Cha Adday vượt đường dài chăm sóc cho người Iraq tị nạn tại Thổ nhĩ kỳ

Cha Adday vượt đường dài chăm sóc cho người Iraq tị nạn tại Thổ nhĩ kỳ

Giữa tiếng nhạc thánh ca sốt sắng và hương trầm tỏa nghi ngút, trong bầu không khí tràn đầy vẻ thánh thiêng và tôn kính, cha Remzi Diril, được biết với tên “cha Adday”, một tay cầm chén Máu Thánh và dĩa đựng Mình Thánh, từ từ di chuyển đến từng người, trao Thánh Thể cho hết người này đến người kia. Thánh lễ không được cử hành trong một nhà thờ, nhưng là trong một căn hộ chung cư ở Kirsehir, một thành phố nhỏ ở miền Trung Thổ Nhĩ kỳ, nơi người Hồi giáo chiếm đa số.

Là Linh mục duy nhất thuộc Giáo hội Công giáo Canđê hoạt động mục vụ ở Thổ Nhĩ kỳ, cha Adday đã trở thành một Linh mục du hành, một chiến binh đường phố, mỗi năm cha đi hàng ngàn dặm đường để đến các nơi chăm sóc đoàn chiên của mình, cộng đoàn Kitô hữu người Iraq tị nạn ở Thổ Nhĩ kỳ với khoảng 40 ngàn tín hữu. Từ khi được thụ phong Linh mục cách đây 2 năm, cha Adday, 34 tuổi, đã rửa tội cho hơn 200 trẻ em, làm phép hôn phối cho hơn 20 đôi và ban các nghi thức cho hơn 30 người hâp hối. Năm ngoái cha đã chuẩn bị cho hơn 150 em rước lễ lần đầu, còn năm nay con số các em được lãnh nhận Thánh Thể lần đầu cũng đã lên đến hơn 100 em.

Cha Adday thường di chuyển trên các chuyến bay giá rẻ vì Giáo hội không thể hoàn lại tiền vé máy bay cho cha. Chỉ trừ một số ít trường hợp, như khi cha đến cử hành các ngày lễ hội tôn giáo, thì cha hay các gia đình cha thăm viếng sẽ trả tiền vé. Cha đi đến tận các gia đình để thăm hay cử hành các nghi lễ vì như thế sẽ đỡ tốn kém hơn là cả một gia đình 10 người đi đến tận Istanbul, nơi cư ngụ chính của cha.

Thường khi đến một nơi, cha nhờ vào một mạng lưới trợ giúp, họ nối kết cha với các cộng đoàn Kitô hữu Iraq địa phương. Ví dụ, cha bay chuyến bay giá rẻ từ Istanbul đến Nevsehir, một thành phố ở miền trung Thổ Nhĩ kỳ, rồi từ đó cha đi xe buýt thêm gần 100 cây số để đến Kirsehir, nơi cha sẽ gặp gia đình một tín hữu. Cha đã đến đây lần thứ 8, cha nói: “Đây là gia đình của tôi ở Kirsehir. Ở mỗi thành phố, tôi có một gia đình. Đôi khi có hơn một gia đình.” Vợ chồng tín hữu này giữ vai trò liên lạc cho cha Adday. Sau khi đã đón tiếp cha đến căn hộ chung cư của họ và mời cha một ít nước trà và bánh ngọt, họ bắt đầu gọi điện thoại. Họ rất quen thuộc với 225 gia đình người Iraq ở tại thành phố và họ đang nối kết cuộc hành trình của vị Linh mục.

Miền đất Kirsehir này giữ một vai trò quan trọng trong lịch sử Kitô giáo. Các Kitô hữu tiên khởi đã đến đây để trốn tránh cuộc bách hại của đế quốc Roma. Ngày nay, các di tích của các thánh đường do các tín hữu xưa kia xây vẫn còn được viếng thăm. Tuy vậy, không có nhà thờ Công giáo nào hoạt động trong vùng. Do đó, khi cha Adday đến thăm, cha cử hành Thánh lễ tại các gia đình như các Kitô hữu tiên khởi đã làm. Nếu thuê một phòng hội để cử hành Thánh lễ thì sẽ tốn khoảng 900 đô la; số tiền đó tốt hơn là để chi trả cho phí tổn để có thể thăm nhiều gia đình hơn. Thường có khoảng 10 gia đình được mời dự lễ, với khoảng 30 thành viên. Các Thánh lễ tại các nhóm nhỏ mang lại những kinh nghiệm khác với Thánh lễ trong một nhà thờ. Cha Adday chia sẻ: “Thánh lễ tại gia đình giống như một gia đình. Người cha và các con cái chia sẻ vinh quang của Chúa. Nó khác như là  xem một cuốn phim trong một rạp chiếu phim và xem ở gia đình.” Sau Thánh lễ, cha Adday thăm một phụ nữ Iraq bị ung thư. Con gái của bà vừa khóc vừa mở cửa phòng ngủ, lo lắng về sức khỏe của người mẹ. Sức khỏe của bệnh nhân hết sức mỏng manh yếu đuối; cha Adday cầu nguyện một vài phút, rồi cha xức dầu thánh cho bà.

Rất nhiều người trong số những người cha Adday đến thăm, đã sống vài năm trời ở Thô nhĩ kỳ trong khi chờ đợi đơn xin tị nạn đến các nước như Úc, Canada và Hoa kỳ được chấp thuận. Thời gian chờ đợi thường kéo dài và thời gian chờ đợi bấp bênh như thế này sinh ra nhiều vấn đề thể lý cũng như tâm lý đối với họ. Cha Adday hiểu là những người tị nạn này cần sự trợ giúp thiêng liêng. Họ cần một Linh mục. Họ muốn Giáo hội ở với họ. Cha biết là cha không thể giúp cho họ về vật chất nhưng cha có thể cho họ thời gian và niềm hy vọng. Cha nói: “Khi bạn để đàn chiên của bạn ở trên núi, bạn không thể biết điều gì sẽ xảy ra với chúng, nhưng khi bạn ở với chúng thì khác. Bạn có thể chỉ cho chúng nơi nào có nước, nơi nào là chỗ bình an để trú ngụ. Những người tị nạn giống như những đứa con nhỏ chờ đợi cha của chúng.”

Sau hai ngày một đêm bận rộn ở Kirsehir, cha Adday chuẩn bị trở lại Istanbul. Cha đã cử hành 5 Thánh lễ và thăm viếng nhiều gia đình nhưng cha không cảm thấy mệt mỏi. Cha hy vọng là những lần viếng thăm của cha giúp họ thêm vững mạnh về tinh thần và gần gũi với Giáo hội và đức tin của họ vào Chúa Giêsu được làm mới thêm. Mọi Kitô hữu cần phải làm mới lại đời sống thiêng liêng. Cha cũng hy vọng trao cho ho niềm hy vọng và nhắc nhở họ rằng Chúa làm những phép lạ và do đó họ cần tin tưởng. Cha nói với giáo dân hãy để Chúa làm những công việc cho họ. Người là Cha chúng ta và Người muốn điều tốt nhất cho chúng ta. (CNS 28/11/2016)

Hồng Thủy

Nhà thờ thánh Calisto ở khu Trastevere, Roma đón người vô gia cư qua đêm

Nhà thờ thánh Calisto ở khu Trastevere, Roma đón người vô gia cư qua đêm

Vatican – Những ngày qua các quốc gia đang hứng chịu những ngày giá rét và thời tiết khắc nghiệt. Nhiều trường hợp chết vì giá lanh của  người vô gia cư đã được ghi nhận ở các nới.

Trước tình hình khó khăn này, từ thứ 7 tuần trước, nghĩa là từ ngày 7/1, nhà thờ thánh Calisto ở khu vực Trastevere, Roma đã mở cửa để cho những người sống trên đường phố không nơi trú ngụ có thể tìm được nơi trú ngụ qua đêm.

Nhà thờ này và các cơ sở phụ thuộc là vùng ngoại giới, tài sản trực thuộc Tòa thánh. Nhà thời là nơi thờ phượng cổ kính, được xây cất xung quanh một giếng nước nơi Đức giáo hoàng Calisto I tử đạo, vào năm 222. Tòa nhà hiện tại được xây cất vào thế kỷ XVII. Nhà thờ này được trao cho cộng đồng thánh Egidio và cộng đồng tổ chức các hoạt động phụng tự và giáo lý, đặc biệt cho những người cao niên và khuyết tật.

Hiện tại có khoảng 30 người, gồm người Italia và ngoại quốc, thường sống ngoài đường phố, được nghỉ đêm trong nhà thờ và trong các nơi liền kề, được sưởi ấm và được cung cấp giường, chăn mền và các dịch vụ vệ sinh. Các khách cư trú này có thể ăn tối từ 19 giờ chiều trở đi tại nhà ăn gần đó ở đường Via Dandolo và do đó có thể đến nhà thờ từ khoảng 20-22 giờ. Họ rời nhà thờ vào khoảng 8 giờ sáng.

Việc đón tiếp những người vô gia cư được giúp đỡ bởi các tình nguyện viên của cộng đồng thánh Egidio; những người này sẽ luân phiên hiện diện suốt trong những giờ nhà thờ mở cửa. Mỗi khách trọ được các tình nguyện viên giúp đỡ, đồng hành trong việc tìm giải pháp cho những nhu cầu vật chất và sưc khỏe của họ. Những ngày sau khi được tiếp đón tại đây họ sẽ tìm kiếm, nếu có thể, nơi có tình trạng tiếp đón ổn định hơn.

Tại Torino, Tổng giáo phận cũng đã tham gia vào việc giúp đỡ nhiều người nghèo khổ cần được giúp đỡ trong những ngày giá lạnh.

Tổng Giáo phận đã quyết định nới rộng “nhà ngủ” ở đường Via Cappel Verde, tại trung tâm lịch sử, dùng một tầng khác của tòa nhà làm nơi ngủ cho những người vô gia cư. Tại đây các khách trọ có thể ăn sáng và ăn tối. Hoạt động này được thực hiện cùng với sự cộng tác của Ser.Mi.G.

Bên cạnh đó, Đức cha Cesare Nosiglia – Tổng Giám mục của Torino đã kêu gọi các giáo xứ và các dòng tu làm hết sức để giúp những người vô gia cư. (ACI 13/01/2017)

Hồng Thủy

Tự hỏi lòng mình để sống ngày hôm nay

Tự hỏi lòng mình để sống ngày hôm nay

Cuộc sống của chúng ta là một ngày sống, ngày không thể lặp lại. Hôm nay, chúng ta đừng cứng lòng, nhưng hãy mở tâm hồn mình cho Thiên Chúa. Đức Thánh Cha nói như thế trong thánh lễ sáng nay tại nhà nguyện Marta.

Sống ngày hôm nay

Tôi nói điều này không phải là để dọa anh chị em, rằng thật đơn giản khi nói: cuộc sống của chúng ta chính là ngày hôm nay: ngay bây giờ hoặc không bao giờ. Tôi nghĩ thế. Ngày mai sẽ là ngày mai của vĩnh cửu, ngày mai không bao giờ cùng, ngày mai mãi mãi ở bên Chúa. Nếu tôi thực sự sống ngày hôm nay, tôi hỏi Chúa Thánh Thần: Lạy Chúa, con phải sống như thế nào trong ngày hôm nay?

Mở cõi lòng cho Thiên Chúa

Trong trái tim của chúng ta, có cuộc chơi dành cho chính ngày hôm nay. Chúng ta có mở rộng tâm hồn mình cho Chúa không? Tôi thường cảm thấy được đánh động khi nhìn và lắng nghe những bậc cao niên, thường là các linh mục và nữ tu, nói với tôi: “Thưa cha, xin hãy cầu nguyện để con bền đỗ tới cùng.” – “Nhưng các vị đã dâng hiến trọn đời, đã sống mọi ngày trong cuộc đời để phục vụ Chúa rồi, còn sợ gì nữa…?” – “Không, không, con muốn cuộc sống được trọn vẹn, xin hãy cầu nguyện để lòng con mạnh mẽ trong đức tin, và không bị chiều theo những cám dỗ những tội lỗi…”

Tự hỏi lòng mình về ngày hôm nay

Ngày hôm nay không thể lặp lại: cuộc sống là thế. Và tâm hồn, hãy mở cõi lòng, mở cõi lòng mình cho Thiên Chúa, hãy vừng tin, đừng khép tâm hồn, đừng cứng lòng, đừng bị tội lỗi lừa dối. Chúa Giêsu đã từng gặp quá nhiều người đóng cửa tâm hồn: đó là các kinh sư, đó là những người đã kết án Chúa, là những người chuyên gài bẫy Chúa.

Chúng ta trở về nhà chỉ với hai từ này: “ngày hôm nay” và “tâm hồn tôi”. Đây là ngày hôm nay của tôi sao? Ngày hôm nay tôi thế nào? Tôi có sống trong sự hiện diện của Chúa không? Tâm hồn tôi ra sao? Lòng tin của tôi có mạnh mẽ không? Tâm hồn tôi có được dẫn dắt bởi Chúa không? Với câu hỏi về ngày hôm nay và câu hỏi về cõi lòng mình, chúng ta hãy xin Chúa ban những ơn cần thiết cho mỗi người chúng ta. 

Tứ Quyết SJ

Yurek, người vô gia cư được chữa lành nhờ Đức cha Sorrentino của Assisi

Yurek, người vô gia cư được chữa lành nhờ Đức cha Sorrentino của Assisi

Buổi chiều ngày khai mạc Năm Thánh Lòng thương xót, khí hậu ở thành phố Assisi rất lạnh. Khi Đức cha Domenico Sorrentino, Giám mục của Giáo phận đang trên đường từ nhà thờ thánh Rufino trở về Tòa Giám mục, một nữ tu đã đưa ngài đến chỗ của Yurek, một người Ba lan vô gia cư 60 tuổi. Yurek không có gia đình thân thuộc, ông sống lang thang trên đường phố Assisi từ vài năm nay. Niềm vui của ông là rượu; ông say rượu từ sáng sớm cho đến chiều tối. Tất cả dân thành phố Assisi hầu như đều biết ông, đặc biệt là các nhân viên cứu hộ là những người mà dân chúng thường gọi đến, khi họ thấy ông Yurek say rượu nằm nửa sống nửa chết trên đường phố.

