Tình thương

Tình thương

Chúa Giêsu khởi đầu công cuộc cứu chuộc bằng việc giảng dạy và làm phép lạ, Ngài mới bắt đầu nói và làm nhưng chưa mạc khải rõ ràng Ngài là ai, cho nên, trước con người của Ngài, nhiều người ngỡ ngàng, không biết xếp Ngài vào hạng người nào: Ngài có phải là một nhà chuyên môn làm phép lạ không? Là một ngôn sứ, là Elia hay là một Mêsia, cứu tinh của dân tộc Do Thái? Trong khi đó Chúa Giêsu giữ thái độ im lặng, vì Ngài biết người Do Thái đang quan niệm sai lầm về Ngài, cho nên Ngài tế nhị dùng việc làm để minh chứng dần dần sứ mệnh của Ngài, một trong những việc làm đó được kể lại trong bài Tin Mừng: Ngài làm phép lạ chữa bệnh sốt rét cho bà nhạc mẫu của ông Phêrô và tất cả những bệnh nhân đến với Ngài đều được Ngài cứu chữa cho khỏi hết. Với những việc Chúa làm đó cho chúng ta hiểu thêm về uy quyền Thiên Chúa của Chúa Giêsu trên các bệnh nhân.

Thiên Chúa tạo dựng con người và Ngài có quyền trên thân xác và linh hồn con người, có quyền trên thân xác tức là có quyền trên bệnh tật, Ngài có thể chữa lành mọi thứ bệnh tật dễ dàng, giống như một kỹ sư chế tạo ra một cái máy, chắc chắn ông là người hiểu biết và sửa chữa chiếc máy ấy rành hơn bất cứ ai. Chúa Giêsu cũng biết chúng ta như vậy, Ngài là Thiên Chúa, nên Ngài dễ dàng sửa chữa những trục trặc nơi con người, tức là chữa lành mọi bệnh tật nơi con người.

Riêng phép lạ chữa cho bà nhạc mẫu của Phêrô khỏi bệnh sốt rét có ý nghĩa gì? Chúng ta khó hiểu được ý Chúa muốn gì khi làm phép lạ này. Nếu hiểu rằng mỗi phép lạ Chúa làm thường là để tăng cường lòng tin, thì ở đây cũng thế, Chúa muốn tăng cường lòng tin của gia tộc Phêrô và nhất là đối với Phêrô. Đàng khác, nếu xét về quan niệm của người Do Thái, họ vẫn coi bệnh sốt rét là hình phạt của Thiên Chúa, và bệnh sốt rét là do ma quỷ làm, thì Chúa Giêsu làm phép lạ này để minh chứng cho mọi người biết Ngài chính là Đấng mà ngôn sứ Isaia đã loan báo, là Đấng đến để cứu gỡ con người khỏi sa lầy đau khổ bởi tội lụy, bởi điều dữ. Như vậy, cơn sốt rét tượng trưng cho nhân loại đã bị thần dữ làm kiệt quệ đến sống dở chết dở mà chỉ có Chúa mới có thể chữa lành được. Hơn nữa, phép lạ này cũng diễn tả tình yêu Thiên Chúa. Dĩ nhiên hành động nào của Chúa cũng là tình yêu, nhưng ở đây thể hiện rõ hơn: nơi đâu Chúa Giêsu đến rao giảng thì ở đó những con người khổ đau đều ngỡ ngàng, tìm thấy tin yêu và được cứu chữa. Đây cũng là bài học nhắc nhở chúng ta.

Phần đông chúng ta không thể mang lại sức khoẻ thể xác cũng như sự thuyên giảm đau đớn cho những anh em bệnh tật, điều đó đã có các bác sĩ, y tá, nhưng chúng ta có một cái gì sâu xa hơn, quý giá hơn để mến tặng những anh em ấy, đó là khi tiếp xúc, thăm viếng, chúng ta đem lại cho họ một niềm hy vọng, cống hiến cho họ một chân lý khả dĩ trả lời cho mầu nhiệm đau khổ, và mang lại cho họ sự an ủi chân thật.

Chẳng hạn như lời tự thuật của một người kia đã kể cho linh mục Samsông và linh mục này đã kể lại trong một bài giảng ở nhà thờ Đức Bà Paris như sau: “Tôi đau rất nặng, người ta đem tôi vào bệnh viện, không ai săn sóc tôi cả, ngoại trừ một chị y tá, chị tỏ ra rất tốt và hết tình giúp đỡ tôi. Một đêm kia, trời đã rất khuya, tôi thấy chị quỳ gối im lặng trong phòng, tôi hỏi: “Chị quỳ làm gì thế?”, chị trả lời: “Tôi cầu nguyện cho ông”. Chỉ mấy tiếng đồng hồ thôi đủ làm cho tôi bấy lâu nay không biết Chúa, bây giờ tôi biết Chúa, tôi thấy Chúa nơi con người chị y tá ấy, giữa những đau khổ thể xác và tinh thần, nhờ sự săn sóc đầy tình người và những lời cầu nguyện đầy yêu thương của chị y tá ấy, tôi đã gặp Chúa”.

Một thí dụ khác, bác sĩ Longghê là một người Pháp đã từng phục vụ ở Việt nam cách đây mấy mươi năm và cũng nổi tiếng như bác sĩ Tôm Đulây, người Mỹ, đã phục vụ ở Đông Nam Á. Ông tận tụy săn sóc, yêu thương các bệnh nhân, bất kể giai cấp, tôn giáo, chủng tộc, ngày cũng như đêm. Khi có người hỏi vì sao ông yêu thương bệnh nhân như vậy? Vì sao ông có thể bỏ ăn bỏ ngủ vì bệnh nhân, xem bệnh nhân là trên hết? Ông trả lời: “Vì thấy Chúa Giêsu trong mỗi người bệnh”. Mỗi sáng khi đi dưlễ, bệnh nhân lương giáo, ai muốn đi đều được ông cho đi xe của ông, mỗi chiều Chúa nhật, ông lại đưa các bệnh nhân đi chơi, tham quan nơi này nơi nọ, và mỗi tối, ông lần hạt chung với các bệnh nhân, vì là người Pháp, về tiếng Việt ông chỉ thuộc kinh Lạy Cha, Kính Mừng, Sáng Danh đủ để lần hạt. Ít lâu sau, Longghê trở về Pháp, vào chủng viện, làm linh mục và tình nguyện sang phục vụ những người nghèo khổ ở giáo phận Cần Thơ. Nhưng tiếc thay, sau khi chịu chức, ông bị bệnh và qua đời trước khi tới nơi mong ước.

Nếu chúng ta không bắt chước được bác sĩ Longghê, thì chúng ta có thể bắt chước được chị y tá trên đây, cầu nguyện cho các bệnh nhân. Tuy nhiên, cụ thể hơn, nếu chúng ta có điều kiện, chúng ta hãy đi thăm hỏi, an ủi những bệnh nhân. Trong lúc đau bệnh, nhất là bệnh lâu ngày lâu tháng, người bệnh thường lo lắng, buồn phiền, chán nản và giảm sút lòng tin… chúng ta hãy cảm thông, đối xử tử tế và giúp đỡ họ. Chúng ta hãy noi gương Chúa Giêsu, Đấng không hề bệnh tật gì, đã mang lấy bệnh tật của mọi người, bao nhiêu bệnh nhân đến với Chúa, Chúa không bao giờ xua đuổi hay làm cho họ phải thất vọng, đau khổ, nhưng Chúa đã an ủi, thương yêu cứu chữa họ, vì thế, chúng ta hãy đến với các bệnh nhân, họ rất cần đến tình thương, chúng ta hãy đem tình thương đến cho họ.

Sưu tầm

Lương y từ mẫu

Lương y từ mẫu

Anh chị em thân mến,

Không ai trong chúng ta đã không ít là một một lần ngã bệnh hoặc có người thân đau ốm hay được thấy những bệnh nhân điều trị tại một bệnh viện, để thấy được bệnh tật quả là một nỗi khổ đau của con người… Mọi người đều phải chạm trán với đau khổ dưới muôn hình vạn trạng. Các triết gia đã suy nghĩ và bàn giải nhiều về đau khổ, nhưng không có một giải đáp nào thỏa đáng trước sự đau khổ của người hiền đức và của trẻ thơ vô tội.

Ông Gióp, nhân vật chính trong tác phẩm mang tên ông, là một người hiền đức nhưng gặp phải nhiều nỗi gian truân, đâm ra hoang mang và vô vọng: “Xin Chúa nhớ cho: đời con chỉ là hơi thở, mắt con sẽ không được thấy lại hạnh phúc bao giờ”.

Thật vậy, “đời người là một khổ dịch, như cảnh nô lệ, tựa kiếp làm thuê”. Tuy thế, tuyệt đối ông không bao giờ coi đau khổ như là dấu chỉ hay hình phạt của tội lỗi. Bản thân ông Gióp không tài nào hiểu được: Tại sao người hiền đức lại phải đau khổ? Đối với ông, đau khổ thật là một huyền nhiệm khôn dò. Tốt hơn hết là tin chắc vào Chúa, hướng về Ngài và xin Ngài giải đáp cho.

Vậy thời Đức Giêsu nghĩ thế nào về đau khổ của con người?

Trước hết, Đức Giêsu không thuyết giảng về đau khổ nhưng Ngài quan tâm, lo lắng cho những người đau khổ, cảm thông và chữa lành kẻ ốm đau, tật nguyền, hoặc bị quỷ ám. Được biết bà mẹ vợ ông Simon đang bị sốt nằm trên giường. “Đức Giêsu lại gần, cầm lấy tay bà và đỡ dậy…”. Với triết gia, đau khổ là một vấn đề. Còn với Đức Giêsu, cần chiến đấu và chiến thắng đau khổ: Trước người mù từ thuở mới sinh, mọi người tìm cách giải thích để kết án kẻ khác và chạy tội, để đổ trách nhiệm cho kẻ khác và phủi trách nhiệm cho mình. Nhưng theo Đức Giêsu, làm như thế có lợi gì, người đau khổ vẫn đau khổ. Tốt hơn là làm một cái gì đó, làm “cái phải làm” để biểu lộ công trình yêu thương của Chúa Cha.

Kế đến, khi cầm lấy tay bà mẹ vợ ông Simon đang nằm trên giường vì sốt mà cho bà “chỗi dậy”, Đức Giêsu như hướng chúng ta đến cái chết và sự Phục Sinh của Ngài. Chính nhờ mầu nhiệm Vượt Qua này mà đau khổ của con người có được một ý nghĩa tích cực: Đau khổ dứt khoát không phải là một hình phạt mà là một thay đổi, một nổ tung nảy sinh một sự sống mới, tương tự như hạt lúa phải thối đi để có mùa gặt, quả trứng phải nứt ra để có chú gà con, và con sâu phải lột xác để thành cánh bướm bay vào cõi trời bao la.

Như vậy, Đức Giêsu đến trong trần gian không phải để xóa đi mọi đau khổ nhưng để đem lại cho đau khổ một ý nghĩa cứu độ, cho người đau khổ một niềm vui giải thoát. Ngài đã giải thoát họ khỏi những chán chường thất vọng và đưa họ vào lại trong sự hiệp thông tình yêu với Thiên Chúa cũng như với mọi người trong xã hội. Phải đợi đến sau khi Đức Giêsu Phục Sinh, người ta mới nhận ra rằng: còn hơn một Thầy Thuốc, Đức Giêsu là Vị Cứu Tinh của cả nhân loại. Bởi vì Ngài đã không chữa lành những nỗi đau nơi thân xác mà còn chiến thắng cả cái chết và quyền lực của tội lỗi đang tác động trong đau khổ, để đem đến cho con người một sự giải thoát toàn diện, đưa họ vào trong vinh quang và sự sống. Đây mới thật là mối bận tâm sâu xa của Đức Giêsu: bận tâm rao giảng Tin Mừng hay mạc khải tình thương cứu độ của Thiên Chúa cho mọi người. Nhờ đó, đau khổ thay vì là sự vắng mặt của Thiên Chúa, sẽ là sự hiện diện của một tình yêu. Dù đau khổ vẫn còn là một mầu nhiệm khôn dò, một vấn đề chưa có giải đáp trọn vẹn, nhưng đã có tình yêu, một mầu nhiệm vĩ đại hơn.

Thưa anh chị em,

Đức Giêsu đem Tin Mừng đến cho loài người bằng những thái độ cụ thể, rõ ràng: Ngài ra tay cứu chữa những ai đau ốm bệnh tật, cho họ được lành mạnh, thuyên giảm, hầu làm chứng một cách thỏa đáng tin rằng, quả thật Thiên Chúa yêu thương người ta, dùng con người cứu chữa con người, để ốm đau không thành đau khổ, tật nguyền không phải tất nhiên đau khổ. Khi con người được yêu thương chăm sóc thì dầu có mang bệnh tật cũng có thể cảm thấy vui tươi, hạnh phúc, nghĩa là không đau khổ, như một em bé mù –Trường Hy Vọng –Nguyễn Đình Chiểu, vẫn có thể đàn hát về cảnh bình minh của đời mình, vẫn sáng tác những vần thơ trong sáng, vì em được yêu thương, được chăm sóc tận tình.

Đức Giáo Hoàng Phaolô II trong Tông thư về “Ý Nghĩa Đau Khổ Của Con Người, theo Kitô giáo” (1984) đã nói: “Con người bước đi cách này hay cách khác, trên con đường đau khổ”, và tất cả chúng ta được đưa tới gặp gỡ con người trên con đường đó. Ngài trích dẫn dụ ngôn người Samari nhân hậu để cho thấy rằng mỗi người chúng ta phải có mối liên đới như thế nào đối với người đồng loại đang đau khổ. Chúng ta không được “dửng dưng” bỏ qua, nhưng phải “dừng lại” bên kẻ đau khổ. Người Samari nhân hậu là tất cả những ai dừng lại bên bất cứ đau khổ nào của người khác. Dừng lại không phải vì tò mò mà là để sẵn sàng giúp đỡ. Thái độ này là sự sẵn sàng nội tâm biết mở lòng và xót thương, thúc đẩy chúng ta ra tay hành động và trợ giúp những người đau khổ, dù thuộc loại nào” (x. số 28).

Trong suốt dòng lịch sử, Giáo Hội đã luôn quan tâm chăm sóc và cứu chữa các bệnh nhân, nhất là những người mắc bệnh hiểm nghèo và khó chữa, những kẻ tàn tật. Sự tận tụy của các tu sĩ, các đội ngũ bác sĩ, y tá Công giáo tại các trại phong cùi, các bệnh viện luôn được xã hội ghi nhận và đã là nguồn an ủi không nhỏ đối với những con người đau khổ. Nhiều giáo dân tại các họ đạo, các đoàn thể, có thói quen thăm viếng, chăm sóc những người già cả tại gia đình, tại các viện dưỡng lão… Như vậy, sự quan tâm của Chúa Giêsu đối với những con người đau khổ vì bệnh tật được tiếp tục trong xã hội hôm nay của chúng ta.

Anh chị em thân mến,

Nhân ngày Thế Giới Bệnh Nhân sắp đến, ngày lễ Đức Mẹ Lộ Đức (11/2), nơi các bệnh nhân đã được Đức Mẹ chữa lành một cách lạ lùng, nhờ lòng tin tưởng, cậy trông và yêu mến Đức Mẹ.

