Thông cáo của Tòa Thánh về Venezuela

Thông cáo của Tòa Thánh về Venezuela

VATICAN. Tòa Thánh kêu gọi tôn trọng nhân quyền, tự do, hiến pháp hiện hành và ngưng quốc hội lập hiến mới bầu lên để thay đổi hiến pháp quốc gia.

Trong thông cáo công bố hôm 4-8-2017, Phủ Quốc vụ khanh Tòa Thánh nói rằng:

”Tòa Thánh tái bày tỏ quan tâm sâu xa vì tình trạng cực đoan hóa và tầm trọng hóa cuộc khủng hoảng tại Cộng hòa Venezuela, làm gia tăng số người chết, bị thương và bị tù. ĐTC, trực tiếp và qua Phủ Quốc Vụ khanh, theo dõi sát tình trạng đó với những biến chuyển về mặt nhân đạo, xã hội, chính trị, kinh tế và cả về mặt tinh thần, và ngài liên tục cầu nguyện cho đất nước Venezuela cùng với tất cả mọi người dân nước này, đồng thời mời gọi các tín hữu trên toàn thế giới cầu nguyện sốt sắng cho ý nguyện đó.

Tòa Thánh cũng xin tất cả các tác nhân chính trị, và đặc biệt là chính phủ Venezuela hãy đảm bảo sự tôn trọng hoàn toàn các quyền con người và các quyền tự do cơ bản, cũng như hiến pháp hiện hành; cần tránh hoặc hãy ngưng những sáng kiến đang tiến hành như Hiến Pháp mới, thay vì tạo điều kiện cho hòa giải và hòa bình, thì lại càng nuôi dưỡng bầu không khí căng thẳng và đụng độ, làm tổn hại đến tương lai; cần tạo những điều kiện để có một giải pháp thương thuyết phù hợp với những đường hướng được trình bày trong thư của Phủ Quốc vụ khanh ngày 1 tháng 12 năm 2016, để ý đến những đau khổ trầm trọng của dân chúng vì những khó khăn trong việc kiếm lương thực và thuốc men và vì thiếu an ninh.

Sau cùng, Tòa Thánh tha thiết yêu gọi toàn thể xã hội hãy tránh mọi hình thức bạo động, đặc biệt Tòa Thánh kêu gọi các lực lượng an ninh hãy tránh dùng võ lực thái quá và không tương ứng”

G. Trần Đức Anh OP

Cầu nguyện cho các nghệ sĩ thời đại chúng ta

Cầu nguyện cho các nghệ sĩ thời đại chúng ta

Trong tháng 8 này ĐTC mời gọi chúng ta hiệp ý cầu nguyện cho các nghệ sĩ thời đại chúng ta để họ giúp mọi người khám phá ra vẻ đẹp của thụ tạo qua các tác phẩm nổi tiếng của họ.

Khi viếng thăm các thủ đô hay thành phố lớn trên thế giới, du khách thường để giờ thăm các viện bảo tàng, là nơi trưng bầy kho tàng nghệ thuật của một nước bao gồm các tác phẩm thuộc đủ mọi thể loại: điêu khắc, hội hoạ, nghệ thuật đúc và tạc tượng cũng như các tác phẩm thêu dệt và đủ mọi thứ vật dụng cho biết về lịch sử, cuộc sống và các sinh hoạt của một dân tộc, một quốc gia hay nhiều quốc gia khác. Trên bình diện này Italia là quốc gia rất nổi tiếng  vì chứa đựng tới 70% gia tài nghệ thuật trên toàn thế giới.

Thí dụ điển hình là bảo tàng viện Vatican. Đây là một trong các bảo tàng viện lớn nhất thế giới. Có để ra cả năm bạn cũng không thể nào thăm viếng hết được, vì nó rộng mênh mông và  chứa hàng chục triệu tác phẩm đủ loại, và gồm nhiều bảo tàng viện nhỏ. Mỗi bảo tàng viện như thế lại gồm nhiều phòng khác nhau. Chẳng hạn nếu muốn viếng thăm các tranh vẽ bạn đến khu vực Pinacoteca trưng bầy các tác phẩm của các họa sĩ nổi tiếng hay của các trường phái hội hoạ từ thế kỷ XI đến thế kỷ XIX, trong đó có Giotto, thầy Angelico, Melozzo da Forli, Raffaello, Leonardo da Vinci, Tiziano … hay tranh của trường phái Umbria, tranh thời Barốc vv… Nếu muốn hiểu biết về Ai Cập bạn có thể đến khu bảo tàng Gregoriano Egizio, nơi có thể thấy 5 xác ướp trong đó có xác hoàng hậu Hetepheres, mẹ Pharao Cheops, cũng như tượng hoàng hậu Tula, mẹ Pharao Ramses II, tức thời ông Môshê, và nhiều tượng cũng như xác ướp các con vật, và các thủ bản viết trên giấy làm bằng sậy Papiro.

Nếu muốn thăm các tác phẩm điêu khác bạn đến khu vực Pio Clementino sẽ thấy các tượng người và thú vật thuộc thời Hy Lạp và Roma cổ, hay khu vực Chiaramonti. Muốn thăm dấu tích của người Etruschi bạn đến khu vực Gregoriano Etrusco có các quan tài, bia mộ, mọi thứ dụng cụ tìm được trong các cuộc đào bới nghĩa trang tại Cerveteri. Trong khu vực này cũng có phòng trưng bầy các tác phẩm bằng đồng, các hòm đựng tro người chết, các đồ trang sức quý, các đồ bằng đất sét nung…Thế rồi cũng có hành làng trưng bầy các chân đèn, hành lang trưng bầy các tấm thảm danh tiếng, hành lang trưng bầy các bản đồ địa lý. Rồi các phòng do các danh họa như Raffaello và các họa sĩ nổi tiếng khác vẽ hồi thế kỷ XVI vv…

Để giúp tín hữu và khách hành hương dễ định hướng ban giám đốc viện bảo tàng Vaticăng đã soạn ra các lộ trình khác nhau dài 2 giờ, 3 giờ, 4 giờ, 5 giờ theo thời gian du khách có. Nhưng lộ trình nào cũng kết thúc với nhà nguyện Sistina, là nơi các Hồng Y họp mật nghị bầu Giáo Hoàng. Nhà nguyện Sistina được xây cho ĐGH Sesto IV giữa các năm 1473-1481 là viên ngọc quý cuả nghệ thuật thời Phục Hưng. Qua các  bức bích họa tả cảnh cựu ước và tân ước và nhất là bức họa Ngày phán xét chung” nổi tiếng Michelangelo và các họa sĩ thời đó đã không chỉ để lại cho hậu thế một phần gia tài quý báu của kho tàng nghệ thuật, mà còn trả lời cho câu hỏi về ý nghĩa cuộc sống con người nữa. Các bức bích họa được nhiều họa sĩ danh tiếng vẽ giữa các năm 1481-1483.

Ngoài ra trong viện bảo tàng Vatican còn có Thư viện của Toà Thánh trưng bầy rất nhiều thủ bản và sách cổ, cũng như nhiều vật dụng phụng vụ. Rồi còn có khu vực Gregoriano profano dành cho các tác phẩm điêu khắc từ các thế kỷ đầu. Trong khi khu vực Pio cristiano trưng bầy các tác phẩm nghệ thuật khảo cổ kitô. Lại còn có phần dành cho lãnh vực truyền giáo nhân chủng học với các tác phẩm của Trung Hoa, Nhật Bản, Đại Hàn, Tây Tạng, Mông Cổ, Đông dương, trong đó có chiếc kiệu hoa bằng gỗ mạ vàng làm năm 1846 được các tín hữu Bắc phần Việt Nam dùng để kiệu Đức Bà Mân Côi. Có thêm các tác phẩm Ấn Độ, Indonesia và Philippines, Polynesia và Melanesia , Úc, Bắc Phi châu, Etiopia, Madagascar, Tây Phi châu, Trung Phi châu, Đông Phi châu, Nam Phi châu, Phi châu Kitô, Nam Mỹ, Trung Mỹ, Mỹ châu Kitô, Bắc Mỹ, Ba Tư, Trung Đông, các tác phẩm kitô thuộc các nước truyền giáo. Thêm vào đó còn có bảo tàng viện lịch sử trưng bầy các lọai xe ngựa các Giáo Hoàng và Hồng Y dùng xưa kia, và các vũ khí đủ loại.

Rất nhiều tác phẩm lấy hứng từ các cảnh và câu chuyện trong Thánh Kinh Cựu ước và Thánh Kinh Tân Ước. Ngoài giá trị nghệ thuật chúng cũng là các bài giáo lý bằng hình sống động.

Các tác phầm nghệ thuật hội họa, điêu khắc, kiến trúc là chứng tích cuộc sống tinh thần phong phú của con người và của toàn nhân loại. Chúng diễn tả vẻ đẹp của thụ tạo do Thiên Chúa làm nên cho hạnh phúc của con người

Chính vì thế trong tháng 8 này hiệp ý với ĐTC và tín hữu công giáo toàn thế giới chúng ta hãy cầu nguyện cho các nghệ sĩ thời đại chúng ta để qua các tác phẩm nổi tiếng họ giúp mọi người khám phá ra vẻ đẹp của thụ tạo và đến với Thiên Chúa là Chân, Thiện Mỹ.

Linh Tiến Khải

Đức Thánh Cha nhắn nhủ các Hiệp Sĩ Colombus

Đức Thánh Cha nhắn nhủ các Hiệp Sĩ Colombus

Knight Columbus leaders

SAINT-LOUIS. ĐTC Phanxicô kêu gọi các Hiệp sĩ Colombus xác tín nơi sức mạnh tình thương vô biên của Thiên Chúa và chống lại bất công và bạo lực.

Lời kêu gọi của ĐTC được trình bày trong sứ điệp của ĐHY Pietro Parolin, Quốc vụ khanh Tòa Thánh, nhân danh ĐTC gửi Đại hội thường niên lần thứ 135 của Hội đồng lãnh đạo Hội Hiệp Sĩ Colombus, nhóm tại thành phố Saint Louis Hoa Kỳ, từ ngày 1 đến 3-8-2017, về chủ đề ”Xác tín về tình thương và sức mạnh của Thiên Chúa”.

Sứ điệp của ĐHY Parolin có đoạn viết: ”Nếu Thiên Chúa bênh đỡ chúng ta, thì ai có thể chống lại chúng ta?” (Rm 8,31). Câu hỏi này của thánh Phaolô gửi các tín hữu Roma biểu lộ xác tín mạnh mẽ của thánh nhân về sức mạnh vô biên của tình yêu Thiên Chúa, được biểu lộ qua thập giá của Chúa Kitô, vượt thắng mọi hình thức của sự ác trên trần thế. ĐTC thường nhận xét rằng ngày nay, một cuộc thế chiến mới đang diễn ra từng mạnh, trong lúc sự khao khát quyền lực và thống trị về mặt kinh tế, chính trị hoặc quân sự, trái ngược với ý Chúa, đang dẫn tới bạo lực khôn tả, bất công và đau khổ trong gia đình nhân loại chúng ta. ĐTC kêu gọi các tín hữu Kitô khắp nơi, hãy thực sự xác tín về quyền năng vô biên của tình yêu Thiên Chúa, hãy loại bỏ não trạng vừa nói và chiến đấu bài trừ sự lan tràn nền văn hóa dửng dưng trên thế giới, thứ văn hóa loại bỏ những anh chị em yếu thế nhất của chúng ta”.

Trong sứ điệp, ĐHY Parolin cũng cho biết ĐTC ca ngợi sự dấn thân của các hiệp sĩ Colombus bênh vực và thăng tiến sự thánh thiêng của hôn nhân và phẩm giá cũng như vẻ đẹp của đời sống gia đình.

ĐHY nói thêm rằng: ĐTC Phanxicô đặc biệt bày tỏ lòng biết ơn đối với Hội hiệp sĩ Colombus vì sự dấn thân giúp đỡ các anh chị em Kitô ở Trung Đông trong chứng tá trung thành của họ đối với Chúa, thường phải trả giá bằng những hy sinh bản thân lớn lao. ”Không ai trong chúng ta có thể giả mù không thấy đau khổ của những người mà bạo lực huynh đệ tương tàn và sự cuồng tín tôn giáo khiến họ không còn gia cư hoặc buộc lòng phải rời bỏ quê cha đất tổ đi lánh nạn”.

Hội Hiệp Sĩ Colombo giúp các tín hữu Kitô Iraq

Trong bối cảnh này, trong buổi khai mạc Đại Hội hôm 1-8-2017, thủ lãnh Hội hiệp sĩ Colombus, Ông Carl Anderson, cho biết Hội sẽ giúp 2 triệu mỹ kim để góp phần giúp dân chúng tại thành Karamdes bên Iraq tái thiết gia cư của họ bị phá hủy hoặc hư hại.

Thành Karamdes ở vùng bình nguyên Ninive, có đa số dân là tín hữu Kitô, đã bị lực lượng nhà nước Hồi giáo IS chiếm hồi mùa hè năm 2014 và hàng trăm gia đình tại đây đã phải tị nạn tới Erbil ở miền Kurdistan. Nay họ hồi thương sau khi thành của họ được giải phóng.

Ông Carl Anderson tuyên bố hội sẽ quyên góp 2 triệu Mỹ kim để giúp các gia đình hồi hương và tái thiết gia cư của họ bị hư hại. Ông nói: ”Những kẻ khủng bố đã xúc phạm các thánh đường, các nghĩa trang, cũng như cướp phá các gia cư. Nay chúng ta giúp đỡ hàng trăm gia đình Kitô đã phải di tản được trở về hai thành Karamdes và Karemlash, đảm bảo một tương lai đa nguyên cho Iraq”.

Hội Hiệp sĩ Colombo là một hội nam giới Công Giáo được thành lập tại Hoa Kỳ và hiện có gần 2 triệu thành viên. Hội này cũng theo gương chính phủ Hungary mới đây đã gửi 2 triệu Mỹ kim tới tổng giáo phận Erbil ở Iraq, nhắm giúp tái thiết một cộng đoàn Kitô gần thành phố Mossul, cũng ở Iraq. Phí tổn giúp mỗi gia đình tái định cư là 2 ngàn mỹ kim.