Khi Đức cha Sorrentino tìm thấy Yurek, như mọi ngày, ông đang say rượu, nằm trên đất lạnh lẽo và có nguy cơ là sẽ bị chết cóng vào trời đêm giá rét. Đức cha Sorrentino nhận ra đây là một tình huống khó khăn phức tạp, nhưng ngài không muốn tháo lui, từ chối giúp ông Yurek. Và quả thật, không hề dễ dàng để đưa ông về tòa giám mục. Ban đầu ông Yurek cự tuyệt, từ chối không muốn đi theo Đức cha, vì ông đã quen với đời sống lang thang, làm bạn với rượu chè. Nhưng cuối cùng Đức cha đã thuyết phục được Yurek và đưa ông về tòa giám mục với mình. Sau đó Đức cha đã gửi ông đến trung tâm tiếp nhận của Caritas.

Chính nhờ cuộc gặp gỡ với vị Giám mục này mà cuộc đời của người vô gia cư Yurek được cứu vớt. Thời gian đầu thật là khó khăn để giúp Yurek. Ông ta cứ tiếp tục uống rượu và cơ thể ông ngày thêm suy nhược. Nếu mà người ta cố gắng lấy rượu đi và không cho ông uống nữa thì ông sẽ bỏ đi, vì ông không thể sống mà không được uống rượu. Sau nhiều lần nhập viện và sức khỏe có vấn đề trầm trọng, được các y tá và các nhân viên tình nguyện của Caritas trợ giúp, bệnh nghiện rượu của ông đã chấm dứt. Người ta cũng sợ là ông sẽ bị nghiện lại, nhưng phép lạ đã xảy ra. Từ ngày đó trở đi, ông không còn đụng đến rượu nữa. Mỗi ngày ông thức dậy sớm và bắt đầu quét dọn sạch sẽ ngôi vườn của trung tâm Caritas cách cẩn thận. Trước đó, ngay cả việc vệ sinh cá nhân ông cũng chẳng thèm quan tâm, nhưng bây giờ ông vệ sinh cá nhân và căn phòng của ông luôn luôn sạch sẽ ngăn nắp. Ông cũng đặt hai cái ghế và một cái bàn nhỏ để tiếp đón những người đến thăm ông. Tất cả những người đã biết ông trước đây và bây giờ khi nhìn thấy ông, họ không thể tin vào mắt của mình. Ông bây giờ đã trở thành một người đàn ông khác,sạch sẽ, lịch sự và vui tươi.

Việc cai nghiện thành công và thay đổi cuộc sống của Yurek quả thật là một phép lạ của Năm Thánh Lòng thương xót, như Đức cha Sorrentino nhìn nhận. Ngài mời gọi mọi người cám ơn Chúa về sự cứu sống này. Nhiều bệnh nhân đã đến bệnh viện và trung tâm Caritas, nhưng họ cũng nhận nhiều rủi ro trong việc cai nghiện. Sau câu chuyện cai nghiện thành công và đổi đời  của Yurek, có một bài học luân lý căn bản; đó là chỉ khi được đụng chạm đến sâu thẳm, con người mới có thể đứng dậy và bắt đầu hướng về tương lai. Như cha Stefano Tondelli, phó giám đốc Caritas giáo phận Assisi nhận định: “Có lẽ Yurek cảm thấy được yêu thương, tìm được một chiếc giường để ngã lưng mỗi ngày, những điều này giúp cho ông có động lực để sống, để biết chăm sóc bản thân và thoát khỏi sự tuyệt vọng mà có lẽ đã đẩy ông vào con đường ngập chìm trong rượu chè. Chính Đức cha Sorrentino cũng nhìn nhận răng, ông Yurek là niềm vui Chúa ban cho cộng đoàn, đó là được nhìn thấy hoa trái bé nhỏ nhưng lớn lao của niềm hy vọng tình yêu.

Mới đây ông Yurek đã được Đức cha Sorrentino mời đến ăn trưa cùng với cộng đoàn các nữ tu và cha Tondelli. Như thế, sau 3 thiếu nữ người Nigeria, Đức cha cũng đã mở cánh cổng nhà ngài để đón tiếp người bạn Yurek này. (Aleteia.it  28/11/2016)

Hồng Thủy

 

Các thần tượng giả ăn cắp sự tụ do và biến con người thành nô lệ chúng

Các thần tượng giả ăn cắp sự tụ do và biến con người thành nô lệ chúng

Khi tin tưởng vào các thần tượng bằng vật chất, hay do trí óc chúng ta làm ra, khi biến các thực tại hạn hẹp thành tuyệt đối, khi giản lược Thiên Chúa vào các lược đồ và tư tưởng của chúng ta, biến Ngài thành một vị thần giống chúng ta, có thể hiểu được, thấy trước được như các thần tượng vô hồn, là chúng ta đặt hy vọng vào hư vô. Chỉ khi tin tưởng nơi Chúa chúng ta mới trở nên như Ngài, phước lành của Ngài biến đổi chúng ta thành con cái chia sẻ sự sống của Ngài.

ĐTC Phanxicô đã nói như trên với 8.000 tín hữu và du khách hành hương tham dự buổi tiếp kiến chung sáng thứ tư hàng tuần hôm qua trong đại thính đường Phaolô VI.

Trong bài huấn dụ ĐTC đã đề cập tới niềm hy vọng như nhu cầu sơ đẳng của con người: hy vọng vào tương lai, tin tưởng nói sự sống, suy nghĩ tích cực. Mùa Vọng và mùa Giáng Sinh là thời gian của năm phụng vụ nhằm thức tỉnh nơi dân Thiên Chúa niềm hy vọng. Nhưng thật quan trọng là niềm hy vọng ấy phải đặt để vào điều có thể thực sự giúp chúng ta sống và trao ban ý nghĩa cho cuôc đời mình. Chính vì thế mà Thánh Kinh cảnh báo chúng ta chống lại các niềm hy vọng giả dối, các niềm hy vọng giả dối này mà thế gian trình bầy với chúng ta, bằng cách lột mặt nạ sự vô ích của chúng và chỉ cho thấy cái vô nghĩa của chúng. Và Thánh Kinh làm điều đó bằng nhiều cách thế, nhất là bằng cách tố cáo các thần tượng giả mà con người liên tục bị cám dỗ đặt để niềm tin tưởng của nó, bằng cách biến nó trở thành đối tượng niềm hy vọng của mình.

Tiếp tục bài huấn dụ ĐTC nói: đặc biệt các ngôn sứ và các người khôn ngoan nhấn mạnh trên điều ấy, bằng cách đụng chạm tới điểm nhức nhối trên con đường lòng tin của tín hữu. Và ĐTC giải thích như sau:

Bởi vì tin là tín thác nơi Thiên Chúa – ai tin thì tín thác nơi Thiên Chúa – nhưng tới lúc trong đó, khi phải đụng chạm với các khó khăn của cuộc sống, con người cảm nghiệm được sự giòn mỏng của sự tin tưởng của nó và cảm thấy cần có các chắc chắn khác nhau, các chắc chắn cụ thể, có thể sờ mó được. “Tôi tín thác nơi Thiên Chúa, nhưng tình hình hơi xâu một chút, và tôi cần một sự chắc chắn hơi cụ thể môt chút.” Và ở đó, nguy hiểm là ở đó. Và khi đó chúng ta bị cám dỗ tìm cả các an ủi mau qua, xem ra lấp đầy sự trống rỗng của nỗi cô đơn và làm nhẹ bớt cái mệt nhọc của việc tin tưởng.

** Và chúng ta nghĩ có thể tìm chúng trong an ninh. mà nó có thể cho – chẳng hạn – tiền bạc hay trong các liên minh với những người quyền thế; hoặc trong tinh thần thế tục; hay trong các ý thức hệ dối trá. Nhưng chúng ta thích các thần tượng, chúng ta thích các thần tượng biết bao! Có một lần nọ, tại Buenos Aires, tôi phải đi từ nhà thờ này đến nhà thờ khác, cách nhau ít nhiều khoảng một ngàn mét. Và tôi đi bộ. Ở giữa hai nhà thờ có một công viên, và trong công viên có rất nhiều các bàn nhỏ, nơi có các thầy bói ngồi; và có rất đông ngưòi xếp hàng dài chờ. Bạn đưa bàn tay cho họ, và họ bắt đầu nói. Nhưng diễn văn luôn luôn giống nhau: có một phụ nữ trong cuộc đời ông, có một bóng đen đang đến, nhưng mọi sự sẽ thành công tốt… Và rồi bạn trả tiền. Điều này có trao ban an ninh cho bạn không? Đó là một sự chắc chắn – xin anh chị em cho phép tôi dùng từ này – của một sự ngu độn – Nhưng đó là một thần tượng: tôi đã đi tới bà thầy bói ông thầy bói, hay tôi đã đi coi bài – Tôi biết là không có ai trong anh chị em làm điều này đúng không? – Tín hữu cười – và tôi đã thành công hơn. Nó làm tôi nhớ tới cuốn phim có tựa đề “Phép lạ tại Milano” của người làm cái đó, thật là thối cái mũi… giá 100 đồng Lire. Họ bắt bạn trả tiền để cho họ ca tụng bạn, trao ban cho bạn một niềm hy vọng giả dối. Đó là thần tượng, và chúng ta gắn bó biết bao với chúng: chúng ta mua các niềm hy vọng giả dối. Và Đấng là niềm hy vọng của sự nhưng không, Đấng đã trao ban cho chúng ta Chúa Giêsu Kitô, một cách nhưng không, đã cho chúng ta sự sống, Đấng ấy thì chúng ta không tin tưởng bao nhiêu…

Đôi khi chúng ta tìm chúng nơi một thần linh có thể cúi gập trước các đòi hỏi của chúng ta, và can thiệp một cách kỳ điệu để biến đổi thực tại, và làm cho nó trở thành như chúng ta muốn; nghĩa là một thần tượng và như là thần tượng nó không thể làm gì hết, bất lực và dối trá.

Có một thánh vịnh tràn đầy khôn ngoan miêu tả cho chúng ta một cách hết sức gợi ý cái giả dối của các thần tượng này, mà thế gian cống hiến cho niềm hy vọng của chúng ta, và con người thuộc mọi thời đại bị cám dỗ đặt tin tưởng nơi chúng. Đó là thánh vịnh 115. Thánh vịnh viết như thế này: “Tượng thần chúng chỉ là vàng bạc, chỉ do tay người thế tạo thành. Có mắt có miệng, không nhìn không nói, có mũi có tai, không ngửi không nghe. Có hai tay, không sờ không mó có hai chân, không bước không đi, từ cổ họng, không thốt ra một tiếng. Ước gì kẻ làm ra hoặc tin ở tượng thần cũng giống như chúng vậy.” (Tv 115,4-8).

Tác giả thánh vịnh trình bầy với chúng ta một cách châm biếm thực tại tuyệt đối phù du của các thần tượng này. Và ĐTC giải thích thêm điểm này như sau:

** Và chúng ta phải hiểu rằng đây không chỉ là các hình tượng làm bằng kim loại và chất liệu khác, nhưng cũng là các hình tượng mà trí óc chúng ta xây dựng nữa, khi chúng ta tin tưởng nới các thực tại hạn hẹp mà chúng ta biến thành tuyệt đối, hay khi chúng ta giản lược Thiên Chúa vào các lược đồ và tư tưởng về thần linh của chúng ta; một thần linh giống chúng ta, có thể hiểu và tiên liệu, y như các thần tượng mà thánh vịnh nói tới. Con người là hình ảnh của Thiên Chúa, chế tạo một thần linh theo hình ảnh của nó, và cũng là một hình ảnh vụng về: không nghe, không cử động và nhất là không thế nói. Nhưng chúng ta lại hài lòng đi tới với các thần tượng hơn là đi tới với Chúa. Chúng ta càng hài lòng hơn với niềm hy vọng phù du trao ban điều giả dối này, thần tượng này hơn là niềm hy vọng vĩ đại chắc chắn mà Chúa ban cho chúng ta…

ĐTC nói thêm trong bài huấn dụ: đối chọi với niềm hy vọng nơi một Chúa của sự sống, là Đấng với Lời của Ngài đã tạo dựng nên thế giới và hướng dẫn cuộc sống của chúng ta, người ta tin tưởng nơi các thần tượng câm nín. Các ý thức hệ, với các yêu sách tuyệt đối của chúng, các giầu sang – và đây là một thần tượng lớn – các giầu sang, quyền lực và thành công, sự phù vân, với các ảo tưởng vĩnh cửu và toàn năng của chúng, các giá trị như vẻ đẹp vật lý và sức khỏe, khi chúng trở thành thần tượng cần phải hy sinh mọi sự, tất cả chúng đều là các thực tại làm lẫn lộn tâm trí, và thay vì tạo điều kiện cho sự sống thì nó dẫn đưa tới cái chết.

Thật là xấu xa nghe biết và gây đau đớn cho tâm hồn điều, mà cách đây nhiều năm tôi đã nghe được trong giáo phận kia: có một phụ nữ một phụ nữ giỏi giang, rất đẹp, đẹp lắm, và bà khoe khoang sắc đệp của bà, bà bình luận như thể là chuyện tự nhiên: “Ô, vâng tôi đã phải phá thai, vì gương mặt tôi quan trọng lắm”.Thế đó… Đây là các thần tượng,  chúng đưa bạn tới con đường sai lầm, và không trao ban cho bạn niềm hạnh phúc.

Sứ điệp của thánh vịnh rất rõ ràng: nếu ta đặt tin tưởng nơi các thần tượng, thì ta cũng trở thành như chúng: là các hình ảnh trống rỗng với tay không sờ mó, với chân không bước đi, miệng không thể nói. Ta không còn gì để nói nữa, ta trở thành không có khả năng trợ giúp, thay đổi các sự vật, không có khả năng cười, trao ban chính mình, không có khả năng yêu thương. Và cả chúng ta là các ngưòi của Giáo Hội, chúng ta cũng gặp nguy cơ này khi chúng ta “trần tục hoá chính mình”. Cần phải ở trong thế gian, nhưng bảo vệ chính mình khỏi các ảo tưởng của thế gian là các thần tượng này mà tôi đã nêu trên đây.

Như thánh vịnh tiếp tục, cần phải tín thác và hy vọng nơi Thiên  Chúa, và Thiên  Chúa sẽ chúc phúc. Thánh vinh nói: “Nhà Ít-ra-en, hãy tin cậy Chúa, chính Chúa độ trì, làm thuẫn đỡ khiên che. Nhà A-ha-ron, hãy tin cậy Chúa… Ai kính sợ Chúa hãy tin cậy Chúa …Chúa nhớ đến ta và sẽ ban phúc cả: sẽ chúc phúc” (Tv 115,9-11). Chúa luôn luôn nhớ, cả trong những lúc xấu xa, nhưng Ngài nhớ đến chúng ta. Và đó là niềm hy vọng của chúng ta. Và niềm hy vọng không gây thất vọng. Không bao giờ. Không bao giờ gây thất vọng. Các thần tượng luôn luôn gây thất vọng: chúng là các tưởng tượng, chúng không thật.

