Đức Thánh Cha cổ võ các dự án chống bắt trẻ em lao động nô lệ và đi lính

Đức Thánh Cha cổ võ các dự án chống bắt trẻ em lao động nô lệ và đi lính

VATICAN. Sáng ngày 11-4-2014, ĐTC đã tiếp kiến các đại diện của Văn Phòng Công Giáo quốc tế về trẻ em, gọi tắt là BICE, và ngài đặc biệt chống lại tệ nạn bắt trẻ em lao động như nô lệ và phải đi lính.

ĐTC nhắc lại sự kiện Văn phòng Bice được thành lập sau khi ĐGH Piô 12 lên tiếng bênh vực trẻ em hậu thế chiến thứ 2. Từ đó tổ chức này luôn dấn thân thăng các quyền của trẻ em và góp phần vào Hiệp ước của LHQ cách đây 25 năm về việc bảo vệ các quyền của trẻ em.

Lên tiếng trong buổi tiếp kiến, ĐTC khẳng định rằng: ”Ngày nay, điều quan trọng là tiếp tục thi hành các dự án chống lại tệ nạn trẻ em phải lao động như nô lệ, trẻ em bị xung vào quân ngũ và mọi thứ bạo hành chống trẻ vị thành niên. Nói một cách tích cực, cần tái khẳng định quyền của trẻ em được lớn lên trong một gia đình, với cha với mẹ có khả năng kiến tại một môi trường thích hợp cho sự phát triển và sự trưởng thành tình cảm của các em”.

ĐTC nói thêm rằng ”Những điều trên đây đồng thời cũng bao gồm quyền của các cha mẹ được giáo dục con em mình về luân lý và tôn giáo. Và về vấn đề này tôi muốn bày tỏ sự phủ nhận của tôi đối với mọi sự thí nghiệm giáo dục trên trẻ em. Không thể thí nghiệm trên trẻ em và người trẻ. Những kinh hoàng trong việc lèo giáo dục như chúng ta đã thấy trong các chế độ độc tài giệt chủng hồi thế kỷ 20, vẫn chưa biến mất; chúng còn có tính chất thời sự dưới những bộ áo và đề nghị hác nhau, dưới chiêu bài tân tiến, chúng thúc đẩy các trẻ em và người trẻ tiến bước trên con đường độc tài của ”tư tưởng duy nhất”.

ĐTC nhắc nhở rằng ”Làm việc cho các nhân quyền đòi phải luôn giữa cho việc huấn luyện về nhân loại học được sinh động, được chuẩn bị kỹ lưỡng về thực tại con người, và biết trả lời cho những vấn đề và thách đố do các nền văn hóa hiện đại đề ra, cũng như não trạng được phổ biến qua các phương tiện truyền thông. Đối với anh chị em, vấn đề ở đây là cống hiến cho các vị lãnh đạo và nhân viên một sự thường huấn về nhân loại học trẻ em, vì các quyền lợi và nghĩa vụ có nền tảng nơi nền nhân lại học ấy và việc đề ra các dự án giáo dục cũng lệ thuộc vào đó”.

ĐTC cũng nhân danh toàn thể Giáo Hội xin lỗi vì những vụ vi phạm các quyền của trẻ em cho một số linh mục gây ra, những vụ lạm dụng tính dục trẻ em. ”Giáo Hội ý thức về những thiệt hại này. Đó là một lỗi bản thân và luân lý .. nhưng họ là những người của Giáo Hội. Và chúng tôi không muốn thối lui trong những biện pháp xử lý vấn đề này và hình phạt phải được đề ra. Trái lại, tôi tin rằng chúng ta phải rất mạnh mẽ, vì đối với các trẻ em không được đùa giỡn” (SD 11-4-2014).

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Đức Thánh Cha tiếp các giáo sư và sinh viên các Đại học Dòng Tên ở Roma

Đức Thánh Cha tiếp các giáo sư và sinh viên các Đại học Dòng Tên ở Roma

VATICAN. Trong buổi tiếp kiến sáng ngày 10-4-2014 dành cho các giáo sư và sinh viên thuộc các đại học của Dòng Tên ở Roma, ĐTC kêu gọi hãy liên kết chặt chẽ việc học hành nghiên cứu với đời sống thiêng liêng.

Khoảng 2 ngàn người, gồm các ban giám đốc, giáo sư, sinh viên và các nhân viên thuộc Đại học Giáo Hoàng Gregoriana, Thánh Kinh Học viện, và Giáo Hoàng học viện Đông Phương, là 3 cơ sở giáo dục cao đẳng thuộc Dòng Tên hoặc được Tòa Thánh ủy thác cho dòng điều khiển. Hiện diện trong buổi tiếp kiến cũng có ĐHY Zenon Grocholewski, người Ba Lan, Tổng trưởng Bộ giáo dục Công Giáo, một số HY, GM, Cha Nicolas SJ, Bề trên Tổng quyền dòng Tên, các vị viện trưởng của 3 Đại học.

Sau khi đề cao ý nghĩa và tầm quan trọng của các cơ sở giáo dục này tọa lạc tại Roma, nơi gìn giữ ký ức về các Tông Đồ và các vị tử đạo, ĐTC nhấn mạnh đến tương quan giữa việc học hành nghiên cứu và đời sống thiêng liêng, đồng thời khẳng định rằng ”Sự dấn thân của anh chị em về mặt trí thức, giảng dạy và nghiên cứu, học hành, và trong việc huấn luyện tổng quát, càng được phong phú và hữu hiệu nếu được linh hoạt nhờ lòng yêu mến đối với Chúa Kitô và Giáo Hội, nhờ tương quan vững chắc và hòa hợp hơn giữa việc học và cầu nguyện.

”Một thách đố của thời đại chúng ta ngày nay là thông truyền kiến thức và cung cấp một chìa khóa giúp hiểu biết sinh động, chứ không phải chồng chất những ý niệm không có liên hệ gì với nhau.”

ĐTC cũng nhận xét rằng: ”Nhà thần học nào tự mãn với tư tưởng đầy đủ và đóng kín của mình, là một nhà thần học xoàng. Nhà thần học và triết học tốt có một tư tưởng không đầy đủ nhưng luôn cởi mở đối với sự cao cả của Thiên Chúa và của chân lý, luôn phát triển, theo qui luật của thánh Vincent de Lérins: được củng cố qua năm tháng, được mở rộng qua thời gian, và được đào sâu hơn với tuổi tác” (Commonitorium primun, 23: PL 50, 668). Nhà thần học nào không cầu nguyện và không thờ lạy Thiên Chúa thì rốt cục sẽ chìm sâu trong thái độ tự yêu đáng kinh tởm”.

Cũng trong bài huấn dụ tại buổi tiếp kiến, ĐTC nói đến đặc tính Giáo Hội của các đại học Giáo Hoàng và khẳng định rằng:

”Mục đích việc học hành nghiên cứu trong mỗi đại học Giáo Hoàng là Giáo Hội. Việc nghiên cứu và học hành phải được hội nhập vào đời sống bản thân và cộng đoàn, với sự dấn thân truyền giáo, tình bác ái huynh đệ và chia sẻ với người nghèo, chăm sóc đời sống nội tâm với Chúa. Các học viện của anh chị em không phải là những cái máy để sản suất các thần học gia và triết gia; đó là những cộng đoàn trong đó ta tăng trưởng và sự tăng trưởng diễn ra trong gia đình”.

ĐTC nói thêm rằng: ”Trong gia đình đại học có đoàn sủng cai trị được ủy thác cho các Bề trên, có đoàn sủng phục vụ của các nhân viên không giảng huấn là điều không thể thiếu được để kiến tạo bầu không khí gia đình trong đời sống thường nhật, và cũng để tạo nên một thái độ nhân bản và khôn ngoan cụ thể, làm cho các sinh viên ngày nay trở thành những người có khả năng xây dựng nhân loại, thông truyền chân lý trong chiều kích con người, biết rằng nếu thiếu lòng từ nhân và vẻ đẹp thuộc về một gia đình làm việc, thì rốt cuộc họ sẽ trở thành một nhà trí thức bất tài, một nhà đạo đức không có lòng tốt, một nhà tư tưởng thiểu vẻ đẹp huy hoàng, và chỉ được trang điểm bằng những thái độ vụ hình thức mà thôi.” (SD 10-4-2014)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio
 

Đức Thánh Cha tái lên án nạn buôn người

Đức Thánh Cha tái lên án nạn buôn người

VATICAN. ĐTC Phanxicô tái lên án nạn buôn người và ngài khích lệ mọi nỗ lực thuộc các ngành khác nhau nhắm chống lại tội ác này.

Ngài bày tỏ lập trường trên đây trong cuộc gặp gỡ sáng 10-4-2014 với 120 tham dự viên Hội nghị quốc tế kỳ 2 về nạn buôn người tiến hành tại trụ sở Hàn lâm viện Tòa Thánh về khoa học ở nội thành Vatican trong hai ngày 9 và 10-4-2014 với sự tham dự của 50 chuyên gia đến từ hơn 20 quốc gia, trong số này có các giới chức cảnh sát quốc tế, các giáo sĩ, tu sĩ và các chuyên gia về các hoạt động nhân đạo.

ĐTC nói: ”Nạn buôn người là một vết thương trong thân thể nhân loại ngày nay, một vết thương trong thân mình của Chúa Kitô. Đó là một tội ác chống lại nhân loại. Sự kiện chúng ta họp nhau ở đây để liên kết những nỗ lực của chúng ta, có nghĩa là chúng ta muốn các chiến lược và thẩm quyền được tháp tùng và củng bố bằng sự cảm thông từ bi theo tinh thần Tin Mừng, và bằng sự gần gũi với những người nam nữ nạn nhân của tệ nạn này”.

