Đức Thánh Cha ra lệnh tối hậu cho các Tu huynh bác ái

Đức Thánh Cha ra lệnh tối hậu cho các Tu huynh bác ái

BRUXELLES. ĐTC ra lệnh tối hậu cho các tỉnh dòng tu huynh bác ái ở Bỉ phải chấm dứt việc trợ tử cho các bệnh nhân tâm trí trong các nhà thương của dòng.

Dòng tu huynh bác ái được LM Peter Joseph Triest thành lập năm 1807 tại thành phố Gent bên Bỉ và án phong chân phước cho cha được khởi sự năm 2001. Đoàn sủng của dòng là phục vụ những người già và các bệnh nhân tâm trí. Ngày nay dòng này được coi là cơ quan lớn nhất cung cấp các dịch vụ sức khỏe tâm thần tại miền Flammand bên Bỉ, phục vụ 5 ngàn bệnh nhân.

Năm ngoái có khoảng 12 bệnh nhân tâm trí trong các cơ sở của tu huynh bác ái xin được kết liễu mạng sống, và 2 người đã được chuyển đi nơi khác để được chích thuốc cho chết. Hồi tháng 3 năm nay, Ban lãnh đạo các trung tâm săn sóc bệnh nhân tâm trí thuộc dòng các tu huynh bác ái ở Bỉ loan báo chính sách sẽ làm cho các bệnh nhân tâm trí được chết êm dịu, hòa hợp với luật của nhà nước Bỉ ban hành năm 2003. Ban lãnh đạo các trung tâm này quyết định theo chính sách mới sau khi một nhà dưỡng lão Công Giáo ở Diest bên Bỉ bị phạt hơn 6 ngàn Euro vì từ chối không làm cho một phụ nữ 74 tuổi bị ung thư phổi được chết êm dịu.

Tu huynh Rene Stockman, Bề trên tổng quyền dòng tu huynh bác ái ở Roma, đã phản đối việc làm của các tu huynh ở Bỉ và nhiều lần yêu cầu từ bỏ chính sách mới cho phép các bác sĩ kết liễu mạng sống bệnh nhân tâm trí trong các trung tâm trị liệu của dòng, dù các bệnh nhân ấy không ở giai đoạn cuối đời.

Nhóm các tu huynh này cũng bất chấp thông cáo hồi tháng 6 năm nay của các GM Bỉ không chấp nhận việc làm cho chết êm dịu trong các tổ chức y tế Công Giáo. Họ cũng làm ngơ đối với tuyên ngôn của Bộ giáo lý đức tin cấm làm cho chết êm dịu được ĐHY Tổng trương Gerhard Mueller gửi đến các tu huynh bác ái ở Bỉ.

Bộ giáo lý đức tin và Bộ các dòng tu cũng thực hiện một cuộc điều tra về việc làm và chính sách của các tu huynh bác ái ở Bỉ theo lời thỉnh cầu của cha Bề trên tổng quyền. Hai bộ đã đi tới lệnh tối hậu và lệnh này đã được ĐTC phê chuẩn.

Cha Stockman cho biết; các tu huynh thuộc Ban điều hành các trung tâm bệnh nhân tâm thần của dòng cũng phải ký vào một thư chung gửi bề trên tổng quyền của dòng, tuyên bố hoàn toàn ủng hộ huấn quyền của Giáo Hội Công Giáo, luôn khẳng định sự sống con người phải được tôn trọng và bảo vệ tuyệt đối, từ lúc mới thụ thai cho đến lúc chết tự nhiên. Tu huynh nào từ chối ký vào thư chung, sẽ bị chế tài theo giáo luật. Nhóm điều hành các trung tâm bệnh tâm trí của dòng sẽ bị xử lý và có thể bị trục xuất khỏi Giáo Hội nếu không thay đổi chính sách. Ngoài ra, nhóm này phải xác nhận không còn coi việc làm cho chết êm dịu như một giải pháp cho những đau khổ của con người trong bất kỳ hoàn cảnh nào. (CNS 8-8-2017)

G. Trần Đức Anh OP

Nữ tác giả Công giáo Nhật Bản một đời vì tha nhân

Nữ tác giả Công giáo Nhật Bản một đời vì tha nhân

Michiko Inukai, một tác giả Công giáo Nhật Bản nổi tiếng trên cả nước ủng hộ người tị nạn và nước ngoài, qua đời hôm 24-7 vì tuổi già, thọ 96 tuổi.

Michiko là cháu gái của Thủ tướng Tsuyoshi Inukai, người bị các sĩ quan hải quân trẻ ám sát năm 1932 và vụ ám sát này đánh dấu sự kết thúc quyền kiểm soát dân sự hiệu quả của chính quyền Nhật Bản cho đến sau Chiến tranh thế giới thứ hai.

Michiko và gia đình bà được rửa tội theo Công giáo trong thời chiến sau khi các thừa sai dòng Tên làm bạn với họ và nhiều người lánh xa họ vì sợ bị quân đội trả thù.

Sau chiến tranh, bà học triết tại Mỹ, nghiên cứu Kinh thánh và làm phóng viên ở Paris.

Khi trở về Nhật Bản năm 1958, bà xuất bản quyển sách đầu tiên nói về những trải nghiệm ở nước ngoài. Sau đó bà xuất bản nhiều sách nói về Kinh Thánh và Kitô giáo và nhiều tác phẩm nói về lợi ích chung, trong đó có một tác phẩm được chuyển thể thành phim nhiều tập trên truyền hình.

Sau khi gặp một người tị nạn Việt Nam ở Paris năm 1979, Michiko viếng thăm các trại tị nạn ở Thái Lan, và chuyến viếng thăm này thôi thúc bà bắt đầu làm việc cho người tị nạn ở châu Á và châu Phi.

Sau đó bà thành lập Quỹ Michiko Inukai và hợp tác với tổ chức Trợ giúp Người Tị nạn của dòng Tên giúp giáo dục cho trẻ em tị nạn trên toàn thế giới. Bà còn ủng hộ các dự án trồng rừng ở Pakistan.

Michiko qua đời tại thành phố Hadano, gần Tokyo, Nhật Bản.

UCANEWS

ĐHY Ling: Sự khó nghèo, đau khổ và bách hại là sức mạnh của Giáo hội

ĐHY Ling: Sự khó nghèo, đau khổ và bách hại là sức mạnh của Giáo hội

Ngày 21/05 vừa qua, vào cuối buổi đọc Kinh Truyền tin, Đức Thánh cha Phanxicô đã công bố tên của 5 vị sẽ được tấn phong Hồng y  trong công nghị Hồng y diễn ra ngày 28/06. Nhiều bất ngờ và bàn tán xôn xao trên báo chí khắp nơi vì những tên tuổi mà có lẽ ít ai nghĩ đến. Trong số 5 vị được xướng danh, có một vị người Lào; đó là đức hồng y Louis-Marie Ling Mangkhanekhoun, giám quản tông tòa Paksé.

Ngày 16 và 17/06, khoảng 350 tín hữu Công giáo gốc Hmong, Kmhmu, Lao e Karen đã họp nhau ở Belleville, bang Illinois, Hoa kỳ, để nhắc nhớ và kỷ niệm cuộc đời của 17 vị tử đạo người Lào. Đức hồng y tân cử Louis-Marie Ling lúc đó cũng tham dự và ngài đã chia sẻ về việc ngài được chọn làm Hồng y và về đời sống của Giáo hội Công giáo tại Lào.

Đức hồng y Ling cho biết chính ngài cũng bất ngờ khi biết mình được bổ nhiệm làm hồng y và niềm vui của toàn thế giới với việc bổ nhiệm này. Về lý do ngài được bổ nhiệm, Đức hồng y Ling chia sẻ là trong cuộc viếng thăm ad limina của các giám mục Lào và gặp Đức giáo hoàng Phanxicô hôm 26/01 năm nay, Đức Phanxicô nói với các ngài: “sức mạnh của Giáo hội ở nơi các Giáo hội địa phương và cách đặc biệt, trong các Giáo hội nhỏ bé, yếu ớt và bị bách hại. Đây là xương sống của Giáo hội hoàn vũ.” Trong Thánh lễ đồng tế với các Giám mục Lào, Đức Phanxicô lại nhắc lại điều này. Đức hồng y Ling hiểu rằng sức mạnh của Giáo hội đến từ sự kiên nhẫn, kiên trung và ý muốn đón nhận thực tế của đức tin. Điều này làm cho ngài suy nghĩ rằng sự khó nghèo, đau khổ và bách hại của Giáo hội Lào là 3 cột trụ củng cố sức mạnh cho Giáo hội.

Giáo hội Công giáo Lào có khoảng 45 ngàn tín hữu, chiếm chưa đến 1% trong tổng số 6,4 triệu dân, có 20 linh mục và 98 tu sĩ trong 218 giáo xứ. Đức hồng y Ling định nghĩa Giáo hội Lào là một giáo hội thơ bé, sống lời loan báo đầu tiên, hướng đến trước hết các thổ và những người theo thuyết duy linh. Giáo hội này đã chịu bách hại và làm chứng cho đức tin của mình giữa muôn ngàn nghịch cảnh.

Sau khi đảng cộng sản Pathet Lào lên nắm quyền, các thừa sai ngoại quốc bị trục xuất và các tín hữu bị bách hại. Các linh mục và tu sĩ bị giam tù hay gửi đến các trại cải tạo. Chính Đức hồng y Ling cũng bị giam tù 3 năm vì lý do “rao truyền Chúa Kitô”. Ngài đã chấp nhận điều này thay vì sợ hãi như lúc ban đầu.

Ngày nay Lào đang mở ra với thế giới bên ngoài. Tuy nhiên dù những cải cách kinh tế, Lào vẫn còn nghèo và dựa vào sự trợ giúp của nước ngoài. Chính quyền kiểm soát nghiêm nhặt về tôn giáo và truyền thông. Những khó khăn trong quan hệ giữa Giáo hội và nhà nước, như việc cấm giảng dạy về Giáo hội, có thể thấy rõ nơi các chính quyền địa phương và dân chúng. Mỗi địa phương có chính sách tự do tôn giáo khác nhau. Các linh mục có thể đi làm lễ các nơi, tại các làng có giáo xứ hay nhà thờ. Tuy nhiên, sẽ có vấn đề nếu chúng ta xây một nhà thờ. Có thể là dễ dàng ở nơi này nhưng lại khó khăn ở nơi khác.

Việc bổ nhiệm vị hồng y đầu tiên của Lào, đối với cộng đoàn địa phương, là niềm hy vọng cho sự phát triển của quan hệ giữa Vatican và chính quyền Viên chăn. Đức hồng y Ling cho biết là trong các nước Đông nam á,c hỉ có Lào chưa có quan hệ ngoại giáo với Tòa Thánh. Ngài đang cố gắng để thay đổi lối suy nghĩ của chính quyền, để thuyết phục họ rằng Giáo hội không phải là kẻ thù của chính quyền, nhưng là bạn. Nếu cả 2 phía cùng làm việc chung với nhau thì tương lai sẽ tốt hơn. (Asia News 28/06/2017)

Hồng Thủy

Đức Thánh Cha chủ tọa công nghị phong 5 Hồng Y mới

Đức Thánh Cha chủ tọa công nghị phong 5 Hồng Y mới

VATICAN. Lúc 4 giờ chiều ngày 28-6-2017, ĐTC đã chủ tọa công nghị tấn phong 5 Hồng Y mới.