Trước nỗi đau khổ của kẻ khác, nhiều khi chúng ta cảm thấy bất lực, không biết phải nói gì, không biết phải làm gì. Những lúc đó, trong giới hạn của mình và đầy tình thương, chúng ta vẫn có thể làm một cái gì đó để xoa dịu tinh thần cũng như trợ lực cho thể xác của họ. Rất có thể người ấy chỉ cần chúng ta im lặng và cảm thông với nỗi đau của họ, hoặc lắng nghe họ tâm sự. Cũng có thể họ chờ đợi được nghe một tin vui, chờ đón một nụ cười… Ngay cả khi không thể thực hiện các việc đó, chúng ta vẫn có thể cầu nguyện cho họ. Bằng tất cả những việc yêu thương nhỏ bé của đời thường đó, chúng ta nói với họ về Chúa Giêsu của chúng ta. Đó cũng là cuốn Tin Mừng sống động viết bằng chính cuộc đời chúng ta vậy.

Trích trong Niềm vui chia sẻ

“Chúa Giêsu chữa lành và rao giảng”

“Chúa Giêsu chữa lành và rao giảng”

Tin mừng Chúa nhật 5 Thường niên ghi lại những hoạt động chữa lành và rao giảng của Đức Giêsu để nói lên sứ mạng Thiên Sai của Ngài như lời ngôn sứ Isaia đã loan báo:

“Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa” (Lc 4, 18-19).

Sứ mạng Thiên Sai của Chúa Giêsu được trình bày qua 3 điểm chính trong bài tin mừng hôm nay:

Chúa chữa bệnh cho bà nhạc gia của Simon và mọi bệnh tật khác nhau, trừ quỷ, để nói lên sứ mạng của Chúa là đến để cứu chuộc con người khỏi ách thống trị của tội lỗi. ma quỷ.

Chúa Giêsu tìm nơi thanh vắng cầu nguyện biểu lộ sứ mạng Thiên Sai phát xuất từ Thiên Chúa Cha, Ngài được Chúa Cha sai đến.

Chúa Giêsu đi rao giảng ở các thành lân cận, loan báo Tin mừng cho mọi người. Điều này nói lên sứ mạng Thiên sai có tính phổ quát cho hết mọi người. Thiên Chúa muốn con người được cứu độ.

Thiên Chúa mà Đức Giêsu mạc khải là Thiên Chúa của tình yêu, Người là Đấng giải phóng chúng ta khỏi mọi sự dữ. Phép lạ chữa lành của Chúa Giêsu là những dấu chỉ nói lên tình yêu đầy quyền năng của Thiên Chúa, dẫn chúng ta đến sứ điệp của Đức Kitô, hướng chúng ta về với Thiên Chúa và làm cho chúng ta hiểu rằng căn bệnh nặng nề nhất của con người hôm nay là sự thiếu vắng Thiên Chúa, thiếu vắng nguồn suối chân lý và tình yêu. Duy chỉ có sự hòa giải với Thiên Chúa mới có thể mang lại cho chúng ta sự chữa lành thật sự, sự sống thật sự, bởi vì một cuộc sống mà không có tình yêu và chân lý thì chẳng phải là cuộc sống… Do đó sự rao giảng và chữa lành bệnh tật của Đức Giêsu luôn liên hệ mật thiết với nhau, tạo nên một sứ điệp duy nhất về niềm hy vọng và ơn cứu độ (Trích bài giảng của ĐGH Benêđictô).

Tóm lại, bài Tin mừng hôm nay ghi lại một ngày làm việc bận rộn của Đức Giêsu: rao giảng, chữa bệnh, trừ quỷ, cầu nguyện. Việc rao giảng và chữa lành đã chiếm hầu hết thời gian của Chúa Giêsu:

“Đức Giêsu chữa nhiều kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh tật và trừ nhiều quỷ… Ngài đi khắp miền Galilê, rao giảng trong khắp hội đường”.

Chúng ta thấy những người đau khổ cả thể xác lẫn tinh thần bao quanh Đức Giêsu, Ngài hòa mình với họ, xả thân để cứu chữa họ. Ngài ra tay hành động cứu người bệnh tật, xua trừ ma quỷ… Bệnh tật theo đuổi con người như hình với bóng. Theo quan điểm của người Do Thái, bệnh tật bắt nguồn từ ma quỷ, mọi sự dữ trên đời là do tội lỗi mà ra. Việc chữa lành bệnh tật được xem như là sự chiến thắng ma quỷ, tội lỗi. Vì thế, việc chữa lành của Chúa Giêsu biểu lộ ý nghĩa Thiên Chúa cứu chuộc con người khỏi tội lỗi, nói lên sứ mạng Thiên sai của Người.

Đức Giêsu đi tới đâu, Ngài rao giảng Tin mừng cứu độ cho mọi người. Đó là sức mạnh chính yếu của Đức Giêsu mà Ngài đã xác định: “Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng mạc chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó”.

Loan báo Tin mừng cũng là sứ mạng của lọi người Kitô hữu hôm nay.

Thần học gia Maurice Zundel quả quyết: “Chúng ta không phải là Kitô hữu cho riêng mình, mà là cho Đức Kitô, cũng như chúng ta thuộc về Giáo hội và Đức Kitô, hầu mở đường cho tính công giáo của tình yêu Ngài được lan rộng và cho ơn cứu chuộc của Ngài trải ra trên khắp hoàn cầu. Đức Kitô còn dở dang và chưa thành toàn bao lâu toàn thể nhân loại chưa tháp nhập vào Ngài” (À L’éoute de Silence).

Đức Giêsu đi đến đâu thì chữa lành bệnh tật và xua trừ ma quỷ đến đó. Người mang niềm vui, nụ cười đến cho những người đau khổ, xoa dịu những vết thương đau của con người. Noi gương Đức Giêsu, người Kitô hữu cũng phải đem niềm vui, hạnh phúc cho tha nhân trong môi trường mình sống, đặc biệt cho những anh chị em đau yếu, bệnh tật, nghèo khổ bằng sự an ủi, giúp đỡ, thăm viếng, chia sẻ vật chất cho anh em đang cần sự tiếp tay của chúng ta. E. Lamy đã nói: “Chính khi chiếu tỏa quanh ta niềm hoan lạc, mà ta sẽ cứu vớt được nhiều linh hồn. Bởi vì niềm vui tự nó là một lời rao giảng”.

Giuse Nguyễn văn Nam

Người cha phải luôn luôn hiện diện trong gia đình, trợ giúp vợ, và gần gũi với con cái

Người cha phải luôn luôn hiện diện trong gia đình, trợ giúp vợ, và gần gũi với con cái

Điều cần thiết đầu tiên là à người cha phải luôn luôn hiện diện trong gia đình. Ước chi ông gần gũi vợ để chia sẻ mọi sự vui buồn, mệt nhọc và hy vọng. Ước chi ông gần con cái trong sự lớn lên của chúng: khi chúng chơi đùa và khi chúng dấn thân, khi chúng vô tư và khi chúng lo lắng, khi chúng tự diễn tả và khi chúng nín lặng, khi chúng dám liều lĩnh và khi chúng sợ hãi, khi chúng đi sai một bước và khi chúng tìm lại đường đi

ĐTC Phanxicô đã nói như trên trong buổi tiếp kiến chung các tín hữu và du khách hành hương sáng thứ tư 4-2-2015 trong đại thánh đường Phaolo VI.

Ngài đã tiếp tục trình bầy phần hai gương mặt của người cha trong gia đình. Lần trước ngài đã nói tới các người cha vắng mặt, lần này ĐTC nhìn khía cạnh tích cực. Cả thánh Giuse cũng đã bị cám dỗ bỏ Đức Maria, khi khám phá ra là Mẹ đã mang thai, Nhưng thiên thần Chúa can thiệp và vén mở cho thánh nhân biết chương trình của Thiên Chúa và sứ mệnh là cha nuôi. Và thánh Giuse, người công chính, “đã đón vợ về nhà mình” (Mt 1,24) và trở thành cha của gia đình Nagiarét. ĐTC nói:

Mỗi gia đình cần có người cha. Hôm nay chúng ta dừng lại trên giá trị vai trò của người cha, và tôi muốn khởi hành từ vài kiểu diễn tả trong sách Châm Ngôn, các lời mà một người cha nói với con mình: “Hỡi con, tâm trí con khôn ngoan, thì lòng dạ cha cũng vui sướng. Môi miệng con nói những lời chân thật, thì tâm hồn cha sẽ mừng rỡ hân hoan” (Cn 23,15-16). Không thể diễn tả tốt hơn sự hãnh diện và cảm động của một người cha thừa nhận đã thông truyền cho con trai điều thực sự quan trọng trong cuộc sống, hay một trái tim can đảm. Người cha này không nói: “Cha hãnh diện vì con, bởi con hoàn toàn giống cha, bởi vì con lập lại những điều cha nói và cha làm”. Không, ông không chỉ nói với con một điều gì thôi. Ông còn nói với con một cái gì quan trọng hơn nhiều, mà chúng ta có thể giải thích như sau: “Cha sẽ hạnh phúc, mỗi lần thấy con hành động khôn ngoan, và cha sẽ cảm động, mỗi khi nghe con nói với sự thẳng thắn. Đó là điều cha đã muốn để lại cho con , để nó trở thành của con: đó là thái độ cảm nhận và hành động, ăn nói và phán xử khôn ngoan và ngay thẳng. Và để cho con được như vậy cha đã dạy con những điều con không biết, Cha đã sửa chữa các lầm lỗi mà con không thấy. Cha đã làm cho con cảm nhận được lòng trìu mến sâu thẳm và kín đáo, mà có lẽ con đã không hoàn toàn thừa nhận khi con còn trẻ và không chắc chắn. Cha đã cho con một chứng tá của sự nghiêm ngặt và cứng rắn mà có lẽ con đã không hiểu, khi con đã chỉ muốn sự đồng loã và che chở. Chính cha đã là người đầu tiên phải thử thách sự khôn ngoan của mình và canh chừng trên các thái qủa của tình cảm và oán hờn, để mang gánh nặng của các hiểu lầm không thể tránh được và tìm ra các lời nói đúng đắn để làm cho mình được hiểu. Giờ đây cha cảm động, khi Cha thấy con tìm sống như vậy với các con của con và với tất cả mọi người. Cha hạnh phúc và thỏa mãn”. Đó là điều mà một người cha khôn ngoan và trưởng thành nói với con mình.

** ĐTC nói tiếp trong bài huấn dụ: Một người cha biết rõ việc thông truyền gia tài này cho con mắc mỏ chừng nào: biết bao nhiêu sự gần gũi, biết bao nhiêu dịu hiền và biết bao nhiêu cứng rắn! Tuy nhiên ông nhận được biết bao an ủi và phần thưởng, khi các con vinh danh gia tài đó. Thật là một niềm vui chuộc lại mọi mệt nhọc, cao vượt hơn mọi hiểu lầm và chữa lành mọi vết thương. Tiếp đến ĐTC nhấn mạnh sự hiện diện của người cha trong gia đình như sau:

Như thế, sự cần thiết đầu tiên là điều này: đó là người cha hãy luôn luôn hiện diện trong gia đình. Ước chi ông gần gũi vợ để chia sẻ mọi sự vui buồn, mệt nhọc và hy vọng. Ước chi ông gần con cái trong sự lớn lên của chúng: khi chúng chơi đùa và khi chúng dấn thân, khi chúng vô tư và khi chúng lo lắng, khi chúng tự diễn tả và khi chúng nín lặng, khi chúng dám liều lĩnh và khi chúng sợ hãi, khi chúng đi sai một bước và khi chúng tìm lại đường đi. Người cha hiện diện, luôn luôn hiện diện.
Nói hiện diện không giống như nói kiểm soát. Bởi vì các người cha kiểm soát quá thì huỷ diệt con cái, không để cho chúng lớn lên.

Phúc Âm nói với chúng ta mẫu gương của Người Cha ở trên Trời, Chúa Giêsu nói là Cha duy nhất, có thể gọi được là “Người Cha nhân hậu” (x. Mc 10,18). Tất cả đều biết dụ ngôn ngoại thường gọi là dụ ngôn “người con hoang đàng” hay đúng hơn “người cha thương xót” trong chương 15 Phúc Âm thánh Luca (x. 15,12-32). Biết bao nhiêu phẩm giá và hiền dịu trong việc chờ đợi của người cha đứng ở cửa nhà để chờ đứa con trở về! Các người cha phải kiên nhẫn. Biết bao lần có việc khác phải làm đang chờ; cầu nguyện, và chờ đợi với lòng kiên nhẫn, sự dịu hiền, độ lượng và thương xót.

**ĐTC nói thêm trong bài huấn dụ: Một người cha tốt biết chờ đợi và tha thứ, từ tận cùng thẳm con tim. Chắc chắn rồi, ông cũng biết sửa dậy con với sự cứng rắn: ông không phải là người mềm yếu, hay đầu hàng và tình cảm, Người cha biết sửa dậy không làm mất phẩm giá cũng là người cha biết che chở không tiết kiệm sức lực của mình.

Có một lần trong một cuộc họp hôn nhân tôi đã nghe một người cha nói: “Đôi khi con cũng phải đánh các con con một chút, nhưng không bao giờ đánh trên mặt để không làm mất phẩm giá của chúng. Thật đẹp biết bao. Ông ta có ý thức về phẩm giá. Ông phải phạt con, nhưng làm một cách đúng đắn và tiếp tục tiến bước.

Như vậy, nếu có người nào đó có thể giải thích tường tận kinh “Lạy Cha chúng con”, Chúa Giêsu đã dậy, thì đó chính là người đã sống chức làm cha. Nếu không có ơn thánh đến từ Cha trên trời, thì các người cha sẽ mất can đảm và bỏ cuộc. Nhưng con cái cần tìm thấy một người cha chờ đợi chúng, khi chúng trở về từ các thất bại của chúng. Chúng sẽ làm tất cả để không thừa nhận Cha và để đừng thấy ông, nhưng chúng cần ông, và sự kiện không tìm thấy cha mở ra trong chúng các vết thương khó mà chữa lành.

Giáo Hội là mẹ chúng ta dấn thân nâng đỡ với tất cả sức lực của mình sự hiện diện nhân hậu quảng đại của các người cha trong các gia đình, bởi vì đối với các thế hệ mới họ là những người giữ gìn và trung gian không thể thay thế được của niềm tin nơi lòng tốt, công lý và sự chở che của Thiên Chúa, như thánh Giuse vậy.

** ĐTC đã chào các đoàn hành hương hiện diện đặc biệt DHY André Vingt-Trois TGM Paris, ba GM Phụ tá và các đại chủng sinh Paris đang dọn mình chịu chức Linh Mục. Ngài phó thác các gia đình cho sư bầu cử của Thánh Giuse, nhất là các người cha gia đình để họ là những người gìn giữ và là trung gian cho các thế hệ trẻ trong lòng tốt, sự công bằng và dưới sự chở che của Thiên Chúa.

Ngài cũng chào các tín hữu Mỹ, Phần Lan Anh quốc và Sri Lanka. Chào các tín hữu nói tiếng Đức ĐTC tái khẳng định vai trò không thể thay thế được của các người cha trong gia đình, và xin mọi người đồng hành với họ trong lời cầu nguyện để họ luôn gìn giữ các thế hệ tương lai.

Ngài cũng chào các tín hữu Tây Ban Nha, Argentina, và Mexico và khích lệ họ cầu nguyện để trong gia đình không bao giờ vắng bóng một người cha tốt.

Chào các tín hữu Ba Lan ĐTC nhắc nhở rằng ngày mùng 2-2 vừa qua là Ngày Đời Thánh Hiến, Ngài tín thác cho lời cầu nguyện của họ cuộc sống của tất cả những người sống đời thánh hiến, được Chúa Kitô hướng dẫn trung thành phục vụ Thiên Chúa và tha nhân qua lời cầu nguyện, qua việc ăn chay hãm mình để kéo đổ ơn hoán cải, hòa bình và thịnh vượng xuống trên thế giới.