ĐTC nhắc đến sự kiện tại hội nghị có nhiều quan chức cảnh sát quốc tế cùng với các nhân viên về các hoạt động nhân đạo: một bên nhắm thi hành luật pháp nghiêm túc, một bên có nghĩa vụ chính yếu là tiếp đón, trao tặng hơi ấm của tình người và giúp các nạn nhân phục hồi, hai khía cảnh này có thể và phải đi song đôi với nhau. Đối thoại và đối chiếu từ hai lối tiếp cận bổ túc cho nhau như vậy là điều rất quan trọng. Vì thế các cuộc gặp gỡ như thế này rất hữu ích và cần thiết”

Có khoảng 2 triệu 400 ngàn nạn nhân của tệ nạn này trên thế giới, mang lại 32 tỷ mỹ kim cho những kẻ bất lương. Hội nghị được triệu tập do sáng kiến của HĐGM Anh quốc, nhắm mục đích góp phần loại trừ nạn buôn người, tăng cường sự cộng tác quốc tế trong ý hướng này.

Trong phiên họp hôm 10-4-2014, một số nạn nhân đã trình bày chứng từ tại Hội nghị (SD 10-4-2014)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio
 

Đức Thánh Cha tiếp kiến chung 60 ngàn tín hữu hành hương: 9-4-2014

Đức Thánh Cha tiếp kiến chung 60 ngàn tín hữu hành hương: 9-4-2014

VATICAN. Trong buổi tiếp kiến chung sáng 9-4-2014, ĐTC Phanxicô đã bắt đầu loạt bài giáo lý mới về các ơn của Chúa Thánh Linh.

Trong số hàng trăm nhóm hiện diện, đông đảo nhất là các nhóm đến từ Italia, gồm các học sinh, các tín hữu từ các giáo xứ, và hiệp hội, đặc biệt có 300 sĩ quan và thủy quân Italia, 800 người thuộc hội đồng toàn quốc Italia các chuyên gia công nghệ, một đoàn hành hương 1 ngàn người nhân dịp kỷ niệm 400 năm sinh nhật của ĐGH Innocenzo XII. Từ nước ngoài có 50 người tham dự cuộc thi tuyển do Tòa Đại diện Đức Thượng phụ Công Giáo la tinh ở Jerusalem, 30 người thuộc Liên hiệp quốc tế Cộng đoàn ”Arche” (Con tàu Noe); từ nước Pháp có nhiều nhóm học sinh và tín hữu các giáo xứ. Từ nước Đức có gần 100 nhóm từ các giáo xứ và giáo phận khác nhau.

ĐTC đã tiến vào quảng trường lúc 9 giờ 45 trên để tiến qua các lối đi để chào thăm các tín hữu, ngài hôn các em bé do các nhân viên an ninh bế lên ngài, giơ tay cho các tín hữu bắt hoặc chạm đến. Gặp một người bạn quen, ngài yêu cầu xe dừng lại gọi người ấy lên xe để ngài chào thăm.

Khi ĐTC lên tới lễ đài, mọi người đã nghe các LM tại Tòa Thánh đọc bằng 5 thứ tiếng đoạn thư thứ I của thánh Phaolô gửi tín hữu thành Corinto nói về sự khôn ngoan của Thiên Chúa, khác biệt với sự khôn ngoan của người trần, và trong bài huấn giáo tiếp đó, ĐTC đã trình bày về ơn khôn ngoan.

Bài huấn dụ của ĐTC

Anh chị em thân mến, chào anh chị em!
Hôm nay, chúng ta bắt đầu một loạt bài giáo lý mới về các ơn của Chúa Thánh Linh. Anh chị em biết Thánh Linh chính là linh hồn, là nhựa sống của Giáo Hội và của mỗi tín hữu Kitô: Ngài là Tình Yêu của Thiên Chúa làm cho tâm hồn chúng ta trở thành nơi ở của Ngài và hiệp thông với chúng ta. Chúa Thánh Linh luôn ở với chúng ta, luôn ở trong chúng ta, Ngài ở trong tâm hồn chúng ta.

”Chính Thánh Linh là ”hồng ân tuyệt hảo của Thiên Chúa” (Xc Ga 4,10), là món quà của Thiên Chúa và Chúa thông ban cho những ai đón nhận Ngài những hồng ân thiêng liêng khác nhau. Giáo Hội xác định 7 ơn, một con số biểu tượng, nói lên sự sung mãn, trọn hảo; đó là những ơn chúng ta học biết khi chuẩn bị chịu phép Thêm Sức và chúng ta cầu khẩn trong kinh nguyện cổ kính gọi là ”Ca tiếp liên về Chúa Thánh Linh”, đó là: ơn khôn ngoan, ơn hiểu biết, ơn biết lo liệu, ơn sức mạnh, ơn thông minh, ơn đạo đức, và ơn kính sợ Thiên Chúa.

1. ”Vậy Ơn đầu tiên của Thánh Linh, theo danh sách này là ơn khôn ngoan. Nhưng đây không phải chỉ là sự khôn ngoan của con người, thành quả của kiến thức và kinh nghiệm. Trong Kinh Thánh có kể rằng khi Salomon được đăng quang làm vua Israel, Thiên Chúa đã hỏi ông xem ông muốn Ngài ban ân nào. Salomon không xin của cải, thành công, danh tiếng hoặc được sống lâu và hạnh phúc, nhưng ông xin được ”một tâm hồn ngoan ngoãn, biết phân biệt thiện ác” (1 V 3,9). Vì thế, ơn khôn ngoan chính là ơn có thể nhìn mọi sự với đôi mắt của Thiên Chúa, đó là nhìn thế giới, nhìn các hoàn cảnh, các các vấn đề, nhìn mọi sự với đôi mắt của Chúa. Đó là khôn ngoan. Đôi khi chúng ta nhìn sự việc theo sở thích của mình hoặc theo tình trạng tâm hồn của mình – yêu, ghét, ghen tương.. – đó không phải là nhìn đôi mắt của Thiên Chúa. Ơn khôn ngoan là ơn làm cho Chúa Thánh Linh ở trong chúng ta để chúng ta nhìn mọi sự với đôi mắt của Thiên Chúa.

2. Vì thế, ơn khôn ngoan không phải chỉ nảy sinh từ trí thông minh hoặc từ kiến thức mà chúng ta có thể có, nhưng từ cuộc sống thân mật với Thiên Chúa, như con cái đối với Cha. Và khi chúng ta có quan hệ như thế, Chúa Thánh Linh ban cho chúng ta ơn khôn ngoan. Khi chúng ta hiệp thông với Chúa, Thánh Linh như thể biến đổi con tim chúng ta và làm cho chúng ta nhận thấy sức nóng và sự yêu thương đặc biệt của Ngài.

3. ”Chúa Thánh Linh làm cho mỗi Kitô hữu trở nên ”khôn ngoan”. Nhưng điều này không phải theo nghĩa là họ có câu trả lời cho mọi sự, biết mọi sự; người khôn ngoan theo nghĩa của Thiên Chúa không như vậy, nhưng có nghĩa là họ biết về Thiên Chúa, biết Chúa hành động như thế nào, biết khi nào một điều là của Thiên Chúa, điều gì là không, biết sự khôn ngoan mà Thiên Chúa ban cho tâm hồn chúng ta. Tâm hồn người khôn ngoan, theo nghĩa này, có hương vị của Thiên Chúa. Và điều quan trọng là cộng các cộng đoàn Kitô của chúng ta, có những tín hữu Kitô như thế! Tất cả những gì nơi họ đều nói về Thiên Chúa và trở thành một dấu chỉ đẹp đẽ và sinh động về sự hiện diện của Chúa và tình thương của Ngài. Và điều này chúng ta không thể tự ban cho mình, đó là một ơn Chúa ban cho những người ngoan ngoãn đối với Chúa Thánh Linh. Và chúng ta có Chúa Thánh Linh trong tâm hồn chúng ta, chúng ta có thể lắng nghe Ngài hoặc không nghe. Nếu chúng ta lắng nghe Thánh Linh, thì Ngài sẽ dạy chúng ta con đường khôn ngoan, ban cho chúng ta ơn khôn ngoan là nhìn với đôi mắt của Chúa, nghe với đôi tại của Chúa, yêu thương với con tim của Chúa, phán đoán mọi sự với phán đoán của Chúa. Đó là sự khôn ngoan mà Chúa Thánh Linh tặng cho chúng ta, và tất cả chúng ta đều có thể được, chỉ cần xin Thánh Linh ban ơn ấy. Nhưng anh chị em thử nghĩ xem: một bà mẹ ở nhà, với con cái, đứa thì làm điều này nhưng lại nghĩ điều khác, tội nghiệp bà mẹ chạy chỗ này sang chỗ khác, với những vấn đề của con cái. Và khi bà mẹ mệt, quở mắng con cái, đó có phải là khôn ngoan không? La mắng con cái có phải là khôn ngoan không? Không, trái lại, khi một bà mẹ ẵm con, và khiển trách dịu dàng và nói: ”Con không nên làm như thế” và kiên nhẫn giải thích cho con, đó là sự khôn ngoan của Thiên Chúa

”Đúng vậy, đó là điều mà Chúa Thánh Linh ban cho chúng ta trong cuộc sống. Và rồi trong hôn nhân, ví dụ hai vợ chống cãi nhau, rồi không nhìn nhau nữa, hoặc có nhìn thì nhìn với khuôn mặt nhăn nhó, đó có phải là khôn ngoan của Thiên Chúa không? Không, trái lại, nếu họ nói: ”sóng gió qua rồi, chúng ta hãy làm hòa với nhau” và họ tiếp tục sống trong an bình, đó chính là sự khôn ngoan, là ơn khôn ngoan. Đó không phải là điều ta học, nhưng là một món quà của Chúa Thánh Linh. Vì thế, chúng ta phải xin Chúa ban Thánh Linh cho chúng ta và ban ơn khôn ngoan, ơn của THiên Chúa dạy chúng ta nhìn với đôi mắt của Thiên Chúa, cảm thấy với con tim của Thiên Chúa, nói bằng những lời của Thiên Chúa. Và thế là với sự khôn ngoan này, chúng ta tiến bước, xây dựng gia đình, Giáo hội và tất cả chúng ta được thánh hóa. Ngày hôm nay, chúng ta hãy xin ơn khôn ngoan, hãy xin ơn này với Mẹ Maria là tòa Đấng Khôn ngoan: xin Mẹ ban cho chúng ta ơn này.