** Đây là thực tại tuyệt vời của niềm hy vọng: khi tín thác nơi Chúa ta trở thành như Ngài, phúc lành của Ngài biến đổi chúng ta, biến đổi chúng ta thành con cái Ngài, chía sẻ sự sống của Ngài. Niềm hy vọng nơi Thiên Chúa làm cho chúng ta bước vào trong ánh sáng hoạt động của kỷ niệm của ký ức Ngài chúc lành cho chúng ta và cứu rỗi chúng ta. Và khi đó có thể vọt lên tiếng Alleluia, chúc tụng Thiên Chúa hằng sống và chân thật, là Đấng vì chúng ta đã sinh ra từ Đức Maria, đã chết trên thập giá và sống lại trong vinh quang. Và nơi vì Thiên Chúa này chúng ta hy vọng, và Thiên Chúa này không phải là một thần tượng, không bao giờ gây thất vọng.

ĐTC đã chào các nhóm hành hương nói tiếng Pháp, đặc biệt các đại chủng sinh chủng viện Saint Sulpice Issy- les -Moulineaux; các đoàn hành hương đến từ Hoa Kỳ, Australia và Nhật Bản; cũng như các nhóm nói tiếng Đức, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha,  và Ba Lan. Ngài nói thế giới cống hiến cho chúng ta biết bao niềm hy vọng giả, thay vì trao ban tin tưởng chúng ăn cắp sự tự do và biến chúng ta trở thành nô lệ của chúng. Các thần tượng cũng như ma tuý hứa hẹn niềm vui, nhưng lại ăn cướp sự tự do. Vì thế việc chữa lành nô lệ các thần tượng trước hết là nhận biết chúng, quyết định thoát khỏi, can đảm từ bỏ chúng, và nhất là đặt niềm hy vọng nơi Thiên Chúa thật hằng sống là Chúa Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại.

Chào các nhóm Ba Lan ĐTC nói năm nay Ba Lan mừng 100 năm tu huynh Alberto Chmielowski sinh ra.  Tôi khuyến khích anh chị em noi gương vị thánh của lòng thương xót, anh em của những người vô gia cư, dân nghèo và những người bị gạt bỏ ngoài lề xã hội, để đem tình yêu thương, bác ái và niềm hy vọng tới cho mọi người.

ĐTC cũng lưu ý tín hữu đừng để mình bị lừa bởi những kẻ xấu muốn làm tiền họ, vì các vé tham dự tiếp kiến đều hoàn toàn miễn phí.

Trong các nhóm tiếng Ý ngài đặc biệt chào các linh mục giáo sư các chủng viện, học viện thành viên chi nhánh đại học giáo hoàng Urbaniana của Bộ Truyền Giáo. Chào các bạn trẻ người đau yếu và các đôi tân hôn ĐTC nhắc tới lễ Chúa chịu phép rửa Chúa Nhật vừa qua. Ngài khích lệ mọi người tái khám phá ra ơn bí tích Rửa Tội đã nhận lãnh, và kín múc từ đó niềm tin nơi Giáo Hội, sức mạnh giúp đối phó với khổ đau bệnh tật và lòng can đảm dấn thân trong cuộc sống gia đình.

Buổi tiếp kiến đã kết thúc với Kinh Lậy Cha và phép lành toà thánh ĐTC ban cho mọi người.

Linh Tiến Khải.

Đức Thánh Cha tiếp kiến ngoại giao đoàn cạnh Tòa Thánh

Đức Thánh Cha tiếp kiến ngoại giao đoàn cạnh Tòa Thánh

VATICAN. Trong buổi tiếp kiến sáng ngày 9-1-2017 dành cho Ngoại giao đoàn cạnh Tòa Thánh, ĐTC đã nói về đề tài ”an ninh và hòa bình” trên thế giới.

Ngài lên án nạn khủng bố trên thế giới, đề cao tầm quan trọng của tự do tôn giáo, loại trừ những nguyên nhân bất hòa gây ra chiến tranh, giải quyết vấn đề di dân và tị nạn, bảo vệ thiên nhiên như căn nhà chung, lên án nạn buôn bán võ khí, tái lập hòa bình tại Irak, Siria, và Yemen.

Buổi tiếp kiến bắt đầu lúc 10 giờ rưỡi trước sự hiện diện của đại diện 182 quốc gia và các tổ chức quốc tế.  Sau lời chào mở đầu của vị Niên trưởng ngoại giao đoàn cạnh Tòa Thánh, là Đại Sứ của Angola, Ông Armindo Fernandes do Espírito Santo Vieira, ĐTC đã lên tiếng chào thăm tất cả các vị đại sứ và cám ơn vị niên trưởng ngoại giao đoàn, và ngài hài lòng ghi nhận trong năm qua, con số các vị đại sứ cạnh Tòa Thánh thường trú ở Roma gia tăng, với việc thiết lập quan hệ ngoại giao giữa Tòa Thánh và Cộng hòa Hồi giáo Mauritanie cách đây 1 tháng. Ngài cũng cám ơn nhiều vị Đại sứ thường trú ở Roma, con số gia tăng trong năm ngoái, và cả các Đại sứ không thường trú. Ngài cũng nhắc đến các cuộc viếng thăm của các vị Quốc trưởng và Thủ tướng tại Tòa Thánh trong năm qua, trùng vào Năm Thánh Lòng Thương Xót, cũng như việc ký kết nhiều hiệp định thư giữa Tòa Thánh và một số nước.

ĐTC nhắc đến sự kiện cách đây đúng 100 năm thế giới đang ở giữa thế chiến thứ I, năm 1917, cuộc chiến ngày càng trở nên cuộc chiến hoàn cầu. 100 năm sau, nhiều nơi trên thế giới được hưởng an bình lâu dài, tạo cơ hội cho sự phát triển kinh tế và những hình thức an sinh chưa từng có. Nhưng nhiều nơi trên thế giới, hàng triệu người vẫn đang sống giữa các cuộc xung đột vô nghĩa.

Hòa bình hồng ân của Thiên Chúa và vai trò của tôn giáo

ĐTC nói: ”Vì vậy, tôi muốn dành cuộc gặp gỡ hôm nay để nói về đề tài an ninh và hòa bình, vì trong bầu không khí sợ hãi nói chung đối với hiện tại, và sự bất định, lo âu về tương lai hiện nay, tôi thấy cần nói lên một lời hy vọng, và chỉ cho thấy một viễn tượng hành trình.

Cách đây vài ngày chúng ta đã cử hành Ngày Thế Giới hòa bình lần thứ 50, ngày này đã được vị tiền nhiệm của tôi, Chân phước Phaolô 6 thiết lập [….). Đối với các tín hữu Kitô, hòa hình là một hồng ân của Chúa, được các thiên thần tung hô và ca hát khi Chúa Kitô sinh ra: ”Vinh danh Thiên Chúa trên các tầng trời và bình an dươi thế cho những người Chúa thương” (Lc 2,14). Hòa bình là một thiện ích tích cực, là ”kết quả của trật tự Thiên Chúa in vào xã hội loài người”, và không phải chỉ là sự vắng bóng chiến tranh. Hòa bình không thể thu hẹp vào việc quân bình hóa các thế lực đối nghịch nhau, đúng hơn nó đòi hỏi sự dấn thân của những người thiện chí nồng nhiệt khao khát một nền công chính ngày càng hoàn hảo hơn.

Trong viễn tượng đó, tôi bày tỏ xác tín mạnh mẽ rằng mỗi biểu hiện tôn giáo đều được kêu gọi thăng tiến hòa bình. Tôi đã có thể cảm nghiệm điều đó một cách ý nghĩa trong Ngày Thế Giới cầu nguyện cho hòa bình, nhóm tại Assisi hồi tháng 9 năm ngoái, trong đó các đại diện tôn giáo họp nhau cùng mang lại tiếng nói cho những người đau khổ, những ngừơi không có tiếng nói, cũng như trong cuộc viếng thăm của tôi tại Đại Hội đường Do thái ở Roma hoặc Đền thờ Hồi giáo ở thành phố Baku.

Chúng ta biết không thiếu những bạo lực vì lý do tôn giáo, đi từ chính Âu châu này, nơi mà những chia rẽ lịch sử giữa các tín hữu Kitô đã kéo dài quá lâu. Trong cuộc viếng thăm mới đây của tôi ở Thụy Điển, tôi đã muốn nhắc nhở nhu cầu cấp thiết phải chữa lành những vết thương quá khứ và đồng hành tiến về những mục tiêu chung. Nơi căn bản của cuộc đồng hành như thế không thể thiếu cuộc đối thoại chân thành giữa các tôn giáo khác nhau. Đó là một cuộc đối thoại có thể thực hiện và là điều cần thiết, như tôi đã chứng tỏ trong cuộc gặp gỡ tại Cuba với Đức Thượng Phụ Kirill thành Mascơva, cũng như trong các cuộc tông du của tôi tại Armeni, Giorgia, và Azerbaigian, những nơi mà tôi nhận thấy khát vọng chính đáng của dân chúng muốn giải quyết các cuộc xung đột từ lâu đang làm thương tổn sự hòa hợp và hòa bình.

Đồng thời, chúng ta cũng không nên quên nhiều công trình, lấy hứng từ tôn giáo, đang góp phần vào việc xây dựng công ích, qua việc giáo dục, từ thiện, nhất là trong những vùng khó khăn và là nơi diễn ra xung đột. Nhiều khi việc đóng góp ấy được thực hiện tới mức độ hy sinh của các vị tử đạo. Các công trình đó góp phần vào hòa bình và cho thấy cách thức người ta có thể sống cụ thể và làm việc chung với nhau, dù thuộc các dân tộc, văn hóa và truyền thống khác nhau, nếu phẩm giá con người được đặt ở trung tâm mọi hoat động của mình.

Lên án lạm dụng tôn giáo để khủng bố

ĐTC nêu nhận xét: ”Rất tiếc chúng ta thấy rằng ngày nay kinh nghiệm tôn giáo, thay vì cởi mở đối với tha nhân, nhiều khi nó có thể bị lạm dụng để khép kín, gạt ra ngoài lề và gây ra bạo lực. Tôi đặc biệt nghĩ đến nạn khủng bố do trào lưu cực đoan, trong năm qua đã đốn ngã nhiều nạn nhân trên thế giới: tại Afganistan, Bangladesh, Bỉ, Burkina Faso, Ai Cập, Pháp, Đức, Giordani, Irak, Nigeria, Pakistan, Hoa Kỳ, Tunisi và Thổ Nhĩ Kỳ. Những vụ khủng bố ấy là những hành vi hèn nhát, dùng các trẻ em để giết người, như tại Nigeria; tấn công những người đang cầu nguyện, như tại Nhà thờ chính tòa Copte ở Cairo, những người du hành hoặc làm việc, như ở Bruxelles, những người đi dạo ở đường phố như ở Nice và Berlin, hoặc những người đón mừng năm mới như ở Istanbul.

Đó là một sự sát nhân điên rồ, lạm dụng danh Thiên Chúa để gieo chết chóc, trong toan tính khẳng định ý muốn thống trị và quyền lực. Vì thế tôi kêu gọi tất cả các vị lãnh đạo tôn giáo hãy hiệp sức để mạnh mẽ tái khẳng định rằng không bao giờ có thể giết người nhân danh Thiên Chúa. Nạn khủng bố do trào lưu cực đoan là kết quả của một sự lầm than trầm trọng về tinh thần, kèm theo đó có một sự nghèo nàn về mặt xã hội. Nó chỉ có thể hoàn toàn bị đánh bại với sự đóng góp chung của các vị lãnh đạo tôn giáo và chính trị. Các vị lãnh đạo tôn giáo có nhiệm vụ thông truyền các giá trị tôn giáo không chấp nhận sự đối nghịch giữa lòng kính sợ Thiên Chúa và tình yêu tha nhân. Các vị lãnh đạo chính trị có nhiệm vụ bảo đảm trong lãnh vực công cộng quyền tự do tôn giáo, nhìn nhận sự đóng góp tích cực và xây dựng mà tự do tôn giáo thi hành trong việc xây dựng xã hội dân sự, trong đó người ta không thể coi như những điều đối nghịch giữa một đàng là sự thuộc về xã hội theo nguyên tắc quyền công dân, và bên kia là chiều kích tinh thần của cuộc sống. Ngoài ra, người cai trị có trách nhiệm tránh tạo nên những hoàn cảnh bị biến thành môi trường thuận tiện cho sự lan tràn chủ nghĩa duy căn cực đoan. Điều này đòi phải có những chính sách xã hội thích hợp để bài trừ nạn nghèo đói, cùng với sự thăng tiến chân thành giá trị của gia đình, như nơi ưu tiên để con người triển nở và cần đầu tư dồi dào vào lãnh vực giáo dục và văn hóa.

 Nghĩa vụ của các vị lãnh đạo tôn giáo và chính quyền

”Về vấn đề này, tôi quan tâm đón nhận sáng kiến của Hội đồng Âu Châu về chiều kích tôn giáo, đối thoại liên văn hóa, năm ngoái có chủ đề là vai trò của giáo dục trong việc phòng ngừa sự cực đoan hóa, dẫn đến nạn khủng bố và cực đoan bạo lực. Đó là một cơ hội để đào sâu sự đóng góp của hiện tượng tôn giáo và vai trò của giáo dục cho việc bình định hóa xã hội, vốn là điều cần thiết cho sự sống chung trong một xã hội đa văn hóa.

Theo nghĩa đó tôi muốn bày tỏ xác tín này: mỗi chính quyền không thể chỉ giới hạn vào việc bảo đảm an ninh cho các công dân của mình mà thôi – ý niệm này có thể dễ dàng thu hẹp vào một thứ sống yên hàn – nhưng họ còn được kêu gọi cổ võ và thi hành hòa bình. Hòa bình là một nhân đức tích cực, đòi phải có sự dấn thân và cộng tác của mỗi cá nhân cũng như của toàn thể xã hội. Như Công đồng chung Vatican II đã nhận xét, ”hòa bình không bao giờ là điều đạt được một lần cho tất cả, nhưng là một tòa nhà cần được liên tục xây dựng”, bằng cách bảo vệ thiện ích của con người, tôn trọng phẩm giá của họ. Xây dựng hòa bình trước tiên đòi phải từ bỏ bạo lực khi đòi hỏi các quyền của mình. Tôi đã dành Sứ điệp Ngày Hòa Bình thế giới năm nay, 2017, để nói về nguyên tắc đó. Sứ điệp có tựa đề là ”Bất bạo động: một đường lối chính sách hòa bình”, trước tiên kêu gọi làm sao để bất bạo động là một đường lối chính trị, dựa trên công pháp và phẩm giá của mỗi người”.