Ngài cũng đặc biệt chào các GM tham dự đại hội do cộng đồng thánh Egidio tổ chức tại Trung tâm quốc tế linh hoạt truyền giáo. ĐTC cầu chúc đại hội giúp làm sống dậy niềm tin nơi Chúa và hăng say làm chứng cho công tác rao truyền Tin Mừng trong các vùng ngoại biên.

ĐTC chúc mọi đoàn hành hương canh tân sự gắn bó với Tin Mừng, liên đới với các anh chị em khác, và tái khám phá ra niềm hy vọng Kitô.

Nhắc đến lễ kính thánh nữ Agatha tử đạo Giáo Hội mừng ngày 5-2, ĐTC cầu mong thánh nữ giúp người trẻ hiểu giá trị cuộc sống tận hiến cho Thiên Chúa. Ngài xin gương đức tin không lay chuyển của thánh nữ giúp các anh chị em đau yếu tín thác các khổ đau cho Chúa; và sự mạnh mẽ của thánh nữ chỉ cho các đôi tân hôn các giá trị đích thật của cuộc sống gia đình.

Buổi tiếp kiến đã kết thúc với Kinh Lạy Cha và phép lành tòa thánh ĐTC ban cho mọi người.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

 

Đức Thánh Cha tái kêu gọi ngưng chiến tại Ukraine

Đức Thánh Cha tái kêu gọi ngưng chiến tại Ukraine

VATICAN. ĐTC tái kêu gọi ngưng chiến và cầu nguyện cho các nạn nhân của các cuộc xung đột tại miền đông Ucraina. Ngài gọi cuộc chiến này là ”một gương mù” vì là chiến tranh giữa các tín hữu Kitô với nhau.

Lên tiếng vào cuối buổi tiếp kiến chung sáng ngày 4-2-2015, ĐTC nói:

”Một lần nữa, tôi nghĩ đến dân tộc Ucraina yêu quí. Rất tiếc là tình hình đồi tệ hơn và sự đối nghịch giữa các phe trầm trọng hơn. Trước tiên chúng ta hãy cầu nguyện cho các nạn nhân, trong đó có rất nhiều thường dân, và cho gia đình họ, và chúng ta hãy cầu xin Chúa cho bạo lực huynh đệ tương tàn kinh khủng này sớm chấm dứt.

Tôi lập lại lời tha thiết kêu gọi thực thi mọi cố gắng – kể cả trên bình diện quốc tế – để tái lập đối thoại là con đường duy nhất có thể để mang lại hòa bình và hòa hợp trong phần đất đau thương ấy”.

ĐTC ứng khẩu nói thêm rằng: 'Anh chị em thân mến, khi tôi nghe những từ như ”chiến thắng” hoặc ”chiến bại” tôi cảm thấy rất đau lòng, một nỗi buồn rất lớn trong con tim. Đó không phải là những từ đúng; từ duy nhất đúng đắn, đó là ”hòa bình”. Anh chị em Ucraina, tôi nghĩ đến anh chị em, nhưng anh chị em hãy nghĩ xem, cuộc chiến tranh này là cuộc chiến giữa các tín hữu Kitô, tất cả anh chị em đều có cùng một phép rửa tội, anh chị em đang chiến đấu giữa các Kitô hữu, anh chị em hãy nghĩ đến điều đó, đến gương mù này, và tất cả chúng ta hãy cầu nguyện, lời cầu nguyện là sự phản đối của chúng ta trước Thiên Chúa trong thời chiến tranh”.

Trong những ngày qua, các cuộc xung đột gia tăng giữa các lực lượng thân Nga đòi ly khai và quân đội chính phủ Ucraina, nhất là tại thành phố Donetsk, kharkiv và Mariupol. Mỗi ngày có hàng chục người thiệt mạng và vị thương. Trong 10 tháng qua đã có 5.300 người chết.

Tổng thống Petro Poroshenko cho biết thế nào Mỹ cũng gửi khí giới cho Ucraina để giúp chiến đấu chống lại phiến quân phò Nga. Trong khi đó thủ tướng Đức, Bà Angela Merkel, chống lại ý tưởng này. Cả vị cố vấn an ninh của Tổng thống Mỹ cũng chống lại việc gửi khí giới cho Ucraina.

Trong khi đó LHQ đang tìm cách gia tăng viện trợ nhân đạo cho hơn 5 triệu người bị thương tổn vì cuộc xung đột giữa hai phe. Viện trợ năm ngoái là 72 triệu mỹ mim, năm nay mức độ trợ giúp dự kiến lên tới 189 mỹ kim (SD, Ansa 4-2-2015)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio
 

Những ánh đèn pha hy vọng cho năm 2015 trên thế giới

Những ánh đèn pha hy vọng cho năm 2015 trên thế giới

** Năm 2014 vừa qua đi với biết bao căng thẳng gây ra bởi chiến tranh, xung đột và bạo lực đủ loại, trong đó có thảm cảnh các cuộc nội chiến tại Iraq, Syria và Ukraine, cũng như tại Trung Phi, Somalia, Afghanistan và nhiều nơi khác. Biến cố Hoa Kỳ tái lập ngoại giao với Cuba, mở lại tòa đại sứ và bỏ cấm vận sau 53 năm đoạn tuyệt ngoại giao và thù hận, như được hai quốc trưởng tuyên bố ngày 17 tháng 12 xem ra là tin vui duy nhất của năm 2014. Có ánh sáng hy vọng nào cho năm 2015 vừa mới bắt đầu hay không?

Sau đây chúng tôi xin gửi tới quý vị một số nhận định của ông Natalino Ronzitti, nguyên giáo sư Luật quốc tế đại học Luiss và cố vấn khoa học Học viện bang giao quốc tế Italia.

Hỏi: Thưa giáo sư Ronzitti, năm 2014 đã có quá nhiều chiến tranh xung khắc gây chết chóc thương đau cho người dân trên thế giới, đặc biệt trong vùng Trung Đông. Không có sự kiện nào tích cực hay sao?

Đáp: Có chứ. Ít nhất có thể nêu bật hai sự kiện: trước hết là việc Hoa Kỳ và Cuba tái lập liên lạc ngoại giao với nhau sau hơn nửa thế kỷ cấm vận. Thứ hai là sự cởi mở của Hoa Kỳ đối với Iran. Khi nào Iran vĩnh viễn từ bỏ ý muốn có vũ khí nguyên tử, thì Hoa Kỳ cũng sẽ bỏ cấm vận đối với Iran.

Thế rồi khi nhìn vào tình hình thế giới, chúng ta cũng thấy có các sự kiện tích cực khác, chẳng hạn như liên quan tới việc chiến đấu chống lại nạn cướp biển, đã có các tiến bộ hữu hiệu khiến cho nạn cướp biển giảm nhiều. Điều này là một thiện ích cho các dịch vụ thương mại quốc tế. Còn có một sự kiện khá quan trọng khác nữa, thường không được biết tới: đó là Thỏa hiệp quốc tế về buôn bán vũ khí đã bắt đầu có hiệu lực từ ngày 24 tháng 12 vừa qua. Thỏa hiệp này không loại bỏ việc buôn bán khí giới, nhưng điều hợp nó. Đây là một bước tiến tích cực, bởi vì người ta đã thử đưa ra một Hiệp ước tương tự vào thời của Hiệp hội các quốc gia, nhưng nó đã không bao giờ có hiệu lực. Trái lại, lần này Thỏa hiệp đã có hiệu lực, tất cả mọi nước thành viên của Liên Hiệp Âu châu đã phê chuẩn, và người ta hy vọng rằng có sự tuân giữ đại đồng.

Hỏi: Thưa giáo sư, 2015 cũng là năm của Hội nghị tái duyệt xét Thỏa hiệp không để vũ khí hạt nhân lan tràn triệu tập vào mùa xuân bên New York. Có dấu hiệu nào đến từ hội nghị này hay không?

Đáp: Rất tiếc là trong lãnh vực này thì không có nhiều hy vọng. Tuy nhiên, có một sự kiện tích cực đó là ít nhất chương trình nghị sự đã được chấp nhận, và như thế Hội nghị sẽ tiến hành. Sẽ rất ư là nguy hiểm, nếu các hội nghị loại này không được triệu tập.

Hỏi: Trong trường hợp có các dấu hiệu xích lại gần nhau giữa Hoa Kỳ và Iran, theo giáo sư, nó có tạo ra một hậu quả domino trong vùng hay không?

Đáp: Liên quan tới hiệu quả domino thì khó mà nói, nhưng nó có thể gây ra một hiệu qủa đáng kể đối với việc tái lập hòa bình, đặc biệt trong vùng Vịnh Ba Tư, là vùng đã trải qua các tranh cãi biên giới, tranh cãi đường thủy, và sự kiện các quốc gia thứ ba muốn nhảy vào vùng Vịnh. Vì thế có thể nói nó có một hiệu qủa nào đó. Nhưng nếu quý vị ám chỉ một giải pháp khả thể cho cuộc xung đột gây hậu qủa domino liên quan tới Nhà nước Hồi IS và liên quan tới Siria và Iraq, thì đương nhiên là khó mà nói được. Bởi vì ở đây các xung khắc vẫn đang tiếp diễn, và phong trào khủng bố này đang kiểm soát một vùng rộng lớn. Ngoài chuyện liên quan tới “Bin Laden” thực tế mà nói đây là lần đầu tiên một phong trào nổi loạn mang huy hiệu khủng bố kiểm soát được một vùng đất đáng kể. Theo tôi, trong trường hợp này sẽ không có một hiệu qủa domino, nếu không phải là trong nghĩa tất cả các quốc gia trong vùng cùng liên minh với nhau giúp đánh bại phong trào quốc gia hồi IS này. Nhưng đương nhiên liên quan tới điều này chúng ta không thể nói tới hòa bình, bởi vì nó sẽ bị thua sức mạnh của vũ khí. Và không có phương thế nào khác giúp đánh bại phong trào khủng bố này cả.

** Trong khi đó bên châu Mỹ Latinh có một mặt trận khác, trong đó tiến trình hòa bình tiếp tục được củng cố, mặc dù hiện nay vẫn không thiếu các vụ bạo lực và đó là trường hợp nước Colombia. Sau đây là một vài nhận xét của ông ông Raul Caruso, giáo sư khoa Chính trị kinh tế Đại học Công giáo Milano, kiêm giám đốc mạng lưới âu châu các “Khoa học gia cho hòa bình”.

Hỏi: Thưa giáo sư Caruso, giáo sư nghĩ gì về trường hợp của Colombia, là quốc gia đã có cuộc nội chiến lâu nhất thế giới, kéo dài 60 năm qua?

Đáp: Nước Colombia là một quốc gia đã bị xâu xé bởi một cuộc xung khắc triền miên hết thập niên này sang thập niên khác giữa quân chính phủ và các lực lượng bán quân sự và phiến quân, với những giai đoạn khó khăn và vài lúc gia tăng. Tuy nhiên, cũng đã có các cuộc thương thuyết hòa bình đang tiến hành bên Cuba, và xem ra Cuba trong lúc này là vùng phân chia ranh giới của biết bao nhiêu hy vọng. Rõ ràng là Colombia khiến cho chúng ta cũng nghĩ tới một khía cạnh khác nữa: đó là quốc gia này đang ở trong một tình trạng rất khó khăn về mặt chênh lệch giữa người giầu và người nghèo, bất công xã hội, và đương nhiên là các nút thắt chính của tiến trình hòa bình đi qua việc giải quyết nạn bất công xã hội sâu xa, đã biến thành tinh thể tại Colombia từ nhiều năm qua.

Hỏi: Thưa giáo sư, các cuộc thương thuyết tiếp tục, thực ra chúng đã không bao giờ bị gián đoạn, nhưng mặc dù vậy đã không có đình chiến giữa các phe liên hệ, như vậy là thế nào?

Đáp: Cuộc xung đột tại Colombia rất đặc biệt, bởi vì các cuộc hòa đàm đã bắt đầu từ lâu, nhưng tổng thống Santos và cả các phiến quân đã luôn luôn khẳng định rằng các hoạt động chiến tranh bình thường vẫn tiếp tục. Đã không có cuộc ngưng chiến thực sự nào, chỉ có một cuộc ngưng bắn đơn phương thực sự từ phía các Lực lượng vũ trang cách mạng Colombia FARC và Quân đội giải phóng quốc gia ELN là tổ chức du kích mác xít, nhân dịp bầu cử tổng thống cách đây vài tháng. Nhưng một cách kỹ thuật đã không có các cuộc thương thuyết hòa bình theo sau một cuộc ngưng bắn đích thực, như chúng ta thường nghĩ. Do đó, khi xảy ra các vụ bạo lực không cần tưởng tượng rằng chúng gây thiệt hại cho các cuộc thương thuyết hòa bình đang diễn tiến.

Hỏi: Đức Thánh Cha Phanxicô đã công du Sri Lanka, là quôc gia cũng đã bị xâu xé bởi cuộc nội chiến trong bao nhiêu năm trời. Trong các thời gian qua xem ra đã có tiến trình hòa giải giữa các lực lượng đối nghịch, có đúng thế không thưa giáo sư?

Đáp: Quốc gia đảo Sri Lanka tuy bé nhỏ, nhưng là một trường hợp rất đặc biệt, bởi vì cuộc nội chiến đã kéo dài tại đây ít nhất 25 năm. Hiện nay tình hình đang trở lại bình thường liên quan tới hòa bình, đến độ tin tức mấy ngày vừa qua cho biết đường xe lửa nối liền Bắc Nam đã được mở trở lại. Như thế tiến trình hòa bình tiếp tục, cả trong viễn tượng tái hội nhập đang thành hình trong xã hội Sri Lanka.

(RG 1-1-2015)
Linh Tiến Khải – Vatican Radio

 

Có hàng triệu trẻ em vô tội tử đạo ngày nay

Có hàng triệu trẻ em vô tội tử đạo ngày nay

Phỏng vấn Linh Mục Fortunato Di Noto, người thành lập Hiệp hội Meter, chống nạn lạm dụng tính dục trẻ em và phim ảnh trẻ em mại dâm trên mạng

** Chúa Nhật 28 tháng 12 vừa qua là lễ Các Thánh Anh Hài, tưởng niệm biến cố các trẻ em Bếtlêhem đã bị vua Hêrốt tàn sát xưa kia, vì nhà vua tin rằng trong số các trẻ em từ hai tuổi trở xuống cũng có Hài Nhi Giêsu, Vua Cứu Thế, là Đấng khiến cho nhà vua lo sợ cho địa vị của mình. Tuy nhiên trong ngày này Giáo Hội cũng tưởng niệm tất cả các trẻ em tử đạo vô tội thuộc mọi thời đại. Trong buổi đọc kinh Truyền Tin Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói: “Cả ngày nay nữa sự thinh lặng bất lực của các em kêu khóc dưới lưỡi gươm của biết bao nhiêu Hêrốt”. Đức Thánh Cha đã nhắc tới biết bao nhiêu trẻ em bị giết trước khi chào đời, bị tàn sát dưới các trận mưa bom, phải di tản, bị lạm dụng, khai thác bóc lột, bị đối xử tàn tệ, và không có cha mẹ trong sự ích kỷ của một nền văn hóa không yêu thương sự sống.

