Công bố sứ điệp Đức Thánh Cha nhân Ngày Hòa Bình thế giới

Công bố sứ điệp Đức Thánh Cha nhân Ngày Hòa Bình thế giới

cong-bo-su-diep-duc-thanh-cha-nhan-ngay-hoa-binh-the-gioi

VATICAN. Hôm 12-12-2016, Sứ điệp của ĐTC nhân ngày Hòa Bình thế giới 1-1 năm 2017 đã được công bố với đề tài: ”Bất bạo động: một kiểu chính sách hòa bình”.

Đây là Sứ điệp hòa bình thế giới thứ 50 của các vị Giáo Hoàng. Văn kiện này được chia làm 7 đoạn lần lượt nói đến một thế giới bị phân hóa và phải chịu nạn bạo lực ”từng mảnh” bằng nhiều cách ở nhiều cấp độ khác nhau, gây ra những đau khổ lớn lao như chúng ta đang chứng kiến: chiến tranh tai nhiều quốc gia và đại lục, nạn khủng bố, tội phạm, những cuộc tấn công võ trang không lường trước được.. (2)

ĐTC xác quyết bạo lực không phải là cách săn sóc thế giới chúng ta bị tan vỡ thành mảnh. Dùng bạo lực để đáp trả bạo lực cùng lắm chỉ dẫn tới những cuộc tản cư vì bị bó buộc và những đau khổ vô biên.

Chúa Giêsu cũng đã từng sống trong thời bạo lực. Ngài dạy chiến trường đích thực trong đó bạo lực và hòa bình đương đầu với nhau chính là tâm hồn con người (Mc 7,21).. (3).

ĐTC nhận xét rằng ”bất bạo động nhiều khi bị hiểu theo nghĩa một sự đầu hàng, không dấn thân và thụ động. Nhưng thực tế không phải như vậy. Khi Mẹ Têrêsa nhận giải Nobel Hòa Bình năm 1979, Mẹ đã tuyên bố rõ ràng sứ điệp của Mẹ là bất bạo động tích cực và nói: ”Trong gia đình chúng ta, chúng ta không cần bom đạn và võ khí, không cần tàn phá để mang lại hòa bình, nhưng cần ở với nhau, yêu thương nhau […] Và chúng ta có thể vượt thắng mọi sự ác trên thế giới”. Vì sức mạnh của võ khí có tính chất lừa đảo. ”Trong khi những kẻ buôn bán võ khí hoạt động, thì có những người nghèo kiến tạo hòa bình, chỉ với mục đích giúp đỡ một người, giúp đỡ người khác, và hiến mạng sống của họ. Đối với những người xây dựng hòa bình như thế, Mẹ Têrêsa chính là một biểu tượng, một hình ảnh của thời đại chúng ta”. (4)

ĐTC cũng xác tín rằng nếu nguồn mạch phát sinh bạo lực là tâm hồn của con người, thì điều căn bản là phải tiến bước trên con đường bất bạo động trước tiên ở trong gia đình. .. Gia đình là lò tôi luyện không thể thiếu được trong đó đôi vợ chồng, cha mẹ, con cái, anh chị em học cách đả thông và chăm sóc nhau một cách vô vị lợi, và nơi mà những sầu muộn và thậm chí những xung đột phải được vượt thắng không phải bằng võ lực, nhưng bằng đối thoại, tôn trọng, tìm kiếm thiện ích cho người khác, từ bi và tha thứ. (5)

ĐTC xác quyết: ”việc xây dựng hòa bình nhờ bất bạo động tích cực là yếu tố cần thiết và phù hợp với nỗ lực liên lỷ của Giáo Hội để giới hạn việc sử dụng võ lực, qua những qui luật luân lý, nhờ sự tham gia của Giáo Hội vào những công việc của các tổ chức quốc tế và nhờ sự đóng góp giá trị của các tín hữu Kitô vào việc ban hành các luật lệ ở mọi cấp độ. Chúa Giêsu đã trao tặng cho chúng ta một cuốn chỉ nam trong kế hoạch kiến tạo hòa bình trong Bài Giảng Trên Núi. 8 mối phúc thật (Xc Mt 5,3-10) phác họa mẫu mực của người mà chúng ta có thể định nghĩa là người có phục, người tốt lành và chân chính. Chúa Giêsu nói: ”Phúc cho những người hiền lành, người có lòng thương xót, người xây dựng hòa bình, người có tâm hồn thanh thiết, những người đói khát sự công chính” (6).

”Đây cũng là một chương trình và là một thách đố cho các nhà lãnh đạo chính trị và tôn giáo, các vị trách nhiệm các tổ chức quốc tế và những người điều khiển xí nghiệp, các phương tiện truyền thông trên toàn thế giới: đó là áp dụng các Mối Phúc Thật qua đó họ thực thi trách nhiệm của mình. (SD 12-12-2016)

G. Trần Đức Anh OP 

 

Daniel Maria Piras, từ thanh niên nghiện ngập trở thành tu sĩ Phanxicô

Daniel Maria Piras, từ thanh niên nghiện ngập trở thành tu sĩ Phanxicô

cac-tu-si-dong-phanxico

Daniel Maria Piras là một thầy dòng Phanxicô trẻ thuộc tỉnh dòng Umbria, nước Ý. Ơn gọi tu trì của thầy Daniel là câu chuyện được đánh dấu bởi đau khổ, đức tin và quyền năng của Thiên Chúa. Nó là câu chuyện của Tin Mừng: Chúa Kitô, niềm hy vọng của chúng ta, đã sống lại. Người yêu tôi và trao ban chính Người cho tôi. Thầy Marie kể lại cuộc đời mình:

“Ngày từ khi tôi còn là một đứa bé, vì những khó khăn về tài chính, gia đình tôi đã có những khó khăn trong các mối liên hệ giữa các thành viên trong gia đình, đặc biệt là giữa cha mẹ của tôi. Khi học xong trung học đệ nhất cấp, tôi bắt đầu làm việc cùng với cha ở công ty xây dựng của ông. Đồng thời, để chạy trốn khỏi những vấn đề phức tạp của gia đình mình, tôi bắt đầu làm bạn với những người xấu: để theo kịp họ, tôi bắt đầu uống rượu, dùng ma túy. Tôi cũng dùng ma túy để quên đi nỗi đau trong trái tim mình.

Năm lên 16, tôi đã bị nghiện ngập. 7 năm trời, tôi không thể thoát ra được sự đeo đẳng của ma túy. Biết mình đang phạm một lỗi lầm, nhưng tôi đã rơi vào cái vòng tội lỗi và không thể thoát ra. Tôi quá thiếu ý chí và ngay cả nếu muốn thoát ra khỏi nó, tôi nhận ra là đã quá trễ và thiếu kiên quyết. Tôi đã nói chuyện với các nhà tâm lý và cố dùng thuốc để cai nghiện, nhưng kết quả không được bao nhiêu.

Lúc đầu tôi cố dấu những khó khăn của mình, nhưng rồi tình trạng tồi tệ hơn và cha mẹ tôi cũng biết được những gì đang xảy ra với tôi. Mẹ của tôi đã khuyến khích tôi. Bà ở bên cạnh và vẫn yêu thương tôi như lúc trước. Trước đây mẹ của tôi cũng đã rời bỏ nhà thờ, nhưng trong những năm gần đây, vì mối quan hệ đau khổ với cha tôi, bà đã quay lại nhà thờ và đón nhận thánh giá của bà… Sau khi bị mất việc, cha tôi rơi vào tình cảnh rất khó khăn. Mẹ tôi tìm được sự an ủi và được một nhóm bạn cầu nguyện kinh Mân côi chia sẻ nỗi đau. Vì vậy Đức Maria đã dẫn bà trở lại với con trai của bà: bà tìm được trong cầu nguyện, trong Lời Chúa và trong các bí tích sức mạnh chịu đựng nỗi đau. Bà đã quyết định ở bên cạnh chồng và yêu thương ông dù cho mọi chuyện đã xảy ra. Bà đã ôm lấy thánh giá mà Chúa muốn bà vác. Điều này đã cho phép Chúa mang ơn cứu độ của Người đến cho gia đình chúng tôi và làm cho mọi sự trở nên mới mẻ. 

Tình yêu của mẹ tôi đã thay đổi cha tôi và cuộc sống của bà cũng hướng người em gái của tôi vào hành trình đức tin, đó là nữ tu Chiara the Redeemed. Sau khi cảm nghiệm được tình yêu của Chúa Kitô, một ngày kia khi đến thăm đan viện của các nữ tu Clara, em gái tôi đã nghe tiếng Chúa Giêsu mời gọi đi theo Người trong ơn gọi đặc biệt này. Tháng 10 năm 2005, Chiara đã gia nhập đan viện. Vào lúc đó, tôi đang trải qua kinh nghiệm về sự chết, nhưng chứng từ của mẹ và em gái tôi đã dẫn tôi trở về với chính mình và cầu xin cứu giúp. Tôi bắt đầu gọi tên Chúa Giêsu!

Một điều không thể tưởng tượng đã xảy ra… Từ 25-26 tháng 11 năm 2006 có một Hội nghị về Canh tân trong Thánh Linh được tổ chức tại Sardinia. Mẹ tôi rủ tôi cùng đi và tôi đã đi với bà. Tôi hy vọng Chúa sẽ giúp tôi thoát khỏi tình cảnh của mình, nhưng tôi rất yếu đuối. Câu 14 của Thánh vịnh 107: “Người đưa họ ra khỏi cảnh tối tăm mù mịt và đập tan xiềng xích gông cùm” được suy tư trong Hội nghị. Tôi bị đánh động bởi bài giáo lý do một Linh mục dòng Phanxicô giảng. Cứ giống như là tôi đã kể cho cha nghe cuộc đời tôi… cha đang kể lại những kinh nghiệm của tôi… Cha giải thích, cách thức mà sự dữ đã dùng những quyến rũ của thế gian để làm cho người ta tưởng chúng là hạnh phúc thật, để rồi tìm cách tiêu diệt thân xác của chúng ta – đền thờ của Chúa Thánh Thần, nơi cư ngụ của Thiên Chúa, nơi chúng ta có thể cảm nghiệm được Thiên Chúa.

Trong giờ cầu nguyện chúng tôi xin Chúa Giêsu giải thoát con người khỏi sự dữ. Ngay bên cạnh tôi có một phụ nữ khoảng 50 tuổi, bà bắt đầu kêu la như một đứa trẻ mới sinh, rồi bà bắt đầu nói với một giọng rất ghê mà không thể hiều được. Dường như Chúa đang nói với tôi:” Ta bảo con rằng sự dữ là một sự thật trong cuộc sống … bây giờ con thấy nó hiện diện chưa?” Tôi đã quyết định đi gặp Linh mục điều hành cuộc họp và khiêm tốn, vì tôi luôn kiêu ngạo cho là mình có thể tự giải quyết mọi việc. Tôi xin cha cầu nguyện và kể với cha: “Con là một người nghiện ngập và đã rơi xuống tận đáy vực, con không biết làm sao để thoát ra. Xin cầu cùng Chúa Giêsu cho con.” Cha đã mời tôi cầu xin Chúa Giêsu, rồi chúc lành cho tôi và tôi trở về chỗ của mình.

Sau đó một Linh mục rước kiệu Mình Thánh. Chúa Giêsu đã đi ngang qua tôi … tôi cảm thấy trong tôi một ước muốn đi đến chạm vào Người. Tôi đã đứng lên và chạm vào Người và trở lại chỗ của mình. Sau đó vị Linh mục cầu xin Chúa Thánh Thần và yêu cầu đọc Lời chúa, đó là câu từ sách ngôn sứ Daniel: “Bởi Người là vị Thần hằng sống và tồn tại muôn đời; vương quốc của Người sẽ chẳng hề suy vong, quyền thống trị của Người vô cùng vô tận. Người giải thoát, gìn giữ, Người làm dấu lạ và điềm thiêng, trên trời cùng dưới đất. Người đã cứu Ðaniel khỏi móng vuốt sư tử.” Tôi nghe những lời này đang nói với tôi, tôi đã khóc và bắt đầu cảm thấy có điều mới mẻ trong linh hồn tôi. Bây giờ nhìn lại, tôi thấy đây là hoạt động của Chúa Thánh Thần được thực hiện bời Lời sự sống. Chứng kiến những điều xảy ra, mẹ tôi đến nói với tôi: “Mẹ nghĩ Chúa đã nói với con và chữa lành cho con, bởi vì những điều Lời Chúa nói, được thực hiện.” Bà bảo tôi không dùng thuốc cai nghiện vào ngày hôm sau và tôi nghe lời bà. Những ngày sau đó tôi nhận ra là tôi không có những triệu chứng của người cai nghiện nữa, tôi đã hoàn toàn được chữa lành…

Sau khi được chữa lành, một tu sĩ mà tôi đã gặp trong ngày em gái tôi nhận tu phục đã liên lạc với tôi. Sau khi tôi kể với thầy Chúa đã can thiệp vào đời tôi như thế nào, thấy ấy mời tôi đến Assisi, đầu tiền là vào dịp đầu Năm mới cùng với rất nhiều bạn trẻ khắp nước Ý, rồi sau đó tham gia vào một khóa học ơn gọi. Chính tại khóa học này tôi đã nghe đoạn Tin mừng nói về người đàn bà bị băng huyết. Tôi cũng bị thu hút bởi cách sống, lòng nhân từ, niềm vui và sự hiểu biết được chiếu tỏa nơi các tu sĩ … như Đức Phanxicô nói qua lời của Đức Biển đức XVI: “Đời sống tu trì nên thúc đẩy sự phát triển của Giáo hội bằng sự thu hút lôi cuốn.” Vẻ đẹp này, và niềm ao ước mãnh liệt đã hướng dẫn tôi nhận ra, với sự giúp đỡ của vị linh hướng, Thiên Chía đang gọi tôi đi theo Người theo cách sống của Thánh Phanxicô Assisi và các con cái thánh nhân. Trong vòng hai năm sau đó, sau những kinh nghiệm khác mà tôi trải qua, niềm ao ước trao phó đời mình trong tay Chúa đã lớn lên và tôi gia nhập tu viện năm 2008.

