã chủ sự buổi hát kinh chiều tại Nhà thờ chính tòa thủ đô Tirana với 7 GM Albani, cùng với khoảng 150 LM, 400 tu sĩ nam nữ và các chủng sinh, các thành viên phong trào giáo dân.

Sau lời chào của Đức TGM sở tại, Rrok Mirdita, một linh mục và một nữ tu đã kể lại những gian khổ đã chịu trong thời kỳ bị bách hại.

Trước tiên là Cha Ernest Simoni, 84 tuổi, từng bị kết án tử hình, nhưng rồi được biến cải thành 27 năm lao động khổ sai trong các trại khác nhau. Cha bị nhà nước cộng sản bắt giam từ lễ giáng sinh năm 1963, kết án tử hình vì đã cử hành 3 lễ cầu nguyện cho Tổng thống Kennedy của Mỹ bị ám sát chết 1 tháng trước đó. Cha bị tra tấn và đối xử vô nhân đạo. Sau đó, án tử hình được biến cải thành 18 năm tù, trong đó có nhiều năm lao động khổ sai, và sau khi được trả tự do một thời gian, cha bị bắt trở lại, tổng cộng là 27 năm tù đày.

Trong thời gian đó, cha vẫn cử hành thánh lễ thuộc lòng bằng tiếng la tinh, cũng vậy con đã giải tội và bí mật phân phát Mình Thánh Chúa cho các tín hữu.

Khi cha Simoni dứt lời, ĐTC đã tiến đến ôm vị linh mục thật lâu và khóc vì cảm động.

Chứng từ thứ hai được nữ tu Marije Kaleta, 85 tuổi, thuộc dòng Dấu Thánh Chúa Kitô, có chú là Cha Ndoc Suma, một linh mục đã chịu đau khổ nhiều năm trời trong cảnh tù ngục và lao động khổ sai. Ngày nay đang được giáo hội tiến hành án phong chân phước.
Sau 7 năm tu dòng, chị Kaleta phải hồi tục vì tu viện bị nhà nước đóng cửa. Nhưng chị vẫn âm thầm rửa tội cho các trẻ em, mang Mình Thánh Chúa cho các bệnh nhân. Chị kể:

”Hôm ấy con đi làm từ hợp tác xã trở về nhà. Dọc đường con nghe có tiếng người gọi con. Một phụ nữ chạy đến và xin con rửa tội rửa tội cho đứa con bà đang bồng trên tay. Con sợ vì biết đó là vợ một cán bộ cộng sản, con nói với bà ta là ”tôi không có gì để rửa tội”, vì bấy giờ chúng con đang ở trên đường. Nhưng bà rất tha thiết và nói với con rằng ở kênh gần đó có nước. Nhưng con nói với bà ấy là ”tôi không có gì để kín nước”. Nhưng bà ta cứ nài nỉ xin con rửa tội cho đứa con gái của bà. Sau khi thấy niềm tin của bà như thế, con cởi một cái dầy bằng plastic của con, để kín nước từ con kênh và rửa tội con đứa bé gái. Ngoài ra, nhờ quen biết các linh mục, con được may mắn giữ Mình Thánh Chúa trong tủ nhỏ ở nhà con, và con mang Mình Thánh cho các bệnh nhân và những người sắp qua đời.”

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Tôn trọng các nhân quyền căn bản và tự do tôn giáo là góp phần thăng tiến và phát triển thiện ích quốc gia đích thực

Tôn trọng các nhân quyền căn bản và tự do tôn giáo là góp phần thăng tiến và phát triển thiện ích quốc gia đích thực

Tôn trọng các nhân quyền căn bản và tự do tôn giáo là góp phần thăng tiến và phát triển thiện ích quốc gia đỉch thực.

Đức Thánh Cha Phanxicô đã khẳng định như trên trong bài phát biểu trước các giới chức chính quyền Albania trong chuyến viếng thăm nước này Chúa Nhật 21-9-2014. Đây là chuyến công du thứ tư ngoài Italia, chỉ kéo dài 11 giờ đồng hồ.

Ban sáng Đức Thánh Cha đã đi xe đến phi trường quốc tế Fiumicino để lấy máy bay đi Tirana. Tiếp đón Đức Thánh Cha tại phi trường có Đức Cha Gino Reali, Giám Mục giáo phận Porto Santa Rufina bao gồm phi trường Fiumicino. Chiếc máy bay của hãng hàng không Alitalia A320 đã cất cánh lúc 7 giờ rưỡi và đã đến phi trường quốc tế ”Mẹ Têrêxa” lúc 9 giờ.

Đón tiếp Đức Thánh Cha tại phi trường Tirana có Đức Tổng Giám Mục Ramiro Moliner Inglés, Sứ Thần Tòa Thánh tại Albania, Thủ tướng Edi Rama, Ngoại trưởng và Bộ trưởng Văn hóa Albania. Hiện diện tại phi trường cũng có vài giới chức chính quyền khác, các Giám Mục Albania và một nhóm tín hữu.