Qủa thật, đã không có thời đại nào trong lịch sử nhân loại trong đó trẻ em lại bị đối xử tàn nhẫn như trong thời đại tân tiến của ngàn năm thứ ba. Theo tổ chức UNICEF nạn bạo hành trẻ em xảy ra tại khắp nơi, trong mọi quốc gia và xã hội trên thế giới này. Chính các trẻ em cho biết cả các hành động bạo lực nhỏ và lạm dụng lập đi lập lại trong cuộc sống thường ngày cũng khiến cho các em đau khổ, gây chấn thương cho sự tự trọng, sự an bình thanh thản và lòng tin tưởng của các em nơi người khác. Đa số các bạo hành chống lại trẻ em là do chính cha mẹ, các hôn phu và hôn thê, các người chồng vợ hay người chung sống, các bạn học cùng lớp cùng trường, các thầy giáo cô giáo và các người cho việc.

Đa số các vụ bạo hành trẻ em bị dấu nhẹm: các trẻ em nạn nhân cũng như những người chứng kiến cảnh bạo lực thinh lặng vì sợ hãi bị trừng phạt hay vì sợ dư luận xã hội lên án. Rất nhiều người, trong đó có các trẻ em, chấp nhận bạo lực như một khía cạnh không thể tránh dược của cuộc sống. Thường khi các trẻ em bị bạo hành im lặng, vì các em không có phương cách chắc chắn hay đáng tin cậy để tố cáo hay kêu cứu.

** Trên bình diện quốc tế không có các dữ kiện thường xuyên được thống kê, do đó các con số chỉ có tính cách phỏng đoán. Dựa trên các nghiên cứu và các dữ kiện dân số năm 2000 tổ chức Sức Khỏe Thế Giới ước tính có khoảng 73 triệu trẻ nam và 150 triệu trẻ nữ là nạn nhân của các giao hợp tính dục cưỡng bách, và các hình thức bạo lực khác bao gồm các đụng chạm tới thân xác.

Tại 16 nước phát triển trên thế giới được phân tích do một nghiên cứu toàn cầu về sức khỏe, do tổ chức Sức Khỏe Thế Giới và Trung tâm Hoa kỳ kiểm soát và phòng ngừa bệnh tật đảm trách, có từ 20 tới 65% trẻ em là nạn nhân của các hành động hay lời nói ức hiếp xúc phạm của người khác.

Hằng năm có khoảng 275 triệu trẻ em chứng kiến các cảnh bạo lực trong gia đình. Các cảnh bạo lực này ảnh hưởng tiêu cực trên sự phát triển của các em trong thời gian gần và trong thời gian xa.

Trong số 218 triệu trẻ em lao động trong năm 2004 có 126 triệu em phải làm các việc nguy hiểm tới tính mạng. Các thống kê mới của Tổ Chức Lao Động Quốc Tế cho biết trong năm 2000 có 5,7 triệu trẻ em bị cưỡng bách lao động để trừ nợ nần cho gia đình, 1,8 triệu trẻ em là nạn nhân của kỹ nghệ tình dục mại dâm hay phim ảnh dâm ô, khoảng 1,2 triệu trẻ em nạn nhân của dịch vụ buôn bán trẻ em; và có hàng triệu trẻ em lao công khác hàng ngày bị bạo hành tại nơi làm việc bởi các chủ nhân hay bạn bè.

Ngoài ra tổ chức Sức Khỏe Thế Giới cũng cho biết hàng năm có từ 100 tới 140 triệu bé gái và phụ nữ bị chặt cắt bộ phận sinh dục. Và chỉ nội trong năm 2002 đã có 53.000 trẻ em từ 0 tới 17 tuổi bị sát hại.

Các bé trai thường bị bạo hành trên thân xác, trong khi các bé gái thường bị bạo hành tính dục, bị bỏ rơi và sa vào vòng mại dâm. Theo một nghiên cứu tại một vài quốc gia có tới 21% nữ giới bị lạm dụng tình dục trước khi lên 15 tuổi. Trẻ em các nước có lợi tức thấp và trung bình có nguy cơ bị giết cao gấp đôi trẻ em các nước có lợi tức cao. Các thanh thiếu niên lứa tuổi 15-17 và trẻ em 0-4 tuổi thường gặp nguy hiểm hơn cả. Sau cùng có một vài nhóm trẻ em đặc biệt dễ bị thương tích hơn cả, trong đó có các trẻ em tàn tật, các trẻ em thuộc các nhóm thiểu số, các trẻ em bụi đời, các trẻ em có vấn đề pháp lý và các trẻ em di cư tỵ nạn.

Hiện nay có ít nhất 106 quốc gia không cấm các hình phạt thể lý trong các trường học. Có 145 nước không cấm các hình phạt thân xác trong các trung tâm trợ giúp; tại 78 nước các hình phạt thể lý được chấp nhận như biện pháp kỷ luật; và tại 31 nước chúng được chấp nhận như phần của các án hình sự.

Sau đây chúng tôi xin gửi tới quý vị một số nhận định của linh mục Fortunato Di Noto, người thành lập Hiệp hội Meter, chống nạn lạm dụng tính dục trẻ em và phim ảnh trẻ em mại dâm trên mạng.

Hỏi: Thưa cha, ngày nay có biết bao nhiêu trẻ em vô tội tử đạo, có đúng thế không?

Đáp: Chắc chắn rồi, các trẻ em vô tội tử đạo ngày nay là các trẻ em bị chết dưới các vụ bỏ bom, khi các em ở trong nhà mình, khi các em đang học hành, khi các em đang ngủ trong giường. Các trẻ em tử đạo vô tội cũng là các trẻ em bị xung vào quân ngũ để chiến đấu, bị tra tấn, bị hãm hiếp bạo hành, bị bán đi như nô lệ, hay trở thành nạn nhân của các hình thức nô lệ mới là nạn lạm dụng tính dục trẻ em và phim ảnh dâm ô trẻ em trên mạng. Các thánh anh hài tử đạo ngày nay cũng là các trẻ
em bị giết vì niềm tin kitô của mình.

Hỏi: Các trẻ em tử đạo cũng là các trẻ em bị giết vì nạn phá thai và không bao giờ được chào đời, có phải vậy không thưa cha?

Đáp: Vâng đúng thế. Có biết bao nhiêu trẻ em không được sinh ra, hàng triệu và hàng triệu nạn nhân trên thế giới này. Và phá thai không phải là một lựa chọn văn hóa, lại càng không phải là kế hoạch hóa gia đình. Người ta biện minh cho phá thai bằng cách nói rằng có lẽ các trẻ em sinh ra sẽ không có gì ăn, sẽ thiếu dinh dưỡng, nhưng đó là một biện minh vô lý mà chúng ta không thể im lặng chấp nhận được, chúng ta phải lên tiếng, chúng ta phải nói to lên.

Hỏi: Sự thinh lặng của biết bao nhiêu trẻ em – Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói – kêu khóc dưới lưỡi gươm của biết bao nhiêu vua Hêrốt ngày nay nữa, cha nghĩ sao?

Đáp: Quý vị hãy nghĩ tới tệ nạn buôn cơ phận trẻ em, nạn khai thác tình dục trẻ em, hay khi các vua Hêrốt đi cả tới chỗ kế hoạch hóa giết trẻ em một cách êm dịu. Đó, biết bao nhiêu vua Hêrốt của thế giới ngày nay. Họ không chỉ không cúi đầu trên nhân loại như Đức Thánh Cha nói, mà họ chỉ cúi đầu trước các lợi nhuận là tiền bạc. Và tiền bạc chúng ta biết – như thánh Phaolô nói – là rác ruởi, là rác rến của ma qủy.

Hỏi: Nhưng mà sự vô tội còn có thể bị hãm hiếp, bị giết chết cả trên bình diện tâm lý nữa thưa cha…

Đáp: Chắc chắn rồi. Chỉ cần nghĩ tới sự kiện truyền hình lèo lái con người làm sao, khi chuyển tải các sứ điệp bạo lực. Thế rồi còn có các khu xóm ổ chuột mới hiện hữu trên mạng vi tính nữa. Nghĩa là các trẻ em là đối tượng của một cuộc sống bị xâm lăng bởi kỹ thuật không biết quản lý, và thế là các em bị đắm tầu trong các vùng ngoại biên vi tính. Các người thiện chí phải ở trong các vùng ngoại biên đó, không phải chỉ để truyền thông, mà cũng để đồng hành với nỗi khổ đau của các trẻ em vị thành niên bị đắm chìm trong thế giới vi tính ấy.

Hỏi: Thưa cha Di Noto, khi năm 2014 kết thúc và nó đã là một năm khủng khiếp, cha tố cáo biết bao nhiêu nạn nhân vô tội…

Đáp: Chúng ta có thể liệt kê chúng ra như một loại chuỗi hạt của khổ đau… Tôi tin rằng chính vì lễ các Thánh Anh Hài mà chúng ta phải nâng lời cầu nguyện và khẩn nài lên Chúa và lãnh nhận một dấn thân cụ thể. Thật thế, không bao giờ được thiếu hy vọng đứng trước các vấn đề kinh khủng này, trong đó các trẻ em không được sống cả ngày trong đó các em sinh ra. Cần hy vọng rằng có biết bao nhiêu người thiện tâm… Tôi xin chấm dứt bằng cách kể cho qúy vị nghe một điều. Tôi đã trồng các cây trước giáo xứ của tôi, và người ta thường nhổ mất chúng. Vậy tôi làm gì? Tôi trồng chúng trở lại. Và người ta lại nhổ chúng đi. Và tôi đã làm gì? Tôi lại trồng chúng trở lại nữa. Thật thế, trong cuộc sống người ta nhổ các trẻ em đi. Nhưng chúng ta không bao giờ có thể quên tiếp tục hy vọng và tiếp tục làm sao để các trẻ em ở chỗ nhất, vì các em được Chúa Giêsu đặc biệt yêu thương, các em là các người có đặc ân trong một xã hội không được trở thành vô nhân, nhưng phải luôn luôn hy vọng nơi con người.

Hỏi: Thưa cha, Giáo Hội mời gọi chúng ta tưởng niệm các Thánh tử đạo vô tội. Các vị có giá trị nào đối với chúng ta?

Đáp: Giáo Hội đã luôn luôn có một tình yêu lớn đối với trẻ em. Chính Đức Chân phước Giáo Hoàng Phaolô VI trưóc khi chết có nói rằng dấn thân của Giáo Hội cho nhi đồng không phải là một mốt mau qua, nhưng là một dấn thân thường xuyên, chính vì một trẻ thơ đã được sinh ra cho chúng ta. Quý vị hãy tưởng tượng rằng trong Giáo Hội ngoài các Thánh Anh Hài, đã có biết bao nhiêu trẻ em tử đạo. biết bao nhiều trẻ em chứng nhân của đức tin, biết bao nhiêu trẻ em được nâng lên danh dự bàn thờ như là các vị tử đạo, như là các Thánh, các Chân phước, các Tôi tớ Chúa. Điều này chứng minh cho thấy một cuộc cách mạng có thể xảy ra cả qua các trẻ em nữa. Thật đúng thế, người ta có thể xúc phạm đến các trẻ em, nhưng cũng đúng thật là chúng ta có thể tưởng niệm các em vì các em là thí dụ sống cho tất cả mọi người.

(RG 28-12-1014)

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Đức Thánh Cha khuyến khích đọc và suy niệm Tin Mừng hằng ngày

Đức Thánh Cha khuyến khích đọc và suy niệm Tin Mừng hằng ngày

VATICAN. ĐTC Phanxicô khuyến kích các tín hữu hàng ngày đọc và chiêm niệm với Tin Mừng để gia tăng niềm hy vọng nơi Chúa Giêsu.

Đó là nội dung bài giảng của ĐTC trong thánh lễ sáng thứ ba 3-2-2015, tại nguyện đường Nhà Trọ Thánh Martha nơi ngài cư ngụ.

Ngài diễn giải đoạn thư gửi tín hữu Do thái nói về niềm hy vọng và bài Tin Mừng trình thuật phép lạ Chúa chữa người phụ nữ bị hoại huyết và con gái ông trưởng Hội đường.

ĐTC nhận xét rằng: ”Nếu không lắng nghe Chúa, có lẽ chúng ta có thể là người lạc quan và tích cực, nhưng chúng ta chỉ có niềm hy vọng khi ngắm nhìn Chúa Giêsu”. Từ đó ngài nhắn nhủ các tín hữu hãy ngắm nhìn Chúa trong Tin Mừng: ”Hãy cầm lấy sách Tin Mừng, đọc và hình dung điều gì xảy ra, nói với Chúa Giêsu những điều xuất phát từ con tim. Nhờ thế, chúng ta làm cho niềm hy vọng gia tăng, vì chúng ta luôn ngắm nhìn CHúa. Anh chị em hãy thực hiện kinh nguyện chiêm niệm này.”

”Có thể anh chị em sẽ nêu vấn nạn: nhưng ở nhà tôi có bao nhiêu việc phải làm! Anh chị em hãy cố gắng dành 10, 15 phút mỗi ngày để đọc Tin Mừng, để đối thoại với Chúa, thay vì mất thời giờ xem các phim truyện hoặc nghe những chuyện tầm phào, những điều nói xấu nói hành về người láng giềng”.

Và ĐTC kết luận rằng: ”Đọc kinh Mân Côi hằng ngày là điều tốt, nói với Chúa, với Đức Mẹ và các Thánh, khi ta gặp khó khăn, đó là điều tốt. Nhưng điều quan trọng là ”cầu nguyện chiêm niệm” và chúng ta chỉ có thể thực hiện điều này với sách Tin Mừng trong tay” (SD 3-2-2015)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Đức Thánh Cha kêu gọi các Giám Mục Lituani chống ý thức hệ đe dọa gia đình

Đức Thánh Cha kêu gọi các Giám Mục Lituani chống ý thức hệ đe dọa gia đình

VATICAN. Trong buổi tiếp kiến các GM Lituani sáng ngày 2-2-2015, ĐTC khuyến khích các vị chống lại các ý thức hệ đe dọa gia đình, tăng cường việc đào tạo LM, tu sĩ, và quan tâm săn sóc người nghèo.

Các GM thuộc 7 giáo phận Lituani về Roma hành hương viếng mộ hai thánh Tông Đồ Phêrô Phaolô và thăm Tòa Thánh theo qui định của giáo luật. Đây là các vị chủ chăn của hơn 2 triệu 715 ngàn tín hữu Công Giáo, tương đương với 78% dân số Lituani.

Trong bài huấn dụ, ĐTC nhắc đến sự kiện Giáo Hội tại Lituani đã bị bách hại trong nhiều thập niên dưới thời cộng sản Liên xô và chỉ tìm được tự do khi nước này được độc lập khỏi Liên Xô từ cuối năm 1989. Ngài nói:

”Tôi biết những vất vả của anh em trong công tác tông đồ. Nếu trong thời gian dài Giáo Hội tại đất nước anh em đã bị đàn áp vì những chế độ dựa trên các ý thức hệ ngược với phẩm giá và tự do của con người, thì ngày nay anh em đang phải đương đầu với những cạm bẫy khác, như trào lưu tục hóa và duy tương đối. Vì thế, bên cạnh nỗ lực không ngừng loan báo Tin Mừng và các giá trị Kitô, không nên quên đối thoại xây dựng với tất cả mọi người, kể cả những người không thuộc về Giáo Hội hoặc những người ở xa kinh nghiệm tôn giáo. Anh em hãy làm sao để các cộng đoàn Kitô luôn luôn là những nơi đón tiếp, trao đổi cởi mở và xây dựng, khích lệ toàn thể xã hội theo đuổi công ích”.

