Đức Thánh Cha nhóm Công nghị Hồng Y

Đức Thánh Cha nhóm Công nghị Hồng Y

VATICAN. Sáng 20-10-2014, ĐTC đã chủ tọa công nghị Hồng Y về tình hình các tín hữu Kitô tại Trung Đông và quyết định về việc phong Hiển thánh.

Tham dự công nghị bắt đầu lúc 9 giờ sáng tại Hội trường Thượng HĐGM cũng có các vị Thượng Phụ và một số Giám Mục.

Ngỏ lời trong dịp này, ĐTC nói: ”Chúng ta có cùng ước muốn hòa bình và ổn định tại Trung Đông và ý chí cổ võ giải pháp cho các cuộc xung đột bằng cách đối thoại, hòa giải và dấn thân chính trị. Đồng thời chúng ta muốn gia tăng sự trợ giúp có thế cho các cộng đồng Kitô để hỗ trợ họ ở lại vùng miền ấy.

”Như tôi đã có dịp lập lại nhiều lần, chúng ta không thể có thái độ cam chịu khi nghĩ đến miền Trung Đông không còn Kitô hữu nữa, những người từ 2 ngàn năm nay đã tuyên xưng danh Chúa Giêsu tại đó. Những biến cố gần đây, nhất là tại Irak và Siria, gây lo âu rất nhiều. Chúng ta chứng kiến một hiện tượng khủng bố có chiều kích không thể tưởng tượng được trước đây. Bao nhiêu anh chị em chúng ta bị bách hại và đã phải rời bỏ gia cư, cả trong tình thế tàn bạo. Dường như người ta đánh mất ý thức về giá trị sự sống con người, con người dường như không đáng kể gì nữa, và người ta có thể hy sinh con người cho những lợi lộc khác. Rất tiếng là tất cả những điều đó xảy ra trong sự dửng dưng của bao nhiêu người.

Và ĐTC nhấn mạnh rằng: ”Tình trạng bất công này, không những đòi lời cầu nguyện của chúng ta, nhưng còn cần phải có câu trả lời thích hợp từ phía cộng đồng quốc tế. Tôi chắc chắn rằng với sự phù trợ của Chúa, từ cuộc gặp gỡ hôm nay, sẽ có những suy tư giá trị và những đề nghị để có thể giúp anh chị em chúng ta đang chịu đau khổ và đáp ứng cả thảm trạng suy giảm sự hiện diện của Kitô giáo tại miền đất nơi Kitô giáo được khai sinh và phổ biến.

Đức Hồng Y Parolin
Tiếp lời ĐTC, ĐHY Pietro Parolin, Quốc vụ khanh Tòa Thánh, đã tường trình trước công nghị về khóa họp mới đây tại Vatican, từ ngày 2 đến 4-10 vừa qua của các vị Sứ thần Tòa Thánh ở Trung Đông, các đại diện Tòa Thánh tại LHQ ở Genève và New York cùng với các vị lãnh đạo tại Tòa Thánh về sự hiện diện của các tín hữu Kitô tại Trung Đông.

Trước tiên các vị bàn về tình trạng không thể chấp nhận được tại Trung Đông do cái gọi Nhà Nước Hồi giáo, một thực tài chà đạp công pháp và dùng những phương pháp khủng bố để mưu toan mở rộng quyền bính: giết người hằng loạt, chém đầu những kẻ nghĩ khác họ, bán phụ nữ ở chợ, xung các trẻ em vào các cuộc chiến đấu, tàn phá các nơi thờ phượng.. Tình trạng đó khiến hàng trăm ngàn người phải bỏ gia cư đi lánh nạn nơi khác, trong những điều kiện bấp bênh, chịu bao đau khổ về thể lý và tinh thần. Khi lên án rõ ràng những vi phạm đó, không những đối với công pháp quốc tế về nhân đạo, nhưng cả về các nhân quyền sơ đẳng nhất, người ta cũng tái khẳng định quyền của người tị nạn được trở về đất nước của mình và sống trong phẩm giá, trong an ninh. Đó là quyền phải được cộng đồng quốc tế và các quốc gia hỗ trợ và bảo đảm. Điều có liên hệ ở đây là những nguyên tắc căn bản như giá trị sinh mạng và phẩm giá con người, tự do tôn giáo, sự sống chung hòa bình và hòa giữa các cá nhân và giữa các dân tộc.

ĐHY Parolin cũng nhấn mạnh rằng các cuộc xung đột ở Trung Đông là một trong những đe dọa nghiêm trọng nhất đối với sự ổn định quốc tế. Hòa bình ở Trung Đông không thể tìm kiếm bằng những chọn lựa đơn phương áp đặt bằng võ lực.

ĐHY nhắc đến lời ĐTC lên án nạn buôn bán võ khí là một trong những nguyên nhân tạo nên nhiều nạn nhân ở Trung Đông và cộng đồng quốc tế không thể nhắm mắt làm ngơ trước vấn đề này.

ĐHY Quốc vụ khanh nói đến nạn xuất cư của các tín hữu Kitô ra khỏi Trung Đông, vai trò của Giáo Hội và của cộng đồng quốc tế. Ngài kêu gọi đi tới và giải quyết tận căn những nguyên nhân gây ra các vấn đề hiện nay và cổ võ con đường đối thoại và thương thuyết vì con đường bạo lực chỉ đưa tới tàn phá, đồng thời ĐHY xác quyết rằng việc bảo vệ các tín hữu Kitô và tất cả các nhóm tôn giáo và chủng tộc thiểu số cần phải đặt trong bối cảnh bảo vệ con người và tôn trọng nhân quyền, đặc biệt là tự do tôn giáo và tự do lương tâm.

Đề cập đến thảm trạng của bao nhiêu người tị nạn, như một nửa dân số Siria đang cần được cứu trợ về nhân đạo, ĐHY Parolin nói: Giáo hội khuyến khích cộng đồng quốc tế quảng đại đáp ứng thảm trạng này, và về phần mình, Giáo hội cũng đóng góp, đặc biệt qua các Caritas địa phương và các cơ quan cứu trợ Công Giáo, giúp đỡ các nạn nhân, không những các tín hữu Kitô, nhưng tất cả những người đang chịu đau khổ.

Trong công nghị, ĐTC đã ấn định ngày phong hiển thánh cho chân phước LM Joseph Vaz là 14-1-2015, trong chuyến viếng thăm của ngài tại Sri Lanka từ 13 đến 15-1 năm tới. Thánh nhân từ Ấn Độ đến truyền giáo tại Sri Lanka trong thời kỳ người Hòa Lan bách hại các tín hữu Kitô tại đảo này. (SD 20-10-2014)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio
 

Tòa Thánh mời gọi các tín hữu Ấn Giáo cộng tác chống văn hóa loại trừ

Tòa Thánh mời gọi các tín hữu Ấn Giáo cộng tác chống văn hóa loại trừ

VATICAN. Hội đồng Tòa Thánh đối thoại liên tôn mời gọi các tín hữu Ấn giáo cộng tác để thăng tiến nền văn hóa bao gồm và chống lại nền văn hóa loại trừ.

Trên đây là nội dung sứ điệp của Hội Đồng Tòa Thánh đối thoại liên tôn công bố hôm 20-10-2014, để chúc mừng các tín hữu Ấn giáo trên thế giới nhân lễ Deepavali, là lễ ánh sáng siêu việt, sẽ được cử hành vào ngày 23-10-2014. Sứ điệp mang chữ ký của ĐHY Chủ tịch Jean Louis Tauran và vị Tổng thư ký là Cha Mighuel Ángel Ayuso Guixot, người Tây Ban Nha, viết:

”Đứng trước tình trạng gia tăng kỳ thị, bạo lực và loại trừ ở các nơi trên thế giới, việc nuôi dưỡng một nền văn hóa bao gồm có thể được coi như một trong những khát vọng chân thành nhất của dân chúng ở mọi nơi”.

Sứ điệp của Tòa Thánh nhìn nhận có những điều tích cực do sự hoàn cầu hóa mang lại cho thế giới, mở ra những biên cương mới, cung cấp những cơ hội phát triển, cơ may giáo dục và săn sóc sức khỏe tốt đẹp hơn, nhưng sự hoàn cầu hóa hiện nay chưa đạt được đối tượng chủ yếu là hội nhập dân chúng địa phương vào cộng đồng hoàn cầu. Đúng hơn, hoàn cầu hóa đã góp một phần lớn làm cho nhiều dân tộc đánh mất căn tính xã hội văn hóa, kinh tế và chính trị của mình.

”Những công hiệu tiêu cực của sự hoàn cầu hóa cũng ảnh hưởng tới các cộng đồng tôn giáo trên thế giới, vì các tôn giáo có liên hệ mật thiết với các nền văn hóa xung quanh. Hoàn cầu hóa góp phần làm phân hóa xã hội, gia tăng trào lưu duy tương đối, tôn giáo hỗn hợp và tư nhân hóa tôn giáo. Trào lưu tôn giáo cực đoan cũng như những xung đột về chủng tộc, bộ tộc và phe phái ở các nơi trên thế giới ngày nay phần lớn là những biểu hiện sự bất mãn, bất an và bấp bênh nơi dân chúng, nhất là những người nghèo và những người bị gạt ra ngoài lề xã hội, không được hưởng những thiện ích của sự hoàn cầu hóa.

Hội đồng Tòa Thánh cũng nhận xét rằng ”Những hậu quả tiêu cực của sự hoàn cầu hóa như sự lan tràn trào lưu duy vật và duy tiêu thụ làm cho dân chúng vị kỷ hơn, khao khát quyền lực và dửng dưng đối với các quyền, nhu cầu và đau khổ của người khác. Nói theo lời của ĐGH Phanxicô, đó là ”hoàn cầu hóa sự dửng dưng” khiến chúng ta dần dần lãnh đạm đối với những đau khổ của người khác và khép kín vào mình (Sứ điệp Ngày Hòa bình thế giới 2014). Sự dửng dưng ấy tạo nên nền văn hóa loại trừ, trong đó người nghèo, những người bị gạt ra ngoài lề và dễ bị tổn thương, bị chối bỏ các quyền lợi cũng như cơ may và tài nguyên mà các thành phần khác trong xã hội được hưởng..”

Sứ điệp của Hội đồng Tòa Thánh đối thoại liên tôn kết luận rằng ”Vì thế, việc nuôi dưỡng một nền văn hóa bao gồm trở thành một lời kêu gọi chung và là một trách nhiệm chung mà chúng ta cần cấp thiết lãnh nhận. Đó là một dự phóng bao gồm những người quan tâm đến sự khỏe và sự sống còn của gia đình nhân loại trên trái đất này và cần được thi hành, mặc dù có những thế lực kéo dài nền văn hóa lại trừ” (SD 20-10-2014)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Lễ phong chân phước cho Đức Phaolô 6 và bế mạc Thượng HĐGM thế giới

Lễ phong chân phước cho Đức Phaolô 6 và bế mạc Thượng HĐGM thế giới

VATICAN. Sáng chúa nhật 19-10-2014, ĐTC Phanxicô đã chủ sự thánh lễ trước sự hiện diện của 80 ngàn tín hữu tại Quảng trường Thánh Phêrô để tôn phong ĐGH Phaolô 6 lên bậc chân phước đồng thời bế mạc Thượng Hội đồng Giám Mục khóa đặc biệt thứ 3 sau 2 tuần tiến hành với chủ đề ”Những thách đố về việc mục vụ gia đình trong bối cảnh loan báo Tin Mừng”.

Paul VI PP

Đồng tế với ĐTC trong thánh lễ tại Quảng trường Thánh Phêrô dưới bầu trời nắng thu thật đẹp, có gần 200 nghị phụ, hàng trăm Hồng Y và GM Italia và các nước khác về dự lễ phong chân phước, và gần 1 ngàn linh mục ngồi trong khu vực riêng trước thềm Đền thờ. Đặc biệt lúc 10 giờ sáng, Đức nguyên Giáo Hoàng Biển Đức 16, trong phẩm phục đồng tế, tiến ra lễ đài và ngồi nơi hàng ghế cạnh các Hồng y đồng tế. Các tín hữu đã vỗ tay nồng nhiệt chào đón ngài.

Khi tiến ra bàn thờ, ĐTC Phanxicô đã đến chào vị Giáo Hoàng tiền nhiệm của ngài.

Đứng cạnh ĐTC trên bàn thờ là 6 chức sắc của Thượng HĐGM và có thêm 4 vị GM, Hồng Y có liên hệ đặc biệt với vị tân chân phước, đó là ĐGM giáo phận Brescia nguyên quán của Đức Phaolô 6, ĐHY Scola kế nhiệm Người trong chức vụ TGM Milano, ĐHY Re cùng thuộc giáo phận Brescia và sau đùng là ĐHY Vallini giám quản Roma.
Áo lễ ĐTC Phanxicô mặc cũng là áo lễ ĐGH Phaolô 6 nhận được trong dịp ngài mừng sinh nhật thứ 80 và chén lễ cũng là chén mà Đức Phaolô 6 đã dùng.

Trong số các tín hữu hiện diện trong thánh lễ, đặc biệt có 3 ngàn tín hữu từ giáo phận Milano và 5.300 người khác từ giáo phận Brescia của Đức chân phước Giáo Hoàng, trong khi các chủng sinh của hai giáo phận này đảm nhận việc giúp lễ.

Đầu thánh lễ, sau kinh thương xót, Đức Cha Monari, GM giáo phận Brescia, cùng với Cha Antonio Marrazzo, dòng Chúa Cứu Thế là thỉnh nguyện viên án phong, đã tiến lên trước ĐTC xin ngài tiến hành việc phong chân phước cho Vị Tôi Tớ Chúa Phaolô 6, Giáo Hoàng. Trong dịp này, tiểu sử của Đức Phaolô 6 cũng được trình bày.
Tóm lược tiểu sử vị tân chân phước

Đức Giáo Hoàng Phaolô 6 tên là Giovanni Battista Montini, sinh cách đây 117 năm (26-9 năm 1897) tại làng concesio, giáo phận Brescia, bắc Italia. Thân phụ ngài vốn là một luật sư, làm chủ báo ”Công dân Brescia” (Il Cittadino di Brescia) và sau này làm đại biểu của 3 khóa quốc hội thuộc đảng nhân dân Italia.

Thầy Montini thụ phong linh mục năm 1920, lúc mới 23 tuổi, tốt nghiệp triết học và dân luật ở Roma, và giáo luật ở Milano. Gia nhập trường ngoại giao Tòa Thánh rồi năm 1923 được gửi đi làm tùy viên ở Tòa Sứ Thần Tòa Thánh ở Varsava, thủ đô Ba Lan. Nhưng chẳng bao lâu vì sức khỏe yếu, cha trở về Roma và phục vụ tại Phủ quốc vụ khanh và dần dần được giao phó nhiều trách nhiệm hơn. Đồng thời cha cũng làm tuyên úy cho liên hiệp các sinh viên đại học Công Giáo Italia. Cha cố gắng giúp các sinh viên Công Giáo thấm nhuần các giá trị để có thể kháng cự lại ảnh hưởng của phong trào sinh viên phát xít. Cha cũng dạy về lịch sử ngành ngoại giao Tòa Thánh tại Giáo Hoàng đại học Laterano ở Roma.

Sau 28 năm phục vụ tại Vatican, cuối tháng 11 năm 1952, cha Montini được Đức Giáo Hoàng Piô 12 bổ làm Quyền Quốc vụ khanh Tòa Thánh đặc trách thường vụ, và 2 năm sau ngài được bổ nhiệm làm TGM giáo phận Milano là giáo phận lớn nhất tại Âu Châu.

Đức TGM Montini dành trọn 8 năm để tái thiết và tổ chức lại giáo phận Milano bấy giờ đang ở trong tình trạng rất khó khăn và bấp bênh về kinh tế cũng như do hiện tượng di cư từ miền nam Italia, sự lan tràn chủ nghĩa vô thần và mác xít nơi giới lao động. Đức Montini tìm kiếm sự đối thoại và hòa giải với mọi lực lượng xã hội và khởi sự công trình Kitô hóa thực sự nơi giới công nhân, nhất là qua hiệp hội công nhân Công giáo Italia, gọi tắt là Acli.
Sau khi ĐGH Gioan 23 qua đời hồi tháng 6 năm 1963, ĐHY Montini được bầu làm Giáo Hoàng. Ngài là vị giáo hoàng cuối cùng đội triều thiên 3 tầng; và 5 tháng sau, ngài long trọng đặt triều thiên này trên bàn thờ ở Đền thờ Thánh Phêrô như một dấu chỉ từ bỏ ”vinh quang và quyền lực phàm nhân”.

Đứng trước một thực tại xã hội ngày càng có xu hướng tách rời khỏi linh đạo, và bị tục hóa, đứng trước một quan hệ khó khăn giữa Giáo Hội và thế giới, Đức Giáo Hoàng Phaolô 6 đã luôn biết chứng tỏ đâu là những con đường đức tin và nhân đạo, qua đó có thể tiến tới một sự cộng tác liên đới với nhau để mưu công ích.
Ngài cố gắng duy trì sự hiệp nhất của Giáo Hội Công Giáo, trước sự kiện một đàng phe siêu bảo thủ tố giác ngài là cởi mở thái quá, nếu không muốn nói là theo phe duy tân, và đàng khác có những phe giáo sĩ gần gũi với các chủ trương xã hội chủ nghĩa, thì phê bình ĐGH là bất động.

Đức Phaolô 6 đã mở đầu thói quen viếng thăm mục vụ tại các đại lục từ Thánh Địa với cuộc gặp gỡ Đức Thượng Phụ Chính Thống Athenagoras, cho tới Ấn độ, LHQ, Fatima, Thổ nhĩ kỳ, Colombia, Genève và Uganda, Viễn Đông, Australia và Đại dương châu, và rất nhiều cuộc viếng thăm khác ở Italia.
Ngài công bố 7 thông điệp, bắt đầu là thông điệp Ecclesiam Suam cách đây đúng 50 năm, và sau cùng là thông điệp Humanae vitae, Sự sống con người, về hôn nhân và điều hòa sinh sản.
Đức Phaolô 6 đã áp dụng các giáo huấn của Công đồng và tiếp tục công trình canh tân Giáo Hội, thiết lập Ngày Hòa Bình thế giới. Ngài cũng chịu đau khổ nhiều vì cuộc khủng hoảng nơi các chi thể của thân mình Giáo hội và đáp lại bằng sự can đảm thông truyền đức tin, bảo đảm đạo lý chắc chắn trong một thời kỳ có nhiều đảo lộn ý thức hệ.

Đức Giáo Hoàng Phaolô 6 qua đời ngày 6-8-1978 tại Castel Gandolfo, sau một cơn bệnh ngắn, hưởng thọ 81 tuổi.
Sau khi ĐTC đọc công thức phong chân phước, thánh tích của Đức Phaolô 6 được nữ tu Giacomina Padrini, cùng với nước người cầm hoa nến tháp tùng rước lên bàn thờ. Thánh tích này là một mảnh áo của Đức Phaolô 6 bị thấm máu vì ngài bị mưu sát ngày 28-11 năm 1970 trong chuyến viếng thăm mục vụ tại Manila, Philippines.
Bài giảng của ĐTC

”Chúng ta vừa nghe một trong những câu thời danh nhất trong toàn Tin Mừng: ”Vậy hãy trả lại cho Cesar điều gì thuộc về Cesar, và trả lại cho Thiên Chúa điều thuộc về Thiên Chúa” (Mt 22,21). Trước sự khiêu khích của những người Biệt Phái, là những người có thể nói là muốn khảo hạch Chúa Giêsu về đạo và kéo vào chỗ sai lầm, Ngài trả lời bằng một câu nói mỉa mai và khéo léo ấy. Đó là một câu trả lời hiệu nghiệm mà Chúa gửi cho tất cả những người đặt vấn đề lương tâm, nhất là khi có liên quan tới lợi lộc, của cải và uy tín, quyền hành và danh tiếng của họ. Và điều này vẫn luôn xảy ra trong mọi thời đại.

Chắc chắn điều mà Chúa Giêsu nhấn mạnh là phần hai trong câu nói: ”Và hãy trả lại cho Thiên Chúa điều thuộc về Thiên Chúa”. Điều này có nghĩa là – đứng trước bất kỳ loại quyền bính nào – cần nhìn nhận và tuyên xưng rằng chỉ một mình Thiên Chúa là chúa tể của loài người, và không có ai khác. Đây là một sự mới mẻ ngàn đời cần phải tái khám phá mỗi ngày, vượt thắng sự sợ hãi mà nhiều khi chúng ta cảm thấy trước những điều ngạc nhiên về Thiên Chúa.

Chúa không sợ những điều mới mẻ! Vì thế, Ngài liên tục làm cho chúng ta ngạc nhiên, mở ra và dẫn đưa chúng ta vào những con đường chưa được nghĩ tới. Chúa đổi mới chúng ta, nghĩa là liên tục làm cho chúng ta 'trở nên mới'. Một Kitô hữu sống Tin Mừng là ”một sự mới mẻ của Thiên Chúa” trong Giáo Hội và trong thế giới. Và Thiên Chúa yêu mến ”sự mới mẻ ấy” dường nào! ”Hãy trả cho Thiên Chúa điều thuộc về Thiên Chúa” có nghĩa là cởi mở đối với Thánh Ý Chúa và tận hiến cuộc sống của chúng ta cho Chúa, và cộng tác vào Nước từ bi, yêu thương và an bình của Ngài.

Đây chính là sức mạnh đích thực của chúng ta, là men khơi dậy sức mạnh và là muối mang lại hương vị cho mỗi cố gắng của con người chống lại thái độ bi quan thịnh hành mà thế giới đang đề nghị cho chúng ta. Đây chính là niềm hy vọng của chúng ta vì niềm hy vọng nơi Thiên Chúa không phải là một sự trốn chạy thực tại, không phải là một cớ thoái thác: đó là hoạt động trả lại cho Thiên Chúa điều thuộc về Ngài. Chính vì điều này mà Kitô hữu nhìn thực tại tương lai, thực tại của Thiên Chúa, để sống trọn vẹn cuộc sống – với đôi chân đặt vững trên mặt đất – và can đảm đáp lại vô số những thách đố mới.

Chúng ta đã thấy điều này trong trong những ngày Thượng HĐGM khóa đặc biệt – Sinodo có nghĩa là đồng hành. Thực vậy, các vị chủ chăn và giáo dân từ các nơi trên thế giới đã mang đến Roma này tiếng nói các Giáo hội địa phương của họ để giúp các gia đình ngày nay tiến bước trên con đường Tin Mừng, với cái nhìn chăm chú vào Chúa Giêsu. Đó là một kinh nghiệm lớn trong đó chúng ta đã sống công nghị tính và cộng đoàn tính và chúng ta đã cảm thấy sức mạnh của Chúa Thánh Linh hướng dẫn và luôn canh tân Giáo Hội, Giáo Hội không ngừng được kêu gọi mau mắn chữa trị các vết thương rướm máu và khơi lên niềm hy vọng cho bao nhiêu người không có hy vọng.
Vì hồng ân Thượng HĐGM này và vì tinh thần xây dựng mà mọi người mang lại, cùng với thánh Phaolô Tông Đồ: ”chúng ta hãy luôn cảm tạ Thiên Chúa cho tất cả anh chị em, nhắc nhớ anh chị em trong kinh nguyện của chúng tôi” (1 Ts 1,2). Và Chúa Thánh Linh, trong những ngày làm việc này, đã ban cho chúng ta quảng đại hoạt động với tinh thần tự do đích thực và với tinh thần sáng tạo khiêm tốn, xin Chúa tháp tùng hành trình, trong các Giáo Hội trên toàn trái đất, chuẩn bị chúng ta tiến hành Thượng HĐGM thế giới khóa thường lệ vào tháng 10 năm 2015. Chúng ta đã gieo vãi và chúng ta sẽ còn tiếp tục gieo vãi trong kiên nhẫn và kiên trì, chắc chắn rằng Chúa sẽ làm tăng trưởng điều mà chúng ta đã gieo vãi (1 Cr 3,6).