Sau khi duyệt qua hàng chào danh dự Đức Thánh Cha và Thủ tướng đã vào phòng khách phi trường đàm đạo một lúc.

Albania rộng hơn 28 ngàn cây số vuộng, có hơn 3 triệu dân, 97% là người Albani, 1% là người Hy lạp, 2% còn lại gồm người Arumeni, Rom, Serbi, Macedoni, Montenegrini và Armeni. Ngoài ra cũng có các nhóm thiểu số khác như người Bosniaci hồi giáo, Ashkhli, Gorani và Do thái. Trên bình diện tôn giáo 56.7% tổng số dân theo Hồi giáo, 10% theo Công Giáo, 6.8% theo Chính Thống, 2.1% là tín hữu Bektashi, 5.7% theo các tôn giáo khác và 16.2% không theo tôn giáo nào.

Thành phố Tirana được thành lập năm 1614 và trở thành thủ đô năm 1920, hiện có hơn 421 ngàn dân và là thành phố đông dân nhất Albania. Hiện nay Tirana đang trong giai đoạn phát triển kinh tế, xã hội và thành thị hóa manh mẽ, với việc xây cất nhiều dinh thự, công viên, và tái thiết các cơ sở tôn giáo, đặc biệt là các cơ sở kitô bị phá hủy trong thời đế quốc Ottoman Thổ Nhĩ Kỳ và dưới chế độ cộng sản vô thần. Trong số các nơi thờ tự kitô bị chế độ cộng sản phá hủy năm 1967 có nhà thờ Thánh Tâm Chúa Giêsu của các cha dòng Tên và nhà thờ chính tòa chính thống Chúa Kitô Phục Sinh, được xây năm 2012 trên một thửa đất khác.

Tổng giáo phận Tirana Durazzo có hơn 1.2 triệu dân, trong đó có 135 ngàn tín hữu công giáo, tức chiếm 11%, với 19 giáo xứ. Nhân lực gồm Đức Cha Rrok Mirdita, 9 linh mục triều, 30 linh mục dòng, 33 tu huynh, 121 nữ tu, 1 đại chủng sinh. Giáo Hội điểu khiển 14 cơ sở giáo dục và 7 trung tâm bác ái.

Lúc 9 giờ 15 phút Đức Thánh Cha đã đi xe về Dinh tổng thống nơi diễn ra lễ nghi chào đón chính thức. Dinh tổng thống hiện nay do vua Zog cho xây trong các năm 1939-1941, sau đó đã được tu sửa thêm. Tổng thống Bujar Nishani năm nay 48 tuổi, có vợ và hai con, đã từng du học bên Hoa Kỳ và đậu tiến sĩ Luật năm 2004, từng là giáo sư tại Hàn lâm viện quân sự Tirana, nhân viên bộ Nội vụ và làm Bộ trưởng Nội Vu năm 2009, 2011-2012, rồi được bầu làm tổng thống từ tháng 6 năm 2012.

Tổng thống Nishani đã tiếp đón Đức Thánh Cha tại cửa vào dinh tổng thống. Ban nhạc đã cử hành quốc thiều Vaticăng và quốc thiều Albania. Sau đó hai vị và đoàn tùy tùng tiến vào đại sảnh chụp hình lưu niệm, ký tên vào sổ vàng và giới thiệu phái đoàn hai bên. Tiếp đến Đức Thánh Cha hội kiến riêng với tổng thống trong ”Thư phòng xanh”. Sau đó tổng thống giới thiệu gia đình và trao đổi qùa tặng. Lúc 10 giờ tổng thống tháp tùng Đức Thánh Cha vào phòng khách Scandenberg để gặp gỡ hàng lãnh đạo dân sự, Ngoại giao đoàn và vài vị lãnh đạo tôn giáo.

Ngỏ lời chào Đức Thánh Cha tổng thống Nishani bầy tỏ niềm vui của toàn dân Albania vì sự hiện diện của ngài trong một đất nước Albania dân chủ tự do, đã thoát khải ách thống trị độc tài tàn ác của chế độ cộng sản khinh rẻ và chà đạp các quyền tự do của con người. Ngày nay Albania là một quốc gia trong đó người dận thuộc các Giáo Hội công giáo, chính thống và hồi giáo chung sống trong hòa bình, tôn trọng lẫn nhau và cùng nhau chung xây đất nước. Tuy nhiên, dân nước Albania cũng phải đương đầu với nhiều thách đố mới của chế độ tư bản và việc toàn cầu hóa với các hậu qủa tiêu cực của nó.