Chào thăm

Sau bài giáo lý bằng tiếng Ý, các LM tại Tòa Thánh đã lần lượt tóm tắt bài giáo lý bằng các thứ tiếng Pháp, Anh, Đức, Bồ đào nha, Arập, Ba Lan, cũng như dịch những lời chào thăm của ĐTC.

Trong phần chào thăm này, ĐTC đặc biệt nhắc đến các bạn trẻ đến từ Pháp, Bỉ và Luxembourg. Ngài nhắn nhủ họ đừng là những Kitô hữu nguội lạnh, nhưng làm sao để cuộc sống của mình ngày càng có hương vị Phúc Âm, hương thơn của Chúa Kitô, để thông truyền cho tha nhân sự dịu dàng và tình thương của Chúa.

Với các tín hữu nói tiếng Anh, ĐTC chào thăm những người đến từ Anh quốc, Thụy điển, Na uy, Phần Lan, Philippines, Zimbabwe, Australia và Hoa Kỳ. Ngài cầu khẩn Chúa ban các ơn Thánh Linh trên tất cả các tín hữu hiện diện và gia đình họ, để cử hành Tuần Thánh đang đến gần với nhiều thành quả.

Với các tín hữu nói tiếng Á-rập, ĐTC đặc biệt chào thăm những người đến từ Trung đông, nhất là Đức cha Giacinto Marcuzzo, Đại diện Đức Thượng Phụ latinh đặc trách miền Israel, cùng với một số linh hoạt viên Kinh thánh tháp tùng.
Trước khi chào các tín hữu nói tiếng Ý, ĐTC đã lên án vụ sát hại LM dòng Tên Frans van der Lugt, 75 tuổi, tại Syria và tái kêu gọi hòa bình cho nước này.

Khi chào các tín hữu nói tiếng Ý, ĐTC nhắc đến phái đoàn hải quân Italia và thân nhân các binh sĩ đang thi hành sứ vụ ở nước ngoài hiện diện tại buổi tiếp kiến. Ngài nói: Ước gì cuộc hành hương tại Tòa Thánh Phêrô giúp anh chị em vun trồng ơn khôn ngoan mà chỉ Thiên Chúa mới có thể ban.

Sau cùng, với các bạn trẻ, các bệnh nhân và các đôi vợ chồng mới cưới ĐTC nhắn nhủ rằng: “Chúng ta đang sống thời điểm ơn thánh là mùa chay, các bạn trẻ thân mến, các con đừng mệt mỏi trong việc cầu xin ơn tha thứ của Chúa trong phép giải tội! Hỡi các bệnh nhân, hãy liên kết những đau khổ của anh chị em với đau khổ thập giá của Chúa Kitô, và hỡi anh chị em tân hôn, hãy thi đua nhau trong sự tha thứ và giúp đỡ lẫn nhau.

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio
 

Đức Thánh Cha tái kêu gọi hòa bình cho Syria

Đức Thánh Cha tái kêu gọi hòa bình cho Syria

VATICAN. ĐTC lên án vụ sát hại LM dòng Tên tại Syria và tái kêu gọi hòa bình cho nước này.

Lên tiếng vào cuối buổi tiếp kiến chung sáng 9-4-2014 dành cho hơn 60 ngàn tín hữu hành hương, tại Quảng trường thánh Phêrô, ĐTC nói:

”Thứ hai vừa qua (7-4) tại thành phố Homs bên Syria, Cha Frans van der Lugt, một người anh em cùng dòng Tên với tôi người Hòa Lan, 75 tuổi, đã bị sát hại. Cha đến Syria cách đây gần 50 năm, và luôn làm điều thiện cho tất cả mọi người, một cách nhưng không và với lòng yêu thương, và vì thế, cha được các tín hữu Kitô và Hồi giáo thương mến và quí trọng”.

”Sự kiện cha bị sát hại tàn bạo khiến tôi rất đau buồn và làm cho tôi càng nghĩ đến bao nhiêu người đang chịu đau khổ và chết chóc tại đất nước đau thương ấy, từ quá lâu bị làm mồi cho một cuộc xung đột đẫm máu, tiếp tục gây ra chết chóc và tàn phá. Tôi cũng nghĩ đến nhiều người bị bắt cóc, Kitô hữu cũng như tín hữu Hồi giáo, người Syria và các nước khác, trong đó có các GM và LM. Chúng ta hãy cầu xin Chúa để họ sớm được trở về với những người thân yêu, với gia đình và cộng đoàn của họ”.

”Tôi thành tâm mời tất cả anh chị em hãy hiệp ý cầu nguyện với tôi cho hòa bình tại Syria và trong vùng này, và tôi tái tha thiêt kêu gọi các vị hữu trách Siria và cộng đồng quốc tế: làm sao để võ khí im tiếng, chấm dứt bạo lực! Đừng chiến tranh nữa! Đừng tàn phá nữa! Hãy tôn trọng công pháp nhân đạo, và chăm sóc dân chúng đang cần được giúp đỡ về nhân đạo, và hãy đạt tới hòa bình bằng đối thoại và hòa giải” (SD 9-4-2014)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio
 

Phim ‘Noah’ dẫn đầu làn sóng phim mới dựa trên Kinh Thánh

Phim ‘Noah’ dẫn đầu làn sóng phim mới dựa trên Kinh Thánh

Daniel Burke cho CNN Belief Blog

Noah  6

Hãy tha thứ cho Darren Aronofsky nếu ông có đồng cảm với nhân vật có cùng tên với bộ phim mới của mình là “Noah”.

Giống như người đóng thuyền nổi tiếng này, nhà đạo diễn 45 tuổi đã vượt qua cơn bão giống như được miêu tả trong Kinh Thánh, và vẫn chưa kết thúc.

Bộ phim sử thi của Aronofsky, do Russell Crowe đóng vai chính và có kinh phí 130 triệu Mỹ kim, lướt trên làn sóng tranh cãi đang dâng cao để vào trong các rạp hát của Mỹ hôm thứ Sáu.

Mặc dù bị một số Kitô hữu bảo thủ chỉ trích dữ dội, “Noah” đứng đầu danh sách phim ăn khách nhất vào cuối tuần qua, thu về 44 triệu Mỹ kim tại Mỹ.

Bộ phim thuộc thể loại thần thoại này là tham vọng của Anronofsky, đạo diễn nổi tiếng với các phim như “Black Swan” và “The Wrestler”. Cả hai phim này đều nhận được rất nhiều lời khen ngợi và giải thưởng, trong khi “Noah” lại vấp phải làn sóng phản đối ở nhiều nơi.

Glenn Beck và mục sư Tin lành Rick Warren nguyền rủa bộ phim. Hiệp hội National Religious Broadcasters khẳng định “Noah” từ chối thừa nhận các nhà làm phim có “giấy phép nghệ thuật” sử dụng câu chuyện Kinh Thánh này. Một số nước Hồi giáo cấm chiếu bộ phim này, vì nói việc miêu tả các tiên tri đi ngược lại giáo huấn Hồi giáo.

Ngay cả Paramount, công ty điện ảnh phát hành phim “Noah” cũng khiến Aronofsky bối rối khi thử nghiệm ít nhất 5 phiên bản khác nhau của bộ phim với các nhóm được thăm dò ý kiến.

“Tôi có thể hiểu được có sự nghi ngờ vì đã 50 năm kể từ khi có câu chuyện sử thi trong Kinh Thánh Cựu Ước được đưa lên màn ảnh rộng”, Aronofsky nói gần đây. “Và trong thời gian đó đã có nhiều phim của Hollywood khiến người ta bực tức”.

Năm 2014 được xem là năm Tinsel Town đảo ngược xu hướng đó và cuối cùng chấp nhận tôn giáo.

Một thập niên sau khi bộ phim “The Passion of the Christ” làm Hollywood kinh ngạc, làm phật lòng những người theo chủ nghĩa tự do và thu về 600 triệu Mỹ kim trên toàn thế giới, các hãng phim lớn đang ủng hộ các nhà sản xuất phim dựa trên tín ngưỡng.

Ngoài phim “Noah”, còn có phim “Son of God” của hãng 20th Century Fox, phát hành hồi tháng 3 và được chọn lọc từ loạt phim truyền hình hết sức ăn khách của kênh History Channel, “The Bible”. Vào tháng Tư, Sony Pictures sẽ phát hành phim “Heaven is For Real”, dựa trên cuốn sách rất được ưa chuộng, do Bishop T.D. Jakes, mục sư Tin lành và là nhà doanh nghiệp đa phương tiện ở Texas sản xuất.

Bộ phim “Exodus”, do Ridley Scott đạo diễn và Christian Bale đóng vai nhân vật chính Môsê, dự kiến phát hành vào tháng 12. Ngoài ra còn có phim “Mary, Mother of Christ”, được miêu tả là phần tiếp theo của bộ phim “Passion” của Mel Gibson.

Có thể sắp có thêm các phim sử thi Kinh Thánh. Được biết, Steven Spielberg đang đàm phán đạo diễn một bộ phim khác nói về Môsê, và mới đây Warner Brothers đã mua một kịch bản nói về Phongxiô Philatô.

Phòng vé chưa chứng kiến nhiều phim dựa trên tín ngưỡng như thế này từ khi Charlton Heston đóng vai trong phim “The Ten Commandments” sử dụng quy trình làm phim màu Technicolor. Và chưa kể phim “God is Not Dead”, bất ngờ mang về 8,5 triệu Mỹ kim vào cuối tuần vừa rồi.

Thế đằng sau sự phục hồi các phim dựa trên tôn giáo của Hollywood là gì?

“Nhân tố lớn nhất là sự thu hút người xem tăng không ngừng trên thị trường quốc tế”, phó giám đốc hãng Paramount Rob Moore nói, một trong những động lực đằng sau phim “Noah”.

Khi mà dường như nguồn cung cấp các nhân vật chính diện trong truyện tranh của Hollywood đã cạn, các hãng phim biết rằng Kinh Thánh đi kèm hàng tỷ khán giả. Các nhân vật chính diện và phản diện trong Kinh Thánh bị chế nhạo và được hoan hô gần như trên tất cả các châu lục. Các câu chuyện phức tạp về luân lý của nó đầy dẫy những nét đặc biệt dễ dàng tạo ra bom tấn giống như dịch châu chấu, các trận lũ trong khải huyền và lừa biết nói.

