Đức Thánh Cha Phanxicô thăm Georgia Azerbaijan – điểm báo 01/10/2016

Đức Thánh Cha Phanxicô thăm Georgia  Azerbaijan – điểm báo 01/10/2016

Đức Thánh cha thăm Georgia

– Trang mạng của Radio ECO DEL CAUCASO viết về ngày thứ nhất trong chuyến viếng thăm của Đức Thánh Cha Phanxicô, đã nhấn mạnh ý kiến của Đức Thượng phụ Ilia. Ngài gọi đây là chuyến viếng thăm lịch sử, khẳng định tình yêu thương huynh đệ giữa hai Giáo hội và nói rằng có những điểm chung và tất cả theo đuổi việc tiến gần đến hiệp nhất.

 Tất cả các cơ quan báo chí đều nói về chuyến viếng thăm của Đức Thánh cha và viết rằng vấn đề bầu cử đã không nằm trong Top News trong một ngày (30/09/2016).

– Cơ quan báo chí GIORGIA ON LINE có hai bào báo về chuyến viếng thăm với hình ảnh chính thức: Bài thứ nhất nhấn mạnh những lời Đức Thượng phụ gọi Đức Thánh Cha Phanxicô “người anh em yêu quý”. Bài báo cũng dành chỗ cho niềm hy vọng rằng có một tinh thần xây dựng mới giữa hai Giáo hội, với sự trợ giúp của Thiên Chúa.

Bài báo thứ hai trình bày về vấn đề chính trị, cuộc gặp gỡ giữa Đức Thánh cha và Tổng thống, trưng dẫn những lời của Đức Thánh Cha Phanxicô định nghĩa Georgia là cầu nối giữa Châu Âu và châu Á. Sau đó bài báo trích dẫn bài diến thuyết của Tổng thống, ông đã cám ơn Tòa Thánh về sự gần gũi với các vấn đề toàn vẹn lãnh thổ và bày tỏ hy vọng là từ nay cộng đồng quốc tế sẽ chú ý nhiều hơn đến đất nước này. Như thế báo này có cái nhìn tích cực về chặng đầu của chuyến viếng thăm của Đức Thánh Cha.

– Cơ quan báo chí SPUTNIK –GEORGIA chú trọng nói với giới trẻ. Báo này theo dõi mọi diễn tiến của chuyến viếng thăm này; có bài về cuộc phỏng vấn một thần học gia Công giáo; các hình ảnh của Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II vào năm 1999; một bảng câu hỏi online về ý nghĩa chuyến viếng thăm của Đức Thánh Cha, trong đó 31% dân số nói chuyến viếng thăm này như là một “dấu chỉ”, một sự kiện hàng đầu của đất nước; 18% xem đó như là một sứ điệp chính trị của Vatican gửi cho thế giới, 4% nhìn thấy đây là một biến cố thánh thiêng cá nhân … và 46% không quan tâm đến cuộc viếng thăm này.

– Các nhật báo ON LINE

Báo CIVIL .GE chuyên về chính trị thì dành 2 bài cho cuộc viếng thăm: một bài về cuộc gặp với Đức Thượng phụ và bài khác về cuộc gặp với Tổng thống Giorgi Margvelashvili, trong đó nhấn mạnh các lời của Đức Thánh Cha về sự chung sống hòa bình giữa các dân tộc và các quốc gia trong vùng là điều kiện không thể thiếu và tiên quyết cho sự phát triển lâu dài.

Báo CAUCAS PLUS đăng trên trang nhất tấm hình lớn của Đức Thánh cha và tổng thống: và điều được nhấn mạnh là Georgia được Đức Thánh cha định nghĩa là cầu nối giữa các dân tộc. (SD 01/10/2016)

Hồng Thủy

Đức Thánh Cha viếng thăm tòa Thượng Phụ Chính Thống Georgia

Đức Thánh Cha viếng thăm tòa Thượng Phụ Chính Thống Georgia

Đức Thánh Cha viếng thăm tòa Thượng Phụ Chính Thống Georgia

TBILISI. ĐTC bày tỏ lòng quí chuộng Giáo Hội Chính Thống Georgia và kêu gọi từ bỏ những thành kiến đối với nhau, cùng trở thành những loan báo Tin Mừng của Chúa.

Giã từ phủ tổng thống, ĐTC đã đến tòa Thượng Phụ lúc gần 5 giờ chiều giờ địa phương, và được Đức Thượng Phụ Ilia II tiếp đón.

Đức Thượng Phụ năm nay 83 tuổi (1933) thụ phong GM năm 1963 khi được 30 tuổi, và làm Viện trưởng thần học viện ở thủ đô Tbilisi, rồi làm GM giáo phận Sukhumi cho đến khi được bầu làm Thượng Phụ hồi năm 1977. Ngài từng làm Chủ Tịch Hội đồng đại kết các Giáo Hội Kitô ở Genève Thụy Sĩ, nhưng năm 1997, dưới sức ép mạnh mẽ của phe thủ cựu, cho rằng tổ chức này chịu ảnh hưởng quá mạnh của Tin Lành, nên Thánh Hội đồng của Chính Thống Georgia buộc lòng phải lui khỏi Hội đồng đại kết. Nhóm thủ cựu này cũng đã biểu tình chống đối cuộc viếng thăm của ĐTC tại Georgia.

Sau khi hội kiến riêng với Đức Thượng Phụ Ilia II, ĐTC đã gặp chung với phái đoàn của hai bên và khoảng 10 đại diện của giới học giả và văn hóa.

Diễn văn của ĐTC

Lên tiếng trong dịp này, ĐTC nói:

”Thật là một niềm vui lớn lao cho tôi và một ơn đặc biệt được gặp Đức Thượng Phụ và các vị TGM, GM, thành viên của Thánh Hội đồng. Tôi chào thăm thủ tướng và các vị đại diện của giới học giả và văn hóa..”

Tiếp đến, ĐTC nhắc đến sự kiện Đức thượng phụ Ilia II là người đã viết lên một trang sử mới trong quan hệ giữa Chính Thống Georgia với Giáo Hội Công giáo khi đến viếng thăm lần đầu tiên tại Vatican. Trong dịp đó, Đức Thượng Phụ và GM Roma đã trao đổi nụ hôn bình an và hứa cầu nguyện cho nhau. Từ đó nhiều quan hệ và trao đổi đã được tăng cường, các cuộc viếng thăm của các đại diện Tòa Thánh tại Georgia, các sinh viên Chính Thống Georgia nghiên cứu tại thư viện Vatican và học hỏi tại các Đại học Giáo Hoàng ở Roma, và các tín hữu Georgia hiện diện ở Roma, với một thánh đường và có sự cộng tác với cộng đoàn Công giáo địa phương. Và – ĐTC nói – ”nay tôi đến đây như một người hành hương và một người bạn, tôi đến phần đất được chúc phúc này trong lúc các tín hữu Công Giáo cử hành cao điểm của Năm Thánh Lòng Thương Xót.”

ĐTC cũng nhận xét rằng Giáo Hội Chính Thống Georgia vốn ăn rễ sâu nơi lời giảng của các Tông đồ đặc biệt là Thánh Anrê, và Giáo hội Roma, được xây dựng trên cuộc tử đạo của thánh Phêrô Tông Đồ, ngày hôm nay cả hai Giáo Hội được ơn canh tân tình huynh đệ Tông Đồ tươi đẹp, nhân danh Chúa Kitô và vinh danh của Chúa, Phêrô và Anrê là anh em với nhau.. Người Anh em, Đức Thượng Phụ rất thân mến, chúng ta hãy để cho mình được Chúa Giêsu nhìn, để cho lời mời gọi của Chúa thu hút, từ bỏ những gì cầm giữ chúng ta để cùng nhau trở thành những người loan báo sự hiện diện của Chúa”.

ĐTC ca ngợi lòng can đảm của nhân dân Georgia, luôn trỗi dậy sau vô số thử thách.. và ngài nói thêm rằng:

”Người anh em rất thân mến, để Tin Mừng mang lại hoa trái, ngày nay chúng ta cũng được yêu cầu liên kết kiên vững hơn với Chúa và hiệp nhất với nhau. Nhiều vị thánh của đất nước này khuyến khích chúng ta đặt Tin Mừng lên trên mọi sự và loan báo Tin Mừng như trong quá khứ và hơn nữa, không để mình bị ràng buộc vì những thiên kiến và cởi mở đối với sự mới mẻ ngàn đời của Thiên Chúa. Ước gì những khó khăn không trở thành chướng ngại, nhưng khích lệ chúng ta biết nhau nhiều hơn, chia sẻ nhựa sống đức tin, tăng cường cầu nguyện cho nhau và cộng tác trong tình bác ái tông đồ để làm chứng tá chung, để tôn vinh Thiên Chúa và phục vụ hòa bình trên trái đất.”

G. Trần Đức Anh OP

Đức Thánh Cha bắt đầu viếng thăm Cộng hòa Georgia

Đức Thánh Cha bắt đầu viếng thăm Cộng hòa Georgia

Đức Thánh Cha bắt đầu viếng thăm Cộng hòa Georgia

TBILISI. Chiều ngày 30-9-2016, ĐTC cổ võ sống chung hòa bình giữa các dân tộc tại Cộng hòa Georgia đồng thời tôn trọng công pháp quốc tế về chủ quyền của mỗi người.

Ngài đưa ra lời kêu gọi trên đây trong buổi gặp gỡ Tổng thống, các giới chức chính quyền, cũng như đại diện các tầng lớp xã hội và văn hóa của cộng hòa Georgia. Đây là hoạt động đầu tiên của ngài trong chuyến viếng thăm thăm Cộng Hòa Georgia và Azerbaigian trong 3 ngày cho đến chiều tối chúa nhật 2-10 tới đây.

Đây là chuyến viếng thăm thứ 16 của ĐTC tại nước ngoài và là phần thứ 2 trong cuộc viếng thăm miền Caucase. Phần đầu ngài đã thực hiện tại Cộng hòa Armeni từ ngày 24 đến 26-6 năm nay. Cả 3 quốc gia này đều có con số tín hữu Công Giáo ít ỏi, nhưng qua các cuộc viếng thăm này, ĐTC muốn cổ võ những quan hệ đại kết, hòa bình và hòa giải giữa các dân tộc. Nói khác đi ngài muốn thi hành một sứ mạng hòa bình và hiệp nhất, như nhận xét của ĐHY Pietro Parolin, Quốc vụ khanh Tòa Thánh.

ĐTC đã rời Roma lúc 9 giờ 25 và đến phi trường thủ đô Tbilisi của Georgia lúc 15 giờ chiều (13 giờ giờ Roma). Cùng đi với ngài có đoàn tùy tùng 30 người và 70 ký giả quốc tế.

Vài nét về Georgia

Cộng hòa Georgia chỉ rộng 70 ngàn cây số vuông với dân số 4 triệu rưỡi dân cư trong đó gần 84% là tín hữu Chính Thống giáo, khoảng 10% theo Hồi giáo, số tín hữu Công giáo là 112 ngàn người, tương đương với 2,5% dân số toàn quốc. Họ sống tại thủ đô Tbilisi và miền nam của Georgia, đa số thuộc nghi lễ la tinh và Armeni, nhưng cũng có một cộng đoàn nhỏ các tín hữu nghi lễ Canđê. Tổng cộng tại nước này, Công Giáo có 32 giáo xứ, 2 GM, 28 LM triều và dòng (14+14), hai tu huynh và 37 nữ tu. Ngoài ra có 12 đại chủng sinh và 2 tiểu chủng sinh. Giáo Hội Công Giáo ở Georgia chỉ có 2 trường mẫu giáo và một trường cao đẳng.

Giáo Hội Chính Thống Georgia có khoảng 4 triệu tín hữu. và là một đối tác khó khăn trong quan hệ với Công Giáo và cả đối với các Giáo Hội chính thống khác. Chính Thống Georgia đã từ chối tham dự Công đồng Liên chính thống giáo hồi cuối tháng 6 năm 2016 ở đảo Creta bên Hy Lạp, giống như Giáo Hội Chính Thống Nga.

Gặp gỡ chính quyền

Từ trên máy bay bước xuống, ĐTC đã được tổng thống Giorgi Margvelashvili cùng với phu nhân chào đón cùng với Đức Thượng Phụ Ilia II và một số quan chức và chức sắc, đặc biệt là hai vị GM Công Giáo, một thuộc nghi lễ la tinh và một thuộc nghi lễ Armeni. 2 em bé trong y phục cổ truyền của Georgia dâng tặng ĐTC một rổ nho, một sản phẩm nổi bật của nước này. Sau nghi thức chào cờ, duyệt qua hàng quân danh dự và giới thiệu các thành phần hai phái đoàn, ĐTC đã vào phòng khánh tiết hội kiến với Tổng thống, trước khi về phủ tổng thống vào lúc 3 giờ rưỡi để chào thăm chính thức.

Tổng thống Margvelaschivili của Georgia năm nay 47 tuổi (1969), đậu tiến sĩ triết học, nguyên là viện trưởng Học viện công vụ, rồi làm bộ trưởng giáo dục, tiếp đến làm phó thủ tướng. Sau cùng ông đắc cử tổng thống cách đây 3 năm.

Sau khi gặp gỡ tổng thống và gia đình ông, ĐTC đã tiến ra khuôn viên danh dự tổng thống để gặp gỡ 400 người gồm các quan chức chính trị và tôn giáo, ngoại giao đoàn, cũng như đại diện các tầng lớp xã hội dân sự và văn hóa.

Trong lời chào mừng ĐTC, tổng thống cám ơn sự ủng hộ của Tòa Thánh dành cho đất nước Georgia, đặc biệt trong thời kỳ bị Nga tấn công hồi năm 2008. Ông cũng nhắc đến những quan hệ giữa Vatican, Giáo Hội Công Giáo và Georgia qua dòng lịch sử và đề cao vai trò của Georgia không những thuộc về nền văn minh Âu Châu, nhưng còn là một trong những nước kiến tạo nền văn minh này. Sau cùng ông cho biết 20% lãnh thổ của Georgia vẫn còn bị chiếm và 15% dân chúng là người tị nạn. Những vùng bị những người gốc Nga chiếm đóng. Dầu vậy, Georgia không tìm kiếm sự đụng độ, nhưng chị tìm con đường đưa rất nước được giải phóng khỏi sẹ chiếm đóng của ngoại bang và tiến đến hòa bình!