Đáp lời tổng thống Đức Thánh Cha bầy tỏ niềm vui được đến viếng thăm Albania, vùng đất của các anh hùng đã hy sinh mạng sống cho nền độc lập quốc gia, vùng đất của các vi tử đạo đã làm chứng cho đức tin trong các thời gian khó khăn của các cuộc bách hại, vùng đất của chim đại bàng và hiếu khách. Một phần tư thế kỷ đã qua đi, kể từ khi Albania tìm lại được con đường cam go chiến thăng của tự do. Nó đã cho phép xã hội Albania bước vào con đường tái thiết vật chất và tinh thần, huy động được biết bao năng lực và sáng kiến, rộng mở cho sự cộng tác và trao đổi với các quốc gia trong vùng Balcan và Địa Trung Hải, với Âu châu cũng như toàn thế giới. Nó đã cho phép nhìn tương lai với sự tin tưởng và niềm hy vọng, khởi sự các chương trình và dệt lại các liên hệ thân hữu với các quốc gia gần xa. Việc tôn trọng các quyền con người, trong đó có quyền tự do tôn giáo và tự do tư tưởng, là điều kiện tiên quyết cho sự phát triển xã hội và kinh tế của một quốc gia. Đức Thánh Cha nhấn mạnh điểm này như sau:

Khi phẩm giá con người đưọc tôn rọng và các quyền của nó được thừa nhận và bảo đảm, thì cũng nở hoa óc sáng tạo và việc kinh doanh, và bản vị con người có thể khai triển nhiều sáng kiến của mình để mưu cầu công ích. Tôi đặc biệt vui mừng vì một đăc thái hạnh phúc của Albania, cần được giữ gìn cẩn trọng: đó là sự chung sống hòa bình và cộng tác giữa các thành phần tôn giáo khác nhau. Bầu khí tôn trọng lẫn nhau giữa các tín hữu công giáo, chính thống và hồi giáo là một thiện ích qúy báu đối với quốc gia và nó có ý nghĩa, đặc biệt trong thời đại chúng ta, trong đó ý nghĩa tôn giáo bị làm cho méo mó bởi các nhóm cuồng tín, và các khác biệt giữa các tôn giáo bị bóp méo và lèo lái khiến cho chúng trở thành một yếu tố nguy hiểm của xung đột và bạo lực, thay vì là dịp đối thoại cởi mở, tôn trọng và suy tư chung về ý nghĩa của việc tin nơi Thiên Chúa và sống theo luật lệ của Người.

Đừng có ai nghĩ rằng có thể lấy Thiên Chúa làm thuẫn đỡ, trong khi dự tính có các cử chỉ bạo lực và đàn áp! Đừng có ai viện cớ tôn giáo cho các hoạt động trái nghịch với phẩm giá và các quyền nền tảng của con người, trước hết là quyền sống và quyền tự do tôn giáo của tất cả mọi người! Trái lại, điều đang xảy ra tại Albania chứng minh cho thấy sự chung sống hòa bình phong phú giữa các con người và các cộng đoàn thuộc các tôn giáo khác nhau, không chỉ là điều đáng cầu chúc, nhưng một cách cụ thể là đIều có thể làm được. Sự chung sống hòa bình giữa các cộng đoàn tôn giáo khác nhau, thật ra, là một thiện ích vộ giá đối với hòa bình và phát triển hài hòa của một dân tộc. Đó là một gía trị cần được giữ gìn và gia tăng mỗi ngày với sự giáo dục tôn trọng các khác biệt và các căn tính đặc thù rộng mở cho đối thoại và cộng tác cho thiện ích của mọi người, với việc thực thi sự hiểu biết và qúy trọng nhau. Đó là một ơn cần luôn luôn nài xin Thiên Chúa trong lời cầu nguyện. Ước gì Albania luôn theo đuổi con đường này, và trở thành một gương mẫu cho biết bao quốc gia khác noi theo!

Sau mùa đông của sự cộ lập và các bách hại, cuối cùng mùa xuân của sự tự do đã tới. Qua các cuộc bầu cử tự do và các cơ cấu mới, sự đa nguyện dân chủ đã được cũng cố, và điều này cũng đã tạo thuân tiện cho việc tái lập các sinh hoạt kinh tế, khiến cho nhiều người dân Albania không còn phải di cư tìm công ăn việc làm nữa, nhưng ở lại trên quê hương để góp phần xây đựng nó từ bên trong.
Về phần mình, Giáo Hội đã có thể có được trở lại cuộc sống bình thường, tái lập hàng giáo phẩm. Các nơi thờ tự, trường học, trung tâm giáo dục và bác ái được tái thiết để phục vụ toàn xã hội và toàn quốc gia.

Tuy nhiên, giờ đây có các thách đố mới cần trả lời. Trong một thế giới hướng tới việc toàn cầu hóa cần phải làm mọi cố gắng để sự tiến bộ và phát triển kinh tế sinh ích lơi cho tất cả mọi người, chứ không phải chỉ cho một phần của dân chúng. Ngoài ra, sự phát triển đó sẽ không đích thật, nếu không có thể chịu đựng được và công bằng, nếu nó không chú ý tới các quyền của người nghèo và không tôn trọng môi sinh. Đối lại sự toàn cầu hóa các thị trường cần phải có sự toàn cầu hóa tình liên đới. Song song với sự tăng trưởng kinh tế cần phải tôn trọng môi sinh nhiều hơn. Cùng với các quyền cá nhân cũng phải bảo vệ quyền của các thực tại trung gian giữa cá nhân và Nhà nước, trước hết là các gia đình.