Chân phước Phaolô 6

Trong ngày phong chân phước cho Đức Giáo Hoàng Phaolô 6 hôm nay, tôi nhớ đến những lời của Người, khi thành lập Thượng HĐGM: ”Khi chú ý xem xét những dấu chỉ thời đại, chúng ta tìm cách thích ứng cuộc sống và các phương pháp .. với những nhu cầu gia tăng ngày nay và với những hoàn cảnh biến đổi của xã hội” (Tông thư Tự Sắc Apostolica sollicitudo).

Đối với vị Đại Giáo Hoàng, là Kitô hữu can đảm và là tông đồ không biết mệt mỏi này, trước Thiên Chúa ngày hôm nay, chúng ta chỉ có thể nói một lời rất đơn sơ cũng như lời chân thành và quan trọng này: cám ơn Người! Xin cám ơn Đức Giáo Hoàng Phaolô 6 yêu quí và được yêu mến của chúng con! Cám ơn vì chứng tá khiêm tốn và ngôn sứ của Người về lòng yêu mến Chúa Kitô và Giáo Hội!

Trong nhật ký riêng, Vị Đại Hoa Tiêu của Công đồng này, sau khi bế mạc Công đồng đã ghi chú: ”Có lẽ Chúa đã gọi tôi và ủy cho tôi công tác phục vụ này không phải vì tôi có tài năng nào đó, hoặc để tôi cai quản và cứu vãn Giáo Hội khỏi những khó khăn hiện nay, nhưng để tôi chịu đau khổ cách nào đó vì Giáo Hội, và để rõ ràng là Chúa, chứ không ai khác, là vị đang hướng dẫn và cứu vãn Giáo Hội” (P. Macchi, Paolo VI nella sua Parola, Brescia 2001, pp.. 120-121). Trong sự khiêm tốn sáng ngời này, sự cao cả của Chân Phước Phaolô 6 đã biết hướng dẫn một cách khôn ngoan và sáng suốt tay lái con thuyền Phêrô mà không bao giờ đánh mất niềm vui và tín thác nơi Chúa, giữa lúc một xã hội tục hóa và thù nghịch đang xuất hiện ở chân trời.

Đức Phaolô 6 thực sự đã biết trả lại cho Thiên Chúa những gì là của Thiên Chúa khi dành trọn cuộc đời của Người cho ”sự dấn thân thánh thiêng, trọng đại và rất quan trọng: đó là tiếp tục trong thời gian và mở rộng sứ mạng của Chúa Kitô trên trái đất” (Bài Giảng lễ đăng quang: Insegnamenti I, 1963, p.26), bằng cách yêu mến Giáo Hội và hướng dẫn Giáo Hội để ”Giáo Hội đồng thời là người mẹ yêu thương của tất cả mọi người và là ngừơi ban phát ơn cứu độ” (Thông điệp Ecclesiam Suam, Lời Tựa).

Ý nguyện và kinh Truyền Tin

Trong các ý nguyện được xướng lên trong phần lời nguyện giáo dân có lời cầu xin Chúa thánh hóa sự kết hiệp của các đôi vợ chồng Kitô bằng ơn thánh sự hiện diện của Chúa và xin Chúa cho phẩm giá của các trẻ em và người già được bảo vệ trong mỗi gia đình; xin Chúa làm cho mọi người được biết sự khôn ngoan của thập giá Chúa nhờ chứng từ của các vị tử đạo và những người bị bách hại; xin cho các nhà lãnh đạo chính trị và tất cả những kẻ cường quyền từ bỏ con đường oán hận và chiến tranh.

Cuối thánh lễ, ĐTC đã chủ sự buổi đọc kinh Truyền Tin. Ngài chào thăm các tín hữu hành hương từ Italia và nhiều nước, cũng như các phái đoàn chính thức, và đặc biệt là các tín hữu từ các giáo phận Brescia, Milano và Roma có liên hệ đặc biệt tới cuộc sống và sứ vụ của ĐGH Montini.

ĐTC cũng nói rằng ”Đức tân Chân phước là người hăng say nâng đỡ sứ vụ truyền giáo cho dân ngoại, bằng chứng đặc biệt là Tông Huấn Evangelii nuntiandi của Người, qua đó Người muốn thức tỉnh đà tiến và sự dấn thân cho sứ mạng truyền giáo của Giáo Hội. Cần đặc biệt để ý đến khía cạnh này trong triều đại Giáo Hoàng của Đức Phaolô 6, nhất là hôm nay chúng ta cử hành Ngày Thế Giới Truyền giáo.

ĐTC không quên đề cao lòng sùng kính sâu xa của Đức Chân Phước Phaolô 6 đối với Đức Mẹ. Dân Kitô giáo luôn biết ơn vị Giáo Hoàng này vì Tông Huấn Marialis cultus về lòng tôn sùng Đức Mẹ và vì đã tuyên xưng Đức Maria là Mẹ Giáo Hội nhân dịp bế mạc khóa III của Công đồng chung Vatican 2.

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Kết thúc Thượng Hội Đồng Giám Mục đặc biệt về gia đình

Kết thúc Thượng Hội Đồng Giám Mục đặc biệt về gia đình

VATICAN. Bản tường trình chung kết của Thượng Hội Đồng Giám Mục đặc biệt về gia đình đã được thông qua và công bố chiều tối thứ bẩy, 18-10-2014.

Trong phiên khoáng đại thứ 15 và là phiên cuối cùng, trước sự hiện diện của ĐTC, các nghị phụ đã thông qua Bản tường trình gồm 62 đoạn được đánh số theo thứ tự và được các nghị phụ bỏ phiếu từng đoạn.

Có một số đoạn gây nhiều tranh luận, tuy được thông qua, nhưng không đạt tới mức 2 phần 3 số phiếu. Ví dụ đoạn số 41 nói về việc nhận cho những người ly dị tái hôn dân sự được rước lễ còn bị tranh luận nhiều nhất với 104 phiếu thuận và 74 phiếu chống. Còn đoạn số 55 nói về việc đón nhận những người có xu hướng đồng tính luyến ái, tuy có thay đổi văn bản, và trích dẫn Sách Giáo Lý chung của Hội Thánh Công Giáo nhưng chỉ được 118 phiếu thuận và 62 phiếu chống.

Đoạn số 51 về tình trạng những người ly dị tái hôn cần được săn sóc mục vụ, được thông qua với 155 phiếu thuận và 19 phiếu chống.

Trước tình trạng một số đoạn không có sự đồng thuận của Thượng HĐGM, tuy được đa số phiếu quá bán, nhưng không được đa số 2 phần 3 như thế, ĐTC Phanxicô quyết định vẫn để cho toàn bộ bản tường trình thuộc văn kiện tạm thời và gửi đến các Giáo Hội địa phương để chuẩn bị cho Thượng HĐGM thế giới khóa thường lệ thứ 14 vào tháng 10 năm tới. Ngài cũng cho phép để công chúng, qua các ký giả, được biết mỗi đoạn được bao nhiêu phiếu, để hiểu mức độ đồng thuận của các nghị phụ về từng điểm.

Diễn văn bế mạc

Trong diễn văn bế mạc, sau khi cám ơn các vị trong Văn phòng Tổng thư ký và các vị điều hành khóa họp này cũng như tất cả các nghị phụ, dự thính viên, chuyên viên và cộng tác viên, ĐTC nói:

”Tôi có thể nói một cách thanh thản rằng – với một tinh thần toàn thể tính và công nghị tính – chúng ta đã thực sự sống kinh nghiệm ”Sinodo”, một hành trình liên đới, đồng hành.

Vì là một hành trình – và cũng như mọi cuộc hành trình, đã có những lúc chạy nhanh, hầu như một thắng thời gian và đạt tới đích sớm nhất có thể; có những lúc khác mệt mõi, hầu như muốn nói 'đủ rồi'; có những lúc hăng say phấn khởi. Có những lúc an ủi sâu xa khi nghe chứng tử của các vị mục tử đích thực (Xc Ga 10 và GL 375, 386,387) mang trong con tim một cách khôn ngoan những vui mừng và nước mắt của các tín hữu. Những lúc an ủi và ân phúc, được khích lệ khi nghe những chứng từ của cac gia đình đã tham gia Thượng HĐGM và đã chia sẻ với chúng ta vẻ đẹp và niềm vui đời sống hôn nhân của họ. Một hành trình trong đó người mạnh nhất cảm thấy nghĩa vụ phải giúp đỡ những người yếu nhất, trong đó người giải nhất sẵn sàng giúp đỡ những người khác, kể cả qua những lúc đụng độ với nhau. Và vì là một hành trình của con người, có những an ủi nhưng cũng có những lúc buồn chán, căng thẳng và cám dỗ.

ĐTC đã kể ra một số cám dỗ có thể có:

– Thứ I là cám dỗ cứng nhắc đố kỵ, nghĩa là muốn khép kín trong chữa viết chứ không để cho mình được Thiên Chúa làm ngạc nhiên, Thiên Chúa của những ngạc nhiên, là tinh thần; khép kín trong luật lệ, trong sự chắc chắn về những gì chúng ta biết chứ không phải về những điều mà chúng ta còn phải học và đạt tới. Từ thời Chúa Giêsu, đó là cám dỗ của những người nhiệt thành, những người bối rối, những người ân cần và của những người ngày nay gọi là duy truyền thống (traditionalisti) và cả những người duy trí thức.

– Cám dỗ của những người xuề xòa hủy hoại, nhân danh lòng từ bi đánh lừa, băng bó các vết thương trước khi chữa trị, xức thuốc cho nó; họ chữa trị các triệu chứng mà không chữa nguyên nhân và căn cội. Đó là cám dỗ của những người dễ dãi, những người nhát sợ và cả những người gọi là ”cấp tiến và duy tự do”.

– Cám dỗ muốn biến đá thành bánh, để chấm dứt cuộc ăn chay lâu dài, nặng nề và đau thương (Xc Lc 4,1-4) và biến bánh thành đá, để ném vào những ngừơi tội lỗi, những người yếu đuối và bệnh nhân (Xc Ga 8,7) nghĩa là biến nó thành ”những gánh nặng không thể vác nổi” (Lc 10,27).

– Cám dỗ xuống khỏi thập giá, để làm hài lòng dân, chứ không ở lại trên thập gia để thi hành thánh ý Chúa Cha; khuất phục tinh thần trần thế thay vì thanh tẩy nó và làm cho nó tùng phục Thánh Linh của Thiên cHúa.
– Cám dỗ lơ là đối với kho tàng đức tin, coi mình không phải là người bảo quản nhưng là sở hữu chủ và là chủ nhân, hoặc đàng khác, là cám dỗ lơ là thực tại, dùng một ngôn ngữ tỷ mỉ, và một ngôn ngữ chà nhám để nói bao nhiêu sự mà chẳng nói gì cả! Những thứ đó, người ta gọi là bizantinismi..

Anh chị em thân mến, những cám dỗ đó không được làm cho chúng ta kinh hãi hay ngỡ ngàng và càng không được làm cho chúng ta nản chí, vì không môn đệ nào lớn hơn thầy mình; vì thế nếu Chúa Giêsu đã bị cám dỗ – thậm chí Ngài bị gọi là tướng quỉ Beelzebul (Xc Mt 12,24) – thì các môn đệ của Chúa không thể mong đợi được đối xử tốt đẹp hơn.

Bản thân tôi, tôi sẽ rất lo lắng và buồn nếu không có những cám dỗ ấy và những cuộc tranh luận sôi nổi; nếu không sự chuyển động tinh thần như vậy, như thánh Ignatio (EE, 6) đã gọi, nếu tất cả đều đồng ý và im lặng trong một thứ an bình giả tạo. Trái lại tôi đã thấy và đã nghe – với niềm vui và biết ơn – những diễn văn và những phát biểu đầy niềm tin, lòng nhiệt thành mục vụ và đạo lý, khôn ngoan, thẳng thắn, can đảm và tự do ngôn luận. Và tôi đã cảm thấy rằng thiện ích của Giáo Hội, của các gia đình và quy luật tối hậu là phần rỗi các linh hồn (Xc GL 1752) được đặt trước mắt mình. Và điều này – như chúng ta đã nói ở Hội trường này – không bao giờ đặt lại vấn đề các chân lý nền tảng của bí tích Hôn phối là tính chất bất khả phân ly, một vợ một chồng, chung thủy, sinh sản con cái hay là cởi mở đối với sự sống (Xc GL 1055, 1056 và GS 48).

”Giáo Hội là như thế, là vườn nho của Chúa, là Mẹ đông đảo con cái và là Thày dạy ân cần, không sợ phải xắn tay áo lên để đổ dầu và rượu vào vết thương của con người (Xc Lc 10, 25-37); Giáo hội không nhìn nhân loại từ một lâu đài bằng kiếng để phán xét và xếp loại con người….

Và ĐTC kết luận rằng: ”Anh chị em thân mến, giờ đây chúng ta còn một năm để làm cho những ý tưởng đề nghị được chín mùi, với sự phân định tinh thần đích thực, để tìm ra những giải pháp cụ thể cho bao nhiêu khó khăn và vô số các thách đố mà các gia đình phải đương đầu, mang lại câu trả lời cho bao nhiêu nản chí vây bủa và bóp nghẹt các gia đình.

Một năm để làm việc về bản Tường trình của Thượng HĐGM là bản tóm lược trung thành và rõ ràng về tất cả những gì đã được nói và thảo luận tại Hội trường này và trong các nhóm nhỏ và bản này được trình bày cho các HĐGM như tài liệu chuẩn bị (Lineamenta).

Xin Chúa tháp tùng, hướng dẫn chúng ta trong hành trình này để làm vinh danh Chúa nhờ lời chuyển cầu của Mẹ Maria, Thánh Giuse! Xin anh chị em vui lòng cầu nguyện cho tôi!

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio
 

Nên nộp thuế chăng?

Nên nộp thuế chăng?

(Trích trong ‘Sống Tin Mừng’ – R. Veritas)

Đi hỏi xem Đức Giáo Hoàng có bao nhiêu sư đoàn? Stalin đã có lần thốt lên như thế khi nhắc đến người có vai trò trung gian của Tòa thánh trong chiến trường quốc tế. Không đầy một thế kỷ sau, một vị Giáo hoàng đến từ Đông Au đã làm lung lay tận gốc rễ chế độ của Liên xô. Quả thật, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II tỏ ra là một con người đáng sợ đối với rất nhiều nhà lãnh đạo chính trị và người cuối cùng hẳn phải là chủ tịch Phidel Castro, người đã đặt tất cả nhân loại dưới bờ vực của chiến tranh nguyên tử từ đầu thập niên 60. Dưới mắt giới truyền thông, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II chỉ là một con người bảo thủ, bênh vực giá trị truyền thống. Thế nhưng, nếu ta cần chứng kiến khi những giá trị truyền thống ấy bảo đảm cho phẩm giá con người thì không ai tỏ ra thẳng thắn, can đảm cho bằng ngài.
 
Người ta vẫn còn nhớ khi đến Pháp lần đầu tiên từ năm 1981, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã không ngần ngại hỏi từng người dân Pháp, kể cả vị nguyên thủ quốc gia của nước này như sau: “Hỡi nước Pháp, tôi đã làm gì với phép rửa của ngươi?”. Câu hỏi ấy ngài đi thẳng vào lương tâm mỗi người dân Pháp: “Đâu là chỗ đứng của niềm tin tôn giáo trong cuộc sống của mỗi người?”.
 
Một câu hỏi như thế cũng có thể được nêu lên cho mỗi một người Kitô hữu chúng ta. Người có tôn giáo dễ có khuynh hướng phân chia cuộc sống thành nhiều ô độc lập với nhau, ô ở Công giáo, ô ở phố chợ với nhau, ô ở nhà thờ v.v. Sự phân chia ấy dễ tạo nên hai bộ mặt tương phản nơi người tín hữu. Một bộ mặt rất đạo đức ở nhà thờ hay khi cầu kinh và một bộ mặt phi đạo đức bên ngoài nhà thờ.
 
Khi tuyên bố: “Của Xêda hãy trả lại cho Xêda, của Thiên Chúa hãy trả lại cho Thiên Chúa”, Chúa Giêsu không những đã thoát được cái bẫy thâm độc của những người Biệt phái và phe Hêrôđê. Ngài còn khẳng định về chỗ đứng trong cuộc sống con người: “Của Thiên Chúa hãy trả cho Thiên Chúa”.
 
Thiên Chúa không phải là một vị thần, hay vị thần của thế giới thần linh. Thiên Chúa không phải là món đồ trang sức cho con người, nhưng Thiên Chúa là Chủ tể, là gia nghiệp, là tất cả của con người. Ngài không chiếm chỗ nhất trong cuộc sống con người, mà con người phải tìm kiếm Ngài trong tất cả mọi sự. Ngài không chỉ ngự một góc nào đó trong nhà thờ, Ngài không chỉ hiện diện trong một buổi cầu kinh nào đó. Ngài gặp gỡ con người ở khắp mọi nơi, trong mọi sinh hoạt của cuộc sống con người. “Của Thiên Chúa hãy trả lại cho Thiên Chúa”, có nghĩa là hãy dành chỗ nhất cho Ngài trong cuộc sống, tìm kiếm Ngài, gặp gỡ Ngài, yêu mến Ngài trong tất cả mọi sự.
 
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta tự vấn lương tâm và xác định lại sự chọn lựa căn bản của chúng ta. Niềm tin tôn giáo không phải là một sinh hoạt xa xỉ tùy tiện, được giản lược trong bốn bức tường của nhà thờ, hay chỉ trong bài diễn văn đặc biệt trong năm hay trong suốt một đời người. Niềm tin ấy phải thấm nhập vào toàn bộ cuộc sống và hướng dẫn mọi chọn lựa, suy nghĩ và hành động của người Kitô hữu.
 
Khi niềm tin được sống một cách triệt để như thế, thì Giáo Hội không chỉ có một vài sư đoàn, mà sẽ là một đạo binh có sức cải tạo và thay đổi bộ mặt của xã hội. Khi người tín hữu Kitô sống cho đến cùng những đòi hỏi của niềm tin, họ sẽ tìm được bình an và hạnh phúc đích thực cho cuộc sống, bởi vì họ có Chúa làm gia nghiệp cho cuộc đời.
 
Veritas Radio

CỦA THIÊN CHÚA TRẢ CHO THIÊN CHÚA

CỦA THIÊN CHÚA TRẢ CHO THIÊN CHÚA

Người Do Thái muốn gài bẫy Chúa nên đưa ra câu hỏi hóc búa. Không ngờ Chúa trả lời thật khôn ngoan: “Của César trả cho César, của Thiên Chúa trả cho Thiên Chúa”. Với câu trả lời này, Chúa Giêsu minh định hai điều:

Thứ nhất: Tôn giáo và chính trị tách biệt nhau. Chính trị không thể trở thành tôn giáo hoặc bắt tôn giáo làm nô lệ. Tôn giáo cũng không thể đi vào chính trị, đánh mất bản chất của mình.
 
Thứ hai: Mỗi người phải chu toàn hai nhiệm vụ. Nhiệm vụ đối với xã hội là “trả cho César” những gì của César. Nhiệm vụ đối với Thiên Chúa: “trả cho Thiên Chúa” những gì thuộc về Thiên Chúa.
 
Hình và huy hiệu khắc trên đồng tiền là của hoàng đế César vì thế phải trả lại cho ông. Nhưng linh hồn con người được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa nên linh hồn phải được trả về cho Thiên Chúa.
 
Để có được đồng tiền mang hình ảnh César, người dân phải làm việc vất vả. Cũng thế, để linh mang hình ảnh Thiên Chúa, con người cũng phải ra sức làm việc.
 
Nhưng hai cách làm việc thật khác xa nhau. Để chia sẻ phần nào quyền lực của vua chúa trần gian, người ta phải làm việc theo cách vua chúa đó là tìm chiếm hữu của cải. Để trở nên giống hình ảnh Thiên Chúa, con người phải suy nghĩ và hành động như Thiên Chúa đó là yêu thương và cho đi.
 
Bí tích Thánh Thể là minh họa rõ nét nhất về tính cách yêu thương và cho đi của Thiên Chúa. Nói về bí tích Thánh Thể, lòng trí ta tự nhiên hướng về bữa Tiệc Ly, cuộc Khổ Nạn và cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá. Qua đó ta thấy một vài khía cạnh trong tình yêu của Chúa.
 
Đó là tình yêu phục vụ. Tin Mừng thánh Gioan thuật lại. Chúa Giêsu yêu thương những kẻ thuộc về mình thì yêu thương cho đến cùng. Nên trong bữa ăn tối, Người cầm lấy chậu nước và khăn rồi đi rửa chân cho từng môn đệ.
 
Đó là tình yêu tự hiến. Khi lập phép Thánh Thể. Chúa Giêsu đã nói: “Đây là Mình Thày bị nộp vì anh em; Đây là Máu Thày đổ ra cho anh em và mọi người được tha tội” (Lc 22,19).
 
Đó là tình yêu hiền lành khiêm nhường. Chúa Giêsu cam lòng chịu kết án oan ức, chịu sỉ nhục, chịu hành hạ chịu chết mà chẳng một lời oán thán.
 

Đó tình yêu tha thứ. Không chỉ tha thứ mà còn cầu xin Chúa Cha tha cho những kẻ làm hại mình: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ lầm không biết” (Lc 23,34). Người cũng tha thứ cho kẻ trộm lành: “Thật Ta bảo thật, hôm nay con sẽ ở với Ta trên thiên đàng” (Lc 23,43).

Đó là tình yêu muốn tiếp diễn mãi mãi. Nên Người truyền cho ta: “Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thày” (Lc 22,19). Cử hành thánh lễ, chầu Mình Thánh, kiệu Thánh Thể để Chúa ở mãi với ta, tiếp tục bày tỏ tình yêu thương với ta.

Người mong muốn kéo dài tình yêu của Người cho đến tận cùng không gian và đến tận cùng thời gian nơi cuộc đời chúng ta. Vì thế khi ta chịu lễ, ta phải kết hiệp mật thiết với Người, nên một với Người. Nên một với Người là biến đổi để ta suy nghĩ, nói năng và hành động như Người, nghĩa là sống như Người.