Loại trừ những nguyên nhân cản trở việc xây dựng hòa bình

”Xây dựng hòa bình cũng đòi phải loại trừ những nguyên nhân bất hòa tạo nên chiến tranh, bắt đầu từ những bất công. Thực vậy có một liên hệ mật thiết giữa công lý và hòa bình. Như Thánh Gioan Phaolô 2 đã nhận xét, vì công lý của con người luôn mong manh và bất toàn, có những giới hạn và chịu ảnh hưởng của lòng ích kỷ cá nhân và nhóm, nên công lý ấy phải được thực thi, và bổ túc bằng sự tha thứ chữa lành các vết thương và tái lập sâu xa các quan hệ giữa con người đã bị xáo trộn […]. Tha thứ không hề trái ngịch với công lý, nhưng đúng hơn, nó nhắm đến sự sung mãn của công lý, đến sự yên hàn trong trật tự, chữa lành trong chiều sâu cho các vết thương làm tâm hồn rướm máu. Để đạt được sự chữa lành như thế, công lý và tha thứ đều là những điều thiết yếu”. Những lời này, ngày nay có tính chất thời sự hơn bao giờ hết, đã được sự sẵn sàng đón nhận của một số vị Quốc trưởng và thủ tướng chính phủ đối với lời mời gọi của tôi và đã thực hiện một cử chỉ ân xá đối với các tù nhân. […]

Lòng thương xót

Tôi xác tín rằng đối với nhiều người, Năm Thánh đặc biệt về Lòng Thương Xót là một cơ hội đặc biệt thích hợp để khám phá ảnh hưởng to lớn và tích cực của lòng thương xót như một giá trị xã hội. Mỗi người có thể góp phần tạo nên một nền văn hóa lòng thương xót, dựa trên sự tái khám phá cuộc gặp gỡ tha nhân: một nền văn hóa trong đó không ai nhìn người khác trong sự dửng dưng, và cũng không ngoái nhìn đi nơi khác để không thấy sự đau khổ của những người anh em”. Chỉ như thế chúng ta mới có thể kiến tạo những xã hội cởi mở và hiếu khách đối với người ngoại quốc và đồng thời được an ninh và hòa bình trong quốc nội. Điều này càng cần thiết ngày nay, đang lúc có những làn sóng di dân đông đảo ở nhiều nơi trên thế giới. Tôi đặc biệt nghĩ đến những người tị nạn và di tản ở một số miền ở Phi châu, Đông Nam Á, và những người chạy trốn khỏi những vùng xung đột ở Trung Đông. (…)

Vấn đề di dân

”Vấn đề di dân là một vấn đề không thể để cho một vài nước lãnh đạm dửng dưng, trong khi những nước khác phải hỗ trợ gánh nặng nhân đạo, nhiều khi với những cố gắng lo lớn và khó khăn nặng nề, để đương đầu với tình trạng cấp thiết dường như vô tận. Tất cả đều phải cảm thấy mình là những người xây dựng và góp phần vào công ích quốc tế, kể cả qua những cử chỉ nhân đạo cụ thể, như những yếu tố thiết yếu hòa bình và phát triển mà các quốc gia và hàng chiều người đang chờ đợi. Vì thế tôi biết ơn các nước quảng đại đón nhận những người ở trong tình trạng ở trong tình trạng cần được giúp đỡ, bắt đầu từ các nước Âu Châu, đặc biệt là Italia, Đức, Hy Lạp và Thụy Điển.

”Tôi vẫn còn giữ ấn tượng mạnh về cuộc viếng thăm tôi đã thực hiện tại đảo Lesvos, cùng với những người anh em của tôi là Đức Thượng Phụ Barlolomaios và Đức TGM Ieronymos; tại đảo đó tôi đã thấy và động chạm đến tình trạng thê thảm của các trại tị nạn, và cũng thấy tình nhân đạo và tinh thần phục vụ của nhiều người dấn thân trợ giúp người tị nạn. Không được quên sự đón tiếp của các nước Âu Châu và Trung Đông, trong đó có Liban, Giordani, Thổ Nhĩ Kỳ, cũng như sự dấn thân của nhiều nước Phi châu và Á châu. Cả trong cuộc viếng thăm của tôi ở Mêhicô, nơi tôi đã cảm nghiệm niềm vui của dân Mêhicô, tôi đã thấy gần gũi hàng ngàn người di dân từ Trung Mỹ, họ phải chịu những bất công kinh khủng và những nguy hiểm khi tìm cách đạt được một tương lai tốt đẹp hơn, họ là nạn nhân của những vụ bóc lột và là đối tượng buôn bán đáng lên án, một hình thức nô lệ tân thời là nạn buôn người.

Trong phần kế tiếp của bài diễn văn dài, ĐTC tố giác quan niệm thu hẹp về con người, góp phần phổ biến bất chính, sự bất bình đẳng xã hội và hiện tượng tham nhũng… Tệ nạn lạm dụng trẻ em và người trẻ bị cưỡng bách lao động, hoặc bị lạm dụng như ngài đã viết trong thư gửi các GM nhân ngày lễ các Thánh Anh hài mới đây. Ngoài ra có những ngừơi trẻ đang chịu đau khổ vì chiến tranh và xung đột, như cuộc xung đột thảm khốc tại Siria.

Chống lại tình trạng chiến tranh trên đây, ĐTC kêu gọi bài trừ nạn buôn bán ma túy cũng như sự chạy đua sản xuất và phổ biến các võ khí ngày càng tối tân. Ngài không quên vấn đề bảo vệ môi trường và nói rằng:

Chăm sóc thiên nhiên

”Xây dựng hòa bình cũng có nghĩa là tích cực hoạt động để chăm sóc thiên nhiên. Hiệp định Paris về khí hậu mới bắt đầu có hiệu lực là một dấu chỉ quan trọng về sự dấn thân chung để để lại cho những người đến sau chúng ta một thế giới đẹp đẽ và có thể sống được. Tôi cầu mong nỗ lực đã được thực hiện trong thời gian gần đây để đương đầu với những thay đổi khí hậu ngày càng tìm được sự cộng tác rộng rãi của tất cả mọi người, vì trái đất là nhà chung của chúng ta, và cần để ý rằng những chọn lựa của mỗi người có ảnh hưởng trên cuộc sống của tất cả.

Động đất

”Nhưng một điều hiển nhiên là có những hiện tượng vượt quá khả năng của hoạt động con người. Tôi muốn nói đến nhiều vụ động đất xảy ra tại một số miền trên thế giới. Trước tiên tôi nghĩ đến những vụ động đất ở Ecuador, Italia, và Indonesia, gây ra nhiều nạn nhân, và nhiều người vẫn còn phải sống trong những điều kiện bấp bênh. Tôi đã đích thân viếng thăm một số vùng bị động đất ở miền trung Italia. Tại đây tôi đã nhận thấy những vết thương mà động đất gây ra cho một miền đất phong phú về nghệ thuật và văn hóa, tôi đã có thể chia sẻ đau khổ của bao nhiêu người đồng thời lòng can đảm của họ và quyết tâm tái thiết những gì đã bị phá hủy. Tôi cầu mong rằng tình liên đới đã liên kết nhân dân Italia trong những giờ sau các trận động ấy đất tiếp tục linh hoạt toàn thể đất nước, nhất là trong thời điểm khó khăn của lịch sử. Tòa Thánh và Italia đặc biệt gắn bó với nhau vì những lý do lịch sử văsn hóa và địa lý. Mối liên hệ ấy đặc biệt hiển nhiên trong Năm Thánh và tôi cám ơn tất cả các giới chức chính quyền Italia vì sự giúp đỡ trong việc tổ chức biến cố ấy, và bảo đảm an ninh cho các tín hữu hành hương từ các nơi đến đây.”

G. Trần Đức Anh OP 

Giáo hội Công giáo Hàn quốc đã có 6000 Linh mục

Giáo hội Công giáo Hàn quốc đã có 6000 Linh mục

Seoul – Theo tin địa phương hôm thứ 3, cho đến nay, đã có hơn 6000 người Hàn quốc được lãnh nhận thiên chức Linh mục trong Giáo hội Công giáo.

Trong niên giám năm 2017 mới được phát hành, Hội đồng Giám mục Hàn quốc ghi nhận là cho đến ngày 30/09/2016, số Linh mục được thụ phong là 6021 vị.

Danh sách này bao gồm cả cha Anrê Kim, Linh mục đầu tiên người Hàn quốc và là thánh tử đạo, thường được biết với tên khai sinh là Kim Dae-geon.

Trong tổng số hơn 6000 Linh mục, hiện có 5021 vị vẫn đang hoạt động trong khi 560 vị đã qua đời và 440 vị đã hồi tục. (Asia News 11/01/2017)

Hồng Thủy

Chúa Giêsu giảng dạy như Đấng có thẩm quyền

Chúa Giêsu giảng dạy như Đấng có thẩm quyền

Chúa Giêsu giảng dạy như Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư, vì Chúa sống như người phục vụ, vì Chúa gần gũi và thương mến mọi người, vì Chúa nói và làm nhất quán. Đức Thánh Cha chia sẻ như thế trong thánh lễ sáng nay tại nhà nguyện Marta.

Có thẩm quyền là nhờ phục vụ mọi người

Chúa Giêsu phục vụ mọi người. Chúa đến để phục vụ. Và điều ấy người dân hiểu rất rõ. Chúa mang lấy tâm tình và thái độ của người phục vụ, và việc phục vụ ấy cho thấy Người là Đấng có uy quyền. Nhưng đối với các tiến sĩ luật thì lại khác. Dân chúng nghe họ nói, tôn trọng họ, nhưng chẳng cảm thấy chút gì là thẩm quyền, là quyền uy từ những lời các vị tiến sĩ luật cả. Bởi lẽ, các tiến sĩ luật nói: chúng tôi là những bậc thầy, chúng tôi có các quy luật, và chúng tôi sẽ dạy các quy luật ấy cho anh em. Chúng tôi ra lệnh và anh em vâng theo. Như thế, chẳng có gì là phục vụ cả. Chúa Giêsu không bao giờ làm ra vẻ như một hoàng tử, nhưng Chúa luôn luôn là người phục vụ mọi người. Và chính từ việc phục vụ này, Chúa trao ban quyền uy của Chúa.

Có thẩm quyền là nhờ gần gũi người dân

Các luật sĩ xa cách người dân, các luật sĩ chẳng thân thiện gì. Chúa Giêsu rất gần gũi người dân, và từ sự gần gũi đó diễn tả uy quyền của Chúa. Có những luật sĩ sống tách biệt, và họ giảng dạy với thẩm quyền giáo sĩ, với tâm thức họ có quyền của một người giáo sĩ, ngay cả theo kiểu tâm thức giáo sĩ trị.

Tôi rất thích đọc về sự gần gũi mà Chân Phước Giáo Hoàng Phaolô VI viết trong số 48 của Tông huấn Loan Báo Tin Mừng. Ngài viết: Bạn nhìn thấy sự gần gũi của tâm hồn người chăn chiên: đó chính là uy quyền của vị Giáo Hoàng, sự gần gũi. Trước tiên, cần là người tôi tớ của những tôi tớ trong khiêm tốn: người làm đầu phải là người phục vụ, phục vụ mọi người. Đó là một sự đảo lộn. Thay vì chỉ đạo mọi người thì Chúa Giêsu đã sống như người phục vụ. Thứ nhất chính là phục vụ và thứ hai là sự gần gũi.

Có thẩm quyền là nhờ lời nói đi đôi với việc làm

Có những người không nhất quán, không trước sau như một và tâm tính của họ bị phân mảnh. Họ nói mà chẳng làm, họ nói thế này rồi làm thế khác. Đó là sự mâu thuẫn. Có nhiều lần Chúa Giêsu trách mắng những người như thế là quân đạo đức giả, là kẻ giả hình. Anh em đã hiểu rằng, có những người luôn cảm thấy mình là ông hoàng, luôn mang lấy nơi mình thái độ giáo sĩ trị, và đó chính là thói đạo đức giả, và những điều ấy chẳng có chút gì là thẩm quyền. Còn Chúa Giêsu, Chúa đã phục vụ, đã gần gũi mọi người, không coi thường một ai trong dân, Chúa nói và làm đồng nhất, những điều ấy chính là thẩm quyền là quyền uy của Chúa. Đây chính là thẩm quyền mà dân của Thiên Chúa lắng nghe và cảm thấy.

Tứ Quyết SJ

Chúng ta đang bước theo Chúa Giêsu là Đấng Cứu Độ duy nhất

Chúng ta đang bước theo Chúa Giêsu là Đấng Cứu Độ duy nhất

Đời sống của người Kitô hữu không cần những gì là khác lạ và khó khăn, nhưng là cuộc sống đơn sơ biết đặt Chúa Giêsu là trung tâm của những chọn lựa hàng ngày. Đức Thánh Cha chia sẻ như thế trong thánh lễ sáng nay tại nhà nguyện Marta, nhân ngày đầu tiên của mùa Thường Niên.

Sau những ngày Giáng Sinh, chúng ta bắt đầu mùa Phụng vụ mới, mùa Thường Niên, nhưng trung tâm của đời sống người Kitô hữu luôn là Chúa Giêsu, vì Người là Lời đầu tiên và vĩnh cửu của Chúa Cha, Đấng là Chủ Tể vũ trụ, là Đấng Cứu Độ thế gian. Ngoài Người ra, không còn Đấng nào khác.

Trung tâm của đời sống chúng ta là chính Chúa Giêsu Kitô. Chính Chúa đã tỏ mình cho chúng ta, và chúng ta được mời gọi để nhận ra Người trong cuộc sống, trong những hoàn cảnh khác nhau của cuộc sống, để nhận ra Người để nhận biết Người. Nhưng có người trong anh chị em nói: “Thưa cha, con biết cuộc đời các thánh, con biết các cuộc hiện ra và còn hơn thế nữa.” “Đúng thế, các thánh là các thánh, các ngài thật vĩ đại! Không phải tất cả các cuộc hiện ra đều chân thực!” Các thánh thì quan trọng nhưng tâm điểm phải là Chúa Giêsu Kitô. Không có Chúa Giêsu Kitô thì sẽ không có các thánh. Câu hỏi được đặt ra ở đây là: Trung tâm đời sống của tôi có phải là Chúa Giêsu Kitô không? Mối tương quan giữa tôi và Chúa Giêsu là gì? Có ba việc giúp chúng ta nhận thấy chắc chắc rằng, Chúa Giêsu là trung tâm của đời mình.