Sau cuộc gặp gỡ các giới chức lãnh đạo Albania tổng thống đã tháp tùng Đức Thánh Cha ra xe để ngài đến quảng trường Mẹ Têrexa cử hành thánh lễ cho tín hữu. Đức Thánh Cha đã đi xe jeep mui trần đến quảng trường cách đó 800 mét giữa tiếng vỗ tay reo vui của tín hữu. Họ vẫy cờ Tòa Thánh có hình Đức Thánh Cha và huy hiệu chuyến viếng thăm. Nhiều tín hữu đeo khăn quàng cổ mầu trắng và mầu vàng. Họ cũng mang theo ca bieu ngữ chào mừng Đức Thánh Cha hay có viết ”Đức Phanxicô là môt người trong chúng ta”. Khi đến quảng trường Đức Thánh Cha đã chào ông bà tỉnh trưởng. Ông Lulzim Xhelal Basha, thị trưởng Tirana, đã trao chià khóa thành phố cho Đức Thánh Cha như dấu chỉ toàn dân thủ đô tiếp đón vị thượng khách.

Khán đài nơi Đức Thánh Cha cử hành thánh lễ mầu trẳng với các ghế ngồi mầu vàng và thảm đỏ. Bên phải bàn thờ có ảnh Đức Bà Chỉ Bảo Đàng Lành. Tham dự thánh lễ cũng có tổng thống, thủ tướng, các giới chức chinh qyuền và đại diện của các tôn giáo bạn. Cùng đồng tế với Đức Thánh Cha có hơn 30 Hồng Y, Giám Mục và mấy trăm linh mục. Thánh lễ vừa bắt đầu được một lúc thì trời đổ mưa lớn, nhưng sau đó lại tạnh ráo rồi lại mưa vào cuối thánh lễ. Thánh lễ đã được cử hành bằng tiếng Latinh, các bài đọc và lời cầu giáo dận bằng tiếng Albani.

Giảng trong thánh lễ Đức Thánh Cha nói: Chúa Giêsu đem tình yêu của Thiên Chúa đến trần gian và muốn phổ biến nó qua sự hiệp thông và tình huynh đệ. Người thành lập một cộng đoàn gồm Mười Hai Tông Đồ, và sai họ cùng với 72 môn đệ khác đi rao giảng Tin Mừng, theo một kiễu rất đơn sơ, đi vào từng nhà một và nói lời chào binh an ”Bình an cho nhà này”. Đây không chỉ là một lời chào, mà còn là một ơn nữa. ơn bình an. Hôm nay, khi đến quảng trường dâng kính một người con gái khiêm tốn nhưng cao cả của vùng đất này, là chân phước Mẹ Têrexa Cacutta, tôi muốn lập lại lời chào ấy: bình an cho nhà của anh chị em, bình an cho con tim của anh chị em, bình an cho quốc gia của anh chị em.

Trong sứ mệnh của 72 của môn đệ Chúa phản ánh kinh nghiệm truyền giáo của cộng đoàn kitô thuộc mọi thời đại. Chúa phục sinh và hằng sống không chỉ gửi Mười Hai Tông Đồ, mà gửi toàn thể Giáo Hội, gửi từng tín hữu được rửa tội ra đi loan báo Tin Mừng cho muôn dân. Nhưng đôi khi các cửa bị đóng kín. Áp dụng vào trường hợp của Albania Đức Thánh Cha nói:

Trong qúa khứ gần đây cánh cửa của nước Albania cũng đã bi đóng kín, với khóa của các cấm đoán và luật lệ của một chế độ khước từ Thiên Chúa và ngăn cản sự tự do tôn giáo. Những người sợ hãi sự thật và tự do đã làm mọi sự để xua đuổi Thiên Chúa ra khỏi trái tim con người và loại bỏ Chúa Kitô và Giáo Hôi khỏi lịch sử quê hương của anh chị em, cả khi nó đã là một trong các nơi đầu tiên đón nhận ánh sáng Tin Mừng. Trong bài đọc thứ hai thánh Phaolo đã nhắc tới vùng Illiria thời đó bao gồm cả Albania ngày nay. Khi nghĩ tới các thập niên đau khổ tàn bạo và các cuộc bách hại khốc liệt chống lại các tín hữu công giáo, chính thống và hồi giáo, chúng ta có thể nói rằng Albania đã là một vùng đất của các vị tử đạo: nhiều giám mục, linh mục, tu sĩ và giáo dận đã trả giá cho sự trung thành của họ bằng chính mạng sống… Biết bao kitô hữu đã không gập mình trước các đe dọa, nhưng đã không do dự tiếp tục con đường lòng tin. Trong tinh thần tôi tới bức tường của nghĩa trang Scutari, biểu tượng sự tử đạo của các tín hữu công giáo, nơi họ đã bị xứ bắn, và tôi cảm động đặt vòng hoa của lời cầu nguyện và tưởng niệm ghi ơn không tàn phai. Chúa đã gần gũi, hường dẫn, an ủi và nâng đỡ anh chị em trên cánh đại bàng, như Người đã làm xưa kia đối với dân Israel. Chim đại bàng được biểu hiệu trên quốc kỳ của anh chi em nhắc nhớ ý nghĩa của niềm hy vọng, luôn đặt tin tưởng nơi Thiên Chúa, là Đấng không gây thất vọng, nhưng luôn ở bên cạnh anh chị em, đăc biệt trong những lúc khó khăn.