Sống như Chúa là hãy có tình yêu thương phục vụ. Vì Chúa đã dạy: “Như Thày đã rửa chân cho các con, các con cũng hãy rửa chân cho nhau” (Ga 13,14). Sống như Chúa là hãy có tình yêu tự hiến. Quên mình vì hạnh phúc của người khác. Dám hy sinh thời giờ, sức khỏe, tiền bạc vì anh em. Sống như Chúa là hãy có lòng hiền lành khiêm nhường. Vì Chúa đã dạy: “Hãy học cùng Thày, vì Thày hiền lành và khiêm nhường trong lòng” (Mt 11,29). Sống như Chúa là hãy tha thứ, không phải chỉ tha thứ 7 lần mà đến 70 lần 7 (x. Mt 18,21-22).

Sống như thế, ta trở nên hình ảnh sống động của Thiên Chúa giữa trần gian. Sống như thế, ta trả cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa. Sống như thế ta tôn sùng bí tích Thánh Thể một cách thiết thực và hữu hiệu nhất. Sống như thế là sống nhờ Thánh Thể. Không còn sống cho những giá trị trần gian mau qua, nhưng sống cho những giá trị vĩnh cửu của Nước Trời.

Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, xin dạy con biết sống bí tích Thánh Thể để con được kết hiệp với Chúa và càng ngày càng nên giống Chúa hơn. Amen.

GỢI Ý CHIA SẺ

1- Ban đã phải trả cho César những gì thuộc về César. Nhưng bạn có thực sự trả cho Chúa những gì thuộc về Người không?

2- Bạn làm gì để nên giống Chúa?

3- Qua bí tích Thánh Thể, bạn có thể hiểu được gì về tình yêu Chúa đối với bạn?

ĐTGM Ngô Quang Kiệt

Bài giảng của Đức TGM Phaolô Bùi Văn Đọc tại Thượng Hội Đồng Giám Mục

Bài giảng của Đức TGM Phaolô Bùi Văn Đọc tại Thượng Hội Đồng Giám Mục

VATICAN. Sáng ngày 18-10-2014, Đức TGM Phaolô Bùi Văn Đọc đã trình bày bài suy niệm ngắn tại Thượng HĐGM thế giới.

Đầu phiên khoáng đại thứ 14 lúc 9 giờ sáng, đến lượt Đức Cha Phaolô Bùi Văn Đọc, TGM giáo phận Sàigòn, Chủ tịch Hội đồng GM Việt Nam, được mời trình bày bài suy niệm ngắn trong kinh Giờ Ba lúc 9 giờ, trước sự hiện diện của ĐTC và các nghị phụ. Ngài mời gọi các tín hữu tin nơi sức mạnh của Tin Mừng là nguồn mạch an vui và hạnh phúc.

Dưới đây là toàn văn bài suy niệm của Đức TGM Bùi Văn Đọc được Văn phòng Tổng thư ký Thượng HĐGM phổ biến:

”Quả thế, tôi không hổ thẹn vì Tin Mừng, vì Tin Mừng là sức mạnh Thiên Chúa dùng để cứu độ bất cứ ai có lòng tin” (Rm 1,16). Thánh Phaolô không hổ thẹn vì Tin Mừng, vì Người rao giảng Chúa Kitô chịu đóng đanh, là cớ vấp phạm đối với người Do thái, là sự điên rồ đối với dân ngoại. Chính cớ vấp phạm và sự điên rồ của tình yêu vô biên của Thiên Chúa được biểu lộ trong Chúa Kitô chịu đóng đanh, khiến ta không thể tự vệ, để cho mình bị giết.

”Nhưng đối với những người được kêu gọi, dù là Do thái hay Hy lạp, Đức Kitô là quyền năng của Thiên Chúa và là sự khôn ngoan của Thiên Chúa” (1 Cr 1,24). Vì "sự điên rồ của Thiên Chúa thì lớn hơn cái khôn ngoan của con người và sự yếu đuối của Thiên Chúa thì mạnh mẽ hơn sức mạnh của con người” (v. 25)

Vấn đề ở đây là đức tin. Chúng ta có tin hay không? Nếu chúng ta tin, thì Tin Mừng là ơn cứu độ chúng ta. Đức Kitô là niềm hy vọng của chúng ta, và Hy vọng cho tất cả mọi người. Chính Ngài là Đấng Cứu Độ duy nhất của chúng ta, chịu đóng đanh, bị giết, nhưng đã Sống Lại để làm cho chúng ta trở nên công chính; Ngài đang hiện diện giữa chúng ta, đồng hành với chúng ta hướng về tận cùng lịch sử. Chúa Kitô là niềm Hy vọng duy nhất cho đời sống gia đình của con người ngày nay và ngày mai”.

Tin Mừng là ơn cứu độ cho bất kỳ ai tin. Vì sự Công chính của Thiên Chúa được biểu lộ qua đó, nhất là Tình Thương, lòng Từ Bi và Tha Thứ. Tín hữu tham phần sự Công chính của Thiên Chúa, Tình Thương, lòng Từ Bi của Thiên Chúa; họ sống bằng Sự Sống của Thiên Chúa, nhờ đức tin. Đời sống đức tin là một hành trình từ đức tin tới đức tin, từ ơn thánh tới ơn thánh dồi dào hơn của Thiên Chúa, nhờ Đức Kitô.

Ơn Thánh này chính là Thần Trí của Thiên Chúa, là Gió thổi, và Hơi Thở sự sống. Tin là ”lắng nghe”, lắng nghe Tin Mừng, tin vui về Tình Yêu Cứu Độ của Thiên Chúa. Tin Mừng là một tin tức, một trình thuật về lịch sự Tình Yêu của Thiên Chúa. Chính Chúa Giêsu Kitô kể cho chúng ta; Chúa Giêsu Kitô là Thánh Sử Tin Mừng của chúng ta là những người nghèo. Vấn đề là chúng ta có tin nơi Đức Kitô một cách chân thành hay không.

Nếu chúng ta tin, chúng ta đón nhận điều được kể về Tình Yêu Thiên Chúa. Thiên Chúa từ bi vì Ngài toàn năng. Quyền năng của Thiên Chúa không phải là quyền lực tàn phá, nhưng làm cho sống. Với quyền năng này Thiên Chúa đã làm cho Đức Giêsu Kitô sống lại từ cõi chết. Và Sự Sống Lại của Đức Kitô là niềm Hy vọng của chúng ta, vì là Tình Yêu chiến thắng sự chết, tha thứ mọi tội lỗi cho những người đang cần. Chúng ta có tin nơi sức mạnh của Thiên Chúa, hoặc nơi sức mạnh của thế gian? Sức mạnh của thế gian đang tàn phá mọi sự, sự sống, tình yêu, gia đình nhân loại. Trái lại đời sống đức tin được diễn tả qua một cuộc sống yêu thương, là nguồn mạch vui mừng, hạnh phúc”.

Trong phiên khoáng đại thứ 14, từ 9 đến 12.30, các nghị phụ đã nghe trình bày bản dự thảo Tường trình chung kết của khóa họp, và bỏ phiếu thông qua Sứ điệp của Thượng HĐGM gửi Dân Chúa.

G. Trần Đức Anh OP chuyển ý

 

Tường trình của các nhóm nhỏ tại Thượng HĐGM thế giới về gia đình

Tường trình của các nhóm nhỏ tại Thượng HĐGM thế giới về gia đình

VATICAN. Thượng HĐGM thế giới khóa đặc biệt về gia đình đang tới hồi kết thúc. Trong phiên khoáng đại thứ 14 sáng thứ bẩy 18-10-2014, từ 9 giờ đến 12 giờ rưỡi, các nghị phụ sẽ nghe đọc dự thảo Bản tường trình kết thúc công nghị GM thế giới này, và bỏ phiếu chấp thuận văn bản chung kết Sứ điệp Thượng HĐGM gửi cộng đồng dân Chúa.

Ban chiều từ 4 giờ rưỡi đến 7 giờ, có phiên khoáng đại thứ 15 và là phiên cuối cùng. Các nghị phụ sẽ bỏ phiếu thông qua Bản tường trình Thượng HĐGM để đệ lên ĐTC. Văn kiện này chưa phải là quyết định chung kết nhưng sẽ được dùng làm Tài Liệu làm việc cho Thượng HĐGM thế giới khóa thường lệ lần thứ 14 nhóm vào tháng 10 năm tớim 2015.

Để đi tới Bản tường trình chung kết này, các nghị phụ đã làm việc khẩn trương trong hai tuần qua: trong tuần đầu là phần góp ý kiến, được đúc kết thành bản Tường trình giữa khóa mà ĐHY Peter Erdoe, người Hungari, Tổng tường trình viên, đã trình bày sáng thứ hai, 13-10, trong phiên khoáng đại thứ 11.

Bản này bị dư luận và nhiều nghị phụ phê bình và đã được nghiên cứu đào sâu thêm trong 6 cuộc họp nhóm nhỏ, mỗi nhóm khoảng từ 18 đến 20 nghị phụ, cùng với các dự thính viên và chuyên gia. Sau đó, sáng thứ năm, 16-10 vừa qua, Thượng HĐGM thế giới đã nhóm phiên khoáng đại thứ 12 để nghe tường trình về kết quả các cuộc thảo luận nhóm: 3 nhóm tiếng Ý, 3 nhóm tiếng Anh, 2 nhóm tiếng Pháp và 2 nhóm Tây Ban Nha. Vị tường trình viên của mỗi nhóm lần lượt trình bày kết quả cuộc thảo luận. Sau đây chúng tôi xin gửi đến quí vị một số ý chính trong các bản tường trình nhóm:

Vài nét chính trong các bản bá cáo của các nhóm

Tất cả các nhóm đều đưa ra nhiều nhận xét và đưa ra 500 yêu cầu sửa chữa bản phúc trình giữa khóa mà ĐHY Peter Erdoe trình bày.

Nói chung, Phúc trình này bị phê bình là quá nhấn mạnh đến các vấn đề, có nguy cơ làm cho các gia đình và người trẻ không quan tâm cố gắng làm cho hôn nhân và gia đình được tiến hành tốt đẹp. Theo nhiều nghị phụ, Thượng HĐGM về gia đình phải qui trọng tâm nhiều hơn về vẻ đẹp của hôn nhân và tránh để cho lối tiếp cận ”chào đón” và thương xót lấn át nghĩa vụ của Giáo Hội phải kêu gọi con người từ bỏ con đường tội lỗi.

Nhiều nhóm muốn có sự thay đổi lớn, hay là viết lại một số phần trong phúc trình giữa khóa, nhấn mạnh tầm quan trọng của một Giáo Hội tìm đến các gia đình và những người đang có vấn đề trong thế giới ngày nay, trong đó có những cặp sống chung mà không kết hôn, những tín hữu Công Giáo ly dị và tái hôn dân sự, những cặp đồng phái. Cần giúp đỡ và tháp tùng họ trở về cùng Giáo Hội. Hầu hết các nhóm nghị phụ đều muốn thấy Phúc trình chung kết của Thượng HĐGM này nhấn mạnh hơn về vẻ đẹp và sự thu hút trong cái nhìn của Thiên Chúa về hôn nhân bất khả phân ly giữa một người nam và một người nữ, cởi mở đối với sự sống.

– Nhóm Anh ngữ thứ 2, trong đó có ĐHY Timothy Dolan, TGM New York, Hoa Kỳ, ĐHY Wilfried Napier, TGM Durban, Nam Phi, và Đức TGM Diarmuid Martin của giáo phận Dublin, thủ đô Ai Len, cho biết nhiều vị trong nhóm cảm thấy rằng một người trẻ, khi đọc bản tường trình giữa khóa, sẽ cảm thấy bớt phấn khởi trong chấp nhận ơn gọi sống đời hôn nhân Kitô với tất cả những thách đố kèm theo.

– Nhóm tiếng Anh thứ 1, do ĐHY Raymond Burke, người Mỹ, Chủ tịch Tối Cao Pháp viện của Tòa Thánh, nói rằng bản Tường trình chung kết của Thượng HĐGM phải công bố chân lý Phúc Âm, sự sống con người, và tính dục dựa trên mạc phải và luật tự nhiên, vì việc săn sóc mục vụ không thể tách rời khỏi giáo huấn của Giáo Hội. Nhóm này cũng có ĐHY Gerhard Mueller, người Đức, Tổng trưởng Bộ giáo lý đức tin, Đức TGM Vincent Nichols của giáo phận Westminster, Anh quốc. Nhóm phê bình phương pháp của bản tường trình giữa khóa, theo đó trước tiên lắng nghe dân chúng trước khi phán đoán và phân định hành trình mục vụ. Theo nhóm, Giáo Hội luôn phải nhìn thế giới qua lăng kính Tin Mừng để có thể yêu thương và săn sóc con người, đồng thời thẳng thắn nhìn nhận những tình trạng tội lỗi và tìm kiếm con đường để mời gọi con người hoán cải tâm hồn.

Nhóm này cảm thấy phúc trình giữa khóa có vẻ như muốn nói tính dục ngoài hôn nhân và những lối sống bất hợp lệ có thể là điều được phép khi khẳng định rằng: ”Có những hạt giống sự thật và tốt đẹp ở nơi những ngừơi liên hệ, và qua việc săn sóc mục vụ, những hạt giống ấy có thể được quí chuộng và phát triển”. Nhóm này nói bất kỳ sự ngụ ý nào nói hành vi vô luân là điều có thể chấp nhận được, sẽ làm cho các cha mẹ ngỡ ngàng và tự hỏi: tại sao mình lại phải cố gắng vất vả như vậy để dạy con cái về Tin Mừng?

– Nhóm tiếng Anh thứ ba, trong đó có ĐHY Donald Wuerl, TGM thủ đô Washington, Hoa Kỳ, Đức TGM Joseph Kurtz của giáo phận Louisville, bang Kentucky, Chủ tịch HĐGM Mỹ, và Đức TGM Denis Hart của giáo phận Melbourne, Australia, tuyên bố là không muốn bản phúc trình chung kết làm suy yêu cảm thức hy vọng rằng ”sự dấn thân có hiệu quả và trọn đời trong hôn nhân là điều có thể đạt tới được”. Nhóm này nói: Giáo Hội cần tìm đến để chào đón, mà không phán xét hay lên án, những người vì lý do nào đó, chưa có thể diễn tả sự dấn thân trọn đời trong hôn nhân giữa một người nam và một ngừơi nữ”, nhưng nhóm cũng kêu gọi quan tâm làm sao để biểu lộ tình yêu của Thiên Chúa đối với con người, vì chúng ta có thể vô tình gây ra cảm tưởng hôn nhân không phải là quan trọng, hoặc nó chỉ là một lý tưởng mà một vài người ưu tuyển có thể đạt tới.

– Nhóm tiếng Ý thứ 2, trong đó có nhiều vị thuộc giáo triều Roma như ĐHY Walter Kasper, Pietro Parolin Quốc vụ khanh Tòa Thánh, ĐHY Gianfranco Ravasi, Chủ tịch Hội đồng văn hóa và Đức TGM Rino Fisichella, Chủ tịch Hội đồng tái truyền giảng Tin Mừng, kêu gọi nhấn mạnh làm sao để không có sự rạn nứt hay tách biệt giữa đạo lý và việc săn sóc mục vụ. Nhưng nhóm cũng nhấn mạnh trách nhiệm của Giáo Hội phải đưa ra một phán đoán về những vấn đề trong nền văn hóa ngày nay, Giáo Hội không thể quên vai trò ngôn sứ của mình và phải cảnh cáo những kẻ xấu về hình phạt của Thiên Chúa nếu họ không thay đổi cuộc sống gian ác (Ez 3,17-19).

– Nhóm tiếng Pháp do ĐHY Christoph Schoenborn, TGM giáo phận Vienne bên Áo, làm điều hợp viên, và có Đức TGM Paul-André Durocher của giáo phận Gatineau, Québec, Canada là thành viên, nói rằng thách đố ở đây là làm sao dung hợp “lòng yêu mến sự thật và đức bác ái mục tử, để không gây sốc cho những người đang cố gắng sống trọn các giáo huấn của hội Thánh. Nhóm này nói đến người anh cả trong dụ ngôn người con trai hoang đàng, cảm thấy không hài lòng khi người cha mở tiệc đón đứa em tội lỗi trở về, nhưng không bao giờ cho anh ta, vốn là người ở lại gia đình và làm việc, được mở tiệc để vui với các bạn.

Nhóm Pháp ngữ này có nhiều GM Phi châu. Các vị khẳng định sự tôn trọng và chào đón những người đồng tính luyến ái và lên án những kỳ thị đối với những người này, nhưng các vị nói rằng Giáo Hội không thể ”hợp thức hóa những việc thực thi đồng tính luyến ái, và càng không thể nhìn nhận những cặp đồng phái là hôn phối. Các vị tố giác các tổ chức quốc tế đặt điều kiện đòi các nước nghèo phải ban hành những luật tháo thứ hơn về luân lý thì mới được viện trợ.

– Nhóm tiếng Ý, trong đó có nhiều vị thuộc giáo triều, trong đó có ĐHY George Pell, Chủ tịch Hội đồng kinh tế, ĐHY Coccopalmerio Chủ tịch Hội đồng về các văn bản luật, và Đức TGM Paglia, Chủ tịch Họi đồng về gia đình, nói rằng có hai quan niệm khác nhau trong các cuộc thảo luận tại Thượng HĐGM. Một quan niệm cho rằng không nên do dự gì khi dùng những từ như ”tội lỗi”, ngoại tình và hoán cải, khi nói về những tình trạng trái ngược với Tin Mừng. Trong khi một lối tiếp cận khác phải nhìn nhận rằng ước muốn có một gia đình đã được Thiên Chúa đặt để trong tâm hồn mỗi người, cả những tín hữu vì những lý do khác nhau không sống hoàn toàn phù hợp với Lời Chúa Kitô”.

Nhóm này cũng nói: Một sự thiếu ý thức về tội lỗi và những hoàn cảnh văn hóa nghiệm trọng thường là lý do khiến một tín hữu không sống phù hợp với giáo huấn của Giáo Hội. Tường trình chung kết phải nhấn mạnh sự cầnthiết phải cải tiến việc giáo dục về đức tin (CNS 16-10-2014)

– Nhóm nghị phụ tiếng Ý thứ I, do ĐHY Filoni Tổng trưởng Bộ truyền giáo làm điều hợp viên, nói đến khó khăn trong việc mang lại một ý nghĩa cho thành ngữ ”luật tiệm tiến” đã được nhắc đến trong bản tường trình giữa khóa để biện minh cho sự bất toàn trong hành động của một số tín hữu, và áp dụng vào việc cho tín hữu ly dị tái hôn được rước lễ. Các nghị phụ nói rằng luật tiệm tiến không thể áp dụng được cho số 34 của Tông Huấn Familiaris consortio về gia đình, vì trong tông huấn này luật tiệm tiến được áp dụng chủ yếu cho vấn đề luân lý liên quan đến việc làm cha làm mẹ ý thức. Thành ngữ ”Luật tiệm tiến” dường như vượt ra ngoài sự kiểm soát với nguy cơ làm cho người ta nghĩ rằng những khó khăn trong đời sống vợ chồng đưa tới sự hạ thấp ý nghĩa trọn vẹn của chính ơn gọi vợ chồng. Nhóm này yêu cầu viết lại phần thứ II của tường trình giữa khóa để làm nổi vợt dự phóng vui tươi về hôn nhân do Thiên Chúa đề ra.

Nhóm cũng không đồng ý về việc để cho ĐGM giáo phận trực tiếp can dự vào các vụ án tuyên bố hôn nhân vô hiệu, vì thường các GM không phải là những nhà chuyên môn trong lãnh vực này, vì thế nên đề nghị một sự phối hợp mục vụ giữa những người liên hệ với tòa án hôn phối, các cố vấn và các văn phòng khác nhau của giáo phận về gia đình.

Về vấn đề cho người ly dị tái hôn được rước lễ, các nghị phụ trong nhóm tuy nhạy cảm đối với vấn đề, nhưng vẫn đề nghị tái nghiên cứu vấn đề này dưới ánh sáng số 84 của Tông huấn Familiaris consortio, để xác định những điều kiện khác với kỷ luật hiện hành.

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

 

Đức Thánh Cha tiếp kiến chung các tín hữu hành hương: 15-10-2014

Đức Thánh Cha tiếp kiến chung các tín hữu hành hương: 15-10-2014

VATICAN. Trong buổi tiếp kiến chung 80 ngàn tín hữu hành hương sáng thứ tư 15-10-2014 tại Quảng trường Thánh Phêrô, ĐTC đã diễn giải về đề tài ”Giáo hội là hôn thê chờ đợi Hôn Phu của mình”.

ĐTC tạm vắng mặt khỏi phiên họp trong nhóm nhỏ của các nghị phụ Thượng HĐGM thế giới về gia đình, và lúc quá 9 giờ rưỡi sáng ngài tiến vào quảng trường thánh Phêrô trên chiếc xe díp màu trắng mui trần để chào thăm các tín hữu, ôm hôn và chúc lành cho các em bé được nhân viên an ninh bế đưa lên ngài.

Lên tới lễ đài ở thềm Đền thờ, ĐTC khởi sự buổi tiếp kiến với dấu Thánh giá và lời chào phụng vụ. Và sau phần tôn vinh lời Chúa với bài đọc ngắn trích từ sách Khải Huyền của thánh Gioan nói về vị hôn thê trang điểm chờ đợi hôn phu và Giáo hội như thành Jerusalem thiên quốc, ĐTC đã trình bày bài thứ 9 trong loạt bài giáo lý về Giáo Hội, và ngài bàn về chủ đề: ”Giáo Hội hôn thê chờ đợi Hôn Phu của mình”.

Huấn dụ của ĐTC

“Anh chị em thân mến, chào anh chị em. Trong thời gian này chúng ta đã nói về Giáo hội, về Mẹ Giáo hội thánh thiện và có phẩm trật, là Dân Thiên Chúa đang lữ hành.

Hôm nay chúng ta hãy tự hỏi: sau cùng, dân Chúa sẽ ra sao? Mỗi người chúng ta sẽ ra sao? Chúng ta phải chờ đợi cái gì? Thánh Phaolô Tông Đồ trấn an các tín hữu Kitô thuộc Cộng đoàn Tessalonica, là những người đặt ra những câu hỏi ấy và sau khi lý luận thánh nhân nói những lời này thuộc vào những lời đẹp nhất của Tân Ước:
“Và như thế chúng ta sẽ ở cùng Chúa luôn mãi!” (1 Ts 4,17). Những lời này đơn sơ, nhưng rất xúc tích về hy vọng.