Thầy Daniel muốn nhắn những người gặp khó khăn thử thách trong cuộc sống: những đau khổ trong gia đình chúng ta có giá trị giáo dục: được đón nhận trong đức tin, nó chuẩn bị con tim chúng ta tiếp nhận Mầu nhiệm. Chúng ta cần gần các người trẻ để giúp họ cảm thấy được tôn trọng và yêu thương, và chúng ta cần giải thích cho họ sự trống rỗng trong trái tim họ, ao sước hạnh phúc và viên mãn của họ, chỉ có thể được làm đầy bằng mối liên hệ với Chúa Giêsu. Chỉ có Người nói với họ: “Ta đã đến để họ được sống và sống dồi dào. Ta đến niềm vui của họ được trọn vẹn.” (Aleteia 14/11/2015)

Hồng Thủy

 

Người giáo sĩ trở nên tệ hại khi xa cách dân Chúa

Người giáo sĩ trở nên tệ hại khi xa cách dân Chúa

thanh-le-tai-nha-nguyen-marta-13-12-2016

Tinh thần “giáo sĩ trị” là điều xấu và tiếp tục có mặt trong Giáo Hội ngày nay. Và hậu quả là: dân Chúa trở thành nạn nhân, dân Chúa cảm thấy bị chối từ. Đức Thánh Cha chia sẻ như thế trong thánh lễ sáng nay tại nhà nguyện Marta. Đức Thánh Cha cũng cảnh giác các mục tử rằng, đừng trở thành những nhà trí thức tôn giáo theo kiểu rời xa Mặc khải của Thiên Chúa.

Luật lệ của các thượng tế không đến từ Thiên Chúa

Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu nói với các thượng tế và kỳ lão trong dân. Chúa tập trung vào vai trò của họ. Họ có thẩm quyền về luật pháp, về luân lý, về tôn giáo. Họ quyết định mọi sự. Anna và Caipha đã xét xử Chúa Giêsu. Các thượng tế và giới lãnh đạo quyết định giết anh Lazarô. Họ cũng thương lượng với Giuđa về giá cả để bán Chúa Giêsu. Họ cho thấy sự kiêu ngạo, độc tài của họ và hậu quả là người dân phải chịu đựng.

Họ khai thác luật lệ. Các điều luật lên tới con số 500. Họ thiết lập mọi sự, mọi thứ! Họ làm nên luật lệ một cách rất khoa học, bởi vị họ là những nhà thông thái, vì họ hiểu biết rất nhiều. Họ thực thi những điều ấy, hay là không? Có một luật mà họ không nhớ. Họ quên mất điều răn đầu tiên mà Thiên Chúa ban cho tổ phụ Abraham: “Bước đi trong sự hiện diện của Chúa và không chê trách được điều gì.” Họ không bước đi, mà luôn khẳng định ý kiến của mình. Và họ không phải là không đáng trách!

Người dân bị quên lãng

Họ quên đi Mười điều răn Chúa trao cho Môsê. Họ chỉ biết luật do họ làm ra một cách tỉ mỉ tinh tế với những nghiên cứu kỹ lưỡng. Họ hủy bỏ luật pháp của Thiên Chúa. Nạn nhân của họ chính là người dân, những người nghèo, người bé nhỏ, người tin tưởng nơi Thiên Chúa, những người bị loại trừ. Ngay cả có những người ăn năn sám hối mà chưa thực thi những điều luật, thì cũng bị đau khổ bởi những bất công.

Giuđa là kẻ phản bội. Ông phạm trọng tội! Đúng thế. Nhưng sau đó Tin Mừng nói: ông hối hận, ông trả lại những đồng bạc cho các thượng tế và kỳ mục. Còn họ, họ đã làm gì? Có thể họ nói: “Nhưng anh là bạn của chúng tôi. Đừng lo… Chúng tôi có quyền tha thứ tất cả cho anh!” Không có điều ấy! Họ nói với Giuđa: “Can gì đến chúng tôi. Mặc kệ anh!” Giuđa bị bỏ lại một mình và ông bỏ đi! Giuđa nghèo hèn khốn khổ, đã sám hối, nhưng không được các mục tử là chính các thượng tế và kỳ mục chấp nhận. Họ đã quên mất vai trò mục tử. Họ là những trí thức tôn giáo, là những người cầm quyền, là những người dạy giáo lý cho dân chúng bằng sự học thức của họ, chứ không bằng mặc khải của Thiên Chúa.

Ai được vào Nước Thiên Chúa

Ngay cả ngày nay, trong Giáo hội, vẫn còn tinh thần của một thứ “giáo sĩ trị”. Những vị giáo sĩ ấy luôn cảm thấy mình hơn người và xa lánh người dân. Các vị ấy không còn giờ để lắng nghe người nghèo, lắng nghe người đau khổ, người bị tù đày, người bệnh tật.  

Điều tệ hại của thứ gọi là “giáo sĩ trị” vẫn tồn tại và xuất hiện những phiên bản mới. Nhưng những con người phải chịu đựng điều ấy thì luôn là những người nghèo, những người bé nhỏ và những người chờ đợi ngày Chúa đến. Thiên Chúa là Cha luôn tìm mọi cách để đến với chúng ta: Ngài đã sai Con của Ngài đến. Chúng ta đang mong chờ trong niềm vui hoan hỉ. Chúa Con đến với những người đau bệnh, người nghèo khó, người bị loại trừ, những người thu thuế và kẻ tội lỗi, ngay cả những cô gái điếm. Ngày nay, Chúa Giêsu tiếp tục nói với những người đang bị quyến rũ bởi tinh thần "giáo sĩ trị", giống như Chúa đã nói với các thượng tế và kỹ lão rằng: “Quả thật, Ta bảo các ông, những người thu thuế và những cô gái điếm sẽ vào Nước Thiên Chúa trước các ông.”

Tứ Quyết SJ

Giáo Hội Lào có các vị tử đạo đầu tiên

Giáo Hội Lào có các vị tử đạo đầu tiên

cac-thua-sai-dong-hien-si-me-vo-nhiem-tu-dao-tai-lao

 

Vạn Tượng – Ngày 11/12/2016 đánh dấu một bước lịch sử của Giáo hội Công giáo tại Lào. Tại nhà thờ chánh tòa tại thủ đô Vạn Tượng đã diễn ra Thánh lễ trọng thể tôn phong chân phước cho 17 vị chân phước tử đạo, bao gồm các thừa sai người ngoại quốc và giáo dân Lào.

17 vị chân phước bị giết trong thời gian từ 1954-1970 bởi các chiến binh cộng sản Pathet Lào. 5 vị thuộc Hội Thừa sai Paris (MEP), những thừa sai đầu tiên mang Tin mừng đến Lào vào năm 1885. 6 vị thuộc dòng Hiến sĩ Đức Maria vô nhiễm, trong số đó có vị thừa sai trẻ người Ý là Mario Borzaga, bị giết vào năm 1960 khi mới 27 tuổi, cùng với Paolo Thoj Xyooj, một giáo lý viên người Lào. Trong số các vị tử đạo Lào có cha Joseph Thao Tien, Linh mục đầu tiên gốc Lào, bị giết năm 1954 cùng với 4 giáo lý viên thổ dân.

Trong buổi đọc kinh Truyền tin trưa cùng ngày 11/12, Đức Thánh Cha Phanxicô bày tỏ hy vọng rằng “sự trung thành anh dũng của các vị tử đạo với Chúa Kitô có thể là sự khích lệ và gương mẫu cho các nhà truyền giáo và đặc biệt cho các giáo lý viên, những người thực hiện hoạt động tông đồ quý giá và không thể thay thế được tại các miền đất truyền giáo mà toàn thể Giáo hội biết ơn họ.”

Thánh lễ có sự tham dự của một số Hồng Y, Giám mục, Linh mục, tu sĩ và giáo dân đến từ Lào, Campuchia, Việt nam và các nước lân cận, cũng như các thừa sai thuộc Hội Thừa sai Paris và dòng Hiến sĩ Đức Maria vô nhiễm và một số nhân vật chính quyền dân sự.

Đức Hồng Y Orlando Quevedo, người Philippines, đặc sứ của Đức Thánh Cha, đã đọc sứ điệp với phép lành Tòa Thánh của Đức Thánh Cha, trong đó ngài đề cao các vị tử đạo là những anh hùng và lịch sử của họ được loan truyền cho các thế hệ trẻ biết.

Trong bầu khí cởi mở, Đức Tổng Giám mục Paul Tschang In-Nam, sứ thần Tòa thánh tại Bangkok và đại diện tông tòa tai Myanmar và Lào đã bày tỏ lòng biết ơn với chính quyền và hy vọng trong tương lai gần, Lào có thể thắt chặt quan hệ ngoại giao với Tòa thánh.

Cộng đoàn Công giáo Lào có khoảng 60 ngàn giáo dân, chiếm 1% trên tổng số 6 triệu dân, thuộc 4 hạt đại diện tông tòa và có khoảng 20 Linh mục phục vụ.

Đức cha Louis-Marie Ling Mangkhanekhoun, đại diện tông tòa ở Paksé, nhận định “việc cử hành Thánh lễ là giây phút hiệp thông tràn đầy với Tòa Thánh và Giáo hội hoàn vũ, trong một năm thật sự đầy ân phúc.” (Agenzia Fides 12/12/2016) 

Hồng Thủy

Đọc Kinh Truyền Tin với Đức Thánh Cha, Chúa nhật 11.12.2016: Mừng vui lên!

Đọc Kinh Truyền Tin với Đức Thánh Cha, Chúa nhật 11.12.2016: Mừng vui lên!

doc-kinh-truyen-tin-voi-duc-thanh-cha-11-12-2016

Trưa Chúa Nhật III Mùa Vọng ngày 11.12.2016, Đức Thánh Cha đã ngỏ lời với hàng chục ngàn tín hữu và du khách hành hương hiện diện tại Quảng trường thánh Phêrô. Ngài mời gọi mọi người hãy vui lên trong Chúa.

Mở đầu bài huấn dụ trước khi đọc Kinh Truyền Tin, Đức Thánh Cha nói:

Cha chào tất cả anh chị em! Chúc mọi người một ngày tốt lành!

Hôm nay chúng ta cử hành lễ Chúa Nhật III mùa Vọng, được ghi dấu bằng lời mời gọi của thánh Phaolô: “Anh em hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa. Tôi nhắc lại: vui lên anh em! Chúa đã gần đến!” (Pl 4:4-5). Đây không phải là kiểu niềm vui hời hợt, cũng không phải là loại niềm vui nhất thời chỉ mang tính cảm xúc, không phải niềm vui trong việc mua bán tiêu dùng. Không. Đây là niềm vui đích thực, và chúng ta được mời gọi để tái khám phá hương vị của loại niềm vui này, thứ hương vị của niềm vui chân thực. Đó là loại niềm vui chạm đến tâm hồn sâu thẳm của chúng ta. Nơi đó, chúng ta đang đợi chờ Chúa Kitô, Đấng mang lại ơn cứu độ cho thế giới, Đấng mà Thiên Chúa sai đến, Đấng đã được Đức Trinh Nữ Maria sinh ra tại Bêlem.

Phụng vụ Lời Chúa hôm nay giúp chúng ta hiểu và nghiệm được loại niềm vui này. Ngôn sứ Isaia nói về cảnh hoang mạc khô cằn, bàn tay rời rã, đầu gối mỏi mòn, người bị mù bị điếc bị câm (Is 35:1-6a.10). Bức tranh buồn thảm này nói về một định mệnh vắng bóng Thiên Chúa.

Nhưng cuối cùng, sự cứu rỗi đã được công bố. Ngôn sứ Isaia nói: “Hãy can đảm lên, đừng sợ hãi! Kìa Thiên Chúa đến… Ngài đến để cứu độ anh em”. Từ đó, ngay lập tức, mọi sự biến đổi: hoa nở trên sa mạc, niềm vui tràn ngập tâm hồn. Những dấu chỉ mà Isaia công bố, đã trở nên hiện thực nơi Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đã trả lời cho những người được Gioan Tẩy Giả sai đến. Chúa Giêsu nói: “Hãy về thuật lại cho Gioan những gì các ông nghe và thấy: người mù được thấy, người què đi được, người phong được sạch, kẻ điếc được nghe, kẻ chết sống lại” (Mt 11:5). Những lời ấy, những việc làm ấy minh chứng cho ơn cứu độ mà Chúa Giêsu mang đến. Thiên Chúa đã đi vào lịch sử để giải phóng chúng ta khỏi ách tội lỗi. Ngài ở giữa chúng ta, chia sẻ cuộc sống của chúng ta, chữa lành những thương tích của chúng ta, băng bó vết thương và ban cho chúng ta sự sống mới. Niềm vui là kết quả của hành vi cứu độ và tình yêu của Thiên Chúa.

Chúng ta được mời gọi để tham dự vào niềm vui này, niềm vui hân hoan này… Nhưng nếu một Kitô hữu mà không vui, thì có gì đó không còn là Kitô hữu nữa! Niềm vui này sâu xa trong tâm hồn và đem lại cho ta sự can đảm tiến về phía trước. Chúa đến, Chúa đi vào cuộc sống của chúng ta, để giải thoát chúng ta khỏi những trói buộc cả trong lẫn ngoài. Ngài đã cho chúng ta thấy con đường của trung tín, kiên nhẫn và bền lòng, vì khi Ngài trở lại, niềm vui của chúng ta sẽ thành toàn.

Giáng Sinh đang đến gần, các dấu chỉ của Giáng Sinh hiển hiện trên các con phố và ngay tại quảng trường này. Những dấu hiệu bên ngoài mời gọi chúng ta mở lòng đón Chúa, Đấng luôn đến và gõ cửa nhà chúng ta, gõ cửa tâm hồn chúng ta. Chúng ta được mời gọi để nhận ra những bước chân của Ngài nơi những anh chị em xung quanh, đặc biệt là những người yếu đuối và thiếu thốn.

Hôm nay chúng ta được mời gọi để vui mừng vì Đấng Cứu Độ chúng ta ngự đến, và chúng ta chia sẻ niềm vui này với tha nhân, trao tặng niềm vui hy vọng cho người nghèo khổ, người ốm đau và những ai bất hạnh. Lạy Đức Nữ Trinh Maria, nữ tỳ của Chúa, xin giúp chúng con biết lắng nghe lời mời gọi của Thiên Chúa trong cầu nguyện, và với đầy lòng cảm thông, biết phục vụ Ngài nơi những chị em chúng con, xin cho con biết sẵn sàng đón mừng Giáng Sinh và chuẩn bị tâm hồn để đón Chúa Giêsu.  

Tiếp đến, Đức Thánh Cha đã đọc Kinh Truyền Tin và ban phép lành Tòa Thánh cho mọi người.

Đức Thánh Cha mời gọi mọi người cùng hiệp thông cầu nguyện

Anh chị em thân mến!

Hằng ngày, Cha đặc biệt gần gũi với người dân thành Aleppo trong lời cầu nguyện. Chúng ta đừng quên rằng, Aleppo là thành phố với những con người, đó là những gia đình, những trẻ em, người cao tuổi, người bệnh… Thật đáng tiếc là chúng ta đã trở nên quá quen với chiến tranh, với sự tàn phá, nhưng chúng ta không được quên rằng, Syria là một quốc gia theo đúng nghĩa với lịch sử, văn hóa và đức tin. Chúng ta không thể chấp nhận rằng, chiến tranh tàn phá tất cả những điều ấy. Cha kêu mời sự dấn thân của mọi người, để có thể chọn lựa nói không với hủy diệt, để tiến tới hòa bình cho người dân Aleppo và Syria.