Với ý hướng trên đây, ban lãnh đạo trung ương Hội hiệp sĩ Colombus khuyến khích các chi hội ở các giáo xứ và các cá nhân hiệp sĩ đóng góp để giúp các cộng đoàn Kitô ở Iraq. Cho đến nay Hội hiệp sĩ Colombus đã trợ giúp 13 triệu Mỹ kim cho các tín hữu Kitô ở Iraq, Syria và vùng phụ cận (CNS 1-8-2017, REI 2-8-2017)

G. Trần Đức Anh OP 

 

Kitô hữu là nguời bị lây nhiễm ánh sáng của Thiên Chúa

Kitô hữu là nguời bị lây nhiễm ánh sáng của Thiên Chúa

** Là kitô hữu có nghĩa là nhìn về ánh sáng, tiếp tục tuyên xưng niềm tin vào ánh sáng, cả khi thế giới này bị bao trùm bởi đêm đen và bóng tối. Nhờ ơn thánh Chúa Kitô ban cho trong bí tích Rửa Tội kitô hữu không ngã quỵ trong đêm tối, không bị cái chết đánh bại, nhưng hy vọng vào hừng đông, hướng tới sự sống lại và luôn tin tưởng nơi các khả thể vô tận của sự thiện.

Kính thưa quý vị thính giả, ĐTC Phanxicô đã nói như trên với 8.000 tín hữu và du khách hành hương tham dự buổi tiếp kiến chung sáng thứ tư hàng tuần hôm qua. Trong số các người tham dự cũng có một số tín hữu Việt Nam.

Trong bài huấn dụ ĐTC đã khai triển đề tài giáo lý bí tích Rửa Tội là cánh cửa của niềm hy vọng. Ngài giải thích đoạn thư thánh Phaolo gửi tín hữu Galát viết rằng: “Thật vậy, nhờ đức tin, tất cả anh em đều là con cái Thiên Chúa trong Đức Giê-su Ki-tô. Quả thế, bất cứ ai trong anh em được thanh tẩy để thuộc về Đức Ki-tô, đều mặc lấy Đức Ki-tô. Không còn chuyện phân biệt Do-thái hay Hy-lạp, nô lệ hay tự do, đàn ông hay đàn bà; nhưng tất cả anh em chỉ là một trong Đức Ki-tô” (Gl 3,26-28).

Mở đầu bài huấn dụ ĐTC cho tín hữu biết xưa kia các nhà thờ đều quay về hướng đông. Cửa vào ở hướng tây, nhưng khi đi dọc theo lòng nhà thờ tín hữu hướng về phiá đông. Biểu tượng quan trọng này đối với người xưa theo dòng lịch sử đã mai một từ từ. Là những người thời đại tân tiến chúng ta rất ít quen tiếp nhận các dấu chỉ của vũ trụ, và hầu như không bao giờ nhận ra một đặc điểm loại này. Phiá tây là điểm chiều tà, nơi ánh sáng chết lịm. Phiá đông, trái lại,  là nơi bóng tối bị chiến thắng bởi ánh sáng đầu tiên của hừng đông, và nhắc cho chúng ta nhớ tới Chúa Kitô, Mặt Trời mọc lên từ chân trời của thế giới (x. Lc 1,78).

Các lễ nghi xưa kia của bí tích Rửa Tội dự kiến rằng các tân tòng nói lên phần đầu của việc tuyên xưng đức tin bằng cách đứng quay về phiá tây. Chính trong thế đứng đó họ được hỏi: “Anh em có từ bỏ Satan, việc phục vụ nó và các việc làm của nó không?” Các kitô hữu tương lai trả lời: “Thưa con từ bỏ”. Rồi họ hướng về phiá cung thánh ở hướng đông, là nơi nảy sinh ánh sáng, và các ứng viên lãnh bí tích Rửa Tội được hỏi: “Anh em có tin vào Thiên Chúa Cha,  Con và Thánh Thần không?” Lần này họ trả lời: “Con tin”.

** Trong thời đại tân tiến chúng ta đã đánh mất đi phần nào sự hấp dẫn của lễ nghi này: chúng ta đã đánh mất đi sự nhậy cảm đối với ngôn ngữ của vũ trụ. Dĩ nhiên là chúng ta vẫn còn tuyên xưng đức tin với câu hỏi riêng của việc cử hành vài bí tích. Nó còn nguyên vẹn trong ý nghĩa của nó. Nhưng là kitô hữu có nghĩa là gì? ĐTC trả lời:

Nó muốn nói rằng nhìn ánh sáng, tiếp tục tuyên xưng niềm tin vào ánh sáng, cả khi thế giới bị bao trùm bởi đêm đen và bóng tối.

Các kitô hữu không được miễn trừ khỏi bóng tối, bên ngoài cũng như bên trong. Họ không sống ngoài thế giới, nhưng nhờ ơn thánh của Chúa Kitô đã nhận lãnh trong bí tích Rửa Tội, họ là những người nam nữ “được định hướng”: họ không tin vào bóng tối nữa, nhưng tin vào ánh sáng ban ngày; họ không ngã quỵ trước tối tăm, nhưng tin vào bình minh; họ không bị cái chết đánh bại, nhưng hướng tới việc sống lại; họ không bị bẻ gẫy bởi sự dữ, bởi vì họ luôn tin tưởng nơi các khả thể vô tận của sự thiện.

Đó là niềm hy vọng kitô của chúng ta. Ánh sáng của Chúa Giêsu, ơn cứu rỗi mà Chúa Giêsu đem đến cho chúng ta với ánh sáng của Ngài và cứu chúng ta khỏi bóng tối.

ĐTC nói tiếp trong bài huấn dụ: chúng ta là những người tin rằng Thiên Chúa là Cha: đó là ánh sáng! Chúng ta không mồ côi, chúng ta có một Cha và Cha chúng ta là Thiên Chúa. Chúng ta tin rằng Đức Giêsu đã xuống giữa chúng ta, đã bước đi trong chính cuộc sống của chúng ta, trỏ thành người đồng hành, nhất là với những người nghèo nàn và giòn mỏng nhất : đó là ánh sáng! Chúng ta tin rằng Chúa Thánh Thần hoạt động không ngừng cho thiện ích của nhân loại và của thế giới, và cả các đớn đau lớn nhất của lịch sử cũng sẽ được vượt thắng: đó là niềm hy vọng nâng chúng ta dậy mỗi sáng! Chúng ta tin rằng mỗi trìu mến, mỗi  tình bạn, mỗi ước mong tốt lành, mỗi tình yêu thương, kể cả những tình yêu thương nhỏ bé và bị bỏ rơi nhất, một ngày kia sẽ tìm thấy sự thành toàn của chúng nơi Thiên Chúa: đó là sức mạnh thúc đẩy chúng ta hăng say ôm vào lòng cuộc sống mỗi ngày!

** Và đó là niềm hy vọng của chúng ta: sống trong hy vọng và sống trong ánh sáng, trong ánh sáng của Thiên Chúa Cha, trong ánh sáng của Chúa Giêsu Cứu Thế, trong ánh sáng của Chúa Thánh Thần, là Đấng thúc đẩy chúng ta tiến tới trong cuộc sống.

Thế rồi còn có một dấu chỉ khác nữa rất đẹp của phụng vụ rửa tội nhắc cho chúng ta biết tầm quan trọng của ánh sáng. Vào cuối lễ nghi một cây nến, mà ánh sáng của nó được lấy từ cây nến phục sinh, được trao cho cha mẹ – nếu đó là một em bé – hay cho chính người đuợc rửa tội, nếu họ là người lớn. ĐTC giải thích thêm như sau:

Đây là cây nến lớn mà trong đêm lễ Phục Sinh vào trong nhà thờ hoàn toàn tối để biểu lộ mầu nhiệm Phục Sinh của Giêsu. Từ cây nến này mọi người đều thắp sáng lên cây nến của mình và chuyền ánh sáng cho các người bên cạnh: trong dấu chỉ này có việc lan truyền sự Phục Sinh của Chúa Giêsu trong các cuộc sống của tất cả mọi kitô hữu. Sự sống của Giáo Hội là sự lây nhiễm của ánh sáng. Cuộc sống của Giáo Hội – tôi sẽ nói một từ hơi mạnh một chút – cuộc sống của Giáo Hội là sự lây nhiễm của ánh sáng. Kitô hữu chúng ta càng có nhiều ánh sáng của Chúa Giêsu bao nhiêu, trong Giáo Hội càng có nhiều ánh sáng  của Chúa Giêsu bao nhiêu, thì Giáo Hội lại càng sống động bấy nhiêu. Cuộc sống của Giáo Hội là sự lây nhiễm cuả ánh sáng.

Khích lệ đẹp nhất mà chúng ta có thể trao cho nhau là sự khích lệ luôn nhớ tới bí tích Rửa Tội của chúng ta. Tôi muốn hỏi anh chị em: có bao nhiêu người nhớ ngày rửa tội của mình?  Đừng trả lời vì có người sẽ xấu hổ! Anh chị em hãy nghĩ xem…”Con không nhớ”. Tốt, hôm nay, các bài làm ở nhà đây, hãy đến hỏi mẹ, hỏi cha, hỏi dì, hỏi cậu, hỏi ông nội bà ngoại xem “Con được rửa tội ngày nào vậy?” Và như thế anh chị em sẽ không quên nữa! Đã rõ chưa? Anh chị em có làm điều này không? Hôm nay anh chị em học hay nhớ ngày rửa tội của mình, là ngày sinh, là ngày của ánh sáng là ngày, trong đó chúng ta đã bị lây nhiễm bơi ánh sáng của Chúa Kitô. Bài tập ở nhà đấy nhé, nhớ lại ngày rửa tội của mình. Rõ chưa? Tốt lắm.

Chúng ta được sinh ra hai lần: lần đầu tiên vào trong cuộc sống tự nhiên, lần thứ hai nhờ gặp gỡ với Chúa Kitô, trong giếng rửa tội. Ở đó chúng ta đã chết cho cái chết, để sống như con cái của Thiên Chúa trong thế giới này. Ở đó chúng ta đã trở thành người như chưa bao giờ chúng ta có thể tưởng tượng. Đó là lý do tại sao chúng ta tất cả đều phải phổ biến hương thơm của Dầu mà chúng ta đã được xức ngày lãnh bí tích Rửa Tội.  Sống và hoạt động trong chúng ta Thần Khí của Chúa Giêsu là trưởng tử của nhiều anh em, của tất cả những người đối lập với sự không thể chống trả của bóng tối và cái chết.

** Thật là ơn thánh nào, khi một kitô hữu thực sự trở thành một “cristoforo” Cristoforo có nghĩa là gì? Nó có nghĩa là một người mang Chúa Giêsu, vào trong thế giới! Nhất là đối với những người đang trải qua các tình trạng tang chế, tuyệt vọng, tối tăm và thù hận. Và người ta hiểu được điều này từ biết bao nhiêu sự nhỏ nhặt: từ ánh sáng mà một kitô hữu giữ gìn trong đôi mắt, từ sự thanh thản sâu thẳm không bị trầy xước trong những ngày phức tạp nhất, từ ước muốn bắt đầu yêu thương trở  lại và bước đi tuy đã sống kinh nghiệm của biết bao thất vọng. Trong tương lai khi người ta sẽ viết lịch sử thời đại của chúng ta, người ta sẽ nói gì về chúng ta? Rằng chúng ta đã có khả năng hy vọng, hay chúng ta đã đặt ánh sáng của chúng ta dưới cái thùng? Nếu chúng ta trung thành với bí tích Rửa Tội của mình, chúng ta sẽ phổ biến ánh sáng niềm hy vọng của Thiên Chúa. Bí tích Rửa Tội là khởi đầu của niềm hy vọng, niềm hy vọng của Thiên Chúa và chúng ta  sẽ có thể truyền lại cho các thế hệ tương lai các lý lẽ của cuộc sống. Và để tôi không quên, đâu là bài làm ở nhà vậy? Anh chị em nói đi chứ? Tôi chả nghe thấy gì cả, hãy nhớ ngày rửa tội của mình!

ĐTC đã chào các đoàn hành hương đến từ Pháp,

Haiti, Đức, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Nigeria, Iraq, Nhật Bản, Hoa Kỳ, đặc biệt là tín hữu Toà Thượng Phụ Canđê do ĐC Shlemon Warduni hướng dẫn. Ngài cầu mong trong mùa hè nghỉ ngơi mọi người có dịp nhớ lại ngày mình lãnh nhận bí tích Rửa Tội và được sinh vào cuộc sống là con cái Thiên Chúa.

Chào các tín hữu Ba Lan ĐTC nhớ lại kỷ niệm của Ngày Quốc Tế Giới Trẻ năm ngoái. Ngài nói tôi cảm tạ Chúa về đức tin hăng say của người trẻ mà Chúa Thánh Thần đã dấy lên trong các ngày ấy và tiếp tục củng cố trong tim họ. Ước chi họ là các lính canh của niềm hy vọng cho các thế hệ tương lai! Tôi cũng nhớ tới gương mặt của ĐHY Frantisek Macharski mà hôm nay là kỷ niệm một năm ngài qua đời. Ký ức về vị chủ chăn vĩ đại này thật sống động. Ngài đã là người tận hiến cho con người trong niềm tin tưởng nơi Chúa Giêsu từ bi.

Trong số các tín hữu Ý ĐTC chào đặc biệt các nữ tu Phan Sinh thừa sai Thánh Tâm, các nữ tu thiên thần của thánh Phaolô, các nữ tu Murialde của thánh Giuse, về Roma tham dự tổng tu nghị. Ngài cũng chào các nhóm giáo xứ và hiệp hội, cách riêng hiệp hội hợp tác xã Auxilium và các trẻ em được hội trợ giúp. ĐTC cầu chúc chuyến viếng thăm Roma gia tăng nơi mỗi người uớc muốn dấn thân tin vào Chúa Giêsu và Tin Mừng của Chúa hơn. ĐTC nhắc lại bài tập ngài đã ra cho mọi người làm ở nhà là nhớ lại ngày chịu Phép Rửa Tội của mình. Ngài cầu mong giới trẻ, các người đau yếu và các đôi tân hôn đừng bao giờ đánh mất niềm hy vọng và lòng tín thác nơi tình yêu của Chúa.