ĐTC nhắc đến tiến trình của toàn thể Giáo Hội đang suy tư về gia đình và khuyến khích các GM Lituani đóng góp vào công trình phân định ấy, nhất là chăm sóc việc mục vụ gia đình, để các đôi vợ chồng cảm thấy sự gần gũi của cộng đoàn Kitô và được trợ giúp để ”không chiều theo não trạng thế gian này, nhưng luôn luôn canh tân trong tinh thần Tin Mừng” (Xc Rm 12,2).

ĐTC ghi nhận rằng Lituani từ nay là thành phần hoàn toàn của Liên hiệp Âu Châu và cũng chịu ảnh hưởng của các ý thức hệ muốn khuynh đảo gia đình, hậu quả của sự hiểu lầm ý nghĩa tự do cá nhân.”

ĐTC kêu gọi các GM Lituani chăm sóc việc huấn luyện thích hợp trong giai đoạn ban đầu và thường huấn cho các chủng sinh, LM và tu sĩ, đặc biệt chú ý đến đời sống tu đức và luân lý, cũng như đức thanh bần theo Tin Mừng, và quản lý tài sản theo các nguyên tắc của đạo lý xã hội Công Giáo.

Sau cùng, ĐTC kêu gọi các GM chăm sóc người nghèo vì mặc dù có sự phát triển kinh tế tại Lituani, nhưng vẫn còn bao nhiêu túng thiếu, người thất nghiệp, các bệnh nhân và nhất là những người trẻ phải bỏ nước đi tìm công ăn việc làm ở nước ngoài. Con số này ngày càng gia tăng, đòi HĐGM phải quan tâm và săn sóc mục vụ cho họ (SD 2-2-2015)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio
 

Đức Thánh Cha chủ sự thánh lễ nhân Ngày Đời Sống Thánh Hiến

Đức Thánh Cha chủ sự thánh lễ nhân Ngày Đời Sống Thánh Hiến

VATICAN. Chiều ngày 2-2-2015, Lễ Đức Mẹ Dâng Chúa Giêsu vào Đền Thánh và cũng là Ngày Thế giới về đời sống thánh hiến lần thứ 19, ĐTC đã chủ sự thánh lễ tại Đền thờ Thánh Phêrô. Ngài đề cao sự tuân phục tu luật như con đường để đạt tới sự khôn ngoan.

Đồng tế với ĐTC có ĐHY João Aviz de Braz, Tổng Trưởng Bộ các dòng tu, Đức TGM Tổng thư ký José Rodríguez Carballo, OFM, các chức sắc của Bộ này, một số các cha Bề trên Tổng quyền, và các LM dòng, trước sự hiện diện của hàng ngàn tu sĩ nam nữ và giáo dân.

Mở đầu buổi lễ có nghi thức làm phép nến và đi rước tiến lên bàn thờ, do 50 tu sĩ nam nữ, đại diện cho các hình thái khác nhau của đời sống Thánh Hiến, đảm trách.

Bài giảng của ĐTC

Trong bài giảng thánh lễ, ĐTC nhắn nhủ những người thánh hiến hãy đạt tới sự khôn ngoan qua sự tuân phục và tuân giữ tu luật. Ngài nhận xét rằng: ”Tin mừng của ngày lễ hôm nay 5 lần nhấn mạnh đến sự tuân phục của Mẹ Maria và Thánh Giuse đối với 'Lề luật của Chúa' (Xc Lc 2,22.23.24.27.39). Chúa Giêsu không đến để làm theo ý riêng, nhưng là theo ý Chúa Cha, và đây là 'lương thực' của Ngài như chính Ngài đã nói (Xc Ga 4,34). Vì thế ai theo Chúa Giêsu thì cũng tiến bước trên con đường vâng phục, như bắt chước ”sự hạ cố” của Chúa, hạ mình và đón nhận ý Chúa Cha làm ý mình, đến độ tự hủy và hạ nhục chính mình (Xc Pl 2,7-8). Đối với một tu sĩ, tiến bước chính là hạ mình trong việc phục vụ. Một hành trình giống như con đường của Chúa Giêsu, Đấng “không giữ cho mình đặc ân như Thiên Chúa” (Pl 2,6). Hạ mình trở nên đầy tớ để phục vụ”.

ĐTC nhận xét rằng con đường ấy có hình thức là tu luật, thấm đượm đoàn sủng của vị sáng lập. Đối với mọi người, qui luật không thể thay thế được chính là Tin Mừng, là sự hạ mình của Chúa Kitô, nhưng Chúa Thánh Linh, trong tinh thần sáng tạo vô biên, cũng diễn tả điều ấy qua nhiều tu luật của đời sống thánh hiến, và tất cả các tu luật ấy đều nảy sinh từ sự bước theo Chúa Kitô, từ con đường hạ mình phục vụ”.

ĐTC xác quyết rằng qua ”luật” ấy, những người thánh hiến có thể đạt được sự khôn ngoan, đây không phải là một khả năng trừu tượng, nhưng là công trình và là hồng ân của Chúa Thánh Linh, và dấu chỉ tỏ tường của điều này chính là niềm vui. Đúng vậy, niềm vui của tu sĩ là kết quả của con đường hạ mình như Chúa Giêsu.. Và khi chúng ta buồn sầu, thì chúng ta hãy tự hỏi xem chúng ta có đang sống chiều kích hạ mình hay không”.

ĐTC nhắc đến tấm gương của hai cụ già, Simeon và Anna, là những người ngoan ngoãn đối với Chúa Thánh Linh (Tin Mừng nhắc điều này 4 lần), được Chúa hướng dẫn và linh hoạt. Chúa đã cho họ sự khôn ngoan qua hành trình dài của cuộc sống trên con đường tuân phục lề luật, một sự tuân phục một đàng hạ nhục và hủy diệt, nhưng đàng khác đó là sự tuân phục giữ gìn và bảo đảm hy vọng, và giờ đây đầy tính sáng tạo vì đầy Thánh Linh..
Áp dụng những điều trên đây vào thực trạng của các dòng tu, ĐTC nhắc đến sự thích ứng tu luật với thời đại và khẳng định rằng: ”sự canh tân đích thực chính là một công trình của đức khôn ngoan, được hun đúc trong tinh thần ngoan ngoãn và vâng phục”.

”Tăng cường và đổi mới đời sống thánh hiến diễn ra qua lòng yêu mến nồng nhiệt hơn đối với tu luật, và qua khả năng chiêm ngưỡng và lắng nghe những người cao niên trong hội dòng. Như thế ”kho tàng”, đoàn sủng của mỗi gia đình dòng tu được bảo tồn nhờ sự tuân phục và khôn ngoan. Và qua con đường ấy, chúng ta được gìn giữ, tránh được tính trạng sống đời thánh hiến của chúng ta một cách 'tùy hứng' và thiếu cụ thể, như thể đó là một thứ tri thức, biến thành một sự ”chế nhạo” đời tu, trong đó người ta sống theo Chúa mà không từ bỏ, cầu nguyện mà không có sự gặp gỡ, sống huynh đệ không có hiệp thông, vâng phục mà không tín thác, bác ái không có chiều kích siêu việt”. (SD 2-2-2015)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Đức Thánh Cha đọc kinh Truyền Tin và loan báo thăm Sarajevo

Đức Thánh Cha đọc kinh Truyền Tin và loan báo thăm Sarajevo

VATICAN. Trong buổi đọc kinh Truyền Tin trưa chúa nhật 1-2-2015, ĐTC Phanxicô loan báo ngài sẽ viếng thăm Sarajevo, thủ đô Cộng hòa Bosnie Erzegovine vào thứ bẩy, 6-6-2015.

Lúc 12 giờ ĐTC xuất hiện tại cửa sổ phòng làm việc của căn hộ giáo hoàng ở dinh Tông Tòa để bắt đầu buổi đọc kinh với hàng chục ngàn tín hữu. Trong bài huấn dụ ngắn, ĐTC đã giải thích bài Tin Mừng chúa nhật thứ 4 thường niên năm B về tầm quan trọng và sức mạnh của Lời Chúa, cũng như sự kiện Chúa Giêsu giảng dạy như người có uy quyền.

Bài huấn dụ của ĐTC

Anh chị em thân mến, chào anh chị em

”Đoạn sách Tin Mừng chúa nhật hôm nay (Xc Mc 1,21-28) trình bày Chúa Giêsu với cộng đoàn nhỏ bé các môn đệ của Ngài đi vào Carpharnaum, là thành nơi Phêrô sinh sống và hồi đó là thành lớn nhất ở miền Galilea.

Thánh sử Marco kể lại rằng vì hôm đó là ngày thứ bẩy nên Chúa Giêsu đi ngay tới Hội đường và bắt đầu giảng dạy (Xc v.21). Điều này làm ta nghĩ đến vị trí tối thượng của Lời Chúa, Lời cần được lắng nghe, đón nhận và loan báo. Khi đến Carphanaum, Chúa Giêsu không hoãn lại việc loan báo Tin Mừng, Ngài không nghĩ đến việc thu xếp chỗ ăn ở cho cộng đoàn bé nhỏ của Ngài, tuy là cần thiết, Chúa không nghĩ đến việc tổ chức trước tiên. Mối quan tâm chính của Ngài là thông truyền lời Chúa với sức mạnh của Chúa Thánh Linh. Và dân chúng trong Hội đường có ấn tượng mạnh, vì Chúa Giêsu ”giảng dạy họ như một người có uy quyền, chứ không phải như các nhà thông luật” (v.22).

Nhưng ”giảng dạy với uy quyền có nghĩa là gì?” Thưa có nghĩa là trong lời nói nhân trần của Chúa Giêsu, người ta cảm thấy sức mạnh của Lời Chúa, cảm thấy chính thế giá của Thiên Chúa, là Đấng Linh hứng các Sách Thánh. Và một trong những đặc tính của Lời Chúa là thực hiện điều Chúa nói. Vì Lời Chúa tương ứng với ý Chúa. Trái lại, nhiều khi chúng ta nói những lời trống rộng, không có căn cội, hoặc nói những lời thừa thãi, những lời không tương ứng với sự thật. Lời Chúa tương ứng với sự thật, đồng nhất với ý chí và thực hiện điều Ngài nói. Thực vậy, Chúa Giêsu, sau khi rao giảng, đã chứng tỏ ngay uy quyền của Ngài bằng cách giải thoát cho một người bị quỷ ám đang có mặt trong Hội đường lúc ấy (Xc Mc 1,23-26). Chính uy quyền của Chúa Kitô đã khơi dậy phản ứng của Satan, ẩn nấp trong người ấy; và Chúa Giêsu nhận ra ngay tiếng nói của ma quỷ, nên Ngài ”nghiêm nghị truyền lệnh: ”Hãy im đi! Hãy ra khỏi người này!” (v.25). Với nguyên sức mạnh của lời Ngài, Chúa Giêsu giải thoát người ấy khỏi ma quỷ. Và một lần nữa những người hiện diện kinh ngạc nói: ”Ông này truyền lệnh cho cả những thần ô uế và chúng vâng phục Ông!” (v.27).

”Tin Mừng là lời sự sống: không đè nén con người, trái lại giải thoát những người nô lệ khỏi bao nhiêu thần dữ của thế gian này: sự ham ố danh vọng, quyến luyến tiền bạc, kiêu ngạo, mê dâm dục.. Tin Mừng thay đổi con tim, thay đổi cuộc sống, biến đổi những xu hướng xấu xa thành quyết tâm làm điều thiện.. Vì thế, nghĩa vụ của các tín hữu Kitô là phổ biến khắp nơi sức mạnh cứu độ, trở thành thừa sai và sứ giả của Lời Chúa. Đó cũng là điều mà đoạn Tin Mừng hôm nay gợi ý, khi kết thúc bằng cách mở ra một viễn tượng truyền giáo: ”Tiếng tăm của Ngài – danh tiếng của Chúa Giêsu – được phổ biến ngay ở các nơi thuộc miền Galilea” (v.28). Đạo lý mới mẻ mà Chúa Giêsu giảng dạy với uy quyền chính là đạo lý mà Giáo Hội mang tới thế giới, cũng với những dấu chỉ hữu hiệu về sự hiện diện của Chúa: giáo huấn với uy quyền và hoạt động cứu độ của Con Thiên Chúa trở thành những lời cứu độ và những cử chỉ yêu thương của Giáo Hội truyền giáo.

Anh chị em hãy luôn nhờ rằng Tin Mừng có sức thay đổi cuộc sống, Tin Mừng chỉ biến đổi chúng ta khi chúng ta để cho mình được Tin Mừng biến đổi. Chính vì thế, tôi xin anh chị em hãy tiếp xúc hằng ngày với Tin Mừng, mang sách Tin Mừng trong túi, trong sắc.. đễ mỗi ngày để đọc một câu, một đoạn Tin Mừng.. Đó là sức mạnh biến đổi chúng ta, thay đổi cuộc sống, thay đổi con tim”.

Và ĐTC kết luận rằng: ”chúng tay hãy cầu xin sự chuyển cầu của Đức Trinh Nữ Maria, Đấng đã đón nhận Ngôi Lời và sinh Người cho thế giới, cho tất cả mọi người. Xin Mẹ dạy chúng ta trở thành những người chăm chỉ lắng nghe và loan báo một cách có uy tín Tin Mừng của Chúa Giêsu.

Sau khi ban phép lành cho mọi người, ĐTC thông báo cuộc viếng thăm sắp tới của Ngài và nói:

”Anh chị em thân mến, tôi muốn loan báo: thứ bẩy 6 tháng 6 tới đậy, nếu Chúa muốn, tôi sẽ đến thành Sarajevo, thủ đô nước Bosni Erzegovine. Ngay từ bây giờ tôi xin anh chị em cầu nguyện để cuộc viếng thăm của tôi nơi các dân tộc yêu quí này là một sự khích lệ cho các tín hữu Công Giáo, khơi dậy những men thiện hảo và góp phần củng cố tình huynh đệ và hòa bình, đối thoại liên tôn và thân hữu”

ĐTC cũng chào thăm các tham dự viên Hội nghị thế giới lần thứ 4 do tổ chức ”Scholas Occurentes” tổ chức tại Vatican từ ngày 2 đến 5-2 với chủ đề ”Trách nhiệm của mọi người trong việc giáo dục một nền văn hóa gặp gỡ”. Ngài cũng chào thăm các giáo xứ, các hội đoàn và tất cả những người đến từ Italia và nhiều nơi khác trên thế giới, đặc biệt là các tín hữu hành hương đến từ Liban và Ai Cập, các sinh viên từ Zafra và Badajoz bên Tây Ban Nha, và nhiều nơi khác ở Italia.

Ngài cũng nhắc nhở rằng: ”Hôm nay tại Italia có cử hành Ngày Sự Sống, với chủ đề là ”Liên đới bênh vực sự sống”. Tôi khích lệ các hiệp hội, các phong trào và tất cả những người đang bảo vệ sự sống con người. Tôi hiệp ý với các GM Italia kêu gọi ”tái nhìn nhận nhân vị và chăm sóc sự sống một cách thích hợp hơn, từ lúc mới thụ thai cho đến lúc chết tự nhiên” (Sứ điệp ngày Toàn quốc Italia lần thứ 37 bênh vực sự sống”. Khi cởi mở đối với sự sống và phục vụ sự sống, thì chúng ta cảm nghiệm được sức mạnh cách mạng của tình yêu và sự dịu dàng (Xc Tông huấn 'Niềm vui Phúc Âm', 288), khai mạc một trào lưu nhân bản mới, nhân bản liên đới. Tôi chào thăm ĐHY Giám quản, các giáo sư đại học Roma và những người dấn thân thăng tiến nền văn hóa sự sống”.