Chúng ta cũng cầu nguyện cho các nạn nhân trong một số vụ tấn công khủng bố tàn bạo vài giờ gần đây tại một số quốc gia. Tại một số nơi, bạo lực gây ra chết chóc phá hủy, và chỉ có một câu trả lời là: đức tin nơi Thiên Chúa và sự hiệp nhất trong các giá trị nhân văn. Tôi muốn bày tỏ sự gần gũi đặc biệt với người anh em thân mến là Đức Thượng Phụ Tawadros II của Giáo Hội Chính Thống Coptic và cộng đoàn dân Chúa của Ngài, để cầu nguyện cho những người bị chết và bị thương.

Hôm nay, tại Vientiane Lào, có lễ phong chân phước cho cha Mario Borzaga, linh mục truyền giáo dòng Tận Hiến Đức Mẹ Vô Nhiễm, cho người giáo lý viên Paul Thoj Xyooj, và 14 bạn tử đạo. Các ngài đã trung thành với Chúa Kitô một cách anh hùng. Tấm gương của các ngài khích lệ chúng ta trên đường truyền giáo, đặc biệt là những người giáo lý viên với sứ mệnh tông đồ không thể thay thế. Giáo Hội biết ơn tất cả những con người ấy. Chúng ta thấy rằng: các giáo lý viên đã làm rất nhiều, và những việc làm ấy thật đẹp! Là một giáo lý viên, đó là một điều thật đẹp. Cha mời mọi người vỗ tràng pháo tay dành tặng cho các giáo lý viên!

Đức Thánh Cha chào thăm mọi người hiện diện

Cha gửi lời chào thăm với đầy lòng mến, tới tất cả anh chị em, là những người hành hương đến từ các quốc gia khác nhau. Đầu tiên, Cha chào thăm các con là những em bé và người trẻ của Roma. Các con thân mến, khi các con cầu nguyện trước hang đá, hãy cầu xin Hài Nhi Giêsu giúp mọi người có được lòng mến Chúa và yêu người. Hãy nhớ cầu nguyện cho Cha nữa. Cha cũng nhớ cầu nguyện cho các con. Cha cám ơn các con.

Cha chào thăm các giáo sư của Đại học Công giáo Sydney, mọi người trong dàn hợp xướng Mosteiro de Grijó ở Bồ Đào Nha, các anh chị em đến từ Barbianello và Campobasso.

Cha cầu chúc mọi người ngày Chúa Nhật tốt lành và đừng quên cầu nguyện cho Cha. 

Tứ Quyết SJ

Niềm hy vọng giúp chúng ta hoán cải và tiến tới gặp gỡ Chúa

Niềm hy vọng giúp chúng ta hoán cải và tiến tới gặp gỡ Chúa

dtc-phanxico-chuc-lanh-cho-mot-be-gai-trong-buoi-tiep-kien-chung-sang-thu-tu-7-12-2016

Niềm hy vọng kitô cần thiết trong những thời điểm đen tối của lịch sử, vì nó giứp dọn đường cho Chúa, nghĩa là trở về với Thiên Chúa, hướng con tim về Thiên Chúa và bước đi trên con đường này để tìm thấy Ngài, và chuẩn bị gặp gỡ với Hài Nhi Giêsu giáng sinh làm người.

ĐTC Phanxicô đã nói như trên với 8000 tín hữu và du khách hành hương tham dự buổi tiếp kiến chung sáng thứ tư hàng tuần 7-12-2016. ĐTC đã bắt đầu loạt bài giáo lý mới về niềm hy vọng kitô. Mở đầu bài huấn dụ ngài nói:

Hôm nay chúng ta bắt đầu một loạt bài giáo lý mới về đề tài hy vọng kitô. Thật rất quan trọng, vì niềm hy vọng không gây thất vọng. Sự lạc quan gây thất vọng nhưng niềm hy vọng thì không. Chúng ta cần nó biết bao nhiêu, trong các thời điểm xem ra tối tăm này, trong đó nhiều khi chúng ta cảm thấy bị lạc lối trước sự dữ và bạo lực vây quanh, trước nỗi khổ đau của biết bao anh chị em của chúng ta. Cần có niềm hy vọng! Chúng ta cảm thấy lạc lõng và cả một chút chán nản nữa, bởi vì chúng ta cảm thấy mình bất lực và xem ra sự tối tăm này không bao giờ kết thúc. Nhưng không được để cho niềm hy vọng bỏ rơi chúng ta, bởi vì Thiên Chúa với tình yêu của Ngài bước đi với chúng ta. “Tôi hy vọng vì Thiên Chúa ở bên tôi”: điều này tất cả chúng ta có thể nói: “Tôi hy vọng, tôi hy vọng vì Thiên Chúa bước đi với tôi. Ngài bước đi và cầm tay tôi dẫn đi.” Thiên Chúa không bỏ chúng ta một mình. Và Chúa Giêsu đã chiến thắng sự dữ và đã mở ra cho chúng ta con đường của sự sống.

Và khi đó, đặc biệt trong mùa Vọng này, là thời gian chờ đợi, trong đó chúng ta chuẩn bị tiếp đón một lần nữa mầu nhiệm ủi an của sự Nhập Thể và ánh sáng của lễ Giáng Sinh, thật là quan trọng  suy tư về niềm hy vọng. Chúng ta hãy để Chúa dậy chúng ta biết hy vọng có nghĩa là gì. Như vậy chúng ta hãy lắng nghe các lời Sách Thánh, bắt đầu với ngôn sứ Isaia, là vị ngôn sứ lớn của mùa Vọng, là sứ giả lớn của niềm hy vọng.

Tiếp tục bài huấn dụ ĐTC nói: trong phần thứ hai của sách, Isaia hướng tới dân Israel với lời loan báo của sự ủi an: “"Hãy an ủi, an ủi dân Ta: Hãy ngọt ngào khuyên bảo Giê-ru-sa-lem, và hô lên cho Thành: thời phục dịch của Thành đã mãn, tội của Thành đã đền xong.  Có tiếng hô: "Trong sa mạc, hãy mở một con đường cho Giavê, giữa đồng hoang, hãy vạch một con lộ thẳng băng cho Thiên Chúa chúng ta. Mọi thung lũng sẽ được lấp đầy, mọi núi đồi sẽ phải bạt xuống, nơi lồi lõm sẽ hoá thành đồng bằng, chốn gồ ghề nên vùng đất phẳng phiu. Bấy giờ vinh quang Giavê sẽ tỏ hiện, và mọi người phàm sẽ cùng được thấy rằng miệng Giavê đã tuyên phán.” (Is 40,1-2°.3-5).

Thiên Chúa Cha an ủi bằng cách dấy lên các người ủi an, và xin họ củng cố dân, con cái Ngài, loan báo rằng thời gian lao đã hết, khổ đau đã hết, và tội lỗi đã được tha. Đây là điều chữa lành con tim sầu khổ và hốt hoảng. Vì thế ngôn sứ xin chuẩn bị đường cho Chúa, rộng mở cho các ân huệ và ơn cứu độ của Ngài.

Đối với dân sự ủi an bắt đầu với khả thể bước đi trên con đường của Thiên Chúa, một con đường mới, được uốn thẳng và có thể đi được, một con đường cần chuẩn bị trong sa mạc, để có thể đi ngang qua và trở về quê hương. Bởi vì dân chúng, mà ngôn sứ nói với, đang sống thảm cảnh cuộc lưu đầy bên Babilonia, và giờ đây nghe nói rằng có thể trở về quê hương, qua một con đường được làm cho thoải mái, rộng rãi, không có thung lũng và núi đồi. Như thế chuẩn bị con đường ấy có nghĩa là chuẩn bị một con đường của ơn cứu độ và giải thoát khỏi mọi chướng ngại và vấp ngã.

ĐTC nói thêm trong bài huấn dụ: lưu đầy đã là một thời gian thê thảm trong lịch sử của dân Israel, khi họ đã mất tất cả, quê hương, sự tự do, phẩm giá và cả niềm tin tưởng nơi Thiên Chúa nữa. Họ cảm thấy bị bỏ rơi và không có niềm hy vọng. Trái lại, này đây lời mời gọi của ngôn sứ tái mở con tim cho niềm tin. Sa mạc là nơi trong đó khó sống, nhưng chính ở đấy sẽ có thể bước đi để trở về, không phải chỉ trở về quê hương, mà trở về với Thiên Chúa, hy vọng và vui cười trở lại. Khi chúng ta ở trong tối tăm, trong các khó khăn, thì nụ cuời không đến, và chính niềm hy vọng dậy chúng ta tươi cười để tìm ra con đường dẫn chúng ta tới Thiên  Chúa. Một trong những điều đầu tiên xảy ra cho những người tách rởi khỏi Thiên Chúa đó là họ không có nụ cười.

Có lẽ họ có thể cười ha hả, tràng này sau tràng khác, nói giỡn, cười cợt đấy… nhưng họ không có nụ cười. Nụ cười thì chỉ có niềm hy vọng mới trao ban cho thôi: đó là nụ cười của niềm hy vọng tìm thấy Thiên Chúa.

Cuộc sống thường là một sa mạc, thật khó bước đi trong cuộc sống, nhưng nếu chúng ta tín thác nơi Thiên Chúa, nó có thể trở thành tươi đẹp và rộng thênh thang như một xa lộ. Chỉ cần đừng bao giờ mất niềm hy vọng, chỉ cần tiếp tục tin luôn luôn, mặc cho tất cả. Khi chúng ta đứng trước một em bé, có lẽ chúng ta có thể có biết bao vấn đề và khó khăn, nhưng nụ cười đến bên trong chúng ta, bởi vì chúng ta đứng trước niềm hy vọng: một em bé là một niềm hy vọng! Và chính như thế mà chúng ta phải nhìn trong cuộc sống con đường hy vọng đưa chúng ta tới chỗ tìm ra Thiên Chúa. Thiên Chúa đã trở thành Hài Nhi cho chúng ta. Và Ngài sẽ làm cho chúng ta tươi cười, Ngài sẽ ban cho chúng ta tất cả!

Chính các lời này của ngôn sứ Isaia đã được thánh Gioan Tẩy Giả dùng trong lời rao giảng mời gọi hoán cải: Ngài nói như thế này: “Có tiếng kêu trong sa mạc: hãy dọn đường của Chúá” (Mt 3,3). Đó là một tiếng nói kêu lên ở nơi đâu xem ra không có ai có thể lắng nghe – ai có thể nghe trong sa mạc – và kêu lên trong sự lạc lõng vì cuộc khủng hoảng lòng tin. Chúng ta không thể chối cãi rằng thế giới ngày nay đang bị khủng hoảng niềm tin. Người ta nói: “Tôi tin nơi Thiên Chúa, tôi là kitô hữu”- “Tôi thuộc tôn giáo này… “. Nhưng cuộc sống của bạn thật xa việc là tín hữu kitô; thật xa Thiên Chúa! Tôn giáo, niềm tin đã rơi vào một kiểu nói: “Tôi tin?” – “Phải”. Nhưng đây là việc trở về với Thiên Chúa, hướng con tim về Thiên Chúa và bước đi trên con đường này để tìm thấy Ngài. Ngài chờ đợi chúng ta. Đó là lời rao giảng của thánh Gioan Tẩy Giả: chuẩn bị. Chuẩn bị gặp gỡ với Hài Nhi sẽ ban cho chúng ta nụ cười.

Khi Gioan Tẩy giả loan báo Chúa Giêsu đến, các người do thái như thể là còn đang sống kiếp lưu đầy, bởi vị họ ở dưới sự thống trị của Roma, khiến cho họ là những người xa lạ trong chính quê hương của mình, bị cai trị bởi những kẻ xâm lăng quyền thế, quyết định về cuộc sống của họ. ĐTC khẳng định trong bài huấn dụ:

Nhưng lịch sử đích thật – lịch sử sẽ tồn tại trong sự vĩnh cửu – là lịch sử mà Thiên  Chúa viết với các người bé mọn của Ngài: Thiên Chúa với Maria, Thiên Chúa với Giêsu, Thiên Chúa với Giuse, Thiên Chúa với những kẻ bé mọn. Các kẻ bé mọn và đơn sơ ấy chúng ta tìm thấy chung quanh Chúa Giêsu giáng sinh: ông Dacaria và bà Elidabét, là các người già cả bi ghi dấu bởi sự hiếm muộn, Maria trinh nữ trẻ được đính hôn với Giuse, các mục đồng, bị khinh miệt và không có giá trị nào. Họ là những kẻ bé mọn đã được đức tin của họ làm cho trở nên lớn, các người bé mọn biết tiếp tục hy vọng. Và niềm hy vọng là nhân đức của những kẻ bé mọn. Những kẻ lớn lao, nhừng người thoả mãn không biết tới niềm hy vọng; họ không biết nó là cái gì.

Chính những người bé nhỏ với Thiên Chúa, với Chúa Giêsu biến đổi sa mạc của lưu đầy, của cô đơn tuyệt vọng, của khổ đau, trở thành một con đường trên đó bước đến gặp gỡ vinh quang của Chúa. Và chúng ta đi tới kết luận: Vậy chúng ta hãy để cho mình được dậy dỗ hy vọng, chúng ta hãy tin tưởng chờ đợi Chúa đến, và bất cứ sa mạc nào của cuộc sống chúng ta – mỗi người biết mình đang bước đi trong sa mạc nào – cũng sẽ trở thành một ngôi vườn nở hoa. Niềm hy vọng không gây thất vọng.

ĐTC đã chào nhiều đoàn hanh hương khác nhau, đặc biệt các học sinh trường Saint Régis Saint-Michel, các tín hữu đến từ Puy và Velay cũng như thành viên hội cải tiến các bài giảng Pháp. Ngài cũng chào các phái đoàn đến từ Anh quốc, Đan Mạch, Tây Ban Nha, Nigeria,  Australia và Hoà Kỳ, cũng như các tín hữu đến từ Ba Lan, Bồ Đào Nha, và Đức trong đó có phong trào Schoenstadt và các tín hữu Lagundo và Bolzano. Ngài chúc mọi người mừng lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm sốt sắng và biết noi gương Mẹ sống kết hiệp với Thiên Chúa, tín thác và thực thi  thánh ý Chúa.

Chào các tín hữu nói tiếng A rập đặc biệt một nhóm linh mục Iraq phục vụ tại Âu châu ĐTC khuyên họ đừng để mất đi niềm hy vọng là nhân đức kitô giúp nhìn xa hơn các vấn đề, các khổ đau, khó khăn và tội lỗi, và trông thấy vẻ đẹp của Thiên Chúa.