Buổi tiếp kiến đã kết thúc với Kinh Lạy Cha và phép lành Toà Thánh ĐTC ban cho mọi người

Linh Tiến Khải

Buôn người là một hình thức nô lệ mới sống nhờ nạn di cư

Buôn người là một hình thức nô lệ mới sống nhờ nạn di cư

ZACATECAS: Buôn người là một hình thức nô lệ mới sống nhờ tệ nạn di cư vì nghèo đói.

ĐC Sigifredo Noriega Barceló, GM giáo phận Zacatecas bên Mêhicô đã nói như trên trong bài giảng thánh lễ Chúa Nhật 30 tháng 7 vừa qua. Nhắc tới cái chết của một thanh niên Mêhicô bên trong một xe móc bên Texas, ĐC nói đây là các sự kiện rất đau buồn không phải chỉ đối với gia đình các nạn nhân, mà đối với toàn xã hội nói chung khiến mọi người phải nghĩ tới nhiều khía cạnh thê thảm của cuộc sống và cuả hiện tượng di cư. Tuần trước đó cảnh sát Mỹ cũng đã tìm thấy xác của 9 người di cư lén lút trong đó có 2 trẻ em trong một xe móc tại bãi đậu tỉnh San Antonio bên Texas. Trong thùng xe lớn họ cũng tìm thấy 30 người di cư lén lút khác, trong đó có 20 người ở trong tình trạng nặng phải vào nhà thương, và một người đã chết sau đó vài ngày.

ĐC Barceló nói: Chính trong ngày Chúa Nhật 30 tháng 7 là Ngày quốc tế chống nạn buôn người các sự kiện buồn thương này khiến cho chúng ta đi tới suy tư các nạn nhân nói trên đáng lý ra không nên du hành như thế. Họ đã ra đi kiếm tìm một cuộc sống tốt đẹp hơn nhưng thật là không đáng khi họ bị đối xử như vậy. Buôn người là một hình thức nô lệ mới. Người dân Mêhicô chúng ta cần di cư, nhưng phải làm sao để không có các nguy hiểm tới tính mạng. Bởi vì cho dầu nhu cầu có lớn thế nào đi nữa, thì cũng không thể biện minh cho việc hành động như vậy. Sự cần thiết vật chất, cảnh nghèo túng là lý do đầu tiên của nạn di cư. Bởi vì chúng ta không thành công trong việc sản xuất đủ cho dân có thể sống, và những gì có thể sản xuất thì lại không được phân chia một cách tốt đẹp. Nếu thiếu các cơ may phát triển, thì dân chúng phải đi ra nước ngoài tìm cách trợ giúp gia đình họ. Và thảm cảnh là họ gặp nguy cơ bị thiệt mạng (FIDES 31-7-2017)

Linh Tiến Khải

Các Giám Mục Hoa Kỳ trợ giúp 6 triệu mỹ kim cho các nước Mỹ Latinh và Haiti

Các Giám Mục Hoa Kỳ trợ giúp 6 triệu mỹ kim cho các nước Mỹ Latinh và Haiti

WASHINGTON: Tổ chức bác ái của HĐGM Hoa Kỳ đã quyết định dành ra ngân khoản 6 triệu mỹ kim để trợ giúp  các Giáo Hội châu Mỹ Latinh, vùng quần đảo Caraibi và Haiti.

Trong ngân khoản nói trên có 4 triệu được dùng để tài trợ cho 244 dự án của Giáo Hội các nước châu Mỹ Latinh. Chẳng hạn bên Argentina có “Trung tâm trợ giúp sự sống đang sinh ra” hoạt động trong 21 giáo phận toàn nước trong việc thăng tiến săn sóc và bênh vực sự sống từ lúc thụ thai, giúp các bà mẹ mang thai, giúp họ hiểu biết phẩm giá của chức vụ là cha mẹ. Các trung tâm này cũng có các khoá giáo dục đào tạo về nhân phẩm và phát động ý thức cho dân.

Tại Haiti ngoài việc tái thiết nhiều cơ sở bị sập trong trân động đất hồi năm 2010, còn có chương trình đào tạo 400 nhân viên mục vụ của 4 giáo xứ bị tàn phá bởi trận bão Matthew. Các khoá học kéo dài 3 ngày, và các học viên tham dự nhiều sinh hoạt khác nhau gồm cả việc tham dự thánh lễ và cầu nguyện.

ĐC Eusebio Ellizondo, Giám Mục phụ tá Seatle, chủ tịch tiểu ban Giáo Hội châu Mỹ Latinh cho biết sở dĩ HĐGM có thể tài trợ các dự án nói trên là nhờ sự  đóng góp quảng đại của tín hữu công giáo toàn Hoa Kỳ trong các lần lạc quyên cho các Giáo Hội châu Mỹ Latinh. Nhờ ngân khoản quyên được Ủy ban mới có thể tài trợ việc tái thiết nhiều nhà thờ trong vài giáo phận Haiti.

Trong số các dự án cũng còn có việc đào tạo hàng giáo dân lãnh đạo, các chủng sinh và tu sĩ, tài trợ mục vụ nhà tù, mục vụ giới trẻ. Hàng năm cuôc lạc quyên cho các Giáo Hội châu Mỹ Latinh được tổ chức vào ngày Chúa Nhật cuối cùng của tháng giêng (REI 1-8-2017)

Linh Tiến Khải

 

Các nghệ sĩ cử hành Ngày nghệ thuật thánh Phanxicô

Các nghệ sĩ cử hành Ngày nghệ thuật thánh Phanxicô

ASSISI: Mùng 2 tháng 8 hôm nay là Ngày toàn xá Porziuncola, hàng trăm nghệ sĩ vùng Umbria, Lazio, Emilia Romagna và Nga tụ họp nhau tại Assisi để cử hành ngày nghệ thuật kính thánh Phanxicô.

Sáng kiến này đã do nhiều hiệp hội khác nhau tổ chức theo gợi ý của ĐTC Phanxicô nhân dịp mừng kỷ niệm 800 năm Ngày toàn xá ĐGH Onorio III ban theo lời xin của thánh Phanxicô năm 1217. Chuyên kể rằng một đêm năm 1216 trong khi thánh Phanxicô chìm đắm trong lời cầu nguyện thì thánh nhân thấy có một ánh sáng rất mạnh lọt vào nhà nguyện Porziuncola và thánh nhân trông thấy hiện ra trên bàn thờ Chúa  Kitô có Đức Mẹ đứng bên phải và các thiên thần. Các vị hỏi thánh nhân mong ước gi cho sự cứu rỗi các linh hồn thánh Phanxicô trả lời ngay: “Lậy Cha chí thánh mặc dù con là kẻ tội lỗi, con xin Cha ban ơn tha thứ rộng rãi và quảng đại”. Chúa nhận lời xin của thánh nhân. Và sau khi được ĐGH Onorio III cho phép lễ Toàn Xá Porziuncola bắt đầu được cử hành vào ngày mùng 2 tháng 8 năm 1217. Từ trưa ngày mùng 1 cho tới 12 giờ đêm ngày mùng 2 tháng 8 hàng năm những ai viếng nhà thờ Đức Maria của các Thiên Thần bên trong có nhà nguyện Poziuncola, hay tất cả các nhà thờ giáo xứ do các cha dòng Phanxicô trông coi trên toàn thế giới đều được ơn toàn xá, nghĩa là được tha mọi tội lỗi, miễn là họ xưng tội rước lễ, và đọc một Kinh Tin Kính một Kinh Lạy Cha cầu nguyện theo ý Đức Giáo Hoàng.

Trong các sinh hoạt của Ngày nghệ thuật có video ý chỉ tháng 8 của ĐTC cầu nguyện cho các nghệ sĩ trên toàn thế giới, để họ ý thức được sứ mệnh cao quý của họ là diễn tả vẻ đẹp qua các tác phẩm nghệ thuật hầu giúp con người gặp gỡ Thiên Chúa là Chân Thiện Mỹ.

Số tiền bán các tác phẩm do các nghệ sĩ trưng bầy và trình diễn sẽ được dùng để làm việc từ thiện. Đó là trường hợp của nữ họa sĩ Natalia Tsarkova với tác phẩm “Mục Tử Thương Xót” của Năm Thánh Lòng Thương Xót, và cuốn sách ngụ ngôn tựa đề “Mầu nhiệm của cái ao nhỏ”, lấy hứng từ buổi lần hạt Mân Côi của ĐTC Biển Đức trước tượng Đức Mẹ đặt giữa một ao cá trong vườn dinh thự nghỉ hè Castel Gandolfo. Tiền bán cuốn sách này sẽ được dùng để giúp các trẻ em mù.

Nữ họa sĩ Francesca Capitini sẽ trình bầy bức tranh “Thánh Phanxicô giảng cho chim”.

Ngoài ra cũng sẽ được giới thiệu cuốn sách tựa đề “Đức Biển Đức XVI. Nghệ thuật là một cánh cửa hướng về Vô Tận. Thần học nghệ thuật cho một Phục Hưng mới” (REI 1-8-2017)

Linh Tiến Khải

 

Sự quan tâm của Toà Thánh đối với Đông Âu và Đông Phương

Sự quan tâm của Toà Thánh đối với Đông Âu và Đông Phương

Nội dung bài phỏng vấn ĐHY Pietrro Parolin, Quốc Vụ Khanh Toà Thánh, về sự quan tâm của Toà Thánh đối với Đông Âu và Đông Phương  

Sau hai chuyến viếng thăm Bielorussia năm 2015 và Ucraina năm 2016, vào cuối tháng 8 tới đây ĐHY Pietro Parolin, Quốc Vụ Khanh Toà Thánh sẽ viếng thăm Nga. Qua các chuyến viếng thăm này Toà Thánh khẳng định sự chú ý của mình đối với Đông Âu và các thế quân bình mới nảy sinh sau khi đế quốc Liên Xô sụp đổ và đặc biệt là nước Nga. Đó là điều chúng ta đã nhận ra trong các sứ điệp mà ĐTC Phanxicô đã gửi cho tổng thống Nga Vladimir Putin trong nhiều dịp khác nhau, và trên một bình diện khác không kém ảnh hưởng, là bình diện đối thoại đại kết kể từ cuộc gặp gỡ giữa Giám Mục Roma với Đức Thượng Phụ Mátscơva Kirill I tại thủ đô La Habana của Cuba hồi năm ngoái 2016.

Sau đây chúng tôi xin gửi tới quý vị bài phỏng vấn ĐHY Quốc Vụ Khanh Toà Thánh đã dành cho nhật báo “Mặt trời 24 giờ” về vấn đề này.

Hỏi: Thưa ĐHY chuyến viếng thăm của ĐHY được tháp vào lộ trình này như thế nào?

Đáp: Sự chú ý của Toà Thánh đối với Đông Âu không phải mới có ngày nay, nhưng đã có từ lâu đời rồi và đã không thuyên giảm, kể cả trong những năm đen tối nhất. Toà Thánh đã luôn luôn coi là quan trọng các tương quan với  Đông Âu và với nước Nga trong các giai đoạn khác nhau của lịch sử. Có hai biến cố ý nghĩa thật đáng nhớ nhưng ít người biết tới. Trong chuyến viếng thăm Roma hồi năm 1845 Nga hoàng Nicola I đã hội kiến với ĐGH Gregorio XVI hai lần.

Hai năm sau Nga hoàng đã ký một thỏa hiệp với Đức Pio XI. Các Giáo Hội địa phương đã sát cánh với các dân tộc của mình cả trong những lúc thê thảm nhất  của các cuộc bách hại. Không phải chỉ có sự kiện nó gần biên giới Âu châu khiến cho Đông Phương quan trọng, mà cả địa vị lịch sử của nó trong bối cảnh của nền văn minh , của nền văn hoá và niềm tin kitô của nó nữa. Có người nhận xét rẳng khi thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II tưởng tượng một Âu châu trải dài từ Đại Tây Dương tới vùng Ural, ngài đã không nghĩ tới một “chủ trương bành trướng tây âu, nhưng nghĩ tới một sự gần gũi hiệp nhất hơn của toàn đại lục.

Hỏi: Sau các năm khó khăn tiếp nối sự sụp đổ của Liên Xô, ngày nay chúng ta đang chứng kiến việc Matscơva trở lại chính trường quốc tế. Đây là một việc trở lại hiếu chiến. Chỉ cần nghĩ tới Ucraina và Siria thì đủ biết. ĐHY nghĩ thế nào?

Đáp: Đương nhiên là đã có một giai đoạn không chắc chắn liên quan tới lập trường của nước Nga đối với nhiều vấn đề khác nhau, nhưng tôi không nghĩ rằng có thể nói là quốc gia này cả trong những lúc khó khăn nhất, đã ra khỏi sân khấu quốc tế. Ngày nay người ta thường nhấn mạnh trên các khác biệt giữa các nước tây âu và Nga, làm như thể chúng là hai thế giới khác biệt, mỗi bên với các giá trị riêng, lợi lộc, sự kiêu hãnh quốc gia hay liên quốc gia của mình, và cả đến một quan niệm về quyền quốc tế chống lại các nước khác nữa. Trong một bối cảnh như thế thách đố là việc góp phần hiểu biết nhau hơn giữa các nước có nguy cơ trình diện mình như hai cực đối kháng nhau.

Cố gắng tìm hiểu nhau không có nghĩa là bên này nhượng bộ lập trường của bên kia, nhưng có nghĩa là một cuộc đối thoại kiên nhẫn, xây dựng và tôn trọng. Cuộc đối thoại này càng quan trọng hơn liên quan tới nguồn gốc của các cuộc xung đột thường xuyên xảy ra và liên quan tới các vấn đề có nguy cơ gây ra việc gia tăng căng thẳng. Trong nghĩa đó vấn đề hoà bình và tìm kiếm giải pháp cho các cuộc khủng hoảng  khác nhau đang xảy ra phải được đặt lên trên bất cứ lợi lộc quốc gia hay thiên vị nào. Ở đây không thể có các kẻ thắng người thua. Nhân nhượng trên các lợi lộc riêng rẽ là một trong các đặc tính trong thời trở lại của các khuynh hướng quốc gia này khiến cho người ta không nhìn thấy khả thể của một tai ương có thể xảy ra. Tôi xác tín rằng nhấn mạnh trên điểm này thuộc sứ mệnh của Toà Thánh.