Nhưng cuộc tranh cãi về “Noah” minh họa triển vọng và mối nguy khi đưa Kinh Thánh lên màn ảnh rộng.

Đúng vậy, có sẵn khán giả yêu thích cuốn sách này, nhưng liệu họ có chấp nhận một kịch bản lạc ra ngoài Kinh Thánh không? Mặt khác, người trẻ Mỹ ngày càng tục hóa có kéo nhau đi xem các bộ phim trông có vẻ giống các bài giảng lễ không?

Nguồn: CNN Belief Blog

UCANEWS VN

Ngày cầu nguyện cho các thừa sai tử đạo

Ngày cầu nguyện cho các thừa sai tử đạo

Phỏng vấn bà Francesca Lanciotti và cha Fabien Bizimana

Nga2y 24-3-2014 là Ngày ăn chay cầu nguyện cho các thừa sai tử đạo lần thứ 22. Ngày này do Phong trào trẻ của các Hiệp Hội Giáo Hoàng Truyền Giáo thành lập trong năm tưởng niệm Đức Cha Oscar Arnulfo Romero, Tổng Giám Muc San Salvador, bị ám sát ngày 24 tháng 3 năm 1982 đang khi Đức Cha dâng thánh lễ tại một nhà thờ thủ đô. Đề tài của ngày này là ”Chứng tá” nhằm nhắc lại chiều kích nòng cốt của kinh nghiệm đức tin: đó là việc làm chứng tá cho Tin Mừng của biết bao nhiêu anh chị em kitô đã hy sinh mạng sống vì loan báo Tin Mừng cho thế giới. Trong số các vị ấy có cha Nazareno Lanciotti, linh mục Hồng Ân Đức Tin, bị sát hại bên Brasil hồi năm 2001 sau 30 năm phục vụ các anh chị em nghèo nhất. Cha đã bị sát hại vì đứng hàng đầu trong việc ngăn cản các dự án của các tay buôn bán ma túy và tổ chức mại dâm trong bang Mato Grosso.

Theo thống kê của hãng thông tấn Fides của Bộ Truyền Giáo trong năm 2013 đã có 23 nhân viên mục vụ của Giáo Hội bị sát hại, tức gấp đôi so với năm 2012 và đa số là linh mục.

Sau đây chúng tôi xin gửi tới qúy vị và các bạn bài phỏng vấn bà Francesca Lanciotti em gái của cha Nazareno về chứng tá này.

Hỏi: Thưa bà Francesca, cha Nazareno đã sống chứng tá cho Tin Mừng như thế nào?

Đáp: Cha ấy đã sống chứng tá hết mình. Cha đã sống nghèo nàn như dân nghèo, bởi vì cha thường nói rằng cha không thể sống giữa những người nghèo mà không cảm thấy mình như họ. Cha đã hiểu tường tận các nhu cầu vật chất và tinh thần của họ. Cha đã xây một nhà thờ, nhưng ngài cũng nghĩ tới một nhà thương và một trường học. Cha đã lôi cuốn dân chúng và họ cảm thấy rằng các cơ cấu này sẽ là của họ. Cha đã bắt đầu xây một chủng viện, và từ đó đã xuất thân nhiều linh mục. Và giờ đây một trong các linh mục đó là thỉnh nguyện viên phong thánh cho cha bên Brasil.

Hỏi: Cha Nazareno đã tin vào những gì, và tại sao cha lại chọn ra đi truyền giáo, thưa bà?

Đáp: Ngài đã có được nền đào tạo theo tinh thần Biển Đức: ”Cầu nguyện và làm việc”. Ngài đã tham gia vào một chiến dịch hoạt động cho người nghèo thuộc các nước nghèo đang trên đường phát triển trong bang Mato Grosso. Cha đã sống một kinh nghiệm tương tự bên Bolivia, và đã hiểu rằng các vùng này cần rất nhiều linh mục.

Hỏi: Ba mươi năm làm việc liên lỉ. Đâu là các sức mạnh đã khiến cho cha hoạt động nhiều trong các bối cảnh khó khăn như thế?

Đáp: Cha Nazareno rất sùng kính Đức Mẹ và bí tích Thánh Thể, bởi vì cha chầu Mình Thánh Chúa hàng ngày, cả khi đi vào trong rừng. Và cha phổ biến Kinh Mân Côi rất mạnh mẽ. Và cha thường nói: mọi chuyện khác là hoa trái của Chúa Quan Phòng. Cuộc đời của cha thật đã là một phép lạ bởi vì trước hết cha luộn luôn có trong tim Chúa Giêsu và Đức Mẹ và cha đem các Ngài đến cho người khác. Cha yêu dân chúng như yêu gia đình mình vậy.

Hỏi: Nghĩa là như cha ấy thường nói: ”một cuộc đời tận hiến cho người nghèo”, có đúng thế không thưa bà?

Đáp: Vâng đúng vậy, cho người nghèo, nhưng với rất nhiều lòng sùng mộ và tâm tình tôn giáo. Thật thế, cha đã bị giết bởi vì dân chúng đã được đào tạo tốt trên con đường đức tin: họ cầu nguyện, họ rất năng lui tới các nhà thờ, và không có ma túy cũng không có mại dâm. Dân chúng mạnh mẽ trong lòng tin và trong cuộc sống luân lý nữa, đến độ các tay tội phạm hiểu rằng tất cả mọi sự tùy thuộc nơi vị linh mục này, và vì thế họ đã lên chương trình mưu sát cha. Người giết cha đầu trùm kín tới gần cha và nói: ”Tao là qủy dữ, và mày đã gây rất nhiều phiền toái cho chúng tao rồi. Tao tới để giết mày đây”.

Hỏi: Cha Nazareno cũng đã tha thứ cho kẻ giết cha ấy có đúng thế không?

Đáp: Đúng vậy, cha đã tha thứ cho những kẻ mưu sát. Cha còn đủ thời giờ và sáng suốt để dâng hiến mạng sống cầu nguyện cho Đức Giáo Hoàng, cho Giáo Hội và cho các linh mục.

Hỏi: Tôi xin nói với bà điều mà Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói liên quan tới các thừa sai: ”Họ là các tín hữu kitô dấn thân yêu thương cho đến cùng vì Chúa Kitô”. Bà nghĩ sao?

Đáp: Vâng đúng thế, yêu thương cho đến cùng. Cha Nazareno đã bị đe dọa giết nhiều lần, và và cha cũng chờ đợi điều đó xảy ra. Ngoài ra cha cũng là vị điều hợp Phong trào linh mục thánh mẫu, và sự thánh hiến của các cha là dâng lên cho Chúa cả máu của mình nữa, nếu cần. Vì thế ngài đã sẵn sàng đón nhận mọi sự.

Hỏi: Người anh linh mục của bà đã dậy bà những gì với cuộc sống, chứng tá và dấn thân của cha ấy?

Đáp: Anh ấy dậy tôi rằng cần phải làm chứng ngày này qua ngày khác, và không bao giờ bỏ ý thức trách nhiệm của chúng ta đối với tha nhân. Chúng ta không được là các ”kitô hữu hình ảnh”, nhưng phải là các kitô hữu cụ thể, bởi nếu không thì chúng ta khiến cho người ta xa lánh.

** Cũng liên quan tới việc làm chứng tá cho Chúa Kitô và Tin Mừng sau đây là bài phỏng vấn cha Fabien Bizimana, về kinh nghiệm của cha trong cuộc diệt chủng tại Rwanda hồi năm 1994. Cha đã là Bề trên các cha dòng Barnabít. Trong số hàng trăm ngàn người bị sát hại hồi đó cũng có 3 Giám Mục, hàng trăm linh mục và tu sĩ nam nữ và các chủng sinh. Rất nhiều tu sĩ nam nữ bị cầm tù và chính cha Fabien cũng đã là nạn nhân của một cuộc tấn công. Bài phỏng vấn của Gabriella Ceraso.

Hỏi: Thưa cha 20 năm đã qua kể từ khi xảy ra cuộc diệt chủng tại Rwanda. Cha nghĩ gì về biến cố này?

Đáp: Tôi thừa nhận rằng tuy biến cố đó đã thật là một thảm họa, nhưng nó cũng là một thời điểm rất định đoạt cho việc làm chứng. Các kitô hữu đã bị thử thách, và đó đã là một dịp để chứng minh rằng Tin Mừng không phải là một ngụ ngôn, mà là một thực tại, là cuộc sống.

Hỏi: Làm chứng tá trong các tình huống như thế có nghĩa là gì? Che chở, yêu thương hay thế nào?

Đáp: Đối với tôi nó có nghĩa là khiến cho Tin Mừng trở thành một thực tại và toát yếu của Tin Mừng là tình yêu. Như thế có nghĩa là làm chứng cho tình yêu và niềm hy vọng ở trong chúng ta.

Hỏi: Cha đã là chứng nhân, trông thấy các tu sĩ mất mạng sống trong thời gian đó, có đúng thế không?

Đáp: Năm 1994 tôi sống tại nhà đào tạo của dòng ở Cyangugu bên Rwanda. Và chúng tôi đã trông thấy tận mắt các linh mục bị sát hại, nhưng không phải chỉ có các linh mục thôi, mà còn có cả dân chúng bị nhận chết chìm trong hồ Kivu bên cạnh đó. Chúng tôi đã thoát được bởi vì chúng tôi là người Congo, chỉ vì vậy thôi, chứ nếu không thì họ cũng đã giết tất cả chúng tôi rồi.

Hỏi: Người ta phải làm gì để giúp đỡ dân chúng, khi có nhiều thù hận như vậy hay trong các vùng khác của thế giới, khi có các tổ chức tội phạm và có nhiều bạo lực gắn liền với nạn buôn bán ma túy chẳng hạn?