Trong các nhóm tiếng Ý ĐTC chào đặc biệt  các nữ tu dòng Bác Ái, các nghệ sĩ tham gia chương trình hoà nhạc Giáng Sinh lần thứ 24, do hiệp hội “Don Bosco trên thế giới” tổ chức. Ngài chúc mọi người luôn vun trồng niềm hy vọng, và sự hiền dịu trong cuộc sống.

Buổi tiếp kiến đã kết thúc với Kinh Lậy Cha và phép lành toà thánh ĐTC ban cho mọi người

Linh Tiến Khải

Hiệp hội các nữ nhân viên Vatican

Hiệp hội các nữ nhân viên Vatican

association-for-vatican-women-employees

Vatican – D.VA, “donne in Vaticano”, phụ nữ ở Vatican, là hiệp hội của các nữ nhân viên Vatican, mới được thành lập để bảo vệ quyền lợi của nữ giới.

Đây là Hiệp hội đầu tiên ở Vatican chỉ dành cho nữ giới, một Hiệp hội chỉ dành cho các nhân viên nữ đang làm việc cho Vatican, cho Tòa Thánh và các cơ quan Tòa Thánh, bao gồm tu sĩ và giáo dân, đang còn làm việc hoặc đã nghỉ hưu. Hiệp hội D.VA đã được chấp thuận và hiến pháp được ký ngày 01/09/2016 tại phủ Thống đốc Vatican.

D.VA nhắm kiến tạo một mạng lưới thân hữu, trao đổi chia sẻ và hỗ tương giữa các nhân viên nữ giúp phát triển nhân bản và chuyên môn nghề nghiệp. D.VA cũng muốn bày tỏ sự quan tâm với các phụ nữ kém may mắn để xoa dịu những đau khổ. Các thành viên cũng ao ước hiện thực các chương trình và các đóng góp cho các phụ nữ Kitô giáo khác.

Các vị Giáo hoàng sau này đã đánh giá cao và tôn trọng đối với các phụ nữ. Đức Giáo hoàng Phanxicô đã nói:  “Giáo hội không thể là chính mình nếu không có phụ nữ và vai trò của họ.”

Hiện tại đã có hơn 50 nữ nhân viên thuộc 16 cơ quan khác nhau đã ghi danh cho năm 2017. Chủ tịch của D.VA là Tracey McClure, và phó chủ tịch là Romilda Ferrauto.

Được biết hiện nay có hơn 750 người nữ làm việc chính thức tại Vatican, chiếm 19% tổng số nhân viên Vatican. Vatican là quốc gia duy nhất trong đó các nhân viên nam giới và nữ giới được trả lương bằng với nhau.

Sô nhân viên nữ tại Vatican gia tăng trong những thập niên cuối. Nữ nhân viên đầu tiên có hợp đồng làm việc cho Vatican là Anna Pezzoli, bắt đầu làm việc từ tháng 02/1915. (SD 07/12/2016)

Hồng Thủy

(Thi Thuy le)

Đức Thánh Cha trả lời phỏng vấn của Tuần Báo Tertio, Bỉ

Đức Thánh Cha trả lời phỏng vấn của Tuần Báo Tertio, Bỉ

duc-thanh-cha-tra-loi-phong-van-cua-tuan-bao-tertio-bi

VATICAN. Hôm 7-12-2016, một cuộc phỏng vấn dài ĐTC Phanxicô dành cho tuần báo Công Giáo Tertio ở Bỉ đã được công bố.

Trong cuộc phỏng vấn, ĐTC đề cập đến những thành quả của Năm Thánh Lòng Thương Xót, đặc tính trung lập về tôn giáo của Nhà Nước, mong ước một Giáo Hội công nghị, trách nhiệm của những người làm việc trong ngành truyền thông, và sau cùng là một số lời khuyên dành cho các LM.

ĐTC đặc biệt phê bình thái độ duy thế tục (laicismo) hay đúng hơn là thái độ bài tôn giáo của một số nhà nước, một thái độ khép kín đối với chiều kích siêu việt, một thứ gia sản cho chủ thuyết soi sáng để lại. Đồng thời ĐTC ca ngợi Nhà nước trung lập về tôn giáo (laico) và gọi chủ trương này tốt đẹp hơn thứ nhà nước thiên riêng về một tôn giáo.

ĐTC tái lên án sự lạm dụng tôn giáo để thực thi bạo lực và ngài nhận xét rằng trong tôn giáo nào cũng có những nhóm cực đoan duy căn. Những nhóm thiểu số này làm cho tôn giáo của họ trở nên bệnh hoạn và gây chia rẽ trong cộng đoàn, và đó cũng là một hình thức chiến tranh.

ĐTC cũng tái lên án những người miệng thì nói là ”Không bao giờ chiến tranh nữa”, nhưng trong khi đó họ chế tạo võ khí và bán cho chính những người đang giao chiến, để mang lợi nhuận cho những người chế tạo võ khí.

Về Năm Thánh Lòng Thương Xót, ĐTC nói biết ý tưởng ấn định Năm Thánh đến với ngài qua cuộc nói chuyện với Đức TGM Rino Fisichella, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh tái truyền giảng Tin Mừng. Đó là một ý tưởng đến từ trên cao, do Chúa soi sáng. Ngài cũng nhận định rằng sự kiện Năm Thánh không phải chỉ diễn ra ở Roma, nhưng trên toàn thế giới, đã tạo nên một ”phong trào”. Nhiều người còn nói họ cảm thấy được kêu gọi hòa giải với Thiên Chúa, cảm thấy sự vuốt ve của Chúa Cha”.

Đề cập đến công nghị tính của Giáo Hội, ĐTC cho biết ngài mong muốn một Giáo Hội công nghị, Giáo Hội nảy sinh từ cộng đoàn, từ hạ tầng. Có thứ Giáo Hội kim tự tháp, trong đó Phêrô nói và Phêrô làm, và có Giáo Hội công nghị trong đó Phêrô là Phêrô, nhưng đồng hành với Giáo Hội. Kinh nghiệm phong phú hơn về tất cả những điều đó là hai Thượng HĐGM vừa qua về gia đình, trong đó nảy sinh Tông Huấn Amoris laetitia, Niềm vui yêu thương. Đó là công nghị tính (sinodalità), không đi xuống từ trên cao, nhưng lắng nghe các Giáo Hội, hòa hợp và phân định. Phêrô là người bảo đảm sự hiệp nhất của Giáo Hội và cần tiến bước trong công nghị tính, đó là một trong những điều mà các tín hữu Chính Thống còn bảo tồn được”.

Về những người làm việc trong ngành truyền thông, ĐTC đề cao các phương tiện này, nhưng đồng thời ngài cảnh giác trước cám dỗ trở thành những phương thế để vu khống, mạ lỵ và hủy điệt con người. Sự loan tin xuyên tạc có thể là tai hại lớn nhất mà một phương tiện truyền thông có thể gây ra, nó lèo lái dư luận theo một chiều hương, và bỏ qua khía cạnh sự thật.

Trong cuộc phỏng vấn, ĐTC kêu gọi các linh mục hãy luôn yêu mến Mẹ Maria và đừng bao giờ cảm thấy mình bị mồ côi, trái lại hãy để cho mình được Chúa Giêsu nhìn và hãy tìm kiếm thân mình đau khổ của Chúa Giêsu nơi những người anh em mình. Ngài nói: ”Các linh mục đừng xấu hổ vì có sự dịu dàng. Ngày nay cần phải có một cuộc cách mạng về sự dịu dàng trong thế giới này, một thế giới đang bị thứ bệnh cứng tim”. (SD 7-12-2016)

G. Trần Đức Anh OP

Đức Thượng Phụ Chính Thống được tặng giải thưởng đại kết

Đức Thượng Phụ Chính Thống được tặng giải thưởng đại kết

duc-thuong-phu-chinh-thong-duoc-cong-giao-tang-giai-thuong-dai-ket

BARI. Đức Thượng Phụ Bartolomaios I, Giáo Chủ Chính Thống Constantinople, đã được trao tặng giải thưởng đại kết thánh Nicola hôm 5-12-2016 tại thành phố Bari, nam Italia, nơi có di hài của thánh Nicola.

Trong điện văn chúc mừng Đức Thượng Phụ, cũng là giáo chủ danh dự chung của toàn Chính Thống giáo, ĐTC Phanxicô gọi giải thưởng này là một ”sự nhìn nhận đầy ý nghĩa” và là ”một dấu chỉ biết ơn đối với Đức Thượng Phụ vì sự dấn thân thăng tiến sự hiệp thông ngày càng sâu đậm hơn giữa tất cả những người tin nơi Chúa Kitô”.

Giải thưởng do Phân khoa thần học miền Puglia, nam Italia, trao tặng. Trong điện văn gửi đến Đức Cha Francesco Caccucci, TGM giáo phận Bari-Bitondo sở tại, ĐTC Phanxicô cũng cho biết ngài hiệp ý với Đức Bartolomaios, ”người anh em rất quí mến”, để tôn kính thánh Nicola, GM thành Myra, có hài cốt được giữ tại Bari từ gần 1 ngàn năm nay. Ngài phó thác cho sự chuyển cầu của Thánh Nicola rất được kính mến tại Đông và Tây Phương, lời cầu nguyện chung, xin cho các tín hữu Kitô đạt được sự hiệp nhất trọn vẹn hằng mong ước”.

Trong diễn văn tại Vương cung thánh đường thánh Nicola khi nhận giải thưởng, Đức Thượng phụ khẳng định rằng các tôn giáo có một vai trò cơ bản ”trong việc kiến tạo, khởi xướng và củng cố một nguyên tắc hiệp thông để cộng tác và cảm thông lẫn nhau, nhờ đó đẩy lui được những trào lưu cực đoan duy căn trong tất cả các xã hội và tôn giáo, và kiến tạo quan hệ mới giữa các dân tộc”.

Đức Thượng Phụ Bartolomaios cũng cho biết ngài đón nhận giải thưởng này như một ”dấu chỉ ngôn sứ về sự hiệp nhất của tất cả các Hội Thánh của Thiên Chúa” và nói rằng: ”Hành trình thần học giữa các Giáo Hội chúng ta và tình yêu thương, tôn trong và cộng tác với nhau là một trong những đặc điểm cơ bản”.

Thành Bari cách Roma gần 460 cây số về hướng đông nam. Trong số các tín hữu đến hành hương tại đền thánh Nicola, có rất nhiều tín hữu Chính Thống Nga (Asia News 5-12-2016)

G. Trần Đức Anh OP 

 

Tổ chức New Humanity của Pime kết thúc hoạt động ở Campuchia

Tổ chức New Humanity của Pime kết thúc hoạt động ở Campuchia

pime-logo

Kompong Chhnang, Campuchia – Ngày hôm nay, 06/12/2016, tại Kompong Chhnang, tổ chức phi chính phủ New Humanity của Hội truyền giáo hải ngoại (PIME) đã chính thức kết thúc các dự án và trao các hoạt động của tổ chức này cho các tổ chức và các giáo phận địa phương.

Buổi lễ diễn ra với sự hiện diện của Đức cha Olivier Schmitthaeusler, đại diện Tông tòa, các vị Phủ doãn Tông tòa của Battambang và  Kompong Cham, chính quyền dân sự, các nhân viên của tổ chức New Humanity, các thừa sai Pime, các thừa sai giáo dân Cml và hàng trăm người, đặc biệt là gia đình của các trẻ em và thanh thiếu niên khuyết tật đã được tổ chức New Humanity giúp đỡ trong những năm qua.

Phát biểu trong buổi lễ, cha Davide Sciocco, phó Tổng quyền của hội Pime nói: “Có thể người ta nghĩ việc này là kết thúc, nhưng chúng tôi thích xem đây là một khởi đầu mới. Chúng tôi tin là mục đích cuối cùng của mỗi tổ chức giúp phát triển là giúp dân chúng trở nên độc lập hơn và đó là điều đang diễn ra hôm nay.” Cha bày tỏ niềm vui khi nhìn thấy, sau 20 năm, tất cả dự án của hội Pime được các tổ chức và giáo phận địa phon điều hành. Cha nói: “Bây giờ, New Humanity có thể chuyển trao các hoạt động và mở rộng nó tại các quốc gia khác. Đây là một kết quả lớn lao và khởi đầu của một giai đoạn mới.” Ngài cám ơn nhân viên của New Humanity ở Campuchia, chính quyền địa phương và quốc gia đã trợ giúp Giáo hội Công giáo và cám ơn sự sẵn sàng giúp đỡ trong tương lai.

Trong những năm cuối, New Humanity chú trọng đến các hoạt động trợ giúp và hội nhập các người khuyết tật thể lý và tâm lý, với hoạt động đặc biệt nhắm gây ý thức và huấn luyện gia đình.

Từ một thời gian trước, các hoạt động của New Humanity đã được trao cho các tổ chức địa phương, đặc biệt là tổ chức phi chính phủ của phủ doãn Tông tòa Battambang, sau hai năm cùng làm việc chung. Quá trình chuyển giao được tổ chức theo cách giúp cho công việc có thể tiếp tục hoạt động ở mức độ cao hơn.

Tổ chức New Humanity của Pime bắt đầu hoạt động tại Campuchia từ năm 1992. Trong 24 năm hoạt động, tổ chức đã thực hiện các dự án như: thành lập phân khoa xã hội học tại đại học Phnom Penh; chương trình nông nghiệp; chương trình giáo dục và khuyết tật. (Asia News 07/12/2016)

Hồng Thủy

Biết giáo lý của Chúa Kitô có nghĩa là nhận biết sự hiền từ của Thiên Chúa

Biết giáo lý của Chúa Kitô có nghĩa là nhận biết sự hiền từ của Thiên Chúa

thanh-le-tai-nha-nguyen-marta-06-12-2016

Ai không nhận biết sự hiền từ của Thiên Chúa thì không biết đạo lý của Chúa Kitô. Đức Thánh Cha chia sẻ như thế trong thánh lễ sáng nay tại nhà nguyện Marta. Ngài tập trung diễn giải về ông Giuđa trong Tin Mừng.

Ông Giuđa là con chiên bị lạc

Trong bài Tin Mừng, Thiên Chúa vui khôn tả khi tìm thấy con chiên lạc, và Ngài không bao giờ ngừng tìm kiếm mỗi người chúng ta. Thiên Chúa là một thẩm phán, một quan tòa, nhưng là vị thẩm phán đầy lòng từ nhân, vì Ngài tìm mọi cách để cứu chúng ta. Ngài không kết tội nhưng là cứu vớt, vì Ngài kiếm tìm và yêu mến từng người chúng ta. Ngài không yêu thương theo kiểu chung chung, kiểu yêu mến một đám người. Ngài yêu mến từng người và gọi tên từng người. Ngài yêu mến trong cái hiện tại của người ấy, như chính người ấy là.  