Hỏi: Liên quan tới các xung đột đang xảy ra ĐTC Phanxicô đã mạnh mẽ nhắc tới việc sử dụng đồi bại tôn giáo, khi Ngài phát biểu trước Quốc Hội Hoa Kỳ, có đúng thế không thưa ĐHY?

Đáp: Vâng, đúng thế. ĐTC đã nói rằng thế giới chúng ta luôn ngày càng là một nơi của các xung khắc bạo lực, thù hận và bạo lực tàn ác, bị vi phạm nhân danh cả Thiên Chúa và tôn giáo nữa và ngài nói tiếp: Chúng ta biết rằng không có tôn giáo nào được miễn khỏi các hình thức lừa dối cá nhân hay quá khích ý thức hệ. Điều này có nghĩa là chúng ta phải đặc biệt chú ý tới mọi hình thức cuồng tín tôn giáo cũng như mọi thứ khác. Cần có một thế quân bình tế nhị để chống lại bạo lực nhân danh một tôn giáo, một ý thức hệ, hay một hệ thống kinh tế, trong khi đồng thời phải cứu vãn tự do tôn giáo, tự do trí thức và các quyền tự do cá nhân. Nó là một sự quân bình khó khăn trong đó cũng có việc bảo vệ các cộng đoàn kitô và mọi cộng đoàn có nguy cơ bị thù hận đảo lộn.

Hỏi: Chuyến viếng thăm Hoa Kỳ của ĐTC Phanxicô và các lời ngài phát biểu trước Quốc Hội giờ đây được đọc lại, với chính quyền mới, ĐHY có thấy rằng xem ra chúng xa vời không?

Đáp: Cần có thời gian để phán đoán. Không thể vội vã được. Một chính quyền mới, khác và đặc biệt như vậy, và không phải chỉ vì các lý do chính trị, các biến cố xảy ra lần đầu tiên, sẽ cần thời gian để tìm ra thế quân bình của nó. Mọi phán đoán vội vã, cả khi có thể gây kinh ngạc việc phơi bầy của sự không chắc chắn. Chúng tôi cầu mong Hoa Kỳ và các tác nhân khác của sân khấu quốc tế không xa rời trách nhiệm quốc tế của họ liên quan tới các đề tài khác nhau mà họ đã thực thi cho tới nay trong lịch sử. Chúng tôi đặc biệt nghĩ tới các thách đố mới của khí hậu: giảm việc hâm nóng trái đất có nghĩa là cứu vãn căn nhà chung trong đó chúng ta sống, và giảm thiểu ngay lập tức các bất bình đẳng và cảnh nghèo túng mà việc hâm nóng trái đất tiếp tục gây ra. Chúng tôi cũng nghĩ tới các cuộc xung đột đang xảy ra nữa.

Hỏi: ĐHY không sợ rằng sự lo lắng của Giáo Hội đối với nền hoà bình duới con mắt và trong lỗ tai của nhiều người trở thành giảm thiểu hay cả hùng biện trước vấn đề sự hữu hiệu của nó hay sao?

Đáp: Ngoại giao của Giáo Hội  công giáo là một ngoại giao của hoà bình. Nó không có các lợi lộc quyền bính: chính trị, kinh tế hay ý thức hệ. Chính vì vậy nên nó có thể trình bầy với sự tự do lớn hơn cho các người này biết các lý do của các người khác, và tố cáo cho từng bên biết các nguy hiểm mà một quan niệm tự quy chiếu có thể có đối với tất cả mọi người.

Chuyến viếng thăm Bielorussia đã được làm vào thời các nước tây âu cấm vận, và chuyến viếng thăm Ucraina đã được thực hiện khi đang có chiến tranh.  Chuyến viếng thăm này đã là dịp để đem tình liên đới của Giáo Hội và của ĐTC đến cho toàn dân Ucraina bị lôi cuốn vào cuộc xung đột. Và để cho mọi người đều thấy, chúng tôi đã tới gần vùng Donbass, có đầy người tỵ nạn, bằng cách sử dụng tình liên đới với các nạn nhân của bạo lực mà không hỏi căn tính địa lý hay chính trị của họ.

ĐTC Phanxicô đã mở ra con đường với việc thăng tiến một cuộc thu nhận các trợ giúp của các Giáo Hội Âu châu và với phần đóng góp nhiều của riêng ngài. Nếu người ta bênh vực nhân phẩm của tất cả mọi người, chứ không phải chống lại ai đó, thì khi ấy một con đường khác là điều có thể.

Toà Thánh không tìm kiếm gì cho chính mình cả. Toà Thánh không hiện diện khi nơi này khi nơi khác để không mất đi phần nào hết. Cố gắng của Toà Thánh là một cố gắng khó khăn nói một cách nhân loại, nhưng lại không thể khước từ trên bình diện tin mừng, để cho các thế giới gần nhau trở lại,  đối thoại với nhau và ngừng xâu xé nhau vì thù hận trước khi xâu xé nhau vì bom đạn.

Hỏi: Thưa ĐHY Quốc Vụ Khanh, trong điều này ĐTC Phanxicô tiếp tục một truyền thống đã nổi lên trong thế kỷ XX và được củng cố từ thời ĐTC Gioan XXIII: sự ngoại giao của các cử chỉ, các dấu hiệu gần gũi chú ý trước hết tới phẩm giá của người đối thoại, có phải vậy không?

Đáp: Chúng tôi không chỉ là các lời nói, nhưng cũng là các cử chỉ nữa. Các hành động của chúng tôi cụ thể, nhất là khi các lời nói xem ra không có hiệu quả, bởi vì chúng đã bị soi mòn hay không thể nghe được nữa. Có một ngôn ngữ đại đồng bao gồm trong các cử chỉ: Giáo Hội học nó mỗi ngày từ việc loan báo Tin Mừng có thể trợ giúp ngừng lại, và thay đổi một hướng đi sai lầm, trong những lúc khó khăn. Viễn tượng của chúng tôi chỉ có thể là viễn tượng đã được ngôn sứ Isaia nhắc tới và được Phúc Âm lấy lại: “Trong việc trả tự do cho người bị áp bức”, và “bẻ gẫy mọi gông cùm”, “chia sẻ bánh ăn với người đói, rước vào nhà những người bần cùng không nhà cửa.. không lơ là với những người cùng nhà” (Is 58,6-7). Điều quan trọng là việc chữa lành, giải thoát, luôn luôn tái xây dựng con người từ các tình trạng cụ thể của họ. Vì thế chúng ta phải có các cử chỉ cụ thể, các dấu chỉ rằng chúng ở ngọn nguồn của khả thể chung sống cùng nhau. Có các cử chỉ và xin các cử chỉ.

Hỏi: Nếu chúng ta nhìn vào các biểu tượng, thì khi đó cả từ một quan điểm chính trị, cũng nổi lên vài biểu tượng có ý nghĩa tới độ rộng mở cho niềm hy vọng, tới độ bắt đầu từ các biến cố buồn thương. Chẳng hạn ĐHY không thấy rằng đám táng của ông Kohl có thể được coi như các đám táng âu châu đầu tiên của một vị lãnh đạo âu châu hay sao?

Đáp: Ông Kohl đã có công lịch sử tin vào lý tưởng âu châu như lý tưởng chính trị cụ thể. Biến cố bức tường Berlini sụp đổ và việc tái hiệp nhất nước Đức đối với ông đã không chỉ là một vấn đề nội bộ của nước Đức và lịch sử thảm khốc của nó, nhưng là dấu chỉ của sự phát triển  của Âu châu trong đó một nước lớn như nước Đức đã có thể hoạt động một cách hợp pháp và phong phú. Không phải là một Âu châu bị đức hoá, nhưng là một nước Đức được âu châu hoá. Ông Kohl đã hiểu  rằng cả việc sát nhập âu châu trong một mức độ nào đó cũng đã là con đẻ của nền chính trị hai khối Đông Tây. Và khi hai khối được vượt thắng Âu châu phải hiện hữu như là chủ thể chính trị chứ không phải chỉ như chủ thể kinh tế mà thôi. Ngày nay người ta thường có cảm tưởng rằng ý tưởng Âu châu xem ra trở lại sau một thời gian dài của phản ứng chống âu châu trong dư luận công cộng và chiến thắng của ý tưởng này của các vị lãnh đạo trong các quốc gia khác nhau đã ngưng khá sớm. Nó đã có một sự hăng hái ngắn, như dụng cụ hơn là lý tưởng.

Nguy cơ đó là ngưòi ta dừng lại nơi việc sử dụng Âu châu trong chià khoá quốc gia. Như thể là nhiều người nói rằng sau thí dụ Anh quốc ra khỏi Liên Hiệp Âu Châu thì tốt hơn là nên ở trong căn nhà chung âu châu, mỗi người tuỳ theo ý của mình. Khuynh hướng duy quốc gia, kể cả việc trở lại  như việc khởi đầu có các gốc rễ riêng trong cuộc khủng hoảng văn hoá và tôn giáo của Âu châu và rốt cuộc nó khiến cho Âu châu trống rỗng các giá trị và các lý lẽ của mình. Âu châu có một trách nhiệm không thể thay thế được. Và khi nó tỏ ra thờ ơ, như trong trường hợp đối với hiện tượng di cư, thì nó khước từ thiện ích có thể có.

Hỏi: Chúng ta hãy hướng sang Đông Phương: từ Việt Nam cho tới Trung Quốc. Viễn Đông có một con đường đối thoại của nó với Giáo Hội hay không?

Đáp: Viễn Đông là một vùng của thế giới khá rộng, phức tạp và khác nhau. Từ bao thế kỷ qua phần đất rộng rãi đó của nhân loại đã tiếp xúc với Kitô giáo và hậu quả với Giáo Hội công giáo, nhờ các con đường và các hình thức riêng biệt khác nhau từ nước này sang nước khác. Các tiếp xúc văn hoá và tôn giáo cổ xưa với thế giới á châu ngày nay cũng cống hiến nhiều điểm quan trọng cho cuộc gặp gỡ giữa các nền văn hoá. Chỉ cần nghĩ tới các tiếp xúc đã xảy ra bên Ấn Độ nơi các kitô hữu đầu tiên, hay với đế quốc trung gian qua con đường tơ lụa hay các tiếp xúc với các khám phá địa lý của các thế kỷ XV và XVI cho tới các tiếp xúc với Nhật Bản và Philippines. Chắc chắn so sánh với quá khứ ngày nay có các thách đố mới đang chờ các câu trả lời chưa từng có và sáng tạo, nhưng nói cho cùng mục đích của Giáo Hội vẫn luôn luôn như thế và nó thuộc bản chất mục vụ: đem Thiên Chúa đến cho con người và đem con người đến với Thiên  Chúa. Trong cụ thể Giáo Hội công giáo xin được bảo đảm quyền tự do tuyên xưng đức tin lợi ích cho tất cả mọi người và cho sự hoà hợp của xã hội. Các tín hữu công giáo ước mong sống đức tin trong thanh bình tại các quốc gia của họ như là các công dân tốt, dấn thân cho việc phát triển tích cực cộng đoàn quốc gia.

Trong khung cảnh đó tôi nghĩ cần tiếp nhận con đường đối thoại đã bắt đầu từ lâu với các chính quyền của các nước trong vùng, trong đó có Cộng hoà nhân dân Trung Quốc. Cuộc đối thoại tự nó đã là một sự kiện tích cực rồi, mở ra cho cuộc gặp gỡ  và làm cho sự tin tưởng lớn lên. Chúng tôi đương đầu với nó với tinh thần của một khuynh hướng thực tiễn lành mạnh, vì biết rằng các số phận của nhân loại truớc hết nằm trong tay Thiên Chúa.

Linh Tiến Khải

Toà Thánh và Giáo Hội luôn bảo vệ nhân quyền và tự do tôn giáo

Toà Thánh và Giáo Hội luôn bảo vệ nhân quyền và tự do tôn giáo

ROVERETO: Toà Thánh và Giáo Hội sẽ luôn luôn dấn thân bênh vực và thăng tiến các quyền con người, trong đó có quyền tự do tôn giáo, sự thánh thiêng của sự sống và gia đình xây dựng trên hôn nhân giữa một người nam và một người nữ.

Đức Ông Paolo Rudelli, quan sát viên thường trực của Toà Thánh cạnh Hội Đồng Âu châu Strasbourg, đã khẳng định như trên trong bài tham luận về đề tài “Việc thăng tiến các quyền con người  trong hoạt dộng quốc tế của Toà Thánh”, trong khuôn khổ các buổi diễn thuyết tại Rovereto, tỉnh Trento chiều 28 tháng 7 vừa qua. Buổi diễn thuyết do Hiệp hội “Campana dei Caduti Maria dolens “Chuông tử sĩ Đức Maria khổ đau”, tổ chức. Đây là hiệp hội cổ võ giáo dục các thế hệ trẻ yêu chuộng hoà bình và tôn trọng nhân quyền qua các hoạt động văn hoá và ngoại giao.

Quả chuông tưởng niệm các binh sĩ tử trận trong Đệ Nhất Thế Chiến, cũng như mọi người đã chết vì bất cứ lý do gì. Quả chuông được đúc bằng đồng lấy từ các khẩu súng đại bác của 19 quốc gia tham dự đệ nhất thế chiến. Nó được đúc năm 1924 và đưa về đặt tại Rovereto năm 1925.  Sau đó nó được đúc lại ba lần nữa: lần cuối cùng năm 1964 và đã được ĐGH Phaolo VI làm phép ngày 31 tháng 10 năm 1965 tại quảng trường thánh Phêrô rồi được đưa về đặt trên đồi Miravalle. Quả chuông nặng 22 tấn 639 ký cao 3 thuớc 36, đường kính 3 mét 21 và có nốt Si Bemol. Đây là quả chuông lớn hàng thứ tư trên thế giới sau quả chuông của công viên Gotemba bên Nhật Bản nặng 36 tấn, quả chuông Millenium Newport bên Hoa Kỳ nặng 33 tấn, và quả chuông Petersglocke của nhà thờ chính toà Koeln bên Đức nặng 24 tấn.