Sarajevo chỉ cách Roma một giờ bay và là thủ đô của nước Bosni Erzegovine rộng hơn 51 ngàn cây số vuông với 3 triệu 700 ngàn dân cư, đông nhất là người Hồi giáo 43%, tiếp đến là các tín hữu Chính Thống Serbi gần 30% và sau cùng là các tín hữu Công Giáo 18%, gốc người Croát. Chiến tranh giữa 3 nhóm dân này đã diễn ra trong 4 năm từ năm 1991 đến 1995.

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio
 

Hai Giám Mục Việt Nam tham dự Thượng Hội đồng Giám Mục thế giới thứ 14

Hai Giám Mục Việt Nam tham dự Thượng Hội đồng Giám Mục thế giới thứ 14

VATICAN. Hôm 31-1-2015, Văn phòng Thượng HĐGM đã công bố danh sách các nghị phụ đại biểu sẽ tham dự Thượng HĐGM thế giới về gia đình vào tháng 10 năm nay. Các vị do các HĐGM liên hệ bầu lên và được ĐTC phê chuẩn.

Hai đại biểu được HĐGM Việt Nam bầu lên là Đức Cha Phaolô Bùi Văn Đọc, TGM Sàigòn, Chủ Tịch HĐGM Việt Nam, và Đức Cha Giuse Đinh Đức Đạo, GM Phụ tá giáo phận Xuân Lộc. Đại biểu dự khuyết là Đức Cha Phêrô Nguyễn Văn Khảm, GM giáo phận Mỹ Tho.

Thượng HĐGM thế giới kỳ thứ 14 sẽ tiến hành tại Roma từ ngày 4 đến 25-10-2015 về chủ đề “Ơn gọi và sứ mạng của gia đình trong Giáo Hội và trong thế giới ngày nay”.

Theo qui luật hiện hành (điều 6,1,3), các HĐGM có dưới 25 thành viên thì được bầu 1 đại biểu, từ 26 đến 50 thành viên được bầu 2 đại biểu, từ 51 đến 100 thì được 3 đại biểu, từ 100 trở lên thì được 4 đại biểu. HĐGM Hoa Kỳ và Pháp, mỗi nước có 4 đại biểu, và có 2 thành viên dự khuyết.

Ngoài ra, có các nghị phụ do ĐTC bổ nhiệm. Con số các vị chiếm tối đa 15% tổng số các nghị phụ.

Thượng HĐGM thế giới kỳ thứ 13 tiến hành tại Roma từ ngày 7 đến 28-10-2012 về chủ đề ”Tái truyền giảng Tin Mừng để thông truyền đức tin Kitô”, có 262 nghị phụ. (SD 31-1-2015)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Đức Thánh Cha đề cao nông nghiệp

Đức Thánh Cha đề cao nông nghiệp

VATICAN. ĐTC Phanxicô kêu gọi đề cao vai trò của giới nông dân, bài trừ nạn nghèo đói và bảo tồn môi sinh.

Trong buổi tiếp kiến sáng 31-1-2015, dành cho 200 đại diện của Liên đoàn toàn quốc nông dân Italia, nhân dịp kỷ niệm 70 năm thành lập Liên đoàn, ĐTC khẳng định rằng: ”Không có nhân loại nếu không có sự canh tác đất đai; không có đời sống tốt đẹp nếu không có lương thực mà đất đai sản xuất cho con người thuộc mọi đại lục. Vì thế ngành nông nghiệp có một vai trò chủ yếu. Hoạt động của những người canh tác, quảng đại dành thời giờ và năng lực cho công tác này, thực là một ơn gọi đích thực. Ơn gọi này đáng được nhìn nhận và đánh giá một cách thích hợp, cả trong những chọn lựa cụ thể về chính trị và kinh tế”.

Trong ý hướng đó, ĐTC kêu gọi loại bỏ những chướng ngại đe dọa ngành nông nghiệp, khiến cho các thế hệ trẻ không còn cảm thấy được thu hút dấn thân trong canh nông nữa.

Cũng trong chiều hướng này, ĐTC mời gọi chú ý đến tình trạng nghèo đói vẫn còn đè nặng trên rất nhiều người trong nhân loại. Ngài nói: ”Sự tuyệt đối hóa các qui luật thị trường, nền văn hóa gạt bỏ và phung phí lương thực đã lên tới mức độ không thể chấp nhận được, cùng với những yếu tố khác, đang gây đau khổ và lầm than cho bao nhiêu gia đình. Vì thế cần xét lại tường tận hệ thống sản xuất và phân phối lương thực”.

ĐTC cũng nhận xét rằng con người không những được kêu gọi canh tác đất đai nhưng còn bảo tồn đất nữa. Hai điều này có liên hệ mật thiết với nhau. Mỗi nông dân điều biết rõ thật là khó canh tác trong một thời đại có những biến đổi mau lẹ về khí hậu và những biến cố khí hậu thái cực ngày càng lan tràn. Làm sao tiếp tục sản xuất lương thực tốt cho cuộc sống của mọi người, khi mà sự ổn định khí hậu bị lâm nguy, khi mà không khí, nước và đất đai không còn tinh khiết vì bị ô nhiễm?

Sau cùng, ĐTC cũng cổ võ một nền nông nghiệp ít ảnh hưởng tiêu cực tới môi sinh: làm sao để việc canh tác của chúng ta đồng thời cũng là một công trình bảo tồn đất đai? Chỉ như thế các thế hệ tương lai mới có thể tiếp tục ở trên trái đất và canh tác đất đai”. (SD 31-1-2015)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Đức Thánh Cha tái liên đới với các tín hữu Kitô Trung Đông

Đức Thánh Cha tái liên đới với các tín hữu Kitô Trung Đông

VATICAN. Sáng ngày 30-1-2015, ĐTC Phanxicô tái liên tiếng bày tỏ tình liên đới và kêu gọi cầu nguyện cho các tín hữu Kitô bị bách hại tại Trung Đông, nhất là tại Syria và Iraq.

Ngài trình bày lập trường trên đây trong buổi tiếp kiến 30 thành viên Ủy ban hỗn hợp quốc tế đối thoại thần học giữa Công Giáo và các Giáo Hội Chính Thống Đông Phương nhóm họp tại Roma trong một tuần qua. ĐTC nói:

”Trong lúc này, chúng ta đặc biệt chia sẻ nỗi kinh hoàng và đau khổ vì những gì xảy ra tại Trung Đông, đặc biệt tại Irak và Siria. Tôi nhớ đến tất cả mọi người dân trong vùng, trong đó có các anh chị em Kitô chúng ta và nhiều nhóm thiểu số, đang phải chịu những hậu quả của cuộc xung đột cam go. Cùng với anh em, tôi cầu nguyện hằng ngày để sớm có một giải pháp thương thuyết, và khẩn cầu lòng từ nhân thương xót của Thiên Chúa đối với những người bị thương tổn vì thảm trạng bao la này.”

ĐTC nhấn mạnh rằng: ”Tất cả các tín hữu Kitô đều được mời gọi cộng tác với nhau trong sự chấp nhận và tín nhiệm nhau để phục vụ chính nghĩa hòa bình và công lý. Ước gì nhờ lời chuyển cầu và tấm gương của nhiều vị tử đạo và các thánh, đã can đảm làm chứng tá cho Chúa Kitô trong tất cả các Giáo Hội chúng ta, nâng đỡ và củng cố anh em cùng với các cộng đoàn của anh em”.

Trước đó trong phần đầu bài diễn văn, ĐTC nhắc đến quá trình hoạt động từ năm 2003 của Ủy ban hỗn hợp đối thoại gồm đại diện của Hội đồng Tòa Thánh hiệp nhất Kitô và các Giáo Hội Chính Thống Đông phương. Trong 10 năm đầu, Ủy ban đã nhìn lại quá khứ và cứu xét sự hiệp thông của các Giáo Hội với nhau trong những thế kỷ đầu tiên, và trong cuộc gặp gỡ lần này, Ủy ban đã nghiên cứu sâu rộng về bạn chất của các bí tích, nhất là bí tích Rửa Tội.

ĐTC nói: ”Tôi cầu mong công việc mà anh em đã khởi sự có thể mang lại thành quả dồi dào cho việc nghiên cứu chung về thần học và giúp chúng ta ngày càng sống tình thân hữu huynh đệ sâu xa hơn”.

Trong Ủy ban hỗn hợp đối thoại thần học này, ngoài Công Giáo còn có đại diện của 7 Giáo Hội Chính Thống Đông Phương, như Giáo Hội Copte Ai Cập, Giáo Hội Arméni Tông truyền (Arméni, Liban), Giáo Hội Chính Thống Ethiopia, Eritrea, Siro Malankara (Ấn độ).

Ngoài ra cũng có Ủy Ban hỗn hợp quốc tế đối thoại thần học giữa Giáo Hội Công Giáo và 14 Giáo Hội Chính Thống, đông đảo hơn với gần 60 thành viên (SD 30-1-2015)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

CHÚA QUYỀN NĂNG, VÌ CHÚA LÀ ĐẤNG THÁNH

 CHÚA QUYỀN NĂNG, VÌ CHÚA LÀ ĐẤNG THÁNH

Nếu như Chúa nhật III Thường niên, Đức Giêsu đã kêu gọi người ta theo Chúa, hoán cải vì Nước Trời gần đến (x. Mc 1, 14-20). Bước sang Chúa nhật IV, Sứ vụ Thiên sai tiếp tục được thi hành. Người chữa lành những người bị quỉ ám, nhưng Lời Người là Chân lý, nên được lan truyền khắp mọi nơi một cách nhanh chóng, khiến cho những người mù sáng mắt, người què đi được, người điếc nghe được, nói chung là vui mừng sung sướng ; mọi người đều …thán phục Người; các thần ô uế phải vâng lệnh (x. Mc 1, 21-28).

Chiêu mộ các môn đệ xong, Chúa Giêsu cùng với các ông tới Capharnaum. Tại hội đường, nơi cộng đoàn tụ họp để lắng nghe Lời Chúa và phổ biến Luật cũng như lời các Tiên tri, lần đầu tiên các môn đệ được nghe Chúa Giêsu giảng dạy (x. Mc 1, 21-22).

Hơn cả luật sĩ
 
Lúc ấy Chúa Giêsu giảng dạy như Đấng có quyền, mọi ánh mắt của những người có mặt ở đó đổ dồn vào Người, còn thần ô uế thì buộc phải vâng lệnh và xuất ra khỏi người nó ám. Giáo huấn của Chúa Giêsu tương phản với lời giảng dạy của các thầy thông luật, dù họ chuyên về Kinh Thánh (Mc 1, 22).

Điều gì mới chăng? Thưa không, Người không dạy điều gì mới mẻ hoặc trái với giáo lý, cũng không mang đến một giáo lý mới. Chính uy nguyền và phong cảnh giảng dạy làm người ta khám phá ra cái mới. Đồng thời, mới, là vì uy quyền của Người trên các thần ô uế: "Chúng vâng lệnh Người "(x. Mc 1, 25-26). Chúa Giêsu không tiếp chuyện, hay tranh luận với thần ô uế. Người đoạn tuyệt đối thoại với chúng. Và ta sẽ thấy câu trả lời vào cuối trình thuật cám dỗ trong hoang địa. Chúa Giêsu khẳng định: "Người là Chân Lý".

Hơn một Tiên tri
 
Bài đọc I trích sách Đệ Nhị Luật (Đnl 18, 15-20), chúng ta thấy Môsê được coi là vị ngôn sứ vĩ đại nhất trong số các ngôn sứ; ông là trung gian giữa Thiên Chúa với loài người. Ông trung gian cần thiết, vì dân chúng sợ mặc khải trực tiếp từ Thiên Chúa nên họ nói: "Tôi không muốn thấy ngọn lửa vĩ đại này nữa, kẻo tôi phải chết " (Đnl 18, 16).

Và đây là những điều Môsê được biết và công bố. Chúa phán: "Ta sẽ gầy dựng giữa anh em của họ một tiên tri như ngươi " (Đnl 18, 15); Chúa sẽ đặt vào miệng vị đó những lời của Chúa, vị ấy sẽ nói cho dân lệnh Chúa truyền. Và nếu kẻ nào không nghe lời của Chúa qua miệng người ấy sẽ nói nhân danh Chúa, kẻ ấy sẽ chuốc lấy hậu quả thích đáng, như Chúa quả quyết: "chính Ta, Ta sẽ tính số với nó" (Đnl 18, 19). Từ chối Môsê hay một tiên tri là từ chối chính Chúa.

Dân sẽ mượn miệng ông, giọng nói của ông, để thân thưa với Thiên Chúa. Một cách nào đó, người ấy không thể nói điều gì khác hơn là Lời Thiên Chúa. Cuộc sống của ông là một cuộc sống hoàn toàn tùy thuộc vào Thiên Chúa.

Qua đoạn sách Đệ Nhị Luật, phụng vụ giúp chúng ta đọc lời nói đầu thể hiện sứ vụ công khai của Chúa Giêsu, Người hơn cả hơn Môsê: " Người giảng dạy người ta như Đấng có uy quyền " (Mc 1,22), Người là "Đấng Thánh của Thiên Chúa" (Mc 1, 24).

Cuộc chiến giữa Chúa Giêsu và thần ô uế
 
Tiếng thét của người bị thần ô uế ám và dằn vặt, nay được Chúa trừ là tiếng thét hư vô, không có nguồn gốc và không có Thiên Chúa. Chúa Giêsu không chạm vào người này, Người cũng không thuyết phục hắn. Người nói chuyện trực tiếp với hắn lúc Lời Chúa bị mắc kẹt trong sa mạc bởi sự dữ, bạo lực và tà thần, mỗi người chúng ta phải thường xuyên kiên trì chiến đấu.

Điều thần ô uế nói trong hội đường như thể nó tuyên xưng Đức Giêsu là Chúa. Nhưng nó bị Chúa Giêsu quát và bảo: "Hãy im đi!" (Mc 1, 25). Như sách Đệ Nhị Luật đã nói (18, 19) chúng ta phải biết nghe lời Chúa, trong hành động của đức tin, đức cậy để lời ấy có thể triển nở trong ta, đụng chạm đến chúng ta, biến đổi chúng ta và hiệp nhất chúng ta …

Sự im lặng bắt buộc này có nghĩa là không còn thời gian nữa. Sự viễn mãn tràn đầy thánh thiện và ơn cứu độ mà Chúa Giêsu mang đến nhờ sự chết và phục sinh. Vì Người là " Đấng thánh của Thiên Chúa " (Mc 1, 24).

Đấng Thánh của Thiên Chúa
 
Việc trục xuất thần ô uế ra khỏi người bị nó ám được coi như cuộc chiến giữa Chúa Giêsu và thần dữ. Thần dữ cố gắng ngăn chặn nguy hiểm: "Có chuyện gì giữa chúng tôi và ông?" (Mc 1, 25) Chúa Giêsu quát bảo nó rằng: "Hãy im đi và ra khỏi người này!" (Mc 1, 25) Cuộc chiến vẫn tiếp tục trong cơn co giật của bệnh nhân đang bị dằn vặt dữ dội và kêu lớn tiếng. Sức mạnh của Chúa Giêsu làm chủ sự dữ là những cái con người đang bị nắm giữ với lo âu sợ hãi và tự hỏi, "Điều này có nghĩa là gì? " (Mc 1, 27).