Diễn văn của ĐTC

Lên tiếng sau lời chào mừng của tổng thống Cộng hòa Georgia, ĐTC đã đề cao lịch sử ngàn đời và nền văn hóa cổ kính của đất nước này. Georgia như chiếc cầu thiên nhiên giữa Âu và Á châu, một bản lề giúp cho việc giao thông và tương quan giữa các dân tộc được dễ dàng, khiến cho việc thương mại và đối thoại giữa các dân tộc cũng như sự đối chiếu tư tưởng và kinh nghiệm giữa các thế giới khác nhau có thể thực hiện được.

 ĐTC nhắc đến sự kiện Georgia đã tuyên bố độc lập từ 25 năm nay, hoàn toàn tìm lại tự do, nền độc lập này đã xây dựng và củng cố các cơ chế dân chủ và tìm kiếm những con đường để bảo đảm sự phát triển bao gồm mọi người và có đặc tính chân thực. Tất cả những điều đó đã diễn ra với nhiều hy sinh mà nhân dân Georgia đã can đảm đương đầu để đảm bảo cho mình tự do hằng ao ước.

ĐTC khẳng định rằng: ”Sự tiến bộ chân thực và lâu bền như thế có một điều kiện tiên quyết không thể thiếu được, đó là sự sống chung hòa bình giữa các dân tộc và các quốc gia trong vùng. Điều này phải phải gia tăng tâm tình quí chuộng lẫn nhau, những tâm tình đó không từ bỏ sự tôn trọng chủ quyền của mỗi nước trong khuôn khổ quốc tế công pháp. Để mở ra những con đường đưa tới một nền hòa bình lâu bền và môt sự cộng tác thực sự, cần ý thức rằng những nguyên tắc quan trọng để có tương quan công bằng và vững bền giữa các quốc gia đều nhắm phục vụ cho sự sống chung cụ thể, có trật tự và hòa bình giữa các dân nước. Thực vậy, tại quá nhiều nơi trên thế giới, dường như người ta theo đuổi thứ tiêu chuẩn khiến có khó lòng duy trì những khác biệt hợp pháp và những tranh biện luôn có thể xảy ra trong một bối cảnh đối chiếu và đối thoại trong đó lý trí, sự ôn hòa và tinh thần trách nhiệm được trổi vượt. Đây là điều rất cần thiết trong bối cảnh lịch sử hiện nay, trong đó không thiếu những trào lưu cực đoan bạo lực lèo lái và bóp méo những nguyên tắc dân sự và tôn giáo để dùng chúng phục vụ cho những ý đồ đen tối muốn thống trị và gây chết chóc”.

ĐTC nhấn mạnh rằng ”Tất cả cần quan tâm trước tiên tới số phận của con người cụ thể và kiên nhẫn hết sức cố gắng tránh để cho những khác biệt biến thành bạo lực, nhắm khơi lên những đổ vỡ lớn lao cho con người và xã hội. Bất kỳ sự phân biệt nào về chủng tộc, ngôn ngữ, chính trị hoặc tôn giáo, không để bị lạm dụng để biến thành cái cớ biến những khác biệt thành xung đột và biến những xung đột thành những thảm trạng khôn cùng, sự phân biệt ấy có thể và phải là nguồn mạch làm cho mọi người được thêm phong phú và có lợi cho ích chung. Điều này đòi mỗi người phải tận dụng tất cả những đặc điểm của mình, nhất là có thể sống an bình nơi quê hương của mình hoặc được hồi hương tự do, nếu vì lý do nào đó họ đã phải buộc lòng rời bỏ quê hương. Tôi cầu mong rằng các vị hữu trách chính trị tiếp tục quan tâm đến tình cảnh của những người ấy, dấn thân tìm kiếm những giải pháp cụ thể, kể cả ở bên ngoài những vấn đề chính trị chưa được giải quyết. Điều ấy cũng đòi phải có sự nhìn xa trông rộng và can đảm nhìn nhận thiện ích đích thực của các dân tộc và quyết tâm theo đuổi thiện ích ấy một cách khôn ngoan. Điều tối cần thiết là nghĩ đến những đau khổ của con người để quyết tâm theo đuổi hành trình xây dựng hòa bình, con đường kiên nhẫn và vất vả nhưng cũng là con đường có sức thu hút và mang lại tự do”.”

Giã từ tổng thống và các giới chức chính quyền, ĐTC đã tới tòa Thượng Phụ Chính Thống Georgia để viếng thăm.

G. Trần Đức Anh OP

Các Giám mục Công giáo Canđê kêu gọi hòa bình cho vùng Trung đông

Các Giám mục Công giáo Canđê kêu gọi hòa bình cho vùng Trung đông

Người tị nạn Iraq

Irbil, Iraq – Trong thượng hội đồng hàng năm diễn ra từ ngày 22-27/9, các Giám mục Công giáo Canđê đã kêu gọi hòa bình cho vùng Trung đông và việc giải phóng các khu vực đang bị Nhà nước Hồi giáo chiếm giữ, để những người di tản có thể trở về quê nhà của họ.

Các tín hữu Canđê nằm trong số khoảng 120 ngàn Kitô hữu bị “bứng rễ” khỏi quê nhà khi Nhà nươc Hồi giáo chiếm Mosul và bình nguyên Ninivê ở Iraq vào mùa hè năm 2014.

Trong tuyên ngôn cuối cùng công bố vào buổi bế mạc thượng hội đồng, 20 Giám mục từ Iraq, Iran, Syria, Liban, Hoa kỳ, Canada và Úc đã bày tỏ tình liên đới của họ với Đức cha Antoine Audo của Aleppo, Syria. Các Đức cha kêu gọi “chấm dứt chiến tranh ở Syria và cùng ngồi lại với nhau để đối thoại xây dựng, tìm ra một giải pháp chính trị ôn hòa để gìn giữ đất nước và dân tộc”.

Về vấn đề các Linh mục và đan sĩ đã rời Giáo phận hay đan viện mà không có phép di cư chính thức, các Giám mục nhấn mạnh rằng việc rời bỏ quê nhà đó “đang làm nổi lên những nghi ngờ giữa các tín hữu.” Theo đó, tuyên ngôn chỉ thị là các Linh mục và đan sĩ phải “rời Giáo phận hiện tại (ở nước ngoài) ngay lập tức.” Tuyên ngôn viết tiếp: “Chúng tôi có thể đón nhận họ miễn là có một Giám mục Canđê có thể tiếp đón họ sau một hay hai tháng phục chức. Trong khi đó, các Linh mục nên gặp các Giám mục để hợp thức tình trạng của họ trước khi bắt đầu sứ vụ mục tử của họ.”

Thượng hội đồng đã chọn 3 ứng viên Giám mục cho Giáo phận San Diego để gửi lên Đức Giáo hoàng Phanxicô. Đức cha Shlemon Warduni phục vụ như Giám mục tạm thời của Giáo phận này từ khi Đức cha Sarhad Jammo nghỉ hưu.

Tuyên ngôn cũng nói đến việc Giáo hội Canđê sẽ bắt đầu tiến trình phong thánh cho các vị tử đạo Công giáo ở Iraq từ 2003, trong đó có Đức Tổng Giám mục Faraj Rahho, cha Ragheed Kani, bốn phó tế và một nữ tu. (CNS 29/09/2016)

Hồng Thủy

Đức Thánh Cha tố giác các thế lực kéo dài chiến tranh Syria

Đức Thánh Cha tố giác các thế lực kéo dài chiến tranh Syria

Đức Thánh Cha tố giác các thế lực kéo dài chiến tranh Syria

VATICAN. ĐTC tái tố giác những thế lực theo đuổi lợi lộc đen tối kéo dài chiến tranh tại Syria, Iraq, tàn phá các đất nước này.

Ngài bày tỏ lập trường trên đây dành cho 80 người thuộc 40 tổ chức từ thiện Công Giáo quốc tế và các tham dự viên khác tại khóa họp thứ 5 do Hội đồng Tòa Thánh Cor Unum (Đồng Tâm), triệu tập hôm 29-9-2016, tại Roma, để kiểm điểm tình hình và đẩy mạnh công cuộc cứu trợ các nạn nhân tại Siria và Irak.

ĐTC nói: ”Mặc dù nhiều cố gắng đã được thực hiện trong các lãnh vực khác nhau, lý lẽ của võ khí và đàn áp, những lợi lộc đen tối và bạo lực tiếp tục tàn phá hai nước ấy và cho đến nay, người ta không biết chấm dứt những đau khổ làm kiệt quệ và những vi phạm liên tục chống lại các quyền con người. Những hậu quả thê thảm của cuộc khủng hoảng ấy hiện nay trở nên tỏ tường, vượt lên trên các biên cương của vùng ấy. Hiện tượng di cư trầm trọng là biểu tượng tình trạng ấy”.

ĐTC cũng cảnh giác rằng ”bạo lực sinh ra bạo lực và chúng ta có cảm tưởng đang bị cuốn vào cái vòng bất lực và ù lỳ bất động mà dường như người ta không có lối thoát. Sự ác đang vây hãm lương tâm và ý chí như thế phải đặt câu hỏi cho chúng ta. Tại sao con người tiếp tục theo đuổi những lạm quyền, trả đũa và bạo lực, dù có những thiệt hại lớn lao cho con người, cho gia sản và môi trường như thế? Chúng ta hãy nghĩ đến vụ tấn công mới đây chống loại đoàn xe cứu trợ nhân đạo của LHQ..

Trong bối cảnh đau thương đó, ĐTC ca ngợi hoạt động của ”những người dấn thân giúp đỡ các nạn nhân và bảo tồn phẩm giá của họ, công việc ấy chắc chắn là một phản ánh lòng thương xót của Thiên Chúa, và tự nó là một dấu chỉ chứng tỏ sự ác có giới hạn và không có tiếng nói cuối cùng. Đó là một dấu chỉ hy vọng lớn mà tôi cùng với anh chị em, cám ơn bao nhiêu người vô danh đang cầu nguyện và âm thầm chuyển cầu cho các nạn nhân xung đột, nhất là các trẻ em và những người yếu thế nhất, cũng như hỗ trợ công việc của anh chị em”.

ĐTC cũng ghi nhận rằng ”ngoài những trợ giúp nhân đạo, điều mà anh chị em chúng ta ở Siria và Iraq đang cần hơn cả chính là hòa bình. Vì thế, tôi không mỏi mệt khi kêu gọi cộng đồng quốc tế cố gắng nhiều hơn và có những nỗ lực mới để đạt tới hòa bình cho toàn vùng Trung Đông.

”Chấm dứt xung đột cũng là điều nằm trong tay con người: Mỗi người chúng ta có thể và phải trở thành người xây dựng hào bình, vì mỗi tình cảnh bạo lực và bất công là một vết thương trong thân mình của toàn thể gia đình nhân loại”.

ĐTC không quên nghĩ đến các cộng đồng Kitô tại Trung Đông, đang đau khổ vì hậu quả của bạo lực và lo sợ nhìn về tương lai. Ngài nói: ”Giữa bao nhiêu tối tăm, các Giáo Hội ấy giương cao ngọn đèn đức tin, hy vọng và bác ái. Khi can đảm giúp đỡ những người đau khổ, không phân biệt ai, và hoạt động cho hòa bình và sự sống chung, các tín hữu Kitô Trung Đông ngày nay là dấu chỉ cụ thể về lòng thương xót của Thiên Chúa” (SD 29-9-2016)

G. Trần Đức Anh OP

 

Cái chết vô tội của Chúa Giêsu trên thập giá cúu rỗi mọi người

Cái chết vô tội của Chúa Giêsu trên thập giá cúu rỗi mọi người

ĐTC Phanxicô chúc lành cho một em bé trong buổi tiếp kiến chung sáng thứ tư 28-9-2916

Từ đầu cho đến cuối cuộc đời mình Chúa Giêsu đã vén mở Lòng Thương Xót, việc nhập thể vĩnh viễn và không thể lập lại tình yêu của Thiên Chúa Cha. Khi chết trên thập giá, vô tội giữa hai kẻ tội phạm, Ngài chứng nhận rằng ơn cứu rỗi của Thiên Chúa có thể đến với bất cứ ai, trong bất cứ điều kiện nào, cả trong điều kiện tiêu cực và đau đớn nhất. Chúa Giêsu thật sự là gương mặt lòng thương xót của Thiên Chúa Cha.

ĐTC đã nói như trên với hơn 60.000 tín hữu và du khách hành hương năm châu tham dự buổi tiếp kiến chung sáng thứ tư hàng tuần hôm qua. Trong số các phái đoàn hành hương đến từ Á châu cũng có nhóm 50 tín hữu giáo phận Vinh do ĐC Nguyễn Thái Hợp hướng dẫn.

Trong bài huấn dụ ĐTC quảng diễn đề tài sự tha thứ trên thập giá. Ngài nói: các lời Chúa Giêsu nói trong cuộc Khổ Nạn đạt tột đỉnh trong sự tha thứ. Chúa Giêsu tha thứ: “Lậy Cha xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23,34). Chúng không phải chỉ là lời nói, vì chúng trở thành một cử chỉ cụ thể trong việc tha thứ cống hiến cho “người trộm lành” ở bên cạnh Ngài. Thánh sử Luca kể lại vỉệc hai người có tội bị đóng đanh với Chúa Giêsu, và hướng tới Ngài với hai thái độ trái nghịch nhau.

Người thứ nhất nguyền rủa Ngài, như dân chúng đã nguyền rủa Ngài, như các thủ lãnh của dân làm, nhưng người đàn ông đáng thương này, bị thúc đẩy bởi sự thất vọng nói: “Ông không phải là Đấng Kitô sao? Hãy cứu chính mình và cứu chúng tôi nữa!” (Lc 23,39). Tiếng kêu này làm chứng cho sự âu lô của con người trước mầu nhiệm của cái chết và ý thức thê thảm rằng chỉ có Thiên  Chúa có thể là câu trả lời giải thoát: vì thế không thể nào nghĩ rằng Đấng Cứu Thế, Đấng Thiên Chúa gửi đến lại có thể ở trên thập giá, mà không làm gì để tự cứu lấy mình. Họ đã không hiểu điều này. Họ đã không hiểu mầu nhiệm hiến tế của Chúa Giêsu. Và ĐTC giải thích:

Nhưng trái lại, Chúa Giêsu đã cứu thoát chúng ta bằng cách ở lại trên thập giá. Chúng ta tất cả đều biết rằng thật không dễ “ở lại trên thập giá”, trên các thập giá bé nhỏ của cuộc sống mỗi ngày. Nhưng Ngài, trên thập giá lớn này, trên sự khổ đau lớn lao này, đã ở lại như vậy, và trên đó Ngài đã cứu chúng ta; trên đó Ngài đã cho thấy sự toàn năng của Ngài, và trên dó Ngài đã tha thứ cho chúng ta.