Nhận biết Chúa Giêsu

Việc thứ nhất là biết Chúa Giêsu để còn nhận ra Người. Nhiều người đã không nhận biết Chúa, giống như các kinh sư, các thượng tế, các luật sĩ, những người phái Xađốc, phái Pharisêu. Thậm chí họ còn kết án Chúa, còn giết Chúa. Chúng ta tự hỏi: Điều gì giúp cho ta có thể nhận biết Chúa Giêsu? Đó là cầu nguyện xin ơn Chúa Thánh Thần, đó là đọc Tin Mừng mỗi ngày. Chúa Thánh Thần sẽ tiếp tục làm việc. Ngài sẽ làm cho những hạt giống nảy mầm và trổ sinh hoa trái.

Thờ lạy Chúa Giêsu

Việc thứ hai là thờ phượng Chúa Giêsu. Đừng chỉ xin Người điều này điều nọ, cũng đừng chỉ cám ơn Người. Thờ phượng Chúa trong thinh lặng, trong khoảng lặng của tâm hồn. Không gì có thể đáng mến đáng quý cho bằng một mình Thiên Chúa.

Có lời cầu nguyện ngắn trong Kinh Sáng Danh “Sáng Danh Đức Chúa Cha, Đức Chúa Con và Đức Chúa Thánh Thần”, nhưng nhiều lần chúng ta đọc như vẹt. Lời cầu nguyện này chính là lòng tôn thờ, tôn vinh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Tôn thờ, cùng với những lời nguyện ngắn, và trong thinh lặng trước sự cao cả của Thiên Chúa, chúng ta thờ lạy Chúa Giêsu và thân thưa: “Lạy Chúa, Chúa là Đấng duy nhất, Chúa là khởi thủy và là tận cùng. Con muốn ở với Chúa trong sự sống của Chúa, trong sự vĩnh cửu viên mãn của Chúa. Chúa là Đấng duy nhất.”

Bước theo Chúa Giêsu

Nhiệm vụ thứ ba là bước theo Chúa Giêsu. Bài Tin Mừng hôm nay nói về việc Chúa Giêsu kêu gọi các môn đệ đầu tiên. Điều ấy có nghĩa là đặt Chúa Giêsu làm trung tâm của đời sống chúng ta.

Đó chính là đời sống của người Kitô hữu. Đời sống ấy rất đơn sơ, nhưng chúng ta cần ân sủng của Chúa Thánh Thần để Ngài khơi lên trong lòng chúng ta ước muốn nhận biết Chúa Giêsu, để thờ lạy Người và bước theo Người. Chúng ta cầu nguyện để có sức mạnh làm điều ấy trong từng ngày của cuộc đời.

Tứ Quyết SJ

Kinh truyền tin với Đức Thánh Cha: 8-1-2017

Kinh truyền tin với Đức Thánh Cha: 8-1-2017

VATICAN. Mặc dù trời giá lạnh, 20 ngàn tín hữu hành hương đã đến tham dự buổi đọc kinh Truyền Tin với Đức Thánh Cha trưa ngày 8-1-2017 tại Quảng trường Thánh Phêrô.

Trong bài huấn dụ ngắn trước khi đọc kinh Truyền Tin, ĐTC đã quảng diễn ý nghĩa bài Tin Mừng thuật lại biến cố Chúa Giêsu chịu phép rửa tại sông Giordan. Ngài nói:

”Hôm nay lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa, Tin Mừng (3,13-17) trình bày cho chúng ta cảnh tượng nơi sông Giordan: giữa đám đông hối nhân đến cùng thánh Gioan Tẩy Giả để nhận phép rửa cũng có cả Chúa Giêsu. Ngài cũng xếp hàng. Gioan muốn ngăn cản Ngài đừng làm như thế và nói: ”Chính tôi mới là người cần được Ngài rửa cho' (Mt 3.,14). Thực vậy Thánh Gioan Tẩy Giá ý thức khoảng cách lớn giữa thánh nhân và Chúa Giêsu. Nhưng Chúa Giêsu đến chính là để lấp đầy khoảng cách giữa con người và Thiên Chúa: nếu Ngài hoàn toàn là Thiên Chúa, thì hoàn toàn là con người, và Ngài kết hợp những gì đã bị phân rẽ. Vì thế, Chúa Giêsu xin Gioan làm phép rửa cho, để hoàn tất mọi công lý (Xc v.15), nghĩa là thực hiện kế hoạch của Chúa Cha, tiến qua con đường vâng phục và liên đới với con người yếu đuối và tội lỗi, con đường khiêm hạ và hoàn toàn gần gũi của Thiên Chúa vơi các con cái Ngài. Vì Thiên Chúa rất gần gũi chúng ta!

”Sau khi được Gioan làm phép rửa, Chúa Giêsu từ sông Giorđan bước lên, có tiếng Chúa Cha phán từ trên cao: ”Đây là con yêu dấu của Ta: đẹp lòng Ta mọi đàng” (v.17). Đồng Thời Thánh Linh, dưới hình chim bồ câu, đậu xuống trên Chúa Giêsu, và công khai khởi sự sứ mạng cứu độ của Người; Sứ mạng theo kiểu một người đầy tớ khiêm nhường và hiền lành, chỉ có sức mạnh của chân lý, như ngôn sứ Isaia đã tiên báo: ”Người sẽ không kêu to, không lên giọng,..[…] không bẻ gẫy cây sậy đã bị dập, không dập tắt tim đèn còn ngún; Người sẽ công bố công chính với sự thật” (42,2-3).

ĐTC nhận xét rằng: Đầy tớ khiêm hạ và hiền lành. Đó là đường lối của Chúa Giêsu và cách thức truyền giáo của các môn đệ Chúa Kitô: Loan báo Tin Mừng trong sự hiền lành và cương quyết, không kiêu hãnh hoặc áp đặt. Truyền giáo đích thực không bao giờ là chiêu dụ tín đồ nhưng là thu hút về cùng Chúa Kitô. Nhưng làm cách nào? thưa bằng chứng tá của chúng ta, đi từ sự kết hiệp mật thiết với Chúa trong kinh nguyện, trong sự thờ lạy và qua bác ái cụ thể, phục vụ Chúa Giêsu hiện diện nơi người bé nhỏ nhất trong số các anh em. Noi gương Chúa Giêsu, mục tử nhân lành và thương xót, được ơn thánh của Chúa linh hoạt, chúng ta được kêu gọi biến cuộc sống của mình thành một chứng tá vui mừng soi sáng con đường mang hy vọng và yêu thương”

Lễ này làm cho chúng ta tái khám phá hồng ân và vẻ đẹp là một dân được rửa tội, nghĩa là chúng ta là những tội nhân, nhưng đã được ơn thánh của Chúa Kitô cứu vớt, được thực sự tháp thập vào quan hệ con thảo của Chúa Giêsu với Chúa Cha, nhờ Thánh Linh, được đón nhận vào lòng Mẹ Giáo Hội, có khả năng được một tình huynh đệ vô tận và không có hàng rào nào.

Và ĐTC kết luận rằng: Xin Đức Trinh Nữ Maria giúp tất cả các tín hữu Kitô giữ cho ý thức luôn sinh động và biết ơn về phép rửa và trung thành tiến bước trên con đường mà bí tích tái sinh chúng ta đã mở ra, và luôn luôn khiêm tốn, hiền lành và cương quyết”.

Chào thăm

Sau khi ban phép lành cho các tín hữu, ĐTC cho biết ngài đã rửa tội ban sáng trước đó cho 28 trẻ em, và hôm thứ bảy vừa qua (7-1-2017), ngài đã rửa tội cho một dự tòng. Ngài nói: ”Tôi muốn cầu nguyện cho tất cả các cha mẹ trong mùa này đang chuẩn bị cho một người con mình chịu phép rửa hoặc mới được rửa tội. Tôi khẩn cầu Thánh Linh xuống trên họ và các con cái để bí tích này, đơn sơ và đồng thời rất quan trọng, được sống với niềm tin tưởng và vui mừng.

ĐGC cũng mời mọi người hiệp với ”Mạng kinh nguyện của Giáo Hoàng trên hoàn cầu”, phổ biến qua các mạng xã hội, những ý chỉ cầu nguyện mà ngài đề nghị mỗi tháng cho toàn Giáo Hội. Như thế việc tông đồ cầu nguyện được tiến hành và làm gia tăng niềm hiệp thông.

Sau cùng, ĐTC mời gọi mọi người ”nghĩ đến tất cả những người sống trên đường phố, đang bị lạnh, và nhiều khi chịu sự dửng dưng lãnh đạm. Tiếc là có phải người chết vì lạnh. Chúng ta hãy cầu nguyện cho họ và xin Chúa sưởi ấm tâm hồn chúng ta để có thể giúp đỡ họ.”

Thời tiết giá lạnh ở Italia đã làm cho 8 người chết (so với 53 người chết tại Ba Lan). Đức TGM Krajewski, Chánh sở từ thiện của ĐTC đã mở các nhà ngủ 24 tiếng đồng hồ để đón những người vô gia cư đến trú ngụ. Ai không muốn đến những nơi đó, thì có 2 chiếc xe minibus của sở này cho họ ngủ đêm. Ngoài ra, họ cũng được phát các túi ngủ ấm.

G. Trần Đức Anh OP 

Đức Thánh Cha rửa tội cho 28 hài nhi

Đức Thánh Cha rửa tội cho 28 hài nhi

VATICAN. Nhân lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa, 8-1-2017, ĐTC Phanxicô đã ban phép rửa tội cho 28 hài nhi và mời gọi các cha mẹ bảo tồn và làm tăng trưởng đức tin cho con cái.

Thánh lễ rửa tội bắt đầu lúc 9 giờ rưỡi và kéo dài 2 tiếng đồng hồ tại nhà nguyện Sistina trong dinh Tông Tòa. 28 hài nhi gồm 15 nam và 13 nữ, hầu hết là con của các nhân viên Vatican. Trong số các em nam, có 4 em mang tên thánh là Phanxicô.

Đây là lần thứ 4 ĐTC ban phép rửa tội cho các hài nhi tại Nhà nguyện Sistina, cũng là nơi được dùng làm mật nghị bầu giáo hoàng, và nổi danh với các bức bích họa của Michelangelo, được các du khách viếng thăm nhiều nhất trong số các tác phẩm nghệ thuật tại viện bảo tàng Vatican.

Phụ giúp ĐTC trong thánh lễ này có 3 Tổng Giám Mục, 1 GM và 13 giám chức khác, trước sự hiện diện của khoảng 300 người, trong đó có 56 cha mẹ của các em được rửa tội.

Bài giảng của ĐTC

Trong bài giảng vắn tắt, ĐTC ứng khẩu nhắc nhở các cha mẹ và những người hiện diện về ý nghĩa bí tích rửa tội và nói:

”Anh chị em đã xin đức tin cho con cái. Đức tin sẽ được ban trong phép rửa tội, nghĩa là cuộc sống đức tin, vì đức tin cần phải được sống, tiến bước trên con đường đức tin và làm chứng về đức tin. Đức tin không phải là đọc kinh Tin Kính những ngày chúa nhật trong thánh lễ mà thôi. Đức tin là tin chân lý: Thiên Chúa là Cha đã sai Con của Ngài và Thánh Linh làm cho chúng ta được sống.. Nhưng đức tin cũng là tín thác nơi Thiên Chúa và điều này anh chị em cần phải dạy cho con cái, bằng gương sáng và bằng cuộc sống của anh chị em. Đức tin là ánh sáng: trong nghi thức làm phép rửa, anh chị em sẽ nhận được cây nến sáng như thời đầu của Giáo Hội. Thời đó, phép rửa được gọi là sự soi sáng, vì đức tin soi sáng tâm hồn, làm cho thấy sự việc với một ánh sáng khác”.

ĐTC nhắc nhở rằng ”các cha mẹ có nghĩa vụ phải làm cho đức tin tăng trưởng, giữ gìn và làm cho đức tin trở thành chứng tá cho tất cả những người khác. Đó là ý nghĩa của nghi lễ này. Xin anh chị em đừng quên: Anh chị em đã xin đức tin, nghĩa vụ của anh chị em là giữ gìn và làm cho đức tin tăng trưởng, và trở thành chứng tá cho tất cả chúng tôi, cho cả các linh mục, giám mục nữa”.

”Hòa nhạc” của các hài nhi

Trong lúc ĐTC giảng có nhiều tiếng khóc của các hài nhi, ĐTC không hề phật ý hay khó chịu. Ngài gọi tiếng khóc của các em trong lúc ấy giống như một buổi hòa nhạc!.. và nói: cuộc ”hòa nhạc” này là vì các em đang ở trong một nơi không quen thuộc, vì các em phải thức dậy sớm hơn bình thường, và có lẽ em này cất tiếng khóc thì các em khác cũng bắt chước theo.. Chúa Giêsu cũng khóc như thế. Tôi thích nghĩ rằng bài giảng đầu tiên của Chúa Giêsu trong máng cỏ là tiếng khóc!”

Trong các ý nguyện được xướng lên trong phần Lời nguyện giáo dân, có một ý nguyện cầu cho các trẻ em đang chịu đau khổ, ”xin Chúa luôn khơi dậy những người nam nữ có khả năng cúi mình xuống trên các em với lòng yêu thương không biết mệt mỏi”.

G. Trần Đức Anh OP

Đức Thánh Cha cử hành lễ Chúa Hiển Linh

Đức Thánh Cha cử hành lễ Chúa Hiển Linh

VATICAN. ĐTC mời gọi các tín hữu khám phá ra trong cái nhìn của Thiên Chúa có chỗ cho những người bị thương, người cơ cực, bị ngược đãi, người bị bỏ rơi!

Ngài đưa ra lời kêu gọi trên đây trong bài giảng thánh lễ cử hành sáng ngày 6-1-2017, tại Đền thờ Thánh Phêrô nhân lễ Chúa Hiển Linh, trước sự hiện diện của khoảng 8 ngàn tín hữu. Đồng tế với ĐTC có gần 30 Hồng Y, hơn 30 GM và gần 200 linh mục.

Trong bài giảng, sau khi phân tích tâm trạng của 3 vị Đạo Sĩ lên đường tìm kiếm và thờ lạy Chúa dưới sự hướng dẫn của ngôi sao, ĐTC nhận xét rằng: ”Họ được niềm hoài tưởng Chúa hướng dẫn… Niềm hoài tưởng ấy phát xuất từ tâm hồn tin tưởng, biết rằng Tin Mừng không phải là một biến cố của quá khứ nhưng của hiện tại.. Niềm hoài tưởng Thiên Chúa là thái độ phá vỡ sự xu thời nhàm chán và thúc đẩy chúng ta dấn thân đạt được sự thay đổi mà chúng ta ao ước và đang cần đến”.