Con chiên bị lạc, không phải vì không biết đường. Con chiên ấy biết đường, nhưng anh ta lạc mất vì tâm hồn anh đen tối mù quáng bởi những xâu xé. Anh ta rời xa Thiên Chúa, đi vào bóng tối và sống lối sống hai mặt. Anh ta chạy khỏi ràn chiên để đi vào đêm tối. Chúa biết tất cả những điều ấy và Ngài kiếm tìm chiên lạc. Để giúp chúng ta hiểu được thái độ của Chúa đối với con chiên lạc, chúng ta hãy nhìn cách Chúa đối xử với ông Giuđa.

Giuđa luôn có cái gì đó cay đắng trong tâm hồn, luôn có cái gì đó để trách móc người khác. Ông không cảm nhận được sự dịu ngọt của lòng biết ơn khi sống với mọi người. Ông luôn không thỏa mãn và ông không hạnh phúc, không vui vẻ! Ông trốn chạy vì ông như kẻ trộm cắp… Ông muốn chạy trốn vì bóng tối bao trùm trái tim ông và tách ông ra khỏi đàn chiên. Ngay cả các Kitô hữu ngày nay, cũng có nhiều người sống kiểu hai mặt, và thật đau lòng để nói rằng, cũng có những linh mục, giám mục sống như thế. Ông Giuđa cũng là một giám mục, là giám mục đầu tiên sống kiểu ấy? Con chiên lạc. Cha Mazzolari có một bài giảng rất hay khi Cha gọi ông Giuđa là người anh em: “Này người anh em Giuđa, chuyện gì đang xảy ra trong tâm hồn của anh đó?” Chúng ta cần hiểu về con chiên lạc. Trong bản thân chúng ta, cũng luôn có một chút gì đó, một chút gì đó là chiên lạc.

Sự sám hối của ông Giuđa

Điều gì làm cho con chiên trở thành chiên lạc? Đó là sự yếu đuối của tâm hồn và ma quỷ lợi dụng điều ấy. Giuđa bị xâu xé trong nội tâm, trở thành chiên lạc, và vị mục tử vẫn kiếm tìm. Nhưng Giuđa không hiểu điều ấy và đã kết thúc cuộc đời của mình, khi ông nhìn về lối sống nước đôi của mình trong cộng đoàn, về những gì mà thần dữ gieo rắc trong nội tâm đen tối. Điều ấy làm cho ông chạy trốn, chạy mãi. Ông đi tìm ánh sáng, nhưng không phải là ánh sáng của Chúa mà là ánh sáng trang trí theo kiểu đèn Giáng Sinh, tức là thứ ánh sáng nhân tạo. Nhìn như thế, chúng ta sẽ tuyệt vọng.

Trong Kinh Thánh có nói: Thiên Chúa là Đấng tốt lành và Ngài không bao giờ ngừng tìm kiếm từng con chiên. Cũng trong Kinh Thánh có nói: Giuđa treo cổ tự vẫn và “hối hận”. Tôi không biết, có thể những lời ấy làm cho chúng ta bối rối. Lời ấy có nghĩa gì? Cho đến tận cùng, tình yêu mến của Thiên Chúa vẫn hoạt động nơi tâm hồn con người, ngay cả trong lúc thất vọng. Đây là thái độ của Chúa Giêsu. Đây là sứ điệp, là tin vui mở đường cho chúng ta đón Giáng Sinh và cũng gọi hỏi chúng ta về niềm vui chân thành để biến đổi tâm hồn. Điều ấy dẫn chúng ta tới niềm vui trong Chúa, chứ không phải kiểu an ủi của việc chạy trốn thực tại hoặc chạy trốn khỏi một tâm hồn bị dày vò.

Sức mạnh của Thiên Chúa chính là lòng nhân hiền của Ngài

Khi đi tìm chiên lạc, Chúa Giêsu không xúc phạm con chiên ấy cho dù những gì con chiên ấy đã làm là xấu xa. Trong vườn Cây Dầu, Chúa Giêsu gọi ông Giuđa là “người bạn”. Đó là sự quan tâm của Thiên Chúa.

Ai không nhận biết sự quan tâm chăm sóc của Thiên Chúa, thì không biết giáo lý của Chúa Kitô. Ai từ chối sự quan tâm của Thiên Chúa, thì là con chiên lạc! Đây là tin mừng, là niềm vui đích thực mà chúng ta ngày nay ước muốn. Đây là niềm vui, niềm an ủi mà chúng ta kiếm tìm: Thiên Chúa đến trong quyền năng của Ngài, Đấng quan tâm chăm sóc chúng ta, viếng thăm chúng ta, cứu chữa chúng ta, đi tìm chúng ta là chiên lạc, và đưa chúng ta trở về đàn chiên trong Hội Thánh của Người. Nguyện xin Chúa ban cho chúng ta ân sủng ấy, để chúng ta mong chờ Giáng Sinh với tất cả những thương tích và tội lỗi của chúng ta, và chân thành nhìn nhận điều ấy, để chờ mong quyền năng của Chúa, Đấng sẽ đến để ủi an chúng ta. Ngài đến trong quyền năng của Ngài, nhưng quyền năng ấy chính là lòng từ nhân, là sự quan tâm phát xuất từ chính cõi lòng, từ trái tim nhân lành vô cùng của Ngài, đến nỗi Ngài trao tặng chính sự sống của Ngài cho chúng ta.

Tứ Quyết SJ

Chúa Giêsu đem đến sự đổi mới không theo kiểu trang điểm mà là đổi mới tâm hồn

Chúa Giêsu đem đến sự đổi mới không theo kiểu trang điểm mà là đổi mới tâm hồn

thanh-le-tai-nha-nguyen-marta-05-12-2016

Chúng ta hãy trở về với Chúa Giêsu, vì Người đã thực hiện cuộc sáng tạo mới, khi giải thoát chúng ta khỏi tội lỗi. Đức Thánh Cha chia sẻ như thế trong thánh lễ sáng nay tại nhà nguyện Marta.

Bài đọc trích sách ngôn sứ Isaia nói: sa mạc sẽ nở hoa, người mù sẽ thấy, kẻ điếc nghe được. Tất cả những điều ấy nói với chúng ta về sự đổi mới. Tất cả đổi thay từ xấu xí sang xinh đẹp, từ xấu xa đến tốt lành. Có một sự thay đổi để trở nên tốt hơn. Đây là những gì mà người dân được báo trước về điều mà Đấng Cứu Thế mang tới.

Chúa Giêsu đem đến sự biến đổi tận căn

Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu chữa lành. Người thực thi con đường của những đổi thay cho dân chúng và đó là lý do người ta đi theo Chúa. Điều này rất đặc sắc. Người ta đi theo Chúa vì sứ điệp của Chúa đụng vào tâm hồn con người. Dân chúng chứng kiến Chúa chữa lành con người và thế là dân chúng đi theo.

Thế nhưng Chúa Giêsu không chỉ làm thay đổi từ xấu thành đẹp, từ ác thành thiện, mà Người làm nên một sự biến đổi. Không phải là biến đổi theo kiểu làm đẹp, kiểu trang điểm, mà là biến đổi tận căn từ nội tâm. Sự biến đổi sâu xa ấy là cuộc sáng tạo mới. Thiên Chúa đã sáng tạo thế giới, con người sa ngã trong tội lỗi, và Chúa Giêsu thực hiện cuộc tái tạo, cuộc sáng tạo mới. Đây chính là sứ điệp của Tin Mừng. Bạn thấy điều ấy rất rõ: trước khi chữa lành cho người bất toại, Chúa đã tha tội cho anh. Khi ấy Chúa thực hiện cuộc sáng tạo mới nơi anh và Chúa thực hiện quyền năng sáng tạo. Khi làm như thế, Chúa làm cho một số người bị sốc, một số người cảm thấy chướng tai gai mắt. Các luật sĩ bắt đầu lý luận và thì thầm, vì họ không chấp nhận quyền năng của Chúa. Chúa Giêsu nói rằng, Người có thể làm cho chúng ta từ những kẻ tội lỗi trở thành những con người mới.

Hãy mở tâm hồn mình cho Chúa

Chúa đến chữa lành tâm hồn và thực hiện cuộc sáng tạo mới nơi chúng ta. Hãy thay đổi! Vì đó là sức mạnh của ân sủng mà Chúa Giêsu đem đến. Chúng ta phải vượt thắng cám dỗ rằng “Con không thể làm như thế”. Thay vào đó, thì hãy “biến đổi”, hãy để Chúa Giêsu thực hiên cuộc sáng tạo mới nơi bạn. Chính Chúa đã nói: “Can đảm lên!”

Tất cả chúng ta đều là tội nhân, nhưng hãy nhìn vào gốc rễ của tội lỗi, và ở nơi đó, Chúa đã cúi xuống mà thực hiện cuộc tái tạo, Ngài thực thi công lý, và bạn sẽ là con người mới. Nhưng nếu chúng ta nói: “Vâng, vâng, con có tội, con đi xưng tội… với đôi lời, và rồi con lại tiếp tục như cũ…”, nếu cứ như thế, chúng ta sẽ chẳng được Chúa biến đổi. Không phải là chúng ta chỉ tin và thế là xong chuyện. Không! Tội lỗi của chúng ta có tên tuổi hẳn hoi, nào là con đã làm điều này điều kia và con cảm thấy xấu hổ trong lòng! Con mở tâm hồn ra với Chúa mà nài xin: “Lạy Chúa, xin cứu chữa con, xin cứu chữa con!” Và như thế chúng ta can đảm bước đi trong đức tin tinh tuyền.

Hãy dâng lên Chúa tội lỗi của ta

Thường thì chúng ta cố tình che giấu sự nguy hiểm trầm trọng của tội lỗi, ví như khi chúng ta đầy lòng ghen tị. Khi che giấu như thế thì thật là tệ hại! Điều ấy giống như nọc độc của con rắn, và nó sẽ ra sức phá hủy. Hãy đi vào tận gốc rễ của tội lỗi chúng ta, hãy dâng những tội lỗi và nết xấu ấy cho Chúa, vì Người có cách giúp chúng ta gỡ bỏ những tội lỗi ấy, và trong đức tin Người sẽ dẫn chúng ta tiến về phía trước.

Có vị thánh nọ thưa với Chúa rằng: “Lạy Chúa, Ngài có vui không?” Chúa nói: “Không!” – “Nhưng thưa Chúa, con đã dâng tất cả cho Chúa rồi mà!” – “Không, có cái gì đó còn thiếu thiếu…” Người ấy tiếp tục kiên nhẫn cầu nguyện, cầu nguyện, và thưa lên: “Con xin dâng lên Chúa điều này? Lạy Chúa, có được không?” – “Không!” – “Vẫn còn thiếu điều gì đó…” – “Nhưng lạy Chúa, con đã quên điều gì?” – “Đó là tội của con! Hãy dâng tội của con cho Ta!” Đó là điều mà hôm nay Chúa mời gọi chúng ta: “Hãy đến đây! Dâng tội lỗi của con cho Ta, và Ta sẽ làm cho con trở thành con người mới.” Nguyện xin Chúa ban cho chúng ta đức tin để tin như thế.                       

Tứ Quyết SJ

Hoán cải để chờ đón Chúa đến giải thoát chúng ta

Hoán cải để chờ đón Chúa đến giải thoát chúng ta

dtc-phanxico-chao-tin-huu-va-du-khach-hanh-huong-tham-du-buoi-doc-kinh-truyen-tin-trua-chua-nhat-4-12-2016

Chỉ có tình yêu của Thiên Chúa mới có thể xoá bỏ tội lỗi và giải thoát chúng ta khỏi sự dữ, và chỉ có tình yêu của Thiên Chúa mới có thể hướng chúng ta tới con đường của sự thiện. Khi chân thành duyệt xét lương tâm và thay đổi cung cách sống là chúng ta đón tiếp Chúa Giêsu và Nước Thiên Chúa, bằng cách từ bỏ các con đường thoải mái nhưng sai lạc, khước từ các thần tượng của thế giới này: thành công bằng bất cứ giá nào, quyền lực dù có gây thiệt hại cho người yếu đuối nhất, khát khao giầu có, khoái lạc với bất cứ giá nào.

ĐTC Phanxicô đã nói như trên với mấy chục ngàn tín hữu và du khách hành hương trong buổi đọc Kinh Truyền Tin trưa Chúa Nhật hôm qua. Mở đầu bài huấn dụ ĐTC nói: Trong Phúc Âm Chúa Nhật thứ hai Mùa Vọng hôm nay vang lên lời thánh Gioan Tẩy Giả mời gọi: “Hãy hoán cải, vì Nước Trời đã gần!” (Mt 3,2).

Với cùng các lời này Chúa Giêsu sẽ khai mào sứ mệnh của Ngài tại Galilêa (x. Mt 4,17). Và nó cũng sẽ là lời loan báo, mà các môn đệ sẽ rao giảng trong kinh nghiệm truyền giáo đầu tiên của các vị (Mt 10,7). Như thế, thánh sử Mátthêu muốn giới thiệu Gioan như đấng dọn đường cho Chúa Kitô đến, và các môn đệ cũng như những người tiếp tục việc rao giảng của Chúa Giêsu. Đây là cùng lời loan báo tươi vui: Nước Thiên Chúa đến, còn hơn thế nữa, nó ở gần, ở giữa chúng ta! Lời nay rất quan trọng: “Nước Thiên Chúa ở giữa anh em”, Chúa Giêsu nói: Và Gioan loan báo điều Chúa Giêsu sẽ nói sau này: “Nước Thiên Chúa đã tới, đã tới rồi, và ở giữa anh em”. Đây là sứ điệp chính của mọi sứ mệnh kitô. Khi một thừa sai ra đi, khi một kitô hữu ra đi loan báo Chúa Giêsu, thì họ không ra đi để chiêu dụ tín đồ, như thể là người ủng hộ một đội banh tìm nhiều người ủng hộ hơn cho đội banh của mình. Không, họ ra đi chỉ để loan báo rằng: “Nước Thiên Chúa ở giữa anh em!”. Và như thế vị thừa sai dọn đường cho Chúa Giêsu gặp gỡ dân Ngài.