Và trên đó thành toàn việc trao ban tình yêu thương của Ngài và nảy sinh ra ơn cứu rỗi luôn mãi cho chúng ta. Khi chết trên thập giá, vô tội giữa hai kẻ tội phạm, Ngài chứng nhận rằng ơn cứu rỗi của Thiên Chúa có thể đến với bất cứ ai, trong bất cứ điều kiện nào, cả trong điều kiện tiêu cực và đau đớn nhất. Ơn cứu rỗi của Thiên Chúa là cho tất cả mọi người, không ai bị loại trừ. Nó được cống hiến cho tất cả. Vì thế Năm Thánh là thời gian của ân sủng và lòng thương xót đối với tất cả mọi người, tốt lành cũng như ác độc, những người khỏe mạnh cũng như những người đau khổ. Anh chị em hãy nhớ tới dụ ngôn Chúa Giêsu kể về lễ cưới của con một người quyền thế của trái đất: khi các kẻ đã được mời không muốn đến dự tiệc, ông nói với các đầy tớ: “Hãy ra ngoài các ngã tư đường và tất cả những người tìm thấy hãy mời vào dự tiệc cưới (Lc Mt 22,9). Tất cả mọi người đều được mời: người tốt cũng như kẻ xấu.  Giáo Hội không phải chỉ cho các người tốt, hay những người xem ra là tốt, hoặc tin là mình tốt; Giáo Hội là cho tất cả mọi người, cả một cách ưu tiên cho những người xấu, bởi vì Giáo Hội là lòng thương xót. Và thời gian của ân sủng và lòng thương xót này nhắc nhớ chúng ta rằng không có gì có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên  Chúa (x. Rm 8,39). Với người bị đóng đinh trên giường bệnh nhà thương , với người sống bị nhốt trong một nhà tù, với tất cả những ai bị kẹt trong bẫy của chiến tranh, tôi xin nói: hãy nhìn Đấng bị đóng đanh; Thiên  Chúa ở với chúng ta, Ngài ở với chúng ta trên thập giá và Ngài tự hiến cho tất cả mọi người như Đấng Cứu Độ, cho tất cả chúng ta. Với những người đau khổ nhiểu tôi xin nói Chúa Giêsu đã bị đóng đanh cho anh chị em, cho chúng ta, cho tất cả mọi người. Hãy để cho sức mạnh của  Tin Mừng thấm nhập con tim anh chị em và an ủi anh chị em, trao ban cho anh chị em niềm hy vọng và sự chắc chắn thâm sâu rằng không có ai bị loại trừ khỏi ơn tha thứ của Ngài. Nhưng anh chị em có thể hỏi tôi: “Thưa cha, xin hãy nói cho con biết cái người đã làm những điều xấu xa nhất trong đời, có khả thể được tha thứ không?” Có chứ! Có: không ai bị loại trừ khỏi ơn tha thứ của Thiên Chúa. Họ chỉ phải sám hối đến gần Chúa Giêsu và với ước muốn được Ngài ôm vào vòng tay”

ĐTC nói tiếp trong bài huấn dụ: Đó đã là kẻ bất lương thứ nhất. Người thứ hai là “ông trộm lành”. Các lời ông nói là một mẫu gương sám hối tuyệt vời, một giáo lý tập trung nơi việc học xin lỗi Chúa Giêsu. Trước hết ông huớng tới bạn của ông: “Mày không kính sợ Thiên Chúa gì cả sao, mày là người đã bị kết án cùng một hình phạt?” (Lc 23,40). Như thế ông ta đã nêu bật điểm khởi hành của lòng sám hối: đó là việc kính sợ Thiên Chúa. Nhưng không phải sự sợ hãi Thiên Chúa, không! Không phải sự sợ hãi, nhưng là lòng kính trọng phải có đối với Thiên Chúa, bởi vì Ngài là Thiên Chúa. Đó là sự kính trọng hiếu thảo, vì Ngài là Cha.

Người trộm lành nhắc tới thái độ nền tảng rộng mở cho sự tin tường nơi Thiên Chúa: ý thức về sự toàn năng và lòng lành vô tận của Ngài. Chính sự kính trọng tin tưởng này giúp dành khoảng không cho Thiên Chúa và tín thác nơi lòng thương xót của Ngài.

Thế rồi người trộm lành tuyên bố sự vô tội của Chúa Giêsu, và công khai xưng thú lỗi lầm của mình: “Chúng ta chịu như thế này là xứng đáng với việc đã làm. Còn ông này đâu có làm điều dữ nào” (Lc 23.24).

Như vậy Chúa Giêsu ở đó trên thập giá để ở với các người có tội: qua sự gần gũi ấy Ngài cống hiến cho họ ơn cứu rỗi. Điều gây vấp phạm cho các thủ lãnh và ông trộm thứ nhất, cho những người ở đó và chế nhạo Chúa Giêsu, điều này trái lại là nền tảng đức tin của ông trộm lành. Và như thế người trộm lành trở thành chứng nhân của Ơn Thánh; điều không thể nghĩ tới đã xảy ra: Thiên Chúa đã yêu thương tôi đến độ đã chết trên thập giá cho tôi. Chính đức tin của người này là hoa trái ơn thánh của Chúa Kitô: đôi mắt của ông chiêm ngắm nơi Đấng bị đónh đanh tình yêu của Thiên Chúa đối với ông, là kẻ tội lỗi nghèo nàn. Đúng thế, ông đã là kẻ ăn trộm, đã là một kẻ trộm, đã ăn trộm suốt đời. Nhưng sau cùng, hối lỗi vì những điều mình đã làm, khi nhìn Chúa Giêsu tốt lành và thương xót như vậy, ông đã thành công ăn trộm cả nước trời nữa: ông này thật là một người ăn trộm giỏi!

ĐTC nói thêm trong bài huấn dụ: Người trộm lành sau cùng trực tiếp hướng tới Chúa Giêsu, bằng cách khẩn nài sự trợ giúp của Ngài: “Lậy ông Giêsu, xin hãy nhớ tới tôi khi Ngài vào nước của Ngài” (Lc 23,42).  Ông gọi tên Ngài, “Giêsu” với lòng tin cậy và tuyên xưng ý nghĩa của  tên gọi là “Chúa cứu”. Đó là tên của Chúa Giêsu. Ông ta xin Chúa Giêsu nhớ tới mình. Có biêt bao là dịu dàng và nhân bản trong kiểu diễn tả này! Đó là nhu cầu của con người không bị bỏ rơi, mong ước  Thiên Chúa luôn luôn gần gũi nó. Trong cách thức này một người bị kết án tử trở thành gương mẫu của kitô hữu tín thác nơi Chúa Giêsu. Một người bị kết án tử là mẫu gương cho chúng ta, một mẫu gương cho một người, cho một kitô hữu tín thác nơi Chúa Giêsu, và cũng là gương mẫu của Giáo Hội biết bao lần khẩn nài Chúa trong phụng vụ bằng cách nói: “Xin Chúa hãy nhớ … Xin Chúa hãy nhớ tới tình yêu của Chúa …”

Trong khi ông trộm lành nói tới tương lại: “Khi nào Ngài sẽ vào trong nước của Ngài”, thì câu trả lời của Chúa Giêsu không phải chờ đợi, Ngài nói ở thì hiện tại: “hôm nay con sẽ ở cùng ta trên thiên đàng” (v. 43). ĐTC giải thích:

Trong giờ trên thập giá, ơn cứu rỗi của Chúa Kitô đạt tột đỉnh của nó là lời Ngài hứa  với ông trộm lành vén mở việc thành toàn sứ mệnh của Ngài: đó là cứu các người tội lỗi. Mở đầu sự vụ của mình trong hội đường ở Nagiarét Chúa Giêsu đã công bố “sự giải thoát cho người tù tội” (Lc 4,18); tại Giêricô trong nhà người thu thuế tội lỗi Dakêu Ngài đã tuyên bố rằng “Con Người – nghĩa là Ngài –  đến để kiếm tìm và cứu vớt những gì đã hư mất” (Lc 19,9). Trên thập giá, hành động cuối cùng xác nhận việc thực hiện chương trình cứu độ. Từ đầu cho tới cuối cuộc đời Ngài đã mạc khải Lòng Thương Xót, đã mạc khải sự nhập thể vĩnh viễn và không thể lập lại tình yêu thương của Thiên  Chúa Cha. Chúa Giêsu thật sự là gương mặt lòng thương xót của Thiên Chúa Cha. Và ông trộm lành đã gọi Ngài bằng tên “Giêsu”. Đây là một khẩn cẩu ngắn gọn, và tất cả chúng ta có thể làm biết bao lần trong ngày: “Giêsu”, “Giêsu”, một cách đơn sơ. Và xin anh chị em hãy làm như thế suốt ngày.

ĐTC đã chào các đoàn hành hương đến từ nhiều giáo phận của các nước Âu châu, Bắc Mỹ cùng như châu Mỹ La tinh. Từ Phi châu có các đoàn hành hương Algeria, Nam Phi, trong khi từ Á châu có các nhóm hành hương Brunei, Ấn Độ, Indonesia, Malaysia, Nam Hàn, Nhật Bản và Việt Nam.

Ngài cầu chúc chuyến hành hương Roma và việc bước qua Cửa Thánh đem lại cho họ cũng như gia đình họ nhiều phước lành và ơn tha thứ của Thiên Chúa.

Trong số các nhóm hành hương cũng có tín hữu vùng bị động đất đo ĐC Giovanni D’ Ercole hướng dẫn, phái đoàn tham dự viên Tuần gia đình Italia, các tín hữu tổng giáo phận Potenza và những người bị sa thải mất việc làm đo ĐGM sở tại hướng dẫn. Ngài cầu mong giới hữu trách tìm ra giải pháp cho vấn đề việc làm. Ngoài ra cũng có các tham dự viên tổng tu nghị của các nữ tu dòng ba Capucino Thánh Gia, hiệp hội người già đi xe đạp, nhiều đoàn hành hương giáo phận khác, cũng như giới trẻ, người đau yếu và các đôi tân hôn. ĐTC cầu mong thánh Vinh Sơn de Paoli

kích thích giới trẻ biết thực hiện các dự án tương lai trong cuộc đời ho, người đau yếu biết nhìn lên Chúa Kitô chịu đóng đanh để thánh hiến các khổ đau của mình, và các đôi tân hôn luôn biết rộng mở cho ơn sự sống và trợ giúp người nghèo.

Buổi tiếp kiến đã kết thúc với Kinh Lậy Cha và phép lành toà thánh ĐTC ban cho mọi người.

Linh Tiến Khải

Tòa Thánh triệu tập khóa họp V về khủng hoảng Syria và Iraq

Tòa Thánh triệu tập khóa họp V về khủng hoảng Syria và Irak

Tòa Thánh triệu tập khóa họp thứ 5 về khủng hoảng Syria và Iraq

ROMA. Ngày 29-9-2016, khóa họp thứ 5 các cơ quan từ thiện Công Giáo về cuộc khủng hoảng ở Siria và Irak sẽ khai diễn ở Roma và do Hội đồng Tòa Thánh Cor Unumm (Đồng Tâm), tổ chức.

 Tham dự khóa họp có 80 người, thuộc 40 cơ quan từ thiện Công Giáo cùng với các đại diện của hàng GM địa phương, các dòng tu hoạt động trong vùng, cũng như hai vị Sứ Thần Tòa Thánh tại Siria và Irak.

 Các tham dự viên sẽ gặp ĐTC lúc 9 giờ rưỡi tại Dinh Tông Tòa, trước buổi tiếp kiến chung của ngài dành cho các tín hữu hành hương. Sau đó mọi người sẽ đến Thính đường Gioan Phaolô 2 của Đại học Giáo Hoàng Urbaniana để họp.

 Bài thuyết trình dẫn nhập do Đức Ông Giampietro Dal Toso, Tổng thư ký Hội đồng Tòa Thánh Cor Unum, trình bày, tiếp đến là diễn văn của ông Staffan de Mistura, Đặc phái viên của LHQ về Siria; rồi phần trình bày “Cuộc điều nghiên thứ 2 về câu trả lời của các cơ quan Giáo Hội đối với cuộc khủng hoảng nhân đạo tại Irak và Siria trong niên khóa 2015-2016 do Hội đồng Cor Unum thực hiện. Sau cùng là diễn văn của ĐHY Parolin, Quốc vụ khanh Tòa Thánh.

Ban chiều 29-9-2016, sau phần cập nhật thông tin của hai vị Sứ thần Tòa Thánh tại Irak và Syia, các tham dự viên sẽ họp trong các nhóm nhỏ để bàn về những khía cạnh cụ thể trong việc cộng tác giữa các cơ quan khác nhau dấn thân ở Trung Đông.

Mục đích khóa họp này là để kiểm điểm hành trình cứu trợ Công Giáo cho các nạn nhân ở hai quốc gia, thảo luận về tình hình khó khăn hiện nay và xác định những điểm ưu tiên cần thực hiện; các tham dự viên cũng phân tích tình hình các cộng đoàn Kitô ở Irak và Siria sống trong chiến tranh, và cổ võ sự hợp lực giữa các giáo phận và dòng tu, cũng như các tổ chức khác của Giáo Hội.

Ngoài các hoạt động ngoại giao, Tòa Thánh cũng tham gia các chương trình cứu trợ nhân đạo, trợ giúp hơn 9 triệu người trong niên khóa 2015-2016, với 207 triệu Mỹ kim trong năm ngoái (2015) và 196 triệu mỹ kim trong năm nay.