Đáp: Vị thừa sai, chúng ta hãy nói thế đi, nếu chấp nhận cuộc sống của mình thì trở thành một của lễ, không cần nhiều diễn văn để trước hết giúp hiểu rằng vị ấy đứng về phía dân chúng. Vị ấy sẽ đáng tin cậy với chính các việc làm của mình, với cuộc sống thường ngày của mình. Sau đó thì diễn văn của vị thừa sai trở thành trong sáng, trở thành thực tại. Theo tôi, có nhiều linh mục đã được cứu thoát vì các giáo dân trong xứ hay các tín hữu đã thực sự tin nơi các vị, vì các vị sống điều các vị rao giảng.

Hỏi: Trải rộng hình ảnh của nước Rwanda ra, rất tiếc toàn đại lục Phi châu là một cái lò của biết bao nhiêu bạo lực, trong đó có đầy dẫy các vị tử đạo, có đúng thế không? Theo kinh nghiệm của cha, thì đâu là điều người ta có thể nói là quan trọng trong một ngày kỷ niệm các thừa sai tử đạo, như ngày này?

Đáp: Phi châu sẽ chỉ được cứu thoát, khi biết trở về với các giá trị khiến cho các tiền nhân, các thế hệ ông bà cha mẹ chúng tôi đã luôn minh nhiên, nghĩa là tình liên đới. Ở đây tôi nhớ tới một trong các vị tử đạo của nước Congo là Đức Cha Musiro, là người đã nói: ”Không phải lỗi của ai hết nếu một người sinh ra là Tutsi, là người Rwanda, thay vì sinh ra là người Hutu hay của một chủng tộc khác”. Chúng ta tất cả là anh em với nhau. Đến khi nào chúng tôi mới thực sự hiểu rằng, chỉ có tình huynh đệ đại đồng, chỉ có tình liên đới mới có thể cứu hay trao ban cho Phi châu một kỷ nguyên phát triển mới?

Hỏi: Và có thể làm chứng cho điều mà Đức Thánh Cha Phanxicô nói, nghĩa là ”các vị tử đạo là các môn đệ của Chúa Kitô đã học ý nghĩa của từ ”yêu thương” cho tới cùng”, có đúng thế không thưa cha?

Đáp: Vâng, chính tôi cũng đã là nạn nhân của một vụ tấn kích bởi những người vũ trang trong giáo xứ. Chúng tôi chỉ có hai người, tôi và một cha khác cùng dòng đêm hôm đó. Trong khi tôi bị đánh đập tóe máu, thì đã có ba người bị giết trong số những người đến cứu chúng tôi. Và tôi đã tận mắt chứng kiến một người có thể đi tới chỗ hy sinh mạng sống mình cho một người anh em khác như thế nào.

Hỏi: Và trong trường hợp này đối với các kitô hữu có nghĩa là yêu thương cho tới cùng?

Đáp: Đúng thế, đó là định nghĩa của kitô hữu. Kitô hữu là người yêu thương cho tới cùng. Tin Mừng được tóm tắt với từ ”tình yêu”.

(RG 24-3-2014)

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Đức Thánh Cha tiếp kiến 30 Giám Mục nước Tanzania

Đức Thánh Cha tiếp kiến 30 Giám Mục nước Tanzania

VATICAN. ĐTC Phanxicô mời gọi các GM Tanzania làm cho tinh thần truyền giáo thấm nhiễm vào mọi hoạt động của Giáo Hội tại nước này.

Ngài đưa ra lời nhắn nhủ trên đây trong buổi tiếp kiến sáng ngày 7-4-2014 dành cho 30 GM Tanzania, nhân dịp các vị về Roma viếng mộ Hai Thánh Tông đồ và thăm Tòa Thánh.

Trong bài huấn dụ trao cho các vị tại buổi tiếp kiến chung, ĐTC viết: ”Dựa trên lòng nhiệt thành và hy sinh của các vị truyền giáo đầu tiên, anh em cần luôn luôn duy trì và phát huy sứ mạng truyền giáo này, để Tin Mừng có thể ngày càng thấm nhập vào mọi hoạt động tông đồ và chiếu tỏa ánh sáng trên mọi lãnh vực của xã hội Tanzania, nhờ đó một trang mới mẻ và sinh động trong lịch sử truyền giáo huy hoàng tại đất nước anh em có thể được viết lên”.

ĐTC cũng nhắc nhở việc truyền giáo được thực hiện qua nhiều công tác mục vụ giáo xứ, trong phụng vụ, lãnh nhận các bí tích, giáo dục, các sáng kiến săn sóc sức khỏe, huấn giáo và đặc biệt là chứng tá cuộc sống của các tín hữu Kitô. Ngài cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của các LM qua sứ vụ giảng dạy, thánh hóa và cai quản đoàn chiên Chúa. Cần có những linh mục thánh thiện, được huấn luyện tốt và nhiệt thành..

ĐTC kêu gọi các GM Tanzania làm sao để các LM có thể chu toàn hơn nữa sứ vụ LM trong niềm trung thành với những lời hứa đã làm khi chịu chức.. Việc thường huấn cũng phải tiếp tục được thi hành. Ngài viết: ”Chỉ nhờ sự hoán cải hằng ngày và tăng trưởng trong đức ái mục tử, các LM mới trưởng thành như những người có thể thực thi sự canh tân tinh thần và sự hiệp nhất giửa các tín hữu Kitô trong giáo xứ thuộc quyền, và như Chúa Giêsu, tập hợp dân thuộc mọi bộ tộc và ngôn ngữ (Kh 7,9) để chúc tụng và tôn vinh Thiên Chúa Cha”.

ĐTC ca ngợi công việc của các giáo lý viên trong Giáo Hội Công Giáo tại Tanzania. Ngài mời gọi các GM làm sao để các giáo lý viên nam nữ được hiểu biết đầy đủ về đạo lý của Giáo Hội, để giúp họ không những đương đầu với những thách đố do sự mê tín, các giáo phái tấn kích và trào lưu tục hóa, nhưng nhất là để họ có thể chia sẻ vẻ đẹp và sự phong hú của đức tin Công Giáo cho tha nhân, đặc biệt là giới trẻ”.

Sau cùng ĐTC cổ võ các GM Tanzania tăng cường việc mục vụ gia đình và ngài khẳng định rằng: ”Qua việc cổ võ cầu nguyện, sự chung thủy trong hôn nhân, nhất phu nhất phu và khiêm tốn phục vụ nhau trong gia đình, Giáo Hội tiếp tục đóng góp quan trọng cho an sinh xã hội của Tanzania. Sự đóng góp này, cùng với việc tông đồ giáo dục và sức khỏe, chắc chắn sẽ đóng góp lớn và sự ổn định và tiến bộ của đất nước anh em”.

Tanzania rộng hơn 945 ngàn cây số vuông với gần 45 triệu dân cư trong số này hơn 40% là tín hữu Kitô và 35% là tín hữu Hồi giáo. Số tín hữu Công Giáo là 13 triệu 600 ngàn tín hữu thuộc 5 tổng giáo phận và 29 giáo phận (SD 7-4-2014)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Nỗ lực tái tạo hòa bình cho người dân Trung Phi

Nỗ lực tái tạo hòa bình cho người dân Trung Phi

Phỏng vấn ba vị lãnh đạo tôn giáo Trung Phi

Sáng thứ tư 26-3-2014 vào cuối buổi tiếp kiến chung Đức Thánh Cha Phanxicô đã gặp các vị đại diện của tổ chức ”Chỗ đứng của các tôn giáo cho hòa bình”, gồm Đức Cha Dieudonné Nzapalainga, Tổng Giám Mục Bangui, Mục sư Nicolas Grékoyamé-Gbangou, Chủ tịch các Giáo Hội Tin Lành và Imam Oumar Kobine Layama, lãnh đạo Hồi giáo Bangui. Đức Thánh Cha đã khích lệ các vị hiệp nhất với nhau, gần gũi dân chúng và tiếp tục hoạt động chống lại mọi chia rẽ. Ngài cũng bảo đảm với các vị là sẽ nói chuyện với tổng thống Barack Obama về vấn đề hòa bình Trung Phi. Trước khi tham dự buổi tiếp kiến của Đức Thánh Cha cả ba vị cũng đã gặp Đức Hồng Y Pietro Parolin, Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh. Từ lâu nay cả ba vị lãnh đạo tôn giáo đã dấn thân cho việc bình định Trung Phi, bằng cách tiếp xúc và gặp gỡ nhiều vị lãnh đạo của cộng đồng quốc tế.

Cộng hòa Trung Phi rộng gần 623 ngàn cây số vuông, có khoảng 4,5 triệu dân gồm nhiều chủng tộc khác nhau trong đó có các nhóm quan trọng nhất như: Baya, Banda, Mandjia, Sara, Fulani, Mboum, M'Baka, Yakoma vv… Theo thống kê năm 2003 Trung Phi có 80,3% tổng số dân theo Kitô giáo gồm 51.4% Tin Lành và 28.9% Công Giáo. Hồi giáo chiếm 15% và đạo thờ vật linh chiếm 9.6%.

Trong khoảng thời gian từ năm 1.000 trước công nguyên tới năm 1.000 sau công nguyên có các nhóm người Ubangi từ phía đông Camerun cho tới Sudan đến định cư dọc sông Oubangi tức Trung Phi ngày nay. Cuối thế kỷ XIX Trung Phi trở thành thuộc địa của Pháp cho tới năm 1960 mới được độc lập. Nhưng từ đó trở đi Trung Phi bất ổn với các vụ tranh giành quyền bính nội bộ và đảo chánh liên tục. Năm 1962 ông David Dacko trở thành tổng thống và thành lập chế độ độc đảng. Năm 1965 đại tá Jean Bedel Bokassa đảo chánh lên nắm quyền. Năm 1972 ông Bokassa quyết định làm tổng thống mãn đời và tự phong mình là hoàng đế. Năm 1979 Pháp tổ chức đảo chánh lật đổ hoàng đế Bokassa và đưa ông Dacko trở lại nắm quyền. Nhưng năm 1981 ông André Kolinba đảo chánh lật đổ tổng thống Dacko, và lên cai trị cùng với hội đồng quân nhân.