ĐTC nói: ”Người tín hữu hoài tưởng, được niềm tin thúc đẩy, đi tìm kiếm Thiên Chúa, như các đạo sĩ, tại những nơi xa lạ nhất của lịch sử, vì trong tâm hồn họ biết rằng Chúa đang đợi họ tại đó. Họ đi tới khu ngoại ô, nơi biên cương, đến những nơi không được loan báo Tin Mừng, để có thể gặp gỡ Chúa tại đó; họ không thực hiện điều ấy với thái độ tự tôn, nhưng như một người hành khất không thể làm ngơ không biết đến đôi mắt của người mà Tin Mừng vẫn còn là thửa đất cần khám phá”. (SD 6-1-2017)

G. Trần Đức Anh OP

 

Đức Hồng Y Tagle của Manila sẽ rửa tội cho 400 trẻ em nghèo

Đức Hồng Y Tagle của Manila sẽ rửa tội cho 400 trẻ em nghèo

Manila – Ngày 14/01 tới đây, Đức Hồng Y Luis Antonio Tagle, Tổng Giám mục Manila, sẽ cùng với cha Matthieu Dauchez, giám đốc điều hành quỹ Tulay Ng Kabataan (TNK) và 10 Linh mục khác rửa tội cho 400 trẻ em từ các khu ổ chuột của thành phố Manila. Đức Hồng Y Tagle thỉnh thoảng cũng dành thời gian cho các trẻ em đang được TNK chăm sóc.

Cha Dauchez nói: “Thật là khó để mang các trẻ em bị thương tổn đến gần với Chúa, nhưng ngược lại, thật dễ dàng mang Thiên Chúa đến với các em qua các bí tích.”

Elise Cruse, người điều hành thông tin liên lạc của quỹ TNK, cho biết, TNK đang giúp các gia đình nghèo có thể tiếp cận không chỉ với những trợ giúp vật chất nhưng cả sự nuôi dưỡng tinh thần nhờ các bí tích. Cruse giải thích: “Các gia đình đang sống trong các khu ổ chuột và trên đường phố của thành phố Manila không chỉ dễ gặp nguy hiểm và đe dọa, nhưng họ còn không được lãnh nhận bí tích suốt thời gian dài. Chúng tôi nhận thấy rằng các gia đình nghèo khổ nghĩ là họ không thể đến lãnh nhận bí tích vì sự nghèo khổ của họ. Họ nghĩ là họ phải trả phí tổn, dù các bí tích được trao ban hoàn toàn nhưng không.” Cô cho biết thêm là những người nghèo còn không biết họ phải làm gì và làm như thế nào. TNK và RCAM nhắm thay đổi điều này bằng cách giúp cho nhiều trẻ em được rửa tội.

TNK giúp các trẻ em đường phố từ năm 1998. Mỗi năm có 1300 trẻ em được tiếp đón trong 24 trung tâm. Trong 18 năm qua, hàng ngàn trẻ em đã rời bỏ cuộc sống đường phố. (CBCP News)

Hồng Thủy

Kinh Truyền tin với Đức Thánh Cha lễ Hiển Linh

Kinh Truyền tin với Đức Thánh Cha lễ Hiển Linh

VATICAN. Trong buổi đọc kinh Truyền Tin với 30 ngàn tín hữu trưa ngày 6-1-2016, lễ Chúa Hiển Linh, ĐTC mời gọi mọi người hãy bước theo ánh sáng của Chúa Giêsu và mặc lấy ánh sáng của Người.

Lúc 12 giờ trưa, ĐTC xuất hiện tại một cửa sổ ở dinh Tông Tòa và ngỏ lời với các tín hữu ở Quảng trường Thánh Phêrô qua bài huấn dụ ngắn. Ngài giải thích ý nghĩa lễ Chúa Hiển Linh, nhất là sự kiện 3 Đạo sĩ được ngôi sao dẫn đường đến Bêlem thờ lạy Chúa Hài Đồng. Ngài nói:

”Trong đời sống chúng ta cũng có nhiều ngôi sao khác nhau, những ánh sáng chiếu sáng và hướng dẫn, chúng ta có nhiệm vụ chọn lựa và đi theo. Có những ánh sáng nhấp nháy, đến rồi đi, như những thỏa mãn nhỏ trong cuộc sống: chúng không đủ, vì chỉ kéo dài trong chốc lát và không để lại an bình mà chúng ta tìm kiếm. Rồi có những ánh sáng chóa mắt như đèn chiếu, của tiền bạc và thành công, hứa tất cả và tức khắc: những ánh sáng ấy thu hút, nhưng với sức mạnh của chúng, chúng chỉ làm mù và đưa những giấc mơ vinh quang tiến vào tối tăm dầy đặc. Trái lại, các Đạo Sĩ mời gọi chúng ta bước theo ánh sáng bền vững và dịu dàng, không tàn lụi vì không thuộc về thế gian này: nhưng đến từ trời và chiếu sáng trong tâm hồn. Ánh sáng chân thật này là ánh sáng của Chúa, hay đúng hơn, là chính Chúa Giêsu. Ngài là ánh sáng của chúng ta, ánh sáng không làm chóa mắt, nhưng đồng hành và mang lại niềm vui có một không hai. Ánh sáng này dành cho tất cả mọi người và kêu gọi mỗi người. Như thế chúng ta có thể nghe lời mời gọi của ngôn sứ Isaia gửi đến chúng ta hôm nay: Hãy trỗi dậy, hãy mặc lấy ánh sáng” (60,1). Vào mỗi đầu ngày, chúng ta có thể đón nhận lời mời gọi này: Hãy trỗi dậy, hãy mặc lấy ánh sáng”, hãy bước theo ngôi sao sáng của Chúa Giêsu, giữa bao nhiêu sao băng của trần thế!

ĐTC cũng giải thích rằng ”Ai muốn ánh sáng thì đi ra khỏi mình và tìm kiếm: không ở lại trong tình trạng khép kín, nhưng dấn thân.. Đời sống Kitô là một hành trình liên lỷ, gồm ánh sáng và tìm kiếm; một hành trình giống như hành trình của các Đạo Sĩ, tiếp tục tiến bước cả khi ngôi sao nhất thời biến mất. Trong hành trình ấy cũng có những cạm bẫy cần phải tránh, những chuyện tầm phào hời hợt, và theo tinh thần thế tục, cản bước tiến: những tính khí thay đổi ích kỷ làm tê liệt, những ổ gà bi quan, bóp nghẹt hy vọng. Những chướng ngại ngăn chặn những thầy thông luật như Phúc Âm hôm nay nói đến. Họ biết ánh sáng ở đâu, nhưng không lên đường. Kiến thức của họ là vô ích; biết rằng Thiên Chúa đã sinh ra thì vẫn chưa đủ, nếu không cùng với Ngài thực hiện Giáng Sinh trong tâm hồn”.

Trong phần chào thăm các tín hữu, ĐTC đặc biệt chúc mừng các cộng đoàn Giáo Hội Đông phương, mừng lễ Giáng Sinh ngày 7-1 theo lịch Giuliano. Ngài cũng nhắc đến đoàn tuần hành mặc y phục như Ba Đạo Sĩ và những người tháp tùng. Năm nay, đoàn tuần hành này được dành cho miền nam Umbria và nhắm phổ biến các giá trị liên đới và huynh đệ”. (SD 6-1-2017)

 G. Trần Đức Anh OP

Đức Thánh Cha khuyến khích những người làm mục vụ ơn gọi

Đức Thánh Cha khuyến khích những người làm mục vụ ơn gọi

VATICAN. ĐTC khích lệ những người dấn thân trong việc mục vụ ơn gọi biết lắng nghe, đón nhận những băn khoăn và khao khát của người trẻ.

Ngài bày tỏ lập trường trên đây trong buổi tiếp kiến sáng hôm qua, 5-1, dành cho 800 tham dự viên Hội nghị do Văn phòng toàn quốc Italia về mục vụ ơn gọi tổ chức trong những ngày này với chủ đề: ”Hãy đứng lên, tiến bước, và đàng sợ hãi”. Hiện diện tại buổi tiếp kiến cũng có Đức Cha Galantino, Tổng thư ký HĐGM Italia.

Trong bài huấn dụ, ĐTC nói đến hai đặc tính của những người mục vụ ơn gọi là lòng hăng say dấn thân và tinh thần nhưng không, phục vụ Giáo Hội và tôn trọng, tìm kiếm thiện ích của những người mà mình đồng hành trên con đường phân định ơn gọi.

Ngài cũng khẳng định rằng: ”Để đáng tín nhiệm và hòa hợp với người trẻ, cần dành ưu tiên cho việc lắng nghe, biết dành thời giờ cho việc đón nhận những câu hỏi và ước muốn của họ. Chứng tá của anh chị em càng có sức thuyết phục, nếu anh chị em, vui mừng và trong sự thật, biết kể lại vẻ đẹp, sự kinh ngạc và ngưỡng mộ của người đươc Thiên Chúa yêu thương, sống sự chọn lựa con đường sống của mình với lòng biết ơn, để giúp tha nhân để lại một vết tích đặc sắc trong lịch sử”.

ĐTC giải thích rằng ”điều này đòi anh chị em không được mất định hướng vì những quyến rũ bên ngoài, nhưng tín thác nơi lòng thương xót và sự dịu dàng của Chúa, hun nóng lòng trung thành của chúng ta trong việc chọn lựa theo Chúa và sự tươi mát của ”tình đầu” trong việc theo đuổi ơn gọi” (SD 5-1-2017)

G. Trần Đức Anh OP 

 

Đức Thánh Cha tiếp dân chúng các vùng bị động đất ở Italia

Đức Thánh Cha tiếp dân chúng các vùng bị động đất ở Italia

VATICAN. Sáng 5-1-2017, ĐTC đã tiếp kiến các giới chức chính quyền, giáo quyến và hàng ngàn người bị động đất ở miền Trung Italia hồi năm ngoái.

Hiện diện tại Đại thính đường Phaolô 6 có 800 người thuộc tổng giáo phận Spoleto-Norcia, 500 người từ giáo phân Rieti, và 500 người khác bị động đất đang tạm trú ở Roma. Ngoài ra có các vị thị trưởng, xã trưởng và chính quyền 4 miền Marche, Umbria, Lazio và Abruzzo cùng với các GM giáo phận liên hệ.

Trước buổi tiếp kiến, lúc 11 giờ có nghi thức rước Thánh Giá Ngày Quốc Tế giới trẻ vào đại thính đường. Thánh giá này từ ngày thứ tư lễ tro, 1 tháng 3 tới đây, sẽ được rước tới các giáo phận bị động đất, và kết thúc ngày 25-3-2017 tại Đền thánh Đức Mẹ Loreto, nơi sẽ diễn ra buổi canh thức miền để cầu cho ơn gọi.

ĐTC đã tiến vào Đại thính đường lúc 11 giờ rưỡi để bắt đầu buổi tiếp kiến. Ngỏ lời với mọi người sau chứng từ của một gia trưởng bị động đất, và một cha sở ở địa phương, ngài đã ứng khẩu chia sẻ đau khổ và tái bày tỏ tình liên đới với các nạn nhân và cùng cầu nguyện với các tín hữu cho những người đã bị thiệt mạng, cũng như những người bị thương còn được điều trị. Ngài nhấn mạnh đến sự ”tái thiết tâm hồn trước khi tái tạo nhà cửa”: ”Tái thiết là nhu cầu cấp thiết và để tái thiết chúng ta cần có con tim và đôi tay, tay của chúng ta và của tất cả mọi người..” ĐTC cũng nhận xét rằng ”không có chỗ cho lạc quan ở đây, nhưng có chỗ cho hy vọng. Lạc quan là một thái độ hữu ích nhất thời, nhưng không có thực chất. Ngày nay cần có hy vọng để tái thiết và điều này chúng ta thực hiện bằng đôi tay”.

ĐTC cũng nhận xét rằng: ”Các vết thương sẽ lành, nhưng các vết sẹo vẫn còn suốt đời và sẽ là một kỷ niệm về lúc đau thương này”.

Các cuộc động đất ngày 24-8-2016, 26 và 30-10-2016 ở miền trung Italia đã làm cho 300 người chết, 40 ngàn người không còn gia cư. Nhiều thánh đường bị hư hại hoặc bị phá hủy hoàn toàn, trong đó có Vương cung thánh đường thánh Biển Đức ở Norcia, nơi sinh của thánh nhân.

Thứ bẩy, 14-1 tới đây, tại nguyện đường nhà trọ thánh Martha nơi ngài cư ngụ, ĐTC sẽ rửa tội cho 8 hài nhi con cái của các nạn nhân bị động đất. (SD 5-1-2017)

G. Trần Đức Anh OP

 

Phỏng vấn cha tân Bề trên tổng quyền dòng Tên Arturo Sosa

Phỏng vấn cha tân Bề trên tổng quyền dòng Tên Arturo Sosa

Ngày 18 tháng 10 năm vừa qua Tổng tu nghị Dòng Tên đã bầu cha Arturo Sosa Abascal người Venezuela làm Bề trên tổng quyền thứ 30 của Dòng. Cha Sosa sinh năm 1948, khấn trọn năm 1982, đã từng là cố vấn và đại diện cho các nhà và các cơ sở liên giám tỉnh của dòng tại Roma.

Hỏi: Thưa cha, cha có thể cho biết thân thế của cha, cha đã trở thánh linh mục dòng tên như thế nào, và từ vài tháng nay cha là Bề trên tổng quyền của Dòng.

Đáp: Để biết tôi là ai thì chỉ cần chú ý tới hai nguồn hiện tại là gia đình tôi và trường của dòng Tên tại Caracas, nơi tôi đã theo học từ bậc tiểu học cho tới trung học, là đủ, nghĩa là từ khi tôi lên 5 tuổi cho  catới khi 17 tuổi. Gia đình tôi đã sinh sống tại Venezuela từ ba đời, nhưng ông ngoại tôi là người gốc vùng Santander bên Tây Ban Nha, di cư sang châu Mỹ Latinh. Chúng tôi có 6 anh em, tôi là anh cả. Sau đó là đến hai em gái, một em trai hiện sống bên Hoa Kỳ và hai em gái kế. Tất cả các em gái đều sống tại Venezuela. Gia đình tôi là một gia đình thực hành đạo, có một bà dì nữ tu, và một ông anh họ tu sĩ dòng Tên. Chính trong gia đình mà tôi đã học cầu nguyện và rộng mở cho người khác. Ngay từ ngày còn bé cha tôi thường cho tôi đi theo trong các cuộc du hành của ông trên toàn nước Venezuela. Ông là trạng sư,  kinh tế gia và là một thương gia buớc vào làm chính trị. Ông đã là bộ trưởng tài chánh trong vòng một năm trong chính phủ chuyển tiếp, sau khi chế độ độc tài của tổng thống Marcos  Perez Jiménes cáo chung. Hầu như trong suốt thế kỷ XIX Venezuela đã trải qua các chính quyền độc tài, và trong thập niên 1950 dấn thân của cha tôi là tạo ra các không gian dân chủ. Và trong gia đình tôi đã học biết rằng không ai có thể tự cứu thoát một mình. Nếu chúng ta muốn hạnh phúc, thì phải góp phần vào việc xây dựng hạnh phúc của quốc gia.