Nhưng mà Nước Thiên Chúa này, Nước Trời này là cái gì? Chúng đồng nghĩa với nhau. Chúng ta nghĩ ngay tới một cái gì liên quan tới cuộc sống bên kia: cuộc sống vĩnh cửu. ĐTC giải thích điểm này như sau:

Chắc chắn rồi, đúng thế. Nước Thiên Chúa sẽ trải dài ra vô tận, vượt ngoài cuộc sống trên trần gian này, nhưng tin mừng Chúa Giêsu đem đến cho chúng ta  – và thánh Gioan giảng trước – đó là chúng ta không phải chờ đợi nước ấy trong tương lại: nó đã tới gần, trong một cách thức nào đó ngay trong hiện tại này chúng ta có thể kinh nghiệm ngay từ bây giờ  quyền năng tinh thần của nó. “Nước Thiên Chúa ở giữa chúng ta”, Chúa Giêsu sẽ nói. Thiên Chúa đến để thiết lập chức là Chúa của Ngài  trong lịch sử chúng ta, trong cái hôm nay của mỗi ngày, trong cuộc sống chúng ta; và nơi đâu chức là Chúa của Ngài được tiếp đón với lòng tin và sự khiêm tốn, thì ở đó nẩy mầm tình yêu, niềm vui và hoà bình.

Tiếp tục bài huấn dụ ĐTC nói: Điều kiện để được vào và là thành phần của nước này là chu toàn một sự thay đổi trong cuộc sống, nghĩa là hoán cải, hoán cải mỗi ngày, mỗi ngày tiến một bước… Đó là từ bỏ các con đường thoải mái nhưng sai lạc, các thần tượng của thế giới này: thành công bằng bất cứ giá nào, quyền lực dù có gây thiệt hại cho người yếu đuối, khát khao giầu có, khoái lạc với bất cứ giá nào. Trái lại, đó là mở đường cho Chúa đến: Ngài không lấy mất đi sự tự do của chúng ta, nhưng ban cho chúng ta hạnh phúc đích thật. Với biến cố Chúa Giêsu sinh ra tại Bếtlehem, chính Thiên Chúa ở giữa chúng ta để giải thoát chúng ta khỏi sự ích kỷ, tội lỗi và sự thối nát, khỏi các thái độ của ma quỷ: tìm thành công bằng mọi giá; tìm quyền lực cả khi gây thiệt thòi cho những người yếu đuối nhất; khao khát giầu sang và tìm thú vui bằng bất cứ giá nào.

Giáng Sinh là một ngày của niềm vui lớn, cả bề ngoài nữa, nhưng nhất là một biến cố tôn giáo, vì thế cần một sự chuẩn bị tinh thần. Trong Mùa Vọng này chúng ta hãy để cho mình được hướng dẫn bởi lời khích lệ của thánh Gioan Tẩy Giả: “Hãy dọn đường cho Chúa, hãy uốn thẳng các nẻo đường của Ngài” (c. 3). ĐTC nói thêm trong bài huấn dụ:

Chúng ta chuẩn bị đường cho Chúa và uốn thẳng các nẻo đường của Ngài, khi chúng ta duyệt xét lương tâm, khi chúng ta dò xét các thái độ của chúng ta, để đánh đuổi các thái độ tội lỗi mà tôi đã nhắc tới, chúng không phải là các thái độ của Thiên Chúa: thành công bằng mọi giá; quyền lực gây thiệt hại cho những người yếu đuối nhất; khát khao giầu sang, thú vui bằng mọi giá.

Xin Đức Trinh Nữ Maria giúp chúng ta chuẩn bị cho cuộc gặp gỡ với Tình Yêu luôn luôn lớn lao hơn, là tình yêu mà Chúa Giêsu đem đến, và trong đêm Giáng Sinh đã trở thành bé nhỏ, bé nhỏ, như một hạt giống rơi xuống đất, và Chúa Giêsu là hạt giống này, hạt giống của Nước Thiên Chúa.

Tiếp đến ĐTC đã đọc kinh Truyền Tin và ban phép lành toà thánh cho mọi người.

Sau kinh Truyền Tin ĐTC đã chào tín hữu Roma và du khách hành hương. Ngài đặc biệt chào các tín hữu đến từ Cordoba, Jaén và Valencia của Tây Ban Nha, cũng như các đoàn hành hương đến từ Split và Makarska của Croazia, và từ các giáo xứ Roma.

Ngài chúc mọi người một ngày Chúa Nhật tươi vui an bình, và hẹn gặp lại vào ngày thứ Năm tới là lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội. ĐTC nói: trong các ngày này chúng ta hãy hiệp nhất cầu xin sự bầu cử của Mẹ cho ơn hoán cải con tim và cho hoà bình. Ngài cũng xin mọi người đừng quên cầu nguyện cho ngài.

Linh Tiến Khải

Đức Thánh Cha tiếp 400 chủ xí nghiệp quốc tế

Đức Thánh Cha tiếp 400 chủ xí nghiệp quốc tế

duc-thanh-cha-tiep-400-chu-xi-nghiep-quoc-te

VATICAN. ĐTC khuyến khích giới chủ xí nghiệp biến đổi các tổ chức và cơ cấu kinh tế để đáp ứng những nhu cầu ngày nay, để chúng phục vụ con người, nhất là những người bị gạt ra ngoài lề.

Ngài bày tỏ lập trường trên đây trong buổi tiếp kiến 400 giới chủ xí nghiệp quốc tế vừa kết thúc tại Roma 2 ngày (2-3/12) Diễn đàn hoàn cầu của tổ chức Fortune và Time.

Diễn đàn có chủ đề là ”Thách đố của thế kỷ 21: kiến tạo một khế ước xã hội mới”. ĐTC nhận xét rằng ”Thế giới chúng ta ngày nay đang mang nhiều lo âu. Sự chênh lệch giữa các dân tộc tiếp tục sâu rộng và nhiều cộng đoàn trực tiếp phải chịu chiến tranh, nghèo đói hoặc nhiều người phải ra đi như di dân và tị nạn. Dân chúng muốn lên tiếng và biểu lộ những lo âu sợ hãi của họ.”

ĐTC cũng ghi nhận chính sự hiện diện của các chủ xí nghiệp tại Diễn đàn này là một dấu chỉ hy vọng, vì ”khi chúng ta nhìn nhận tai ương giữa chúng ta, chúng ta có thể tìm cách chữa lành nó bằng cách áp dụng các biện pháp trị liệu đúng đắn.. Điều này đòi phải có một sự hoán cải về tổ chức và bản thân, một sự thay đổi tâm hồn, dành ưu tiên cho những biểu hiện sâu xa nhất của nhân loại chúng ta, cho các nền văn hóa, các xác tín tôn giáo và truyền thống của chúng ta”.

ĐTC nhấn mạnh rằng ”Thách đố lớn của chúng ta là trả lời cho những mức độ bất công hoàn vũ bằng cách thăng tiến ý thức trách nhiệm địa phương và bản thân, làm sao để không một ai bị loại trừ, không được tham gia vào đời sống xã hội… Sự canh tân, thanh tẩy và củng cố các kiểu mẫu kinh tế vững chắc tùy thuộc sự hoán cải bản thân của chúng ta cũng như lòng quảng đại đối với những người túng thiếu”.

Sau cùng ĐTC khích lệ công việc đã được khởi sự tại Diễn Đàn quốc tế này trong những ngày qua và tìm kiếm những con đường có tính chất sáng tạo hơn để biến đổi các cơ cấu và tổ chức kinh tế để chúng ngày càng đáp ứng những nhu cầu ngày nay, phục vụ con người, nhất là những người túng thiếu nhất” (SD 3-12-2016)

G. Trần Đức Anh OP 

Bệnh viện cho người nghèo ở Samar, Philippines, kết quả những phép lạ đời thường

Bệnh viện cho người nghèo ở Samar, Philippines, kết quả những phép lạ đời thường

northern-samar-hospital

Vào năm 2010, Đức cha Emmanuel Trance, giáo phận Catarman, miền bắc Samar, một trong những tỉnh nghèo nhất Philippines, đã yêu cầu các nữ tu dòng Biển đức ở Manila, hiện đang điều hành bệnh viện Ngôi Lời ở Tacloban, cách giáo phận của ngài hơn 200 cây số, mở thêm một bệnh viện khác cho dân chúng trong vùng. Ngài nói với các nữ tu: “ Nếu dân chúng ở đây bị bệnh mà phải đi đến bệnh viện của các sơ thì họ sẽ chết trên đường đến bệnh viện, vì phải mất 6 tiếng đồng hồ mới đến nơi!” Sơ giám tỉnh của Manila đã cầu nguyện và hội ý với các sơ. Có những ý kiến phản đối vì lý do thiếu tài chánh cũng như thiếu nhân lực, nhưng phần lớn các sơ đồng ý với dự án và ban lãnh đạo trung ương của dòng cũng đồng ý. Đó là lúc mà các phép lạ bắt đầu.

Điều đầu tiên các nữ tu cần chính là đất để xây bệnh viện. Một người thuộc gia đình giàu có đã đề nghị tặng cho các sơ mảnh đất do gia đình sở hữu và ông còn mua vé máy bay, trả tiền khách sạn để 4 sơ có thể đến để xem xét. Nhưng sau đó chính quyền cho biết mảnh đất nằm trong vùng nguy hiểm, vì thế các nữ tu lại bắt đầu tìm đất khác. Lúc đó, 3 nữ tu được gửi đến để bắt đầu một chương trình y tế tại cộng đồng ở Catarman. Vì các nữ tu chưa có nhà dòng ở đó nên họ thuê một nhà gần trường đại học Đông Philippines. Tình cờ người bạn của bà chủ nhà biết là các nữ tu đang tìm một nơi để xây dựng bệnh viện, bà đã tặng cho các sở một nửa của mảnh đất 7 mẫu vuông của mình để xây dựng bệnh viện. Thế là các nữ tu có mảnh đất rộng 3 mẫu rưỡi ở Pambujan, miền bắc Samar, để xây bệnh viện. Đây là phép lạ thứ nhất.

Các nữ tu vui mừng vì họ có thể dùng số tiền dành dụm vào việc xây cất. Sơ phụ trách mời một kiến trúc sư thiết kế bệnh viện với 25 giường nhưng số tiền dành dụm của các sơ chưa đủ được một nửa yêu cầu. Thế là phép lạ thứ hai xảy ra. Vào năm 2011, thế giới kỷ niệm 100 năm ngày quốc tế phụ nữ. Tổ chức giải phóng phụ nữ ở New York đã đề ra danh sách 100 phụ nữ nổi bật trên thế giới, trong đó có bà Hillary Clinton, Oprah Winfrey, Melinda Gates (vợ tỉ phú Bill Gates), hoàng hậu Rania Al-Abdullah của Giordani và một ngạc nhiên, đó là nữ tu Mary John, giám tỉnh dòng Biển đức ở Philippines. Báo Philippine Daily Inquirer  của Philippines đưa tin về sự kiện này và một độc giả của bài báo đã muốn gặp sơ Mary John. Đó là một phụ nữ khoảng 45 tuổi, bà hỏi Sơ Mary John xem sơ có dự án nào không. Thế là sơ kể cho bà nghe về giấc mơ xây bệnh viện cho người nghèo ở tỉnh Samar xa xôi đó. Người phụ nữ trả lời: “Tốt, đó là loại dự án mà quỹ của chúng tôi muốn tài trợ.” Rôi bà ta hỏi Sơ Mary John, “Sơ có nhớ tôi không?” Sơ Mary John là khoa trưởng của học viện thánh Scholastica 18 năm nhưng với khoảng gần 2000 học sinh trong thời gian 18 năm, Sơ không thể nhớ nổi phụ nữ này là ai. Bà bắt đầu kể: “Tôi đến từ một gia đình rất nghèo có 10 người con. Chúng tôi nghèo đến nỗi không có được cái bàn để ngồi làm bài vở. Chúng tôi chỉ ngồi ở cầu thang để làm. Sơ đã cho 3 chị em tôi học bổng. Bây giờ một người là quản lý nhà hàng, một người là nhà tâm lý và tôi là kế toán. Không có các học bổng này chúng tôi đã không thể học xong chương trình.” Người phụ nữ này chính là Fe Perez-Agudo, chủ tịch và giám đốc điều hành của hãng Hyundai Á châu và hãng này có một ngân quỹ.

Vài ngày sau, Sơ Mary John và bà Agudo thăm lại học viện thánh Scholastica, bà Agudo chỉ cho Sơ băng ghế gần lối vào, nơi khi còn là học sinh bà thường ngồi đợi cho nguôi cơn đói. Agudo không có tiền ăn trưa, nhưng biết là các nhân viên nấu súp ở đàng sau quầy ăn, nên cô chỉ mua một chén súp. Đôi khi cô còn không có tiền để mua. Bụng đói, Agudo vào nhà nguyện ngồi đợi đến 2 giờ trưa để học lớp kế toán. Thình thoảng một nhân viên không thấy Agudo ở gần quanh đó, đã mang một bát súp đến nhà nguyện cho cô. Bà Agudo đã cam kết là quỹ Hyundai sẽ xây toàn bộ bệnh viện và cả tu viện nối liền cho các nữ tu!

Tháng 5 năm 2013, tu viện của các sơ được khánh thành với 1 trạm xá nhỏ đàng trước. Một nữ tu chữa bệnh cho các bệnh nhân. Bệnh nhân đầu tiên trả công chữa bệnh mang đến một quả bí đao! Các nữ tu nhận rau quả, trứng và có khi cả gà từ các bệnh nhân. Các sơ quyết định là để tùy khả năng của bệnh nhân. Các Sơ phát thuốc miễn phí. Nhưng các sơ cũng lo lắng không biết sẽ lấy đâu ra tiền trả cho các bác sĩ, y tá và các nhân viên khác. Thế là các sơ quyết định lập một quỹ góp vốn để trả lương.

Rồi khi các nữ tu muốn có một phòng khám di động vì dân chúng ở vùng hẻo lánh không có phương tiện đến bệnh viện, thì các sơ lại nhận được sự giúp đỡ từ văn phòng phục vụ của dòng Biển đức để mua một chiếc xe van, và tổ chức Mission trợ giúp tài trợ các dụng cụ. Phép lạ thứ 3! Năm 2014, bệnh viện xây gần xong, chỉ còn thiếu nhà nguyện. Gia đình của vị luật sư định tặng mảnh đất đầu tiên cho các nữ tu đã đóng góp để xây nhà nguyện. Vào tháng 7 năm nay, quý Hyundai đã giao bệnh viện cho các sơ và ngày 28 tháng 8 các Sơ đã có một nhà nguyện xinh đẹp ở giữa bệnh viện. Đó là phép lạ thứ tư.  (National  Catholic Reporter  8/11/2016)

Hồng Thủy

 

Đức Giáo hoàng Phanxicô viết thư cho một bé gái ung thư đang hấp hối

Đức Giáo hoàng Phanxicô viết thư cho một bé gái ung thư đang hấp hối

duc-giao-hoang-phanxico

Vatican City – “Paolina thương mến, tấm hình của con đang ở trên bàn của cha, bởi vì trong ánh nhìn rất đặc biệt của con, cha nhìn thấy ánh sáng của điều tốt lành và ngây thơ vô tội. Cám ơn con đã gửi chúng cho cha!” Một lần nữa, Đức Giáo hoàng Phanxicô đã chiếm được các con tim với lá thư trào dâng nước mắt gửi cho một bé gái người ý đang hấp hối vì bệnh ung thư.