Thật là biểu tượng như trong sách Khải Huyền của thánh Gioan, nhắc lại trực giác của các Ngôn Sứ, và đã mô tả chiều khích cuối cùng, chung kết, như ”Thành Jerusalem mới, xuống từ trời, từ nơi Thiên Chúa, sẵn sàng như hôn thể trang điểm đón chờ Hôn Phu của mình” (Kh 21,2). Đó là điều đang chờ đợi chúng ta! Vậy Giáo Hội là ai? thưa là Dân Thiên Chúa đi theo Chúa Giêsu và chuẩn bị ngày qua ngày cho cuộc gặp gỡ với Chúa, như một hôn thê chuẩn bị gặo hôn phu của mình. Đó không phải là một kiểu nói; sẽ có những hôn lễ thực sự! Đúng vậy, vì Chúa Kitô, khi làm người như chúng ta và làm cho tất cả chúng ta trở thành điều duy nhất với Ngài, qua cái chết và sự sống lại của Ngài, Ngài đã thực sự kết hôn với chúng ta và làm cho chúng ta trở nên hôn thê của Ngài. Điều này không là gì khác hơn là sự viên mãn kế hoạch hiệp thông và yêu thương được Thiên Chúa thực hiện qua dòng lịch sử.

”Nhưng có một yếu tố khác, an ủi và ủng cố chúng ta, mở rộng con tim chúng ta: thánh Gioan nói với chúng ta rằng trong Giáo Hội là hôn thê của Chúa Kitô, ”thành Jerusalem mới” trở nên hữu hình. Điều này có nghĩa là Giáo Hội, không những là hôn thê, nhưng còn được kêu gọi trở nên thành thị, biểu tượng tuyệt hảo của sự sống chung và quan hệ giữa con ngừơi với nhau. Vì thế, thật là đẹp khi có thể chiêm ngưỡng ngay từ bây giờ một hình ảnh khác rất xúc tích của sách Khải Huyền, tất cả các dân nước được tập hợp với nhau trong thành ấy, như trong một căn lều, ”lều của Thiên Chúa” (Xc Kh 21,3)! Và trong khung cảnh vinh quang đó sẽ không còn cô lập, thiếu thốn và những phân biệt nào – về mặt xã hội, chủng tộc và tôn giáo – nhưng tất cả chúng ta sẽ được hiệp nhất trong Chúa Kitô.

Đứng trước cảnh tượng chưa từng có và tuyệt vời ấy, con tim chúng ta không thể không cảm thấy được củng cố một cách mạnh mẽ trong niềm hy vọng. Anh chị em hãy xem, niềm hy vọng Kitô không phải chỉ là một ước muốn, một mong ước, không phải là lạc quan: đối với Kitô hữu, hy vọng là chờ đợi, nồng nhiệt chờ đợi, say mê mong sự viên mãn chung kết một mầu nhiệm, mầu nhiệm tình yêu Thiên Chúa, trong đó chúng ta được tái sinh và đang sống. Và đó là sự chờ đợi người sắp đến: đó là Chúa Kitô ngày càng trở nên gần gũi chúng ta, ngày qua ngày, và Ngài đến để dẫn đưa chúng ta vào cuộc hiệp thông viên mãn và an bình của Ngài. Vì thế, Giáo Hội có nghĩa vụ phải giữ cho ngọn đèn hy vọng luôn cháy sáng và hữu hình, để có thể tiếp tục chiếu tỏa như dấu chỉ cứu độ chắc chắn và có thể soi sáng cho toàn thể nhân con đường dẫn đến cuộc gặp gỡ với tôn nhan từ bi của Thiên Chúa.
Anh chị em thân mến, này đây điều mà chúng ta đang mong đợi: chúng ta đợi Chúa Giêsu trở lại! Giáo Hội hôn thê chờ đợi hôn phu của mình! Nhưng chúng ta phải tự hỏi rất chân thành: chúng ta có thực sự là những chứng nhân sáng ngời và đáng tin cậy về niềm hy vọng ấy hay không? Các cộng đoàn của chúng ta có còn sống trong dấu chỉ sự hiện diện của Chúa Giêsu Kitô và nồng nhiệt chờ đợi Chúa đến hay không, hay là tỏ ra mệt mọi, ngái ngủ, dưới gánh nặng của mệt mỏi và cam chịu? Chúng ta có nguy cơ hết dầu đức tin và vui mừng hay không! Chúng ta hãy chú ý!

Chúng ta hãy khẩn cầu Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ hy vọng và là nữ vương trời cao, xin Mẹ luôn giữ chúng ta trong thái độ lắng nghe và chờ đợi, để có thể ngay từ bây giờ được thấm nhiễm tình yêu Chúa Kitô và một ngày kia được tham phần niềm vui vô tần, trong sự hiệp thông trọn vẹn với Thiên Chúa. Anh chị em đừng bao giờ quên câu ”Và chúng ta sẽ luôn ở với Thiên Chúa!” Chúng ta hãy lập lại câu này ba lần.

Chào thăm các tín hữu

Sau bài giáo lý bằng tiếng Ý, các LM và giám chức của Tòa Thánh đã tóm tắt bài này bằng các sinh ngữ khác nhau cũng như dịch những lời ĐTC chào các tín hữu hành hương cùng với những lời nhắn nhủ của ngài.

Chào nhóm tiếng Anh, ĐTC đặc biệt nhắc đến các đoàn đến từ Anh quốc, Ecosse, Na Uy, Đan Mạch, Ấn độ, Nhật Bản, Thái Lan, Australia và Hoa Kỳ, đặc biệt là đoàn hành hương toàn quốc Ai Len nhân dịp kỷ niệm 1.400 năm thánh Colombano qua đời.

Khi chào các tín hữu nói tiếng Bồ đào nha, nhất là các tín hữu đến từ Brazil, ngài xin họ cầu nguyện cho ngài và nhắn nhủ rằng gia đình anh chị em hãy họp nhau hằng ngày để đọc kinh Mân Côi, dưới cái nhìn của Đức Mẹ, để trong gia đình không bao giờ bị thiếu dầu đức tin và niềm vui, nảy sinh từ cuộc sống của các phần tử được hiệp thông với Thiên Chúa.

Với các tín hữu nói tiếng Ba Lan, ĐTC nhắc nhở rằng ”Hôm nay chúng ta kính nhớ thánh Têrêxa Chúa Giêsu, thuộc dòng Cát Minh nhặt phép, trinh nữ và tiến sĩ Hội Thánh. Trái lại ngày mai chúng ta kỷ niệm Thánh Gioan Phaolô 2 được bầu làm Giáo Hoàng. Hai vị thánh này được liên kết với nhau trong sự phó thác cho Thiên Chúa, lòng tận tụy đối với Giáo Hội và có đời sống thần bí. Chúng ta hãy học nơi các vị đặc tính quyết liệt của Tin Mừng và tăng trưởng trong niềm hiệp thông trọn vẹn với Thiên Chúa.

Sau cùng, bằng tiếng Ý, ĐTC đặc biệt chào các tham dự viên Hội nghị kỳ 4 của Quỹ Ratzinger-Biển Đức 16 sẽ nhóm tại thành phố Medellín, Colombia, và khuyên nhủ họ hãy nghiên cứu những con đường kiến tạo hòa bình và thăng tiến phẩm giá con người.

ĐTC kết thúc buổi tiếp kiến với Kinh Lạy Cha và phép lành Tòa Thánh ban cho mọi người.

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio
 

Tường trình đúc kết các bài phát biểu tại Thượng Hội đồng Giám Mục tế giới về gia đình

Tường trình đúc kết các bài phát biểu tại Thượng Hội đồng Giám Mục tế giới về gia đình

VATICAN. Lúc 9 giờ sáng thứ hai 13-10-2014, Thượng HĐGM thế giới khóa đặc biệt về gia đình đã nhóm phiên khoáng đại thứ 11 để nghe bản Tường trình đúc kết ý kiến của các nghị phụ phát biểu trong tuần qua.

Trước sự hiện diện của ĐTC và các nghị phụ, ĐHY Peter Erdoe, người Hungari, Tổng tường trình viên, đã đọc bản tường trình đúc kết các ý kiến chính trong các bài phát biểu và suy tư của 180 nghị phụ trong tuần đầu của Công nghị GM thế giới. Văn bản này được dùng làm căn bản cho cho việc soạn Văn kiện chung kết của Thượng HĐGM này.

Bản tường trình đề ra 3 đường hướng chỉ đạo, đó là lắng nghe bối cảnh xã hội và văn hóa trong đó các gia đình ngày nay đang sống; sau đó là đối chiếu với những viễn tượng mục vụ cần đề ra và nhất là nhìn lên Chúa Kitô, lắng nghe Tin Mừng của Chúa về gia đình.

– Gia đình là thực tại ”quan trọng và quí giá”, ”là nguồn vui mừng và cũng là nơi có thử thách, những tình cảm sâu và và những quan hệ nhiều khi bị thương tổn, là trường dạy về lòng nhân đạo. Trước tiên cần lắng nghe gia đình trong toàn bộ phức tạp của thực tại này. Chủ nghĩa cá nhân thái quá, thử thách lớn về cô đơn, tình cảm tự kỷ gắn liền với những tình cảm mong manh, ”ác mộng” vì công ăn việc làm bấp bênh, cùng với chiến tranh, nạn khủng bố, di cư, ngày càng làm cho tình trạng nhiều gia đình bị suy thoái. Chính trong bối cảnh đó, Giáo Hội phải mang lại hy vọng và ý nghĩa cho đời sống con người ngày nay, giúp họ ngày càng hiểu biết giáo lý đức tin nhưng đồng thời cũng đề nghị với họ lòng từ bi Chúa”.

Tiếp đến là hướng nhìn lên Chúa Kitô, Đấng tái khẳng định sự kết hiệp bất khả phân ly giữa một người nam và một người nữ, nhưng cũng cho phép đọc giao ước hôn phối trong sự liên tục và mới mẻ. Nguyên tắc ở đây phải là nguyên tắc tiệm tiến đối với các đôi vợ chồng bị thất bại tronog hôn nhân, trong một viễn tượng bao gồm đối với những hình thức bất toàn của thực tại hôn phối”.

– Bản tường trình được ĐHY Erdoe tuyên đọc cũng đề cập đến những tờng hợp mục vụ khẩn cấp nhất, cần ủy thác việc cụ thể hóa trong các Giáo Hội địa phương, luôn luôn ở trong tình hiệp thông với ĐTC. Trước hết có việc loan báo Tin Mừng gia đình cần thực hiện, không phải để lên án, nhưng là chữa lành sự dòn mỏng của con người. ”Loan báo Tin Mừng là trách nhiệm chung của toàn thể Dân Chúa, mỗi người theo sứ vụ và đoàn sủng riêng. Nếu không có chứng tá vui mừng của các đôi vợ chồng và của các gia đình, thì việc loan báo, cho dù là đúng đắn, cũng có nguy cơ không được hiểu hoặc bị chìm đắm trong biển cả những lời nói vốn là đặc tính của xã hội chúng ta. Các gia đình Công Giáo được kêu gọi trở thành những chủ thể tích cực trong việc mục vụ gia đình”.

– Bản tường trình nhấn mạnh rằng việc chuẩn bị hôn nhân Kitô là điều thiết yếu, vì hôn nhân này không phải chỉ là một truyền thống văn hóa hoặc một đòi hỏi xã hội, nhưng là một quyết định theo ơn gọi. Không nhắm làm cho chu kỳ huấn luyện trở nên phúc tạp, mục đích nhắm tới ở đây là đi vào chiều sâu, chứ không giới hạn vào những đường hướng tổng quát, trái lại cũng cần canh tân việc đào tạo linh mục về vấn đề gia đình, nhờ sự can dự của chính các gia đình. Các nghị phụ cùng đề nghị phải tháp tùng các gia đình sau khi hết hôn, là thời kỳ sinh tử và tế nhị, trong đó các đôi vợ chồng chín mùi sự ý thức về bí tích, ý nghĩa và những thách đố về bí tích này.

Đồng thời Giáo Hội cũng phải khích lệ và nâng đỡ các giáo dân dân thân trong lãnh vực văn hóa, chính trị và trong xã hội, để không quên tố giác những yếu tố ngăn cản đời sống gia đình chân thực, vạch rõ nhưng kỳ thị, nghèo đói, loại trừ và bạo lực.

– Về những người ly thân, ly dị và ly dị tái hôn, ĐHY Erdoe nhấn mạnh rằng 'không phải là điều khôn ngoan khi nghĩ đến những giải pháp độc nhất, theo tiêu chuẩn 'hoặc phải có tất cả hoặc không được gì hết'; vì thế phải tiếp tục cuộc đối thoại trong các Giáo Hội địa phương, trong niềm tôn trọng và yêu mến đối với mỗi gia đình bị thương tổn, nghĩ ngay đến người vợ hoặc chồng bị bỏ rơi một cách bất công, tránh những thái độ kỳ thị và phải bảo vệ các trẻ em. ”Điều quan trọng là chấp nhận một cách lương thiện và xây dựng những hậu quả của việc ly thân hoặc ly dị đối với con cái: con cái không thể trở thành một ”đồ vật” để tranh giành, và cần phải tìm kiếm những hình thức tốt đẹp nhất để con cái có thể vượt thắng chấn thương do sự phân rẽ gia đình và có thể tăng trưởng bao nhiêu có thể trong thanh thản”.

– Về việc cứu xét nhanh chóng các đơn xin tuyên bố hôn nhân vô hiệu, ĐHY Erdoe nhắc lại những đề nghị đã được các nghị phụ đề ra trong khóa họop: nghĩa là không cần phải có 2 phán quyết đồng thuận với nhau, xác định thể thức hành chánh ở cấp giáo phận để tuyên bố hôn nhân vô hiệu, khởi sự việc xét xử đơn giản trong trong những vụ hôn phối vô hiệu tỏ tường, đặc biệt chú ý đến đức tin của những người kết hôn để nhận xét xem bí tích hôn phối của họ có thành sự hay không. Tất cả những điều đó đòi nhân viên giáo sĩ và giáo dân tại tòa án hôn phối được chuẩn bị thích hợp, và các GM địa phương có trách nhiệm nhiều hơn”.

– Về việc cho những tín hữu ly dị tái hôn đưc rước lễ, vị Tổng tường trình viên liệt kê những đề nghị chính được trình bày trong Thượng HĐGM như: duy trì kỷ luật hiện hành, thực hiện một sự cởi mở nhiều hơn đối với những trường hợp đặc biệt, bất khả phân ly mà không gây ra những bất công hoặc đau khổ mới; hoặc chọn con đường thống hối: cần thực hiện hành trình này dưới trách nhiệm của GM giáo phận, trước khi được lãnh nhận các bí tích.

Vấn đề ớc lễ thiêng liêng vẫn còn bị bỏ ngỏ, và các nghị phụ kêu gọi đào sâu hơn về thần học, cũng vậy cần suy tư sâu hơn về các cuộc hôn nhân hỗn hợp và những vấn đề hệ trọng liên quan tới kỷ luật khác của các Giáo Hội Chính Thống về hôn phối.

– Về những ngưi đồng tính luyến ái, trong Thượng HĐGM, có các nghị phụ nhấn mạnh rằng những người đồng tính luyến ái là những người có năng khiếu và chất lượng có thể cống hiến cho cộng đoàn Kitô: Giáo Hội phải trở thành căn nhà đón tiếp họ; nhưng Giáo Hội vẫn quyết liệt không chấp nhận sự kết hiệp đồng tính luyến ái và những sức ép của cac tổ chức quốc tế đặt điều kiện một quốc gia phải ban hành các qui luật chịu ảnh hưởng của ý thức hệ gender, giới tính, thì mới được nhận viện trợ tài chánh… Giáo Hội cũng đặc biệt chú ý đến các trẻ em sống với các cặp đồng phái, và tái khẳng định rằng cần đặt lên hàng đầu những yêu sách và quyền lợi của các trẻ em.

– Phần cuối của bản tường trình có đề cập đến các đề tài của thông điệp Humanae vitae (Sự sống con người) do Đức Phaolô 6 ban hành năm 1968, và tập trung vào vấn đề cởi mở đối với sự sống, và định nghĩa sự cởi mở này như một ”đòi hỏi nội tại của tình yêu vợ chồng”.

– Nhiều nghị phụ nhấn mạnh sự cần thiết phải có một ngôn ngữ thực tế cụ thể, biết giải thích vẻ đẹp và chân lý cởi mở đón nhận hồng ân con cái, và nhờ sự giáo dục thích hợp về các phương pháp điều hòa sinh sản tự nhiên, và sự đả thông hài hòa và ý thức giữa đôi vợ chồng trong mọi chiều kích.

ĐHY Erdoe không quên ghi nhận rằng cuộc đối thoại trong Thượng HĐGM diễn ra trong bầu không khí tự do và lắng nghe nhau. Ngài cho biết những suy tư trình bày trên đây chưa phải là quyết định, vì hành trình của Thượng HĐGM sẽ được tiếp nối trong khóa họp thường lệ nhóm vào tháng 10 năm tới, 2015, cũng về đề tài gia đình.

Sau bài tường trình của ĐHY Erdoe, các nghị phụ được 10 phút giải lao trước khi trao đổi ý kiến về bài này. Rồi ban chiều, từ lúc 4 giờ rưỡi, các nghị phụ nhóm họp và thảo luận trong các nhóm nhỏ theo các sinh ngữ khác nhau (SD 13-10-2014)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Đức Thánh Cha chủ sự thánh lễ tạ ơn phong thánh tương đương hai thánh người Canada

Đức Thánh Cha chủ sự thánh lễ tạ ơn phong thánh tương đương hai thánh người Canada

VATICAN. ĐTC Phanxicô khích lệ Giáo Hội tại Canada tưởng niệm các hai vị thánh mới được tôn phong theo thể thức tương đương và cầu nguyện để Giáo Hội này được tái phong phú các thừa sai.

Ngài đưa ra lời nhắn nhủ trên đây trong thánh lễ tạ ơn ngài cử hành lúc 10 giờ sáng chúa nhật 12-10-2014 tại Đền thờ Thánh Phêrô về việc tôn phong hiển thánh theo thể thức tương đương cho hai vị người Canada, đó là Đức Cha François de Laval, GM tiên khởi của giáo phận Québec, và Nữ Tu Marie Nhập Thể Guyart Martin, sáng lập dòng Ursuline Liên hiệp Canada.

Hai vị đã cùng với chân phước Linh Mục Giuse de Anchieta, dòng Tên, người Tây Ban Nha, tông đồ tại Brazil, được ĐTC Phanxicô tôn phong hiển thánh ngày 3-4 năm 2014 theo thể thức tương đương, nghĩa là không theo thủ tục bình thường và không cần nghi lễ phong thánh.

Thông cáo của Bộ Phong thánh hôm đó nói rằng: ngày 3-4, ĐTC Phanxcô đã tiếp kiến ĐHY Angelo Amato, Tổng trưởng Bộ Phong thánh. Ngài đón nhận các tường trình của ĐHY Tổng trưởng, ghi tên vào sổ bộ các thánh và nới rộng việc tôn kính phụng vụ trong Giáo Hội hoàn vũ đối với 3 vị chân phước:

– Đức Cha François de Laval, GM tiên khởi Québec, Canada, sinh tại Montigny-sur-Avre bên Pháp ngày 20-4-1623 và qua đời ngày 6-5-1708, thọ 85 tuổi.

– LM Giuse de Anchieta, dòng Tên, sinh tại San Cristobal de la Laguna, Tenerife, thuộc quần đảo Canarie, Tây Ban Nha, ngày 19-3-1543 và qua đời tại Reritiba, Brazil ngày 9-6-1597.

– Thứ ba là Nữ tu Marie de l'Incarnation, tục danh là Marie Guyart sinh ngày 28-10 năm 1599 tại thành Tours bên Pháp, sáng lập Đan viện dòng nữ tu Urseline ở Québec, và qua đời ngày 30-4-1672, thọ 73 tuổi.

Sơ lược tiểu sự hai vị thánh

1. Đức Cha François de Laval đã từng được bổ nhiệm Đại diện Tông Tòa giáo phận đàng ngoài ở Việt Nam vào năm 1653, ngài không thể sang Việt Nam nhận nhiệm sở vì những bất đồng xảy ra tại Á Đông, từ phía các nước thuộc địa Âu Châu, vì thế Cha rút lui trong 4 năm trời (1654-1658), sống tại một am ở Caen, cũng là một trường dạy linh đạo do một nhà thần bí Pháp là Jean Bernières de Louvigni (1602-1659) điều khiển.

Trong thời gian ấy, cả các thừa sai ở Canada cũng xin ĐGH Alessandro VII bổ nhiệm một vị Đại diện Tông Tòa, và thế là năm 1658, ĐGH bổ nhiệm Cha François de Laval làm GM hiệu tòa Petra và với nhiệm vụ Đại diện Tông Tòa giáo phận Tân Pháp ở Canada. Lúc ấy Đức cha mới được 35 tuổi và ngài lên đường ngay, xuống tàu đến Canada ngày 16-5 năm 1659, và sau đó một tháng sau thì đến Québec.

Đức Cha dấn thân hoạt động tông đồ không biết mệt mỏi trong hơn 30 năm trời cho Giáo Hội địa phương: kiến tạo các giáo xứ từ số không, lập các cứ điểm truyền giáo, nhà thương, trường học, các cộng đoàn dòng tu, bài trừ tệ nạn bóc lột thổ dân bản xứ từ phía các con buôn thực dân, chống lại chủ nghĩa Pháp giáo (Gallicanisme) của các chính quyền Pháp đòi độc lập khỏi Tòa Thánh về phương diện Giáo Hội từ thời vua Philippe le Bel.

Đức Cha François de Laval sống đời cầu nguyện và hãm mình, chay tịnh, sống nghèo tự nguyện, của cải ngài tặng hết cho chủng viện, và tùy thuộc bề trên chủng viện trong mọi nhu cầu. Ngài cũng đích thân giúp đỡ các bệnh nhân tại nhà thương ở Québec cũng trong nhà bệnh của chủng viện, hoặc trong các lều của thổ dân.

Do tinh thần nhiệm nhặt, cho đến những năm cuối đời, Đức Cha vẫn giữ thói quen ngủ trên nền nhà, và thức dậy lúc 2 giờ sáng, cử hành thánh lễ lúc 4 giờ rưỡi sáng cho các công nhân ở Québec. Bao nhiêu hy sinh từ bỏ ấy đã mang lại những thành quả: con số giáo xứ từ 5 tăng lên 35, số linh mục từ 24 tăng lên 102, và số nữ tu từ 22 lên 97 chị.

2. Nữ tu Marie Nhập Thể Guyard Martin, nguyên là một góa phụ, gia nhập dòng Ursuline thành Tours năm 1631 khi được 31 tuổi. 8 năm sau đó, đáp lại ơn gọi thừa sai, chị sang Québec, Canada, thành lập một tu viện.
Số nữ tu gia tăng, và chẳng bao lâu chị phải viết tu luật và hiến pháp mới thích ứng với những kinh nghiệm và đòi hỏi mới.

Tuy không bao giờ ra khỏi tu viện, nhưng chị Marie Nhập Thể học thổ ngữ của các bộ tộc Algonchini, Montagnesi và Uroni, và chị viết các sách giáo lý, văn phạm và tự điển, đồng thời chăm sóc các trẻ em của thổ dân, nuôi dưỡng, trợ giúp và giáo dục. Chị cũng là thiên thần bản mệnh của các thừa sai, tháp tùng họ bằng kinh nguyện, và qua thư từ, chị quan tâm tới lý tưởng và các nhu cầu của các thừa sai.