Ngày nay các cánh cửa của Albania đã rộng mở và đang chín mùi cho một mùa truyền giáo mới đối với mọi thành phần dân Chúa: mỗi tín hữu đều có một chỗ đứng và một vai trò phải chu toàn trong Giáo Hội và trong xã hội. Từng người được mời gọi quảng đại dấn thân loan báo Tin Mừng và làm chứng cho tình bác ái, củng cố các tương quan liên đới để thăng tiến các điều kiện sống công bằng và huynh đệ hơn cho tất cả mọi người. Hôm nay tôi đến để khích lệ và làm cho niềm hy vọng lớn lên trong anh chị em và chung quanh anh chị em, để lôi cuốn các thế hệ trẻ dưỡng nuội mình bằng Lời Chúa và mở cửa lòng cho Chúa Kitô. Ước chi niềm tin của anh chị em luôn tươi vui rạng rỡ; Hãy cho thấy rằng cuộc gặp gỡ với Chúa Kitô trao ban ý nghĩa cho cuộc sống con người, của mọi người. Cùng hiệp thông với các giám mục, linh mục, tu sĩ nam nữ tôi khuyến khích anh chị em hãy hăng say hoạt động mục vụ và tiếp tục tìm ra các hình thức mới để Giáo Hôi hiện diện trong xã hội. Tôi đặc biệt kêu gọi người trẻ đừng sợ hãi quảng đại đáp trả lời Chúa Kitô kêu mời đi theo Ngài. Trong ơn gọi linh mục tu sĩ các bạn sẽ tìm thấy sự giàu có và niềm vui tận hiến chính hình để phục vụ Thiân Chúa và tha nhân.

Hỡi Giáo Hội sống trên đất nước Albania này, xin cám ơn về gương trung thành của ngươi với Tin Mừng! Biết bao nhiệu con trai con gái ngươi đã đau khổ vì Chúa Kitô, đến hy sinh mạng sống. Xin chứng tá của họ nâng đỡ các bước chân ngươi ngày hôm nay và ngày mai, trên con đường tình yêu, sự tự do, công lý và hòa bình. Amen.

Bài giảng của Đức Thánh Cha đã bị ngắt quãng nhiều lần bởi các tràng pháo tay của tín hữu.

Ngỏ lới với mọi người trước khi đọc kinh Truyền Tin, Đức Thánh Cha đặc biệt mời gọi các bạn trẻ xây dựng cuộc sống trên Chúa Kitô là Đá Tảng, vì Ngài luôn trung thành, cả khi chúng ta bất trung. Đức Thánh Cha nói: Hỡi các bạn trẻ, các con là thế hệ mới của đất nước Albania. Với sức mạnh của Tin Mừng và gương của các vị tử đạo, hãy biết nói không với thần tượng của tiền bạc, nói không với sự tự do giả dối cá nhân chủ nghĩa, nói không với các tùy thuộc và bạo lực. Trái lại, hãy nói có với nền văn hóa của sự gặp gỡ và tình liên đới, nói có với vẻ đẹp bất khả phân ly của thiện mỹ, nói có với cuộc sống tiệu bao với tâm hồn lo lớn nhưng trung thành trong những điều nhỏ nhặt. Như thế các con sẽ xây dựng một đất nước Albania và một thế giới tốt đẹp hơn. Đức Thánh Cha đã phó thác toàn Giáo Hội và dân tộc Albani, cách riếng các gia đình, trẻ em và người già cho sự chở che hiền mẫu của Đức Bà Chỉ Bảo Đàng Lành Scutari.

Sau cùng, ngài đọc kinh Truyền Tin và ban phép lành tòa thánh cho mọi người

Sau khi từ giã tín hữu Đức Thánh Cha đã đi xe về Tòa Sứ Thần Tòa Thánh để cùng các Giàm Mục và đoàn tùy tùng dùng bữa trưa và nghỉ ngơi chốc lát trước khi tiếp tuc các sinh hoạt khác vào ban chiều là: gặp gở hàng lãnh đạo các tôn giáo khác tại đại học Đức Bà Chỉ Bảo Đàng Lành; cử hành buổi hát kinh chiều với các linh mục tu sĩ nam nữ, chủng sinh và các phong trào giáo dân tại nhà thờ chính tòa; gặp gỡ các trẻ em và nhân viên các trung tâm bác ái toàn nước Albania tại nhà Betania, trước khi ra phi trường lấy máy bay trở về Roma.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Đức Thánh Cha tiếp kiến 94 Giám Mục mới thuộc các xứ truyền giáo

Đức Thánh Cha tiếp kiến 94 Giám Mục mới thuộc các xứ truyền giáo

VATICAN. ĐTC khích lệ các GM thực thi sự ”hoán cải truyền giáo”, sống và hành động giữa Dân Chúa như những người phục vụ.