 Đứng đầu danh sách là ĐHY Jean Zerbo, 74 tuổi, TGM giáo phận Bamako, thủ đô Mali bên Phi châu; những ngày trước đây có tin ngài không đến Roma được vì lý do sức khỏe nhưng sau cùng ngài cũng đến được. Tiếp đến là ĐHY Juan José Omella, 71 tuổi (1946) TGM giáo phận Barcelona, Tây Ban Nha. Thứ ba là ĐHY Anders Arborius, 69 tuổi (1949), GM giáo phận Stockholm Thụy Điển. Thứ tư là ĐHY Louis Marie Ling Mangkhanekhoun, 73 tuổi, Đại diện Tông tòa Paksé kiêm Giám quản Tông Tòa giáo phận Viên Chăn bên Lào. Sau cùng là ĐHY Gregorio Rosa Chavez, 75 tuổi, GM phụ tá tổng giáo phận San Salvador từ 35 năm nay và cũng là cha sở Nhà Thờ Thánh Phanxicô tại giáo phận địa phương.

 Lễ tấn phong 5 Hồng Y mới được cử hành tại Đền thờ Thánh Phêrô dưới hình thức một buổi phụng vụ Lời Chúa, trước sự hiện diện của 80 Hồng Y, hơn 100 GM và hàng trăm linh mục, cùng với khoảng 5 ngàn tín hữu.

 Trong bài giảng, ĐTC đã quảng diễn bài Tin Mừng theo thánh Marco (10-32-45) thuật lại sự tích hai môn đệ Giacôbê và Gioan muốn được ngồi bên hữu bên tả Chúa, và ngài đã nhắn nhủ các tiến chức Hồng Y noi gương Chúa Giêsu trong hành trình lên Jerusalem:

 ”Các tân Hồng Y rất thân mến. Chúa Giêsu ”đi trước anh em” và yêu cầu anh em quyết liệt theo Chúa trên con đường của Ngài. Ngài gọi anh em hãy nhìn thực tại, đừng để mình bị chia trí vì những lợi lộc khác, những viễn tượng khác. Chúa không gọi anh em trở thành ”những ông hoàng” trong Giáo Hội, ngồi ”bên hữu hay bên tả Ngài”. Chúa gọi anh em phục vụ như Ngài và với Ngài. Phục vụ Chúa Cha và các anh chị em. Chúa gọi anh em đương đầu với cùng thái độ của Ngài chống lại tội lỗi thế gian và những hậu quả của nó nơi nhân loại ngày nay. Bước theo Chúa, cả anh em cũng đi trước dân thánh của Thiên Chúa, luôn ngắm nhìn Thập Giá và sự Phục Sinh của Chúa”.

 Tiếp đến, các tiến chức Hồng Y tuyên thệ vâng phục ĐTC và các Đấng Kế Vị, trước khi lần lượt tiến lên để ngài đội trao mũ đỏ và sắc phong chỉ định thánh đường. Nghi thức tấn phong các Hồng y mới kết thúc với Kinh Lạy Cha và lời nguyện của ĐTC.

Sau lễ, các Hồng Y mới đã đến thăm Đức nguyên Giáo Hoàng Biển Đức 16 trước khi về Đại thính đường Phaolô 6 ở nội thành Vatican, để tiếp các tín hữu, thân nhân và những người đến chúc mừng, kể từ lúc 6 giờ đến 8 giờ tối. (SD 28-6-2017)

 G. Trần Đức Anh OP

Đức Thánh Cha tiếp Tổng tu nghị Dòng Chúa Phục Sinh

Đức Thánh Cha tiếp Tổng tu nghị Dòng Chúa Phục Sinh

VATICAN. ĐTC mời gọi các tu sĩ dòng Chúa Phục Sinh ra đi mang Tin Mừng cho những người sầu khổ, đồng thời quan tâm xây dựng đời sống huynh đệ cộng đoàn.

Ngài đưa ra lời nhắn nhủ trên đây trong buổi tiếp kiến sáng 24-6-2017 dành cho 30 thành viên tổng tu nghị dòng Chúa Phục Sinh. Dòng này do cha Bogdan Janski, tông đồ người Ba Lan di cư tại Pháp, thành lập năm 1836, để làm chứng sự phục sinh của Chúa Kitô là căn bản đời sống Kitô, và kêu gọi sự sống lại bản thân và nâng đỡ cộng đoàn trong việc phục vụ Nước Chúa. Dòng hiện có 335 tu sĩ thuộc 54 cộng đoàn, trong đó có gần 300 linh mục.

Nhắc đến chủ đề Tổng tu nghị là ”Chứng nhân sự hiện diện của Chúa Phục sinh: từ cộng đoàn tới thế giới”, ĐTC mời gọi các tu sĩ của dòng ”hãy đi ra ngoài”, rời bỏ những ”tổ ấm” của mình, đi tới những vùng ngoại biên của cuộc sống, để mang ánh sáng Tin Mừng cho tha nhân. Ngài cầu mong rằng sự nhớ lại thời kỳ ơn gọi phong phú không ngăn cản anh em nhìn thấy sự sống mà Chúa đang làm nẩy mầm cạnh anh em hiện nay. Anh em đừng là những người hoài tưởng, nhưng là những người được niềm tin nơi Chúa tể của lịch sử và của sự sống thúc đẩy, loan báo rạng đông, kể cả giữa đêm khuya.

Về đời sống cộng đoàn, ĐTC nhắc nhở các tu sĩ dòng Chúa Phục sinh hãy đón nhận các anh em mà Chúa ban cho, biết nhìn họ như một món quà của Chúa. Ngài nói: ”Tôi nhắn nhủ anh em hãy trở thành những người xây dựng các cộng đoàn theo Tin Mừng, chứ không phải chỉ là ”những người tiêu thụ” các cộng đoàn ấy, hãy đảm nhận đời sống huynh đệ trong cộng đoàn như một hình thức đầu tiên để loan báo Tin Mừng”. (SD 24-6-2017)

G. Trần Đức Anh OP

 

Ơn gọi của Tara Clemens, một luật sư trẻ trở thành nữ tu dòng kín Đaminh

Ơn gọi của Tara Clemens, một luật sư trẻ trở thành nữ tu dòng kín Đaminh

Trong một thế giới mà ơn gọi tu trì ngày càng giảm sút, đời sống tu trì, đối với nhiều người, có vẻ buồn chán, khác người, cực khổ, đi ngược với mong ước sống tự do, hưởng thụ của thế giới hiện đại, thì vẫn luôn có những ơn gọi thật đẹp, là dấu chứng của tình yêu Thiên Chúa dành cho con người, là bằng chứng của sự tin yêu, đáp lại tiếng Chúa mời gọi, và cũng là chứng tá của những tấm lòng quảng đại, hy sinh, dưới mọi hình thức, để vun trồng ơn gọi tu trì. Ơn gọi của Tara Clemens, hiện nay là sơ Maria Đaminh Nhập thể, cũng là một ơn gọi “khác người” nhưng thật đẹp; từ một luật sư trẻ, Clemens đã nghe theo tiếng Chúa gọi, tận hiến cho Ngài trong đời tu và đặc biệt hơn nữa, cô đã chọn đời sống đan tu, chuyên lo việc chiêm niệm cầu nguyện.

Tara Clemens là một luật sư ở thành phố Anchorage, bang Alaska, Hoa kỳ. Clemens nguyên là một tín hữu Tin lành và chỉ vài tháng trước khi tốt nghiệp trường luật, cô đã gia nhập Giáo hội Công giáo. Việc trở thành tín hữu Công giáo xảy ra khá là bất ngờ với Clemens. Chỉ vài tháng trước khi tốt nghiệp đại học luật Lewis và Clark ở thành phố Portland, bang Oregon, Clemens đi cùng một người bạn tham dự Thánh lễ thứ sáu mùa Chay và ngày hôm đó là môt bước ngoặt trong cuộc đời của cô; Clemens đã quyết định trở lại Công giáo. 3 tháng sau đó, dù phải làm việc toàn thời gian, mỗi chiều tối, Clemens theo học về Công giáo. Một ít tháng sau, vào dịp lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống năm 2007, Clemens hoàn toàn tin vào chân lý của Công giáo. Clemens đã được gia nhập Giáo hội Công giáo vào dịp lễ Vọng Phục sinh năm 2008. Và vài tháng sau đó, dù chưa bao giờ có ý nghĩ sẽ trở thành nữ tu, cô luật sư trẻ Clemens đã đến thăm đan viện Thánh Thể. Clemens đã sống hai năm rưỡi tại đan viện, trước tiên là thỉnh sinh và sau đó vào nhà tập. Ngày 28 tháng 5 vừa qua (năm 2017), Clemens được tuyên khấn lần đầu tại đan viện Thánh Thể của các nữ tu Đaminh ở Menlo Park, bang California, Hoa kỳ, với tên dòng là Maria Đaminh Nhập thể.

Ngày sơ Maria Đaminh được đội chiếc lúp đen trên đầu thay cho chiếc lúp trắng khi vào nhà Tập cách đây  hơn một năm, vị linh mục chủ tế đã nói: “Hãy nhận lấy tấm lúp thánh này, qua đó con có thể được nhận ra như ngôi nhà cầu nguyện dành cho Chúa và đền thờ cầu nguyện cho mọi người.” Sơ Maria Đaminh ý thức được rằng trung tâm của đời sống chiêm niệm của các nữ đan sĩ Đaminh là tình yêu Chúa. Dù là một đan sĩ sống giam mình trong đan viên, không bao giờ đi ra ngoài, sơ vẫn có thể ôm trọn thế giới với tình yêu và cầu nguyện cho thế giới.