Từ năm 2011 đến nay, chiến tranh ở Siria và Irak đã làm cho hơn 300 ngàn người chết và 1 triệu người bị thương. Hiện thời hơn 13,5 triệu người cần được giúp đỡ tại Syria và hơn 10 triệu người tại Iraq, Số người di tản nội địa Irak là 3,4 triệu và tại Syria là 8 triệu 700 ngàn người. Ngoài ra có 4 triệu 800 ngàn người tị nạn Siria đang sống tại các nước Trung Đông (SD 27-9-2016)

G. Trần Đức Anh OP 

Hành hương là một “cách thế loan báo Tin mừng mới”

Hành hương là một “cách thế loan báo Tin mừng mới”

Holy Land pilgrimage

Jerusalem – Hành hương là một “cách thế loan báo Tin mừng mới”, bởi vì việc đi đến những nơi thánh theo bước của Chúa Kitô có thể mang lại “một sự hồi sinh đức tin”. Bất cứ ai đi hành hương, sẽ khám phá rằng họ “đã nhận được lời mời gọi từ Thiên Chúa, một ơn gọi từ Chúa Thánh Thần”. Điều này đang trở nên cần thiết cho Âu châu và cho Tây phương nói chung, nơi “Kitô giáo và tôn giáo đang khủng hoảng trầm trọng”, Đức cha Giacinto-Bouló Marcuzzo đã nói với hãng tin Á châu như thế.

Đức cha cho biết là nhiều khách hành hương đã thay đổi nhờ những chuyến đi hành hương và giúp họ thấy cuộc sống qua đôi mắt Kinh thánh. Hành hương cũng là nguồn của các ơn gọi, của việc tái khám phá đức tun và lời gọi đến với Thiên Chúa. Nhưng con đường này cần có người đồng hành. Các cuộc hành hương xây dựng, đào tạo con người nếu chúng được chuẩn bị tốt, nếu có người hướng dẫn, để suy tư về các kinh nghiệm.

Bên canh việc tìm hiểu và khám phá, hành hương cũng là một nguồn thu nhập thiết yếu cho dân Chúa ở thánh địa. Theo thống kê mới đây, ít nhất 30% cộng đoàn địa phương – ở Jerusalem và Bêlem sống nhờ ngành du lịch tôn giáo. Sự giảm sút các khách hành hương trong những năm gần đây đã ảnh hưởng tồi tệ đến kinh tế và sống còn của các Kitô hữu.

Theo Sobhy Makhoul, chưởng ấn của Tòa thượng phụ Maronít, khi có các cuộc hành hương, ít nhất 30% có việc làm đều đặn. Khi các cuộc hành hương giảm, 30% đó sẽ bị thất nghiệp và do đó trực tiếp hay gián tiếp, họ sẽ di cư.

Con số khách hành hương năm nay giảm 70% do nhiều lý do như vấn đề an ninh, các cuộc tấn công, tình hình kinh tế và khủng hoảng tôn giáo ảnh hưởng đặc biệt đến châu Âu.

Đức cha Marcuzzo cho biết thời gian này thường là thời điểm tốt nhất trong năm để hành hương đến Đất thánh nhưng tình hình vẫn đang giảm đi, điều đó cho thấy có sự khủng hoảng. Tuy có sự hồi phục trở lại nhưng vẫn còn kém xa quá khứ. Theo Đức cha, bên cạnh những lý do an ninh và kinh tế, chúng ta phải nhận là có sự xa cách tôn giáo dần dần ở các quốc gia hay châu lục (đầu tiên là châu Âu, rồi đến Bắc Mỹ). Ngài nói: “Châu Âu không còn tin vào các cuộc hành hương.”

Cuộc khủng hoảng hành hương ở châu Âu được bu lại bởi sự phát triẻn của các khách hành hương Á châu như Philippines, Nhật, Hàn, và cả Trung quốc và Việt nam. Đức cha nói: “Đặc biệt đối với các tín hữu Trung quốc, sự tái khám phá trở nên mạnh mẽ và sâu sắc hơn. Không giống như người châu Âu đã quen với các câu chuyện và nới chốn được kể trong Kinh thánh, đối với các tín hữu Trung quốc, mọi thứ đều mới”. Đối với các tín hữu Trung quốc và Việt nam, nó thật sự là một khám phá với lòng biết ơn. Người ta có thể nhìn thấy sự ngạc nhiên của đức tin, các yếu tố nhập thể trên gương mặt họ.

Cũng còn một thứ ngăn trở giới hạn số khách hành hương, đó là các Kitô hữu gốc Ả rập gặp vấn đề với việc đến Israel.  (Asia News 27/09/2016)

Hồng Thủy

Trở lại Công giáo nhờ mạng lưới “Truyền hình lời vĩnh cửu” của mẹ Angelica

Trở lại Công giáo nhờ mạng lưới “Truyền hình lời vĩnh cửu” của mẹ Angelica

Arne và Barbara Sahlstrom

Ông bà Arne và Barbara Sahlstrom đều sinh trưởng trong các gia đình Tin Lành Luther người Thụy điển, nhưng họ không thực hành đạo. Trước khi trở thành bác sĩ, Arne Sahlstrom đã học văn chương Anh và Pháp. Còn Barbara học về giọng hát tại nhiều thành phố khác nhau của Thụy điển. Khi đến học ở thành phố Upsala, cô đã gặp Arne và hai người đã thành hôn với nhau. Sau đó, Arne đã tiếp tục học chuyên về kỹ thuật giải phẫu còn Barbara trở thành giáo sư về giọng hát và là một thành viên trong dàn hợp xướng.

Năm 1989, Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã viếng thăm Thụy điển. Cả hai ông bà đều bị ngạc nhiên ấn tượng về nhân vật này, về con người của ngài. Không lâu sau cuộc viếng thăm này, mẹ của Barbara bị ung thư. Chính lúc đó, Barbara bắt đầu cầu nguyện và cô đã tìm thấy một cuốn Kinh thánh. Dù cho khi còn là một bé gái, từ lúc lên 5 cho đến khi lên 8, Barbara thường đến trường ở nhà thờ Tin lành mỗi Chúa nhật và được nghe đọc Kinh thánh, nhưng vì khi lớn lên, tự cô không bao giờ đọc Kinh thánh, nên cô không thể phân biệt sự khác nhau giữa Cựu ước và Tân ước.

Tháng 7 năm 2001, ông Arne được bổ nhiệm đến làm việc ở Saudi Ả rập, một đất nước hầu hết là dân theo Hồi giáo và được coi là quốc gia của Hồi giáo, nơi các tôn giáo khác không được phép có các sinh hoạt tôn giáo, ngay cả các sách Kinh thánh cũng bị cấm ở nước này. Nhưng chính ở đây, bà Barbara bắt đầu tìm hiểu trên mạng internet về các chương trình tôn giáo. Nhờ đó bà biết được mạng lưới “Truyền hình lời vĩnh cửu” do mẹ Angelica thành lập tại Hoa kỳ. Đây là một mạng lưới truyền hình Công giáo toàn cầu được truyền qua các kênh truyền hình của các Giáo phận của nhiều nước trên thế giới. Mạng lưới truyền hình này truyền chiếu Thánh lễ mỗi ngày, còn có Đàng thánh giá, lần hạt Mân Côi, các sự kiên Công giáo quan trọng tại giáo triều Roma và trên toàn thế giới. Chương trình của mạng lưới truyền hình cũng gồm có chương trình giáo lý dành cho người lớn và trẻ em.

Ngày qua ngày, bà Barbara xem các chương trình nói về đạo Công giáo mà mẹ của bà rất thích và bà cũng xem lại với ông Arne chồng của bà. Khám phá Công giáo là một sự ngạc nhiên lớn lao đối với bà Barbara. Bà chia sẻ: “Chúng tôi chưa bao giờ nghe về lòng thương xót vô bờ bến của Thiên Chúa, chưa bao giờ được biết tình yêu của một Thiên Chúa, Đấng vô cùng gần gũi với chúng ta: Thiên Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, Đấng cư ngụ trong linh hồn chúng ta. Cho đến lúc đó,Thiên Chúa được trình bày cho chúng tôi mà chúng tôi biết đến là một Thiên Chúa thật là xa xôi. Giờ đây chúng tôi cũng biết giáo lý về luyện ngục.

Sau đó ông bà Sahlstrom đã quyết định chuyển đến sinh sống ở Bahrain và Dubai. Ở đó họ đã tìm thấy giáo xứ Công giáo thánh Phanxicô, nơi có Thánh lễ được cử hành vào ngày thứ sáu thay vì ngày Chúa nhật, vì thứ 6 là ngày cầu nguyện của người Hồi giáo còn Chúa nhật lại là ngày lao động ở quốc gia này. Cha Eugene Mattioli đã giúp hai vợ chồng học hỏi về Công giáo và đào sâu lịch sử của Giáo hội. Bà Barbara giải thích: “Đây thật là một hành trình thật vui. Mọi thứ thu hút chúng tôi. Điều chúng tôi đặc biệt thích chính là tầm quan trọng Giáo hội Công giáo dành cho mối liên hệ giữa đức tin và lý trí. Khi Đức Hồng Y Joseph Ratzinger được bầu làm Giáo hoàng vào năm 2005, ông bà Arne và Barbara đặc biệt vui mừng, vì đối với họ, đây là một chúc lành thật sự. Họ thấy trong kiến thức thần học, phụng vụ, thánh nhạc và nhạc phụng vụ của ngài, cách thức ngài diễn tả, sự khiêm nhường vô cùng và sự đơn giản của ngài, các cuốn sách tuyệt vời của ngài, vv. bàn tay của Thiên Chúa.

Trong năm 2005, ông bà Sahlstrom đã đào sâu kiến thức đức tin và phụng vụ, và cuối cùng họ đã tiến đến bước cuối cùng là hiệp thông trọn vẹn với Giáo hội Công giáo. Chính Đức giám mục Anders Arborelius và một số linh mục Opus Dei là những người đã giữ vai trò chính trong việc giúp ông bà tìm thấy con đường của họ.

Sau những tìm tòi khám phá để đến với Giáo hội, ông bà nói rằng Thiên Chúa đã đến gần với họ qua nghệ thuật, âm nhạc, hội họa và kiến trúc. Ông bà chia sẻ: Khi thăm một vài nhà thờ, “dù cho chúng tôi hầu như không hiểu gì, chúng tôi đã dành một thời gian dài để chiêm ngắm các pho tượng, nơi Đức Trinh nữ Maria mỉm cười nhìn bạn. Nhiều lần chúng tôi ngồi xuống cầu nguyện giữa sự thanh vắng và im lặng đó”. (CNA 15/09/2016)

Hồng Thủy

ĐHY Parolin kêu gọi tái tạo phẩm giá người nghèo ở Colombia

ĐHY Parolin kêu gọi tái tạo phẩm giá người nghèo ở Colombia

Đức Hồng Y Parolin kêu gọi tái tạo phẩm giá con người ở Colombia

BOGOTÀ. ĐHY Pietro Parolin, Quốc vụ khanh Tòa Thánh, kêu gọi nhân dân Colombia, tái tạo phẩm giá những người đau khổ, để đảm bảo tương lai tốt đẹp hơn cho đất nước.

Ngài đưa ra lời kêu gọi trên đây trong bài giảng tại buổi phụng vụ Lời Chúa ở thành Cartagena de Indias, chiều ngày 26-9-2016, nhân dịp ký kết hiệp định hòa bình giữa chính phủ Colombia và phiến quân ”Lực lượng Võ trang cách mạng Colombia”, gọi tắt là FARC. Hiện diện tại buổi lễ có tổng thống, lãnh tụ phiến quân, nhiều vị quốc trưởng, thủ tướng chính phủ và cựu quốc vương Juan Carlos của Tây Ban Nha, và 2.500 khách mời, tất cả đều mặc áo trắng.

ĐHY Parolin nhắc đến sự gần gũi của ĐTC Phanxicô, mối quan tâm và khích lệ của ngài đối với tiến trình thương thuyết hòa bình, nhưng không can dự vào những giải pháp kỹ thuật chuyên môn để nhân dân Colombia tự do quyết định về vận mạng và tương lai của mình.

ĐHY Quốc vụ khanh cũng nói đến nghĩa vụ của Colombia bây giờ là thoa dịu nổi đau khổ của bao nhiêu người dân đã chịu tủi nhục và đàn áp vì bạo lực, phải giải trừ oán thù và thay đổi hướng đi lịch sử của mình hầu xây dựng một tương lai tốt đẹp hơn trong những cơ cấu công chính và vững chắc của mình”.

Ngài nói: ”Phương pháp chắc chắn nhấn để bắt đầu tương lai chính là tái tạo phẩm giá của người đang chịu đau khổ, và để làm như vậy, cần đến gần người đau khổ, không ngại mất thời giờ, đến độ đồng hóa với những người đau khổ. Nói khác đi nền hòa bình mà Colombia đang khao khát đi xa hơn sự thi hành một số cơ cấu hoặc hiệp ước, và qui trọng tâm vào việc tái tạo con người. Thực vậy chính trong những vết thương nơi tâm hồn con người, nơi có những nguyên do sâu xa của cuộc xung đột, đã làm tàn phá đất nước này”.

Cũng trong bài giảng, ĐHY Parolin mời gọi mọi người tín thác nơi Chúa và cầu xin ơn phù trợ của Người: ”Chỉ có Thiên Chúa mới có thể ban cho chúng ta sức mạnh để đương đầu với các vấn đề hiện nay, và nhất là khả năng đồng hóa với tất cả những người đan chịu đau khổ. Chính vì thế, chúng ta họp nhau nơi đây để cầu nguyện. Chúng ta coi biến cố này như một sự biểu lộ lòng tín thác của chính quyền và tất cả những người theo chúng ta, nơi sức mạnh của lời cầu nguyện dâng lên Thiên Chúa”

ĐHY giải thích rằng chúng ta cầu xin Chúa ban cho chúng ta lòng can đảm trong tình liên đới là điều cần thiết để, trong sự thật và công lý, lấp đầy những hố chia cách do bạo lực gây ra”.

Tổng thống Juan Manuel Santos và lãnh tụ FARC ông Rodrigo Echeverri đã ký hòa ước chấm dứt cuộc xung đột đẫm máu trong 52 năm, làm cho ít nhất 220 ngàn người chết và gần 7 triệu người phải di tản.