Trong bài thuyết trình  Đức Ông Rudelli đã tóm tắt các hoạt động nổi bật của Toà Thánh và các Giáo Hoàng trong hai thế kỷ XIX-XX, đặc biệt các nỗ lực của các Giáo Hoàng trong việc bảo vệ các quyền con người đặc biệt là quyền tự do tôn giáo. Vị đại diện Toà Thánh đã nhấn mạnh phần đóng góp của các Giáo Hoàng từ Leo XIII đến Gioan XXIII và của Công Đồng Chung Vaticăng II. Cách riêng các đóng góp của Đức Phaolô VI, Gioan Phaolô II, Biển Đức XVI và Đức Phanxicô qua các giáo huấn, các thông điệp, sứ điệp và các diễn văn của các vị truớc các tổ chức quốc tế. Dữ kiện mạc khải con người được tạo dựng nên giống hình ảnh của Thiên  Chúa là điểm khởi hành và là nền tảng của phẩm giá và các quyền bất khả xâm phạm của con người, mà Toà Thánh và Giáo Hội luôn luôn mạnh mẽ giảng dậy, bảo vệ và bênh vực (REI 28-7-2017)

Linh Tiến Khải

 

Niềm vui tìm thấy Thiên Chúa

Niềm vui tìm thấy Thiên Chúa

VATICAN. Lúc 12 giờ trưa Chúa nhật 30.07.2017, Đức Thánh Cha chủ sự buổi đọc kinh Truyền Tin với hàng chục ngàn tín hữu và du khách hành hương hiện diện tại Quảng trường Thánh Phêrô. Trước khi đọc kinh, Đức Thánh Cha quảng diễn bài Tin Mừng Chúa nhật nói về dụ ngôn kho báu và ngọc quý, và Ngài làm nổi bật niềm vui của nhưng ai tìm thấy Thiên Chúa. 

Bài huấn dụ của Đức Thánh Cha

Anh chị em thân mến,

Trong chương 13 Tin Mừng theo thánh Mát-thêu, Chúa Giêsu kể cho chúng ta bảy dụ ngôn. Và hôm nay là ba dụ ngôn cuối trong số bảy dụ ngôn ấy. Ba dụ ngôn đó là: dụ ngôn kho báu (Mt 13:44) và ngọc quý (Mt 13:45-46), dụ ngôn chiếc lưới (Mt 13:47-48). Cha muốn dừng lại ở dụ ngôn kho báu và ngọc quý, với điểm nhấn là nhân vật chính trong hai dụ ngôn ấy đều bán tất cả mọi sự họ có, để có được điều họ tìm thấy. Trong dụ ngôn kho báu, người nông dân vô tình gặp được kho báu chôn giấu trong ruộng mà ông canh tác. Vì đây không phải là ruộng của ông, nên ông quyết định liều bán hết những gì ông có, để mua thửa ruộng ấy, nhằm giữ được kho báu. Ông không để mất dịp đặc biệt ấy. Trong dụ ngôn ngọc quý, chúng ta thấy một thương gia tìm được viên ngọc quý. Là chuyên gia, ông xác định được giá trị của viên ngọc ấy. Ông cũng quyết định bán tất cả mọi thứ để mua cho được viên ngọc quý.

Tìm kiếm và hy sinh

Những điểm tương đồng nổi bật của hai dụ ngôn ấy, làm sáng tỏ hai đặc tính liên quan để có được Nước Thiên Chúa: đó là tìm kiếm và hy sinh. Đúng là Nước Thiên Chúa được ban tặng cho tất cả mọi người. Đó là một món quà, một ơn ban, nhưng không phải là có sẵn trên đĩa bạc. Nước Thiên Chúa đòi hỏi một sự năng động, đó là cuộc kiếm tìm, là cần tiến bước, là cần phải làm gì đó. Thái độ kiếm tìm chính là điều kiện thiết yếu cho cuộc tìm kiếm. Cần có một trái tim đầy nhiệt huyết và khát khao giá trị cao quý, giá trị ấy chính là Nước Thiên Chúa hiện diện ngay nơi Chúa Giêsu. Người là kho báu ẩn giấu, Người là viên ngọc quý giá. Người chính là Đấng mà chúng ta cần khám phá, cần tìm thấy, vì Người có tác động mang tính quyết định trên cuộc đời chúng ta, vì Người làm cho cuộc đời chúng ta đầy tràn ý nghĩa.

Không bỏ lỡ cơ hội duy nhất

Trước những khám phá bất ngờ, người nông dân cũng như thương gia đã nhận ra trước mắt họ cơ hội duy nhất không thể bỏ qua, vì thế họ đã dám bán đi tất cả. Việc lượng định giá trị vô song của kho báu, đã dẫn tới quyết định có tính hy sinh, có tính tách rời, có tính từ bỏ. Khi kho báu và ngọc quý được tìm thấy, có nghĩa là khi chúng ta tìm thấy Chúa, chúng ta không nên bỏ qua cuộc khám phá này, nhưng chúng ta sẵn sàng hy sinh cho những gì cao quý hơn. Khi từ bỏ và bán hết những gì mình có, không có nghĩa là chúng ta coi khinh những điều ấy, nhưng có nghĩa là chúng ta đặt những điều ấy dưới Chúa Giêsu, có nghĩa là chúng ta thấy Chúa Giêsu là trên hết. Đó là ơn ban. Người môn đệ của Chúa Kitô không phải là người bị tước đoạt những điều thiết yếu, nhưng môn đệ là tìm thấy những gì cao quý hơn. Người môn đệ tìm thấy niềm vui đầy tràn mà chỉ có Chúa mới có thể ban tặng. Đó là niềm vui Tin Mừng của những người bệnh được chữa lành, niềm vui của những tội nhân được tha thứ, niềm vui của kẻ trộm được vào Nước Trời.  

Niềm vui tìm thấy Thiên Chúa

Niềm vui Tin Mừng lấp đầy trái tim và cuộc sống của những ai gặp gỡ Chúa Giêsu. Đó là những người để cho mình được Chúa cứu rỗi, đó là những người tự do khỏi tội lỗi, khỏi những buồn sầu, khỏi sự trống rỗng nội tâm, khỏi nỗi cô đơn. Cùng với Chúa Giêsu Kitô, niềm vui luôn nảy sinh luôn tái sinh (Niềm Vui Tin Mừng, 1). Hôm nay chúng ta được mời gọi chiêm ngắm niềm vui của người nông dân và thương gia trong dụ ngôn. Đó là niềm vui của tất cả chúng ta. Đó là niềm vui, khi chúng ta khám phá ra sự gần gũi và sự hiện diện của Chúa trong cuộc đời chúng ta. Sự hiện diện ấy biến đổi tâm hồn chúng ta, và mở lòng chúng ta, để chúng ta có thể đón nhận các anh chị em, đặc biệt là những người yếu đuối.

Chúng ta hãy cầu nguyện, nhờ lời chuyển cầu của Đức Trinh Nữ Maria, để với từng lời ăn tiếng nói, từng cử chỉ việc làm hằng ngày, mỗi người chúng ta biết làm chứng cho niềm vui tìm được kho báu là Nước Thiên Chúa. Niềm vui ấy chính là tình yêu mà Chúa Cha ban cho chúng ta qua Chúa Giêsu.

Đức Thánh Cha ngỏ lời chào thăm

Anh chị em thân mến,

Hôm nay là Ngày Thế Giới chống nạn buôn người. Mỗi năm hàng ngàn người nam nữ và trẻ em là nạn nhân vô tội của nạn bóc lột lao động và khai thác tình dục cũng như nạn buôn bán cơ phận. Những điều ấy có vẻ quá quen đến nỗi chúng ta thấy là bình thường. Không, không phải thế, những điều ấy là xấu xa, là độc ác, là tội ác! Tôi muốn cho mọi người thấy rằng, những điều tệ hại ấy là hình thức nô lệ thời hiện đại, và chúng ta phải chống lại tội ác ấy. Chúng ta hãy cầu nguyện cùng Đức Trinh Nữ Maria, để Mẹ nâng đỡ các nạn nhân và hoán cải những kẻ buôn người. Chúng ta hãy cũng nhau cầu nguyện với Đức Mẹ:

Kính mừng Maria…

Sau đó Đức Thánh Cha chào thăm các tín hữu hành hương đến từ Italia cũng như từ khắp nơi trên thế giới. Ngài kết thúc bằng lời mời gọi mọi người đừng quên cầu nguyện cho Ngài.  

Tứ Quyết SJ

Ngày giới trẻ Á châu bên Indonesia

Ngày giới trẻ Á châu bên Indonesia

YOGYAKARTA: Hôm nay 30 tháng 7 hai ngàn bạn trẻ tới từ 21 nước Á châu sẽ bắt đầu tham dự Ngày giới trẻ Á châu kéo dài cho tới ngày mùng 9 tháng 8 bên Indonesia.

Ngày giới trẻ Á châu có đề tài: “Giới trẻ Á châu tươi vui: Sống Tin Mừng trong châu Á đa văn hoá” do Liên Hội Đồng Giám Mục Á châu tổ chức lấy hứng từ Ngày Quốc Tế Giới Trẻ đo thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II khởi xướng hồi năm 1985. Ngày quốc tế giới trẻ Á châu lần đầu tiên đã được tổ chức tại Hua Hin bên Thái Lan năm 1999. Sau đó ngày này được tổ chức cách quãng 2, 3 hay 5 năm một lần. Năm 2014 nó đã được tở chức tại Daejon bên Nam Hàn với sự tham dự của ĐTC Phanxicô.

Trong các ngày từ 30 tháng 7 tới mùng 2 tháng 8 các phái đoàn bạn trẻ sẽ được 11 trên 37 giáo phận tiếp đón. Đây là dịp để các bạn trẻ gặp gỡ trao đổi và học biết cuộc sống trong các giáo phận Indonesia. Sau đó từ mùng 2 tới mùng 6 tháng 8 các bạn trẻ tham dự chương trình chung tại Yogyakarta trong giáo phận Semarang với nhiều sinh hoạt khác nhau: thánh lễ, học hỏi giáo lý, thảo luận, chia sẻ kinh nghiệm, chứng từ, chầu Mình Thánh Chúa, xưng tội,  sinh hoạt nhóm, triển lãm, trình diễn văn nghê, nghệ thuật văn hoá. Ba ngày từ mùng 6 tới mùng 9 là cuộc gặp gỡ của giới trẻ thừa tác.

Cha Deepak, thư ký văn phòng giới trẻ của HĐGM Ấn Độ, cho biết phái đoàn Ấn gồm 84 bạn trẻ đến từ nhiều giáo phận khác nhau. Các bạn tới giáo phận Palembang và Pontiniak. Trong các màn giới thiệu văn hoá các bạn sẽ  trình diễn văn hoá vùng Tây và vùng Goa, cũng như trình diễn 10 phút nhạc cảnh ( REI 26-7-2017)

Linh Tiến Khải

 

Cảm nhận Đức Tin của nam sinh đạt Huy Chương Vàng Toán Quốc Tế

Cảm nhận Đức Tin của nam sinh đạt Huy Chương Vàng Toán Quốc Tế

“Em rất sung sướng, hạnh phúc! Tạ ơn Chúa, cám ơn cha mẹ, quý thầy cô và mọi người”. Đó là tâm sự chân thành với người viết của Antôn Phan Nhật Duy, sau vài giờ em biết mình được huy chương vàng tại kỳ thi Olympic Toán học quốc tế (International Mathematical Olympiad), lần thứ 58, năm 2017 (IMO 2017), vừa tổ chức tại Jio de Janeiro, Brazil.

Nhìn lại hoàn cảnh xuất thân và lắng nghe tâm sự của Nhật Duy, để thấy phần nào sự chăm chỉ, khiếm tốn và lòng đạo đức của cậu học sinh xuất sắc, đáng tự hào này.

Em Antôn Phan Nhật Duy là con thứ hai của anh Giuse Phan Tình Nguyện và chị Maria Võ Thị Lài, giáo dân họ Tân Vạc, xứ Kẻ Đọng, thuộc xã Sơn Tiến, Hương Sơn, Hà Tĩnh.

Vốn làm nông thuần túy, kinh tế còn khó khăn, việc cho bốn người con ăn học đầy đủ cũng là cố gắng lớn của bố mẹ Nhật Duy. Hằng ngày, ngoài giờ học, phụ giúp gia đình trồng trọt, chăn nuôi trở thành nhiệm vụ quen thuộc đối với anh em Duy.

Trước khi vào thành phố Hà Tĩnh học cấp III ở trường Chuyên, Phan Nhật Duy là học sinh trường Tiểu học II và Trung học cơ sở Sơn Tiến. Suốt các năm học phổ thông, em đều là học sinh giỏi toàn diện. Riêng môn Toán, Nhật Duy thường xuyên đạt giải cao trong các kỳ thi học sinh giỏi các cấp huyện, tỉnh và quốc gia.

Điều đáng ghi nhận nữa là Nhật Duy cũng thường xuyên đạt giải cao trong các kỳ thi Giáo lý.

Sang Brazil thi Olympic lần này, ngoài sách vỡ, ít tiền bạc và tư trang, Antôn Phan Nhật Duy còn mang theo hai thứ đặc biệt đó là: bức ảnh “Chúa Thương xót” với hàng chữ “Lạy Chúa Giêsu, con tín thác vào Chúa” và tràng Chuỗi Mân Côi. Duy kể: “Em thường xuyên cầu nguyện, xin Đức Mẹ và thánh Antôn quan thầy bầu cử cho”.