Được hỏi về việc trở thành một đan sĩ, sơ Maria Đaminh xác định: “Khi Thiên Chúa gọi chúng ta, Ngài rất kiên định”. Điều này được chứng thực trong hành trình ơn gọi của sơ Maria Đaminh. Khi luật sư Clemens có ý định đi tu, nhưng vì số tiền hơn 100 ngàn đô la cô mượn để đi học quá lớn và cô chưa thể thanh toán để vào nhà dòng, cô hầu như thất vọng trước khó khăn thách đố này. Chính khi đó, hội Laboure đã giúp cho Clemens giải quyết vấn đề nợ sinh viên để có thể đi tu. Laboure là một hội có trụ sở ở Minnesota, giúp đỡ cho những người có ơn gọi tu trì trả nợ, điều cản trở họ gia nhập đời tu. Hội Laboure mở một lớp khoảng từ 10 đến 25 người, những người tin là mình có ơn gọi, và tổ chức chiến dịch quyên góp giúp họ. Clemens tham dự chương trình này 2 năm. Vào cuối khóa, tưởng rằng cô phải đợi thêm một năm nữa vì không nhận được đủ tiền quyên góp để trả nợ học. Nhưng rồi đã có hai vị ân nhân đóng góp số tiền lớn và Clemens đã được giúp trả nợ tiền học. Như John Flanagan, giám đốc điều hành hội Laboure đã nói: “Tara Clemens đã không thực hiện hành trình ơn gọi một mình, nhưng nhiều người khắp nơi biết là họ đã làm điều gì đó để giúp Tara Clemens trở thành nữ tu Maria Đaminh.” Và ông nhận xét rằng: “Cô ta đã gập phải những khó khăn trên hành trình theo đuổi ơn gôi, nhưng cô đã đón nhận chúng với niềm tin tưởng lớn lao vào Thiên Chúa.” (CNS 13/06/2017)

Hồng Thủy

Giáo hội Philippines chuẩn bị kỷ niệm 500 năm đón nhận Tin mừng

Giáo hội Philippines chuẩn bị kỷ niệm 500 năm đón nhận Tin mừng

Manila – Giáo hội Philippines đang chuẩn bị kỷ niệm 500 năm Tin mừng được rao giảng tại đây (1521-2021). Đức cha Socrates C. Mesiona, đại diện tông tòa ở Puerto Princesa, trên đảo Palawan giải thích với hãng tin Fides: “Để chuẩn bị thích hợp cho biến cố quan trọng này, Giáo hội Philippines đã tổ chức một thời gian kéo dài 9 năm (từ năm 2013-2021) với cao điểm là năm 2021 – năm kỷ niệm.

Đức cha Socrates nhắc lại rằng: “Cách đây 500 năm, các nhà truyền giáo người Tây ban nha đã mang đức tin Kitô đến Philippines và ngày nay quốc gia này có số dân Công giáo đông nhất Á châu (và đứng thứ 4 trên toàn thế giới) với 86 giáo phận.” Đức cha cũng khẳng định rằng biến cố này sẽ là cơ hội để phát động lại đặc tính truyền giáo của Giáo hội Philippines. Ngài nói: “Chúng tôi đã nhận hồng ân đức tin Kitô qua các thừa sai đã đến trên quê hương chúng tôi; giờ đây các tín hữu Philippines được mời gọi trao tặng đức tin cho người khác.

Đức cha Socrates cũng là giám đốc quốc gia các Hội Giáo hoàng truyền giáo ở Philippines và là tổng thư ký điều hành của Ủy ban truyền giáo của Hội đồng Giám mục Philippines. Đức cha lưu ý rằng “hàng ngàn linh mục, tu sĩ và giáo dân Công giáo Philippines hiện đang truyền giáo trên khắp thế giới. Trong các hội dòng liên tục gửi các thừa sai đi truyền giáo ở hải ngoại có Hội truyền giáo Philippines, các Giáo dân truyền giáo Philippines và hàng trăm dòng tu nam nữ khác được thành lập tại địa phương, dấn thân tại các nơi mà việc rao giảng Tin mừng là một thách đố lớn do các bối cảnh xã hội chính trị.”

Antony Dameg S. Ward, điều hợp viên về đào tạo truyền giáo của các Hội Giáo hoàng truyền giáo Philippines chia sẻ rằng Giáo hội Philippines đã gia tăng các chương trình linh hoạt truyền giáo và đào tạo truyền giáo cho các linh mục, tu sĩ, giáo lý viên, giáo viên, giáo dân, với mục đích cổ võ và gây ý thức cho Dân Chúa, từ các trẻ em và người trẻ”. Việc giúp các tín hữu ý thức về ơn gọi truyền giáo rất là quan trọng: trong giai đoạn 9 năm này, Giáo hội Philippines đang chuẩn bị cho việc kỷ niệm 500 năm Kitô giáo được truyền giảng đến đất nước chúng tôi: năm 2021, đối với quốc gia này, thực sự sẽ là Năm Truyền giáo đến với muôn dân. (Agenzia Fides 16/06/2017)

Hồng Thủy

Tuổi thơ bị đánh cắp

Tuổi thơ bị đánh cắp

Ngày 01.06 vừa qua, thế giới đã cử hành ngày quốc tế trẻ em. Nhân dịp này, tổ chức thiện nguyện Save The Children, cứu trẻ em, đã công bố bản chỉ tiêu hoàn vũ đầu tiên về tuổi thơ bị chối bỏ trên khắp trái đất, mang tựa đề Tuổi thơ bị đánh cắp.

Tài liệu phác họa thảm cảnh của nhiều trẻ em ở 172 quốc gia toàn thế giới, theo đó, 263 triệu trẻ em, tức 1/6 tổng số thiếu nhi hoàn vũ, không được cắp sách đi học; 168 triệu em, tức là nhiều hơn tổng số trẻ em đang sống ở Châu Âu, phải lao động trong nhiều lãnh vực nghề nghiệp khác nhau để kiếm sống, trong đó có nhiều môi trường đe dọa trầm trọng sức khỏe các em cả về mặt thể xác cũng như về mặt tinh thần. 6 triệu em phải chịu chết trước khi đầy 5 tuổi mỗi năm vì những chứng bệnh có thể phòng ngừa dễ dàng như sưng phổi, tiêu chảy và sốt rét, trong khi 156 triệu em dưới 5 tuổi bị thiếu dinh dưỡng nặng đến độ đe dọa sức lớn mạnh của các em.

Tài liệu chỉ tiêu của tổ chức Cứu Trẻ em cho biết thêm là khoảng 28 triệu em, tức cứ 1 trên 80 em, phải bỏ nhà cửa trốn chạy đi nơi khác vì chiến tranh loạn lạc hay bị bách hại. Chỉ trong năm 2015, trên toàn thế giới có ít nhất 75 ngàn trẻ thơ hay thiếu niên dưới 20 tuổi bị thảm sát, bình quân là hơn 200 em mỗi ngày. 15 triệu trẻ nữ lập gia đình khi chưa đủ 18 tuổi, thường là với những người chồng lớn hơn nhiều vì bị gia đìình ép buộc. Trong số này, 4 triệu em chưa đầy 15 tuổi, với bao nhiêu hệ lụy thê thảm cho tương lai các em.

Cứ mỗi 2 giây đồng hồ, trên thế giới, có một thiếu nữ dưới 19 tuổi sinh con, tức trong một năm có khoảng 17 triệu sản phụ còn là trẻ con. Nước Niger bên Phi Châu đứng đầu trong danh sách trẻ nữ bị tảo hôn này, với 60% tổng số thiếu nữ từ 15 đến 19 tuổi có gia đình. Hiện tượng này gây ra nhiều hậu quả tai hại cho các em, trước hết là các em phải từ bỏ khả thể được giáo dục hầu xây dựng một tương lai vững chắc và tươi đẹp hơn, kế đến các bà vợ bà mẹ còn trong tuổi con nít này phải đối diện với nguy hiểm bị nhiễm các chứng bệnh tình dục, bị bạo hành trong bốn bức tường gia đình hay bị đe dọa tính mạng khi sinh nở. Thai sản là nguyên do thứ 2 gây ra cái chết cho các thiếu nữ tuổi từ 15 đến 19 trên toàn thế giới.

Ngoài ra, nạn nghèo khổ và thiếu học của các bà mẹ cũng ảnh hưởng rất tiêu cực trên tỷ lệ trẻ em chết yểu. Chẳng hạn tại Indonesia, Philippine và Senegal, các em chào đời trong cảnh khó nghèo có khả thể chết sớm hơn các trẻ giàu có hơn gấp 3 lần. Tại Nigeria, các trẻ em có mẹ thiếu học có khả năng chết sớm hơn gấp 3 lần so với con cái của các phụ nữ có học thức bậc trung học cấp 2.

Về mặt giáo dục, Nam Sudan với 67% là quốc gia đứng đầu thế giới về con số trẻ em không được cắp sách đi học; tiếp đến là Eritrea với 63%; Gibuti 60% và Niger 55%. Trái lại, Pháp là quốc gia có ít trẻ em không đi học nhất thế giới, chỉ 0,3%, kế đó là Tây Ban Nha và Anh quốc với 0,7%. Con em các gia đình phải tản cư tỵ nạn có nguy cơ phải bỏ học nhiều hơn là các trẻ em khác. Nạn bạo lực người trẻ cũng là một yếu tố đáng chú ý. Theo tài liệu của tổ chức Cứu trẻ em mới công bố, mỗi ngày trên thế giới có trên 200 trẻ em hay thiếu niên chết thảm vì bạo lực băng đảng, đứng đầu là các nước Nam Mỹ và quần đảo Caraibi.

(Tổng hợp: Adn/Ansa/Agi 01.06.2017)

Mai Anh

Đức Thánh Cha tiếp Tổng tu nghị dòng Thừa Sai Đức Mẹ An Ủi

Đức Thánh Cha tiếp Tổng tu nghị dòng Thừa Sai Đức Mẹ An Ủi

VATICAN. ĐTC khuyến khích các tu sĩ nam nữ dòng Thừa sai Đức Mẹ an ủi ngày càng tái khám phá tình yêu thương xót của Thiên Chúa và thể hiện tình yêu ấy cho tha nhân.

Ngài đưa ra lời kêu gọi trên đây trong buổi tiếp kiến sáng 5-6-2017, dành cho 120 thành viên tổng tu nghị liên hệ của hai ngành nam nữ dòng thừa sai Đức Mẹ An Ủi, là dòng do chân phước Giuseppe Allamano sáng lập.

ĐTC cám ơn các tu sĩ của hai dòng vì những điều thiện họ đang thực hiện trên thế giới và nói rằng: ”Tôi muốn khuyến khích anh chị em thực hiện một sự chăm chú phân định về tình trạng của các dân tộc nơi anh chị em thi hành sứ vụ loan báo Tin Mừng. Đừng bao giờ mệt mỏi trong việc mang lại sự an ủi nâng đỡ cho các dân tộc đang bị nghèo đói và khổ đau trầm trọng, như tại nhiều miền ở Phi châu và Mỹ la tinh. Hãy liên tục để cho những tình trạng cụ thể thách thức, và tìm cách làm chứng tá thích hợp về tình bác ái mà Chúa Thánh Linh phú vào trong tâm hồn anh chị em”.

ĐTC nhận xét rằng ”để thi hành sứ mạng không dễ dàng ấy cần phải sống hiệp thông với Thiên Chúa, ngày càng ý thức về tình thương xót của Chúa đối với chúng ta.. Theo mức độ chúng ta ý thức và xác tín về tình thương của Chúa, chúng ta càng gắn bó với Ngài. Chúng ta cần luôn tái khám phá tình yêu và lòng thương xót của Chúa để phát triển cuộc sống thân mật với Chúa.. noi gương các nhân đức của Chúa Kitô và thái độ đầy tình nhân đạo của Chúa, để làm chứng về những điều ấy cho tất cả mọi người mà anh chị em đến làm việc mục vụ..”

ĐTC đặc biệt khuyến khích các tu sĩ của dòng chú ý đến việc đối thoại với Hồi giáo, dấn thân thăng tiến phẩm giá phụ nữ và các giá trị gia đình, nhạy cảm đối với các vấn đề công lý và hòa bình.