Ngài đưa ra lời nhắn nhủ trên đây trong buổi tiếp kiến dành cho 94 GM thuộc 49 quốc gia, thụ phong trong thời gian gần đây, vừa kết thúc khóa bồi dưỡng 2 tuần lễ ở Roma, do Bộ truyền giáo tổ chức. Trong số các vị có 4 GM Phụ Tá của Việt Nam: Đức Cha Giuse Đinh Đức Đạo (Xuân Lộc), Đức Cha Anphongsô Nguyễn Hữu Long (Hưng Hóa), Đức Cha Phêrô Nguyễn Văn Viên (Vinh) và Đức Cha Giuse Trần Văn Toản (Long Xuyên).

Hiện diện tại buổi tiếp kiến cũng có ĐHY Fernando Filoni, Tổng trưởng Bộ truyền giáo, Đức TGM Savio Hàn Đại Huy SDB, Tổng thư ký và nhiều LM đã phụ giúp trong khóa học ở Học Viện Thánh Phaolô.

Trong bài huấn dụ, ĐTC nhắc đến sự cấp thiết của việc hoán cải truyền giáo (Evangelii gaudium); một sự hoán cải liên hệ tới mỗi tín hữu đã chịu phép rửa, mỗi giáo xứ, và dĩ nhiên là các vị mục tử được kêu gọi sống và làm chứng trước tiên, trong tư cách là người hướng dẫn các giáo hội địa phương. Vì thế – ngài nói – ”tôi khuyến khích anh em hãy qui hướng cuộc sống và sứ vụ Giám mục của mình vào sự biến đổi truyền giáo này, đang gọi hỏi Dân Chúa”.

ĐTC cũng nhắc lại giáo huấn của Công Đồng chung Vatican 2 theo đó ”Các GM trong khi thi hành sứ vụ làm cha và chủ chăn giữa các tín hữu của mình phải cư xử như 'những người phục vụ', luôn có trước mắt tấm gương của vị Mục Tử nhân lành, Đấng đã đến để phục vụ chứ không phải để phục vụ, và hiến mạng sống vì mọi người. Tấm gương sáng ngời về việc phục vụ mục vụ là các thánh Tử Đạo Hàn Quốc Anrê Kim Đại Kiến (Kim Taegon) LM, Phaolô Đinh Hạ Tường (Chong Hasang) và các bạn tử đạo mà chúng ta kính nhớ hôm nay. Gắn bó với Chúa Kitô, vị Mục Tử nhân lành, các thánh Tử Đạo không do dự đổ máu đào vì Tin Mừng, mà các ngài là những người trung thành ban phát và là chứng nhân anh dũng”.

ĐTC đặc biệt nhấn mạnh rằng: ”Giáo Hội đang cần các vị Mục Tử, nghĩa là những người phục vụ', cần những Giám Mục biết quì gối trước người khác để rửa chân cho họ. Các vị Mục Tử gần dân, là những người cha, người anh hiền từ, kiên nhẫn và từ bi; yêu mến thanh bần, tự do vì Chúa, cũng như đơn sơ và có cuộc sống khổ hạnh. Anh em được mời gọi không ngừng canh chừng đoàn chiên được ủy thác cho anh em, để giữ cho đoàn chiên được hiệp nhất và trung thành với Tin Mừng và Giáo Hội. Anh em hãy cố gắng mang lại một đà tiến truyền giáo đích thực cho các cộng đoàn giáo phận của anh em, để họ ngày càng thêm các phần tử mới, nhờ chứng tá cuộc sống và sứ vụ giám mục của anh em được thi hành như một việc phục vụ Dân Chúa. Anh em hãy gần gũi các GM của mình, chăm sóc đời sống tu trì và yêu mến người nghèo”

ĐTC cũng bày tỏ mong ước các GM Trung Quốc thụ phong trong những năm gần đây cũng được tham dự cuộc gặp gỡ hôm nay. ”Tự thâm tâm, tôi hy vọng ngày ấy sẽ không xa!”

Sau cùng, ĐTC nhắc đến Thượng HĐGM thế giới sắp tới về gia đình và nhấn mạnh rằng gia đình ở nơi căn cội công trình truyền giảng Tin Mừng, với sứ mạng giáo dục, tham gia tích cực vào đời sống cộng đoàn giáo xứ. Ngài nói:
”Tôi khuyến khích anh em thăng tiến việc mục vụ gia đình, để các gia đình được tháp tùng và huấn luyện, có thể đóng góp tốt đẹp nhất vào đời sống Giáo Hội và xã hội”.

Trong số các GM tham dự khóa bồi dưỡng, đông nhất là 14 GM Ấn độ, 7 GM Nigeria. (SD 20-9-2014).