Tổng thống Manuel Santos nói rằng: ”Khi chấm dứt cuộc xung đột này, chúng ta kết thúc cuộc xung đột võ trang kỳ cựu nhất ở Tây Bán Cầu. Vì thế miền này và trái đất này vui mừng, vì bớt được một cuộc chiến tranh trên thế giới và đó là chiến tranh Colombia” (SD 27-9-2016)

G. Trần Đức Anh OP 

Cộng đoàn Công giáo bé nhỏ Azerbaijan vui mừng được Đức Phanxicô viếng thăm

Cộng đoàn Công giáo bé nhỏ Azerbaijan vui mừng được Đức Phanxicô viếng thăm

Logo chuyến viếng thăm Azerbaijan của Đức Giáo hoàng Phanxicô

Baku, Azerbaijan – Một tuần trước cuộc viếng thăm Azerbaijan của Đức Thánh Cha vào Chúa nhật ngày 2/10, hàng chục tín hữu Công giáo đã tụ họp dâng Thánh lễ tại nhà thờ Đức Mẹ Vô nhiễm, nhà thờ Công giáo duy nhất ở Azerbaijan, được xây dựng lại vào đầu thế kỷ 21 này sau khi bị quân đội Xô viết của chế độ độc tài Stalin phá hủy vào những năm 1930. Sau khi Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II thăm Baku vào năm 2002, ngài đã tặng cộng đoàn Công giáo địa phương mảnh đất đã được tổng thống Heydar Aliyev tặng cho ngài. Việc xây dựng nhà thờ được tài trợ bằng tiền nhuận bút từ các cuốn sách của Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II và từ cuộc bán đầu giá do Bộ Loan báo Tin mừng tổ chức.

Cộng đoàn Công giáo tại Azerbaijan rất nhỏ; theo số liệu của Vatican, có khoảng 500 người, định cư ở các vùng thành thị và nông thôn. Vì vậy các tín hữu Công giáo sẽ tập họp ở Baku để đón Đức Thánh Cha và cử hành Thánh lễ.

Anh Gabriel de Souza, 32 tuổi, chia sẻ với hãng tin Công giáo Hoa Kỳ vào hôm 25/9 vừa qua: “Chuyến viếng thăm của Đức Thánh Cha là một sự kiện lớn đối với người Công giáo ở Azerbaijan và chúng tôi mong đợi tiếp đón ngài; nhìn thấy ngài tận mắt và dâng lễ Chúa nhật với ngài thật là một phúc lành”. Anh nói thêm: “Chúng tôi kỳ vọng rất nhiều và chúng tôi tin rằng khi Đức giáo hoàng đến, ngài sẽ đưa ra một sứ điệp vĩ đại về nhân loại và hòa bình.”

Bà Victoria Joseph, một giáo dân 56 tuổi chia sẻ là bà chưa bao giờ được nhìn thấy một vị Giáo hoàng. Chuyến viếng thăm của Đức Phanxicô khiến cho cộng đoàn Công giáo nhỏ bé ở Azerbaijan cảm thấy quan trọng. Nó là một vinh dự và đặc ân lớn lao cho các tín hữu Công giáo.

Cha Vladimir Fekete, người đứng đầu miền Giám quản  Tông tòa tại Azerbaijan nhận định: “Chuyến viếng thăm của Đức Thánh Cha rất quan trọng, không chỉ cho nước Azerbaijan nhưng cho cả vùng Caucasus. Cha cho biết là Đức Thánh Cha nhắm đề cao sự đóng góp của các tín hữu Công giáo  cho hòa bình, tự do tôn giáo và hòa hợp liên tôn. Cha nói: “Nhờ cuộc viếng thăm của Đức Thánh Cha, đức tin Công giáo trong vùng này sẽ trở nên mạnh mẽ hơn. Nó cũng làm nổi bật vai trò toàn cầu của Vatican trong việc giải quyết các xung đột trong vùng và toàn cầu.”

Từ năm 1988, Azerbaijan và Armenia đã tranh chấp quyền kiểm soát vùng Nagorno-Karabakh, một vùng đất có phần lớn là người Armenia nhưng lại nằm gọn trong Azerbaijan. Đức Thánh Cha Phanxicô đã thăm Armenia vào cuối tháng 6. Trên chuyến bay về Roma, ngài nói là ngài hy vọng cổ vũ hòa bình giữa hai quốc gia. (CNS 26/09/2016)

Hồng Thủy

Cha Jose Luis Guerra tiếp cận và thay đổi các thành viên băng nhóm xã hội đen

Cha Jose Luis Guerra tiếp cận và thay đổi các thành viên băng nhóm xã hội đen

Dân chúng ở Monterrey- Mexico

Với chiếc áo Linh mục và dáng vẻ nghiêm chỉnh gọn gàng, cha Jose Luis Guerra nhìn không giống một thành viên của băng đảng xã hội đen chút nào. Tuy nhiên, vị Linh mục 34 tuổi, mới được nhận lãnh thánh chức Linh mục hồi tháng 8 vừa qua (2016), cha phó của Giáo xứ thánh Gioan Thánh giá ở quận Escobedo, tỉnh Nueva Léon ở miền bắc Mêxicô, khuấy động các đường phố của vùng ngoại ô lôi thôi lếch thếch của thành phố này với một băng đảng của chính mình; đó là “băng đảng của Chúa Kitô”. Cha Guerra đưa các lớp giáo lý và chứng tá của Chúa Kitô ra khỏi giáo xứ và đi vào vùng ngoại biên, nơi bị chiếm đóng bởi những người trẻ tuổi sống bên lề xã hội. Cha Guerra cũng là cố vấn của chương trình “Raza Nueva en Cristo” – “Cảnh sát mới trong Chúa Kitô” – một chương trình huấn luyện các thành viên cựu băng đảng và tiếp cận các nhóm theo cách riêng của họ và trên “lãnh địa” của họ – nghĩa là trên đường phố và sau khi trời tối. Các thành viên của phong trào biết ngôn ngữ xã hội đen nhưng bây giờ họ là những nhà loan báo Tin mừng và các giảng viên giáo lý cho các băng đảng. 

Việc đi ra vùng ngoại biên là một ví dụ của lời mời gọi các mục tử của Đức Giáo hoàng Phanxicô, để có mùi của chiên trong đàn của họ và lời mời gọi các tín hữu Công giáo đưa đức tin của họ đến những vùng ngoại biên. Đó cũng là một cách tiếp cận mới để nói đến các vấn đề băng nhóm trong một thành phố được biết như công nghiệp hóa và kinh doanh, nhưng trước đó cả thập kỷ đã bị băng hoại bởi các tổ chức tội phạm ngoài vòng kiểm soát và các bạo lực của các nhóm cung cấp ma túy. Cha Guerra cho biết có hàng trăm băng nhóm hình thành ở Monterrey. Các băng nhóm này lôi kéo phần lớn các người trẻ từ những gia đình bị tan vỡ hay những vùng bị thiệt thòi, bị  gạt ra ngoài lề xã hội. Nhiều khu vực, người dân ở đó là những công nhân có đồng lương thấp, sống trong những ngôi nhà chật chội tại một thành phố thường được xem là khu đô thị giàu nhất Mexico và một thành phố đầy những công xưởng sản xuất các đồ xuất khẩu.

Cha Guerra chưa bao giờ làm việc trên các đường phố, và lại càng ít giao tiếp với các với các thành viên băng đảng hơn nữa. Cha sinh ra trong một gia đình Công giáo trung lưu, học luật tại trường đại học địa phương và lo về pháp lý cho các doanh nghiệp và cũng làm việc cho chính phủ. Tuy vậy, kinh nghiệm mà cha đã trải qua khi còn là chủng sinh đã đặt cha trên một con đường khác. Cha cho biết, các chủng sinh sống và học hành trong một trị trấn nơi có những vấn đề của băng đảng và tội ác, họ dấn thân vào các chương trình của địa phương, cũng là một phần của kế hoạch loan báo Tin Mừng của giáo phận.  Khi là phó tế, cha đã hoạt động trong các ủy ban về xã hội và đã có một thời gian làm việc với những người vô gia cư không nhà không cửa. Việc nghiên cứu cuộc sống của họ đã giúp cha một phần trong việc tìm ra chân tướng rõ ràng của vấn đề cho Tổng Giáo phận Monterrey. Cha nhận ra là phần lớn những người vô gia cư ở Monterrey là những người di dân đến từ Trung Mỹ; họ đã vượt suốt chiều dài của nước Mexicô để đến Monterrey  nhưng họ không dám vượt qua tiếp 150 dặm cuối cùng để đến biên giới Hoa kỳ vì sợ các tổ chức bắt cóc và các tội phạm, có thể gây nguy hiểm cho sự sống của họ.

Cha Guerra đã chọn lối tiếp cận các vấn đề của các băng nhóm cách mới mẻ và không đối đầu với họ. Cha bắt đầu với việc xác định cách thức cha đến với họ bằng những ngôn từ mà các băng nhóm sẽ hiểu và cố gắng giảm thiểu thiệt hại hơn là lôi họ ra khỏi các tổ chức thường làm những việc bất hợp pháp. Cha nói: “Băng đảng của Chúa Kitô” không triệt hạ các băng đảng hay đe dọa các nhóm” vì theo cha, những băng nhóm này như là “gia đình” và là một cấu trúc hỗ trợ cho các thành viên của nó. Do đó, việc xóa bỏ các băng nhóm là điều không thể, nhưng cha có thể mang lại những thay đổi. Cha chia sẻ: “Bạn muốn điều gì: một tên xã hội đen tàn bạo hung hăng hay một thành viên băng đảng được Tin mừng hòa và đang rao giảng Tin Mừng cho người khác? Họ vẫn là thành viên của băng đảng nhưng họ không còn là thành viên của các băng đảng tìm kiếm thêm thế lực; họ không liên quan đến bạo lực và không đánh nhau với các băng đảng khác”.

Cha Guerra bắt đầu hoạt động với các băng đảng từ tháng giêng, khi cha đi ra khỏi giáo xứ của cha và đi vào các con phố của thành phố Monterrey. Từ từ, dần dần, cha đã tìm thấy những thành viên băng đảng muốn nói chuyện với cha. Cha ý thức đó là một công việc nguy hiểm. Tuy nhiên,những người trẻ này có một sự cởi mở đáng ấn tượng khi một Linh mục đi ra và đến với họ, lắng nghe họ ở các góc phố. Cha chia sẻ cách cha đến với họ là: “đi vào trái tim của các thành viên băng đảng … Không phán xét, không định kiến và có thái độ sẵn sàng.” Cha cũng chia sẻ mục đích của chương trình “Cảnh sát mới trong Chúa Kitô” là giúp các cựu thành viên của băng đảng tìm được cơ hội làm việc hoặc nơi chốn để học hành, giúp cho họ cách tạo nên những cơ hội để thành công trong cuộc sống. Nhóm của cha cũng tổ chức các giải bóng đá và các cơ hội để có thể đồng hành với các thành viên băng đảng, nhưng cách tiếp cận chính vẫn là về tinh thần. Cha Guerra thường nói về việc biết được trái tim của những người cha phục vụ. Cha nói: “Bạn phải biết trái tim của các môn đệ để có thể lôi kéo thêm được nhiều môn đệ cho Chúa Giêsu; đây là khẩu hiệu của việc đi ra ngoại biên của tôi. Đi ra và chạm đến trái tim của những người trẻ này. Để làm điều này, bạn phải đi và nghe họ trên đường phố và trên những góc phố vào ban đêm, là những nơi họ hiện diện.” (CNS 16/09/2016)

Hồng Thủy

 

Người nghèo là trang chính của Tin Mừng luôn rộng mở trước mọi người

Người nghèo là trang chính của Tin Mừng luôn rộng mở trước mọi người

Pope Francis arrives to celebrate a Jubilee mass for catechists, at the Vatican, Sunday, Sept. 25, 2016

Người nghèo là trang chính của Tin Mừng luôn rộng mở trước mọi người.Ông nhà giầu bị tật nguyền trầm trọng hơn ông Ladarô đầy vết thương, vì ông bị mù loà trong cuộc sống sung túc giầu sang của ông, nên không trông thấy ông Ladarô nghèo nằm ngay trước của nhà mình.

ĐTC Phanxicô đã nói như trên trong bài giảng thánh lễ Năm Thánh các Giáo lỳ viên cử hành trước thềm Đền thờ Thánh Phêrô lúc 10 giờ ruỡi sáng Chúa Nhật 25 tháng 9 hôm qua. Cùng đồng tế với ĐTC có 10 Hồng Y, 30 Giám Mục và 650 linh mục. Tham dự thánh lễ ngoài 15.000 giáo lý viên đến từ nhiều nước trên thế giới, kể cả Việt Nam, còn có  hơn 30 ngàn tín hữu và du khách hành hương năm châu.

Như chúng tôi đã loan tin, từ chiều thứ sáu 15.000 giáo lý viên năm châu đã bắt đầu tham dự chương trình cử hành Năm Thánh, với các bài thuyết trình tại 4 nhà thờ ở Roma theo các thứ tiếng Bồ Đào Nha, Pháp, Anh và Tây Ban Nha. Ngày thứ bẩy các giáo lý viên đã chầu Mình Thánh Chúa và lãnh bí tích Hoà Giải tại 3 thánh đường gần Đền thờ Thánh Phêrô, và đi theo lộ trình “theo vết các thánh và các chân phước huấn giáo” trong đó có cả chân phước Anrê Phú Yên giáo lý viên. Chiều thứ bẩy đã có buổi hát kinh chiều và trình bầy chứng từ tại Đền thờ Thánh Phaolô ngoại thành.

Các bài sách Thánh trong thánh lễ đã được tuyên đọc bằng các thứ tiếng Anh và Tây Ban Nha. Thánh vịnh và Phúc Âm đã đuợc hát bằng tiếng Ý.

Giảng trong thánh lễ ĐTC mời gọi các giáo lý viên không mệt mỏi loan báo Chúa Kitô phục sinh là trung tâm điểm của đức tin kitô, sống chứng tá niềm hy vọng đem lại niềm vui, biết nhìn xa thấy rộng vuợt quá sự dữ và các vấn đề, đồng thời nhận ra và chú ý tới biết bao Ladarô thời nay, mau mắn trợ giúp và đáp ứng các nhu cầu của họ.