Dòng nam thừa sai Đức Mẹ An Ủi (IMC) được chân phước Allemano thành lập năm 1901 hiện có 980 tu sĩ, trong số này có 763 LM, hoạt động tại 220 nhà trên thế giới và ngành nữ của dòng này có hơn 600 nữ tu thuộc 96 nhà. Cả hai dòng hoạt động tại nhiều nước Phi châu và Mỹ la tinh, Âu Châu. Tại Á châu dòng hoạt động tại hai nước Nam Hàn và Mông Cổ (SD 5-6-2017)

G. Trần Đức Anh OP 

 

5 vị thánh qua đời khi còn đang tuổi thiếu nhi

5 vị thánh qua đời khi còn đang tuổi thiếu nhi

Sáng Chúa nhật ngày 13 tháng 5, nhân dịp kỷ niệm 100 năm Đức Mẹ Maria hiện ra với 3 trẻ mục đồng tại Fatima, Đức Thánh Cha Phanxicô đã tôn phong hai chân phước Phanxicô và Giaxinta lên bậc hiển thánh. Hai vị thánh trẻ này là những hiển thánh trẻ nhất trong lịch sử Giáo hội cho đến nay, nhưng không phải là những thiếu nhi đầu tiên được Giáo hội phong thánh. Trước đây, đã có các thiếu nhi được tuyên phong, như thánh José Luis Sánchez del Río, thánh Đaminh Savio và chân phước Imelda Lambertini và nhiều hồ sơ của các vị Tôi tớ Chúa hay Chân phước còn rất trẻ đang được cứu xét. Tuy không phải là các giám mục hay giáo hoàng nổi tiếng, không là các vị tài đức khôn ngoan nổi bật, nhưng các vị thánh trẻ cũng là những vị thánh lớn trong Giáo hội vì gương lành và ảnh hưởng của các ngài để lại cho Giáo hội. Các thánh trẻ dạy chúng ta nhiều điều dù là tuổi đời của các ngài thật non trẻ. Các thánh trẻ dạy chúng ta biết rằng chìa khóa nên thánh là trở nên bé nhỏ và có tinh thần phó thác vào Cha trên trời như các em bé. Các ngài cho chúng ta thấy niềm tin kỳ diệu của các ngài. Sau đây chúng tôi xin gửi đến quý vị tiểu sử vắn tắt của 5 vị thánh, ngay từ khi tuổi đời còn rất thơ dại, đã tận hiến chính mình cho Chúa và được Chúa cho hưởng vinh quang thiên quốc khi còn rất trẻ.

– Thánh Đaminh Saviô sinh năm 1842, tại làng Riva, miền bắc nước Ý, trong một gia đình Công giáo đạo hạnh, là học trò của thánh Gioan Bosco. Ngay từ khi còn nhỏ, Savio đã yêu mến Chúa và Giáo hội và luôn thực hành đức tin Công giáo. Khi được 3 tuổi, Saviô đã cầu nguyện hàng ngày với lòng sùng kính Chúa và còn nhắc nhở cha mẹ cậu khi họ quên cầu nguyện. Khi lên 5 tuổi, Savio đã học giúp lễ và được phép rước lễ lần đầu khi lên 7 tuổi; vào thời đó, đây là một điều đặc biệt. Đối với Savio, ngày được rước lễ lần đầu là ngày hanh phúc và tuyệt vời nhất trong cuộc đời. Cậu đã viết 4 lời hứa trong một cuốn sổ nhỏ: 1/ Tôi sẽ thường xuyên xưng tội và rước lễ khi cha giải tội cho phép; 2/ Tôi ao ước thánh hóa ngày Chúa nhật và các ngày Lễ trọng khác cách đặc biệt; 3/ Các bạn của tôi sẽ là Chúa Giêsu và Mẹ Maria; và 4/ Thà chết còn hơn pham tội.

Saviô ao ước mãnh liệt thực hiện điều Chúa muốn, cậu nói: “Tôi không thể làm những việc lớn lao vĩ đại. Nhưng tôi muốn tất cả những điều tôi làm, ngay cả những điều bé nhỏ nhất, là để Chúa được vinh danh hơn. Khi ở trường học, Saviô sống gương mẫu, hy sinh, chấp nhận những vu cáo vì muốn noi theo gương Chúa Giêsu. Savio ao ước trở thành linh mục và được chính thánh Gioan Bosco hướng dẫn. Nhưng sức khỏe của Saviô rất yếu, và mong ước được sớm về với Chúa. Savio qua đời khi chưa tròn 15 tuổi. Ngày 12/4/1954, Đức Giáo hoàng Pio XII đã tôn phong Saviô lên hàng hiển thánh. Thánh Đaminh Savio được chọn làm bổn mạng của các ca viên thiếu nhi, những người bị cáo gian, vv.

– Thánh José Luis Sánchez del Río sinh năm 1913, tại Mêhicô. Khi cuộc chiến Cristero, một cuộc tranh đấu chống lại chế độ tục hóa, chống lại chế độ chống Công giáo và đức tin, bùng nổ vào năm 1926, cậu bé José đang còn đi học ở trường. Nhiều người Công giáo Mêhicô nổi dậy để bảo vệ quyền tự do tôn giáo. Hai người anh của José gia nhập lực lượng nổi dậy và cậu bé cũng muốn đi theo các anh. Năm 14 tuổi, José  được nhận vào để giúp các việc ở chiến trường và sau đó, trở thành người cầm cờ của tổng tư lệnh. José nói rằng cậu muốn dâng cuộc sống cho Chúa Giêsu Kitô và biết là cậu có thể dễ bị chết trên chiến trường.

Trong một cuộc chiến, José đã bi bắt và bị các binh lính bắt phải chối bỏ đức tin Công giáo nhưng cậu cương quyết từ chối và điều này đã làm cho các binh lính nổi giận. José đã thuyết phục cha mẹ không trả tiền chuộc cậu theo yêu cầu của chính quyền. Sau khi José được một người dì mang Mình Thánh Chúa cho cậu lãnh nhận như “của ăn đàng”, cậu đã bị các binh lính lột da bàn chân từ từ, bắt cậu đi trên muối  và lôi cậu đi trên đường, chân không có giày, cho đến nghĩa trang. Họ định đâm José chết để tránh ồn ào, nhưng vì trên đường đi, cậu không ngừng hô “Vạn tuế Chúa Kitô Vua!”, làm các binh lính bực mình và cuối cùng,  viên sĩ quan đã bắn cậu chết vì không chịu chối đức tin. Khi ấy José được 15 tuổi. Ngày 16/10/2016 Đức Giáo hoàng Phanxicô đã tuyên phong hiển thánh cho José.

– Hai thánh Phanxicô và Giaxinta Marto là hai vị thánh được nói đến nhiều trong năm nay (2017). Phanxicô sinh năm 1908, còn Giaxinta sinh năm 1910. Hai vị thánh này là 2 trong số 3 trẻ mục đồng mà Đức Mẹ Maria đã hiện ra với họ nhiều lần trong năm 1917. Sau khi được nhìn thấy Đức Mẹ hiện ra, hai thiếu nhi này đã quyết định dâng hiến bản thân, hiến dâng mạng sống như lễ hy sinh để đền thay tội lỗi của thế giới.

Ước muốn duy nhất của Phanxicô là “an ủi và làm cho Chúa Giêsu vui lòng”; cậu đã khó vì nghĩ tới những tội lỗi con người đã phạm chống lại Chúa Giêsu. Phanxicô chịu đựng những bệnh tật đau khổ mà không hề than van. Đói với cậu, tất cả dường như còn quá ít để an ủi Chúa Giêsu. Phanxicô qua đời với nụ cười trên môi. Cả Giaxinta cũng thế, em đã chịu đựng những đau đớn do bệnh tật và nói: “Ôi, con ao ước chịu đau khổ bao nhiêu vì tình yêu dành cho Chúa và Đức Mẹ; các ngài rất yêu thương những người chịu đau khổ hy sinh để người tội lỗi trở lại. Khi Giaxinta đang đau bệnh, nằm trên giường, Đức Mẹ đến thăm hai em và cho biết Mẹ sắp mang Phanxicô về trời, Giaxinta cũng muốn hoán cải các tội nhân. Khi Phanxicô gần lìa thế, Giaxinta dặn anh: “anh hãy mang những lời chào thăm của em cho Chúa và Đức Mẹ nhé, và thưa với các Ngài rằng em sẵn sàng chịu đựng tất cả những gì các ngài muốn để hoán cải người tội lỗi.”

Phanxicô qua đời khi được 10 tuổi, còn Giaxinta chỉ mới 9 tuổi. Vào ngày 13 tháng 5 năm thánh 2000, Đức giáo hoàng Gioan Phaolô đã tôn phong Phanxicô và Giaxinta lên bậc chân phước và ngày 13 tháng 5 năm nay, Đức giáo hoàng cũng đã tôn các ngài lên hàng hiển thánh.

– Chân phước Imelda Lambertini sinh năm 1322. Khi còn rất nhỏ, Imelda đã có lòng đạo đức đặc biệt, yêu thích cầu nguyện. Khi mới 9 tuổi, cô đã bị thu hút bởi đời sống tu trì và xin vào dòng Đaminh. Cha mẹ của cô bé rất ngạc nhiên, nhưng nhìn thấy lòng sùng kính và tình yêu Chúa của cô bé, họ đã cho cô đến sống ở đan viện gần đó. Ở đó, Imelda được mang tu phục dòng Đaminh và sống đời sống của các nữ tu. Ao ước lớn nhất của Imelda là được lãnh nhận Chúa Giêsu Thánh Thể, nhưng vào thời đó, phải 14 tuổi mới được rước lễ lần đầu. Tuy vậy, Imelda vẫn kiên trì cầu xin. Vào môt ngày lễ Thăng Thiên, khi cả cộng đoàn được rước Mình Thánh Chúa, chỉ có Imelda là không được. Sau Thánh lễ, khi một nữ tu đang dọn bàn thờ, chợt nghe tiếng ồn. Chị nhìn lên và thấy Minh Thánh Chúa lơ lửng trên không, ở phía trên đầu Imelda, khi cô đang quỳ gối đắm mình trong cầu nguyện trước Nhà Tạm. Linh mục nhìn thấy phép lạ hiểu rằng đó là một dấu chỉ và đã cho Imelda được rước lễ lần đầu. Với nụ cười trên môi, Imelda đã qua đời không lâu sau đó, khi mới 11 tuổi. Chân phước Imelda được chọn làm bổn mạng các trẻ em rước lễ lần đầu. 

Hồng Thủy

Đức Thánh Cha gặp gỡ các giáo sĩ, tu sĩ, chủng sinh ở Genova

Đức Thánh Cha gặp gỡ các giáo sĩ, tu sĩ, chủng sinh ở Genova

GENOVA. Trong cuộc gặp gỡ 1,800 LM, nữ tu và chủng sinh tại nhà thờ thánh Lorenzo của giáo phận Genova, sáng ngày 27-5-2017, ĐTC cảnh giác chống nạn nói hành nói xấu, và nạn nhập khẩu ơn gọi từ nước nghèo để giải quyết nạn thiếu ơn gọi ở các nước Âu Mỹ.

Hiện diện trong thánh đường cũng có các Giám Mục thuộc 7 giáo phận ở miền Liguria, không kể hàng ngàn tín hữu khác chào đón ngài ở quảng trường bên ngoài.