Trong các cuộc bầu cử dân chủ năm 1993, ông Ange Félix Patassé đắc cử tổng thống. Tuy nhiên, năm 2003 ông bị tướng Francois Bozizé đảo chánh lật đổ đang khi công du nước ngoài. Tổng thống Bozizé đắc cử nhiệm kỳ hai năm 2011.

Nhưng tháng 11 năm 2012 một liên minh các nhóm nổi loạn đánh chiếm các thành phố miền bắc và miền trung Trung Phi. Đầu năm 2013 hai bên ký thỏa hiệp chia quyền. Nhưng các nhóm nổi loạn tiến chiếm thủ đô Bangui khiến tổng thống Bozizé phải chạy trốn. Ông Michel Djotosia lãnh tụ lực lượng phiến quân Seleka lên làm tổng thống và giải tán lực lượng Seleka, nhưng các phiến quân từ chối giao nộp vũ khí và tiếp tục các vụ cướp bóc và tàn sát thường dân. Các nhóm dân quân được thành lập trong các làng gọi là lực lượng chống Balaka đánh nhau với lực lượng Seleka. Ngày 18 tháng 2 năm 2014 Liên Hiệp QuỐc quyết định gửi 3,000 quân bảo hòa tới Trung Phi để sát cánh với 6,000 quân bảo hòa của Liên Hiệp Phi châu và 2,000 quân của Pháp, nhằm tái lập hòa bình cho Trung Phi và ngăn chặn các vụ tàn sát thường dân vô tội.

Sau đây chúng tôi xin gửi tới qúy vị và các bạn bài phỏng vấn ba vị lãnh đao tôn giáo đã dành cho nữ phóng viên Marie Duhamel của chương trình tiếng Pháp đài Vaticăng ngày 26-3-2014. Trước hết là Đức Cha Dieudonné Nzapalainga, Tổng Giám Mục Bangui.

Hỏi: Thưa Đức Cha, tình hìmh tại Trung Phi hiện nay ra sao?

Đáp: Dân chúng sợ hãi trốn chạy vào sống trong rừng, lạc lõng bơ vơ và kinh hoàng, đến độ họ không còn có khả năng diễn tả các cảm giác của họ nữa, hay họ bước đi ngoài đường và có nói đấy, nhưng xác tín rằng chẳng có ai lắng nghe họ cả. Nhân danh những người dân khốn khổ này tôi đã cùng với các vị lãnh đạo tôn giáo khác lựa chọn đi gặp gỡ các chính quyền, những người quyết định, để họ lắng nghe từ tiếng nói của chúng tôi nỗi âu lo, sự khổ đau, vất vả và bần cùng của người dân ngày càng đông đang khóc than vì tình hình tồi tệ của đất nước Trung Phi. Đó là ý nghĩa sứ mệnh của chúng tôi trước hàng lãnh đạo của thế giới này.

Hỏi: Tiếng than khóc này của dân chúng xin điều gì thưa Đức Cha?

Đáp: Tiếng khóc than này hiện nay xin có an ninh, vì nếu không có an ninh thì không thể trở lại trường học được, các nhà thương không thể tái sinh hoạt, không thể tái hoạt động trong lãnh vực nông nghiệp và cũng không thể tái sinh hoạt trong lãnh vực hành chánh: mọi sự đều tê liệt hoàn toàn như hiện nay. Không có an ninh: chúng tôi đã trông thấy các hậu qủa của nó! Mọi sự đều ở số không. Vì các lực lượng đối nghịnh nhau Seleka và Chống Balaka không thành công trong việc bảo vệ người dân Trung Phi. Chúng tôi đã lên tiếng yêu cầu cộng đồng quốc tế can thiệp để bảo vệ người dân Trung Phi. Trung Phi là thành phần của cộng đồng quốc tế, vì vậy cộng đồng quốc tế không thể đứng nhìn, trong sự thờ ơ hoàn toàn, đứng nhìn người dân chết như súc vật, không thể đứng nhìn như thế mà không nhúc nhích một ngón tay! Đã đến lúc hành động, để mai ngày lịch sử không kết án chúng ta bằng cách hỏi chúng ta rằng: ”Các bạn đã làm gì với các người anh em rồi?”

Hỏi: Đức Cha có thấy một câu trả lời tích cực nào từ Liên Hiệp Quốc hay từ các hàng lãnh đạo mà Đức Cha và các vị lãnh đạo tôn giáo Trung Phi đã gặp không?

Đáp: Chúng tôi đã có các câu trả lời giúp chúng tôi tin rằng ngày mai sẽ tốt đẹp hơn. Chính ông Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc đã nói ông đang chuẩn bị một Nghị quyết đi theo hướng của một sự can thiệp của lực lượng bảo hòa. Chúng tôi cũng đã gặp gỡ các giới lãnh đạo khác, và họ để cho chúng tôi hiểu rằng tất cả họ đều sẵn sàng liên minh với nhau để bắt đầu một hoạt động bảo hòa tại Trung Phi: càng sớm bao nhiều càng tốt bấy nhiêu, bởi vì mỗi ngày qua đi là lại có thêm người dân Trung Phi bị chết.

** Tiếp theo đây là một số nhận định của ông Oumar Kobine Layama, Imam Hồi giáo thủ đô Bangui, về tương quan giữa các tôn giáo trong tình hình khó khăn hiện nay của Trung Phi.

Hỏi: Thưa Imam, Imam có nhận xét gì về tình hình bạo lực tại Trung Phi hiện nay?

Đáp: Tín hữu phải duy trì lòng tin trong mọi hoàn cảnh, và trước mọi khó khăn chúng ta phải tự hỏi: ”Điều gì đã xảy ra vậy? Chúng ta đã làm gì? Có lẽ vì cung cách hành xử của chúng ta mà Thiên Chúa đã thử thách chúng ta, bằng cách làm cho chúng ta sống thảm cảnh này chăng? Hay có lẽ để dạy cho chúng ta một bài học để chúng ta học chấp nhận Thiên Chúa trong mọi hoàn cảnh chăng?” Lòng tin không chỉ có trong các lúc hạnh phúc, nhưng nó phải hiện hữu cả trong thời điểm của tai ương nữa. Vì thế, sứ điệp mà tôi muốn nhắn gửi đó là sứ điệp của lòng tin, nó có nghĩa là chịu đựng, kiên nhẫn và khoan nhượng làm thành tính cách và các nhân đức của một tín hữu đích thật. Tôi yêu cầu các anh em hồi khoan nhượng và kiên nhẫn, để Thiên Chúa đem lại hòa bình và đoàn kết xã hội cho chúng ta.

Hỏi: Đã có nhiều lời kêu gọi thánh chiến được đưa ra, nhất là từ nước Mali, Imam nghĩ sao?

Đáp: Vâng, tôi biết lời kêu gọi thánh chiến bên Mali trên các địa chỉ trên mạng, nhưng tôi tự hỏi: thánh chiến chống lại ai? Đó là câu hỏi tôi tự đặt ra: bảo vệ người hồi, nhưng mà chống lại ai? Bởi vì một cách nòng cốt các tín hữu hồi được các tín hữu kitô che chở trong các nhà thờ của họ. Đa số người hồi tìm thấy sự chở che nơi các tu sĩ kitô, tin lành và công giáo, nhưng đa số là bởi các tín hữu công giáo. Vậy thì ra đi ném bom ở đâu? Trong chính các nhà thờ đã che chở các người hồi giáo à? hay là sách nhiễu chính các tu sĩ kitô đã che chở các tín hữu hồi à? Thật sự đó không phải là Hồi giáo mà Thiên Chúa đã phó thác cho chúng ta. Thiên Chúa đã phó thác cho chúng ta một Hồi giáo hòa bình, khoan nhượng và nhẫn nhục, chịu đựng trong tất cả mọi thứ thách. Tôi nghĩ rằng các tín hữu hồi chúng tôi đang đứng trước các khó khăn, bởi vì chúng tôi đã lựa chọn sự thinh lặng đồng lõa; chúng tôi đã không bao giờ tố cáo, trong cộng đoàn của chúng tôi, các lạm dụng, các cung cách hành xử của các người anh em trong lực lượng Seleka. Chúng tôi đã không lãnh lấy trách nhiệm của chúng tôi. Và do đó, ngày nay chúng tôi gặt các hậu qủa mà Thiên Chúa đã gửi tới cho chúng tôi. Vì thế chúng tôi phải duyệt xét lại các thái độ của chúng tôi và hành động theo đó, xin lỗi Thiên Chúa về tất cả những điều liên quan tới chúng tôi, để Thiên Chúa giúp chúng tôi cùng với những người khác tái lập sự gắn bó xã hội. Nếu trong lúc này chúng tôi mất đi niềm tin của mình, thì tình trạng sống của chúng tôi sẽ không thể tốt đẹp hơn: chúng tôi có nguy cơ gặp hết thảm họa này tới thảm họa khác, mặc dù các cố gắng của cộng đồng quốc tế. Trước lương tâm của chúng tôi chính chúng tôi trước hết phải tu họp nhau lại, hòa giải với nhau, để trợ giúp cộng đồng quốc tế lo lắng cho tình trạng sống của chúng tôi.

** Sau cùng là một vài ý kiến của mục sư Nicolas Grékoyamé-Gbangou, Chủ tịch các Giáo Hội Tin Lành Trung Phi.

Hỏi: Thưa mục sư, tại Trung Phi có ”dân quân kitô” không?

Đáp: Đã không có dân quân kitô nào tại Trung Phi cả. Các người thuộc lực lượng chống Balaka là các băng đảng tự vệ tại các làng, và giờ đây vì bắt buộc họ phải biến thành dân quân, để chống lại và ngăn chặn lực lượng Seleka. Không thể nói tới ”dân quân kitô”.

Hỏi: Mục sư có thể trực tiếp nói chuyện với các người này không?

Đáp: Họ hiện diện ở đó rải rác trong khu phố của chúng tôi, và chúng tôi tìm cách làm cho họ trở về với lý trí của họ, để giúp họ hiểu rằng thật ra chỉ có dân chúng là bị thiệt thòi, và điều quan trọng là cần phải ngưng sự thù nghịch.