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio
 

Đức Thánh Cha tiếp kiến 2 ngàn tham dự viên cuộc gặp gỡ về dự án Mục Vụ ”Niềm vui Phúc Âm”

Đức Thánh Cha tiếp kiến 2 ngàn tham dự viên cuộc gặp gỡ về dự án Mục Vụ ”Niềm vui Phúc Âm”

VATICAN. Chiều ngày 19-9-2014, ĐTC đã tiếp kiến 2 ngàn tham dự viên cuộc gặp gỡ quốc tế về ”dự án mục vụ 'Niềm vui Phúc Âm”. Ngài mời gọi các nhân viên của Giáo Hội quan tâm đến con người và cuộc gặp gỡ của họ với Thiên Chúa.

Cuộc gặp gỡ do Hội đồng Tòa Thánh tái truyền giảng Tin Mừng tổ chức dưới sự hướng dẫn của Đức TGM chủ tịch Rino Fisichella tổ chức từ ngày 18 đến 20-9-2014.

Lên tiếng tại buổi tiếp kiến, trong đó có khoảng 25 HY, GM và nhiều nữ tu, ĐTC nhận xét rằng “đứng trước bao nhiêu đòi hỏi mục vụ, trước bao nhiêu yêu cầu của con người, chúng ta có nguy cơ kinh hãi và co cụm vào mình trong thái độ sợ hãi và tự vệ. Từ đó nảy sinh cám dỗ tự mãn và duy giáo sĩ, đóng khung đức tin trong những luật lệ và chỉ thị, như những người biệt phái, kinh sư và tiến sĩ Luật thời Chúa Giêsu đã làm. Chúng ta có mọi sự rõ ràng, ngăn nắp, nhưng dân chúng vẫn phải tìm kiếm và tiếp tục đói khát Thiên Chúa”.

ĐTC cũng cảnh giác các nhân viên mục vụ đừng chạy theo sự chiêu dụ mê hoặc, thúc đẩy ta biến việc mục vụ thành một loạt những sáng kiến liên tiếp, mà không lãnh hội được điều thiết yếu trong việc dấn thân loan báo Tin Mừng. Nhiều khi chúng ta quan tâm gia tăng các hoạt động hơn là chú ý đến con người và cuộc gặp gỡ của họ với Thiên Chúa. Một nền mục vụ không có sự chú ý như thế thì dần dần sẽ trở nên vô ích… Một nền mục vụ không có kinh nguyện và chiêm niệm thì không bao giờ đi vào tâm hồn con người. Nó chỉ dừng lại ở bề mặt mà không để cho hạt giống Lời Chúa có thể nảy mầm, tăng trưởng và sinh nhiều hoa trái (Xc Mt 13,1-23). (SD 19-9-2014).

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio


 

Thợ làm vườn nho

Thợ làm vườn nho

Kể từ ngày Mẹ Têrêsa Calcutta qua đời, chúng ta đã biết không đầy hai năm sau khi Mẹ qua đời, hồ sơ phong chân phước cho Mẹ đã được khởi sự. Đây quả là một kỷ lục trong Giáo Hội, nhưng Mẹ Têrêsa Calcutta không chỉ là một vị thánh của Giáo Hội mà còn là một vĩ nhân của thế giới. Mẹ không chỉ là một mẫu gương thánh thiện cho các tín hữu Kitô, nhưng Mẹ còn để lại một gia sản tinh thần chung cho cả thế giới, gia sản đó là người ta không thể giải quyết mọi vấn đề đau khổ của nhân loại chỉ bằng tiền của vật chất, kỹ thuật, mà bằng trái tim rộng mỡ, bằng tấm lòng quảng đại.

Trước dư luận cho rằng, Mẹ Têrêsa không chủ trương giải quyết vấn đề nghèo đói tại Ấn Độ một cách tận căn. Mẹ đã trả lời:

“Tôi cảm thấy mình là người Ấn Độ cho đến tận đáy tâm hồn tôi. Những chiếc aó dòng cho phép các nữ tu cảm thấy mình nghèo với những người nghèo, được đồng hóa với những người tàn tật, những trẻ em, những người già cả và những người kém may mắn. Với cách ăn mặc như thế, các nữ tu thừa sai bác ái đã chia sẻ cuộc sống của những người nghèo khổ nhất trên thế giới. Dĩ nhiên, Ấn Độ cần có các chuyên viên, những nhà chuyên môn, các kinh tế gia, các y sĩ, các y tá để phát triển. Ấn Độ cần có một chương trình hoạt động rộng rãi được phối hợp chặt chẽ, nhưng chúng ta phải chờ đợi cho đến bao giờ các chương trình ấy được thực hiện? Chúng tôi không biết, nhưng trong khi chờ đợi thì dân chúng cần phải sống, cần phải có của để ăn, cần phải được săn sóc. Địa bàn hoạt động của chúng tôi tại Ấn Độ hiện nay là, bao lâu người dân còn cần những nhu cầu ấy thì chúng tôi còn tiếp tục công việc của mình”.