Quảng diễn lời thánh Phaolô căn dặn Timôthê “duy trì giới răn của Chúa nguyên tuyền không thể khiển trách được” (1 Tm 6,14),  ĐTC nói thánh Phaolô chỉ nói đến một giới răn chứ không dặn phải chú ý tới nhiều điểm và nhiều khía canh. Xem ra ngài làm cho chúng ta gắn chặt cái nhìn vào điều nòng cốt của đức tin. Nòng cốt ấy là lời loan báo phục sinh: Chúa Giêsu đã sống lại, Chúa yêu bạn, Ngài đã trao ban cho bạn cuộc sống của Ngài; phục sinh, sống động Ngài ở bên cạnh bạn và chờ đợi bạn mỗi ngày. Áp dụng vào việc cử hành Năm Thánh các giáo lý viên ĐTC nói:

Trong Năm Thánh này của các giáo lý viên chúng ta được mời gọi không mệt mỏi đặt để ở hàng đầu lời loan báo chính yếu này của đức tin: Chúa đã sống lại. Không có các nội dung quan trọng hơn, không có gì vững chắc và thời sự hơn. Mỗi nội dung đức tin trở thành xinh đẹp, nếu gắn liền với trung tâm này, nếu được xuyên qua bởi mầu nhiệm phục sinh. Nếu bị cô lập hóa,  nó mất đi ý nghĩa và sức mạnh. Chúng ta được mời gọi luôn luôn sống và loan báo sự mới mẻ trong tình yêu của Chúa: Chúa Giêsu thực sự yêu thương bạn, như bạn là. Hãy dành chỗ cho Ngài, mặc dù có các thất vọng và các vết thương của cuộc sống, hãy để cho Ngài có khà thể yêu thương bạn. Bạn sẽ không bị thất vọng đâu!”.

Điều răn mà thánh Phalô nói tới khiến cho chúng ta suy nghĩ tới điều răn mới của Chúa Giêsu: “Các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con” (Ga 15,12). Chính trong khi yêu thương chúng ta loan báo Thiên Chúa-Tình Yêu: không phải do sức mạnh của việc thuyết phục, không bao giờ đưóc áp đặt sự thật, cũng không phải vì co cứng trong việc tuân giữ vài đòi buộc tôn giáo hay luân lý. Thiên Chúa được loan báo, khi chúng ta gặp gỡ các bản vị con người, chú ý tới lịch sử và con đường đời sống của họ. Vì Chúa không phải là một tư tưởng, nhưng là một Người sống động: sứ điệp của Ngài đi qua chứng tá đơn sơ và chân thật, với việc lắng nghe và tiếp nhận, với niềm vui dãi toả ra ngoài. Chúng ta không nói tốt về Chúa Giêsu, khi chúng ta buồn sầu; cũng không thông truyền vẻ đẹp của Thiên Chúa chỉ bằng các bài giảng hay. Thiên Chúa của niềm hy vọng được loan báo bằng cách sống Tin Mừng của tình bác ái ngày hôm nay, không sợ hãi làm chứng cho Ngài, cả với các hình thức mới mẻ.

ĐTC nói tiếp trong bài giảng thánh lễ Ngày Năm Thánh của các Giáo lý viên: Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay giúp chúng ta hiểu yêu thương có nghĩa là gì, nhất là giúp chúng ta tránh được vài nguy hiểm. Trong dụ ngôn có một người giầu, không nhận ra Ladarô, một người nghèo khổ “nằm trước cửa nhà ông” (Lc 16,20). Người giầu này, thực ra, không làm hại ai, cũng không bị nói là ngươi xấu. Nhưng ông có một tật nguyền lớn hơn tật nguyền của ông Ladarô, là người “đầy vết thương”: ông nhà giầu này bị mù trầm trọng, bởi vì ông không thể nhìn quá thế giới của mình, được làm bằng các bữa tiệc sang trọng và quần áo đẹp đẽ. Ông không trông thấy quá căn nhà của mình, nơi có Ladarô nằm, bởi vì ông không chú ý tới điều xẩy ra ở bên ngoài. Ông không nhìn với đôi mắt, bởi vì ông không cảm thấy trong con tim. Trong tim ông tinh thần thế tục đã bước vào và làm tê liệt linh hồn. Tinh thần thế tục giống như “một cái lỗ đen” nuốt trửng  sự thiện, dập tắt tình yêu, vì nó nuốt mọi sự trong cái tôi của mình. Khi đó người ta chỉ trông thấy các dáng vẻ bề ngoài, và không nhận ra tha nhân, vì người ta trở thành dửng dưng với mọi sự. Ai bị bệnh mù trầm trọng này, thì thường có các thái độ “mắt lé”: nhìn các người danh tiếng, có địa vị cao được thế giới ngưỡng mộ với lòng kính trọng, mà không thèm nhìn biết bao nhiêu Ladarô này nay, không thèm nhìn các người nghèo túng và các người đau khổ, là những người được Chúa ưu ái.

Nhưng Chúa nhìn kẻ bị thế giới lãng quên và gạt bỏ. Ông Ladarô là nhân vật duy nhất được gọi tên trong tất cả các dụ ngôn của Chúa Giêsu. Tên của ông có nghĩa là “Thiên Chúa trợ giúp”. Thiên Chúa không quên ông, Ngài tiếp nhận ông vào trong tiệc của Nước Ngài, cùng với tổ phụ Abraham, trong sự hiệp thông phong phú của tình yêu thương. Trái lại, ông nhà giầu trong dụ ngôn cũng không có cả một tên gọi nữa; cuộc sống của ông bị rơi vào quên lãng, bởi vì ai sống cho chính mình thì không làm nên lịch sử. Nhưng một kitô hữu phải làm nên lịch sử! Họ phải ra khỏi chính mình, phải làm lịch sử! Nhưng ai sống cho chính mình, thì không làm lịch sử. Sự vô cảm ngày nay đào sâu các vực thẳm luôn mãi không thể vượt qua được nữa. Và chúng ta, trong lúc này, đã bị rơi vào căn bệnh này của sự thờ ơ, của ích kỷ, của tinh thần thế tục.

ĐTC nói thêm trong bài giảng: Còn có một chi tiết khác nữa trong dụ ngôn, một đối kháng. Cuộc sống sung túc của người không tên này được miêu tả như phô trương: tất cả nơi ông đòi hỏi các nhu cầu và quyền lợi. Trái lại, cái nghèo của ông Ladarô được diễn tả với phẩm giá cao: từ miệng ông không thốt ra các lời than van, phản đối hay khinh rẻ. Áp dụng vào cuộc sống giáo lý viên ĐTC nói:

Đây là một giáo huấn có giá trị: như là các người phục vụ lời của Chúa Giêsu chúng ta được mời gọi không phô trương bề ngoài và không tìm vinh quang; chúng ta cũng không được buồn sầu và than van. Chúng ta không phải là các ngôn sứ loan báo tai ương, ưa thích phơi bầy các nguy hiểm hay lệch lạc; không phải là người sống trong các hầm trú môi trường của mình, bằng cách đưa ra các phán đoán cay đắng liên quan tới xã hội, Giáo Hội, liên quan tới mọi sự và mọi người, bằng cách gây ô nhiễm thế giới với sự tiêu cực. Khuynh hướng nghi ngờ than vãn không phải là của người quen thuộc với Lời của  Thiên Chúa.

Ai loan báo niềm hy vọng của Chúa Giêsu là người đem niềm vui và nhìn xa thấy rộng, có các chân trời, không có một bức tường khép kín họ, họ nhìn thấy xa, bởi vì họ biết nhìn xa hơn sự dữ và các vấn đề. Đồng thời họ nhìn rõ điều ở gần, bởi vì họ chú ý tới tha nhân và các nhu cầu của người khác. Ngày hôm nay Chúa hỏi chúng ta: trước biết bao Ladarô mà chúng ta trông thấy, chúng ta được mời gọi âu lo, tìm ra các con đường để gặp gỡ và giúp đỡ họ, mà không luôn luôn uỷ thác cho các người khác hay nói: “Ngày mai tôi sẽ giúp bạn. Hôm nay tôi không có giờ, ngày mai tôi sẽ giúp bạn”. Và điều này là một tội. Thời giờ mà chúng ta dành để cứu giúp các người khác là thời giờ dành cho Chúa Giêsu, là tình yêu tồn tại: nó là kho  tàng trên trời, mà chúng ta chiếm hữu ở đây trên trái đất này.

Kết luận, các giáo lý viên và anh chị em thân mến, xin Chúa ban cho chúng ta ơn luôn luôn được canh tân mọi ngày bởi niềm vui của lời loan báo đầu tiên: Chúa Giêsu đã chết và đã sống lại. Chúa Giêsu yêu thương chúng ta cách cá biệt! Xin ngài ban cho chúng ta sức mạnh sống và loan báo giới răn của tình yêu, bằng cách vượt thắng sự mù loà của vẻ bề ngoài và các nỗi buồn thế tục. Xin Ngài khiến cho chúng ta nhậy cảm với người nghèo, họ không phải là phần thêm vào Tin Mừng nhưng là một trang chính , luôn luôn rộng mở trước mắt mọi người.

Các lời nguyện giáo dân đã được đọc bằng các thứ tiếng Bồ Đào Nha, Pháp, Thái Lan, Đức, và Tầu cầu cho các nhu cầu của Giáo Hội và thế giới. Lời nguyện tiếng Thái xin Chúa mở mắt người mù, soi sáng tâm trí của những người không tin, hoán cải con tim của những người tội lỗi và làm nảy sinh ra các giáo lý viên và những người loan báo Tin Mừng cứu độ. Hàng trăm linh mục đã giúp ĐTC trao Mình Thánh Chúa cho tín hữu.

Trước khi kết thúc thánh lễ ĐTC nói ngày hôm kia tại Wuersburg bên Đức cha Engelmarr Unzeitig thuộc dòng Thừa Sai Marienhill đã được phong chân phước. Ngài đã bị giết trong trại tập trung Dachau do sự thù ghét đức tin; ngài đã lấy tình yêu chống lại thù hận, sự dịu hiền chống lại tàn ác. Cầu mong gương của ngài giúp chúng ta là các chứng nhân của tình bác ái và niềm hy vọng cả giữa các khốn khó.

ĐTC cũng hiệp ý với các Giám Mục Mexico trong việc ủng hộ dấn thân của Giáo Hội và xã hội dân sự cho gia đình và sự sống, đang cần sư lưu tâm mục vụ và văn hoá trên toàn thế giới. ĐTC cũng bảo đảm lời cầu nguyện của ngài cho dân nước Mêhicô để bạo lực chấm dứt. Trong các ngày vừa qua nó đã sát hại vài linh mục.

Hôm qua cũng là Ngày quốc tế người điếc. ĐTC gửi lởi chào tất cả mọi người điếc hiện diện và khích lệ họ góp phần cho một Giáo Hội và một xã hội ngày càng có khả năng tiếp đón mọi người hơn.

Sau cũng ĐTC đặc biệt chào và cám ơn các giáo lý viên vì dấn thân của họ trong Giáo Hội phục vụ việc loan báo Tin Mừng. Ngài xin Mẹ Maria trợ giúp họ kiên trì trên con đường đức tin và làm chứng bằng cuộc sống cho điều họ thông truyền trong giáo lý.

Tiếp đến ĐTC đã đọc Kinh Truyền Tin và ban phép lành toà thánh cho mọi người.

Linh Tiến Khải

Julia Greeley, một nô lệ ở Denver, trở nên gương mẫu của lòng thương xót

Julia Greeley, một nô lệ ở Denver, trở nên gương mẫu của lòng thương xót

julia-greeley-photo

Trên các đường phố của thành phố Denver tiểu bang Colorado, Hoa kỳ, vào cuối những năm 1800 và đầu những năm 1900, người ta rất quen thuộc với hình ảnh của một phụ nữ da màu đội một chiếc mũ mềm màu đen, mang đôi giày quá khổ, dùng chiếc khăn tay thấm nhẹ đôi mắt kém của mình, kéo chiếc xe kéo nhỏ màu đỏ. Đó là Julia Greeley, Thiên thần bác ái của Denver, đang mang thực phẩm, áo quần và sự khích lệ, đi phân phát cho các người nghèo và vô gia cư của thành phố

Greeley sinh ra trong một gia đình nô lệ ở Hannibal, Missouri giữa các năm 1833 và 1848; năm sinh của Greeley không được biết rõ bởi vì cô là con của một người nô lệ. Cô đã bị đối xử tàn tệ khủng khiếp. Một lần kia, khi người chủ đánh mẹ cô, ngọn roi đã vụt vào mắt phải của cô và làm nó bị hư. Sau tuyên ngôn giải phóng nô lệ của tồng thống Abraham Lincoln vào năm 1863, cô là một trong những người được tự do. Năm 1878, Greeley theo gia đình của William Gilpin, vị thống đốc đầu tiên của bang Colorado, nơi Greeley đang giúp việc, đến Denver. Làm việc trong môi trường quý phái thượng lưu, Greeley cũng quen biết với một số gia đình giàu sang có thế giá của Denver, nhưng trái tim của Greeley vẫn dành cho người nghèo; Greeley yêu thương họ. Sau khi nghỉ làm việc tại gia đình thống đốc, Greeley đã làm những việc lặt vặt khắp nơi trong thành phố. Greeley đã đến giáo xứ Thánh Tâm ở Denver và trở lại Công giáo vào năm 1878. Greeley là một giáo dân nhiệt thành, lãnh nhận Mình Thánh Chúa hàng ngày và trở thành một thành viên năng động của dòng Phanxicô tại thế vào năm 1901. Greeley có một lòng sùng kính Thánh Tâm cách đặc biệt.

Dù cho nghèo khổ, Greeley không cần thứ gì cho chính mình; Greeley dành nhiều thời gian của mình để giúp đỡ các gia đình nghèo khổ xung quanh. Khi  không còn thứ gì của mình để giúp đỡ, Greeley đi ăn xin, quyên góp quần áo, thực phẩm và các vật dụng khác để cho ngừoi nghèo. Greeley thường làm việc vào ban đêm, lết trên đôi chân cà nhắc, sau khi đã làm việc suốt ngày dài, để không làm phiền gây bối rối cho những người bà giúp đỡ, nhất là những gia đình da trắng nghèo. Greeley giúp các bé gái nghèo có bộ áo xứng đáng để rước Mình Thánh Chúa lần đầu; bà hiện diện bên những gia đình có người qua đời, hay tìm cha mẹ nuôi cho các trẻ mồ côi. Julia Greeley còn có lòng tha thứ, không thù oán người chủ nô lệ đã làm cho bà bị hư mắt. Bà nói rằng vết sẹo làm xấu mặt của bà nhưng không làm tâm hồn bà xấu. Khi phục vụ cho người nghèo khổ Greeley không bao giờ tra hỏi về niềm tin hay tôn giáo của họ. Tất cả những điều bà muốn làm là nâng dậy những ai đang chiến đấu và đau khổ như bà đã từng trải qua.