Trong cuộc gặp gỡ và đối thoại, sau lời chào mừng của ĐHY TGM Genova, 3 LM và 1 nữ tu đã nêu lên 4 câu hỏi với ĐTC. Cha Phó Andrea Carcasole hỏi ĐTC về những tiêu chuẩn để sống đời sống thiêng liêng khẩn trưởng trong sứ vụ giữa đời sống văn minh phức tạp hiện nay, và giữa bao công việc, kể cả về hành chánh, làm cho LM có cuộc sống dễ bị phân tán.

Cha sở Pasquale Revello xin ĐTC vài chỉ dẫn để sống tình huynh đệ linh mục tốt đẹp hơn mà ĐHY TGM giáo phận vẫn cổ võ, và thăng tiến với các cuộc gặp gỡ giáo phận, giáo hạt, hành hương, tĩnh tâm..

Mẹ Rosangel Salá, Chủ tịch Hiệp hội các nữ Bề trên cấp cao các dòng nữ miền Liguria, xin ĐTC những chỉ dẫn để sống đời thánh hiiến ngày càng nồng nhiệt, trung thành với đoàn sủng, với việc tông đồ và với giáo phận.

Sau cùng, cha Andrea Caruso, dòng Capuchino, nêu câu hỏi: Làm sao sống và đương đầu với sự sa sút ơn gọi linh mục và tu trì ngày nay?

Trước khi trả lời các câu hỏi được nêu lên, ĐTC mời gọi mọi người cùng cầu nguyện cho các tín hữu Chính Thống Copte Ai Cập bị khủng bố giết chết trên đường đi hành hương tại Đan viện thánh Samuele, vì họ không muốn từ bỏ đức tin. Ngài nhắc lại rằng chúng ta hãy nhớ: các tín hữu Kitô ngày nay nhiều hơn thời xưa”.

Trả lời của ĐTC

Trong phần trả lời, ĐTC mời gọi các linh mục phát triển tình huynh đệ với nhau, đó là một sự phong phú vì nó mở rộng tâm hồn. Thái độ này là một công việc mỗi ngày. Nhưng nhiều khi nó không đi sâu vào tâm hồn của LM, và khi thiếu như vậy thì đó là một sự phản bội: người ta bán anh em, lột da anh em, theo hình ảnh ma quỉ. ĐTC cảnh giác những điều vi phạm tình huynh đệ linh mục: sự ghen tương, cạnh tranh, đưa tới sự nói xấu, vu khống hoặc những nhận xét hạ giá. Ngài nhắc đến sự kiện nhiều khi trong các cuộc thăm dò về ứng viên giám mục, đương sự bị những người khác nói xấu, vu khống, hoặc có những lời hạ giá người anh em. ĐTC cũng cảnh giác cần phải loại trừ những người hay nói hành nói xấu ra khỏi chủng viện, vì họ sẽ làm hại hàng giáo sĩ.

Ngài nói: ”Chúng ta là những môn đệ của Chúa, chúng ta phải giúp đỡ nhau… cả khi xảy ra những tranh luận, nhưng không nên sợ những cuộc thảo luận, vì nó chứng tỏ có tự do, tình thương và huynh đệ”.

Ngài cũng nói nói rằng: ”Chúng ta có một nguy cơ mà nhiều khi chúng ta không nhận thấy, đó là nguy cơ tạo nên một hình ảnh linh mục biết mọi sự, không cần đến những người khác, linh mục ”gogle-wikipedia” thông biết tất cả. Sự tự mãn như thế là một thực tại gây hại nhiều cho đời sống linh mục”.

Sau cùng trả lời câu hỏi về khủng hoảng ơn gọi, ĐTC nhận xét cuộc khủng hoảng này liên hệ tới mọi ơn gọi, kể cả ơn gọi hôn nhân, vì thế cần phải suy nghĩ để tìm giải pháp, không rơi vào những giải pháp có sức thu hút. Ngài mạnh mẽ lên án nạn ”buôn tập sinh”: có những dòng để đối phó với sự giảm sút ơn gọi, đã sai người đến các nước thế giới thứ ba để tuyển mộ cả những người trẻ không có ơn gọi”.

Giã từ các LM và tu sĩ, lúc giữa trưa, ĐTC tiến lên Đền thánh Đức Mẹ Canh Giữ, từ hơn 500 năm nay, Đức Mẹ canh giữ thành Genova. Tại đây ngài gặp gỡ 2,600 bạn trẻ.

G. Trần Đức Anh OP

Phép lạ thứ hai – hoàn tất hồ sơ phong thánh cho Phanxicô và Giaxinta

Phép lạ thứ hai – hoàn tất hồ sơ phong thánh cho Phanxicô và Giaxinta

Vào tháng 3 năm 2013, Lucas Maeda de Oliveira, một em bé 6 tuổi ở giáo phận Capo Mourao, Para Paranà, Braxin, đang chơi đùa với cô em gái tại nhà của người ông thì tai nạn xảy ra. Cậu bé Lucas té từ cửa sổ cao 6,5m xuống đất và bị chấn thương sọ não nghiêm trọng. Cậu bé được đưa đến bệnh viện trong tình trạng hôn mê, và người ta dự đoán xấu về sự sống của em. Lucas được đưa đi phẫu thuật cấp cứu mặc dù tại một cơ sở y tế không đủ điều kiện để điều trị chấn thương nghiêm trọng, với nguy cơ tử vong cao, hoặc nếu khá hơn thì có thể sống tình trạng thực vật vĩnh viễn hoặc bị tổn thương thần kinh và nhận thức

Khi tai nạn xảy ra, cha của Lucas, bế cậu bé đang nằm trên vỉa hè lên và đã cầu khẩn với Đức Mẹ Fatima và hai chân phước thiếu nhi Phanxicô và Giaxinta. Đêm hôm đó, gia đình Lucas đã cùng với một cộng đoàn các nữ tu dòng Kín Cát minh kiên trì cầu nguyện với hai chân phước mục đồng.

Chỉ một ít ngày sau, cậu bé Lucas được xuất viện và hoàn toàn bình phục cách nhanh chóng, trở lại bình thường, mà không có trị liệu đặc biệt, tự đi lại và không có ảnh hưởng đến thần kinh và nhận thức.

Sức khỏe tâm lý của cậu bé cũng được các chuyên gia y tế xác nhận vào năm 2016 và được ghi trong hồ sơ án phong thánh như sau: “Cậu bé Lucas tỉnh táo, có thể giao tiếp, hành xử bình thường so với độ tuổi và không có sự thay đổi tâm lý.”

Hôm 2/2/2017, các bác sĩ cố vấn y khoa đã đồng thuận bỏ phiếu chứng nhận sự khỏi bệnh kỳ lạ (tất cả 6 phiếu thuận).

Trong bài giảng trong Thánh lễ trên mộ của hai thiếu nhi Phanxicô và Giaxinta, Đức cha giáo phận Leiria đã nói: “Thiên Chúa thật là kỳ diệu, Người đã muốn làm vinh danh Người qua hai trẻ bé nhỏ mù chữ nhưng rất quý giá trước mắt Người.” Sơ Angela de Fatima Coelho da Silva, thỉnh nguyện viên án phong thánh cho hai thiếu nhi này kết luận: “Việc phong thánh cho hai em sẽ có giá trị đặc biệt to lớn đối với các trẻ em và sẽ là một sự khích lệ cho các gia đình. (Avvenire 12/05/2017)

Hồng Thủy

Vatican điều tra euthanasia tại các cơ sở y tế Công giáo ở Bỉ

Vatican điều tra euthanasia tại các cơ sở y tế Công giáo ở Bỉ

Manchester, Anh quốc – Vatican đang điều tra về quyết định cho phép các bác sĩ thực hiện euthanasia (làm chết êm dịu) trên các bệnh nhân tâm thần “không ở giai đoạn cuối”, tại các cơ sở của các trung tâm điều trị tâm thần do một dòng tu Công giáo ở Bỉ điều hành.

Tu huynh Rene Stockman, bề trên tổng quyền của dòng Tu huynh Bác ái, nói với hãng thông tấn Công giáo Hoa kỳ (CNS) rằng chính Đức hồng y Pietro Parolin, Quốc vụ khanh Tòa Thánh sẽ điều tra vụ việc.

Tu huynh Stockman đã trực tiếp than phiền với Tòa Thánh sau khi nhóm các Tu huynh Bác ái, đang điều hành 15 trung tâm chăm sóc bệnh nhân tâm thần khắp nước Bỉ, từ chối yêu cầu chính thức của tu huynh Stockman về việc đảo ngược các chính sách mới.

Trong một tài liệu thông cáo hôm tháng 3, nhóm các Tu huynh Bác ái cho biết họ sẽ cho phép việc thực hiện eutaanasia tại các cơ sở của họ. Trước đó khoảng một năm, một nhà hưu dưỡng Công giáo ở Diest, Bỉ, đã bị phạt 6600 đô la vì từ chối thực hiện eutaanasia cho một bệnh nhân 74 tuổi bị ung thư phổi.

Tài liệu về chính sách mới này dung hòa các thực hành của các trung tâm điều trị này với luật về eutaanasia của Bỉ. Nó tìm cách cân bằng niềm tin của Công giáo về tính bất khả xâm phạm của sự sống của người vô tội với nghĩa vụ chăm sóc theo luật và với yêu cầu tự quyết của các bệnh nhân.

Trong email gửi đến CNS hôm 04/05, thầy Stockman viết: “Vì nó là vấn đề của nhóm ở Bỉ, tôi đã thông báo với Hội đồng Giám mục Bỉ để xin ý kiến của họ và thông cáo rõ ràng của họ. Đồng thời, tôi liên lạc với Vatican – Bộ tu sĩ và Quốc vụ khanh Tòa Thánh và ngài đã hỏi tôi thêm các thông tin”.

Thầy Stockman hy vọng sẽ nhận được câu trả lời rõ ràng của các Giám mục Bỉ và Vatican và thầy nghĩ là chính sách mới này sẽ buộc các tu huynh không được chăm sóc cho bệnh nhân tâm thần ở Bỉ nữa. Thầy hy vọng là hội dòng có thể tiếp tục phục vụ trong lãnh vực chăm sóc cho bệnh nhân tâm thần như họ đã bắt đầu từ khi thành lập dòng cách đây hơn 200 năm.

Dòng các Tu huynh Bác ái được cha Peter Joseph Triest thành lập tại Ghent, Bỉ, vào năm 1807. Án phong chân phước cho vị sáng lập của dòng được bắt đầu vào năm 2001. Được soi sáng bởi linh đạo của thánh Vinh sơn Phaolô và dấn thân làm việc với người cao niên và bệnh nhân tâm thần, ban đầu dòng được biết với tên các tu sĩ dòng bệnh viện thánh Vinh sơn và có mặt tại 30 quốc gia.

Tại vùng Flanders của Bỉ, dòng được xem là tổ chức quan trọng nhất cung cấp dịch vụ chăm sóc y tế cho các bệnh nhân tâm thần; mỗi năm phục vụ 5000 bệnh nhân. Dòng cũng điều hành các trường học, có khoảng 12 ngàn nhân viên trên toàn nước Bỉ.