Hỏi: Tình hình thê thảm trên bình diện an ninh và thực phẩm. Mục sư cầu mong điều gì?

Đáp: Chúng tôi nghĩ rằng cộng đồng quốc tế sẽ lắng nghe tiếng gào thét đau đớn của chúng tôi và của những người đang ở trong các hoàn cảnh khó khăn, và vì thế mau chóng can thiệp để giải quyết tình trạng của những người di tản trong nội địa cũng như những người đã ở lại nhà nhưng sống trong tình trạng nguy hiểm. Chúng tôi nghĩ cần phải tái lập an ninh một cách nhanh chóng, với sự trợ giúp của Liên Hiệp Quốc và tất cả những người thiện chí. Những ai có nhiệm vụ trợ giúp các người gặp khó khăn phải nhanh chóng làm điều đó.

(RG 26-3-2014̣)

Linh Tiến Khải – Vatican Radio
 

Đức Thánh Cha duy trì ”Ngân hàng Vatican”

Đức Thánh Cha duy trì ”Ngân hàng Vatican”

VATICAN. ĐTC quyết định duy trì viện giáo vụ (IOR), quen gọi là ngân hàng Vatican, đồng thời chỉ thị viện này tiếp tục tuân hành các qui luật về sự minh bạch, về việc chống rửa tiền và tài trợ khủng bố.

Trong thông cáo công bố ngày 7-4-2014, ĐTC phê chuẩn một đề nghị về tương lai viện giáo vụ, tái khẳng định sứ mạng quan trọng của viện này để mưu ích cho Giáo Hội Công Giáo, Tòa Thánh và Quốc gia thành Vatican.

Đề nghị này do các cơ quan liên hệ của Tòa Thánh đệ trình. trong đó có hai Ủy ban Tòa Thánh nghiên cứu và đề ra hướng đi cho cơ cấu kinh tế và quản trị của Tòa Thánh, Ủy ban Hồng y về viện giáo vụ cũng như Hội đồng giám sát viện này.

ĐTC quyết định rằng Viện giáo vụ sẽ tiếp tục phục vụ một cách khôn ngoan thận trọng và cung cấp các dịch vụ tài chánh chuyên biệt cho Giáo Hội Công Giáo trên toàn thế giới; viện này cũng giúp ĐTC trong sứ mạng chủ chăn Giáo Hội hoàn vụ, hỗ trợ các tổ chức và những người cộng tác trong sứ vụ của ngài.

Các hoạt động của viện giáo vụ sẽ tiếp tục ở dưới sự giám sát thường xuyên của thẩm quyền thông tin tài chánh (AIF) là cơ quan thẩm quyền trong lãnh vực của Tòa Thánh và quốc gia thành Vatican”.

ĐTC cũng qui định rằng các vị hữu trách của Viện giáo vụ, đứng đầu là ông chủ tịch Ernst von Freyberg, người Đức, sẽ hoàn tất kế hoạch để đảm bảo cho viện này có thể chu toàn sứ mạng như thành phần của các cơ cấu mới về tài chánh của Tòa Thánh và Quốc gia thành Vatican. Kế hoạch này sẽ phải đệ trình Hồi giáo các Hồng y trợ giúp ĐGH, cũng như Hội đồng kinh tế gồm 8 Hồng Y và 7 chuyên gia giáo dân. (SD 7-4-2014)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

70 ngàn tín hữu đọc kinh Truyền Tin với Đức Thánh Cha ngày 6 tháng 4-2014

70 ngàn tín hữu đọc kinh Truyền Tin với Đức Thánh Cha ngày 6 tháng 4-2014

VATICAN. ĐTC Phanxicô mời gọi các tín hữu hãy ra khỏi ”ngôi mộ” tội lỗi với các nết xấu kiêu ngạo, ích kỷ của mình.

Ngài đưa ra lời nhắn nhủ trên đây trong buổi đọc kinh Truyền Tin trưa chúa nhật 6-4-2014 với khoảng 70 ngàn tín hữu tại Quảng trường Thánh Phêrô. Trong dịp này, ngài đã quảng diễn bài Phúc Âm thuật lại phép lạ Chúa Giêsu cho ông Lazaro đã chết 3 ngày được sống lại. Cuối buổi đọc kinh, ngài đã tặng sách Phúc Âm bỏ túi cho mọi người và khuyến khích họ mang theo người để thỉnh thoảng đọc một đoạn.

Bài huấn dụ của ĐTC

”Tin Mừng chúa nhật thứ 5 mùa chay này thuật lại cho chúng ta cuộc sống lại của ông Lazaro. Đây là tột đỉnh các dấu lạ Chúa Giêsu làm: đó là một cử chỉ quá lớn, quá hiển nhiên là của Thiên Chúa, nên không thể nào được các đại tư tế dung thứ; sau khi hay biết sự kiện ấy, họ quyết định giết Chúa Giêsu (Xc Ga 11,53). Khi Chúa Giêsu đến nơi thì Lazaro đã chết 3 ngày rồi, và Ngài nói với hai bà chị của ông là Marta và Maria, những lời được ghi khắc mãi mãi trong ký ức của cộng đoàn Kitô: ”Thầy là sự sống lại và là sự sống, ai tin Thầy thì dù có chết cũng sẽ sống; và ai sống mà tin Thầy, thì sẽ không phải chết đời đời” (Ga 11,25). Theo lời Chúa, chúng ta tin rằng sự sống của người tin Chúa Giêsu và tuân giữ giới răn của Người, sau khi chết sẽ được biến đổi thành một sự sống mới, sung mãn và bất tử. Như Chúa Giêsu đã sống lại với thân xác của Ngài, nhưng không trở lại đời sống trần thế, cả chúng ta cũng sẽ sống lại với thân xác của mình, thân xác sẽ được biến đổi trong thân thể vinh quang. Chúa đang đợi chúng ta nơi Chúa Cha, và sức mạnh của Chúa Thánh Linh, Đấng đã làm cho Ngài sống lại, cũng sẽ làm cho những người kết hiệp với Chúa được sống lại.

ĐTC nói tiếp:

”Đứng trước mộ đóng kín của người bạn, Chúa Giêsu kêu lớn tiếng: ”Lazaro, hãy ra ngoài!”. Người chết bước ra, chân tay còn quấn băng, và mặt quấn khăn liệm (vv.43-44). Tiếng kêu truyền lệnh này được gửi đến mỗi người; đó là tiếng nói của Đấng là chủ tể sự sống và Ngài muốn tất cả được sự sống dồi dào (Ga 10,10). Chúa Kitô không cam chịu những ngôi mộ mà chúng ta kiến tạo bằng những chọn lựa sự ác và chết chóc mà chúng ta đưa ra. Chúa mời gọi chúng ta, hầu như ngài truyền cho chúng ta hãy ra khỏi mộ mà tội lỗi dìm sâu chúng ta trong đó. Chúa quyết liệt gọi chúng ta hãy ra khỏi tăm tối của nhà tù giam hãm chúng ta, ra khỏi sự hài lòng về một cuộc sống giả tạo, ích kỷ, tầm thường.

”Hãy ra ngoài!” Chúng ta hãy để cho mình được nắm bắt bằng những lời mà Chúa Giêsu lập lại với mỗi người chúng ta hôm nay. Chúng ta hãy để cho mình được giải thoát khỏi những băng cuộn của tính kiêu ngạo. Sự sống lại của chúng ta bắt đầu từ đây, nghĩa là khi chúng ta quyết định vâng lệnh Chúa Giêsu, đi tới nơi ánh sáng và sự sống; khi những mặt nạ rơi khỏi mặt chúng ta và chúng ta tìm lại được can đảm của khuôn mặt nguyên thủy, khuôn mặt được dựng nên theo hình ảnh giống Thiên Chúa.

Cử chỉ của Chúa Giêsu làm cho Lazaro sống lại chúng ta chứng tỏ điều mà sức mạnh của ơn thánh Chúa có thể đi tới, điều mà cuộc hoán cải của chúng ta đi tới, đó là không có giới hạn cho lòng thương xót của Chúa được trao tặng cho hết mọi người! Chúa luôn sẵn sàng nâng bia mộ các tội lỗi chúng ta, những điều khiến chúng ta bị tách rời khỏi Chúa vốn là ánh sáng của những người sống.”

Chào thăm và kêu gọi
Sau khi ban phép lành cho mọi người, ĐTC nhắc lại rằng ngày thứ hai 7-4 này ở Ruanda có cuộc tưởng niệm 20 năm bắt đầu cuộc diệt chủng chống người Tutsi hồi năm 1994. ”Trong dịp này tôi muốn bày tỏ sự gần gũi hiền phụ với nhân dân Ruanda, khuyến khích họ, quyết tâm và trong hy vọng, hãy tiếp tục tiến trình hòa giải, đã bắt đầu biểu lộ thành quả, và hãy dấn thân tái thiết đất nước về mặt nhân sự và tinh thần. Tôi nói với tất cả mọi người: Anh chị em đừng sợ! Trên đá tảng Tin Mừng anh chị em hãy xây dựng xã hội của mình trên tình thương và hòa hợp, vì chỉ như thế mới tạo ra một nền hòa bình lâu bền. Tôi khẩn cầu sự bảo trợ của Đức Mẹ Kibeho trên toàn thể đất nước Ruanda yêu quí.”

ĐTC chào thăm tất cả các tín hữu hành hương hiện diện và nhắc đến kỷ niệm 5 năm động đất tại thành phố L'Aquila và vùng phụ cận ở miền trung Italia. Ngài nói:

”Trong lúc này chúng ta hãy hiệp với cộng đoàn ấy đã chịu nhiều đau khổ và đang còn chịu đau khổ, chiến đấu và hy vọng, với lòng tín thác nơi Thiên Chúa và Đức Mẹ. Chúng ta hãy cầu nguyện cho tất cả các nạn nhân: Ước gì họ sống mãi trong an bình của Chúa. Chúng ta hãy cầu nguyện cho hành trình phục sinh của dân thành L'Aquila; tình liên đới và tái sinh tinh thần là sức mạnh của tái thiết vật chất. Chúng ta cũng hãy cầu cho các nạn nhân virus Ebola bộc phát ở Guinea và các nước láng giềng. Xin Chúa nâng đỡ những cố gắng bài trừ khởi đầu dịch này và đảm bảo sự săn sóc và trợ giúp những người túng quẫn.