Chị sống đời chiêm niệm và hoạt động, với sự đơn sơ và quân bình cho đến năm 1669 thì được giải thoát khỏi trách nhiệm làm bề trên, vì điều kiện sức khỏe suy yếu. Tình trạng này nặng thêm và ngày 30-4 năm 1672, chị qua đời, để lại một cộng đoàn gồm 30 nữ tu, từ đó trở thành dòng các nữ tu Ursuline Québec.

Chị Maria Nhập Thể đã được ĐTC Gioan Phaolô 2 phong chân phước ngày 22-6-1980. Ngài nói: ”Chị Maria Nhập Thể là một tâm hồn chiêm niệm, nhưng dấn thân trong hoạt động tông đồ, chị khấn hứa ”tìm vinh danh cao cả nhất cho Thiên Chúa trong tất cả những gì có sức thánh hóa mạnh mẽ nhất, và tháng 5 năm 1653, chị âm thầm hiến dâng mình làm lễ toàn thiêu cho Thiên Chúa để mưu ích cho Canada”.

Thánh lễ
Đồng tế với ĐTC trong thánh lễ tạ ơn có 9 vị GM người Canada Québec, đứng đầu là ĐHY Gérard Lacroix, đương kim TGM giáo phận Québec, ĐHY Marc Ouellet, nguyên TGM Québec, và hiện là Tổng trưởng Bộ Giám Mục, 7 GM khác và khoảng 100 linh mục Canada, trước sự hiện diện của 8 ngàn tín hữu, trong đó có một số phái đoàn đến từ Canada.

Bài giảng của ĐTC
Trong bài giảng thánh lễ, ĐTC khích lệ các tín hữu hãy tưởng niệm và noi gương đức tin kiên trì của các thừa sai đã mang Lời Chúa và Tin Mừng cho đất nước Canada. Ngài nói:

”Chúng ta đã nghe lời ngôn sứ Isaia: ”Chúa là Thiên Chúa sẽ lau nước mắt trên mỗi khuôn mặt..” (Is 25,8). Những lời đầy hy vọng này chỉ cho thấy mục tiêu, chứng tỏ tương lai mà chúng ta đang hành trình hướng về. Trên con đường này các thánh đã đi trước và chỉ dẫn cho chúng ta. Những lời này cũng vạch rõ ơn gọi của các thừa sai.
Các thừa sai là những người ngoan ngoãn đối với Chúa Thánh Linh, đã có can đảm sống Tin Mừng. Cả bài Tin Mừng mà chúng ta đã nghe: Nhà Vua nói với các đầy tớ: ”Các ngươi hãy ra các ngã tư đường” (Mt 22,9). Và các đầy tớ ra đi, tụ tập tất cả những người mà họ gặp, ”xấu cũng như tốt”, để dẫn họ vào tiệc cưới của nhà vua (Xc v.10)

Các thừa sai đã đón nhận lời mời gọi ấy: các vị đã ra đi kêu gọi tất cả mọi người, ở các ngã tư của thế giới, vì nếu Giáo hội dừng lại và khép kín, thì Giáo hội sẽ trở nên bệnh hoạn, có thể làm hư hỏng, hoặc bằng tội lỗi hoặc bằng khoa học giả tạo tách rời khỏi Thiên Chúa, là trào lưu tục hóa phàm trần.

Các thừa sai đã hướng nhìn Chúa Kitô chịu đóng đanh, đã đón nhận ơn phúc của Chúa và đã không giữ riêng cho mình. Như thánh Phaolô, các vị trở nên mọi sự cho mọi người; các vị đã biết sống trong thanh bần và sung túc, trong sự no đầy và đói khát; họ có thể làm mọi sự trong Đấng ban sức mạnh cho họ (Xc Phil 4,12-13). Với sức mạnh ấy của Thiên Chúa, các vị đã có can đảm ”đi ra” trên các nẻo đường của thế giới với lòng tín thác nơi Chúa là Đấng kêu gọi họ. Cuộc sống của một thừa sai là như thế, kết thúc cuộc sống xa nhà, xa quê hương; bao nhiêu lần các thừa sai bị sát hại, như đang xảy ra ngày nay cho bao nhiêu anh chị em chúng ta.

ĐTC nói thêm rằng: ”Sứ mạng loan báo Tin Mừng của Giáo hội chủ yếu là loan báo tình thương, lòng bừ bi và sự tha thứ của Thiên Chúa, được mạc khải cho loài người qua cuộc sống, cái chết và sự sống lại của Chúa Giêsu Kitô. Các thừa sai đã phục vụ Sứ Mạng của Giáo Hội, bẻ bánh Lời Chúa cho người bé mọn và những người xa xăm nhất, và mang đến cho mọi người hồng ân tình yêu vô tận tuôn chảy từ trái tim của Chúa Cứu Thế.

Thánh François de Laval và thánh nữ Marie Nhập Thể là những người như thế. Anh chị em tín hữu hành hương người Canada thân mến, trong ngày này, tôi muốn để lại cho anh chị em hai lời khuyên, rút từ thư gửi tín hữu Do thái, hai lời khuyên sẽ giúp ích rất nhiều cho các cộng đoàn của anh chị em.

– Lời khuyên thứ I là: ”Hãy nhớ đến các thủ lãnh của anh chị em, những người đã loan báo Lời Chúa cho anh chị em. Khi cứu xét kỹ lưỡng kết quả chung kết cuộc sống của các vị, hãy noi gương đức tin của các vị” (13,7). Ký ức về các thừa sai nâng đỡ chúng ta trong lúc chúng ta cảm thấy sự khan hiếm các thợ của Tin Mừng. Tấm gương của các vị lôi kéo, thúc đẩy chúng ta noi gương đức tin của các ngài. Đó là những chứng tá phong phú sinh ra sự sống!
– Lời khuyên thứ hai là: ”Anh chị em hãy nhớ lại những ngày đầu tiên: sau khi lãnh nhận ánh sáng của Chúa Kitô, anh chị em đã phải chịu đựng một cuộc chiến đấu lớn và cơ cực… Đừng từ bỏ sự ngay thẳng của anh chị em, có một phần thưởng lớn dành cho cho sự ngay thẳng này. Anh chị em chỉ cần kiên trì bền đỗ…” (10,32.35-36). Tôn kính những người đã chịu đau khổ để mang Tin Mừng cho chúng ta, có nghĩa là cả chúng ta cũng tham gia cuộc chiến tốt lành cho đức tin, trong sự khiêm tốn, hiền từ, từ bi, trong cuộc sống hằng ngày. Và điều này mang lại thành quả.

Tưởng niệm những vị đã đi trước chúng ta, những vị đã thành lập Giáo hội chúng ta, Giáo Hội phong phú tại Québec, phong phú với bao nhiêu thừa sai, các vị ra đi khắp nơi. Thế giới đã đầy các thừa sai Canada như hai vị thánh này. Giờ đây tôi có lời khuyên này: việc tưởng niệm các vị không làm cho chúng ta từ bỏ sự thẳng thắn, không từ bỏ can đảm. Ma quỷ ghen tương, và không chấp nhận một phần đất phong phú các thừa sai. Xin Chúa ”ban cho miền Québec trở lại trên con đường phong phú, cung cấp cho thế giới bao nhiêu thừa sai, và xin hai vị thánh đã thành lập Giáo Hội tại Québec, giúp chúng ta như những người chuyển cầu: ước gì hạt giống mà các vị đã gieo vãi, tăng trưởng và mang lại hoa trái là những người nam nữ can đảm, sáng suốt, có tâm hồn mở rộng đối với tiếng gọi của Chúa. Hôm nay anh chị em phải cầu xin điều ấy cho quê hương của anh chị em, và các thánh trên trời sẽ là những vị chuyển cầu cho chúng ta, để Québec tái trở thành nguồn các vị thánh thừa sai can đảm”.
Niềm vui và thách đố trong cuộc hành hương này của anh chị em là: tưởng niệm các chứng nhân, các thừa sai đức tin của đất nước anh chị em. Ký ức này luôn nâng đỡ anh chị em trong hành trình tiến về tương lai, hướng về mục tiêu, khi ”Chúa là Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt trên mọi gương mặt..”

”Chúng ta hãy vui mừng, hân hoan vì ơn cứu độ của Người” (Is 25,9).

Cuối thánh lễ, ĐHY Gérard Cyprien Lacroix, TGM giáo phận Québec và là giáo chủ Canada, đã đại diện các tín hữu Québec và Canada cám ơn ĐTC vì hồng ân lớn lao là phong hai vị thánh François de Laval và Marie Nhập Thể.
ĐHY Lacroix cho biết ngài đã hướng dẫn một nhóm các tín hữu hành hương sang Pháp, theo vết của hai vị thánh và cuộc lữ hành của phái đoàn đến Roma này để cùng với Đấng Kế Vị Thánh Phêrô một lần nữa nói lên sự hiệp thông sâu xa và ước muốn đáp lại tiếng gọi thừa sai để loan báo Tin Mừng cho thế giới ngày nay.

ĐHY cho biết cuộc lữ hàng của các tín hữu Canada không kết thúc ở Roma này, nhưng ”với ơn Chúa, chúng con sẽ tiếp tục tại đất nước chúng con, tại Québec và bất kỳ nơi nào Chúa cần chúng con. Chúng con mong ước ngày càng trở thành những môn đệ – thừa sai giữa lòng thế giới”.

Thánh lễ kết thúc lúc 11 giờ 15 và sau đó, lúc đúng 12 giờ, ĐTC đã xuất hiện tại cửa sổ ở phòng làm việc của các vị Giáo Hoàng ở dinh Tông Tòa để chủ sự buổi đọc kinh Truyền Tin chung với các tín hữu tụ tập tại Quảng trường Thánh Phêrô Ngài quảng diễn ý nghĩa bài Tin Mừng về nhà vua mời gọi mọi người tham dự tiệc cưới. Sau khi ban phép lành cho các tín hữu, ĐTC bày tỏ tình liên đới với các nạn nhân bị lụt ở Genova, bắc Italia, cũng như chào thăm nhiều nhóm các tín hữu hành hương, đặc biệt là các nữ tu dòng Con Đức Mẹ Phù Hộ (dòng Salésiennes) đang nhóm tổng tu nghị ở Roma.

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Dụ ngôn tiệc cưới

Dụ ngôn tiệc cưới

(Trích trong ‘Sống Tin Mừng’)

Được một ông vua đích thân mời đến dự tiệc cưới của hoàng tử, nhưng các thần dân không những khước từ lời mời mà còn nhục mạ giết các sứ giả, đây quả là tột cùng của sự khiếm nhã. Qua dụ ngôn, chúng ta thấy rõ Chúa Giêsu nhắm vào dân Do Thái. Câu truyện gợi lên một sự đau thương của cả một dân tộc mà Thiên Chúa đã chọn họ làm dân riêng để thực hiện công cuộc cứu rỗi, nhưng họ đã khước từ ơn cứu rỗi ấy. Nhưng có lẽ trọng tâm của bài Tin Mừng được Giáo Hội cho chúng ta lắng nghe hôm nay không hẳn là mời dự tiệc cưới cho bằng chiếc áo cưới.

Hai câu truyện xem ra bất thường, được Vua mời đến dự tiệc cưới, thần dân lại khước từ. Đây quả là một hành động nhục mạ đối với nhà Vua. Nhưng thách thức không kém là khi vào phòng cưới mà không chịu mặc y phục lễ cưới do nhà Vua qui định, thái độ này khiêu khích đến nhà Vua phải truyền lệnh cho gia nhân trói tay chân người đó lại và ném ra ngoài.

Hình ảnh người thực khách vào dự tiệc cưới mà không chịu mặc y phục lễ cưới của nhà Vua qui định, gợi lại cho chúng ta lời khẳng định của Chúa Giêsu: "Không phải những ai nói "Lạy Chúa, Lạy Chúa" mà được vào Nước Trời đâu, mà chỉ có những ai thực thi ý Chúa muốn, mới được vào mà thôi" (Mt 7,21).

Anh chị em thân mến,

Mang danh hiệu Kitô nhưng sống hoàn toàn ngược lại với Tin Mừng, đây vốn là điều thường xảy ra trong cuộc sống của mỗi người chúng ta cũng như trong lịch sử của Giáo Hội. Trong Tông Thư Ngàn Năm Thứ Ba Đang Đến, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II kêu gọi con cái Giáo Hội sám hối và thanh luyện ký ức lịch sử. Trong suốt 2,000 năm lịch sử của Giáo Hội, con cái Giáo Hội không biết bao nhiêu lần hành động hoàn toàn ngược lại với Tin Mừng. Những cuộc thập tự viễn chinh để sát hại người Hồi Giáo, các tòa điều tra thời Trung Cổ để kết án, ngay cả thiêu sống những người lạc giáo, các cuộc chém giết giữa các tín hữu Công Giáo và Tin Lành.

Đó là những vết nhơ trong lịch sử của Giáo Hội, nhưng gần đây là chủ nghĩa bài trừ Do Thái thời đệ nhị thế chiến, trong cuộc sát tế 6 triệu người Do Thái, dĩ nhiên do Đức Quốc Xã chủ xướng, nhưng nó lại diễn ra ngay trong lục địa tự xưng là Kitô giáo. Không ai tự mình có thể trở thành độc tài và đồ tể. Hitler chắc chắn không có đủ ba đầu sáu tay mà hiện diện khắp cả Âu Châu để truy lùng và sát hại người Do Thái. Đức Quốc Xã không chỉ là một mình Hitler tích cực hay tiêu cực, do xác tín hay do hèn nhát, do ác ý hay vì dửng dưng, biết bao người tín hữu trên khắp lục địa Âu Châu đã nhúng tay vào tội ác của Đức Quốc Xã, tự xưng là người tín hữu Kitô nhưng hành động hoàn toàn ngược lại với Tin Mừng.

Đây là cách cư xử mà Chúa Giêsu muốn ám chỉ qua người thực khách không chịu mặc y phục lễ cưới do nhà Vua qui định, một cách cư xử thiếu nhất quáng như thế vẫn xảy ra trong Giáo Hội ngày nay. Tại những nước vẫn tự xưng là Kitô giáo, đa số là những người tín hữu hữu danh vô thực, phép Rửa Tội chỉ còn là một nghi thức xã hội, ai sinh ra cũng phải đem đến nhà thờ để được rửa tội, nhưng suốt một đời nhiều người chỉ đến nhà thờ để được rửa tội, để được cưới hỏi và cuối cùng để gọi là được chết trong Giáo Hội.

Biết bao nhiêu đảng phái tự xưng là Kitô giáo nhưng đường hướng hoàn toàn ngược lại với Tin Mừng. Không ngược lại với Tin Mừng là gì khi những người mang danh hiệu Kitô lại cổ võ cho ly dị, phá thai, sinh hoạt đồng tính luyến ái v.v… Còn những nước trong đó Kitô giáo là thiểu số thì người ta thường tự hào về việc giữ đạo của các tín hữu Kitô, nhà thờ lúc nào cũng chật ních người, các cuộc biểu dương và rước sách lúc nào cũng đông người tham dự. Thế nhưng, chúng ta nghĩ gì về các tệ nạn xã hội đầy dẫy trong các giáo xứ, những người ngoài Công Giáo thấy gì về các tín hữu đến nhà thờ mỗi ngày Chúa Nhật, tối sớm đọc kinh làu làu, tích cực trong các buổi rước sách, nhưng sống ích kỷ, lường gạt, mánh mung như mọi người. Một cách sống như thế quả thực làm ố danh sự đạo. Không thể mang danh hiệu Kitô mà hoàn toàn xa lạ với Tin Mừng Kitô, không thể là người Công Giáo mà chủ trương sống ngược lại với giáo huấn của Giáo Hội, bỉ ổi hơn cả là khi người ta dùng danh hiệu Công Giáo để phục vụ cho một chế độ chủ trương bách hại Giáo Hội.

Lời Chúa hôm nay nhắc nhở cho chúng ta về những lời cam kết khi chịu Phép Rửa Tội, một trong những ý tưởng đầy ý nghĩa của Bí Tích này là chiếc áo trắng mà Giáo Hội phủ lên người chúng ta. Chiếc áo trắng ấy là căn cước Kitô của chúng ta, chúng ta không chỉ mang nó mỗi năm một lần, mỗi tuần một lần hay thậm chí chờ cho đến khi ta nhắm mắt lìa đời. Chiếc áo trắng ấy là từng hơi thở của chúng ta, chiếc áo trắng ấy là Tin Mừng Chúa Kitô mà chúng ta phải sống từng giây phút trong cuộc sống. Có sống như thế chúng ta mới thật sự cảm nhận được niềm vui khi tham dự vào bàn tiệc Thánh Thể mà Chúa dọn ra cho chúng ta mỗi ngày, nhất là ngày Chúa Nhật. Có sống như thế những người xung quanh mới nhìn vào chúng ta mà ngợi khen Cha chúng ta ở trên trời. Amen.

Veritas Radio

Mặc áo cưới

Mặc áo cưới

Với tình thương yêu, Thiên Chúa dọn tiệc mời.

Đọc dụ ngôn tiệc cưới, tôi không khỏi ngỡ ngàng trước tình yêu thương của Thiên Chúa. Thiên Chúa mời con người đến dự tiệc cưới Con của Người. Điều đó chứng tỏ Thiên Chúa yêu thương con người.

Đó là một tình yêu nhưng không.

Thiên Chúa là vị vua cao sang. Ta chỉ là đám tiện dân hèn hạ. Sao Chúa lại mời ta. Theo lẽ thường ở đời người ta chỉ mời những người ngang vai bằng vế. Một bữa tiệc thường có mục đích củng cố uy tín của chủ nhân và ràng buộc khách mời vị vọng để khi hữu sự cần nhờ. Vua Trời mời tiện dân hèn hạ thì có lợi gì. Không những hèn hạ mà còn đui, què, mẻ, sứt nữa. Ta là những hạng rác rưởi của xã hội, chẳng có gì đền đáp cho chủ nhân. Chẳng đem lại một chút vinh dự nào cho chủ nhân. Thế mà Người vẫn mời ta. Rõ ràng là do tình thương của Người. Đó là tình yêu nhưng không. Người không mong ta có gì đền đáp. Người mời ta chỉ vì yêu thương ta mà thôi.

Đó là tình yêu chia sẻ.

Thiên Chúa tràn đầy vinh quang không còn thiếu thốn gì. Tại sao Người còn mời những con người hèn hạ vào Nước Trời làm gì cho thêm bận. Thưa vì Thiên Chúa là tình yêu. Tình yêu của Người vô biên nên Người khao khát chia sẻ. Người vô cùng tốt lành nên Người muốn thông ban hạnh phúc cho loài người. Tình yêu mãnh liệt khiến người nảy sinh những sáng kiến kỳ diệu. Cho Con Một mặc lấy bản tình loài người để nâng loài người lên. Mời gọi loài người vào hưởng hạnh phúc với Người. Nâng loài người hèn hạ lên bậc thượng khách trong tiệc cưới. Nâng loài người tôi tớ lên hàng con cái trong Nước Trời. Đưa nhân loại bơ vơ đầu đường xó chợ vào ngồi đồng bàn với hàng thần thánh trên trời.

Chẳng có gì có thể giải thích được thái độ của Thiên Chúa. Chỉ có tình yêu. Đó là một tình yêu vô cùng mãnh liệt và hoàn toàn vô vị lợi. Tình yêu muốn chia sẻ hết những gì mình có. Tình yêu hoàn toàn vì người mình yêu. Mong muốn mọi sự tốt đẹp cho người mình yêu.

Tôi phải mặc áo cưới tới dự.

Tình yêu Thiên Chúa tha thiết nhưng vẫn tôn trọng tự do. Trước lời mời gọi của Thiên Chúa, tôi có thể nhận lời hoặc chối từ. Khi dọn tiệc, Chúa mong tôi tới dự. Khi mở rộng cửa trời, Chúa mong tôi bước vào. Khi mời gọi, Chúa mong tôi trả lời. Khi bày tỏ tình yêu, Chúa mong tôi đền đáp. Tuy nhiên, nhận lời đền đáp đòi phải có điều kiện. Đến dự tiệc cưới phải mặc áo cưới.

Mặc áo cưới là mặc lấy nhân phẩm. Được mời vào dự tiệc cưới Con Vua, tôi không còn là phường rác rưởi của xã hội nữa. Tôi đã được Chúa trân trọng. Nâng lên hàng thượng khách, là khách mời của Vua. Mặc áo cưới ở đây là tự trọng, cư xử như người tự do. Chúa đã phục hồi nhân phẩm cho tôi, tôi phải trân trọng giữ gìn.

Mặc áo cưới là mặc lấy tình yêu. Vì yêu thương Chúa đã mời tôi vào chung hưởng hạnh phúc với Người trong tiệc cưới. Đáp lại, tôi phải có tình yêu mến đối với Người. Tình yêu đáp đền tình yêu. Mặc áo cưới là trân trọng tình yêu của Chúa, là muốn đáp lại tình yêu của Chúa.

Mặc áo cưới là mặc lấy Chúa Kitô (x. Gl 3,27). Được ơn cứu độ, ta trở thành em Chúa Kitô, vì thế ta phải noi gương Người mặc lấy tâm tình người con được Cha yêu thương và biết lấy tâm tình hiếu thảo đáp lại tình Cha. Mặc lấy Chúa Kitô cũng là mặc lấy con người mới là hình ảnh của Thiên Chúa công chính và thánh thiện (x. Ep 4,24).

Thiên Chúa yêu thương mời gọi ta vào hưởng hạnh phúc Nước Trời. Đáp lại, ta phải đổi mới đời sống cho phù hợp với Nước Chúa, với tình yêu của Chúa và với địa vị mới của ta.

Lạy Chúa, xin cho con biết mạnh dạn đáp lại lời Chúa mời gọi.

GỢI Ý CHIA SẺ

1) Hằng ngày Chúa vẫn mời gọi tôi đến dự tiệc Thánh Thể, tôi có mau mắn đáp lời hay tôi thường từ chối?

2) Mặc áo cưới là theo Chúa quyết liệt, không nửa vời tôi theo đạo nhưng tôi có thực hành Lời Chúa không?

3) Bạn phải làm những gì để được coi là “mặc áo cưới”?

ĐTGM Ngô Quang Kiệt

Sứ điệp Thượng Hội Đồng Giám Mục gửi các gia đình đau khổ vì xung đột

Sứ điệp Thượng Hội Đồng Giám Mục gửi các gia đình đau khổ vì xung đột

VATICAN. Các nghị phụ Thượng HĐGM thế giới đang nhóm tại Roma gửi sứ điệp liên đới với các gia đình đang chịu đau khổ trên thế giới, nhất là tại Irak và Syria.

Trong sứ điệp công bố sáng ngày 10-10-2014, các nghị phụ khẳng định rằng:

”Họp nhau quanh Đấng Kế Vị Thánh Phêrô Tông Đồ, chúng tôi, các nghị phụ của Thượng Hội Đồng Giám Mục khóa đặc biệt thứ III, cùng với tất cả các tham dự viên, chia sẻ mối quan tâm hiền phụ của Đức Thánh Cha, bày tỏ sự gần gũi sâu đậm với tất cả các gia đình đang chịu đau khổ vì nhiều cuộc xung đột hiện nay.