Theo tu huynh Stockman, các tu huynh phải hoàn toàn tôn trọng sự sống và không thể dựa trên sự tự quyết của bệnh nhân. Dù hội đồng quản trị của tổ chức này, đa số là giáo dân, xem euthanasia là một hoạt động y khoa, nhưng các tu huynh không thể chấp nhận nó là một hoạt động y khoa. Và cuối cùng, các tu huynh cho phép euthanasia đươc thực hiện tại các trung tâm, nhưng thầy Stockman khẳng định: “Chúng tôi luôn từ chối cho phép thực hiện euthanasia bên trong các bức tường của trung tâm.”

Thầy Stockman cũng loại trừ ý kiến cho rằng nhiều Tu huynh ủng hộ chính sách mới này; thầy khẳng định là hội dòng theo giáo lý của Công giáo và không thể chấp nhận luật về eutaanasia. Thầy nhận định: “Toàn bộ não trạng ở Bỉ đang thay đổi nhanh chóng và có áp lực từ chính quyền chống lại bất lỳ sự từ chối nào đối với euthanasia. Nhưng cho đến nay, các cơ sở có quyền từ chối eutaanasia. Thầy nói thêm: “Tôi xem nó như là một cuộc khủng hoảng thật sự và tôi gọi nó là một cánh cửa mà một khi được mở sẽ không thể đóng lại nữa. Nhiều nhóm sẽ bị ảnh hưởng bởi nó: Nó bắt đầu với đau khổ thể lý, bây giờ đến tâm lý, sau đó những người khuyết tật nặng, người cao tuổi và tiếp nữa.”

Vào năm 2003, Bỉ đã hợp pháp hóa euthanasia (làm cho chết êm dịu). Trước đó một năm, Hà lan là quốc gia đầu tiên từ thời phát xít Đức bắt đầu thực hiện euthanasia.

Năm 2014, luật về euthanasia được mở rộng, thực hiện cho cả các trẻ em với cách gọi “giải phóng trẻ em” và việc các bác sĩ chích thuốc độc cho những người khuyết tật, các bệnh nhân tâm thần đang gia tăng. (CNS 05/04/2017)

Hồng Thủy

 

Đức Thánh Cha lên đường viếng thăm Ai Cập

Đức Thánh Cha lên đường viếng thăm Ai Cập

CAIRO. Sáng ngày 28-4-2017, ĐTC Phanxicô đã khởi đầu chuyến viếng thăm tại thủ đô Cairo của Ai Cập trong vòng 27 tiếng đồng hồ để thăng tiến hòa bình, tăng cường quan hệ với Hồi giáo và quan hệ đại kết với Giáo Hội Chính Thống Copte.

Đây là chuyến tông du thứ 18 của ĐTC Phanxicô tại nước ngoài và có khẩu hiệu là ”Vị Giáo Hoàng của hòa bình tại Ai Cập an bình”.

Vài nét về Ai Cập

Ai cập, quốc gia ĐTC đến thăm, rộng hơn 1 triệu cây số vuông trong đó khu vực có dân cư sinh sống không vượt quá 6% diện tích toàn quốc. Phần lớn dân chúng sống ở vùng bình nguyên sông Nilo, con sông dài nhất thế giới với 6.671 cây số. 82% lãnh thổ còn lại của Ai Cập là sa mạc.

Trong số 90 triệu dân nước này, khoảng 90% theo Hồi giáo Sunnit, 10% là tín hữu Chính Thống Copte, và có 270 ngàn tín hữu Công Giáo Copte, tương đương với 0,31% dân số, một Giáo Hội được thành lập khi một số tín hữu Chính Thống xin trở về hiệp nhất với Tòa Thánh hồi thế kỷ 18.

Giáo Hội Chính Thống Copte thuộc vào số các Giáo Hội Chính Thống Đông Phương, là những Giáo Hội ly khai khỏi Giáo Hội Công Giáo la tinh và Chính Thống Hy Lạp vì họ không chấp nhận Công đồng chung Calcedonia năm 451. Cùng thuộc nhóm này có Giáo Hội Arméni Tông truyền, Chính Thống Siriac, và Chính Thống Etiopi, Chính Thống Syro bên Ấn Độ. Các Giáo Hội này cũng được gọi là các Giáo Hội tiền Công đồng Calcedonia.

Giáo Hội Công Giáo tại Ai Cập, ngoài các tín hữu theo nghi lễ Copte chiếm đa số, còn có 6 nghi lễ khác là la tinh, Arméni, Maronite, Công Giáo Siriac, Canđê và Hy lạp Melkite. Từ năm 1969, các GM và các bề trên cấp cao của các dòng tu họp thành Hội đồng giáo phẩm Công Giáo Ai Cập, và được Tòa Thánh phê chuẩn qui chế hồi năm 1992. Chủ tịch Hội đồng này hiện nay là Đức Ibrahim Isaac Sedrak, 62 tuổi Thượng Phụ thành Alessandria của Công Giáo Copte.

Chương trình

Sau khi đến Phi trường thủ đô Cairo, ĐTC tới phủ tổng thống Ai Cập, tại đây diễn ra nghi thức đón tiếp, rồi ngài hội kiến riêng với tổng thống, trước khi đến Đại học Hồi giáo Al Azhar, chào thăm Đại Imam Ahmed Al Tayyeb, trước khi đến thính đường Đại học nơi đang diễn ra Hội nghị quốc tế về hòa bình do Đại học này tổ chức từ thứ tư, 27-4-2017. Sau diễn văn của vị đại Imam và bài diễn văn của ĐTC.

 Cuộc viếng thăm của ngài được tiếp tục với cuộc gặp gỡ 800 người thuộc chính quyền, ngoại giao đoàn và các tổ chức của xã hội Ai Cập.

Phần cuối cùng trong các sinh hoạt của ĐTC chiều hôm qua và cuộc viếng thăm Đức Thượng Phụ Tawadros II, hay cũng gọi là Teodoro II, Giáo Chủ Chính Thống Copte Ai Cập, và tham dự buổi cầu nguyện đại kết với đại diện các Giáo Hội Kitô khác.

Cám ơn các ký giả

Trên chuyến bay, ĐTC đã chào thăm các ký giả đi cùng và nói: ”Đây là một cuộc viếng thăm hiệp nhất, huynh đệ. Tôi cám ơn anh chị em vì hoạt động trong hai ngày khẩn trương này. Đây là một cuộc công du có một mong đợi đặc biệt, vì được thực hiện với lời mời của Tổng thống Ai Cập, của Đức thượng phụ Tawadros, Đức Thượng Phụ Công Giáo Alessandria và Đại Iman ở viện Al Azhar. Cám ơn sự đồng hành của anh chị em, vì giúp dân chúng hiểu cuộc viếng thăm này, bao nhiêu người muốn theo dõi”.

Đến Cairo

Sau 3 giờ 15 phút bay từ Roma, vượt qua 2.350 cây số, máy bay chở ĐTC và đoàn tùy tùng đã đáp xuống phi trường quốc tế của thủ đô Cairo lúc 2 giờ chiều, giờ địa phương. Đây là một thành phố cổ kính có từ thế kỷ thứ 10 và đông dân nhất tại Phi châu với 10 triệu dân cư, và nếu kể cả vùng ngoại ô thì lên tới 15 triệu người. Cairo cũng được coi là thành phố đẹp nhất thế giới về nghệ thuật Hồi giáo và hãnh diện vì chiếm kỷ lục về số các văn sĩ, thi sĩ, ký giả, nghệ sĩ, và điện ảnh viên trong thế giới Hồi giáo.

Từ trên máy bay bước xuống, ĐTC đã được bộ trưởng đặc ủy của Tổng thống, cùng với Đức Thượng Phụ Ibrahim Isaac Sedrak, Chủ tịch Hội đồng Giáo phẩm Công Giáo Ai Cập và Đức Sứ Thần Tòa Thánh Jan Thomas Limchua, cùng với một số chức sắc Công Giáo tiếp đón và hướng dẫn về dinh Tổng thống ở Heliopolis cách đó 9 cây số. Hiện diện tại phi trường cũng có một phái đoàn hơn 100 đại biểu Kitô và Hồi giáo đón tiếp ĐTC, trong đó có bà Evelin Matta, một tín hữu Kitô. Bà cám ơn ngài vì đã quyết định giữ nguyên chương trình viếng thăm Ai Cập sau vụ khủng bố tại hai thánh đường Chính thống Copte 9 ngày trước khi ngài lên đường.

Tại dinh Tổng thống đã diễn ra nghi thức chính thức tiếp đón ĐTC với quốc thiều và hàng quân danh dự. Tiếp đến ngài hội kiến riêng tới Tổng thống Abdel Fattah Al Sisi tại phòng khánh tiết. Ông năm nay 63 tuổi (1954), nguyên là cựu sinh viên ở đại học Al Azhar và tốt nghiệp quân trường Ai Cập năm 1977 rồi dần dần tiến thân trong binh nghiệp, cho đến khi được tổng thống Mohamed Morsi bổ nhiệm làm Tổng tham mưu trưởng quân đội Ai Cập vào năm 2012. Một năm sau đó, tổng thống Morsi bị ông hạ bệ trong một cuộc đảo chánh và năm 2014, Ông được bầu làm tổng thống.

Cuộc hội kiến giữa ĐTC và tổng thống Ai Cập kết thúc với phần trao đổi quà tặng và chụp hình lưu niệm.

G. Trần Đức Anh OP

Thánh tích của Cha Piô sẽ được kính viếng tại một số giáo phận ở Hoa kỳ

Thánh tích của Cha Piô sẽ được kính viếng tại một số giáo phận ở Hoa kỳ

New York – Thánh tích của Cha Piô, một linh mục dòng Cappuchino mang các dấu thánh của Chúa Giêsu, sẽ được trưng bày cho các tín hữu kính viếng tại một số giáo phận ở Hoa kỳ vào tháng 5 và vào mùa thu năm nay, nhân kỷ niệm 130 năm ngày sinh của thánh nhân.

Thánh tích của Cha Piô sẽ được đưa đến 12 nơi trên khắp nước Mỹ, bắt đầu từ ngày 6-8/05 ở nhà thờ chánh tòa hai thánh Phêrô và Phaolô ở Philadelphia.

Thời gian thánh tích đến các địa điểm khác như sau:

– Ngày 09/05 ở nhà thờ chánh tòa thánh Phaolô, Pittsburgh.

– Ngày 10-11/05 ở vương cung thánh đường chánh tòa Vô nhiễm nguyên tội, Denver.

– Ngày 13/05 ở nhà thờ chánh tòa Chúa Phục sinh, Lincoln, Nebraska.

– Ngày 18-19/05 ở nhà thờ thánh Anrê, Pasadena, California.

– Ngày 20-21/05 ở nhà thờ thánh Anna, Arlington, Virginia.

– Ngày 17-18/09 ở nhà thờ chánh tòa thánh Patrick, New York.

– Ngày 20/09 ở nhà thờ chánh tòa thánh Giuse Thợ, La Crosse, Wisconsin.

– Ngày 20/09 ở nhà thờ chánh tòa thánh Gioan thánh sử, Milwaukee.