Bức thư đề ngày 22/09, được gửi cho bé Paolina Libraro, 10 tuổi, đang bị ung thư. Mẹ của bé Paolina đã viết thư cho Đức Giáo hoàng xin ngài chúc lành và cầu nguyện cho con gái. Ngài đã  gửi thư trả lời với một vé đặc biệt để tham dự ngày yết kiến chung vào ngày 26/10 mà ngài sẽ có thể chúc lành trực tiếp cho bé Paolina.  Nhưng thật buồn là lúc đó bé Paolina đã quá yếu và không thể đi từ Massafra, một thành phố ở đông nam nước Ý để đến Vatican. Và bé Paolina đã về với Chúa vào ngày 22 tháng 11 và được chôn cất trong ngày.

Trong Thánh lễ an táng của bé Paolina tại nhà thờ thánh Leopold Mandic với sự tham dự của hầu như toàn thành phố nơi em ở, có cả vị thị trưởng thành phố, cha chủ tế Michele Quaranta đã đọc lá thư của Đức Giáo hoàng, trong đó ngài khẳng định là ngài nắm tay ngài với em và với những ai cầu nguyện cho em. Ngài nói: “Bằng cách này chúng ta sẽ làm thành một sợi dây xích dài, cha chắc chắn, sẽ đụng đến trời.” Ngài cũng nhắc Paolina nhớ rằng “mối xích đầu tiên của sợi xích này là con, bởi vì con có Chúa Giêsu trong tim con. Hãy nhớ điều đó!”. Ngài còn bảo Paolina hãy nói với Chúa Giêsu không chỉ về em nhưng về cha mẹ em, “những người cần được giúp đỡ và an ủi rất nhiều trước những bước khó khăn mà họ đang gặp.”

Đức Giáo hoàng còn nói: “Chắn chắn con sẽ rất tốt để đề nghị Chúa Giêsu những điều cần làm cho họ” và ngài yêu cầu Paolina thưa với Chúa Giêsu những gì Chúa cũng cần làm cho ngài trong khi ngài nhắc Chúa điều Chúa cần làm cho Paolina.

Cuối thư, Đức Giáo hoàng nói: “Cha ôm con và chúc lành cho con với trọn trái tim cha, với cha mẹ và những người thân yêu của con.” Chính tay ngài đã ký lá thư. (CNA 03/12/2016)

Hồng Thủy

 

Giáo hội tại Á châu có sứ vụ giúp các gia đình khám phá Chúa Kitô

Giáo hội tại Á châu có sứ vụ giúp các gia đình khám phá Chúa Kitô

duc-hong-y-george-alencherry

Colombo – Giáo hội tại Á châu có sứ vụ giúp các gia đình khám phá Chúa Kitô. Đức Hồng y George Alencherry, Tổng Giám mục trưởng của Ernakulam-Angamaly, bang Kerala, Ấn độ, Chủ tịch Hội đồng Giám mục nghi lễ Syro-Malabar, đã phát biểu như trên trong đại hội của Liên Hội đồng Giám mục Á châu đang diễn ra tại Colombo, Srilanka.

Phát biểu trước 140 đại biểu của đại hội, bao gồm các Hồng y, Tổng Giám mục và Giám mục đến từ khoảng 40 nước thuộc Á châu và một số đại diện như các nhà thần học và các giáo dân dấn thân trong Giáo hội tại Á châu, Đức Hồng y nói: “Chúng ta cần tìm ra Chúa Kitô trong chúng ta để giúp người khác khám phá ra Người trong cuộc sống của các gia đình và dân tộc của chúng ta: đây là truyền giảng Tin mừng.”

Đại hội của Liên Hội đồng Giám mục Á châu được tổ chức 4 năm một lần. Đại hội năm nay có chủ đề “Gia đình Công giáo Á châu: Giáo hội tại gia của người nghèo trong sứ vụ của lòng thương xót. Các Giáo hội tại Á châu đang tự hỏi làm cách nào để làm cho các gia đình Công giáo trở thành dụng cụ loan báo Tin mừng của lòng thương xót.

Đức Hồng y cũng nói thêm: “Trong bối cảnh của Năm Thánh vừa kết thúc, “chúng ta đang khám phá điều gì có thể là sứ vụ của lòng thương xót của gia đình Công giáo ở Á châu. Dường như đối với tôi, hành trình của chúng ta cũng giống hành trình của các Tông đồ: giúp mỗi người gặp Chúa Kitô trong cuộc sống của họ và giúp các gia đình chúng ta khám phá ra sự hiện diện của Chúa Kitô bên trong và bên ngoài các nhân tố gia đình. Đây là sứ vụ chung của Giáo hội, là sứ vụ của các Giám mục, Linh  mục, các tu sĩ, các gia đình.”

Đức Hồng y giải thích: “Các gia đình ở Á châu sống trong bối cảnh đa tôn giáo, bị ảnh hưởng bởi các kiểu gia đình của các tôn giáo khác. Các tôn giáo ở Á châu là một con đường tìm kiếm Thiên Chúa. Đối với các Kitô hữu chúng ta, Chúa Kitô ở trung tâm của chứng tá đức tin của chúng ta. Chính đặc tính duy nhất của Chúa Kitô là món quà của Chúa Kitô cho thế giới, cứu độ và đánh dấu niềm tin của chúng ta. Thiên Chúa nhân từ và Chúa Giêsu bày tỏ cho chúng ta khuôn mặt của lòng thương xót của Thiên Chúa.” Đức Hồng y nhắc là, trong quá khứ, dường như các mục tử đã quên Chúa trong khi chỉ nại đến việc tuân giữ luật mà quên lòng thương xót của Chúa.

Đức Hồng y nhắc nhở rằng: “Các Kitô hữu được gọi nắm lấy sự hiện diện và hành động của Chúa Kitô trong con người và trong tạo vật, như thánh Phanxicô Assisi làm.” Ngài kết luận: “Đã nhìn thấy, đã nghe, đã chạm vào Chúa Kitô, chúng ta không được từ bỏ các phúc lành xuất phát từ việc theo Chúa Kitô. Gia đình chúng ta gặp Chúa Giêsu trong cuộc sống của họ và nhận phúc lành của Người. Hãy biến điều này thành điều thiện ích cho Giáo hội và xã hội Á châu.” (Agenzia Fides 03/12/2016)

Hồng Thủy 

Cầu nguyện cho kẻ sống kẻ chết và chôn xác kẻ chết

Cầu nguyện cho kẻ sống kẻ chết và chôn xác kẻ chết

dtc-phanxico-chuc-lanh-va-cau-nguyen-cho-mot-benh-nhan-trong-buoi-tiep-kien-chung-sang-thu-tu-30-11-2016

Cầu nguyện cho kẻ sống kẻ chết và chôn xác kẻ chết là các công việc của lòng thương xót, diễn tả sự hiệp thông trong Giáo Hội, diễn tả niềm tin vào sự sống lại và lòng biết ơn đối với Thiên Chúa đã ban họ cho chúng ta, và vì tình yêu và tình bạn của họ đối với chúng ta.

ĐTC Phanxicô đã nói như trên với hơn 8,000 ngàn tín hữu và du khách hanh hương tham dự buổi tiếp kiến chung sáng thứ tư trong đại thính đường Phaolô VI.

Mở đầu bài huấn dụ ĐTC nói: với bài giáo lý hôm nay chúng ta kết thúc loạt giáo lý nói về lòng thương xót. Các bài giáo lý kết thúc, nhưng lòng thương xót phải tiếp tục nhé! Chúng ta cám ơn Chúa vì tất cả những điều này, và giữ gìn nó trong tim như sự ủi an và khích lệ. Đề cập đến bổn phận cầu nguyện cho kẻ sống và kẻ chết ĐTC nói:

Công việc cuối cùng của lòng thương xót  tinh thần xin chúng ta cầu nguyện cho kẻ sống và kẻ chết. Chúng ta cũng có thể để bện cạnh công việc này của lòng thương xót thân xác lời mời gọi chôn xác kẻ chết. Lời xin cuối cùng nay xem ra có thể là một lời xin lạ lùng. Nhưng trái lại trong một vài vùng trên thế giới đang sống dưới tệ nạn của chiến tranh, với các cuộc dội bom ngày đêm gieo rắc sợ hãi và các nạn nhân vô tội, công việc này thời sự một cách đáng buồn. Thánh Kinh có một thí dụ đẹp liên quan tới việc này: đó là thí dụ của ông già Tobi liều mạng chôn cất các người chết, mặc dù có lênh cấm của vua (x. Tb 1,17-19; 2,2-4). Cả ngày nay nữa cũng có người liều mạng để chôn cất các nạn nhân chiến tranh. Như vậy công việc này của lòng thương xót thân xác không xa lạ đối với cuộc sống thường ngày của chúng ta.  Và nó khiến chúng ta nghĩ tới điều đã xảy ra ngày Thứ Sáu Tuần Thánh, khi Đức Trinh Nữ Maria cùng với Gioan và vài phụ nữ đứng gần thập giá Chúa Giêsu. Sau khi Chúa chết, ông Giuse Arimathia, là một nguời giầu, thành viên của Thượng Hội Đồng, nhưng đã trở thành môn đệ Chúa Giêsu, đến và cống hiến cho Người ngôi mộ mới đục trong đá. Ông đến gặp quan Philatô và xin xác Chúa Giêsu: đây là một việc đích thật của lòng thương xót, được làm với lòng can đảm lớn (x. Mt 27,57-60). Đối với các kitô hữu việc chôn cất là một hành động đạo đức, nhưng cũng là một hành động của lòng tin lớn lao. Chúng ta đặt trong mộ thân xác của các người thân, với niềm hy vọng họ sống lại (x. 1 Cr 15,1-34). Đây là một nghi thức tồn tại mạnh mẽ và rất được dân kitô cảm nhận, và nó vang vọng trong tháng 11 dành riêng để tưởng nhớ và cầu nguyện  cho các kẻ đã qua đời.

ĐTC nói tiếp trong bài huấn dụ: cầu nguyện cho kẻ qua đời trước hết là một dấu chỉ của lòng biết ơn đối với chứng tá  mà họ đã để lại cho chúng ta, và điều thiện họ đã làm. Đó là một lởi cám ơn Chúa vì đã ban họ cho chúng ta, và vì tình yêu thương và tình bạn của họ đối với chúng ta. Giáo Hội cầu nguyện cho các người đã qua đời một cách đặc biệt trong Thánh Lễ. Vị Linh Mục nói: “Lậy Chúa, xin hãy nhớ đến các tôi tớ Chúa đã ra đi trước chúng con với dấu chỉ của đức tin và ngủ giấc ngủ bình an. Xin hãy ban cho họ và tất cả những người an nghỉ trong Chúa Kitô, hạnh phúc, ánh sáng và bình an” Đây là một tưởng nhớ đơn sơ, hữu hiệu và đầy ý nghĩa, bởi vì nó tín thác các người thân yêu của chúng ta cho lòng thương xót của Thiên Chúa. Chúng ta cầu nguyện với niềm hy vọng kitô cho họ ở với Ngài trên thiên đàng, trong khi chờ đợi được cùng họ ở trong mầu nhiệm tình yêu, mà chúng ta không hiểu, nhưng biết rằng nó có thật, bởi vì đó là một lời hứa Chúa Giêsu đã ban cho chúng ta.Tất cả sẽ sống lại và tất cả sẽ luôn mãi ở với Chúa Giêsu, với Người.

ĐTC nói thêm trong bài huấn dụ cuối cùng về lòng thương xót: Việc tưởng nhớ các người đã qua đời không được làm cho chúng ta quên đi bổn phận cũng phải cầu nguyện cho người sống, là những người đang cùng với chúng ta đương đầu với các thử thách trong cuộc sống thường ngày. Sự cần thiết của việc cầu nguyện này lại càng hiển nhiên hơn nữa, khi chúng ta đặt để nó dưới ánh sáng của lời tuyên xưng đức tin nói rằng: “Tôi tin sự hiêp thông của các thánh”. Đó là mầu nhiệm diễn tả vẻ đẹp của lòng thương xót mà Chúa Giêsu đã mạc khải cho chúng ta. Thật vậy, sự hiệp thông của các thánh chỉ cho thấy chúng ta được chìm ngập trong sự sống của Thiên Chúa, và chúng ta sống trong tình yêu của Ngài. Tất cả, kẻ sống cũng như kẻ chết, chúng ta ở trong sự hiệp thông, nghĩa là chúng ta tất cả hiệp nhất đúng không? như một sự hiệp nhất, hiệp nhất, nghĩa là trong cộng đọàn của những ai đã lãnh nhận bí tích Rửa Tội, đã dưỡng nuôi mình bằng Mình Chúa Kitô, và là thành phần của đại gia đình của Thiên Chúa. Tất cả chúng ta là cùng một gia đình, hiệp nhất. Và vì thế chúng ta cầu nguyện cho nhau.