”Đặc biệt chúng tôi dâng lên Chúa lời khẩn nguyện cho các gia đình Irak và Syria, vì niềm tin Kitô mà họ tuyên xưng hoặc vì thuộc các cộng đồng chủng tộc và tôn giáo khác, buộc lòng phải bỏ lại tất cả và trốn chạy hướng về một tương lai bất định. Cùng với Đức Thánh Cha Phanxicô, chúng tôi tái khẳng định rằng ”không ai có thể dùng danh Thiên Chúa để thi hành bạo lực” và “giết người nhân danh Thiên Chúa là một tội phạm thánh nặng nề!” (Diễn văn với các vị lãnh đạo tôn giáo khác và các hệ phái Kitô khác, Tirana, 21-9-2014).

”Trong khi cảm ơn các Tổ chức Quốc tế và các nước vì tình liên đới, chúng tôi mời gọi những người thiện chí cống hiến những trợ giúp cần thiết cho các nạn nhân vô tội của những hành vi man rợ hiện nay, và đồng thời chúng tôi xin Cộng đồng quốc tế nỗ lực làm việc để tái lập sự sống chung hòa bình ở Irak, Siria và trong toàn vùng Trung Đông. Cũng vậy, chúng tôi nghĩ đến tất cả các gia đình đang bị xâu xé và đau khổ tại các nơi khác trên thế giới, phải chịu bạo lực trường kỳ. Chúng tôi muốn cam đoan với họ về kinh nguyện liên lỷ của chúng tôi, xin Chúa từ bi hoán cải tâm hồn và ban hòa bình và ổn định cho những người đang sống trong thử thách. Nguyện xin Thánh Gia Nazareth, đã từng chịu ”con đường đau khổ vì lưu vong” (Kinh Truyền Tin 29-12-2013), biến mỗi gia đình thành ”cộng đoàn yêu thương và hòa giải” (Ibid.), thành một nguồn hy vọng cho toàn thế giới”.

(G. Trần Đức Anh OP chuyển ý)

Thượng Hội Đồng Giám Mục bàn về những tình trạng gia đình khó khăn

Thượng Hội Đồng Giám Mục bàn về những tình trạng gia đình khó khăn

VATICAN. Trong phiên khoáng đại thứ 6, chiều thứ tư, 8-10-2014, Thượng HĐGM thế giới khóa đặc biệt đã bàn về những tình trạng mục vụ khó khăn và những cặp đồng phái.

Hiện diện trong phiên họp từ lúc 4 giờ rưỡi đến 7 giờ chiều có ĐTC và 180 nghị phụ, dưới quyền chủ tọa theo lượt của ĐHY Raymundo Damasceno Assis, TGM Aparecida, Brazil.

– Một số nghị phụ nhấn mạnh rằng Giáo Hội không phải là một sở quan thuế, nhưng là một nhà cha, vì thế Giáo Hội phải kiên nhẫn tháp tùng tất cả mọi người, kể cả những người ở trong tình trạng mục vụ khó khăn. Giáo Hội Công Giáo chân chính bao gồm cả những gia đình lành mạnh và gia đình khủng hoảng, vì thể nỗ lực hằng ngày trong việc thánh hóa không thể để Giáo Hội dửng dưng đối với những yếu đuối, vì sự kiên nhẫn cũng bao hàm việc giúp đỡ tích cực cho người yếu đuối nhất.

– Về công việc của tòa án hôn phối cứu xét để tuyên bố hôn nhân vô hiệu, nói chung, nhiều nghị phụ đều nhận thấy cần cải tiến thủ tục để các vụ án này được cứu xét mau lẹ hơn, thu nhận nhiều hơn các giáo dân có khả năng trong các tòa án của Giáo Hội. Nhưng cũng có những nghị phụ cảnh giác về nguy cơ hời hợt và luôn luôn phải duy trì việc tôn trọng sự thật và quyền lợi của những người liên hệ, vì án hôn phối tiêu hôn không phải là tiến trình đi ngược với đức bác ái mục tử và việc mục vụ tư pháp phải tránh những ý tưởng buộc tội, trái lại khích lệ việc cứu xét các vụ án trong thanh thản.

Ngoài ra, có nghị phụ về nghị dùng cả các biện pháp hành chánh để tuyên bố hôn nhân vô hiệu, tuy rằng biện pháp này không thay thế cho con đường tư pháp, hai con đường bổ túc cho nhau. GM là người có thẩm quyền quyết định xem vụ án hôn phối nào có thể được cứu xét theo đường hành chánh.

– Một số nghị phụ nhấn mạnh rằng cần phải có thái độ tôn trọng đối với những tín hữu ly dị tái hôn, vì họ thường phải sống trong những tình trạng khó khăn hoặc bất công về mặt xã hội, họ chịu đau khổ trong thinh lặng và trong nhiều trường hợp, qua một tiến trình từ từ, họ tìm cách tham dự đầy đủ hơn vào đời sống Giáo Hội. Mục vụ đối với họ không được có tính chất đàn áp, nhưng đầy lòng từ bi thương xót.

– Về nạn đa thê, các nghị phụ nhấn rằng đây là một thực tại đang giảm bớt. Trong xã hội nông thôn, nạn đa thê dễ phát triển hơn, tuy nhiên ngày nay trào lưu thành thị hóa gia tăng. Cũng có những nghị phụ nhắc đến sự kiện có những người đa thê trở lại Công Giáo và muốn lãnh nhận các bí tích khai tâm Kitô giáo. Người ta đặt câu hỏi: có những biện pháp mục vụ chuyên biệt để đáp ứng những hoàn cảnh như thế với sự phân định thích hợp hay không.
– Có nghị phụ trở lại vấn đề chuẩn bị hôn nhân kỹ lưỡng hơn, nhất là nơi những người trẻ, cần trình bày cho họ vẻ đẹp của bí tích hôn nhân, cùng với sự giáo dục thích hợp về tình cảm, không phải bằng những lời nhắn nhủ luân lý, vì hành động này rốt cuộc tạo ra một thứ ”mù chữ” về tôn giáo và nhân bản. Trong tiến trình hôn nhân, cần có một sự tăng trưởng đích thực của con người.

Thảo luận tự do

Trong giờ thảo luận tự do từ 6 đến 7 giờ chiều thứ tư, 8-10, mỗi nghị phụ được phát biểu tối đa 3 phút.

– Một số nghị phụ trình bày những kinh nghiệm và kiểu mẫu cụ thể về việc mục vụ cho những người ly dị tái hôn. Họ dùng những nhóm lắng nghe. Điều quan trọng là tránh đưa ra một phán đoán luân lý, cũng như trách nói về tình trạng sống trong tội lỗi trường kỳ. Trái lại cần giúp những người ly dị tái hôn hiểu rằng việc không được rước lễ không loại trừ những phương thức khác để lãnh nhận ơn thánh trong Chúa Kitô; tình trạng không được rước lễ là do tình trạng khách quan theo đó mỗi giây bí tích bất khả phân lý trước đó vẫn còn. Trong nhãn giới đó, các nghị phụ nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc rước lễ thiêng liêng. Dầu sao thì cả những đề nghị này cũng có những giới hạn và không có những giải pháp dễ dàng cho vấn đề.

– Về việc mục vụ những người đồng tính luyến ái, một số nghị phụ nhấn mạnh tầm quan trọng của việc lắng nghe, và cả những nhóm lắng nghe nữa.

– Có nghị phụ nói đến vấn đề những tín hữu Công Giáo chuyển sang hệ phái Kitô khác, hoặc ngược lại, với tất cả những hậu quả khó khăn từ hôn phối hỗn hợp và sự kiểm chứng tính chất thành sự của các hôn phối ấy dưới ánh sáng của sự kiện trong các Giáo Hội Chính Thống, có thể được phép ly dị.
– Sau cùng, có nghị phụ nhận xét rằng từ Thượng HĐGM về gia đình Kitô hồi năm 1980 cho đến nay đó có những biến chuyển rất lớn trong nền văn hóa pháp lý quốc tế và vì thế Giáo Hội cần ý thức những điều ấy, và các tổ chức văn hóa, như các đại học Công Giáo cần đối chiếu với những tình trạng ấy để bảo tồn vai trò của mình trong cuộc thảo luận hiện nay.

Phiên nhóm thứ 7

Sáng ngày 9-10-2014, Thượng HĐGM nhóm phiên khoáng đại thứ 7, từ lúc 9 giờ, trước sự hiện diện của ĐTC và dưới quyền chủ tọa theo lượt của ĐHY André Vingt-Trois, TGM giáo phận Paris.

Chủ đề của phiên họp là: Những thách đố mục vụ liên quan với sự cởi mở đối với sự sống. Đây cũng là đề tài chương thứ I trong phần III của Tài liệu làm việc, bàn về sự hiểu biết và đón nhận giáo huấn của Hội Thánh về vấn đề này; vấn đề các phương pháp ngừa thai, các khó khăn và nguyên nhân khiến tín hữu khó chấp nhận giáo huấn của Giáo Hội; việc lãnh nhận bí tích thống hối của các đôi vợ chồng ngừa thai. Sau cùng là sự khuyến khích một tâm thức cởi mở đóng nhận sự sống.

Trước khi các nghị phụ lên tiếng phát biểu, mọi người đã nghe chứng từ của ông bà Arturo và Hermelinda Zamberline, trách nhiệm phong trào ”ê-kíp Đức Bà (Notre Dame) ở Brazil”. (SD 9-10-12014)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Phiên khoáng đại thứ 3 của Thượng Hội Đồng Giám Mục về gia đình

Phiên khoáng đại thứ 3 của Thượng Hội Đồng Giám Mục về gia đình

VATICAN. Trong phiên khoáng đại thứ 3, sáng 7-10-2014, các nghị phụ Thượng HĐGM thế giới đã bàn về vấn đề những người ly dị.

ĐTC hiện diện tại phiên họp do ĐHY Antonio Luis Tagle, TGM Manila, chủ tọa và bàn về ”Tin Mừng gia đình và luật tự nhiên” (I,3) và ”gia đình và ơn gọi của con người trong Chúa Kitô' (I, 4) như đã được trình bày trong chương 3 và 4 thuộc phần thứ I của tài liệu làm việc.

Sau lời giới thiệu của ĐHY Tagle, đôi vợ chồng dự thính viên George và Cynthia Campos người Philippines đã trình bày chứng từ. Ông George là Giám đốc tổ chức ”Các đôi vợ chồng vì Chúa Kitô” và bà Cynthia là thành viên của tổ chức này. Cả hai đều thuộc tổng giáo phận Manila.

Trong phần phát biểu về chủ đề được xác định, một số nghị phụ đã kêu gọi tăng cường việc chuẩn bị hôn nhân, để không những bí tích này được thành sự nhưng còn được những kết quả phong phú. Các nghị phụ cũng đề nghị không nên chỉ tìm kiếm những phương dược cho những cuộc hôn nhân bị thất bại, nhưng còn phải để ý đến những điều kiện làm cho hôn phối được thành sự và phong phú. Điều này cần phải thông truyền một quan niệm về hôn nhân không phải như một điểm tới, nhưng là một hành trình hướng về một mục tiêu cao cả hơn, một con đường tăng trưởng bản thân và cho đôi vợ chồng, một sức mạnh và là nguồn năng lực.

Cần luôn tháp tùng các đôi vợ chồng trong hành trình cuộc sống, qua một nền mục vụ gia đình khẩn trương và nghiêm túc. Hành trình chuẩn bị lãnh nhận bí tích hôn phối phải lâu dài, theo nhân cách của mỗi người và nghiêm ngặt, đừng sợ thấy con số các hôn phối cử hành tại nhà thờ bị giảm sút. Chẳng vậy người ta sẽ gặp nguy cơ làm cho các tòa án hôn phối bị tràn ngập công việc.

– Một điểm khác được các nghị phụ trình bày tại Thượng HĐGM là ảnh hưởng của các phương tiện truyền thông. Các phương tiện này nhiều khi xâm nhập đời sống và trình bày những ý thức hệ trái ngược với đạo lý của Hội Thánh về gia đình và hôn nhânm. Trong viễn tượng này, người ta nói các tín hữu Công Giáo cần được bảo vệ, nhưng cũng cần được chuẩn bị kỹ lưỡng hơn. Giáo Hội phải cung cấp giáo huấn một cách chính xác và quyết liệt hơn, trình bày đạo lý không phải như một danh sách những điều cấm đoán, nhưng gần gũi với các tín hữu, như Chúa Giêsu đã làm. Theo cách thức ấy, khi hành động trong sự đồng cảm và dịu dàng, Giáo Hội có thể thu hẹp khoảng cách giữa đạo lý và thực hành, giữa giáo huấn của Giáo Hội và đời sống thường nhật của các gia đình. Vì điều cần thiết không phải là chọn lựa giữa đạo lý và lòng từ bi, nhưng là khởi sự một nền mục vụ sáng suốt, nhất là để khích lệ các gia đình đang gặp khó khăn, thường cảm thấy mình không thuộc về Giáo Hội.

– Trong phiên họp thứ ba, các nghị phụ đã nói nhiều về những cặp vợ chồng gặp khó khăn, những người ly dị tái hôn. Một số nghị phụ khẳng định rằng Giáo Hội đừng đưa ra một sự phán xét đối với những cặp ấy nhưng trình bày chân lý, với cái nhìn cảm thông, vì dân chúng đi theo sự thật và theo Giáo Hội nếu Giáo Hội nói lên chân lý. Liều thuốc từ bi mang lại sự đón tiếp, chăm sóc và nâng đỡ. Lý do cũng vì các gia đình đau khổ không tìm kiếm những giải pháp mục vụ mau lẹ, họ không muốn chỉ là những con số thống kê, nhưng cảm thấy nhu cầu được soi sáng, cảm thấy được đón nhận và yêu mến. Giáo Hội phải dành nhiều chỗ hơn cho tiêu chuẩn bí tích, hơn là tiêu chuẩn luật pháp.

Về vấn đề những người ly dị tái hôn có được rước lễ hay không, một số nghị phụ khẳng định rằng bí tích Thánh Thể không phải là bí tích của những người hoàn hảo, nhưng là của những người đang trên đường lữ hành.

Tại Thượng HĐGM có trình bày 3 chiều kích đặc thù của gia đình, đó là: ơn gọi sự sống, đặc tính truyền giáo, được hiểu như làm chứng về Chúa Kitô qua sự hiệp nhất gia đình; sau cùng là đón tiếp tha nhân, vì gia đình là trường học đầu viên về tha nhân, là nơi người ta có thể học sự kiên nhẫn và chậm rãi, đối nghịch với với nhịp sống ồ đạt của thế giới ngày nay. Một chiều kích khác của tế bào gia đình được nêu bật trong sự thánh thiện, vì gia đình giáo dục về sự tháanh thiện, là hình ảnh của Chúa Ba Ngôi, là Giáo Hội tại gia, phục vụ công trình loan báo Tin Mừng, là tương lai của nhân loại.

Trong phiên họp thứ ba, các nghị phụ cũng nói đến tầm quan trọng của việc huấn giáo về gia đình, nhất là cho các trẻ em, và việc cầu nguyện trong gia đình, vì việc cầu nguyện này tới tới một sự sinh ra đức tin, giúp cha mẹ thông truyền đức tin cho con cái.

G. Trần Đức Anh OP
– Vatican Radio

Phiên họp thứ 2 của Thượng Hội đồng Giám Mục thế giới về gia đình

Phiên họp thứ 2 của Thượng Hội đồng Giám Mục thế giới về gia đình

VATICAN. Lúc 9 giờ sáng thứ ba, 7-10-2014, Thượng HĐGM thế giới khóa ngoại thường thứ III về ”những thách đố mục vụ gia đình trong bối cảnh loan báo Tin Mừng” đã nhóm phiên khoáng đại thứ 3 trước sự hiện diện của ĐTC và 180 nghị phụ. ĐHY Antonio Luis Tagle, TGM Manila, chủ tọa phiên họp theo lượt.

ĐHY loan báo chủ đề của phiên họp là ”Tin Mừng gia đình và luật tự nhiên” (I,3) và ”gia đình và ơn gọi của con người trong Chúa Kitô' (I, 4) như đã được trình bày trong chương 3 và 4 thuộc phần thứ I của tài liệu làm việc.

Sau lời giới thiệu của ĐHY Tagle, đôi vợ chồng dự thính viên George và Cynthia Campos người Philippines đã trình bày chứng từ. Ông George là Giám đốc tổ chức ”Các đôi vợ chồng vì Chúa Kitô” và bà Cynthia là thành viên của tổ chức này. Cả hai đều thuộc tổng giáo phận Manila.

Chúng tôi sẽ tường thuật nội dung phiên họp này trong bản tin tới.

Họp báo của Cha Lombardi

Khác với các công nghị GM thế giới trước đây, lần này Văn phòng Tổng thư ký Thượng HĐGM không phổ biến các bản tóm tắt bài phát biểu do chính nghị phụ thực hiện. Trái lại, mỗi ngày đều có một cuộc họp báo ngắn để tường trình tổng quát cho giới báo chí những gì đã được trình bày trong phiên họp.

Trưa thứ hai 6-10-2014, sau phiên khoáng đại thứ I, cha Lombardi Giám đốc Phòng báo chí Tòa Thánh, đã chủ tọa cuộc họp báo này với sự tham dự của ĐHY Peter Erdoe, người Hungari, Tổng trường trình của Thượng HĐGM, ĐHY André Vingt-Trois, TGM Paris là người đã chủ tọa phiên họp thứ I, và ĐHY Bruno Forte, Tổng thư ký đặc biệt của Thượng HĐGM đang tiến hành.

ĐHY Peter Erdoe

Ngỏ lời với giới báo chí, ĐHY Peter Erdoe nói đến một vài thay đổi trong phương pháp của Thượng HĐGM, vì ĐTC đã thay đổi qui luật của Công nghị GM, chẳng hạn ngài qui định rằng từ nay ngôn ngữ chính thức của Thượng HĐGM là tiếng Ý, thay vì tiếng la tinh như từ trước đến nay, dĩ nhiên là có phần thông dịch. Sự thay đổi này cũng làm cho công việc của Tổng tường trình viên dễ dàng hơn. Trong những Công nghị GM trước đây, các nghị phụ phải nghe bài tường trình cả tiếng đồng hồ bằng tiếng la tinh, và đó là điều không dễ dàng đối với mọi người.

Những thay đổi đáng kể khác trong phương pháp liên quan đến nội dung và cách thức soạn bản tường trình trước khi thảo luận, nhất là vì sau khi nhận được Tài liệu làm việc, các Nghị Phụ được yêu cầu gửi trước bài phát biểu của mình về Văn phòng Tổng thư ký trước cuối tháng 9 vừa qua. Vì thế, nhiều bài phát biểu đã được gửi về, và dựa trên các văn bản đó, chúng tôi dang soạn bài tường trình sau cuộc thảo luận. Dĩ nhiên cũng cần theo dõi các bài phát biểu của các nghị phụ trong những ngày tại tại Hội trường THĐGM, vì không phải tất cả các nghị phụ đều trình bày giống như đã viết trên giấy và gửi về trước, ngoài ra cũng có những bài phát biểu tự do. Tóm lại là phải thu thập tất cả để soạn bản tường trình sau cuộc thảo luận. Khi soạn bản tường trình trước cuộc thảo luận, chúng tôi cũng có thể để ý đến nội dung của một số bài phát biểu trên giấy đã được gửi về. Chúng tôi nghĩ, như thế có thể nhắc đến vắn tắt một số lập trường quan trọng từ những câu trả lời, và dĩ nhiên chúng tôi cũng dựa trên Tài liệu làm việc. Văn kiện này thực ra đã là kết quả của cuộc đúc kết các bản trả lời từ các nơi gửi về. Vì thế có thể nói là toàn Giáo Hội được tham khảo ý kiến hai lần. Tóm lại công việc của chúng tôi như tường trình viên là tổng hợp những gì được trình bày, và nói một cách thơ phú hơn, công việc đó hệ tại ”lắng nghe tiếng nói của Giáo Hội hoàn vũ”.

ĐHY Vingt-Trois

Tiếp lời ĐHY Erdoe, ĐHY André Vingt-Trois, TGM Paris, một trong 3 vị Chủ tịch thừa ủy, là người đã chủ tọa phiên khoáng đại đầu tiên của Thượng HĐGM sáng thứ hai 6-10, vừa qua, đã lên tiếng lưu ý các ký giả về cám dỗ muốn diễn tả kinh nghiệm của Thượng HĐGM theo kinh nghiệm mình đã có về các cuộc thảo luận tại quốc hội.

ĐHY nói: ”Trong cuộc thảo luận tại quốc hội, người ta cố gắng đạt tới một mục đích là đi tới một đa số và một thiểu số. Các chế độ dân chủ, hay ít là các chế độ ”mặc bộ áo dân chủ”, nói là đa số thắng thiểu số và thiểu số phải phục tùng đa số. Nhưng công việc tại Thượng HĐGM không phải như vậy. Các nghị phụ ở đây không phải để đạt được đa số từ những lập trường được trình bày. Các vị ở đó là để làm việc, làm sao phát triển được một ý chí chung trong Giáo Hội. Ý chí này là động viên về những mục tiêu rõ ràng và chính xác bao nhiêu có thể, và phần còn lại thì để cho các Giáo Hội địa phương thi hành.

Phiên họp khoáng đại thứ 2

Lúc 5 giờ chiều thứ hai 6-10-2014, Thượng HĐGM đã nhóm phiên khoáng đại thứ 2 với sự hiện diện của ĐTC và 180 nghị phụ và bàn về chủ đề: 'Ý định của Thiên Chúa về hôn nhân và gia đình” (I,1), và ”Việc hiểu biết và đón nhận Kinh Thánh và các văn kiện của Giáo Hội về hôn nhân và gia đình” (I,2). Hai đề tài này thuộc chương thứ I và thứ II trong phần thứ I của Tài liệu làm việc.

Chứng từ của ông bà Ron và Mavis Pirola

Mở đầu mọi người đã nghe chứng từ của ông bà Ron và Mavis Pirola người Australia, dự thính viên tại Thượng HĐGM này. Ông bà là đồng giám đốc Hội đồng Công Giáo Australia về hôn nhân và gia đình. Họ kể lại kinh nghiệm trong gia đình về việc sống căng thẳng giữa một bên là khẳng định chân lý, và bên kia là sự cảm thông và từ bi. Cụ thể là người con trai của Ông bà Pirola là một người đồng tính luyến ái. Một hôm, nggười con ấy nói là muốn đưa người bạn trai của anh ta về nhà. Ông bà là người hoàn toàn tin tưởng và chấp nhận giáo huấn của Giáo Hội, nhưng phải làm sao trước yêu cầu của người con? Ông bà bị giằng co giữa một bên là tôn trọng và chấp nhận chân lý và giáo huấn của Hội Thánh, và bên kia là từ bi yêu thương người con. Ông bà biết rằng các cháu muốn ông bà đón nhận đứa con và bạn trai của anh ta trong gia đình. Vì thế câu trả lời của ông bà có thể được tóm tắt trong câu: ”Đó là con chúng tôi!”.