Nói về thi Olympic, Nhật Duy tâm sự: “Mỗi thí sinh phải làm sáu bài thi, mỗi ngày thi ba bài. Em khá lo lắng sau ngày thứ nhất, chỉ biết cố gắng, cầu nguyện và phó thác. Thi xong vẫn chưa hết hồi hộp, thật may mắn cho em vừa đủ để đạt huy chương vàng. Em cảm thấy đó là hồng ân lớn lao Chúa thương ban, đền đáp công sức của cha mẹ, các thầy cô và mọi người”.

Huy chương vàng của Phan Nhật Duy góp phần quan trọng giúp đội tuyển Toán Việt Nam đứng thứ ba trong tổng số 112 quốc gia và vùng lãnh thổ tham gia IMO 2017. Đây là thành tích cao nhất của nước ta trong 43 lần tham gia sân chơi này.

Người Công Giáo xác tín “Tôi có là gì, cũng là nhờ ơn Thiên Chúa” (1Cr 15,10). Để có được tấm huy chương vàng tại IMO, dĩ nhiên ngoài tố chất thông minh và sự cố gắng vượt bậc của cá nhân Antôn Phan Nhật Duy là bao mồ hôi và công lao của cha mẹ, các thế hệ thầy cô, đặc biệt là những người trực tiếp bồi dưỡng. Ngang qua những con người bình thường đó, Chúa dệt nên điều phi thường. Cá nhân Nhật Duy (chàng trai chưa đầy mười tám tuổi) ý thức điều đó, nên cảm nhận đầu tiên khi giành chiến thắng là “tạ ơn Chúa và cám ơn tất cả mọi người”. Đó cũng là vẻ đẹp của Đức tin Công giáo, vì khi ta càng cố gắng sống trọn tình với Chúa là Cha thì ta mới có thể sống vẹn nghĩa với anh em mình.

“Việc Chúa làm cho ta, ôi vĩ đại
Ta thấy mình chan chứa một niềm vui”
(Tv 125,3).

Xin chúc mừng Antôn Phan Nhật Duy, xin Chúa tiếp tục đồng hành cùng em để niềm tự hào hiện tại sẽ được tiếp tục trong tương lai.

Antôn Hùng Mạnh

http://giaophanvinh.net/modules.php?name=News&op=viewst&sid=13589

Tái đặt 15 tượng Đức Mẹ Lộ Đức trong các làng vùng Ninive

Tái đặt 15 tượng Đức Mẹ Lộ Đức trong các làng vùng Ninive

QARAQOSH:  Trong những ngày từ 20 đến 25 tháng 7 này, nhiều làng mạc và thị trấn vùng bình nguyên Ninive từng có đa số dân cư là tín hữu ky tô, đã đặt lại 15 tượng Đức Mẹ Lộ Đức tại những nơi các tượng này bị phá hủy hay chuyển dời do các nhóm thánh chiến hồi giáo IS trong thời gian họ chiếm nơi đây.

Sáng kiến này đã có thể thực hiện với sự trợ giúp của hiệp hội công giáo Pháp Oeuvre d’Oriente sau một chuyến viếng thăm của cha Pascal Gollnish, tổng giám đốc hiệp hội trong vùng này. Cha đã chứng kiến tận mắt số lớn những thánh giá bị phạm thánh, bao nhiêu tượng ảnh Chúa Giêsu và Mẹ Maria bị đập phá tan tành trong ba năm vùng này bị quân hồi giáo IS chiếm đóng. Từ tháng ba vừa qua, 15 bức tượng tạc theo mẫu Đức Mẹ Lộ Đức được Đức GM Nicolas Brouwet chúc lành, đã được đưa lên xe camion chở đến Ninive.

Trong những ngày vừa qua, nghi lễ tái an vị các tượng Đức Mẹ tại các giáo xứ, đền thánh và nơi công cộng đã được tổ chức với sự hiện diện của các Giám Mục, linh mục tu sĩ và giáo dân địa phương, rất nhiều người vừa hồi hương sau ba năm tỵ nạn. Bây giờ, các tín hữu ky tô tại những nơi ấy lại có thể cầu nguyện trước tượng ảnh Đức Mẹ Lộ Đức, Đấng đã hỗ trợ họ suốt thời gian dài tha hương. (FIDES 240717)

Mai Anh

 

Trung Quốc muốn hạ thấp địa vị của Đức Hồng y Zen

Trung Quốc muốn hạ thấp địa vị của Đức Hồng y Zen

Lãnh đạo ban tuyên giáo của Trung Quốc lệnh cho các phóng viên đại lục không được gọi Đức Hồng y trực tính Joseph Zen Ze-kiun là giám mục “danh dự” của Hồng Kông, nhưng thay vào đó bằng từ “cựu”.

Cách gọi mới cho Đức Hồng y Zen nằm trong danh sách các từ ngữ bị “cấm hay sử dụng cách thận trọng”, tờ Tân Hoa Xã của nhà nước thông báo với các nhân viên truyền thông tại Trung Quốc.

“Nên dùng từ ‘cựu giám mục’ thay cho từ ‘giám mục danh dự’ khi gọi Zen Ze-kiun và các giám mục nghỉ hưu khác của giáo phận Công giáo Hồng Kông”, theo điểm số 48 trong danh sách được nhiều phương tiện truyền thông Trung Quốc loan tải.

Đức Hồng y Zen nổi tiếng chỉ trích đảng Cộng sản cầm quyền. Ngài lớn tiếng nói về quyền tự do chính trị, nhân quyền và ngược đãi tôn giáo, đặc biệt trong sáu năm rưỡi ngài làm giám mục của Hồng Kông cho đến khi ngài nghỉ hưu vào tháng 9-2009, và việc này thường gây sự chỉ trích từ phía Bắc Kinh.

Kể từ đó, đức hồng y tiếp tục những nỗ lực ủng hộ và việc ngài sẵn sàng tham gia các cuộc tranh luận về tương lai chính trị trên lãnh thổ này làm cho ngài trở thành một người được các nhóm ủng hộ dân chủ ở Hồng Kông yêu mến.

Gần đây ngài lên tiếng nói về việc chính quyền cộng sản ngược đãi ông Liu Xiaobo (Lưu Hiểu Ba), người được trao Giải Nobel Hòa bình qua đời hôm 13-7.

Lệnh cấm dùng từ ngữ này khiến nhiều blogger Công giáo ở đại lục tức giận, họ đang phải đối phó với lệnh cấm dùng các mạng ảo cá nhân, một công cụ họ dùng để tránh bức tường lửa, chương trình kiểm duyệt Internet của Trung Quốc.

“Đức Giám mục Danh dự. Thế đấy, đến đây bắt tôi đi?”, một blogger Công giáo thách thức trên mạng xã hội.

Một blogger khác nói “Từ trước giờ Giáo hội gọi giám mục nghỉ hưu là giám mục danh dự. Thay đổi cách gọi là sai thực tế”.

Điều chỉnh những việc nên và không nên làm

45 điểm đầu trong danh sách các từ bị cấm được đưa tin trên báo chí đã được phát hành hồi tháng 11-2015. Danh sách điều chỉnh đã được lưu hành từ ngày 19-7, thêm vào 57 điểm mới và cập nhật tính tới tháng 7-2016 – nhưng chỉ mới được tiết lộ cho các phương tiện truyền thông gần đây.

Đức Hồng y Zen là chức sắc Công giáo duy nhất có tên trong danh sách, và là một trong hai nhân vật tôn giáo được nêu tên, người thứ hai là Tiên tri Mohammed, nhà sáng lập đạo Hồi. Danh sách này nhắc nhớ các phóng viên nêu tên đầy đủ của những người mang họ Mohammed, để phân biệt họ với Tiên tri Mohammed.

Danh sách được chia thành 5 loại: xã hội và chính trị; pháp lý và pháp luật; tôn giáo và dân tộc; Hồng Kông, Macao và Đài Loan và liên quan đến chủ quyền; cũng như quan hệ quốc tế.

Năm trong 8 điểm về tôn giáo và dân tộc nói về Hồi giáo, như không xem dân tộc Hồi là Hồi giáo; không dùng từ “giết” nhưng dùng từ “mổ” gia súc bởi người Hồi giáo; và không đề cập đến heo trong các câu chuyện liên quan đến đạo Hồi. Những điểm này đã có trong danh sách năm 2015.

Hầu hết các từ ngữ “bị cấm hay sử dụng cách thận trọng” mới được thêm vào nói về quan hệ giữa hai bờ eo biển, do tình trạng căng thẳng chính trị với Đài Loan gia tăng từ khi bà Thái Anh Văn đảm nhận chức tổng thống, và diễn biến chính trị tại Hồng Kông.

Số 48 trong danh sách mới yêu cầu các phương tiện truyền thông ở đại lục không được gọi 3 nhà tổ chức Phong trào chiếm trung tâm “bất hợp pháp” ở Hồng Kông bằng lời tôn trọng “Bộ ba lãnh đạo Phong trào chiếm trung tâm” nhưng dùng cụm từ mang tính hạ nhục “Ba kẻ xấu xa”.

UCANEWS

Người trẻ Ấn Độ chia sẻ đức tin tại Đại hội Giới trẻ

Người trẻ Ấn Độ chia sẻ đức tin tại Đại hội Giới trẻ

Người trẻ Công giáo Ấn Độ sẽ lên đường tham dự Đại hội Giới trẻ Á châu lần thứ 7 tại Indonesia hy vọng sự kiện này sẽ làm mới quan điểm của họ về đức tin.

Cha Deepak K.J. Thomas, thư ký điều hành Ủy ban Giới trẻ của Hội đồng Giám mục Công giáo Ấn Độ, cho biết phái đoàn Ấn Độ có 84 người trẻ sẽ tham dự Đại hội Giới trẻ Á châu tại Yogyakarta từ ngày 2-6/8.

Họ sẽ cùng với khoảng 3.000 người trẻ đến từ 26 quốc gia châu Á đến thành phố của Indonesia tham dự đại hội với chủ đề “Giới trẻ Á châu hân hoan sống Phúc Âm tại châu Á đa văn hóa”.

Tham dự viên Ấn Độ chủ yếu là lãnh đạo giới trẻ và nhận thức được “những gì đang xảy ra trong Giáo hội, cơ cấu và cách hoạt động của Giáo hội”, cha Thomas nói.

“Tương tác với các bạn trẻ khác về vai trò của họ trong Giáo hội, cách làm việc và trao đổi về những kinh nghiệm này sẽ hữu ích cho đời sống của họ”.

Thành viên phái đoàn Ấn Độ đến từ các vùng khác nhau là do các giáo phận tuyển chọn. Tất cả sẽ tự lo chi phí, theo cha Thomas.

Leon Pereira, phó chủ tịch Phong trào Giới trẻ Công giáo Ấn Độ, cho biết ông có tên trong danh sách 12 người được giáo phận Vasai ở miền tây Ấn Độ chọn đi tham dự sự kiện này, và họ mong muốn gặp gỡ các bạn trẻ Công giáo đến từ các nước khác.

“Họ thuộc nhiều thành phần khác nhau – vai trò của họ trong Giáo hội, cách cầu nguyện và văn hóa sẽ khác. Tương tác với họ, tôi chắc chắn sẽ củng cố đức tin, đời sống cầu nguyện và vai trò của chúng tôi trong xã hội”.

Pereira, 24 tuổi, cho biết thêm anh đang mong muốn hiểu được người Công giáo đến từ các nước khác hành đạo như thế nào.

Jenny Joy, 26 tuổi, đến từ tổng giáo phận Delhi, nói bản thân người Ấn Độ đến từ các vùng khác nhau cũng là “một trải nghiệm” vì “chúng ta khác nhau về thói quen ăn uống, văn hóa và ngôn ngữ”.

Joy cho biết tính đa dạng của Ấn Độ sẽ tạo thách thức cho phái đoàn khi kể lại toàn bộ câu chuyện của họ.

“Hoàn cảnh sống, văn hóa và ngôn ngữ của Kitô hữu Ấn Độ đến từ các vùng khác nhau rất đa dạng, khiến cho việc khái quát hóa tình hình của Kitô hữu Ấn Độ khá khó khăn”, chị nói.

Tại Đại hội Giới trẻ Á châu này, phái đoàn Ấn Độ sẽ trình diễn âm nhạc và các vũ điệu trong 10 phút.

Chương trình Đại hội Giới trẻ Á châu bao gồm 3 ngày sinh hoạt tại các gia đình trong 11 giáo phận, 3 ngày tham gia chương trình chính và một ngày họp mặt thừa tác viên giới trẻ.

UCANEWS

Nữ tác giả Công giáo Nhật Bản một đời vì tha nhân

Nữ tác giả Công giáo Nhật Bản một đời vì tha nhân

Michiko Inukai, một tác giả Công giáo Nhật Bản nổi tiếng trên cả nước ủng hộ người tị nạn và nước ngoài, qua đời hôm 24-7 vì tuổi già, thọ 96 tuổi.

Michiko là cháu gái của Thủ tướng Tsuyoshi Inukai, người bị các sĩ quan hải quân trẻ ám sát năm 1932 và vụ ám sát này đánh dấu sự kết thúc quyền kiểm soát dân sự hiệu quả của chính quyền Nhật Bản cho đến sau Chiến tranh thế giới thứ hai.

Michiko và gia đình bà được rửa tội theo Công giáo trong thời chiến sau khi các thừa sai dòng Tên làm bạn với họ và nhiều người lánh xa họ vì sợ bị quân đội trả thù.

Sau chiến tranh, bà học triết tại Mỹ, nghiên cứu Kinh thánh và làm phóng viên ở Paris.

Khi trở về Nhật Bản năm 1958, bà xuất bản quyển sách đầu tiên nói về những trải nghiệm ở nước ngoài. Sau đó bà xuất bản nhiều sách nói về Kinh Thánh và Kitô giáo và nhiều tác phẩm nói về lợi ích chung, trong đó có một tác phẩm được chuyển thể thành phim nhiều tập trên truyền hình.

Sau khi gặp một người tị nạn Việt Nam ở Paris năm 1979, Michiko viếng thăm các trại tị nạn ở Thái Lan, và chuyến viếng thăm này thôi thúc bà bắt đầu làm việc cho người tị nạn ở châu Á và châu Phi.