Julia Greeley qua đời ngày 7 tháng 6 năm 1918, ngày lễ Thánh Tâm Chúa Giêsu, hưởng thọ khoảng 80 tuổi. Bà Greeley đã được lãnh nhận các bí tích cuối cùng trước khi về bên Chúa. Vì bà sống trong một nhà trọ nên khi qua đời, thi hài của bà được đặt tại một giáo xứ Công giáo trong 5 tiếng đồng hồ và một dòng người không ngừng tuôn đến để bày tỏ sự kính trọng đối với một phụ nữ nổi tiếng và rất được yêu mến. Bà Greeley được chôn cất tại nghĩa trang núi Oliu.

Vì công việc bác ái của Greeley, một nhà văn đã gọi bà là “Hội Thánh Vinh sơn Phaolô một thành viên”; thánh Vinh sơn đã lập dòng các Nữ tử bác ái, và Greeley được ví như một người con của bác ái. Trong Năm Thánh Lòng thương xót, Julia Greeley được chọn làm mẫu gương của lòng thương xót cho địa phương. Ông David Uebbing, chưởng ấn của tổng Giáo phận Denver nhận xét: “Julia Greeley nổi bật bởi vì cô quá phi thường. Dù chỉ nhận được 10 đến 12 đô la mỗi tháng bằng việc nấu nướng và dọn dẹp nhà cửa, cô thường dùng nó để giúp những người nghèo khác. Điều đó thể hiện rất nhiều về lòng từ thiện của Greeley. Thêm vào đó, Greeley còn có lòng sùng kính sâu đậm với Thánh Tâm Chúa Giêsu, thể hiện qua việc mỗi tháng bà đi bộ đến 20 trạm cứu hỏa khác nhau của thành phố để phân phát phù hiệu, hình ảnh, các tài liệu về Thánh Tâm cho các lính cứu hỏa, cả Công giáo và không Công giáo. Điếu đó làm cho các công việc của lòng thương xót mà bà đã làm, cụ thể và thiêng liêng, là điều được mời gọi đặc biệt trong Năm thánh này, thật sống động.” Tờ Denver Post đã viết về di sản của Julia Greeley bao gồm “80 năm của một cuộc sống đáng giá… dấn thấn vô vị lơi… và thói quen cho đi và chia sẻ chính mình và những tài sản của mình”. (CNA 07/09/2016)

Hồng Thủy

 

Cha Christian Sieland ở Papua New Guinea vượt rừng sâu núi cao đến với giáo dân

Cha Christian Sieland ở Papua New Guinea vượt rừng sâu núi cao đến với giáo dân

Một Giám mục Papua New Guinea cử hành lễ ngoài trời

Trong khu rừng sâu thẳm vùng Melanesia, có một Linh mục Công giáo gốc Papua New Guinea trèo đèo lội suối, đi bộ hàng dặm trong rừng rậm để đến với đàn chiên sống ở những khu vực xa xăm hẻo lánh và để chăm sóc các giáo xứ nghèo khổ nhất vào các cuối tuần. Đó là cha Christian Sieland, thuộc Giáo phận Kundiawa, nước Papua New Guinea, một đất nước thuộc châu Đại dương, có 5 triệu dân. Để đến với giáo dân của mình, cha Sieland đã phải trèo qua những vùng đồi núi dốc đá đầy nguy hiểm.

Cha chia sẻ: Những người dân này sống ở một nơi có địa hình khó khăn và hiểm trở. Thiên Chúa đã đặt họ ở đó. Đó là nhà của họ. Tất cả các vật liệu được sử dụng để xây dựng nhà thờ đã được ông bà của họ vác trên vai di chuyển đến. Họ tự hào có sự hiện diện của Giáo Hội trong khu vực của họ. Nhiều người chỉ có một vài bộ quần áo hoặc chỉ có đủ tiền để sống hết tuần. Họ có thể nghèo, nhưng họ nhận biết tất cả các ơn lành Thiên Chúa ban cho họ. Họ không chết đói vì Thiên Chúa đã ban cho họ một mảnh đất màu mỡ, nơi hầu như có thể trồng tất cả mọi thứ. Họ không khát vì Thiên Chúa ban cho họ những dòng suối từ núi, sạch trong và tươi mát, ngay cạnh bên để có thể lấy nước từ đó… Khi bạn nhìn thấy đức tin đơn sơ nhưng đâm rễ sâu của họ và so sánh với đức tin của bạn được tô điểm với những bằng cấp, chứng chỉ, bạn sẽ quý trọng đức tin đơn sơ của ‘những người bé nhỏ’ này hơn”.

Cha Sieland khen ngợi lòng hiếu khách của những tín hữu Công giáo này. Cha kể lại: “Khi tôi, cha sở của họ, đến nhà thăm họ hoặc là ngủ trọ qua đêm, họ dọn cho tôi một đĩa đầy thức ăn, họ cho tôi ngủ trên giường tiện nghi nhất của họ và có mùng che muỗi. Sự chăm sóc và kính trọng họ dành cho một Linh mục làm tôi nhiều lần cảm động và ngay cả bối rối. Nhưng làm sao chúng ta có thể từ chối những cử chỉ hiếu khách từ những người có đức tin đơn giản như thế? Họ không có gì nhiều để ban tặng cho ta, nhưng những thứ nhỏ nhặt họ mang cho chúng ta là những thứ xuất phát từ sâu thẳm trong trái tim họ”.

Số tín hữu Công giáo của Giáo phận chiếm khoảng 30% trong tổng số 375 ngàn cư dân trong vùng. Giáo phận bao gồm vùng núi Wilhelm, là ngọn núi cáo nhất của Papua New Guinea với độ cao khoảng 4500 m. Vài vùng đất ở những khu vực vô cùng xa xôi đến nỗi người dân chưa bao giờ nhìn thấy một chiếc xe hơi.

Tại sao cha Sieland lại dấn thân phục vụ ở vùng đất xa xôi hiểm trở này? Cha suy tư về sứ vụ của mình như sau: “Động lực của tôi thật là đơn giản. Nếu tôi, một Linh mục được thụ phong, không đến với những người dân này, vậy thì ai sẽ đi? Không phải là tôi đã được thụ phong cho mục đích này sao, cụ thể là mang các bí tích đến cho người dân và nuôi dưỡng họ với thức ăn tinh thần, ví dụ như Lời Chúa, Thánh Thể? Không có Linh mục nghĩa là không có Thánh thể, không có xưng tội không có bí tích nào cả. Nếu tôi không đi, nghĩa là tôi đã cướp của họ quyền được lãnh nhận lương thực thiêng liêng mà Thiên Chúa đã ban. Tôi sẽ biện minh cho mình trước nhan Thiên Chúa về việc không “nuôi các con chiên của Người” như thế nào? Ngay cả khi chỉ có 10 người già cần được thăm viếng, tôi vẫn băng núi vượt sông để đến với họ”.

Cha cho biết là đã hơn 40 năm, kể từ khi độc lập vào năm 1975, chính quyền Papua New Guinea không đến thăm vùng này. Nhưng “Giáo hội đã ở đây từ khi những thừa sai đầu tiên của dòng Ngôi Lời bắt đầu rao giảng Tin Mừng cho dân chúng vào những năm đầu thập niên 1930 và 1940”. Số thừa sai châu Âu đang sút giảm đáng kể. Ngay cả với sự giúp đỡ của các thừa sai đến từ Uc, Ba lan, Ấn độ và Indonesia, hàng giáo sĩ địa phương vẫn không thể chăm sóc các vùng đất mà các người đi trước đã khai phá. 

Các giá trị truyền thống và phương Tây hiện đại đang đụng độ nhau và thế hệ trẻ có vẻ hơi bị lạc lối hay bối rối. Cha Sieland lo lắng là các giá trị truyền thống tốt đẹp tương tự với những giá trị Tin mừng đang biến mất dần và trong vòng 20 năm nữa nó sẽ mất hoàn toàn. Cha nói: “Một trong những thử thách lớn nhất đó là đánh mất các giá trị Tin mừng như trung thực, minh bạch, tôn trọng, yêu thương, dấn thân và cống hiến trong đời sống gia đình, hôn nhân, trong giáo xứ, nơi trường học cũng như ngoài trường học… Còn có những vấn đề xuất phát từ nền văn hóa Melanesi với quan hệ đa thê, sự xung đột giữa Kitô giáo và niềm tin truyền thống về ma thuật với những thực hành bạo lực và giết người. Giáo hội địa phương cố gắng hết sức để đối lai niềm tin này bằng cách giáo dục dân chúng và tiêu diệt sự mê tín, nhưng điều này không xảy ra trong một sớm một chiều nhưng cần có thời gian. (CNA 09/08/2016)

Hồng Thủy

Đức Thánh Cha tiếp thân nhân các nạn nhân vụ khủng bố ở Nice

Đức Thánh Cha tiếp thân nhân các nạn nhân vụ khủng bố ở Nice

Đức Thánh Cha tiếp thân nhân các nạn nhân vụ khủng bố ở Nice

VATICAN. Sáng ngày 24-9-2016, ĐTC đã tiếp kiến 1 ngàn thân nhân của các nạn nhân vụ khủng bố mù quáng tại thành phố Nice bên Pháp tối ngày lễ Quốc Khánh 14-7 năm nay.

Một kẻ khủng bố đã lái xe vận tải đâm vào hàng ngàn người tham dự buổi bắn pháo hoa ở bờ biển, làm cho 84 người chết và hàng trăm người bị thương.

Lên tiếng tại buổi tiếp kiến, ĐTC xúc động chia buồn với các thân nhân và nói rằng ”nỗi đau buồn này càng sâu đậm khi tôi nghĩ đến các trẻ em, thậm chí có toàn bộ một số gia đình bị tước bỏ sự sống bất thình lình và thê thảm như vậy”.

Ngài cũng nhắc nhở rằng ”Đối với các tín hữu Kitô chúng ta, nền tảng hy vọng chính là Chúa Giêsu đã chịu chết và sống lại… Ước gì niềm xác tín về sự sống đời đời, – một điều cũng có nơi các tín hữu thuộc các tôn giáo khác-, là niềm an ủi cho anh chị em trong cuộc sống, và là động lực mạnh mẽ để anh chị em kiên trì can đảm tiếp tục hành trình của anh chị em tại thế này”.

ĐTC không quên cầu nguyện cho tất cả những người bị thương, trong một số trường hợp có những người bị cưa cắt, trong thể xác và tinh thần. Ngài cũng ca ngợi tinh thần liên đới mà thảm trạng ở Nice khơi lên, đồng thời cám ơn tất cả những người đã cứu giúp các nạn nhân, đặc biệt là hiệp hội Huynh Đệ miền Alpes-Maritimes, bao gồm các tôn giáo khác nhau, trong đó có nhiều tổ chức bác ái Công Giáo.

ĐTC khẳng định rằng ”thiết lập một cuộc đối thoại chân thành và những quan hệ huynh đệ giữa mọi người, đặc biệt là những người cùng tuyên xưng một Thiên Chúa duy nhất và từ bi, là một điều ưu tiên cấp thiết mà các vị lãnh đạo chính trị và tôn giáo, cần tìm cách cổ võ và mỗi người được kêu gọi thực hiện chung quanh mình. Khi cám dỗ co cụm vào mình, hoặc cám dỗ dùng oán thù và bạo lực để đáp trả bạo lực, lên tới mức độ mạnh mẽ, thì sự hoán cải nội tâm chân thành là điều cần thiết. Đó là sứ điệp Tin Mừng được gửi đến tất cả chúng ta” (SD 24-9-2016)

 G. Trần Đức Anh OP

Bạn nên nói gì với một người vô gia cư?

Bạn nên nói gì với một người vô gia cư?

Một người vô gia cư

Một cảnh tượng thường thấy ở ngã tư đường của các thành phố là một người vô gia cư với tấm bảng: “Không nhà, nghèo đói. Xin giúp đỡ. Bất cứ giúp đỡ nào.” Nhiều người dừng đèn đỏ rồi vội vàng đi qua , phớt lờ những người này. Chúng ta nên làm gì trước khi đèn xanh bật lên?

Hội truyền giáo thành thị “Chúa Kitô trong thành phố” có trụ sở tại Denver đưa ra những lời khuyên.

Đầu tiên là hỏi tên người đó. Nhóm này nói: “Một trong những người bạn đường phố của chúng tôi nói cho chúng tôi biết, đã 4 tháng anh không nghe ai gọi tên của mình”. Hãy hỏi tên họ và nhớ và chào họ nếu gặp lại họ. Bạn sẽ ngạc nhiên khi thấy gương mặt họ sáng lên vì bạn nhớ họ. Hội “Chúa Kitô trong thành phố” nói: “Yêu thương là biết và được biết. Vì vậy, người vô gia cư trở nên bị xa lạ và bị phân tách, không chỉ khỏi xã hội nhưng còn khỏi kinh nghiệm của chính tình yêu.”

Một cách thế nữa để tạo nên liên lạc cá nhân là: “bước tới và bắt tay họ.” Cử chỉ đơn giản này phá bỏ rào ngăn cách và bày tỏ là bạn nhìn nhận phẩm giá của họ.

Mỗi năm, một nhóm mới của các thừa sai “Chúa Kitô trong thành phố” tập họp ở Denver với nỗ lực như đi đến với người vô gia cư. Khoảng 25 thừa sai trẻ tình nguyện 2 năm, được huấn luyện tinh thần và học vấn trong thời gian họ phục vụ. Mỗi thừa sai gặp gỡ khoảng 500 người vô gia cư.

Nhóm khuyên mọi người tặng những đồ vật thực tế như vớ, nước, găng tay, vv. thay vì tiền bạc.  Những ai cho thức ăn nên nhớ những người vô gia cư thường có vấn đề về răng nên không thể nhai những đồ cứng. Nhóm chia sẻ: “Cho tiền là một quyết định cá nhân cần phải phân định. Các thẻ quà tặng có thể là một chọn lựa tốt thay thế cho tiền mặt. Các đồ vật bày tỏ ra sự quan tâm cá nhân của người cho thì thường giúp chú trọng đến tình bạn hơn.

Lời khuyên cuối cùng của nhóm là “hứa cầu nguyện cho họ và thi hành nó”. Nhóm “Chúa Kitô trong thành phố” nói: “Chúng tôi cố gắng là một Chúa Kitô khác với các bạn đường phố của chúng tôi, nhưng chúng tôi chấp nhận là chúng tôi chỉ có thể làm rất nhiều. Phần còn lại chúng tôi để cho Thiên Chúa trong lời cầu nguyện. Người yêu thương các bạn của chúng tôi hơn chúng tôi từng có thể.” (CNA 23/09/2016)

Hồng Thủy

(Thi Thuy le)

Đức Thánh Cha kêu gọi ký giả tôn trọng sự thật

Đức Thánh Cha kêu gọi ký giả tôn trọng sự thật

Đức Thánh Cha kêu gọi ký giả tôn trọng sự thật và phẩm giá con người

VATICAN. ĐTC Phanxicô kêu gọi các ký giả tôn trọng sự thật, phẩm giá con người và góp phần làm tăng trưởng chiều kích xã hội của con người.