Theo ông bà Ron và Mavis Pirola, điều này có thể là ”kiểu mẫu loan báo Tin Mừng cho các giáo xứ khi gặp những hoàn cảnh tương tự”. Vai trò của Giáo Hội là làm cho thế giới nhận biết tình thương của Thiên Chúa.

Ông bà dự thính viên còn kể thêm rằng: ”Một người bạn gái của chúng tôi ly dị và cho biết là nhiều khi không cảm thấy hoàn toàn được đón nhận trong giáo xứ của bà. Nhưng bà vẫn đi dự lễ thường xuyên và không than thở gì với các con của bà. Đối với giáo xứ, bà là một gương mẫu về sự can đảm dấn thân đương đầu với những nghịch cảnh. Từ những người như bà chúng ta học cách nhận ra rằng tất cả chúng ta mang những thương tích nội tâm trong cuộc sống của mình. Ý thức về những vết thương nội tâm của mình, giúp chúng ta rất nhiều trong việc giảm bớt xu hướng xét đoán người khác, một thái độ cản trở việc loan báo Tin Mừng”.

Nội dung phát biểu của các nghị phụ

Sau chứng từ của ông bà Pirola, một số nghị phụ đã phát biểu ý kiến, mỗi vị tối đa là 4 phút. Nội dung các bài phát biểu của các nghị phụ có thể tóm tắt như sau:

Đi từ tiền đề gia đình là tế bào cơ bản của xã hội loài người, là chiếc nôi của tình yêu nhưng không, và việc nói về hôn nhân và gia đình bao hàm một sự giáo dục về lòng chung thủy, nhiều nghị phụ nhấn mạnh rằng cần phải bảo vệ gia đình vì tương lai của nhân loại tùy thuộc gia đình.

Ngoài ra, từ nhiều phía, người ta thấy cần phải thích ứng ngôn ngữ của Giáo Hội, để đạo lý của Hội thánh về gia đình, về sự sống, tính dục, được hiểu đúng đắn: cần đối thoại với thế giới, noi gương Công đồng chung Vatican 2, nghĩa là có thái độ cởi mở phê bình, nhưng chân thành. Lý do vì nếu Giáo Hội không lắng nghe thế giới, thì thế giới cũng chẳng nghe Giáo Hội. Và cuộc đối thoại có thể dựa trên những đề tài quan trọng như phẩm giá bình đẳng giữa người nam và người nữ, sự phủ nhận bạo lực.

Có nghị phụ nói: chúng ta không phải giải thích Tin Mừng, nhưng là chứng tỏ Tin Mừng và nhất là cần có sự can dự của giáo dân trong việc loan báo Tin Mừng, nêu rõ đoàn sủng truyền giáo của giáo dân. Việc loan báo Tin Mừng không thể là một lý thuyết xuông, nhưng phải làm sao để chính các gia đình làm chứng tá cụ thể về vẻ đẹp và về chân lý Phúc Âm, Thách đố ở đây là đi từ một thế tự vệ tới một thái độ đề nghị và tích cực, nghĩa là tái đẩy mạnh khả năng đề nghị gia sản đức tin với một ngôn ngữ mới, hy vọng, nhiệt thành, hăng say, trình bày chứng tá có sức thuyết phục, bắc những nhịp cầu giữa ngôn ngữ của Giáo Hội và ngôn ngữ của xã hội. Theo nghĩa đó có nghị phụ đề nghị sử dụng viêc huấn giáo Kinh Thánh hơn là thần học suy lý, vì nói đúng ra, con người không còn thỏa mãn vì sự ích kỷ và tìm kiếm những lý tưởng. Cũng vì con người muốn hạnh phúc và Kitô hữu biết rằng hạnh phúc là chính Chúa Kitô, nhưng họ không tìm được ngôn ngữ thích hợp để nói điều đó cho thế giới. Trái lại Giáo Hội phải có sức thu hút, làm việc để thu hút, với thái độ thân thiện đối với thế giới.

– Về những đôi vợ chồng gặp khó khăn, có nghị phụ nhấn mạnh rằng Giáo Hội phải gần gũi họ trong sự cảm thông, tha thứ và từ bi: lòng từ bi là phẩm tính đầu tiên của Thiên Chúa, nhưng cần nhìn sự từ bi trong bối cảnh công lý, chỉ như thế ta mới tôn trọng thực sự toàn bộ kế hoạch của Thiên Chúa.

Hộn nhân đang và vẫn còn là bí tích bất khả phân ly, nhưng vì chân lý là Chúa Kitô, một ngôi vị, chứ không phải là một toàn bộ các qui luật, nên điều quan trọng là duy trì những nguyên tắc, tuy thay đổi những hình thức cụ thể trong việc áp dụng. Tóm lại như ĐGH Biển Đức 16 đã nói, đó là ”sự mới mẻ trong sự liên tục”: Thượng HĐGM này không đặt lại vấn đề đạo lý, nhưng suy tư về Mục Vụ, tức là về sự phân định tinh thần để áp dụng đạo lý ấy trước những thách đố của gia đình ngày nay. Theo nghĩa đó lòng từ bi không loại bỏ các giới răn, nhưng là chìa khóa để giải thích các giới răn.

Ngoài ra, trong Công nghị cũng nhấn mạnh rằng cần phải cứu xét những tình trạng bất toàn với lòng tôn trọng: ví dụ những cặp nam nữ sống chung không kết hôn, nhưng họ sống trong sự chung thủy và với tình yêu thương, trình bày những yếu tố thánh hóa và sự thật. Vì thế điều thiết yếu là trước tiên cần nhìn những yếu tố tích cực, để Thượng HĐGM mang lại can đảm và hy vọng cho cả những hình thức bất toàn của gia đình, những hình thức có thể đề cao giá trị theo nguyên tắc tiệm tiến. Cần thực sự yêu mến các gia đình gặp khó khăn.

Trong bối cảnh một xã hội mà người ta tôn thờ cái tôi của mình, đưa tới sự giải trừ gia đình, cần nêu rõ sự đánh mất ý nghĩa Giao Ước giữa con người với Thiên Chúa. Do đó việc loan báo vẻ đẹp của gia đình, không thể là một khoa thẩm mỹ, trình bày một lý tưởng thuần túy phải bắt chước, nhưng phải trình bày tầm quan trọng sự sự dấn thân chung kết dựa trên Giao Ước của đôi vợ chồng với Thiên Chúa.

– Một điểm thiết yếu khác là sự phủ nhận thái độ giáo sĩ trị, nhiều khi Giáo Hội dường như quan tâm tới quyền bính hơn là phục vụ và vì thế không soi sáng cho tâm hồn con người. Do đó cần tái noi gương Chúa Kitô, tìm lại sự khiêm tốn: việc cải tổ Giáo Hội phải bắt đầu bằng việc cải tổ giáo sĩ, vì nếu các tín hữu thấy các vị mục tử noi gương Chúa Kitô, thì họ sẽ tái gần gũi với Giáo Hội, và như thế Giáo Hội có thể đi từ tình trạng chỉ loan báo Tin Mừng để trở thành người loan báo Tin Mừng.

Và các nghị phụ cũng bàn về đề tài giá trị thiết yếu cảu tính dục trong hôn nhân: thực vậy người ta nói rất nhiều để phê bình tính dục ngoài hôn nhân, đến độ tính dục trong hôn nhân dường như là một sự nhân nhượng đối với một sự bất toàn. Thượng HĐGM nhấn mạnh tới sự cần thiết phải huấn luyện kỹ lưỡng hơn cho các LM, các chính sách bênh vực gia đình và đẩy mạnh việc thông truyền đức tin giữa lòng gia đình.

Trong giờ thảo luận tự do từ 6 đến 7 giờ chiều, có 2 đề nghị được đưa ra: xin Thượng HĐGM gửi một sứ điệp khích lệ và quí mến đối với các gia đình ở Irak, đang bị đe dọa vì cuộc tàn sát do trào lưu Hồi giáo cuồng tín gây ra và phải chạy trốn để không từ bỏ đức tin. Đề nghị này được đa số các nghị phụ bỏ phiếu chấp thuận.

Đề nghị thứ hai là cần suy tư về hàng giáo sĩ có gia đình trong các Giáo Hội Đông phương, họ cũng thường sống những cuộc khủng hoảng gia đình, và có thể đi tới chỗ yêu cầu được ly dị.

G. Trần Đức Anh OP– Vatican Radio

 

Phiên khoáng đại đầu tiên của Thượng Hội đồng Giám Mục thế giới về gia đình

Phiên khoáng đại đầu tiên của Thượng Hội đồng Giám Mục thế giới về gia đình

VATICAN. ĐTC Phanxicô xin các nghị phụ nói rõ và nói thẳng ý kiến và xác tín của mình trong Thượng HĐGM.

Ngài đưa ra lời mời gọi trên đây trong lời chào mừng các nghị phụ trong phiên họp khoáng đại đầu tiên của Thượng HĐGM khóa ngoại thường thứ 3 về gia đình, sáng ngày 6-10-2014 tại Hội trường Thượng HĐGM ở nội thành Vatican, về về ”các thách đố mục vụ gia đình trong bối cảnh loan báo Tin Mừng”.

Phiên họp bắt đầu lúc 9 giờ, dưới quyền chủ tọa theo lượt của ĐHY André Vingt-Trois, TGM Paris và trước sự hiện diện của ĐTC với 181 nghị phụ, cùng với các dự thính viên. Trên bàn chủ tọa trong Hội trường THĐGM, cạnh ngài còn có ĐHY Baldisseri, Tổng thư ký Thượng HĐGM thế giới, 3 Hồng Y chủ tịch thừa ủy, ĐHY Tổng tường trình viên, và Đức TGM Bruno Forte, Tổng thư ký đặc biệt của khóa họp này.

Trong kinh giờ Ba, ĐHY Lluós Martínez Sistach, nguyên TGM Barcelona, Tây Ban Nha, đã trình bày một bài suy niệm ngắn.

Đến lượt ĐTC chào mừng mọi người. Ngài nói:

Các Hồng Y, Thượng Phụ, GM, anh chị em thân mến

Tôi nồng nhiệt chào mừng anh chị em tham dự cuộc gặp gỡ này và thành tâm cám ơn sự hiện diện ân cần và quí giá và tham dự của anh chị em.

Nhân danh anh chị em, tôi muốn nồng nhiệt cám ơn tất cả những ngừơi đã tận tụy làm việc, trong kiên nhẫn và với khả năng chuyên môn, qua những tháng dài, đọc, thẩm định và soạn thảo các đề tài, văn bản và công việc của Thượng HĐGM khóa ngoại thường này.

ĐTC đặc biệt cám ơn ĐHY Baldisseri, Tổng thư ký THĐGM Đức cha Phó Tổng thư ký và tất cả các nhân viên của Văn phòng Tổng thư ký đã làm việc không biết mệt mỏi và còn tiếp tục làm việc cho Thượng HĐGM này. ĐTC cũng cám ơn Hội đồng Hậu Thượng HĐGM thế giới khóa 13, vị Tổng tường trình viên, Tổng thư ký và các HĐGM đã làm việc rất nhiều, cũng như 3 vị HY thừa ủy.

Tiếp đến ĐTC cám ơn các HY, Thượng Phụ, GM và các tham dự viên khác, và nói rằng: sự tham dự của anh chị em làm cho công việc của Thượng HĐGM này được phong phú, tinh thần đoàn thể của hàng GM và công nghị tính để mưu ích cho Giáo Hội và các gia đình. Tôi cũng muốn tinh thần công nghị thể hiện qua việc chọn vị Tường trình viên, Tổng thư ký và các vị chủ tịch thừa ủy. Vị tường trình viên và Tổng thư ký đặc biệt do Hội đồng hậu Thượng HĐGM trực tiếp bầu lên, trong khi 3 vị Chủ tịch thừa ủy thừa ủy thì tôi đã xin Hội đồng đề nghị và tôi đã theo đó để bổ nhiệm.

ĐTC nói với các nghị phụ:

”Anh em mang tiếng nói của các Giáo Hội địa phương, tập họp ở cấp địa phương của HĐGM. Giáo Hội hoàn vũ và các Giáo Hội địa phương là do Chúa thiết lập; các Giáo Hội địa phương được hiểu như thế là do con người thành lập.

Tiếng nói này anh em mang đến trong công nghị. Đó là một trách nhiệm lớn: mang những thực tại và các Giáo Hội, để giúp các Giáo Hội ấy tiến bước trên con đường là Tin Mừng gia đình.

Một điều kiện tổng quát cơ bản là: nói rõ ràng. Xin đừng ai nói: ”Điều này không thể nói; ai đó sẽ nghĩ về tôi thế này thế kia..” Cần nói tất cả những gì mình cảm thấy trong tinh thần tự do ngôn luận.

Sau công nghị Hồng y lần cuối hồi tháng 2 năm 2014, trong đó có nói về gia đình, một Hồng Y đã viết cho tôi rằng: rất tiếc là vài Hồng Y không có can đảm nói một số điều vì tôn trọng ĐGH, cho rằng ĐGH nghĩ khác. Điều này không tốt, đó không phải là đặc tính công nghị, vì cần phải nói tất cả những gì mà trong Chúa mình cảm thấy phải nói: không vị nể con người, không nhút nhát. Và đồng thời, phải khiêm tốn lắng nghe và thành tâm đón nhận trong tinh thần cởi mở điều mà các anh em nói. Với hai thái độ đó, ta thực thi công nghị tính. Vì thế, tôi xin anh em, hãy có những thái độ huynh đệ ấy trong Chúa: nói trong tinh thần tự do ngôn luận và khiêm tốn lắng nghe. Và hãy thi hành điều đó trong tinh thần thanh thản và yên hàn, vì công nghị luôn tiến hành với Phêrô và dưới Phêrô, và sự hiện diện của Giáo Hoàng là bảo đảm cho tất cả.
Anh em thân mến, tất cả chúng ta hãy cộng tác để năng động tính của công nghị được củng cố rõ ràng.

ĐHY Baldisseri
Sau lời chào của ĐTC, ĐHY Lorenzo Baldisseri, Tổng thư ký Thượng HĐGM, đã trình bày những chỉ dẫn thực tiễn trong việc tiến hành Thượng HĐGM: mỗi nghị phụ được quyền phát biểu tối đa 4 phút theo thứ tự các đề tài được ấn định cho mỗi phiên họp. Bài phát biểu đó, sau khi trình bày, trở thành tài sản của Thượng HĐGM. Các nghị phụ được tự do trả lời phỏng vấn với các nhân viên truyền thông và trình bày những gì mình thấy là nên nói. Mỗi ngày sẽ có một cuộc họp báo theo sự phối hợp của Cha Lombardi, giám đốc phòng báo chí Tòa Thánh, và có sự tham dự của một vài nghị phụ.

Các nghị phụ theo dõi một video về cách sử dụng các dụng cụ tại Hội trường Thượng HĐGM, từ ống nghe cho đến việc chọn các sinh ngữ được thông dịch trực tiếp, dụng cụ bỏ phiếu và báo sự hiện diện. Sau khi các nghị phụ bấm vào máy, tổng cộng có 181 nghị phụ có mặt trong phiên khoáng đại đầu tiên sáng hôm qua.

Bài dẫn nhập của ĐHY Baldisseri

Sang đến bài dẫn nhập vào Thượng HĐGM khóa ngoại lệ thứ III, trước tiên, ĐHY Baldisseri đặc biệt cám ơn ĐTC vì đã quyết định tôn phong chân phước cho ĐGH Phaolô 6 vào chúa nhật 19-10 tới đây, trong lễ bế mạc Thượng HĐGM này. Đức Phaolô 6 được phong chân phước trong bối cảnh Thượng HĐGM, ghi đậm một dấu hiệu quan trọng về đoàn thể tính và công nghị tính. Sau 50 năm, Đức Cố Giáo Hoàng vẫn là một nhân vật thời sự.

ĐHY Baldisseri gợi lại diễn tiến chuẩn bị Thượng HĐGM khóa đặc biệt này về gia đình, từ lúc ĐTC tuyên bố triệu tập, xác định đề tài, bổ nhiệm Tổng thư ký mới, đến việc soạn tài liệu chuẩn bị, bổ nhiệm các chức sắc khác của Công nghị GM thế giới này.

Việc tham khảo ý kiến sâu rộng trong Giáo Hội được khởi sự với bản câu hỏi kèm theo tài liệu chuẩn bị. Có 83,11% những người có quyền thuộc các HĐGM đã trả lời, gần 65,40% các cơ quan trung ương Tòa Thánh đã trả lời, gần 77% các Công nghị các Giáo Hội Công Giáo đông phương đã trả lời góp ý, không để nhiều nhận xét từ các nhân và các nhóm trong và ngoài Giáo Hội.

Dựa vào các bản góp ý gửi đề, một tài liệu làm việc đã được soạn thảo với sự cộng tác của một nhóm 9 chuyên gia. Tài liệu này đã được giới thiệu trong cuộc họp báo ngày 26-6 năm nay và được phổ biến rộng rãi trên trang mạng của Tòa Thánh.

Thành phần tham dự

Về thành phần tham dự công nghị này, ĐHY Baldisseri cho biết có tổng cộng 253 người, trong đó có 191 nghị phụ có quyền bỏ phiếu. Các vị gồm 3 thành phần: trước tiên có 162 vị tham dự do chức vụ, tiếp đến có 3 vị được bầu lên, sau cùng là 26 nghị phụ do ĐTC bổ nhiệm gồm 14 HY, 8 GM, 4 LM.

Các nghị phụ do chức vụ gồm 13 vị thủ lãnh của các Công nghị Giám Mục các Giáo hội Công Giáo nghi lễ đông phương tự quản, sau đó là 114 vị Chủ tịch HĐGM (trong đó có Đức TGM Phaolô Bùi Văn Đọc, Chủ tịch HĐGM Việt Nam); tiếp đến là 25 vị thủ lãnh các cơ quan trung ương Tòa Thánh. Theo quyết định của ĐTC, trong số các nghị phụ theo chức vụ có thêm các HY, GM thành viên của Hội đồng Thượng HĐGM thứ 13, là những vị đã chuẩn bị công nghị GM khóa đặc biệt sắp bắt đầu.

Có 3 nghị phụ tham dự vì được bầu lên, đó là 3 Bề trên Tổng quyền: dòng Tên, dòng Capuchino và dòng thánh Giuse (CSI). Sau cùng là 26 vị do ĐTC bổ nhiệm, đến từ nhiều nơi trên thế giới.

Trong số 191 nghị phụ, có 61 Hồng y, 1 Hồng Y thượng phụ, 7 Thượng Phụ, 1 TGM trưởng, 67 TGM và 47 GM, 1 LM giám chức và 6 LM dòng.

Xét về xuất xứ có 42 nghị phụ Phi châu, 38 từ Mỹ châu, 29 từ Á châu, 78 vị từ Âu Châu và 4 vị từ Úc châu.
Ngoài ra có 16 chuyên gia và 38 dự thính viên nam nữ, trong đó có 12 cặp vợ chồng, và 8 đại biểu của các Giáo Hội Kitô anh em. Trong số các chuyên gia cũng có 1 cặp vợ chồng.

Cầu nguyện cho Thưng HĐGM

Ngoài các sự kiện đó, Văn phòng Tổng thư ký Thượng HĐGM đã cổ võ các sáng kiến cầu nguyện cho công nghị GM đặc biệt này. Nhất là vào lễ thánh gia thất, chúa nhật 29-12 năm ngoái, buổi cầu nguyện được cử hành đồng thời tại 3 nơi là Vương cung thánh đường Đức Mẹ Truyền Tin ở Nazareth, Đền Thánh Đức Mẹ Loreto ở miền trung Italia, và Đền thờ Thánh Gia ở thành Barcelona, Tây Ban Nha. Trong dịp đó văn bản kinh cầu nguyện cho Thượng HĐGM do ĐTC soạn cũng được phổ biến.

Chúa nhật 28-9 vừa qua, Văn phòng Tổng thư ký cũng mời gọi các HĐGM, các hội đoàn và phong trào trên thế giới tổ chức ngày cầu nguyện cho Thượng HĐGM. Và từ ngày 6-10-2014, tại Đền thờ Đức Bà Cả ở Roma, các tín hữu cũng cầu nguyện cho công nghị GM này trong nhà nguyện Đức Mẹ là Phần Rỗi của dân Roma. Sáng kiến này được sự cộng tác của giáo phận Roma, và tại nhà nguyện ấy có đặt thánh tích của Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu, và song thân của Người là chân phước Zélie và Louis Martin, cũng như thánh tích của hai chân phước Ông Bà Luigi và Maria Baltrame Quatrocchi người Italia.

Trong bài tường trình, ĐHY Baldisseri nói đến hành trình Thượng HĐGM theo tinh thần công nghị được ĐTC nhấn mạnh rất nhiều và tiến hành qua 2 giai đoạn: công nghị đặc biệt hiện nay và Thượng HĐGM khóa thường lệ vào năm tới. Đây là một thời điểm thuận tiện: các vị chủ chăn và tín hữu để cho mình được Chúa Thánh Linh hướng dẫn hầu thực hiện công nghị tính này vốn được ĐTC nhiều lần nhắc như một yếu tố quan trọng trong đời sống Giáo Hội… Hiệp nhất trong sự khác biệt: không có con đường Công Giáo nào khác để chúng ta liên kết với nhau. Trong tinh thần công nghị và hiệp thông huynh đệ ấy, các giai đoạn chuẩn bị Thượng HĐGM này đã được tiến hành.

Danh sách các chủ đ

ĐHY Baldisseri cũng nói đến cuốn cẩm nang Thượng HĐGM đã được phát cho các nghị phụ và các tham dự viên khác. Tài liệu này rất quan trọng để theo dõi công việc của công nghị GM này. Lịch trình tiến hành được đăng ở phần cuối cuốn Cẩm Nang, theo đó cuộc thảo luận tại Hội trường Thượng HĐGM, trong tuần lễ thứ I, từ phiên khoáng đại thứ hai sẽ tiến hành theo chủ đề:

Chiều thứ hai này, có hai đề tài: Ý định của Thiên Chúa về hôn nhân và gia đình (Phần I, ch. 1), kiến thức về Kinh Thánh và Giáo huấn của Giáo Hội về hôn nhân và gia đình (Phần I, ch. 2).
Trong phiên họp thứ 3, có 2 đề tài: Tin Mừng gia đình và luật tự nhiên (Phần I, ch. 3). Gia đình và ơn gọi con người trong Chúa Kitô (Phần I, Ch. 4). Chiều thứ 3, 7-10, chủ đề là ”Mục vụ gia đình và các đề nghị khác nhau được đề ra (II, 1). Sáng thứ tư trong phiên khoáng đại thứ 5, sẽ bàn về những thách đố mục vụ gia đình (II, 2). Trái lại ban chiều sẽ nói về những tình trạng mục vụ khó khăn (II, 3). Phiên khoáng đại thứ 7, sáng thứ năm 8-10 sẽ bàn về các thách đố mục vụ liên quan tới sự cởi mở đối với sự sống (III, 1), trong khi phiên thứ 8 vào ban chiều sẽ nói về Giáo Hội và gia đình đứng trước thách đố giáo dục (III, 2).