Sau đó bà thành lập Quỹ Michiko Inukai và hợp tác với tổ chức Trợ giúp Người Tị nạn của dòng Tên giúp giáo dục cho trẻ em tị nạn trên toàn thế giới. Bà còn ủng hộ các dự án trồng rừng ở Pakistan.

Michiko qua đời tại thành phố Hadano, gần Tokyo, Nhật Bản.

UCANEWS

ĐTC Phanxicô câu nguyện cho Charlie Gard và cha mẹ em

ĐTC Phanxicô câu nguyện cho Charlie Gard và cha mẹ em

Vatican: “ĐTC Phanxicô cầu nguyện cho Charlie Gard và cha mẹ bé trong lúc khổ đau vô biên này”. Ngài xin nọi người hiệp ý cầu nguyện để cha mẹ bé có thể tìm thấy niềm an ủi và tình yêu của Thiên Chúa”. 

Ông Greg Burke, phát ngôn viên Toà Thánh, đã tuyên bố như trên hôm 24 tháng 7 vừa qua,  sau khi cha mẹ của bé tử bỏ ý định tranh đấu với pháp luật để chữa chạy cho con. Bé Charlie Gard 11 tháng bị một chứng bệnh của hệ di truyền làm hư não bộ, mà các bác sĩ cho là không thể chữa trị được. Từ nhiều tháng nay cha mẹ của bé là ông Chris Gard và bà Connie Yates đã quyết liệt tranh đấu với nhà thương và hệ thống pháp luật để đem bé sang Hoa Kỳ thử một phương pháp trị liệu mới với hy vọng cứu sống bé. Vì số tiền chữa trị lên tới 1 triệu mỹ kim, nên cha mẹ bé đã mở chiến dịch quyên góp trên mạng và đã có được 4 triệu mỹ kim. Nhưng ban giám đốc nhà thương nhi đồng Luân Đôn đường Great Ormond quyết định rút các ống trợ giúp để cho bé chết. Ngày 27 tháng 6 Toà án các quyền con người đã khước từ lời xin của hai ông bà đem con sang Hoa Kỳ chữa trị, và Tối cao pháp viện Anh quốc cũng phán quyết ủng hộ nhà thương rút các ống trợ sinh để cho Charli chết.
Tuy Nhà thương nhi đồng Chúa Hài Đồng Giêsu của Toà Thánh ở Roma sẵn sáng tiếp nhận để chữa trị cho cháu. Nhưng vì chờ đợi quá lâu các bác sĩ bên Mỹ cho biết dù áp dụng kiểu trị liệu mới cũng không hy vọng cứu được Charlie. Trong nhiều tuần qua qua đã có hàng trăm người biểu tình truớc nhà thương yêu cầu cứu sống Charlie Gard. 

Ngày mùng 2 tháng 7 ĐTC Phanxicô đã “cầu mong người ta không lơ là bỏ qua ước mong của cha mẹ bé đồng hành và chữa trị bé cho tới cùng”. Trước đó ĐTC cũng đã viết trên Twitter rằng: “Bênh vực sự sống con người, nhất là khi nó bị thương bởi bệnh tật, là một dấn thân của tình yêu thương mà Thiên Chúa tín thác cho mọi người”

** Mặt khác, trong cùng ngày 24 tháng 7 HĐGM Anh quốc cũng ra thông cáo bầy tỏ tình liên đới và cảm thương sâu xa với hai ông bà Gard và con họ. Lập lại những gì ĐTC đã làm trên đây các Giám Mục Anh quốc khẳng định: “Chúng ta tất cả đều cầu nguyện cho Charlie, cha mẹ và gia đình em, hy vọng rằng họ được yểm trợ và tìm được bình an trong những ngày sắp tới. Việc vĩnh biệt người con bé bỏng của họ đánh động con tim của tất cả những ai, như ĐTC Phanxicô, đã theo dõi câu chuyện buồn thương này. Sự sống của Charlie sẽ được yêu thương cho tới lúc kết thúc tự nhiên. Trong lúc này thật là quan trọng nhớ rằng tất cả những người liên lụy trong các quyết định hấp hối này đã tìm hành động với sự nguyên vẹn và cho hạnh phúc của Charlie như họ thấy. Sự chuyên môn, tình yêu thương săn sóc cho các trẻ em bị bệnh nặng liên tục cho thấy tại nhà thương nhi đồng Great Ormond Street cũng đáng được thừa nhận và hoan nghênh.”

Tuy nhiên, trường hợp của Charlie Gard khiến cho người ta không khỏi đặt ra  câu hỏi luân lý đạo đức: Tại sao xã hội tân tiến ngày nay lại có thể giao toàn quyền quyết định sống chết  vào tay của các thẩm phán và các bác sĩ nhà thương như thế?  (REI – ZENIT 24-7-2017)

Linh Tiến Khải

Giới lãnh đạo các tôn giáo tại Kenya lên án các vụ khủng bố bạo lực

Giới lãnh đạo các tôn giáo tại Kenya lên án các vụ khủng bố bạo lực

NAIROBI: Trong một cuộc họp báo tuần vừa qua giới lãnh đạo các tôn giáo tại Kenya đã mạnh mẽ lên án các hành động khủng bố phá hoại nhằm khuynh đảo tình hình trong nước.

Tham dư cuộc họp báo cũng có ĐC Cornelius Kipng’eno Arap Korir, Giám Mục Eldoret kiêm chủ tịch Ủy ban Công Lý và Hoà Bình của HĐGM Kenya, ĐC Zaccheus Okoth, TGM Kisumu, và ĐC Joseph Obanyi Sagwe, GM Kakamega kiêm chủ tịch Uỷ ban truyền thông của HĐGM Kenya.

Các vị lãnh đạo tôn giáo xác tín rằng các vụ tấn công bị lột mặt nạ như là khủng bố hay cướp bóc, trái lại đã được phối hợp nhằm làm cho dân chúng phải tản cư chạy loạn, để không thể tham gia cuộc tổng tuyển cử dự trù vào ngày mùng 8 tháng 8 tới đây.

Các tấn công mới đây bị gán cho lực lượng hồi cuồng tín Al Shabab Somali tại Lamu, đã khiến cho 9 người chết và thêm 5 người khác tử vong, khi cảnh sát tìm cách giải thoát các con tin. Thêm vào đó là các vụ cướp bóc tại Baringo và Laikipia đã khiến cho tình hình thêm căng thẳng, khiến người ta nhớ tới bầu khí bạo lực trong cuộc bầu cử hồi năm 2007. Các vị lãnh đạo các tôn giáo yêu cầu Uỷ ban bầu cử độc lập duy trì sự trong sáng tuyệt đối trong việc ghi danh các cử tri, và mau chóng công bố kết quả cuộc bầu cử.  Lý do đầu tiên của các vụ bạo động hồi năm 2007 đó là sự chậm trễ công bố kết quả  cuộc đầu phiếu (FIDES 18-72017)

Linh Tiến Khải

Toà Thánh đề cao phần đóng góp tích cực của người di cư

Toà Thánh đề cao phần đóng góp tích cực của người di cư

NEW YORK: Toà Thánh đề cao phần đóng góp tích cực của người di cư cho mọi chiều kích  phát triển xã hội tiếp đón và trợ giúp họ.

Linh Mục Michael Czerny dòng Tên, Phó thư ký Bộ Phát triển nhân bản toàn vẹn, đã khẳng định như trên trong bài phát biểu tại phiên họp thứ tư của Liên Hiệp Quốc về đề tài “Sự đóng góp của người di cư và hải ngoại cho mọi chiều kích của sự phát triền có thể thực hiện được, bao gồm cả việc gửi và chuyển các lợi tức kiếm được về quê”, nhóm tại New York trong hai ngày 23-24 tháng 7. Vị đại diện Toà Thánh đã nhắc đến nhiều lý do khiến cho hàng chục triệu người phải di cư trên thế giới ngày nay như: nạn nghèo đói, bạo lực, công việc làm không thích hợp, môi sinh tồi tệ, hạn hán, các cơ cấu yếu kém và nạn gian tham hối lộ, cùng nhiều lý do khác được nêu ra trong lịch trình hành động phát triển năm 2030. Nhưng trước hết cần tái minh xác quyền của từng người được sống trong quê hương đất nước của họ trong phẩm giá, hoà bình và an ninh. Phải làm sao để không ai bị bắt buộc phải rời bỏ quê hương của mình vì thiếu phát triển hay hoà bình.

Cộng đoàn quốc tế phải cố gắng thế nào để thăng tiến phát triển trong đất nước của họ và cho phép họ trở thành các tác nhân sự phát triển của chính họ. Không thể phủ nhận sự mất mát trên bình diện xã hội, kinh tế và văn hoá mà nạn di cư gây ra cho các quốc gia này, khi công dân của chúng cảm thấy bị bó buộc phải bỏ nước ra đi. Chính nạn nghèo đói đã khiến cho nhiều cá nhân và gia đình tìm đường để sống còn tại các nước xa xôi. Họ thường là các thành phần ưu tú nhất như người trẻ, người có tài, can đảm và hy vọng. Họ liều mạng vượt Địa Trung Hải hay các đại dương khác để tìm một cuộc sống tốt đẹp hơn.  Điều này có là lợi lộc cho họ, cho gia đình hay đất nước họ đi đến, hay một ngày kia có lẽ cho quê hương của họ hay không đều tuỳ thuộc việc họ có được đón tiếp, che chở, thăng tiến và hội nhập hay không. Điều quan trọng là biết tận dụng nền giáo dục, các tài khéo, các tham vọng, kinh nghiệm, sư khôn ngoan họ có, và tất cả những gì có thể giúp gia tăng việc học hiểu và tập tành cho việc phát triển xã hội. Chính vì các lợi ích hai chiều đó cần phải tiếp nhận và đối xử với người di cư như các bản vị con người có phẩm giá và tôn trọng các quyền lợi của họ, bảo vệ họ khỏi mọi hình thức khai thác bóc lột hay xua đuổi trên bình diện xã hội, kinh tế hay pháp luật. Các cộng đoàn tiếp nhận họ phải cung cấp cho họ sự trợ giúp thích đáng và hội nhập làm sao để họ không bỏ quê hương nghèo túng của họ. Một trong các cách thúc giúp thực hiện điều này là các đường lối chính trị dành ngân khoản cho việc cải tiến các cơ cấu hạ tầng cho các xã hội địa phương bị thiệt thòi. Đàng khác các người di cư cũng có trách nhiệm tôn trọng các giá trị, truyền thống và luật lệ của các cộng đoàn tiếp đón họ. Như thế việc hội nhập sẽ là một cơ may cho việc hiểu biết nhau, mở rộng các chân trời và giúp phát triển lớn hơn cho tất cả mọi người. Như ĐTC Phanxicô đã nói: Sự hiện diện của các anh chị em di cư là một cơ may cho sự trưởng thành nhân bản, cho sự gặp gỡ , đối thoại giữa các nền văn hóa nhằm thăng tiến hoà bình và tình huynh đệ giữa các dân tộc (REI 24-7-2017).

Linh Tiến Khải

ĐHY Lenonardo Sandri thăm viếng Ukraine

ĐHY Lenonardo Sandri thăm viếng Ukraine

Trong các ngày từ 11 đến 17 tháng 7 vừa qua ĐHY Leonardo Sandri, Tổng trưởng Bộ các Giáo Hội đông phương, đã viếng thăm Ukraine, theo lời mời của ĐTGM Trưởng Giáo Hội công giáo Hy lạp Sviatoslav Shevchuk, và nhân cuộc hành hương toàn quốc tới Đền thánh Đức Bà Zarvanytsia. ĐHY được ĐTGM Claudio Gugerotti, Sứ Thần Toà Thánh tại Ukraine, và Đức ĐTGM Trưởng Shevchuk tháp tùng đã bắt đầu viếng thăm thủ dô Kyiv, đặt vòng hoa và cầu nguyện trước Thánh Giá tại quảng trường Maidan. Tiếp đến ĐHY thăm Viện bảo tàng Holomodor và tưởng niệm các nạn nhân cuộc diệt chủng Ucraina, do Stalin gây ra giữa các năm 1929-1933 khiến cho 6 triệu người bị chết đói.

Sáng ngày 12 tháng 7, lễ kính hai thánh Phêrô Phaolô theo lịch Giuliano, ĐHY Sandri đã đồng tế thánh lễ do ĐTGM Trưởng Shevchuk chủ sự trong nhà thờ Phục Sinh và chia sẻ Lời Chúa. ĐHY nói trong bài giảng: “Anh chị em không lẻ loi. Anh chị em có một chỗ đặc biệt trong con tim của ĐTC Phanxicô”. Ngài mời gọi tín hữu Ucraina “đừng nhượng bộ trước các khó khăn hay trước quyền bình nhân loại muốn lấy mất đi niềm hy vọng của một cuộc sống công bằng và liêm chính của một đất nước được tôn trọng trong sự toàn vẹn của nó và được hoà giải giữa các tâm hồn khác nhau”.

ĐHY đã chuyển đến tín hữu công giáo Latinh và Hy Lạp cũng như mọi người thiện chí lời chào thăm và phép lành toà thánh của ĐTC, với tất cả lòng trìu mến, và sự gần gũi liên đới của ngài với dân tộc bị thử thách bởi khổ đau và các thiếu thốn do các xung khắc và chiến tranh gây ra. ĐTC khích lệ mọi người dấn thân đẩy mạnh sự hoà giải và hoà bình, tôn trọng quyền lợi, và sống bác ái liên đới với biết bao nhiêu người di cư tỵ nạn.

Vào cuối thánh lễ ĐHY đã chuyển phép lành Toà Thánh của ĐTC tới Giáo Hội địa phương và nhân danh ĐTC trao tặng ĐTGM trưởng mề đai kỷ niệm năm thứ tư triều đại Giáo Hoàng của Đức Phanxicô. Sau thánh lễ mọi người đã xuống viếng mộ ĐHY Lubomyr Husar, qua đời mấy tuần trước đó.