 Ngài đưa ra lời kêu gọi trên đây trong buổi tiếp kiến sáng thứ năm, 22-9-2016, dành cho 200 người thuộc Hội đồng toàn quốc ký giả đoàn của Italia.

 Lên tiếng trong dịp này, sau khi đề cao tầm quan trọng của các ký giả trong xã hội, với những khó khăn và đòi hỏi của nghề nghiệp, ĐTC mời gọi họ hãy dừng lại để suy nghĩ về điều mình đang làm và cách thức mình làm. Cụ thể, ngài kêu gọi các ký giả suy tư về 3 yếu tố, đó là yêu mến sự thật, sống với tinh thần nghề nghiệp, và tôn trọng phẩm giá con người.

 – Yêu mến sự thật không phải chỉ có nghĩa là khẳng định, nhưng còn sống sự thật và làm chứng về sự thật trong công việc của mình. Vấn đề ở đây không phải là tín hữu hay không phải tín hữu, nhưng là mình có thành thật, lương thiện với bản thân và tha nhân hay không. Tương quan là trọng tâm của mọi việc truyền thông.. và không tương quan nào có thể đứng vững lâu dài nếu nó dựa trên sự thiếu lương thiện.

 Tiếp đến là sống với tinh thần nghề nghiệp. Điều này đòi người ký giả không đặt nghề nghiệp của mình để phục vụ cho những lợi lộc phe phái, dù đó là lợi lộc kinh tế hoặc chính trị. Nghĩa vụ của ngành ký giả, hay đúng hơn là ơn gọi của ký giả, là qua sự tìm kiếm sự thật, làm gia tăng chiều kích xã hội của con người, tạo điều kiện cho sự sống chung đích thực trong xã hội.

 Sau cùng là sự tôn trọng phẩm giá con người, đây là điều quan trọng trong mọi nghề nghiệp, đặc biệt là trong nghề báo chí, vì đàng sau những tường thuật một biến cố có những tìm cảm, cảm xúc, và xét cho cùng là chính cuộc sống của con người.

 ĐTC nói: ”Tôi thường phê bình tật nói hành nói xấu như một thứ khủng bố, người ta có thể giết người bằng miệng lưỡi. Nếu điều này có giá trị đối với mỗi cá nhân, trong gia đình hay tại nơi làm việc, thì nó càng được áp dụng cho các ký giả, vì tiếng nói của họ có thể đi tới mọi người, và đây là một khí giới rất mạnh mẽ. Nghề ký giả phải luôn luôn tôn trọng phẩm giá con người. Một bài báo đăng ngày hôm nay, và ngày mai sẽ được thay bằng một bài khác, nhưng sự sống con người bị vu khống bất công, sẽ bị hủy hoại mãi mãi. Dĩ nhiên sự phê bình là điều hợp pháp, như sự tố giác, phê bình sự ác, nhưng điều này luôn phải được thi hành trong sự tôn trọng người khác, cuộc sống và tình cảm của họ. Nghề ký giả không thể trở thành một khí giới tàn phá con người và thậm chí cả các dân tộc.

 Và ĐTC cầu chúc cho ngành ký giả ngày càng trở thành một dụng cụ xây dựng, một nhân tố phục vụ công ích và một động cơ đẩy mạnh tiến trình hòa giải, biết chống lại cám dỗ xách động đụng độ, chia rẽ (SD 22-9-2016)

 G. Trần Đức Anh OP

Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ

Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ

Thánh lễ tại nhà nguyện Marta, 22.09.2016

Có sự lo lắng đến từ Chúa Thánh Thần và có sự lo lắng đến từ cái tâm gian ác. Khi có tâm gian ác thì bên ngoài là cái hư danh ảo vọng và bên trong là tâm hồn trống rỗng. Đức Thánh Cha chia sẻ như thế trong thánh lễ sáng nay tại nhà nguyện thánh Marta.

Hai loại lo lắng

Bài Tin Mừng hôm nay kể về việc vua Herode lo lắng, sau khi đã giết Gioan Tẩy Giả. Bây giờ Herode lại bất an khi nghe tin về Chúa Giêsu. Herode làm chúng ta nhớ tới cái bất an của vua Herode Cả. Sau cuộc thăm viếng của Ba Vua từ Phương Đông, Herode Cả đứng ngồi không yên vì nghe tin có vị Tân Vương mới sinh tại Bêlem. Trong linh hồn, có hai loại lo lắng: loại lo lắng tốt đến từ Chúa Thánh Thần để thúc đẩy người ta làm việc thiện, còn loại lo lắng xấu phát sinh từ cái tâm gian ác. Herode Cả đã giải quyết nỗi lo của mình bằng cách giết hại hàng loạt trẻ em.

Những kẻ gây ra tội ác và nuôi dưỡng ác tâm thì không thể sống trong bình an, mà sẽ ngứa ngáy liên tục, và những vết ngứa ấy cứ tiếp tục lan ra… Bởi vì họ đã gây ra điều ác, và tất cả những điều ác thì đều có chung gốc rễ: tham lam, hư danh, kiêu ngạo. Ba cái này là gốc rễ của mọi tội lỗi, và chúng không để cho tâm hồn chúng ta được bình an.

Hư danh, tâm hồn trống rỗng

Bài đọc thứ nhất trích từ sách Giảng Viên nói về sự hư danh, ảo vọng, phù vân. Những điều phù phiếm lấp đầy chúng ta. Ảo tưởng về cuộc sống trường thọ, ảo vọng chỉ như bong bóng xà phòng. Cái phù vân không đem lại cho chúng ta ích lợi chân thực. Ích lợi gì cho người làm lụng vất vả và đầy lo lắng? Nếu đó chỉ là những lo lắng về vẻ bề ngoài, trông như thế này, nhìn như thế kia. Lo lắng như thế là phù vân. Nói đơn giản: cái hư danh chỉ tô vẽ cuộc sống. Những tâm hồn đau bệnh như thế, chỉ lo tô vẽ cái vẻ bề ngoài. Cái hư danh, cái phù vân giống như một tâm hồn trống rỗng. Nhìn bên ngoài thì tốt, mà bên trong thì hư hỏng. Cái phù vân làm cho chúng ta sống giả tạo.

Nhìn một phần tưởng là thế, mà sự thật toàn phần thì không phải thế  

Bằng cách nào mà những kẻ lừa đảo lại chiến thắng? Đúng là họ chiến thắng, nhưng cái chiến thắng này là “giả”, là không thật. Chiến thắng này là hư ảo, vì là sống giả vờ, vì là sống cỏ vẻ như, vì là sống vẻ bề ngoài. Đức Thánh Cha nhắc lại lời nói mạnh mẽ của thánh Benado: “Bạn cứ thử nghĩ mà xem bạn là gì chứ? Bạn sẽ là thức ăn cho giun dế. Tất cả những thứ tô vẽ này đều là giả trá, bởi vì rồi đây giun dế sẽ ăn hết, bạn sẽ chẳng là gì.” Tuy nhiên, sức mạnh của hư danh đến từ đâu? Nó đến từ sự tự đắc gian manh, “nó không cho bạn nhìn thấy những sai lỗi, nó che phủ mọi thứ, mọi thứ bị che đậy”.

Bao nhiêu người trông có vẻ như… rất là tốt! Mỗi Chúa nhật họ đều đi Lễ. Họ giữ những chức vụ lớn trong Giáo hội. Đó là những gì anh chị em thấy, còn bên trong thì toàn là tham nhũng. Có những người như thế, nhưng cũng có nhiều người thực sự đạo đức thánh thiện. Cái phù vân thường chỉ cho người ta nhìn thấy một phần, còn tất cả sự thật lại hoàn toàn khác. Vậy đâu là chốn an toàn để chúng ta nương náu? Chúng ta đọc thấy trong Thánh Vịnh: “Lạy Thiên Chúa, trải qua bao thế hệ, Ngài là nơi chúng con náu ẩn.” Chúng ta nhớ lại lời của Chúa Giêsu: “Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống.” Lạy chúa, xin cứu chúng con khỏi ba gốc rễ của mọi sự dữ: tham lam, hư danh, kiêu ngạo. Và trên hết, xin cứu chúng con khỏi hư danh, vì nó đã gây ra quá nhiều nỗi đau.

Tứ Quyết SJ

Thiên Chúa là chuyên viên tạo những “cơ hội thứ hai”

Thiên Chúa là chuyên viên tạo những "cơ hội thứ hai"

Thiên Chúa giàu lòng xót thương

Ngày 9 tháng 9 vừa qua (2016), Judy Hehr, một bà mẹ người Mỹ 4 con, đã được mời trình bày kinh nghiệm cá nhân về lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa trong Hội nghị lần thứ 96 của Hội đồng quốc gia Hoa kỳ về phụ nữ Công giáo. Cuộc nói chuyện của Judy kết nối với chủ đề hội nghị của Hội đồng quốc gia Hoa kỳ về phụ nữ Công giáo: ‘Phụ nữ Công giáo – Khí cụ của Lòng thương xót”, đề tài bắt nguồn từ Năm Thánh Lòng thương xót do Đức Giáo hoàng Phanxicô khởi xướng.

Judy Hehr cho biết: ngay khi còn là một bé gái, Judy đã bị lạm dụng tình dục bởi những người mà cô có thể tin tưởng. Rồi khi cô lên trung học, mẹ cô đã đột ngột qua đời sau một cơn đau tim. Việc mất đi người mình thương yêu cậy dựa đã đẩy Judy vào nghiện ngập ma túy và rượu chè, trong khi cô cũng bị chứng rối loạn tiêu hóa dày vò; cô đã phá bỏ mọi giới răn và đã tự tử nhưng không thành công. Nhưng giờ đây cô muốn các thính giả biết rằng Thiên Chúa là chuyên viên trong việc tạo cho chúng ta một cơ hội thứ hai, để giúp chúng ta thay đổi cuộc sống, tìm lại bình an và ý nghĩa của cuộc sống.

Trong buổi nói chuyện đầy cảm xúc này, Judy chia sẻ: “Thiên Chúa đã cho tôi một trái tim mới và người đã biến đống hỗn loạn của cuộc đời tôi thành một sứ điệp. Tôi đã có tôn giáo…. đã có những luật lệ….hàng tấn điều luật. Nhưng tôi đã không có mối liên hệ với Chúa Giêsu”. Dù sinh ra trong một gia đình Công giáo, tham dự Thánh lễ các ngày Chúa nhật và các ngày lễ trọng, nhưng Judy vẫn cảm thấy thiếu một điều gì đó trong cuộc sống của mình. Cô thú nhận là việc bị lạm dụng từ bé bởi những người mà cô có thể tin tưởng đã để lại một vết thương trong lòng cô. Cô đánh mất sự tin tưởng và khó khăn để cảm thấy sự hiện diện của Thiên Chúa. Càng lớn lên cô càng khao khát được biết và biết, khao khát yêu và được yêu. Sau khi mẹ cô, người thật sự hiểu và yêu thương cô, qua đời, cô và năm chị em gái khác đã bỏ Giáo hội.

Khi cô đang quay cuồng bởi sự mất mát khủng khiếp sau cái chết của người mẹ yêu quý, Hehr thấy mình rơi vào trong tình trạng ngày càng nguy hiểm, như bị cuốn vào một "hố sâu" mà dường như không thể thoát ra được. Cô giải thích: “Tôi không hiểu rằng phẩm giá là một điều mà Thiên Chúa đã ban cho tôi và không ai có thể cướp nó khỏi tôi. Khi mẹ tôi qua đời, không có ai nói với tôi ‘cô gái ơi! Thiên Chúa làm mọi điều tốt lành cho những ai yêu mến Người’”.

Sau những năm tự khóc thương mình cũng như tự kết án mình đã khiến Hehr trở nên giam cầm chính mình, không tiếp xúc với ai. Nhưng sau nhiều năm, sau những trị liệu thành công của các chứng nghiện ma túy và rượu chè, sau khi cô dần dần thức tỉnh với tình trạng bi đát của mình và canh tân đức tin của mình, Hehr cho biết, cô đã nhận ra rằng Thiên Chúa có một kế hoạch cho tất cả cuộc sống của cô. Ngay cả mối quan hệ lạnh lùng cứng cỏi của cô với chồng đã được biến đổi nhờ đức tin, thông qua các chương trình Catholic Retrouvaille, một chương trình dành cho các cuộc hôn nhân đang gặp vấn đề khó khăn. Cô nói: “Bây giờ tôi có thể nhìn lại quá khứ và thấy bàn tay của Thiên Chúa trong mỗi biến cố của cuộc đời tôi. Tôi nhận ra những khó khăn của tôi chính là những quà tặng lớn nhất Người ban cho tôi”. Đức tin của Judy cũng sinh hoa trái với nhận biết mới là chính Đức Mẹ Maria đã dẫn mình đến với Chúa Giêsu và cô đã khám phá ra sứ điệp và lòng sùng kính Lòng thương xót Chúa.

Hiện nay Judy Hehr đi diễn thuyết khắp Hoa kỳ. Bà Hehr đã nhìn nhận là các thành viên của Hội đồng quốc gia Hoa kỳ về Phụ nữ Công giáo đang thay đổi thế giới, từng người từng lúc: “Các bạn cống hiến không giới hạn … các bạn cho đi không tính toán. Hãy tiếp tục làm những điều các bạn đang làm”. Năm 1960, tổ chức này đã mời Mẹ Têrêsa, khi ấy còn là một nữ tu chưa được nhiều người biết đến, đến thuyết trình tại Hội nghị tổ chức ở Las Vegas. Sứ điệp của Mẹ có một hiệu quả mạnh mẽ đến nỗi sau buổi nói chuyện của Mẹ, các quà tặng bắt đầu được gửi đến cho sứ vụ của Mẹ ở Ân độ. Đối với bà Jane Schiszik, một thành viên lâu dài của tổ chức, bà đến đây vì những điều tốt đẹp này. Những kinh nghiệm được chia sẻ tại hội nghị  này có thể làm thay đổi cuộc sống. (CNS 07/09/2016)

Hồng  Thủy