Quả thực, trong trái tim đơn thành, khiêm tốn, trong sạch của Mẹ Têrêsa Calcutta không hề có những chương trình vĩ đại, Mẹ chỉ thấy sự cần thiết trước mắt là sự nghèo đói khốn khổ của người đồng loại. Nhưng tấm lòng cảm thông và thông cảm ấy không chỉ thấy người dân đói khổ về vật chất, nhưng đôi mắt từ ái của Mẹ Têrêsa còn nhìn thấy một nỗi khổ khủng khiếp hơn của người đồng loại, đó là nỗi khát khao được yêu thương. Mẹ Têrêsa không chỉ trao ban một miếng bánh, một chén cơm, không chỉ trùm trên thân xác đói lạnh một tấm chăn, không chỉ băng bó một vết thương trên thân xác, nhưng món quà quí giá nhất mẹ ban chính là tình thương.

Đây vốn là nhu cầu cơ bản và thiết yếu nhất của mỗi con người, dù con người ấy sống trong một nước nghèo khổ như Ấn Độ hay trong một đất nước phồn thịnh như Hoa Kỳ. Mẹ đã tóm tắt chương trình hành động của Mẹ trong câu nói: “Tôi không bao giờ săn sóc cho các đám đông, tôi chỉ săn sóc cho một người mà thôi”. Quả thực, trong ánh mắt từ ái của Mẹ không có đám đông vô danh, không có con số trong đám đông mà chỉ có từng cá nhân trước mắt cần được yêu thương mà thôi. Trong trái tim đầy yêu thương của Mẹ không có chương trình hành động vĩ đại, mà chỉ có những cử chỉ cụ thể mà con người có thể làm cho từng đồng loại của mình mà thôi.

Thế giới ngày càng làm ra nhiều của cải vật chất, thế giới ngày càng có nhiều chuyên viên kinh tế, chính trị, xã hội, tâm lý. Dĩ nhiên, thế giới ngày càng có nhiều chương trình vĩ đại hơn, xóa bỏ bất công và xóa đói giảm nghèo, thế nhưng bất công và đói khổ vẫn còn đó. Như vậy, trong lịch sử nhân loại, chương trình vĩ đại nhất để xóa bỏ bất công, san bằng xã hội, hẳn phải là một số chế độ độc tài. Kết quả của chương trình hành động vĩ đại này thật là thảm khốc, người ta xóa bỏ một bất công để tạo nên những bất công mới, người ta đạp đổ một nhà tù để xây thêm nhiều nhà tù mới, người ta nại đến nhân quyền để chà đạp nhân quyền.

Thật ra, loài người muốn xóa bỏ mọi thứ bất công bằng tiền của và các phương tiện kỹ thuật, xét cho cùng trong sự tính toán của loài người thì tiền của vẫn là điểm quy chiếu tối hậu, đó là tư tưởng và cách giải quyết của loài người chúng ta. Còn tư tưởng và đường lối của Thiên Chúa như chúng ta nghe trong bài đọc thứ nhất (x.Is 55,6-9), đường lối và cách giải quyết của Thiên Chúa thì hoàn toàn khác với loài người. Thiên Chúa mời gọi chúng ta đi vào tư tưởng, đi vào sự tính toán và cách giải quyết của Ngài. Thiên Chúa dựa trên một tiêu chuẩn khác với tiêu chuẩn và các phương tiện kỹ thuật, tiêu chuẩn đó là tình yêu, lòng độ lượng khoan dung, sự tha thứ cách quảng đại, tinh thần phục vụ dấn thân cách đắc lực. Đây là việc làm mà Chúa Giêsu luôn mời gọi mọi người thực hành đức công bình bác ái với mọi người: “Các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con”.

Đây là tiêu chuẩn mà Chúa Giêsu muốn làm nổi bật qua dụ ngôn được Giáo Hội cho chúng ta lắng nghe hôm nay, chúng ta sẽ ngạc nhiên về cách giải quyết của Thiên Chúa, là người thợ chỉ làm có một giờ cũng lãnh bằng những người thợ làm quần quật suốt ngày. Với cách cư xử của ông chủ vườn nho, Thiên Chúa muốn cho chúng ta thấy cách cư xử độ lượng của Thiên Chúa đối với tất cả mọi người. Ngài cho chúng ta thấy rằng, bất công trong xã hội và tất cả mọi khổ đau của con người chỉ có thể giải quyết được bằng tình thương mà thôi. Sự thật hiển nhiên là thế giới không bao giờ thiếu của cải, có thiếu chăng chỉ là thiếu tình thương, thiếu lòng quảng đại, thiếu sự chia sẻ mà thôi. Thiếu tình thương thì không những người nghèo quằn quại trong đói khổ và cả người giàu cũng héo hắt trong vỏ ốc ích kỷ của mình.

Chúng ta được diễm phúc dự phần vào bàn tiệc Thánh Thể, Tấm Bánh được bẻ ra để chia cho tất cả mọi người. Chúa Giêsu đến với chúng ta qua dấu chỉ ấy để mời gọi chúng ta quảng đại chia sẻ với mọi người. Xã hội sẽ không bao giờ hết những bất công và đau khổ, nhưng bất công và đau khổ sẽ vơi đi biết bao nếu mỗi người biết lấy tình thương, lòng quảng đại và sự chia sẻ đối với nhau. Đó phải là niềm xác tín của chúng ta trong cuộc sống mỗi ngày.

Veritas Radio