Mỗi phiên họp theo chủ đề sẽ được mở đầu với phần nhập đề ngắn của vị Chủ tịch thừa ủy theo lượt, tiếp đến là chứng từ của các dự thính viên nam nữ được chọn, ưu tiên dành cho các đôi vợ chồng, qua đó họ có thể soi sáng đề tài bằng kinh nghiệm sống của họ, cung cấp một viễn tượng giáo dân làm cho cuộc thảo luận được phong phú.
Trong tuần lễ thứ hai của công nghị sẽ có các cuộc thảo luận nhóm bàn về bản tường trình sau tuần lễ thứ I, theo cùng thứ tự các chủ đề.

Bản tường trình các cuộc thảo luận nhóm sẽ được trình bày tại các phiên khoáng đại để được Thượng HĐGM phê chuẩn. Như thế sẽ không có việc soạn các đề nghị như trước kia. Bản tường trình này sẽ được đệ lên ĐTC để tùy ngài quyết định. Văn kiện này cũng là điễm khởi hành để chuẩn bị Thượng HĐGM khóa thường lệ thứ 14 sẽ tiến hành vào tháng 10 năm tới, 2015. Nói khác đi, sau khi thích ứng, văn kiện ấy sẽ trở thành tài liệu chuẩn bị cho Thượng HĐGM lần tới để tham khảo ý kiến và soạn Tài liệu làm việc cho khóa họp năm tới.
Đến 10 giờ rưỡi sáng hôm qua, ĐHY Vingt-Trois tuyên bố các nghị phụ được nửa giờ giải lao.

ờng trình ĐHY Peter Erdoe

Tái nhóm vào lúc 11 giờ, các nghị phụ đã nghe ĐHY Peter Erdoe, người Hungari, Tổng trường trình của công nghị GM này đọc bài tường trình dài hơn 1 tiếng đồng đồ về thực tại gia đình ngày nay và các vấn đề cần được công nghị này bàn tới.

Dựa theo Tài liệu làm việc, qua các chủ đề như Tin mừng gia đình trong bối cảnh loan báo Tin Mừng.
I. Trước tiên là phương pháp phân định về gia đình, rồi đến phương pháp làm việc của Thượng HĐGM này.
II. ”Tin Mừng về gia đình và việc mục vụ gia đình, với các tiểu đề như:
– Thách đố giáo dục của gia đình: là trường dạy về tình người, về xã hội, Giáo Hội và sự thánh thiện – Sự vững chắc và rõ ràng trong hành trình huấn luyện
– Gia đình như người giữ vai chính trong việc loan báo Tin Mừng
– Hoạt động mục vụ trong những tình trạng khủng hoảng
– Những khó khăn từ bêntrong gia đình và những sức ép từ bên ngoài
III. Những tình trạng mục vụ khó khăn, gồm các tiểu đề:
– Giáo hội như nhà Cha
– Sự thật và lòng từ bi thương xót
– những vụ sống chung và hôn nhân dân sự
– việc săn sóc mục vụ những người ly dị và tái hôn. Về vấn đề này được nhiều ngừơi nói tới, nhưng ĐHY Erdoe nói đây chỉ là một trong rất nhiều thách đố mục vụ cam go ngày nay. Và cũng có một số nước không hề có vần đề này, vì họ chẳng có hôn phối dân sự. Một số khác, con số ly dị giảm sút vài người ta không muốn tái hôn sau sự thất bại của hôn phối thứ I.
– Thủ tục giáo luật giải hôn phối và con đường ngoài tòa án.
– ĐHY cũng bàn đến thói quen thực hành của các Giáo hội chính thống.
IV. là Gia đình và tin mừng sự sống, gồm các tiểu đề như
– việc loan báo Tin Mừng sự sống
– gia đình trong bối cảnh quan hệ
– Trách nhiệm của Giáo hội và việc giáo dục
– Các vấn đề liên hệ tới Thông hiệp Sự Sống con người
Và ĐHY Erdoe kết luận rằng thách đố mà Thượng HĐGM này cần đương đầu là làm sao thành công trong việc tái đề nghị cho thế giới ngày nay, phần nào cũng giống như thời kỳ đầu của Giáo Hội, sức thu hút của Sứ điệp Kitô về hôn nhân và gia đình, nhấn mạnh niềm vui mà hôn nhân và gia đình mang lại nhưng đồng thời cung cấp những câu trả lời đích thực và đượm tình bác ái cho bao nhiêu vấn đề liên hệ tới cuộc sống gia đình ngày nay.

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

 

ĐTC khai mạc Thượng HĐGM khóa đặc biệt về gia đình

ĐTC khai mạc Thượng HĐGM khóa đặc biệt về gia đình

Kính thưa quí vị thính giả,

Đúng 11 tháng sau khi tài liệu chuẩn bị được công bố, lúc 10 giờ sáng chúa nhật hôm qua, 5-10, ĐTC Phanxicô đã chủ sự thánh lễ trọng thể để khai mạc Thượng Hội Đồng Giám Mục khóa đặc biệt thứ 3 với chủ đề ”Những thách đố về việc mục vụ gia đình trong bối cảnh loan báo Tin Mừng”.

Đồng tế với ĐTC trong thánh lễ tại Vương Cung Thánh Đường Thánh Phêrô có 230 vị, gồm 191 nghị phụ gồm trong đó có 61 Hồng Y, 7 Thượng Phụ và thủ lãnh của các Giáo Hội Công Giáo Đông phương tự quản, trong đó có 2 vị TGM Trưởng, 115 TGM và GM, phần còn lại là 7 LM nghị phụ, ngoài ra có gần 38 LM chuyên gia và cộng tác viên.

Đứng cạnh ĐTC trên bàn thờ là 6 chức sắc của Thượng HĐGM gồm vị Tổng tường trình viên là ĐHY Peter Erdoe, TGM Ezstergom Budapest, Chủ tịch Liên HĐGM Âu Châu; tiếp đến là 3 vị Chủ Tịch thừa ủy gồm ĐHY André Vingt-Trois, TGM Paris, ĐHY Raymundo Damasceno Assis, TGM Aparecida, Brazil, và ĐHY Luis Antonio Tagle, TGM Manila. Sau cùng là ĐHY Baldisseri, Tổng thư ký Thượng HĐGM, và Đức TGM Bruno Forte, Tổng thư ký đặc biệt của Công nghị Giám mục này.

Cách đây 2 năm, ngày 7-10 năm 2012, ĐTC Biển Đức 16 đã chủ sự thánh lễ khai mạc Thượng HĐGM thế giới, khóa thường lệ thứ 13 về việc tái truyền giảng Tin Mừng, có 408 vị đồng tế với ngài, trong đó có 250 nghị phụ, dự thính viên và chuyên viên cũng như các cộng tác viên của Thượng HĐGM, thêm vào đó có 75 GM thuộc HĐGM Tây Ban Nha và Đức vì hôm đó cũng là lễ tôn phong thánh Gioan Avila người Tây Ban Nha và thánh nữ Hildegard von Bingen người Đức là Tiến Sĩ Hội Thánh.

Phần thánh ca, ngoài ca đoàn Sistina của Tòa Thánh, còn có Ca đoàn Mẹ Giáo Hội gồm 80 ca viên, đảm trách.

Sau đây là bài giảng trong thánh lễ của Đức Thánh Cha:

Hôm nay, ngôn sứ I-sa-i-a và bài Tin Mừng đã vận dụng hình ảnh vườn nho của Thiên CHúa. Vườn nho của Thiên Chúa là “giấc mơ” của Ngài, là dự phóng mà Ngài ấp ủ với tất cả tình yêu của mình, hệt như một người tá điền quan tâm đến vườn nho của mình. Nho là một loài cây vốn đòi hỏi nhiều sự chăm sóc.
Giấc mơ của Thiên Chúa là dân của Người: Người đã gieo trồng và nuôi dưỡng họ với một tình yêu tín trung và kiên nhẫn, để họ có thể trở thành một dân thánh, một dân sản sinh nhiều hoa trái thơm ngọt của sự công chính.

Nhưng trong thời các ngôn sứ ngày xưa cũng như trong dụ ngôn của Đức Giêsu, giấc mơ của Thiên Chúa đã bị hủy hoại. I-sa-i-a nói rằng vườn nho mà ông đã hết mực yêu mến và chăm sóc “lại sản sinh toàn nho dại”; còn Thiên Chúa thì những mong họ “sống công bình, mà chỉ thấy toàn là đổ máu; đợi chờ họ làm điều chính trực, mà chỉ nghe vẳng tiếng khóc than” (c.7), Trong bài Tin Mừng, trái lại, chính các tá điền đã phá hủy dự phóng của Thiên Chúa: họ không thực thi bổn phận của họ, nhưng chỉ suy nghĩ đến lợi ích của chính mình.

Đức Giêsu trong dụ ngôn của mình, đã nhắm đến các thượng tế và bậc lão thành ở trong dân, đó là những người tự cho mình là “thông thái”, là tầng lớp lãnh đạo dân. Họ là những người được Thiên Chúa, gửi gắm cho “giấc mơ của Người” một cách cụ thể, đó là dân của Người, để họ nuôi dưỡng, chăm sóc, gìn giữ dân khỏi những thú dữ. Đây là nghĩa vụ của những thủ lãnh của dân: chăm sóc vườn nho với sự tự do, sáng tạo và cần mẫn.

Nhưng Đức Giêsu nói rằng những tá điền đã chiếm đoạt vườn nho; bởi tính tham lam và sự ngạo mạn, họ đã muốn làm với vườn nho điều họ muốn, và như thế họ đã không cho Thiên Chúa khả năng hiện thực hóa giấc mơ của Ngài trên dân mà Ngài chọn.

Cám dỗ của tính tham lam luôn luôn có đó. Chúng ta có thể nhận ra nó ngay cả trong lời tiên báo của Ê-dê-ki-en dành cho các mục tử, mà thánh Âu-gút-ti-nô đã giải thích trong một bài giảng trứ danh của mình mà chúng ta vẫn hay đọc trong Các giờ kinh Phụng vụ. Tính tham lam tiền bạc và quyền lực. Và để thỏa mãn sự tham lam này những mục tử xấu xa bó những gánh nặng mà chất lên vai người ta, còn họ chẳng buồn động ngón tay vào. (x.Mt 23,4)

Chúng ta cũng vậy, trong khóa họp này, chúng ta được kêu gọi để lao tác cho vườn nho của Thiên chúa. Thượng HĐGM thế giới không phải để thảo luận những ý tưởng hay ho và cấp tiến, hay để xem ai là người thông minh hơn… nhưng để nuôi dưỡng và chăm nom vườn nho của Thiên Chúa được tốt hơn, để cộng tác với giấc mơ của Người, nhắm đến dự phóng tình yêu trên dân của Thiên Chúa. Trong trường hợp này, Thiên Chúa đòi hỏi chúng ta phải quan tâm đến gia đình, vốn ngay từ khởi đầu đã là một phần thiết yếu trong kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa cho nhân loại.

Tất cả chúng ta đều là tội nhân và chúng ta có thể rơi vào cám dỗ “tự chiếm đoạt” vườn nho, bởi lòng tham luôn ngự trị nơi những con người như chúng ta. Giấc mơ của Thiên Chúa thường xung đột với thói đạo đức giả của một vài tôi tớ của Người. Chúng ta có thể “phá tan” giấc mơ của Thiên Chúa nếu chúng ta không để Thánh Thần hướng dẫn. Thánh Thần sẽ ban cho chúng ta sự khôn ngoan vượt quá sự hiểu biết, để lao tác một cách quảng đại cùng với sự tự do đích thực và sự sáng tạo khiêm nhường.

Anh em nghị phụ thân mến, để nuôi dưỡng và chăm sóc vườn nho một cách tốt đẹp, con tim và tâm trí của chúng ta cần phải được gìn giữ ở trong Đức Giêsu Kitô bởi sự “bình an của Thiên Chúa vốn vượt lên trên mọi hiểu biết của con người", như thánh Phaolô đã nói (Phil 4,7). Như thế những suy tư và dự phóng của chúng ta có thể thích ứng với giấc mơ của Thiên Chúa: kiến tạo một dân thánh thuộc riêng về Người và sản sinh những hoa trái của Nước Trời (Mt 21,43).

Cũng trong ngày Chúa Nhật hôm nay, vào lúc 12h, các tín hữu hành hương lại tập trung tại quảng trường Thánh Phêrô để nghe huấn từ của Đức Thánh Cha và nhận phép lành từ ngài. Trong bài chia sẻ, Đức Thánh Cha lại tiếp tục khai thác về chủ đề “Vườn nho của Thiên Chúa” và xin mọi người cầu nguyện cho cuộc họp Thượng Hội Đồng Giám Mục sẽ diễn ra trong những ngày tới đây, bàn về vấn đề mục vụ cho các gia đình.

Sau đây là toàn văn bài chia sẻ của ngài:

“Anh chị em thân mến!

Sáng hôm nay, cùng với Thánh lễ đồng tế trong Đền thờ Thánh Phêrô, chúng ta đã khai mạc Đại hội ngoại thường của Thượng HĐGM thế giới. Các nghị phụ của Thượng HĐGM, đến từ nhiều vùng trên thế giới, sẽ sống cùng tôi và cùng với nhau trong hai tuần nghiêm túc, được bồi bổ từ cầu nguyện, để lắng nghe và đối thoại về đề tài “Những thách đố của việc mục vụ gia đình trong bối cảnh loan báo Tin Mừng”

Lời Chúa hôm nay giới thiệu hình ảnh của vườn nho hệt như biểu tượng của dân mà Thiên Chúa đã tuyển chọn. Như một vườn nho, dân riêng đòi hỏi rất nhiều sự quan tâm, đòi hỏi một tình yêu tín trung và kiên nhẫn. Như thế, điều Thiên Chúa làm với chúng ta thì chúng ta cũng được kêu gọi để làm những mục tử. Thậm chí người ta phải quan tâm đến gia đình như thể một cách thức lao tác cho vườn nho của Thiên Chúa, bởi vì người ta phải sản sinh hoa trái của Vương quốc Thiên Chúa. (Mt 21, 33-43)

Nhưng để gia đình có thể tự mình bước đi tốt đẹp, cùng với niềm tin và sự hy vọng, cần được bổ dưỡng bởi Lời Chúa. Chính vì điều này thật là một sự trùng hợp hạnh phúc trong ngày hôm nay, khi những anh em Dòng thánh Phaolô đã muốn thực hiện việc phân phát sách Kinh Thánh cách rộng rãi, nơi Quảng trường này và tại nhiều nơi khác. Chúng ta cám ơn những anh em Dòng thánh Phaolo của chúng ta. Anh em đã thực thi việc này nhân dịp 100 năm thành lập Dòng, bởi chân phước Giacomo Alberione, một tông đồ vĩ đại về truyền thông. Vì thế, hôm nay, vào lúc khai mạc Thượng Hội Đồng GM về gia đình, cùng với sự trợ giúp của anh em dòng Thánh Phao-lô, chúng ta có thể nói rằng: một cuốn Kinh Thánh dành cho mỗi gia đình! Một cuốn Kinh Thánh dành cho mỗi gia đình! “Nhưng thưa cha, chúng con có tới hai, tới ba cuốn!” “Nhưng người ta giấu chúng đi đâu rồi?” Ôi, không phải bởi vì…cuốn Kinh Thánh, cũng chẳng phải để đặt nó nơi giá sách, nhưng phải giữ và mang chúng nơi đôi tay, để đọc nó thường xuyên, để hiện diện cùng với nó một cách cá vị, vợ và chồng, cha mẹ và con cái, đều đặn mỗi tối, đặc biệt là ngày Chúa nhật. Như thế thì gia đình mới tăng trưởng, và vững bước cùng với ánh sáng và sức mạnh của Lời Chúa! Đây là cuốn Kinh Thánh mà anh em dòng Thánh Phao lô trao cho các bạn , mỗi gia đình một cuốn. Nhưng các bạn phải chú ý! Đừng láu cá để tay này lấy rồi, tay kia lại còn lấy nữa? Với một tay thôi để mang sách Kinh Thánh về nhà.

Cha mời gọi tất cả mọi người hãy trợ giúp những công việc của Thượng HĐGM cùng với lời cầu nguyện, khẩn khoản nài xin Đức Mẹ, sự chuyển cầu từ mẫu của Đức Nữ Trinh Maria. Giờ phút này, chúng ta hiệp thông cách thiêng liêng cùng với nhiều người, đang ở Thánh địa Pompei, dâng lên Đức Mẹ Mân Côi lời kinh “Supplica” truyền thống. Lời kinh ban bình an cho tất cả gia đình và toàn thể thế giới.

Jos. Trần Đức Anh, OP
Jos. Nguyễn Huy Mai

Từ vườn nho đến các tá điền: Hãy là chính mình

Từ vườn nho đến các tá điền: Hãy là chính mình

Sau khi nghe câu chuyện dụ ngôn Chúa Giêsu kể về “những tá điền sát nhân”, các Thượng Tế và người Pharisêu hiểu là Người nói về họ và họ tìm cách bắt Người. Dân Chúa xưa, đặc biệt những người lãnh đạo, những người được gọi là đạo đức hẳn thuộc nằm lòng bài ca về vườn nho của Ngôn sứ Isaia (Is 5). Mẹ Hội Thánh lại trích cho chúng ta nghe trong bài đọc thứ nhất Chúa Nhật này. Trong khi Ngôn Sứ Isaia nhấn mạnh đến vườn nho là đoàn dân Chúa xưa, thì Chúa Giêsu lại nhấn mạnh đến những tá điền là những người lãnh đạo mà Chúa trao phó quản lý vườn nho. Dù là vườn nho hay là người quản lý thì điểm chung hướng đến, đó là: hãy trở nên chính mình. Nói nôm na là nho thì ra nho, quản lý thì ra quản lý.

Nho ra nho: Ngôn sứ Isaia đã minh nhiên nói rằng vườn nho chính là đoàn dân Chúa xưa và chúng ta có thể hiểu thêm mỗi người chúng ta là những cây nho, là những cành nho (x. Ga 15). Các khâu canh tác như làm cỏ, bón phân, tỉa cành sâu bệnh… thì chủ vườn nho là Thiên Chúa đã vuông tròn. Vấn đề còn lại là chính cây nho phải sinh hoa trái tốt tươi, ngọt ngào. Theo kinh nghiệm nông gia, khi đã đủ đầy các điều kiện tự nhiên và sự chăm bón thì chuyện sinh hoa kết trái của cây trồng, hệ tại ở khả năng cây “hấp thụ dinh dưỡng” từ đất, từ trời và hệ tại ở việc cây “giảm phát sinh để tăng phát dục”, nghĩa là giảm đâm cành, mọc lá mới để tăng ra hoa, kết trái.

Đề hấp thụ dinh dưởng từ trời đất thì chính chúng ta, những cây nho, tiên vàn phải gắn bó, kết hiệp với Thiên Chúa. Cầu nguyện là một trong những phương thế tuyệt hảo để kết hiệp với Thiên Chúa. Để gia tăng hoa trái tốt lành thì việc hãm mình hy sinh là điều không thể thiếu. Như thế để nho ra nho nghĩa là sinh hoa trái ngọt ngào thi Kitô hữu chúng ta cần chuyên chăm cầu nguyện và hy sinh hãm mình. Hằng năm cứ đến mùa Chay thánh thì đề tài ăn chay cầu nguyện được nhấn mạnh và chúng ta nghiệm thấy ngay các hoa trái trổ sinh.

Quản lý ra quản lý: Người quản lý là người được trao phó một sự gì đó. Một việc gì đó để bảo quản, giữ gìn, chăm nom và dĩ nhiên theo tiêu chí mà người chủ yêu cầu. Các tá điền trong câu chuyện dụ ngôn Chúa Giêsu kể được hiểu như là những người quản lý. Và tiêu chí người chủ đưa ra là đến kỳ thu hoạch, vườn nho phải sai hoa, mộng trái. Theo chiều kích xã hội thì những người quản lý là những người được giao phó các chức vụ của công quyền. Họ được trao phó đoàn dân của một tập thể, của một đất nước… Theo chiều kích tôn giáo, thì những người quản lý là những vị mục tử. Họ đuợc trao phó đoàn chiên là các tín hữu của tôn giáo mình. Dù là các mục tử trong Hội thánh này Hội thánh kia hay là những người nắm giữ công quyền trong xã hội thì chỉ một mình Thiên Chúa là người chủ duy nhất. Thánh Phaolô minh định điều này khi nói rằng các chính quyền hợp pháp đều là do Chúa đặt định (x.Rm 13,1)

Trong khoảng thời gian chờ đến mùa vụ, thì ông chủ thỉnh thoảng sai gia nhân của mình đến nhắc nhở những người quản lý về bổn phận và trách vụ của họ. Và bên cạnh đó chắc chắn có sự đánh giá về những gì mà những người quản lý đang thực thi. Tốt thì khen và khích lệ. Xấu thì chê và phê bình sửa sai. Trong lịch sử dân Chúa xưa, các ngôn sứ chính là những gia nhân mà ông chủ vườn nho đã sai đến. Thay vì nghe những ý chỉ của Thiên Chúa qua các sứ ngôn thì những người tá điền là nhưng người quản lý đã bách hại các ngài.

Thiên Chúa, người chủ vườn nho vẫn kiên trì nhẫn nại đến cùng. Người đã sai chính Con Một đến với hy vọng là những người quản lý kia sẽ nể mặt mà nghe theo. Thế nhưng sự tham lam đã làm cho tâm hồn những người quản lý thành ác độc. Họ đã nhẫn tâm giết chết Người Con Một của ông chủ. Tưởng rằng sẽ từ vị thế quản lý trở thành chủ nhân của vườn nho, nhưng họ đã lầm. Ông chủ sẽ tru di họ và trao vườn nho cho những người khác.

Câu chuyện dụ ngôn Chúa Giêsu kể đã làm chột dạ những vị lãnh đạo DoThái giáo thời bấy giờ. Chuyện dụ ngôn này cũng đã ứng với nhiều triều đại vua chúa các nước trên thế giới. Chuyện dụ ngôn này cũng ứng với những chính phủ nắm giữ công quyền của các quốc gia. Và chuyện dụ ngôn này cũng đáng làm cho các vị mục tử giật mình tự kiểm.

Nho ra nho, quản lý ra quản lý. Nếu không thực là mình thì sẽ đến lúc phải bị loại trừ. Cành nho nào sinh hoa trái sẽ được chăm bón để trái hoa xum xuê thêm nhiều. Cành nào không sinh trái thì phải bị chặt đi. Nó sẽ khô héo và người ta sẽ bỏ nó vào lửa mà thiêu đốt đi (x.Ga 15,6). Người quản lý nào chuyên chăm cứ đến giờ mà phân phát lúa thóc cho kẻ ăn, người ở, thì sẽ được ân thưởng khi chủ về. Trái lại viên quản lý nào chểnh mảng, mãi mê chơi bời ăn uống mà bỏ bê bổn phận, thậm chí còn hành xử bạo lực với người dưới quyền, thì sẽ bị chung số phận với quân bất lương, ở nơi phải khóc lóc và nghiến răng (x.Lc 12,41-48).

LM Giuse Nguyễn văn Nghĩa