– Ngày 22-23/09 ở vương cung thánh đường thánh Gioan thánh sử, 

– Ngày 24/09 ở nhà thờ thánh Têrêsa, Trumbull, Connecticut.

– Ngày 29/09 ở nhà thờ chánh tòa Đức Mẹ Lên trời, Saginaw, Michigan.

Cha thánh Piô sinh ngày 25/05/1887, trong một gia đình nghèo, với tên gọi Francesco Forgione. Cậu Francesco gia nhập dòng Capuchin khi 15 tuổi và được thụ phong linh mục khi 23 tuổi. Ngay sau khi thụ phong linh mục, Cha Piô báo với các bề trên về các kinh nghiệm thiêng liêng và những dấu hiệu thể lý, cùng với các vấn đề sức khỏe của Cha.

Năm 1918, khi Cha 30 tuổi, Cha bắt đầu nhận các dấu thánh  – các vết thương của Chúa Giêsu bị đóng đinh, máu chảy ra từ chân, tay và sườn của Cha. Các vết thương này kéo dài suốt 50 năm, cho đến khi Cha qua đời.

Các dấu hiệu và quyền năng đặc biệt của Cha Piô đã thu hút đông đảo dân chúng đến đan viện của Cha ở San Giovanni Rotondo. Các bề trên đã muốn hạn chế sự xuất hiện của Cha trước công chúng và định chuyển Cha đi nơi khác, nhưng vì dân chúng phản đối nên các vị đã không thực hiện điều này.

Sau nhiều năm ngồi giải tội cho hàng dài các hối nhân đến xưng tội và sau khi chịu đau đớn vì bệnh tật, Cha Piô qua đời năm 1968.

Năm 2002, Thánh giáo hoàng Gioan Phaolô II đã phong Cha Piô lên hàng hiển thánh. (CNS 26/04/2017)

Hồng Thủy 

Một thương nhân hưu trí tặng tượng Đức Mẹ Fatima để cổ võ sùng kính Đức Mẹ

Một thương nhân hưu trí tặng tượng Đức Mẹ Fatima để cổ võ sùng kính Đức Mẹ

Từ tháng 01/2013 đến nay, Jose Camara, một thương nhân hưu trí người Bồ đào nha, hiện sống ở Cascais, cách thủ đô Lisbon khoảng hơn 30 cây số, đã tặng hơn 1000 tượng Đức Mẹ Fatima được làm thủ công ở Fatima, cho các giáo xứ, trường học, tu viện, các phong trào Công giáo, nhà tù, vv., và ngay cả cho các cá nhân, trên khắp thế giới. Không chỉ tặng các tượng Đức Mẹ, ông Camara còn trả chi phí vận chuyển, gửi các tượng. Mỗi khi ông Camara nghĩ là ông đã hoàn thành sứ vụ thì lại có ai đó cần một tượng Đức Mẹ Fatima để truyền bá lòng tôn sùng Mẹ, và ông lại tiếp tục công việc.

Ông Camara cho biết, ông bắt đầu việc tặng tượng này với ý tưởng ban đầu là tặng 12 tượng Đức Mẹ Fatima làm bằng tay cho các giáo xứ ở Nam phi, nơi ông đã sống nhiều năm. Sau khi việc dâng tặng của ông được đăng tải trên tuần báo Công giáo “The Southern Cross” ở Nam Phi, chỉ trong tuần lễ đầu tiên, ông đã nhận được 63 thư xin tượng. Cho đến nay ông đã gửi hơn 1000 tượng Đức Mẹ đến hơn 30 nước: từ khắp châu Phi, cho đến Thánh địa Israel, Ấn độ, Philippines, Australia, Anh, Đức, Guatemala, Hoa kỳ, ngay cả các xứ ở Bồ đào nha và một số nơi xa xôi như đảo Reunion và Mauritius. Công việc của ông bắt nguồn từ những người mà ông gặp, ví dụ một linh mục ở Namibia đã lái xe cả ngàn cây số để mua một tượng cho giáo xứ.

Các tượng Đức Mẹ mà ông Camara gửi tặng được làm thủ công, sơn bằng tay, có các kích cỡ khác nhau để dùng trong các nhà thờ. Để đổi lại việc nhận tượng Đức Mẹ, các giáo xứ phải hứa là cộng đoàn giáo xứ sẽ lần hạt Mân côi mỗi tháng một lần và đặt tượng tại bàn thờ hay nhà nguyện dâng kính Đức Mẹ Fatima.

Ông Camara kể lại hai cuộc gặp gỡ ấn tượng đối với những người nhận tượng. Một phụ nữ ở Cape Town bị ung thư và đang chờ chết. Bà ao ước được Đức Mẹ Fatima đồng hành khi trên giường bệnh. Mặc dù không thường tặng tượng Đức Mẹ cho các cá nhân, ông Camara đã gửi một tượng cho phụ nữ này như là một quà tặng riêng. Thời gian nhận được tượng thường bị chậm trễ do các thủ tục quan thuế và thường cần đến 4 tháng để các pho tượng đến được nơi nhận. Như thế có lẽ pho tượng Đức Mẹ không đến kịp với nữ bệnh nhân đang chờ chết. Nhưng ông Camara vẫn gửi pho tượng cho bà và phó thác cho Đức Mẹ Fatima.

Bốn tháng sau, ông Camara nhận được email, cho biết là phụ nữ này đang trên giường chờ chết nhưng tượng Đức Mẹ họ vẫn chưa nhân được tượng Đức Mẹ. Từ Bồ đào nha, ông Camara tin chắc là bức tượng đang ở sở hải quan Cape Town. Người chị của nữ bệnh nhân đã vội vã đến sở hải quan và xin được nhận bức tượng sớm và đưa đến bệnh viện. Người phụ nữ bị ung thư đã có thể ôm bức tượng và hạnh phúc với Đức Mẹ. Sau đó 24 tiếng đồng hồ, bà đã bình an ra đi. Ông Camara nói: “đó là đức tin. Tôi đã không tin là bà ta có thể nhìn thấy tượng Đức Mẹ (trước khi qua đời). Một thiếu nữ ở Anh thì viết thư cho ông Camara để xin một pho tượng cho cha của cô đang ở tù tại Kent. Ông Camara đã gửi một bức tượng đến nhà tù và bây giờ, cha của cô gái đó đọc kinh Mân Côi với các bạn tù hàng ngày.

Ông Camara chia sẻ là ông không thể tiếp tục công việc này mãi. Bên cạnh chi phi mua và gửi các pho tượng, các việc lặt vặt, giấy tờ, gửi hàng, làm cho ông bị căng thẳng khi mà ông không còn là một người trẻ nữa và đối mặt với các vấn đề xấu hơn của sức khỏe, và đặc biệt là số tiền tiết kiệm của ông đã gần hết. Ông Camara không muốn mình được nổi tiếng qua việc làm nay, ông không tìm bất cứ lợi lộc gì, nhưng chỉ muốn phục vụ Đức Mẹ Fatima và Thiên Chúa.

Ông Camara kết luận: “Tôi tin việc bác ái thật sự là phải tham gia vào: cởi áo khoác và gọn gàng, xắn tay áo và đối diện với dự án và ngay cả những chi phí to lớn. Và chúng ta phải làm, không phải để vinh danh cho riêng cá nhân mình, nhưng là thực hành với tình yêu dành cho Mẹ Maria của chúng ta. Đức Mẹ của chúng ta đang từ trời cao ban xuống những ơn lành.” (CNS 20/04/2017)

Hồng Thủy

 

Một Linh mục dòng Tên bị bắt cóc ở miền nam Nigeria

Một Linh mục dòng Tên bị bắt cóc ở miền nam Nigeria

Abuja – Cha Samuel Okwuidegbe, dòng Tên, 50 tuổi, bị bắt cóc hôm 18/04, trên đường từ thành phố Benin đến Onitsha.

Theo tin của báo La Croix, cha Okwuidegbe đang đi đến nơi giảng tĩnh tâm, cách trung tâm tĩnh tâm nơi cha điều hành và sống với 3 tu sĩ dòng Tên khác 150 cây số. Chiếc xe của cha được cảnh sát tim thấy khi họ đi tìm cha.

Cha Rigobert Kyungu Musenge, Tổng thư ký dòng Tên vùng châu Phi và Madagasca cũng cho biết là có 2 người khác bị bắt cóc cùng với cha Okwuidegbe và theo cha, đây là lần đầu tiền một linh mục dòng Tên là nạn nhân của vụ bắt cóc ở trong vùng. Cha không nghĩ là cha Okwuidegbe bị bắt cóc vì là linh mục.

Năm 2016, một số linh mục Công giáo bị bắt cóc tại các vùng khác nhau ở Nigeria, đặc biệt là ở khu vực phía nam.

Cha Sylvester Onmoke, chủ tịch hội linh mục giáo phận của Nigeria đã mô tả “làn sóng bắt cóc các linh mục và tu sĩ gần đây như một cuộc tấn công vào Giáo Hội”. (Agenzia Fides 21/4/2017)

Hồng Thủy

Đức Thánh Cha chủ sự Lễ Vọng Phục Sinh

Đức Thánh Cha chủ sự Lễ Vọng Phục Sinh

VATICAN: Lúc 8 giờ rưỡi tối thứ Bẩy Tuần Thánh 15-4-2017, Đức Thánh Cha Phanxicô đã chủ sự lễ vọng Phục Sinh trong Đền Thờ Thánh Phêrô và ban bí tích Rửa tội cho 11 dự tòng gồm 3 người Ý, 2 Albani, 2 phụ nữ người Hoa từ Trung Quốc và Malaysia, phần còn lại là người Tây Ban Nha, Mỹ, Malta và Tiệp. Người cao tuổi nhất 50 tuổi, và người trẻ nhất 12 tuổi.

Đồng tế với ĐTC có 25 Hồng Y, 30 GM và 300 linh mục rước sự tham dự của khoảng 8 ngàn tín hữu.

Như thường lệ, buổi lễ đã bắt đầu với lễ nghi làm phép lửa và rước nến cây nến Phục Sinh, tượng trưng Ánh sáng Chúa Kitô.

Trong bài giảng, ĐTC nhắc đến 2 phụ nữ đến mộ Chúa. Trên khuôn mặt của họ chúng ta có thể nghĩ đến khuôn mặt của bao nhiêu bà mẹ, và những người khác đang mang gánh nặng của đau khổ, bất công, vô nhân đạo, những khuôn mặt của những người đã từng chịu khinh rẻ, vì họ là người di dân, vô gia cư..

Nhưng bất thình lình, các phụ nữ ấy đã được đánh động mạnh, một người đến gặp họ và loan báo Chúa đã sống lại.

ĐTC giải thích rằng ”Qua sự phục sinh, Chúa Kitô không những cất bỏ tảng đá chắn mộ, nhưng còn muốn làm bật tung tất cả những hàng rào khép kín chúng ta trong sự bi quan vô bổ, trong thế giới tính toán với những ý niệm của chúng ta, làm cho chúng ta xa lìa sự sống, trong những tìm kiếm an ninh đầy sự yên chí, và trong những tham vọng thái quá có thể làm thương tổn phẩm gia của người khác”.