Giờ đây, bức màn che dậy được vén lên, mầu nhiệm của Chúa Giêsu và "bí mật" của Người hé mở: Đây là một giáo lý mới! Có thể đây là thời thiên sai mới chăng? Chúa Giêsu có thật là Đấng Mêsia không? Người truyền cho các thần ô uế và chúng vâng theo; chứng tỏ Người mạnh hơn Sự dữ. Nhưng chính ma quỉ nhập nhằng khi tỏ lộ về thân thế Chúa Giêsu: Người là Đấng Thánh, Đấng Thánh của Thiên Chúa ! (Mc 1, 24) Thánh là thuộc tính của chính Thiên Chúa. Chúa bắt nó: "Im đi ! " (Mc 1, 25). Còn đám đông dân chúng thì vẫn chưa sẵn sàng tiếp nhận, nên kinh ngạc.

Chúng ta cũng thế, khi ta hoang mang về sự sinh tồn của mỗi chúng ta, và thấy các cuộc chiến giữa Sự Thiện và Sự Ác xảy quanh ta và trong chúng ta, chúng ta tự đặt câu hỏi: Chúa Giêsu là ai đối với cá nhân tôi và toàn thể nhân loại?

Đời sống người Kitô hữu là một cuộc chiến không ngừng chống lại cám dỗ và loại trừ sự dữ. Sống theo Chúa Giêsu, con người sẽ không bao giờ nô lệ cho bản năng và ma quỉ. Để được như thế, chúng ta thành tâm nguyện xin mỗi ngày: "Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng xin cứu chúng con khỏi sự dữ" (Kinh Lạy Cha). Amen.

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Ma quỷ thời đại mới

Ma quỷ thời đại mới

Từ ngàn xưa, ma quỷ luôn luôn là một mối bất hạnh cho con người. Ma quỷ luôn tìm cách làm hại con người không những bằng xúi giục con người làm điều tội lỗi mà còn hành hạ, khống chế, trói buộc, bắt con người làm nô lệ cho chúng. Trong cuộc chiến với ma quỷ, con người không phải là địch thủ ngang tài đồng sức, nên thường thua cuộc. Ngay trong trận chiến đầu tiên, hai ông bà nguyên tổ đã thua mưu chước ma quỷ. Từ đó, con người chẳng thể nào tự mình thoát được nanh vuốt ma quỷ giam hãm.

Đức Giêsu đến mở đầu một kỷ nguyên mới: Nước Thiên Chúa đến chiến thắng nước ma quỷ. Ngay khi Đức Giêsu xuất hiện, ma quỷ mở lại bài cũ cám dỗ Đức Giêsu đi vào con đường kiêu ngạo, phô trương, cậy sức mình, ham hố danh, lợi, thú. Nhưng ngay trong lần đầu tiên giáp chiến, ma quỷ thất bại nặng nề. Đức Giêsu đã toàn thắng vì Người cương quyết đi theo con đường vâng phục thánh ý Chúa Cha, sống khiêm tốn, đơn sơ, khiêm nhường, phó thác. Từ đó, Đức Giêsu đi đến đâu là khuất phục ma quỷ, giải thoát con người đến đấy.

Đọc trong Tin Mừng, ta thấy Đức Giêsu giải thoát con người ở các khía cạnh sau đây.

Người trực tiếp giải thoát con người khỏi bàn tay hung ác của satan. Hôm nay, Người xua đuổi thần ô uế công khai trước mặt mọi người trong hội đường. Lần khác, Người xua đuổi cả một đạo quân quỷ dữ. Chúng đã xin nhập vào đàn heo đang ăn bên bờ biển, và cả đàn heo lăn xuống biển chết hết.

Người gián tiếp giải thoát con người khỏi ách thống trị của satan qua việc chữa bệnh. Theo quan niệm của người Do Thái, bệnh tật là dấu chỉ của tội lỗi. Vì thế, người bệnh là người sống dưới ách satan. Đức Giêsu đã chữa lành rất nhiều người bệnh. Nhiều lần Người nói với người bệnh: “Tội con đã được tha”.

Người tha thiết với việc cứu con người khỏi ách nô lệ tội lỗi, nên Người thường lui tới với những người thu thuế. Người không chỉ nói lời tha thứ bên ngoài, nhưng thực sự hoán cải họ từ bên trong. Nhất là Người giải thoát họ khỏi những mặc cảm và giúp họ tái hội nhập vào đời sống cộng đoàn.

Qua những việc làm của Đức Giêsu, ta thấy Người không chỉ giải thoát con người khỏi bàn tay hung ác của ma quỷ mà còn quan tâm cứu chữa con người khỏi những thế lực đen tối của chúng.

Cuộc chiến giữa con cái Thiên Chúa và ma quỷ vẫn tiếp tục, nên Đức Giêsu khi sai các Tông đồ đi rao giảng, vẫn luôn kèm theo mệnh lệnh xua đuổi ma quỷ. Hôm nay, Người sai chúng ta tiếp bước các Tông đồ, đi chiến đấu chống lại ma quỷ. Ma quỷ không hiện hình cho ta thấy, nhưng chúng ẩn nấp trong các sự dữ, sự ác còn tồn tại trên thế giới.

Có thứ quỷ nghèo đang trói buộc con người, không cho họ sống một cuộc sống xứng đáng với nhân phẩm con người. Có thứ quỷ đói đang giết chết nhân loại dần mòn. Có thứ quỷ dốt giam cầm những người thất học trong tù ngục tối tăm. Có thứ quỷ bệnh không ngừng hành hạ và đẩy con người vào hố sâu tuyệt vọng.

Ngày nay, ma quỷ rất tinh khôn nên thường xuất hiện dưới những hình dáng bên ngoài xinh đẹp, hấp dẫn. Chúng xuất hiện dưới những đồng tiền bất chính và hứa hẹn cho ta một cuộc sống thoải mái. Chúng xuất hiện dưới chiêu bài tự do hưởng thụ để xúi giục ta lao mình vào những nơi ăn chơi độc hại. Chúng kích thích sự tò mò của thanh niên muốn thử sức với ma túy.

Với bàn tay nham hiểm, ma quỷ âm thầm len lỏi vào tận đáy tâm hồn, khơi lên những làn sóng chia rẽ, ganh ghét, thù hận, bất hòa. Chúng kích thích lòng tham lam vô đáy, đưa ta đến chỗ trộm cắp, kiện cáo và tranh giành. Chúng khơi dậy thói kiêu căng, lòng tự ái để ta ham hố vinh danh và quyền lực. Chúng vuốt ve thói ích kỷ để xui giục ta chỉ nghĩ đến bản thân mình, làm ngơ trước những nhu cầu của người khác. Chúng lừa gạt ta để ta coi thường tội lỗi, mất ý thức về tội.

Hôm nay, Chúa muốn ta tiếp tục công việc của Chúa, xua trừ ma quỷ ra khỏi đời sống chúng ta. Hãy cùng nhau xua đuổi quỷ đói, quỷ nghèo ra khỏi thế giới. Hãy góp phần tích cực diệt trừ quỷ dốt, quỷ bệnh ra khỏi xã hội con người.

Hãy tỉnh táo nhận ra ma quỷ dưới những khuôn mặt đẹp đẽ của vật chất, tiền bạc, hưởng thụ, cám dỗ.

Nhất là, hãy trục xuất khỏi tâm hồn ta những con quỷ gây chia rẽ, bất hòa, tham lam, kiêu căng, tự mãn, gian trá, giả hình, hám danh, ích kỷ, dửng dưng.

Tự sức riêng, ta khó mà chiến thắng được ma quỷ. Muốn chiến thắng ma quỷ, ta phải nhờ ơn Chúa giúp. Ta múc lấy sức mạnh nơi Chúa bằng ăn chay và cầu nguyện. Ta rèn luyện tinh thần bằng khiêm nhường từ bỏ ý riêng để hoàn toàn vâng phục thánh ý Thiên Chúa.

Lạy Chúa, xin thương xót con, xin cứu con khỏi mọi sự dữ. Amen.

ĐTGM Ngô Quang Kiệt

Xua đuổi ma quỷ

Xua đuổi ma quỷ

Một nông dân giàu có nhất trong huyện và rất keo kiệt. Ông đã hối cải, khi ông ý thức rằng. Ông chỉ là một người quản lý đất đai và một người giữ tiền. Không lâu sau đó, một người lối xóm nghèo bị chấy hết cửa nhà, đến gõ cửa xin đồ ăn. Nông dân giàu có này định cho người ngheo một đùi heo trong bếp. Trên đường xuống bếp. Ma quỷ nói thầm bên tai ông: “Cho hắn cái đùi heo nhỏ nhất”.

Người giàu có này chiến đấu với tính keo kiệt cố hữu của ông. Cuối cùng lòng quảng đại đã thắng. Ông lấy cái đùi heo lớn nhất. Ma quỷ cười nhạo ông: “Mày khùng quá”. Nhưng người nông dân bịt miệng y: “Nếu mày không đứng im, tao cho hết mọi đùi heo tao có”.

Chúng ta vừa nghe Đức Giêsu đuổi ma quỷ ra khỏi người bị ám.

Thời đại chúng ta có nhiều chuyện liên quan đến ma quỷ, không những do những cuốn sách, những phim ảnh; gọi là “người trừ quỷ”, nghĩa là một người có thể xua đuổi ma quỷ, mà còn do những nhóm người kỳ dị, họ thờ cúng Satan.

Thật là một lầm lẫn lớn thường thấy ngày nay khi nghĩ rằng ma quỷ ở đâu xa, một nơi nào đó. Nó ở trong một người nào khác chứ không có trong tôi. Thực sự, ma quỷ có mặt nơi mỗi người chúng ta. Cảm tạ Chúa, chúng ta không hoàn toàn dưới sự kiểm soát của chúng. Nhưng cái tinh thần ma quỷ thì ở trong hầu hết mọi con người.

Người hà tiện trong câu chuyện đã đánh bại con quỷ keo kiệt. Nhưng nó vẫn còn cám dỗ ông keo kiệt tiếp. May thay ông lại đánh bại nó.

Con quỷ kiêu hãnh ở trong nhiều người chúng ta. Chúng ta phải đánh bại nó hoài hoài, nói được là mọi lúc. Nhưng chúng ta phải luôn cảnh giác kẻo nó đưa chúng ta lên khi nghĩ rằng chúng ta thật là một nhân vật quan trọng do công nghiệp của riêng mình.

Quỷ mê ăn uống, nó cố gắng làm chúng ta ăn uống thái quá, nhất là uống rượu quá độ. Nó không bao giờ từ bỏ ý định xô đẩy chúng ta ra khỏi tinh thần tiết độ.

Quỷ khoái lạc là một con quỷ có mặt nạ dễ thương, có nhiều bạn trợ giúp như Tivi, phim ảnh, tòa án ly dị, sách báo đồi trụy và bạn bè xấu nết. Tuy nhiên nó cũng phải bị đánh bại. Hàng triệu người đã đánh bại nó.

Bất chấp ma quỷ đến với chúng ta dưới hình thức nào. Chúng ta luôn luôn có thể nương tựa vào Đức Kitô hộ giúp. Trên trần gian Chúa chúng ta đã trừ quỷ nhiều lần trong đời Ngài như trong bài Tin Mừng hôm nay. Nhưng Satan vẫn trở lại, và thành công trong việc giết Đức Kitô trên thập giá. Xem như ma quỷ đã hoàn toàn thắng. Nhưng sự Phục Sinh đã đem lại cho Đức Kitô sự chiến thắng.

Trong mỗi thánh lễ, trên chiến long trời, lở đất này tái diễn: Đức Kitô chết – Đức Kitô sống lại. Trong sự lập lại chiến thắng của Chúa chúng ta. Bạn và tôi được thêm sức mạnh và can đảm để xua đuổi ma quỷ ra khỏi cuộc sống của mỗi người. Hãy tìm kiếm con quỷ trong cuộc đời riêng của bạn và với sự trợ giúp của Đức Kitô; Bạn trục xuất hắn ra.

Xin Chúa chúc lành cho bạn.

Arthur Tone

Con Người Đến Để Phục Vụ

Con Người Đến Để Phục Vụ

Ở đời người ta thường đua nhau tìm kiếm danh vọng và quyền lực. Danh vọng càng cao, quyền lực càng mạnh, càng có lắm kẻ hầu người hạ, càng có tiền chất kho, chất lẫm. Vì tìm kiếm danh vọng và quyền lực, người ta sẵn sàng đối kháng với nhau, loại trừ lẫn nhau. Người ta sẵn sàng chà đạp lên nhau để leo lên đỉnh vinh quang. Vì danh vọng, quyền lực người ta sẵn sàng lao vào những cuộc chiến bất khoan dung. Lịch sử đã từng chứng mình điều đó. Hitler đã từng đẩy cả thế giới vào chiến tranh loạn lạc chỉ vì tìm kiếm quyền bính của ông. Polpot đã từng xây dựng quyền bính mình trên hàng triệu mạng người. Thực vậy, quyền lực làm cho nhân loại chia rẽ lẫn nhau. Quyền lực làm cho tình người tan rã. Quyền lực là nguyên nhân cho những đố kỵ, ghen tương và thù hận. Cho dù quyền lực làm cho nhân loại khổ đau nhưng người ta vẫn lao vào tranh giành lẫn nhau. Vì dầu sao đi nữa, quyền lực vẫn đem về cho họ rất nhiều mối lợi cả tinh thần lẫn vật chất.

Năm 1986, sau 20 năm cầm quyền tổng thống Philippines, ông Ferdinand Marcos đã trở về vui thú điền viên với gia tài kếch xù trị giá trên 10 tỷ mỹ kim. Đặc biệt là vợ ông chiếm hữu một lâu đài sang trọng với biết bao đồ vật quý giá như: 3,000 đôi giầy đủ màu đủ kiểu còn mới tinh, 100 chiếc ví da hạng sang đắt tiền, hoá đơn một chiếc áo dạ vũ trị giá 107,000 mỹ kim. Ở Việt Nam ngày nay cũng không thiếu những quan gia có những đồn điền cao su thì mênh mông, có những đồng ruộng thì vô tận, có tài khoản thì bao la và nhà cửa thì vào bậc sang trong nguy nga. Xem ra quyền lực không chỉ mang lại cho con người uy quyền mà còn mang lại cho họ vinh hoa phú quý ở đời này, khiến họ trở thành một giai cấp thượng lưu hơn hẳn đám dân đen thấp cổ bé miệng.

Chúa Giêsu đến để nối kết tình nhân loại. Ngài không tìm quyền bính và danh vọng. Ngài không chạy theo những toan tính vụ lợi cho bản thân. Ngài đển để phục vụ và hiến dâng mạng sống cho người mình yêu được sống và sống dồi dào. Chính đời sống khiêm nhu xoá bỏ địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, Ngài đã sống một cuộc đời phục vụ tha nhân một cách không mệt mỏi. Ngài đã phục vụ mọi người bất luận sang hèn, bất luận già trẻ. Ngài đã từng quỳ gối rửa chân cho các môn đệ. Ngài còn rửa chân cho cả Giu-đa kẻ sẽ bán ngài với giá 30 đồng bạc. Ngài đã sống một cuộc đời nghèo khó đến độ "sinh vô gia cư – chết vô địa táng".