Hỏi: Và nguồn khác mà cha nhắc tới trên đây là gì, thưa cha?

Đáp: Nó cũng quan trọng như nguồn thứ nhất vậy. Tại trường thánh Ignazio, nơi tôi đã theo học hầu như 13 năm, từ năm 1953 cho tới năm 1966, đã có rất đông các tu sĩ dòng Tên trẻ, và chúng tôi ở trường từ sáng cho tới chiều, từ thứ hai cho tới thứ bẩy. Sau tuần học các tu sĩ dẫn chúng tôi đi thăm các nhà thương hay đi dạo ngoài đồng quê để tiếp xúc với các nông dân. Tôi nhớ tới các năm này như một môi trường rất là sáng tạo. Tôi cũng đã là thành viên của một hiệp hội thánh mẫu, và hồi đó thú thật là tôi chơi các môn thể thao như bóng đá, bóng bầu dục và bóng rổ rất dở. Sau khi mãn trung học tôi đã cảm thấy là để góp phần tốt hơn cho thiện ích của tất cả mọi người  tôi phải gia nhập dòng Tên. Và thế là ngày 14 tháng 9 năm 1966, ít ngày trước khi lên 18 tuổi, tôi đã xin nhập dòng.

Hỏi: Như vậy các năm huấn luyện đã ra sao và các năm sau đó cha đã làm gì?

Đáp: Việc chuẩn bị tôi ấy à? Đó là việc đào tạo huấn luyện của dòng Tên theo các chặng: các năm nhà tập, chương trình học triết học và thần học tại đại học công giáo Andres Bello trong thủ đô Caracas, rồi một thời gian tại Trung tâm Gumilla do các tu sĩ dòng Tên điều khiển nhằm trợ giúp các hợp tác xã tiết kiệm và tín dụng tại miền trung Venezuela, rồi theo học thần học tại Roma trong trường Chúa Giêsu và đại học giáo hoàng Gregoriana giữa các năm 1974-1977, là năm tôi được thụ phong Linh Mục. Nhưng tôi đã trở về Venezuela để học bổ túc về thần học, trong khi tôi dọn luân án tiến sĩ về các khoa học chính trị tại đại học chính của thủ đô Caracas. Đây là môn tôi đã dậy tại trung tâm Gumilla cũng như tại đại học Andres Bello, đặc biệt là lịch sử các tư tưởng. Trong gần 20 năm tôi cũng đã là giám đốc nguyệt san “Sic” của dòng Tên. Từ năm 1996 tới 2004 tôi đã là bề trên giám tỉnh của dòng tại Venezuela, và sau cùng là viện trưởng đại học công giáo Táchira từ năm 2004 cho tới năm 2014. Năm 2014 cha Bề trên tổng quyền đã gọi tôi về Roma để đặc trách các nhà quốc tế của dòng, nơi có 400 tu  sĩ dòng Tên làm việc dưới quyền của ngài.

Hỏi: Thưa Cha, sự kiện lần đầu tiên trong lịch sử của dòng một linh mục không phải ngưòi âu châu được bầu làm Bề trên tổng quyền có ý nghĩa gì?

Đáp: Đây chắc chắn là hoa trái của sự thay đổi đang xảy ra trong toàn Giáo Hội, và là một dấu chỉ của tính cách công giáo của nó, cũng như trong biến cố bầu Đức Bergoglio làm Giáo Hoàng. Tuy nhiên, tôi muốn nhấn mạnh một dữ kiện lịch sử rất quan trọng, không thể chối cãi được: đó chính là tinh thần truyền giáo quảng đại của Âu châu đã cho phép điều này, và tạo thuận tiện cho việc hội nhập văn hoá, là nét đặc thù của các tu sĩ dòng Tên và của các cứ điểm truyền giáo do các tu sĩ điều khiển. Tiến trình này đã kéo dài một thế kỷ rưỡi, và ngày nay đã đưa dòng tới chỗ là một thực tại đa văn hóa, nhập thể vào trong hàng chục nền văn hóa khác nhau, để giúp con người và các xã hội trở thành nhân bản hơn, bằng cách chỉ cho thấy Chúa Giêsu Kitô, dung nhan của Thiên Chúa. Đây là một sự phong phú khổng lồ đối với các tu sĩ dòng Tên và tất cả mọi Giáo Hội. Chẳng hạn như Giáo Hội châu mỹ latinh là một Giáo Hội rất sinh động, nhưng thường bị trình bầy một cách bất công, bị san bằng trên nền thần học giải phóng, là nền thần học cũng hay bị giới thiệu một cách chế nhạo như là mác xít: đây là một trung gian của đức tin kitô, mà tôi đã định nghĩa là không thể được, trong một bài viết hồi thập niên 1970.

Hỏi: Thưa cha, sức khoẻ của dòng Tên hiện nay ra sao? Nó đã mất đi phân nửa các tu sĩ so với nửa thế kỷ trước, chỉ còn lại vài trăm thầy, mà trước đây đông hơn nhiều. Và việc đào tạo hiện như thế nào?

Đáp: Số tu sĩ không phải là một tiêu chuẩn để phán đoán sức khỏe của các tu sĩ dòng Tên: ngay từ đầu thánh Ignazio đã nói tới “một hội dòng tối thiểu”. Chúng tôi thích phẩm chất hơn, và không có nghi ngờ là sự nghiêm ngặt  của việc đào  tạo của chúng tôi ngày nay còn lớn hơn xưa kia rất nhiều. Chắc chắn rồi, tôi không chối cuộc khủng hoảng mạnh mà chúng trôi đang trải qua bên Âu châu và bên Hoa Kỳ, chính yếu là vì phong trào tục hóa và cuộc khủng hoàng dân số. Việc đào tạo hàn lâm và tinh thần thiêng liêng phải chú ý tới sự kiện có nhiều chuyên viên gia nhập dòng. Và môi trường đào tạo cũng khác xưa rất nhiều, và mở rộng ra trong lãnh vực tâm lý, các khoa học xã hội, các lãnh vực khoa học. Cả đối với việc nâng cao trình độ văn hóa chung cũng cần phải thổi không khí  vào các tu sĩ, xưa kia vốn rất đông. Và tôi phải hãnh diện nói rằng ơn gọi của tôi là nhờ các tu sĩ rất nhiều, nhờ các tu sĩ giáo tập, giáo sư, cũng như nhờ các tu sĩ trẻ chưa là linh mục. Rất nhiều lần tôi câm nín trước kinh nghiệm về Thiên Chúa của các anh em này, là các tu huynh không linh mục. Tôi đặc biệt nhớ tới một thầy suốt đời làm việc trong một nông trại chăn nuôi gia súc: thầy đã là một người chiêm niệm. Tuy nhiên, cần nhớ rằng hình thức lý tưởng của dòng Tên là  hình thức của các tu sĩ khấn, tức các tu sĩ đã tới lời khấn thứ bốn, ngày nay chiếm đa số, so với các trợ sĩ không khấn nó, và so với các tu sĩ kinh viện, đang còn trong thời kỳ đào tạo, và với các tu huynh.

Hỏi: Thưa cha tại sao dòng Tên lại không có nhánh nữ vậy?

Đáp: Đã có rất nhiều nữ tu, và họ là các nữ tu đã lấy hứng từ tinh thần tu đức của thánh Ignazio, họ chia sẻ tinh thần tu đức đó. Và tôi muốn nói thêm rằng không có phụ nữ thì một cách đơn thuần sẽ không thể nghĩ tới sứ mệnh của dòng Tên được. Đàng khác, ở nguồn gốc của các tu sĩ dòng Tên đã có một nhóm những người nam đã đuợc truyền chức quyết định sống một kiểu thánh hiến mới: cùng nhau sống như là các bạn đường và phục vụ Giáo Hội hoàn vũ.

Hỏi: Nghĩa là một dòng nảy sinh để đứng ở hàng tiền đạo tại các vùng biên giới. Thế ngày nay dòng đang ở đâu và di chuyển như thế nào? Đâu là các biên giới của dòng Tên hiện nay thưa cha Bề trên tổng quyền?

Đáp: Chúng tôi là các thừa sai và các biên giới, như trong suốt lịch sử của dòng chúng tôi cho thấy, thì nhiều lắm: giáo dục, truyền thống cũng như bình dân, phục vụ người di cư tỵ nạn, hoạt động trong lãnh vực rất rộng lớn của việc tranh đấu cho công bằng xã hội,  và đào tạo dấn thân chính trị. Cùng với cuộc sống tu sĩ đây là một trong các đam mê của tôi: đó là chiến đấu và chiêm niệm, để dùng lại kiểu nói của vài thập niên trước.

Hỏi: Các tu sĩ dòng Tên có còn là các người đào tạo và các vị linh hướng nữa không, thưa cha?

Đáp: Có chứ. Ngày nay hơn bao giờ hết. Hiện nay việc phục vụ cuộc sống thiêng liêng này đã gia tăng các phương cách, các nơi chốn và con người. Các cuộc tĩnh tâm theo tinh thần của thánh Ignazio kéo dài một tháng hay cả một tuần không còn có thể làm nữa vì các tiết nhịp của cuộc sống thời đại. Và người ra đề nghị các hình thức khác trong cuộc sống thường ngày, có thể kéo dài tám hay chín tháng. Và giảng giải không phải chỉ có các tu sĩ dòng Tên và còn có nhiều người khác nữa, nữ giáo dân cũng như các nữ tu, nam giới và nữ giới. Sau Công Đồng Chung Vatican II, là một ơn sủng Chúa ban, chúng tôi nhậy cảm hơn rất nhiều đối với sự khác biệt của các ơn gọi và các ơn đến từ Thiên Chúa.

(Oss. Rom 21-12-2016)

Linh Tiến Khải

Đức Thánh Cha chủ sự Kinh Chiều I Lễ Mẹ Thiên Chúa

Đức Thánh Cha chủ sự Kinh Chiều I Lễ Mẹ Thiên Chúa

duc-thanh-cha-chu-su-kinh-chieu-le-me-thien-chua

VATICAN. Chiều ngày 31-12-2016, ĐTC Phanxicô đã chủ sự kinh chiều I lễ Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa và kinh Te Deum, Tạ Ơn Thiên Chúa, nhân dịp cuối năm dương lịch. Ngài đặc biệt kêu gọi giải quyết nạn thất nghiệp của giới trẻ.

Hiện diện tại Đền thờ Thánh Phêrô trong buổi hát kinh bắt đầu lúc 5 giờ chiều còn có 36 HY, đặc biệt là ĐHY Agostino Vallini, Giám Quản Roma, 7 GM phụ tá và 40 GM khác, 150 LM và khoảng 8 ngàn tín hữu.

Trong bài giảng sau bài đọc ngắn, ĐTC đã diễn giải mầu nhiệm Con Thiên Chúa xuống trần chia sẻ thân phận phàm nhân, gần gũi với tất cả những người phải chịu đau khổ, bị loại trừ. Ngài mời gọi các tín hữu dừng lại trước hang đá máng cỏ để khám phá Thiên Chúa đang mời gọi chúng ta tham dự vào công trình của Người, ”mời gọi chúng ta can đảm và quyết liệt đón nhận tương lai đang ở trước mặt chúng ta”.

ĐTC cũng nói rằng: ”Khi nhìn máng cỏ, chúng ta gặp khuôn mặt của thánh Giuse và Mẹ Maria đầy hy vọng và ước mong, đầy câu hỏi. Những khuôn mặt trẻ đang nhìn về đàng trước với nghĩa vụ không dễ dàng là giúp Chúa Hài Đồng tăng trưởng. Không thể nói về tương lai mà không chiêm ngưỡng những khuôn mặt trẻ trung ấy và đảm nhận trách nhiệm của chúng ta đối với những người trẻ”.

ĐTC phê bình sự mâu thuẫn này: ”Một đàng chúng kiến tạo một nền văn hóa ca tụng sự trẻ trung, làm cho nó vĩnh cửu, nhưng đồng thời lại kết án những người trẻ của chúng ta không cho họ có một không gian để thực sự hội nhập vào, và dần dần chúng ta gạt họ ra ngoài đời sống công cộng, buộc họ phải xuất cư hoặc phải ăn xin những công việc mà họ không có được, hoặc không để cho họ được đề ra những dự phóng cho ngày mai.. Chúng ta dành ưu tiên cho sự đầu cơ thay vì những công việc xứng đáng và chân thực, giúp người trẻ trở thành những người tích cực nắm vai chính trong đời sống xã hội chúng ta. Chúng ta mong đợi nơi người trẻ và đòi họ phải trở thành men tương lai, nhưng chúng ta lại kỳ thị họ, ”buộc họ phải gõ những cánh cửa tiếp tục khép kín”.

”Chúng ta được mời gọi đừng như người chủ quán trọ ở Bethlehem, đứng trước một đôi vợ chồng trẻ, nói rằng: ở đây không có chỗ. Không có chỗ cho cuộc sống, cho tương lai”.

Cuối kinh chiều, có nghi thức đặt Mình Thánh Chúa và hát kinh Te Deum tạ ơn Thiên Chúa. Sau đó, ĐTC đã tiến ra quảng trường thánh Phêrô viếng thăm và cầu nguyện hang đá lớn tại đây. (SD 31-12-2016)

G. Trần Đức Anh OP

Noi gương tổ phụ Abraham biết nhìn cuộc sống với đôi mắt đức tin

Noi gương tổ phụ Abraham biết nhìn cuộc sống với đôi mắt đức tin

dtc-phanxico-cho-con-ket-cua-ganh-xiec-liana-orfei-dau-tren-tay-trong-buoi-tiep-kien-sang-thu-tu-28-12-2016

Để tin thác phải biết nhìn với con mắt đức tin như tổ phụ Abraham đã tin vào điều không thể được, và hy vọng vượt quá các lý luận của con người, của sự khôn ngoan, cẩn trọng của thế gian,và điều thường được coi là lẽ phải. 

ĐTC Phanxicô nói như trên với 8,000 tín hữu tham dự buổi gặp gỡ chung sáng thứ tư trong đại thính đường Phaolô VI. Hôm thứ tư 28-12 cũng là buổi tiếp kiến chung cuối cùng trong năm 2016.