Và ĐTC mời gọi các tín hữu hãy để cho mình được ngạc nhiên sự mới mẻ mà chỉ có Chúa Kitô mới có thể cống hiến cho chúng ta.Chúng ta hãy để cho sự dịu dàng và tình thương của Chúa hướng dẫn bước đường của chúng ta” (SD 15-4-2017)

Vatican Radio

THÁNH LỂ VỌNG PHỤC SINH 15-04-2017

 

THÁNH LỄ PHỤC SINH 16 -04-2017

 

Đức Thánh Cha chủ sự buổi đi Đàng Thánh Giá trọng thể

Đức Thánh Cha chủ sự buổi đi Đàng Thánh Giá trọng thể

ROMA. Lúc 9 giờ 15 phút tối thứ sáu tuần thánh, 14-4-2017, ĐTC Phanxicô đã chủ sự buổi đi đàng Thánh Giá trọng thể tại hý trường Colosseo ở Roma.

Nghi thức này được hàng chục đài truyền hình trên thế giới truyền đi trên hệ thống Mondovisione. 20 ngàn tín hữu đã đến tham dự nghi thức này.

Bài suy niệm năm nay do bà giáo sư Anne-Marie Pelletier, người Pháp, chuyên gia Kinh Thánh, biên soạn. Bà năm nay 73 tuổi (1946) và là phụ nữ đầu tiên được giải thưởng Ratzinger hồi năm 2014. Bà cũng từng giảng dạy môn thần học về hôn phối tại Đại học Công Giáo, Paris.

ĐHY Agostino Vallini, Giám quản Roma đã vác Thánh Giá chặng đầu tiên và chặng thứ 14 của Đàng Thánh Giá. Các chặng còn lại được nhiều tín hữu khác vác tiếp, gồm 1 gia đình giáo phận Roma, các đại diện của tổ chức Unitalsi giúp các bệnh nhân hành hương, các tu sĩ và giáo dân thuộc một số nước như Ai cập, Bồ đào nha, và Colombia là những quốc gia sắp được ĐTC viếng thăm.

Lời nguyện kết thúc

Trong lời nguyện dài gồm 22 câu, thay bài huấn dụ vào cuối buổi đi đàng Thánh Giá, trước tiên ĐTC nhắc đến những cực hình và đau khổ Chúa Kitô đã chịu như được kể lại trong các chặng Đàng Thánh Giá, và bày tỏ sự tủi hổ vì những tàn phá, chết chóc trong thế giới ngày nay, máu của người vô tội, phụ nữ, trẻ em, người di dân và những người bị bách hại tiếp tục đổ ra; tủi hổ vì sự phản bội, bán Chúa, im lặng trước những bất công mà không làm gì, chỉ lo bảo vệ quyền lợi của mình; tủi hộ vì những thành phần Dân Chúa: GM, LM, tu sĩ nam nữ gây gương mù, làm thương tổn cho thân mình của Chúa là Giáo Hội, để cho tâm hồn và sự thánh hiến bị rỉ sét.

 Dù có những tình trạng như thế, ĐTC bày tỏ niềm hy vọng Thập Giá của Chúa Kitô biến đổi những tâm hồn chai đá thành những con tim bằng thịt, có khả năng mơ ước, tha thứ và yêu mến; hy vọng vì ”lòng trung tín của Chúa không dựa trên lòng trung thành của chúng con;.. hy vọng vì bao nhiêu người nam nữ trung thành với Thập giá của Chúa, đang và còn tiếp tục sống trung thành như men mang lại hương vị và ánh sáng, mở ra những chân trời mới trong thân thể của nhân loại bị thương tổn.. Hy vọng Giáo Hội của Chúa sẽ tìm cách trở thành tiếng kêu trong sa mạc của nhân loại để dọn đường để Chúa trở lại trong vinh quang, để phán xét kẻ sống và người chết”.

Trong phần chót của lời nguyện, ĐTC cầu xin Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa thanh tẩy các tín hữu trong máu và nước chảy ra từ Trái Tim mở toang, tha thứ tội lỗi của Dân Chúa, và nhớ đến những anh chị em chúng con bị đốn ngã vì bạo lực, sự dửng dưng lãnh đạm và chiến tranh;

”Xin Chúa phá tan những xiềng xích đang trói buộc chúng con trong sự ích kỷ, sự cố tình mù quáng và sự hư hỏng trong những tính toán trần tục của chúng con; xin Chúa dạy chúng con đừng xấu hổ vì thập giá, không lợi dụng lèo lái thập giá, nhưng tôn thờ Thánh Giá, vì qua đó Chúa tỏ cho chúng con thấy sự khủng khiếp của tội lỗi chúng con, sự cao cả của tình yêu Chúa, những bất công trong các phán đoán của chúng con, và quyền năng của lòng thương xót Chúa”.

Buổi đi đàng Thánh Giá trọng thể ĐTC cử hành năm nay diễn ra với những biện pháp an ninh được tăng cường nghiêm ngặt hơn quanh khu vực Hí trường Colosseo sau những vụ khủng bố gần đây tại Âu Châu và đặc biệt tại Ai Cập (SD 15-4-2017)

G. Trần Đức Anh OP

Đi Đàng Thánh Giá trọng thể cùng Đức Thánh Cha tại Hý trường Colosseo ở Roma

Một nữ tu giúp đỡ dân Iraq – những người cảm thấy mình bị Chúa bỏ rơi

Một nữ tu giúp đỡ dân Iraq – những người cảm thấy mình bị Chúa bỏ rơi

“Lạy Chúa của con! Ôi Chúa của con! Sao Ngài bỏ con?” Các Kitô hữu trên khắp thế giới rất quen thuộc với những lời này – những lời cuối cùng của Chúa Giêsu trên Thánh giá. Nhưng người dân Hoa kỳ cũng được chia sẻ cho biết là những lời này đã nằm trên môi miệng của các Kitô hữu Iraq, khi họ trốn chạy khỏi các kẻ xâm lược chiếm đóng các làng của họ.

Ngày 5 tháng 4 vừa qua (2017), nữ tu Habiba Bihnam Toma, dòng Đaminh Iraq, đã chia sẻ với nhật báo Tin tức Miền Đông ở Illinois về kinh nghiệm giúp đỡ các người tị nạn trốn chạy nhóm Nhà nước Hồi giáo (IS) ở miền bắc Iraq vào năm 2014. Sơ kể: Khi các Kitô hữu đang tản cư đi qua vùng của người Kurd ở Ankawa, họ nghe tiếng súng. Chúng tôi sợ hãi, chúng tôi kêu khóc, chúng tôi cầu nguyện và di chuyển chậm chạp giữa hàng ngàn người đang bò trên mặt đất để tránh đạn và kêu than: ‘Lạy Chúa, Ngài ở đâu? Tại sao Ngài bỏ chúng con?’”

Các nữ tu ngần ngừ rời bỏ tu viện của họ ở Qaraqosh khi mà các Kitô hữu khác còn ở lại. Nhưng một người bạn đã gọi cho các sơ, khẩn khoản yêu cầu các sơ rời đi nhanh chóng, vì quân IS đã có mặt trong tỉnh lỵ. Các nữ tu buộc phải ra đi. Đồ vật duy nhất các sơ mang theo mình, là các cuốn sách kinh nguyện của các sơ. Các sơ cảm thấy bị sốc khi phải rời bỏ tu viện ra đi và nhìn thấy trên đường đầy các chiếc xe hơi và người, cũng giống như các sơ, đang chạy khỏi thành phố vì sợ hãi, vì lo sợ cho tính mạng của mình. Con đường chính dẫn đến Ankawa đầy những xe và người đang đi bộ, nên các sơ không thể tiếp tục đi được. Các sơ đã rời bỏ con đường chính và đi theo một con đường ít người qua lại. Các sơ đã xin một người lính cho họ đi bằng xe hơi, vì các sơ đã già không thể đi bộ.

Khi đến được Ankawa, các Kitô hữu di tản phải sống ở bất cứ nơi nào họ tìm được chỗ trống: trên đường phố, trong các nhà thờ, các tòa nhà đang được xây dựng. Tất cả 75 nữ tu sống trong một tòa nhà bình thường chỉ đủ chỗ cho 20 người, Cả các Linh mục và Giám mục cũng  phải di tản và họ cộng tác với các nữ tu để trợ giúp các người dân di tản nội địa. Từng hai người một, họ thăm các trại dành cho người tản cư. Hàng ngày các sơ thăm viếng những người di tản, lắng nghe các đau khổ của họ và khuyến khích họ kiên nhẫn, chờ đợi trong hy vọng và với sức mạnh của đức tin. Các sơ tập họp những người lớn lại cầu nguyện với nhau và chăm sóc các trẻ em, cho chúng chơi đùa. Họ nhận các đóng góp thực phẩm, quần áo, nước non và tiền bạc. Sơ Toma cho biết: mỗi gia đình có một không gian giới hạn, vài gia đình chung nhau một lớp học, những người khác thì tụ họp dưới chân cầu thang hay sống trong các lều bạt. Các người nam và những người trẻ thì ngủ ngoài trời. Khi năm học bắt đầu lại, các người tị nạn buộc phải di chuyển đến sống trong các lều. Khi trời mưa, rắn rết bọ cạp cũng bò đến. Cũng may là cuối cùng Giáo hội sắp xếp thuê các ngôi nhà cho các gia đình di tản. Một số người trẻ phải nghỉ học để lao động kiếm sống, phụ giúp cho gia đình. Khi các sơ nhận thấy tình trạng hành xử bạo lực gia tăng nơi các người trẻ, các sơ đã thành lập 4 trường mẫu giáo và hai trường tiểu học.

Sơ Toma chia sẻ: “Mọi người đau khổ vì quân Hồi giáo IS đã tàn phá không chỉ nhà cửa và trường học của chúng tôi, nhưng cả các nhà thờ, các đan viện và những địa danh nổi tiếng của nền văn hóa Kitô giáo đã có từ 2000 năm trước. Chúng tôi cảm thấy rằng chúng tôi chỉ có thể trở lại làng mạc của chúng tôi khi có hòa bình và khi cộng đồng quốc tế có thể bảo đảm sự an toàn và bảo vệ cho chúng tôi.”

Khi sơ Toma đang chia sẻ ở Illinois thì một nữ tu người Siria, người đã chấp nhận hiểm nguy đến mạng sống, đã được phu nhân tổng thống Hoa kỳ Melania Trump vinh danh. Đó là sơ Carolin Tahhan Fachakh, sống ở Aleppo, Siria, là một trong số 13 phụ nữ được trao giải thưởng “Người phụ nữ quốc tế của lòng can đảm” của Bộ Ngoại giao Hoa kỳ. Sơ Fachakh đã hoạt động không mệt mỏi để trợ giúp các nhu cầu của những người dân khốn khổ nhất của Siria, đặc biệt là những người tị nạn nội địa và các trẻ em. Sơ là hải đăng của niềm hy vọng cho cả ngừoi Hồi giáo và Công giáo khi chấp nhận đối diện nguy hiểm để cứu giúp người dân. (Aleteia 05/04/2017)

Hồng Thủy