Vâng, Chúa Giêsu, Ngài đã thi hành quyền bính của mình là đến để phục vụ chứ không phải để được phục vụ. Đối tượng được Ngài phục vụ là các bệnh nhân, là những người nam, người nữ đang bị thần ô uế thống trị, là những con người nghèo khổ, bất hạnh đang bị bỏ rơi bởi đời sống thiếu vắng tình người của đồng loại. Tình thương đó đã được thể hiện trên người bệnh nhân bị thần ô uế thâm nhập mà đoạn tin mừng thánh Marco tường thuật lại. Ma quỷ cũng nhìn nhận quyền bính của Ngài nên đã thốt lên: "Ngài là Đấng Thánh của Thiên Chúa". Người đồng hương cũng nhìn nhận Ngài có đầy uy quyền trên môi miệng và nhân cách của Ngài. Họ đã khâm phục ngài vì "giáo lý thì mới mẻ, và người dạy lại có uy quyền".

Người Kitô hữu cũng được tham dự vào vương quyền của Chúa Giêsu qua bí tích Rửa tội. Người Kitô hữu cũng được mời gọi dùng tình yêu để hoán cải lòng người, để hàn gắn những hố sâu ngăn cách của giầu nghèo, của địa vị sang hèn. Dùng tình yêu để phục vụ anh em, để dấn thân quên mình vì hạnh phúc của tha nhân. Sự hiện diện của người Kitô hữu phải là những ngọn nến sáng chịu hao mòn để mang lại niềm vui và hạnh phúc cho cuộc đời. Người Kitô hữu phải là những hạt lúa chịu nghiền nát để dâng hiến cho đời những hương thơm của phục vụ, của bác ái và vị tha. Người Kitô hữu được mời gọi theo gương Thầy Giêsu biết dùng quyền để phục vụ, biết dùng tình yêu để hàn gắn những thương đau của chia rẽ và hận thù, biết lấy đức ái để sống vì lợi ích của tha nhân.

Nguyện xin Chúa Giêsu là Đấng đến để phục vụ, ban cho chúng ta tinh thần xả kỷ hy sinh, biết sống cho tha nhân và vì tha nhân hơn là vun quén cho bản thân. Nguyện xin Chúa là Đấng đến để chữa lành tâm hồn và thể xác con người, xin cũng chữa lành tâm hồn chúng ta khỏi những ràng buộc của tội lỗi, của đam mê nhục dục để biết sống cao đẹp giữa mọi người. Amen.

Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền

Guơng mặt và sự hiện diện của ngưỏi cha trong gia đình rất quan trọng đối với sự quân bình của con cái

Guơng mặt và sự hiện diện của ngưỏi cha trong gia đình rất quan trọng đối với sự quân bình của con cái

** Sự vắng bóng gương mặt của người cha trong cuộc sống của trẻ em và người trẻ tạo ra các thiếu sót và vết thương có thể rất trầm trọng. Xưa kia trong gia đình ngự trị khuynh hướng độc đoán, hay đàn áp: cha mẹ coi con cái như đầy tớ. Ngày nay xã hội xem ra là một xã hội mồ côi không cha, vì người cha vắng bóng trong cuộc sống của con cái.

ĐTC Phanxicô đã nói như trên với 8,000 tín hữu và du khách hành hương tham dự buổi gặp gỡ thứ tư hàng tuần trong đại thính dường Phaolô VI. Trong bài huấn dụ ĐTC suy tư về gương mặt của người cha trong gia đình. Ngài nói:

Hôm nay chúng ta để cho mình được hướng dẫn bởi từ “cha”. Đó là một từ kitô hữu chúng ta yêu thích hơn mọi từ khác, bởi vì đó là tên mà Chúa Giêsu dã đậy chúng ta gọi Thiên Chúa. Ý nghĩa của từ này đã nhận được một sự sâu sắc mới chính từ kiểu Chúa Giêsu dùng để hướng về Thiên Chúa và biểu lộ tương quan đặc biệt của Người với Thiên Chúa. Mầu nhiệm sự thân tình của Thiên Chúa Cha, Con và Thần Khí do Chúa Giêsu mạc khải , là trung tâm đức tin kitô của chúng ta.

Cha là một từ phổ quát ai cũng biết. Nó ám chỉ một tương quan nền tảng mà thực tế cổ xưa như lịch sử con người. Tuy nhiên, ngày nay người ta đã đi tới chỗ khẳng định rằng xã hội chúng ta là một “xã hội không cha”. Nói cách khác, đặc biệt trong nền văn hóa tây phương, gương mặt của người cha một cách biểu tượng vắng bóng, bị biến mất, bị lấy mất. Ban đầu sự kiện được nhận thức như là một sự giải phóng: giải phóng khỏi người cha – chủ nhân, khỏi người cha như người đại diện cho luật lệ, bị áp đặt từ bên ngoài, khỏi người cha như kẻ kiểm soát hạnh phúc của con cái và như là chướng ngại vật của sự thoát ly và tự chủ của người trẻ. Thật thế, đôi khi trong các gia đình của chúng ta trong quá khứ đã ngự trị khuynh hướng độc đoán, trong vài trường hợp cả sự đàn áp nữa: cha mẹ đối xử với con cái như đầy tớ, không tôn trọng các đòi hỏi cá nhân sự trưởng thành của chúng; các người cha không trợ giúp con cái bước đi trên con đường của chúng trong tự do và lãnh các trách nhiệm riêng để xây dựng tương lai của chúng và của xã hội.

** ĐTC nói tiếp trong bài huấn dụ: Và như thường xảy ra là người ta đi từ thái cực này sang thái cực khác. Vấn dề của chúng ta ngày nay xem ra không là sư hiện diện xâm lấn của các người cha, nhưng là sự vắng bóng, sự trốn tránh của người cha. Đôi khi các người cha tập trung nơi chính mình và việc hiện thực cá nhân mình tới độ quên cả gia đình. Và họ để trẻ em và người trê con cái họ một mình. Như là Giám Mục Buenos Aires tôi đã nhận ra cảm giác mồ côi mà người trẻ ngày nay sống. Giờ đây trong suy tư chung này về gia đình, tôi muốn nói với tất cả mọi cộng đoàn kitô rằng chúng ta phải chú ý nhiều hơn nữa: Sự vắng bóng gương mặt của người cha trong cuộc sống của trẻ em và người trẻ tạo ra các thiếu sót và vết thương có thể rất trầm trọng.

Và qủa thế, các lệch lạc của trẻ em và thanh thiếu niên một phần lớn có thể tìm ra trong sự thiếu sót này, thiếu sót các gương sống và các hướng dẫn uy tín trong cuộc sống thường ngày của chúng. Ý thức về sự mồ côi mà nhiều người trẻ sống sâu đậm hơn là chúng ta tưởng nghĩ. ĐTC giải thích thêm điểm này như sau:

Chúng mồ côi trong gia đình, bởi vì các người cha thường vắng mặt, không ở nhà, cả trong thể lý nữa, nhưng nhất là bởi vì khi ờ nhà, họ lại không hành xử như là cha, họ không chu toàn nhiệm vụ giáo dục và không trao ban cho con cái các nguyên tắc, các giá trị, các luật sống mà chúng cần như cơm bánh, với gương sống đi kèm lời nói của họ. Phẩm chất giáo dục của sự hiện diện của người cha lại càng cần thiết hơn nữa, khi người cha bị bó buộc phải làm việc xa nhà. Đôi khi xem ra các người cha không biết rõ phải chiếm chỗ nào trong gia đình và phải giáo dục con cái ra sao. Và khi đó, trong sự nghi ngờ họ vắng mặt, họ rút lui và lơ là trách nhiệm của mình, có khi là trốn chạy vào trong một tương quan “ngang hàng” với con cái.

** Nhưng xã hội dân sự, với các cơ cấu của mình, cũng có trách nhiệm đối với người trẻ, một trách nhiệm, mà đôi khi nó lơ là hay thi hành dở. Thường khi xã hội cũng để người trẻ mồ côi và không đề nghị với họ một viễn tượng thật. Như thế giới trẻ bị mồ côi không có các con đường chắn chắn để đi, mồ côi không có các thầy dậy để tin cậy, mồ côi các lý tưởng sưởi ấm con tim, mồ côi các giá trị và các niềm hy vọng nâng đỡ họ thường ngày. Họ được lấp đầy bởi các thần tượng, nhưng người ta ăn cắp trái tim của họ; họ bị đầy tới chỗ mơ tưởng các cuộc giải trí và lạc thú, nhưng người ta không cho giới trẻ công việc làm; họ bị ảo tưởng với thần tiền bạc và người ta khước từ trao ban cho họ các điều phong phú thực sự.

Do đó thật là tốt cho tất cả mọi người, cha và con cái, nghe trở lại lời Chúa Giêsu đã hứa với các môn đệ: “Thầy sẽ không để các con mồ côi” (Ga 14,18). Thật vậy, chính Ngài là Đường phải theo, là Thầy phải lắng nghe, là niềm Hy vọng rằng thế giới có thể thay đổi, tình yêu chiến thắng hận thù, có thể có một tương lai của tình huynh đệ, hòa bình cho tất cả mọi người.

Thứ tư tới chúng ta sẽ tiếp tục đề tại này bằng cách đưa ra ánh sáng vẻ đẹp của chức làm cha và chức làm mẹ, vẻ đẹp và trách nhiệm của việc làm cha mẹ.

** ĐTC đã chào nhiều nhóm khác nhau trong đó các vị giám đốc các đền thánh Pháp và các bạn trẻ hai giáo phận Lille và Paris; các sinh viên Anh quốc và Hoa Kỳ; các đoàn hành hương Tây Ban Nha, Chile, Argentina, các sinh viên đại học Thánh Giuse Coimbra Bồ Đào Nha và tín hữu tổng giáo phận Brasilia thủ đô Brasil; cũng như tín hữu Ba Lan.

Trong số các nhóm Italia có nhóm các Tu sĩ Hèn Mọn Phanxicô đang tham dự khóa đào tạo các Bề Trên Cả; các linh mục tham dự đại hội của các Người thợ thinh lặng của Thánh Giá; các nghệ sĩ của đoàn xiệc Merano. Ngài cầu chúc chuyến hành hương Roma giúp mọi người canh tân chứng tá kitô tươi vui trong gia đình và trong xã hội. Vài nghệ sĩ đã biểu diễn một số màn hấp dẫn giúp vui khiến mọi ngưởi nhất là các trẻ em rất thích thú.

Chào các bạn trẻ, người đau yếu và các đôi tân hôn ĐTC nhắc cho mọi người biết hôm qua Giáo Hội kính nhớ thánh Toma thành Aquino, tiến sĩ Giáo Hội. Ngài cầu mong gương tận tụy học hỏi của thánh nhân giúp ngưởi trẻ đầu tư trí thông minh và ý chi cho việc phục vụ Tin Mừng. ĐTC cầu chúc đức tin của thánh Toma giúp các bệnh nhân biết hướng về Chúa trong khổ đau thử thách. Và ngài xin sự hiền dịu của thánh nhân chỉ cho các đôi tân hôn kiểu tương giao giữa các vợ chồng trong gia đình.

Buổi tiếp kiến đã kết thúc với Kinh Lạy Cha và phép lành toà thánh ĐTC ban cho mọi người.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Đức Thánh Cha kêu gọi toàn thể Giáo Hội vượt thắng sự dửng dưng

Đức Thánh Cha kêu gọi toàn thể Giáo Hội vượt thắng sự dửng dưng

VATICAN. ĐTC Phanxicô kêu gọi mọi thành phần Giáo Hội vượt thắng hiện tượng ”hoàn cầu hóa sự dửng dưng” đối với những người nghèo khổ.

Đây là ý tưởng được ĐTC nhấn mạnh và khai triển nhiều nhất trong Sứ điệp Mùa Chay bắt đầu từ ngày 18-2 tới đây. Sứ điệp được Đức Ông Giampietro Dal Toso, Tổng thư ký Hội đồng Tòa Thánh Cor Unum (Đồng Tâm), cùng vị phụ tá và ông Michel Roy, Tổng thư ký Caritas quốc tế, giới thiệu với giới báo chí trong cuộc họp báo sáng ngày 27-1-2015, tại Phòng Báo chí Tòa Thánh.

Sứ điệp của ĐTC có chủ đề là một câu trích từ thư thánh Giacôbê ”Anh chị em hãy củng cố tâm hồn” (Gc 5,8). Sau khi nhắc lại sự kiện Thiên Chúa ”không dửng dưng đối với chúng ta, ĐTC nhấn mạnh rằng:

”Chúa quan tâm đến mỗi người chúng ta, Chúa biết đích danh chúng ta, chăm sóc và tìm kiếm chúng ta khi chúng ta bỏ Chúa. Chúa chú ý đến mỗi người chúng ta.. Nhưng xảy ra là khi chúng ta an mạnh và cảm thấy thoải mái, thì thường chúng ta quên những người khác, không quan tâm đến những vấn đề của người khác, những đau khổ và bất công họ đang chịu.”

ĐTC nhận xét rằng sự dửng dưng vừa nói có chiều kích hoàn vũ và người ta có thể nói ngày nay đang có một thứ ”hoàn cầu hóa sự dửng dưng”. Để giúp các tín hữu khắc phục tệ nạn này, ĐTC mời gọi toàn thể Giáo Hội ý thức rằng ”Nếu một chi thể đau, thì tất cả các chi thể khác cũng đau” (1 Cr 12,26)

ĐTC cũng kêu gọi vượt thắng sự dửng dưng trong đời sống của các giáo xứ và cộng đoàn. Để được vậy, các tín hữu cần ý thức mình là chi thể của một thân mình, một chi thể đau thì toàn thể thân mình cũng chịu đau. Ngài khẳng định rằng: ”mỗi cộng đoàn Kitô được kêu gọi hãy vượt qua ngưỡng cửa nối kết họ với xã hội xung quanh, với những người nghèo và những người xa xăm. Giáo Hội tự bản chất là thừa sai, không co cụm vào mình, nhưng được sai tới tất cả mọi người. Sứ mạng của Giáo Hội là kiên nhẫn làm chứng về Đấng muốn mang tất cả thực tại và mỗi người về cùng Chúa Cha… Anh chị em thân mến, tôi nồng nhiệt mong ước sao cho các nơi mà Giáo Hội hiện diện, – đặc biệt là các giáo xứ và cộng đoàn của chúng ta, – trở thành những hải đảo từ bi giữa lòng biển cả dửng dưng!”

ĐTC mời gọi các tín hữu ”đừng coi nhẹ sức mạnh kinh nguyện của bao nhiêu người hiệp nhau!” Trong ý hướng đó ngài cầu mong toàn thể Giáo Hội tham gia sáng kiến ”24 giờ cho Chúa”, sẽ được cử hành trong toàn thể Giáo Hội, kể cả ở cấp độ giáo phận, trong những ngày 13 và 14-3 tới đây”

Ngài cũng khuyến khích các tín hữu thực hiện những việc bác ái, đối với những người ở gần cũng như những người ở xa, nhờ bao nhiêu tổ chức bác ái của Giáo Hội. ”Mùa Chay là mùa thuận tiện để chứng tỏ sự quan tâm tới tha nhân qua một cử chỉ, dù là nhỏ bé nhưng cụ thể, nói lên sự tham dự của chúng ta vào nhân loại chung.”
Và ĐTC kết luận rằng:

”Để khắc phục sự dửng dưng và sự tự phụ toàn năng của chúng ta, tôi muốn xin tất cả mọi người hãy sống Mùa Chay này như một hành trình huấn luyện tâm hồn, như ĐGH Biển Đức 16 đã nói (Thông điệp Deus caritas est, 31). Có một con tim từ bi không có nghĩa là có một tâm hồn yếu đuối. Ai muốn từ bi thì cần một con tim mạnh mẽ, kiên vững, khép kín đối với kẻ cám dỗ, nhưng cởi mở đối với Thiên Chúa”. (SD 27-1-2015)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican  Radio