Trong bài huấn dụ ĐTC đã khai triển đề tài “Tổ phụ Abraham, cha của lòng tin và niềm hy vọng”. Ngài nói: Trong thư gửi giáo đoàn Roma thánh Phaolô nhắc cho chúng ta biết gương mặt của tổ phụ Abraham, để chỉ cho chúng ta con đường của lòng tin và niềm hy vọng. Thánh nhân viết về tổ phụ như sau: “Mặc dầu không còn gì để trông cậy, ông vẫn trông cậy và vững tin, do đó ông đã trở thành tổ phụ nhiều dân tộc” (Rm 4,18). “Vững vàng trong niềm hy vọng chống lại mọi hy vọng”: điều này khó phải không? Điều này mạnh mẽ: không có niềm hy vọng, nhưng tôi vẫn hy vọng. Tổ phụ Abraham của chúng ta là như thế.

Thánh Phaolô đang quy chiếu niềm tin qua đó tổ phụ Abraham tin vào lời Thiên Chúa hứa ban cho ông một người con trai. Đó đã thật là việc tín thác hy vọng “chống lại mọi hy vọng”, vì điều Chúa đang báo cho ông biết không thể thật được, bởi ông đã già và vợ ông thì không sinh sản – ông như gần trăm tuổi và vợ ông không sinh con. Bà không thành công… Nhưng Thiên Chúá đã nói điều đó và ông tin. Đã không có hy vọng trên bình diện nhân loại, vì ông đã già và vợ thì hiếm muộn: nhưng ông tin.

Khi tin tưỏng nơi lời hứa, tổ phụ Abraham lên đường, chấp nhận rời bỏ quê hương của mình và trở thành người ngoại kiều, hy vọng nơi người con không thể có mà Thiên Chúa đã hứa ban cho ông, mặc dù lòng dạ ba Sara đã như là chết.

ĐTC giải thích lòng tin của tổ phụ Abraham như sau:

** Abraham tin, lòng tin của ông mở ra cho một niềm hy vọng xem ra vô lý; nó là khả năng vượt quá các lý luận loài người, vuợt quá sư khôn ngoan và cẩn trọng của thế gian, vượt quá điều bình thường được coi là lẽ phải, để tin vào điều không thể được. Niềm hy vọng mở ra cho các chân trời mới, khiến cho có khả năng mơ mộng điều không thể tưởng tượng được. Niềm hy vọng khiến cho có khả năng bước vào trong cái tối tăm của một tương lai không chắc chắn để bước đi trong ánh sáng. Đức cậy thật là đẹp; nó cho chúng ta biết bao sức mạnh để bước đi trong đời.

Tiếp tục bài huấn dụ ĐTC nói: Nhưng đó là một con đường khó khăn. Và đến lúc, cả đối với Abraham nữa, đến lúc của cuộc khủng hoảng của chán nản. Ông đã bỏ nhà cửa, đất đai, bạn bè.. tất cả. Ông đã ra đi tới một xứ sở Thiên Chúa đã chỉ cho ông; thời gian qua đi. Vào thời đó làm một cuộc du hành không giống như ngày nay với máy bay – chỉ trong vòng 12, 15 giờ – nhưng hồi đó cần hàng tháng hàng năm – nhưng người con trai không tới, lòng dạ bà Sara vẫn đóng kín không sinh con.

Và tổ phụ Abraham, tôi không nói là mất kiên nhẫn, nhưng thở than với Chúa. Và chúng ta học được điều này nơi tổ phụ Abraham: thở than với Chúa là một kiểu cầu nguyện. Đôi khi giải tội tôi nghe nói: “Con đã than van với Chúa”, và tôi trả lời “Không, con cứ than van đi, Ngài là cha”. Và đây là một kiểu cầu nguyện: hãy thở than với Chúa. Điều này tốt. Abraham than thở với Chúa và nói: “Lậy Chúa,  con ra đi mà không có con cái, và người thừa tự gia đình con là Ê-li-e-de, một người Đa-mát." (Ông Eliede là người quản lý mọi sự). Ông Áp-ram nói thêm: "Chúa coi, Chúa không ban cho con một dòng dõi, và một gia nhân của con sẽ thừa kế con." Và đây có lời Chúa phán với ông rằng: "Kẻ đó sẽ không thừa kế ngươi, nhưng một kẻ do chính ngươi sinh ra mới thừa kế ngươi." Rồi Người đưa ông ra ngoài, hướng dẫn ông và nói: "Hãy ngước mắt lên trời, và thử đếm các vì sao, xem có đếm nổi không." Người lại phán: "Dòng dõi ngươi sẽ như thế đó! " Abraham một lần nữa tin, và vì thế, Chúa kể ông là người công chính.” (St 15,2-6).

Cảnh này xảy ra ban đêm, bên ngoài trời tối, nhưng trong con tim của Abraham cũng có tối tăm, nản lòng và khó khăn trong việc tiếp tục hy vọng vào một cái gì không thể được. Tổ phụ đã quá cao niên, xem ra không còn thời giờ cho một người con nữa và một người đầy tớ sẽ thay thế thừa hưởng tất cả.

** Abraham đang nói chuyện với Chúa,  cả khi Ngài hiện diện ở đó và nói chuyện với ông, nhưng xem ra Ngài xa xôi, như thể là không trung thành với lời Ngài nữa. Abraham cảm thấy cô đơn, già nua và mệt mỏi, cái chết gần kề. Làm sao để tiếp tục tín thác đây?

Tuy nhiên, sự thở than của ông đã  là một hình thức của lòng tin, là một lời cầu nguyện rồi. Mặc dù tất cả,  Abraham tiếp tục tin nơi Thiên Chúa và hy vọng rằng còn có cái gì đó có thể xảy ra. Nếu không, thì tại sao lại gọi hỏi Chúa, thở than với Ngài, nhắc cho Ngài nhớ tới các lời hứa?

Và ĐTC giải thích lòng tin như sau:

Lòng tin không chỉ là sự thinh lặng chấp nhận tất cả không đối đáp, niềm hy vọng không phải là sự chắc chắn đặt bạn vào trong an ninh không nghi ngờ và lưỡng lự. Có biết bao lần, hy vọng là tối tăm; nhưng chính ở đó hy vọng đưa bạn tiến tới. Tin cũng có nghĩa là chiến đấu với Thiên Chúa, cho Ngài thấy nỗi cay đắng của chúng ta, không giả bộ đạo đức. “Con đã tức giận với Thiên Chúa và con đã nói điều này, điều này, điều này…” “Nhưng mà Ngài là cha, Ngài đã hiểu con: hãy đi bằng an! Có sự can đảm này! Đó là niềm hy vọng. Và hy vọng cũng là không sợ hãi trông thấy thực tại như nó là, và chấp nhận các mâu thuẫn.

Như vậy Abraham hướng tới Thiên Chúa để Ngài giúp ông tiếp tục hy vọng. Thật là lạ lùng! Ông không xin một đứa con trai. Ông xin: “Xin giứp con tiếp tục hy vọng”, lời xin có niềm hy vọng. Và Chúa trả lời bằng cách nhấn mạnh lời hứa xem ra không thật của Ngài: không phải một đầy tớ thừa tự ông, nhưng chính một người con trai, do Abraham sinh ra. Không có gì thay đổi từ phía Thiên  Chúa. Ngài tiếp tục nêu bật điều đã nói và không cống hiến các điểm tựa cho Abraham, để ông cảm thấy được bảo đảm. Sự chắc chắn duy nhất của ông là tín thác nơi lời nói của Chúa và tiếp tục hy vọng.

Và dấu chỉ mà Thiên Chúa ban cho Abraham là một lời yêu cầu tiếp tục tin và hy vọng: “Hãy nhìn trời và đếm các vì sao… Dòng dõi ngươi sẽ như thế đó” (St 15,5). Lại một lời húa nữa, và một cái gì đó phải chờ đợi cho tương lai. Thiên Chúa đem Abraham ra ngoài lều, thật ra là ra khỏi các quan niệm hạn hẹp của ông, và chỉ cho ông thấy các vì sao. Để tin, cần phải biết nhìn với các con mắt của đức tin; không phải chỉ là các vì sao mà tất cả mọi ngưòi đều có thể nhìn thấy, nhưng đối với Abraham chúng phải trở thành dấu chỉ sự trung thành của Thiên Chúa. Đó là đức tin, đó là con đường của niềm hy vọng mà mỗi người phải đi. Nếu đối với cả chúng ta nữa chỉ còn lại khả thể duy nhất là nhìn các vì sao, thì khi đó là lúc tín thác nơi Thiên Chúa. Không có gì đẹp hơn. Niềm hy vọng không gây thất vọng.

** ĐTC đã chào các đoàn hành hương khác nhau và chúc mọi người một năm mới thánh thiện và hạnh phúc.

Chào các  nhóm nói tiếng Pháp ngài mời gọi họ tạ ơn Thiên Chúa vì tất cả mọi ơn lành Chúa đã ban cho trong năm sắp kêt thúc này. Xin Chúa gìn giữ chúng ta trong niềm hy vọng nơi các lời Chúa hứa, vững vàng trong đức tin và luôn biết chú ý tới nhu cầu của các anh chị em khác.

Chào các nhóm nói tiếng Anh ngài cầu chúc họ và gia đình giữ gìn niềm vui giáng sinh, và gặp gỡ Chúa nhập thể sống gần gũi con người trong lời cầu nguyện.

ĐTC cũng chào các nhóm hành hương nói tiếng Đức, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Ba Lan và cầu chúc mọi người không sợ hãi tiến bước trong tương lai với ánh sáng và phúc lành của Chúa trong năm mới.

Ngài cám ơn các tín hữu Ba Lan đã chúc mừng lễ và cầu nguyện cho ngài.

Chào các nhóm nói tiếng Ý ĐTC cám ơn các nam nữ nghệ sĩ đoàn xiệc Liana Orfei đã biểu diễn giúp vui mọi người. Vẻ đẹp bao giờ cũng đưa tới gần Thiên Chúa. Ngài cũng chào tín hữu vùng Supino và San’ Andrea delle Fratte ở Roma đem theo hình Mề đai phép lạ, sẽ được trưng bầy trong đền thờ thánh Phêrô cho mọi người kính viếng.

Chào các bạn trẻ, người đau yếu và các đôi tân hôn ngài nói lễ các thánh anh hài giúp mọi người sống vững mạnh niềm tin và ngắm nhìn Chúa Hài Nhi tự hiến mình cho nhân loại. Ước chi các bạn trẻ biết lớn lên như Chúa, tuân phục cha mẹ và sẵn sàng hiểu biết và sống theo ý Chúa;

ước chi các bệnh nhân hiểu ý nghĩa và giá trị của khổ đau; các đôi tân hôn duy trì tình yêu và sự tận hiến trong việc xây dựng gia đình và đừng bao giờ kết thúc ngày sống mà không làm hoà với nhau.

Buổi tiếp kiến cuối cùng trong năm 2016 kết  thúc với kinh Lạy Cha và phép lành toà thánh ĐTC ban cho mọi người.

Linh  Tiến Khải

Cuộc gặp gỡ giới trẻ Kitô Âu Châu ở Riga, Lettoni

Cuộc gặp gỡ giới trẻ Kitô Âu Châu ở Riga, Lettoni

cuoc-gap-go-gioi-tre-kito-au-chau-o-riga-lettoni

RIGA. Chiều ngày 28-12-2016, cuộc gặp gỡ giới trẻ Kitô Âu Châu lần thứ 39 do Tu viện đại kết Taizé tổ chức, sẽ khai diễn tại thành phố Riga, thủ đô Cộng hòa Lettoni và kéo dài đến ngày 1-1 sắp tới.   Tham dự sinh hoạt này có hơn 10 ngàn bạn trẻ Công Giáo, Tin Lành Anh giáo và Chính Thống tuổi từ 17 đến 35, đến từ các nước Âu Châu, đặc biệt từ các nước láng giềng như Ucraina, Bạch Nga và Liên bang Nga, Ba Lan.. Họ được tiếp đón trong các gia đình và các cộng đoàn giáo xứ ở địa phương. Đây là lần đầu tiên một nước cựu cộng sản Liên Xô đón tiếp cuộc gặp gỡ thuộc loại này.

Các vị lãnh đạo Kitô, trong đó có ĐTC Phanxicô, đã gửi sứ điệp chào thăm và khích lệ các bạn trẻ. ĐTC mời gọi họ, ”bằng lời nói và hành động”, hãy chứng tỏ sự ác không phải là tiếng nói cuối cùng trong lịch sử của chúng ta”. Ngài viết ”Ngày nay nhiều người bị chao đảo, thất vọng vì bạo lực, bất công, đau khổ và chia rẽ. Họ có cảm tưởng sự ác mạnh hơn mọi sự. Vì thế, đây là thời điểm thương xót cho tất cả và từng người, để không một ai c thể nghĩ mình xa lạ với sự gần gũi của Thiên Chúa và sức mạnh sự dịu dàng của Chúa”. ĐTC cầu chúc cho những ngày họp mặt này giúp người trẻ không sợ những giới hạn của mình, nhưng tăng trưởng trong niềm tín thác nơi Chúa Giêsu, Đấng tín nhiệm các bạn trẻ”.

Đức Cha Zbignevs Stankevics, TGM giáo phận Công Giáo Riga, ca ngợi sáng kiến của các tu sĩ Taizé bắc những nhịp cầu giữa các tôn giáo, các dân tộc và các nước. Ngài nói: “Trong một thời đại với những cuộc xung đột gia tăng và các bức tường được dựng lên, sự thúc đẩy tinh thần như vậy rất là quan trọng”.

Cả Đức TGM Janis Vanags của Tin Lành Luther ở thủ đô Riga, cũng chào mừng cuộc gặp gỡ giới trẻ Kitô tại đây là một ”biến cố tuyệt vời”. Ngài kêu gọi dân chúng địa phương tỏ ra hiếu khách đối với các bạn trẻ.

Cũng như những lần trước đây, tại Riga, ban sáng các bạn trẻ sinh hoạt tại các giáo xứ, ban chiều họ tập họp để cầu nguyện, ca hát thánh ca và chia sẻ suy tư. Ngoài ra họ cũng có những sinh hoạt văn hóa.

Để chuẩn bị cho những suy tư và trao đổi của giới trẻ tại cuộc gặp gỡ, Thầy Alois Loser, người Đức, tu viện trưởng Taizé, đã đưa ra 4 đề nghị theo chủ đề ”cùng nhau mở những con đường hy vọng”, lấy hứng từ cuộc gặp gỡ mới đây của giới trẻ Taizé ở Cotonou, thủ đô Benin bên Phi châu. (SD 26-12-2016)

G. Trần Đức Anh OP