Đề cập tới các cách thức cầu nguyện khác nhau cho tha nhân ĐTC nói:

Có biết bao kiểu khác nhau cầu nguyện cho tha nhân! Tất cả mọi kiểu đều có giá trị và đều được Thiên Chúa chấp nhận, nếu chúng được làm với con tim. Một cách đặc biệt tôi nghĩ tới các bà mẹ và các người cha chúc lành cho con cái ban sáng và ban tối: trong vài gia đình còn có thói quen này, chúc lành cho con là một lời cầu. Tôi nghĩ tới lời cầu nguyện cho những người bệnh, khi chúng ta đến thăm họ và cầu nguyện cho họ.  Tôi nghĩ tới lời cầu thinh lặng, đôi khi với nước mắt trong biết bao nhiêu tình trạng khó khăn, cầu nguyện cho tình trạng khó khăn này. Hôm qua có một ông tốt lành, một doanh nhân, đến nhà Thánh Marta tham dự thánh lễ. Ông ta đã phải đóng cửa hãng của ông vì không thể tiếp tục nữa, và ông ta, một người đàn ông trẻ, đã  khóc và nói: “Con cảm thấy không thể để cho hơn 50 gia đình không có công việc làm. Con có thể tuyên bố hãng vỡ nợ, và con về nhà với tiền của con, nhưng trái tim con sẽ khóc suốt đời cho 50 gia đình này”. Đó, đây là một kitô hữu giỏi! Đó, ông cầu nguyện với các công việc của ông, ông cầu nguyện. Ông đến tham dự thánh lễ để cầu nguyện xin Chúa cho ông một lối thoát, không phải chỉ cho ông, vì ông đã có nó rồi: việc vỡ nợ. Không, không phải cho ông, mà cho 50 gia đình của các công nhân. Đó là một người biết cầu nguyện, với con tim và với các việc làm, biết cầu nguyện cho người khác.  Đây là một tình trạng khó khăn. Và ông không tìm ngõ thoát dễ nhất: “Thôi để họ tự lo liệu lấy”, không. Đây là một kitô hữu. Lắng nghe ông đã khiến cho tôi được lợi ích biết bao! Và chắc hẳn là ngày nay có biết bao nhiêu người như vậy, trong một lúc khó khăn, trong đó có biết bao người đau khổ vì thiếu công việc làm. Tôi cũng nghĩ tới lời tạ ơn vì một tin vui liên quan tới một người bạn, một người bà con, một đồng nghiệp: “Lậy Chúa cám ơn Chúa vì tin vui này!”, đó cũng là cầu nguyện cho tha nhân, như vậy. Chúng ta cảm tạ Chúa vì các điều tốt đẹp. Đôi khi, như thánh Phaolô nói, “chúng ta không biết phải cầu nguyện cách nào cho phù hợp, nhưng chính Thánh Thần bầu cử cho chúng ta với các rên siết khôn tả” (Rm 8,26). Chính Chúa Thánh Thần cầu nguyện trong chúng ta. Vì thế chúng ta hãy mở rộng con tim, làm sao để Chúa Thánh Thần, là Đấng do thấu các ước mong của chúng ta, có thể thanh tẩy chúng và đưa chúng tới chỗ thành toàn. Dầu sao đi nữa, đối với chúng ta và đối với các người khác, chúng ta hãy luôn luôn xin cho ý Chúa được thể hiện như chúng ta đọc trong Kinh Lậy Cha, bởi vì ý của Ngài chắc chắn là thiện ích lớn lao nhất, là hạnh phúc của một Người Cha, không bao giờ bỏ rơi chúng ta: cầu nguyện và để cho Chúa Thánh Thần cầu nguyện trong chúng ta. Và đây là điều hay đẹp trong cuộc sống: cầu nguyện bằng cách tạ ơn, chúc tụng Thiên Chúa, bằng cách xin điều gì đó, bằng cách khóc khi có điều gì khó khăn, như người đàn ông nói trên, biết bao nhiêu điều. Nhưng con tim luôn luôn rộng mở cho Chúa Thánh Thần để Ngài cầu nguyện trong chúng ta, với chúng ta và cho chúng ta.

Kết thúc các bài giáo lý này về lòng thương xót, chúng ta hãy dấn thân cầu nguyện cho nhau, để các việc của lòng thương xót đối với thân xác và tinh thần luôn ngày càng trở thành kiểu sống của chúng ta. Như tôi đã nói từ đầu, các bài giáo lý kết thúc ở đây. Chúng ta đã duyệt qua 14 công việc của lòng thương xót, nhưng lòng thương xót tiếp tục và chúng ta phải thực thi nó trong 14 cách thức này. Xin cám ơn anh chị em.

Nhân mùng 1 tháng 12 là Ngày quốc tế chống bệnh liệt kháng AIDS, do Liên Hiệp Quốc phát động, ĐTC đã mời gọi nhớ tới các bệnh nhân. Ngài nói: Trên thế giới có hàng triệu người sống với bệnh này và chỉ có phân nửa có được các điều trị cứu sống. Tôi xin mời anh chị em cầu nguyện cho họ và các người thân của họ và thăng tiến tình liên đới, để cả những người nghèo nhất cũng được hưởng việc chẩn bệnh và chữa bệnh thích đáng. Sau cùng tôi kêu gọi tất cả mọi người có cung cách hành xử có trách nhiệm giúp phòng ngừa bệnh lan tràn.

Trong hai ngày mùng 2-3 tháng 12 có đại hội quốc tế về việc bảo vệ gia tài trong các vùng có xung khắc, do sáng kiến của nước Pháp và các Vương quốc A Rập thống nhất. Đây là một đề tài thời sự một cách thê thảm. Trong xác tín việc bảo vệ các gia tài văn hóa thuộc chiều kích nòng cốt của việc bảo vệ con người, tôi cầu chúc cho biến cố này ghi dấu một giai đoạn mới trong tiến trình thực thi các quyền con người.

Chào tín hữu đến từ các nước nói tiếng Pháp, ĐTC nhắc cho mọi người biết Mùa Vọng là dịp canh tân trong con tim ước mong gặp Chúa đến cứu chúng ta. Tôi xin phó thác thời gian đào sâu tinh thần này cho Mẹ Chúa Giêsu: xin Mẹ dẫn chúng ta tới với Con Mẹ, và giúp chúng ta thực thi ý muốn của Chúa trong cuộc sống chúng ta.

Chào các nhóm nói tiếng Anh, đặc biệt các tín hữu Hoa Kỳ, Anh quốc và Philippines ĐTC xin Chúa ban cho họ và gia đình họ niềm vui và sự an bình.

Với các nhóm nói tiếng Đức ngài nhắn nhủ đừng quên cầu nguyện cho các người đã qua đời, kết hiệp với họ sau cái chết, và ngài cầu mong họ có những ngày hành hương Roma bổ ích.

Chào các nhóm nói tiếng Bồ Đào Nha ĐTC nói trong đầu Mùa Vọng chúng ta được mời gọi đi gặp Chúa Giêsu, đang chờ đợi chúng ta nơi tất cả mọi người nghèo mà chúng ta có thể cứu giúp với các công việc của lòng thương xót. ĐTC nói: hôm nay tôi cũng muốn nhớ tới sự khổ đau của nhân dân Brasil vì tai nạn của các cầu thủ túc cầu qua đời và gia đình họ. Tại Italia chúng ta hiểu điều này vì tai nạn xảy ra hồi năm 1949.

Chào các nhóm nói tiếng A Rập ngài xin họ đừng quên cầu nguyện cho những người qua đời tại Syria và vùng Trung Đông, và những người phải sống trong âu lo, kinh hoàng, bạo lực và mất quê hương và người thân vì  chiến tranh. Ngài cũng xin mọi người cầu nguyện cho tất cả những người can đảm liều mình chôn cất người chết và cứu chữa những người bị thương.

Quay qua các nhóm nói tiếng Ý, ĐTC đặc biệt chào các trẻ em bị bệnh đang được điều trị tại nhà thương Chúa Hài Đồng, các chuyên viên kỹ thuật Không quân Fiumicino, các thành viên Liên hiệp các học viện giáo dục mừng kỷ niệm 70 năm thành lập. Ngài khích lệ họ tiếp tục nâng đỡ các trường công giáo để cho cha mẹ được tự do lựa chọn nền giáo dục cho con cái họ.

ĐTC đặc biệt cám ơn phái đoàn tình Cervia đem muối về Roma biếu ĐTC.

Chào các bạn trẻ, người đau yếu và các đôi tân hôn ngài nhắc tới lễ thánh Anrê Tông Đồ, em của thánh Phêrô. Việc thánh nhân chạy đi gặp Chúa là gương sáng nhắc cho các bạn trẻ biết cuộc sống là cuộc hành hương tiến về nhà Cha; sức mạnh của ngài đương đầu với cuộc tử đạo giúp các bệnh nhân chịu đựng đau khổ, và sự hăng say theo Chúa của thánh nhân giúp các đôi tân hôn ý thức tiếp nhận tầm quan trọng của tình yêu trong gia đình.

ĐTC cũng gửi lời chào Giáo Hội Costantinopoli và Đức Thượng Phụ Bartolomaios I yêu quý, và hiệp ý với Đức Thượng Phụ và Giáo Hội anh em Costantinopoli mừng lễ thánh bổn mạng Anrê. Phêrô và Anrê cùng nhau. Và ĐTC cầu chúc Đức Bartolomaios và Giáo Hội Costantinopoli mọi thiện ích và phúc lành của Chúa, và ngài gửi đến Đức Thượng Phụ một vòng tay ôm chào thăm thân ái.

Buổi tiếp kiến đã kết thúc với Kinh Lạy Cha và phép lành toà thánh ĐTC ban cho mọi người.

Linh Tiến Khải

 

Sứ điệp Đức Thánh Cha Ngày Thế Giới lần thứ 54 cầu cho ơn gọi

Sứ điệp Đức Thánh Cha Ngày Thế Giới lần thứ 54 cầu cho ơn gọi

su-diep-duc-thanh-cha-ngay-the-gioi-lan-thu-54-cau-cho-on-goi

VATICAN. Hôm 30-11-2016, Phòng báo chí Tòa Thánh đã công bố sứ điệp của ĐTC nhân ngày thế giới cầu cho ơn gọi lần thứ 54 sẽ được cử hành vào Chúa nhật 7-5-2017 với chủ đề ”Được Chúa Thánh Linh thúc đẩy thi hành sứ mạng truyền giáo”.

Trong sứ điệp ĐTC quảng diễn ý nghĩa chiều kích thừa sai của ơn gọi Kitô: ”Ai để cho mình được tiếng nói của Thiên Chúa thu hút và đi theo Chúa Giêsu, thì họ sẽ sớm khám phá nơi mình ước muốn không thể dập tắt được, mang Tin Mừng đến cho anh chị em qua việc loan báo Tin Mừng và phục vụ bác ái. Tất cả các tín hữu Kitô đều được kêu gọi trở thành những thừa sai của Tin Mừng!”

ĐTC khẳng định rằng ”Giáo Hội đang cần các Linh mục tín thác và thanh thản, sau khi khám phá kho tàng đích thực, quan tâm ra đi, vui mừng phổ biến kho tàng ấy cho tất cả mọi người!” (Xc Mt 13,44).

ĐTC cũng nhắc nhở rằng ”Điều quan trọng là học từ Tin Mừng cách thức loan báo. Thực vậy, nhiều khi với những thiện ý tốt đẹp, có thể xảy ra là người ta chiều theo một thái độ ham muốn quyền bính, chiêu dụ tín đồ hoặc cuồng tín bất bao dung. Trái lại, Tin Mừng mời gọi chúng ta từ khước sự tôn thờ thành công và quyền lực, từ bỏ thái độ quá quan tâm đến các cơ cơ, và có thái độ lo lắng, tương ứng với tinh thần chinh phục hơn là tinh thần phục vụ. Hạt giống Nước Trời, tuy bé nhỏ, vô hình và đôi khi vô nghĩa, nhưng nó âm thầm tăng trưởng nhờ hoạt động không ngừng của Thiên Chúa”.

Trong chiều hướng đó, ĐTC mời gọi các tín hữu tín thác vào Thiên Chúa: ”Chúa vượt lên trên mọi mong đợi của chúng ta và làm cho chúng ta ngạc nhiên vì lòng quảng đại của Ngài, làm nảy sinh những hoa trái từ công việc của chúng ta, vượt lên trên mọi tính toán hiệu năng của con người” (SD 30-11-2016)

G. Trần Đức Anh OP 

 

Liên Hội Đồng Giám Mục Á Châu nhóm Đại hội thứ 11

Liên Hội Đồng Giám Mục Á Châu nhóm Đại hội thứ 11

lien-hoi-dong-giam-muc-a-chau-nhom-dai-hoi-thu-11

COLOMBO. Trong những ngày này, từ 28-11 đến 4-12-2016, Liên HĐGM Á châu đang nhóm đại hội lần thứ 11 tại Negombo, thuộc tổng giáo phận Colombo, thủ đô Sri Lanka.

Đại hội này nhóm 4 năm 1 lần. Lần thứ 10 trước đây, năm 2012, các GM Á châu đã nhóm tại Xuân Lộc và Sàigòn.

Chủ đề khóa họp hiện nay là ”Gia đình Công Giáo tại Á châu: Giáo Hội tại gia của người nghèo trong sứ mạng từ bi thương xót”. Các tham dự viên cũng bàn về ”Niềm vui Phúc Âm và gia đình tại Á châu dưới ánh sáng Thượng HĐGM thế giới”. Các vị đặc biệt quan tâm tới những khó khăn lớn mà các gia đình đang gặp phải: những quan hệ ngoài hôn nhân, sự vắng bóng con cái, số ly dị gia tăng, và những giờ làm việc bên ngoài khiến cho nhiều cha mẹ càng ít giờ cho gia đình, nạn dâm ô lan tràn, phá thai, làm cho chết êm dịu và nạn xuất cư.

ĐTC đã cử ĐHY Telesphore Placidus Toppo, TGM giáo phận Ranchi ở miền đông bắc Ấn độ, làm đặc sứ của ngài tại Đại hội. Khoảng 140 đại biểu của các HĐGM Á Châu, trong đó có Việt Nam, đã đến tham dự Hội nghị.

ĐHY Oswald Gravias, TGM giáo phận Mumbai, Ấn độ, Chủ tịch Liên HĐGM Á châu, trong diễn văn khai mạc đã mời gọi các GM và các tham dự viên đặc biệt cầu nguyện cho tất cả các gia đình và các tín hữu Kitô tại Siria đang chịu thảm cảnh chiến tranh từ hơn 5 năm nay. Ngài nói: ”Chúng ta tụ họp nhau nơi đây để thảo luận và quyết định về gia đình, nhưng chúng ta không thể quên các gia đình ở Siria đang chịu đau khổ, phải di tản và chết chóc, vì cuộc nội chiến. Đặc biệt các tín hữu Kitô đang sống thời điểm thật là khó khăn. Trong đại hội này, chúng ta cần cầu nguyện cho họ”.

Trong khuôn khổ Đại hội, các vị lãnh đạo Công Giáo sẽ gặp gỡ các vị lãnh đạo Phật giáo, Hồi giáo và Ấn giáo.

Vào cuối khóa họp, Liên HĐGM Á châu sẽ công bố một văn kiện chung kết, như một tài liệu hướng dẫn việc mục vụ gia đình tại Á châu.

Chính Phủ Sri Lanka đã giúp 10 triệu Rupee tương đương với gần 66,700 Mỹ kim để góp phần trang trải phí tổn tổ chức và tiến hành Đại hội này.

Liên HĐGM Á châu là một tổ chức được thành lập cách đây 44 năm với sự phê chuẩn của Tòa Thánh và nhắm thăng tiến tình liên đới cũng như tinh thần đồng trách nhiệm của các HĐGM thành viên đối với thiện ích của Giáo Hội và xã hội tại Á châu, đồng thời thăng tiến và bảo vệ bất cứ những gì nhắm đến thiện ích lớn hơn (Ucan 28-11-2016; Asia News 29-11-2016)

G. Trần Đức Anh OP