Sáng ngày 13 tháng 7 ĐHY Sandri tham dự thánh lễ tại nhà thờ chính toà của chuẩn giáo phận Kharkiv, với nghi thức làm phép nhà nguyện dưới hầm nhà thờ và làm phép các thánh giá trên mái tròn nhà thờ. Vào ban chiều ĐHY và phái đoàn đã đi Kramatorsk và Sloviansk, cách đó 200 cây số, là những vùng đã được quân đội Ucraina tái chiếm sau khi bị chiếm đóng hồi năm 2014 và là các “vùng xám” giáp giới với vùng Donbass hiện nằm dưới quyền kiểm soát của các lực lượng theo Nga.

** Ngày 14 tháng 7 đã bắt đầu với thánh lễ đồng tế cử hành trong nhà nguyện thánh Elia bằng gỗ với sụ tham dự của ĐC Stephan Menick, Giám Mục giáo quận Donetsk, và nhiều linh mục giáo quận, các tín hữu công giáo hy lạp và latinh. Giảng trong thánh lễ ĐTGM Trưởng Shevchuk đã quảng diễn ý nghĩa bải Phúc Âm nói về viên ngọc quý. Ngài đã nhắc lại kỷ niệm các chuyến viếng thăm đầu tiên trong vùng sau các trận đánh và cuộc tái chiếm. Ngài đã trông thấy và nghe được biết bao trang sử đau thương. Chính nhà nguyện thánh Elia cũng còn mang dấu vết đạn bắn khiến hư hại một phần. Tuy nhiên, việc tìm lại nhau ngày hôm nay cho dù đã có các xung khắc lớn, niềm tin vào Chúa đã là một viên ngọc quý đối với từng người, đáng để tiếp tục sống, mặc dù chúng ta bị bắt buộc mất đi tất cả vì các hy sinh khổ đau của các trang lịch sử này. ĐTGM Trưởng đã cám ơn các linh mục vì chứng tá lòng tận tuỵ anh hùng của các vị trong các năm qua. Ngỏ lời trong dịp này ĐHY Sandri hiệp ý với lòng biết ơn đó và coi các linh mục là các mục tử tốt không chạy trốn khi thấy sói đến, nhưng ở lại để bảo vệ đoàn chiên đã được giao phó cho mình.

Trong buổi điểm tâm sau đó ĐHY đã nghe các linh mục chia sẻ vài chứng từ. Vài vị đã có tên trong danh sách bị xử bắn bởi các lực lượng chủ trương theo Nga tách rời khỏi Ucraina; các vị khác đã bỏ công việc mục vụ tại vùng Tây Ucraina  để bắt đầu làm tuyên uý quân đội sống bên cạnh các tín hữu của mình phải nhập ngũ để bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ quốc gia. Vị linh mục trẻ tuổi nhất cho biết chính trong các đợt bỏ bom đầu tiên, thì hiền thê của cha đang chờ sinh đứa con đầu lòng, gắn liền trang sử khổ đau của dân chúng với trang sử của một sự sống sinh ra. Một linh mục trẻ theo lễ nghi Latinh cũng chia sẻ kinh nghiệm 6 tháng bị tù. Trong thời gian này cha dấn thân bảo đảm sự trợ giúp tinh thần cho các tù nhân không phân biệt niềm tin kitô. Hiện nay cha là tuyên uý một nhà thương quân đội, và làm việc mục vụ giữa các tín hữu công giáo la tinh cũng như công giáo hy lap. ĐHY và Đức Sứ Thần Toà Thánh rất vui mừng vì tinh thần cộng tác huynh đệ này giữa các linh mục thuộc các nghi lễ khác nhau, nhưng ý thức cùng nhau đại diện cho Giáo Hội công giáo duy nhất.

ĐHY Sandri đã cám ơn sự tận tuỵ và chứng tá tin mừng của các linh mục. Phát biểu dịp này Đức Sứ Thần Toà Thánh đã nêu bật tầm quan trọng chuyến viếng thăm và sự hiện diện của ĐHY Tổng trưởng. Lập trường của Giáo Hội công giáo là tìm gặp gỡ tất cả mọi người để xây các cây cầu hiệp thông, và không quên các con cái của mình đã đau khổ  vì trung thành với Người Kế vị thánh Phêrô. Cần phải giáo dục tín hữu sông tinh thần đại đồng và chứng tá bác ái, mà ĐHY nhìn thấy và sờ mó được trong các ngày viếng thăm. Nó xác nhận tầm quan trọng và quyền hiện hữu của các cộng đoàn công giáo hy lạp trong vùng đất này. Cùng với việc ngoại giao sức mạnh của tín hữu trong thời buổi khổ đau này giúp hy vọng vào một tương lai hoà giải và hoà bình tái thiết một cuộc sống mới.

** Tiếp đến ĐHY Sandri đã ghé thăm trung tâm Caritas Kramatorsk. Cha giám đốc và các nhân viên đã tiếp đón ĐHY và trình bầy các sinh hoạt khác nhau: đóng các gói thực phẩm, trợ giúp dân chúng tỵ nạn tìm công ăn việc làm, trợ giúp tinh thần và tâm lý cho các trẻ em và những người bị chấn thương tinh thần do các cuộc dội bom và các tấn công trong các năm qua gây ra. Các công tác trợ giúp bác ái này không phân biệt ai, và không có biên giới. Trong ba năm qua trung tâm đã trợ giúp 40,000 người bị chấn thương tinh thần. Ngoài ra Caritas Ucraina cũng bảo đảm sự trợ giúp phòng ngừa nạn buôn người, khai thác lao động và khai thác mại dâm.

Các nhân viên Caritas cũng thường xuyên qua các vùng xám của vùng Donbass nằm dưới quyền kiểm soát của các lực lượng theo Nga muốn độc lập khỏi Ukraine. Họ phải mang áo chắn đạn và mũ để mỗi tuần vài ngày đi thăm các anh chị em vùng này. Linh mục giám đốc Caritas đặc biệt nêu bật vài trò quan trọng hữu hiệu của các phụ nữ trong công tác này. Không có họ sẽ không thể làm được biết bao sinh hoạt trợ giúp đó.

Ngỏ lời với mọi người trong dịp này ĐHY Sandri nhắc tới lời Chúa Giêsu nói trong cảnh phán xét ngày sau hết: “Ta đói các con đã cho ăn, Ta khát các con đã cho uống…Tất cả những gì các con làm cho một trong những anh em bé mọn nhất của Thầy là các con làm cho Thầy”. Ngài cũng nhắc tới một thực tại ít được nói đến là nạn mang thai mướn, nhưng Ucraina lại nằm trong số các quốc gia đầu tiên hợp thức hoá việc buôn bán sự sống con người này. Truớc biết bao khổ đau và thách đố đó ĐHY đã nhân danh ĐTC cám ơn mọi hoạt động của các nhân viên Caritas và định nghĩa họ là các “thừa tác viên của tình yêu thương xót và phục vụ”. Công việc thường ngày của họ nhập thể Tin Mừng phục vụ của Chúa. ĐHY hứa sẽ kể cho ĐTC nghe tất cả những gì ngài đã chứng kiến trong chuyến viếng thăm này. Quan trọng hơn mọi khốn khó mà họ đang phải trải qua là việc phục vụ hoà bình qua sinh hoạt bác ái.

Vào ban chiều trên đường trở về Kharkiv phái đoàn đã viếng thăm Caritas Sloviansk, là một vùng khác nữa đã bị chiếm và được quân đội Ucraina tái chiếm. Cùng với các nhân viên Caritas cũng có ông phó thị trưởng tiếp đón phái đoàn. Sau khi chầu Mình Thánh Chúa trong nhà nguyện của trung tâm phái đoàn đã lắng nghe chứng từ của dân chúng. Một phụ nữ đã giãi bầy mọi khổ đau của bà và nói bà không hy vọng tình hình có thể thay đổi. Ngỏ lời với mọi người ĐHY nói ngài hiểu nỗi thất vọng của bà, nhưng không được chờ đợi hoà bình từ trời rơi xuống, mà phải đón nhận nó như ơn mỗi ngày, bắt đầu từ những chuyện nhỏ nhặt nhất, và dĩ nhiên là không ngừng kêu lên để những người nắm giữ vận mệnh của các dân tộc có thể thay đổi đường lối và kiếm tìm hoà bình, cả khi rất tiếc như ĐTC Phanxicô hay lập đi lập lại, họ thiếu can đảm hoà bình. Cần phải bênh vực các lập trường của mình, nhưng cũng phải tìm ra một con đường cho phép thực hiện một nền hoà bính công chính cho tất cả mọi người dân trong vùng. Nhưng để được như vậy cần làm việc nhiều, khổ đau, chịu đựng và yểm trợ tất cả các sáng kiến giúp xây dựng hoà giải và hoà bình, như các sinh hoạt mà Caritas Sloviansk đang tiếp tục làm. Đây là trung tâm duy nhất trợ giúp các trẻ em và những người bị chấn thương tâm thần vì chiến tranh.

** Sau khi trở về Kharkiv ĐHY Tổng trưởng đã dùng bữa tối tại toà Giáo quận, nơi có vài nữ tu dòng thánh Giuse tạm trú. Dòng này đã được thành lập hồi thế kỷ 19 và hiện nay các nữ tu cũng hoạt động tại Brasil, Ba Lan và Canada trong việc dậy giáo lý cho trẻ em và đào  tạo giới trẻ. Khi nào việc trung tu nhà thờ chính toà và trung tâm mục vụ hoàn tất các nữ tu sẽ có nơi sinh hoạt thuận tiện hơn. ĐHY đã cám ơn các chị và nói lên các cảm tưởng khâm phục của ngài đối với sức sống đạo và sự hiện diện đông đảo của người trẻ trong các lễ nghi phụng vụ, trong khi tại các nước tây âu, giới trẻ hầu như vắng bóng trong các thánh lễ. ĐHY đã khích lệ mọi người duy trì kho tàng đức tin quý báu này mà Chúa đã đặt để trong Giáo Hội công giao hy lạp Ukraine.

Ngày 15 tháng 7 ĐHY đến Ivano Frankivsk gặp gỡ ĐTGM Volodymyr Viytyshyn  và nhập đoàn hành hương tới đền thánh Đức Bà Zarvanytsia trong tổng giáo phận Ternopil-Zhoriv do DTGM Vaylij Seminiuk cai quản. Giảng trong thánh lễ cử hành tại đền thánh Đức Mẹ, ĐHY nói cuộc hành hương là một tuyên xưng niềm tin nơi Chúa và là một cử chí tín thác cho sự bầu của của Mẹ Thiên Chúa. Quảng diễn bài Phúc Âm kể lại biến cố Chúa Giêsu chữa lành người bất toại vì thấy niềm tin của những kẻ khiêng anh ta đến với Ngài, ĐHY xin Chúa gia tăng niềm tin nơi tất cả mọi người để hiểu rằng những gì chúng ta làm trong cuộc hành hương này đòi buộc chúng ta dành con tim và cuộc sống cho Chúa Kitô trong các hình thức khác nhau tuỳ theo cuộc sống của từng người.

Truyền thống đông phương định nghĩa con đường cuộc sống  con người được ơn thánh cứu chuộc giống như một lộ trình thần linh hoá từ từ, trong đó Mẹ Maria chói sáng như một ngọn đèn đặc biệt. Ai tin nơi Chúa và được rửa tội trong máu thánh Chúa cũng được mời gọi tham dự vào quyền năng tha thứ và chữa lành của Ngài. Hình thái bí tích được dành cho các linh mục, nhưng hình thái thường ngày đối với tha nhân được dành cho tất cả mọi người. Hôm nay chúng ta có sẵn sàng từ bỏ mọi tâm tình thù hận trói buộc con tim chúng ta để dấn thân thực thi quyền bính tha thứ như chúng ta đọc trong Kinh Lạy Cha không? Biết bao dòng sông ơn thánh có thể chảy ra, khi mỗi người có thể thực thi một cử chỉ hoà giải và hoà bình, bắt đầu từ trong gia đình mình! Cuộc hành hương đền thánh Đức Mẹ nhắm mục đích cầu nguyện cho hoà bình hoà giải của dân tộc Ukraine, nhưng cũng để kỷ niệm 150 năm thánh Giosaphát được tôn phong, và 150 năm đội triều thiên cho Đức Bà Zarvanytsia, cũng như kỷ niệm 125 năm ngày ĐHY Josyf Slipij sinh ra.

Lấy lại lời của Đức Gioan Phaolô II nói ngày 12 tháng 11 năm 1979 trong thánh lễ tấn phong Giám Mục cho ĐC Myroslav Lubachivsky, TGM Philadelphia cùng với ĐHY Josyf Slipij, ĐHY Sandri nói: “Tôi xin lợi dụng dịp này để bầy tỏ sự tôn kính mà Toà Thánh và toàn thể Giáo Hội Công Giáo dưỡng nuôi đối với Giáo Hội của anh chị em. Chứng tá trung thành với Phêrô và các Nguời kế vị Ngài bắt buộc chúng tôi phải có một lòng biết ơn đặc biệt và một sự trung thành đối với những người đã duy trì nó với biết bao kiên vững và tâm hồn cao quý như thế. Chúng tôi ước mong cống hiến cho họ một đóng góp của sự thật và tình yêu thương. Với tất cả sức lực chúng tôi ước mong làm vơi nhe các thử thách của những người khổ đau vì lòng trung thành của họ. Với hết tâm lòng chúng tôi ước mong bảo đảm sự hiệp nhất nội tại của Giáo Hội anh em và sự hiệp nhất với Ngai Toà Thánh Phêrô”. ĐHY Sandri đã kết thúc bài giảng bằng cách phó thác cho sự chở che hiền mẫu của Đức Bà Zarvanytsia giới trẻ Ukraine.

Vào ban chiều đã có cuộc rước nến kính Đức Mẹ. Đêm hành hương tại đền thánh Đức Bà sáng như ban ngày: tín hữu hành hương, kể cả người già và trẻ em không ngớt canh thức, cầu nguyện, xưng tội và hát thánh ca suốt đêm cho tới sáng.

ĐHY Sandri cũng đã viếng thăm nhà thờ chính toà công giáo hy lạp thánh Giorgio và cầu nguyện trên mộ ĐTGM Andrey Sheptytsky và ĐHY Josef Slipij, trước khi từ giã Ukraine để trở về Roma ngày 17 tháng 7.

Linh Tiến Khải