Tặng sách Phúc Âm
Và giờ đây tôi muốn làm một cử chỉ đơn sơ. Trong những chúa nhật trước đây, tôi đã đề nghị mang một sách Tin Mừng nhỏ,mang trong mình trong ngày, để có thể thường đọc. Và tôi đã nghĩ đến truyền thống kỳ cựu của Giáo Hội, trong mùa chay, giao Tin Mừng cho các dự tòng, cho những người đang chuẩn bị lãnh nhận bí tích rửa tội. Và hôm nay tôi muốn tặng anh chị em ở Quảng trường sách Tin Mừng bỏ túi này như một dấu chỉ. Sách sẽ được tặng miễn phí, hãy lấy và mang theo mình và đọc mỗi ngày, chính Chúa nói với anh chị em! và tôi nói với anh chị em: anh chị em đã nhận miễn phí thì hãy cho miễn phí. Đổi lại với món quà này, hãy làm một hành vi bác ái, một cử chỉ yêu thương nhưng không. Ngày nay ta có thể đọc Tin Mừng với bao nhiêu phương tiện kỹ thuật. Ta có thể mang theo mình sách Kinh Thánh toàn bộ trong một điện thoại di động, trong một tablet. Điều quan trọng là đọc Lời Chúa, với tất cả các phương tiện và đón nhận Lời Chúa với con tim rộng mở. Vì hạt giống tốt sinh hoa kết trái.”

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Đức Cha Giuse Trần Văn Toản, tân Giám Mục Phụ Tá Long Xuyên

Đức Cha Giuse Trần Văn Toản, tân Giám Mục Phụ Tá Long Xuyên

VATICAN. Trưa ngày 5-4-2014, Phòng Báo Chí Tòa Thánh thông báo: ĐTC Phanxicô đã bổ nhiệm Cha Giuse Trần Văn Toản, Giám đốc Trung Tâm mục vụ Giáo Phận Long Xuyên, Việt Nam, làm tân Giám Mục phụ tá của giáo phận này, và chỉ định cho ngài hiệu tòa Acalisso.

Đức Cha Giuse Trần Văn Toản sinh ngày 7-4-1955 tại tỉnh Quảng Nam, Giáo Phận Đà Nẵng. Song thân ngài gốc giáo phận Thái Bình, Bắc Việt. Theo học tại tiểu chủng viện Long Xuyên từ 1966 đến 1974, rồi tại Đại chủng viện ở địa phương từ 1974 đến 1981. Thầy Giuse Toản đã phục vụ 11 năm trong giáo xứ Môi Khôi, Thạnh Quới, Giáo Phận Long Xuyên, trong khi chờ đợi Nhà Nước cho phép chịu chức Linh Mục.

Thầy thụ phong Linh Mục ngày 16-1 năm 1992, thuộc giáo phận Long Xuyên.

Sau đó cha đã lần lượt đảm nhận các trách vụ sau đây:

– Từ 1992 đến 1999: Phó Xứ Môi Khôi, Láng Sen, hạt Vĩnh Thạnh.

– Từ 2000 đến 2005: theo học tại Đại học De La Salle, Manila, Philippines và đậu tiến sĩ về giáo dục.

– Từ năm 2006: cha làm Giám đốc Trung tâm mục vụ và phối hợp các hoạt động mục vụ và truyền giáo, Giám đốc tiểu chủng viện thánh Têrêsa, giảng dạy môn Truyền Giáo học tại Đại chủng viện liên giáo phận Cần Thơ.

Trong nhiệm vụ mới, Đức Cha Giuse Trần Văn Toản sẽ phụ giúp Đức Cha Giuse Trần Xuân Tiếu, 69 tuổi (1945), từ 11 năm nay là Giám Mục chính tòa Long Xuyên, sau 4 năm làm Giám Mục Phó với quyền kế vị tại giáo phận này.

Theo niên giám năm 2013 của Tòa Thánh, Giáo Phận Long Xuyên hiện có 224,157 tín hữu Công Giáo trên tổng số 4 triệu 783 ngàn dân cư, và có 135 giáo xứ, 56 họ lẻ, 222 linh mục giáo phận và 19 LM dòng, 97 đại chủng sinh, 61 tu huynh và 345 nữ tu. (SD 5-4-2014).

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Lưỡi hái hay chìa khóa vàng?

Lưỡi hái hay chìa khóa vàng?

Thánh Charles Borrômê sống ở Italia trên 400 năm trước đây (1538-1584). Khi còn trẻ, Borrômê đầy những tước vị, danh vọng. Nhưng một lúc Borrômê đã nhận ra ngày nào đó, Ngài sẽ phải bỏ tất cả. Ngài muốn ghi khắc điều đó, nên nhờ một họa sĩ nổi tiếng vẽ bức bích họa trong tư thất để diễn tả cái chết. Bức họa hoàn thành: họa sĩ trình bày thần chết theo lối cổ điển: một bộ xương người nắm chặt lưỡi hái trong tay.

Borrômê ngạc nhiên: “Tại sao họa sĩ hình dung cái chết bằng chiếc lưỡi hái?”

Họa sĩ đáp: “Vì thần chết cắt hái mọi cuộc sống. Cái chết hủy hoại mọi cuộc đời.”

“Đồng ý”, Borrômê nói, “nhưng thần chết cũng mở cửa Nước Trời nữa chứ. Cái chết là cửa ngõ vào đời sống tốt đẹp hơn. Vì thế, tôi đề nghị họa sĩ xóa chiếc lưỡi hái đi và đặt vào tay thần chết chiếc chìa khóa vàng.”

Phải, Chúa Kitô đã chết và đã sống lại. Thập giá là chìa khóa Nước Trời. Thần chết đã buông lưỡi hái và cầm lấy chiếc chìa khóa vàng. Cửa Trời đã mở ra cho con người vào Nhà Cha.

Anh chị em thân mến,

Chúa Giêsu đã tuyên bố: “Tôi là sự sống lại và là sự sống”. Lời tuyên bố của Chúa Giêsu trước khi làm cho Lagiarô sống lại là một trong những lời “lạ tai” nhất đối với người thời đại cũng như bao người ngoài Thiên Chúa giáo và những người không tin ngày nay. Nhưng đối với chúng ta, lời tuyên bố đó chính là nền tảng và hy vọng của cuộc đời.

Chúa Giêsu tuyên bố: “Tôi là sự sống. Ai đang sống mà tin tôi sẽ không bao giờ chết”. Chúa không nói đùa. Chúa không thể đùa với sự chết, vì nó hoàn toàn trái nghịch với Ngài. Là sự sống và đến để đem lại sự sống, Chúa không thể muốn sự chết cho con người. Phép lạ cho ông Lagiarô sống lại làm chứng rằng Ngài có quyền ban sự sống. Không phải sự sống như đám đông bao quanh Ngài thầm nghĩ – sống một thời gian rồi chết – cũng không phải sống lại ngày tận thế mà thôi, như Matta tin tưởng, mà là sống ngay bây giờ và sống đời đời, như Ngài đã nói: “Ai nghe lời Tôi và tin vào Đấng đã sai Tôi thì được sống đời đời và khỏi bị xét xử, nhưng được từ cõi chết mà qua cõi sống” (Ga 5,24).

Vậy là có một sự sống khác. Có một sự sống thật. Sự sống ấy đã bắt đầu từ bí tích Rửa Tội và tiếp tục mãi đến đời đời. Sự sống thật này không mất đi khi con người chết, nhưng chỉ mất đi bởi tội lỗi (Ga 8,21). Tội lỗi mới là cái chết thật. Và ngược lại, cái mà chúng ta coi là sống chưa hẳn là sống.

Chỉ khi nào sống bằng chính sự sống của Chúa thông ban cho, lúc đó mới là sống thật và bảo đảm sống đời đời ngan qua cái mà chúng ta gọi là chết.

Thánh Phaolô, trong bài đọc 2 hôm nay (Rm 8,8-11) đã nói đến tình trạng những người “sống mà như chết” và “chết mà vẫn sống” đó: “Ai sống theo xác thịt, tội lỗi, thì dù có sống cũng như chết; ngược lại, ai sống theo Thánh Thần thì dù có chết cũng vẫn sống; hơn nữa, một ngày kia, Đấng đã cho Đức Kitô phục sinh cũng sẽ cho thân xác của những kẻ sống theo Thánh Thần được sống lại”.

Thưa anh chị em,

Một người nhắm mắt xuôi tay từ giã cõi đời này được coi là chết. Nhưng nhiều người đang sống vẫn tự coi mình đã chết. Vì sống mà không có hy vọng, sống không tình thương, sống mà bị đời bạc đãi, phản bội, sống không ra con người, và nhất là sống trong tội ác. Sống như vậy, con người không cần đợi đến chết mới là chết. Chúng ta khóc thương người chết, nhưng biết đâu người sống lại chẳng đáng khóc thương hơn?

Bất cứ ai đã thoát khỏi tội lỗi và sống trong ân sủng thì đang sống trong sự sống đời đời rồi. Sự chết thể xác không làm gián đoạn được sự sống thân thiết với Thiên Chúa trong Nước Trời. Sự sống lại ngày tận thế, sự sống vinh quang đời sau đã bắt đầu ở hiện tại như cây trái đã bắt đầu trong hạt giống.

Từ Lời Chúa hôm nay, chúng ta mới có được một cái nhìn lạc quan hơn về thân phận con người chúng ta. Là tội nhận, là loài người phải chết, nhưng chúng ta đã được Con Thiên Chúa xuống thế làm người mạc khải tình yêu thương của Thiên Chúa cho chúng ta và Ngài đã thực hiện công việc cứu chuộc của Thiên Chúa giữa chúng ta và cho chúng ta. Cuối cùng, bằng chính cái chết và cuộc Phục Sinh của Ngài, Ngài đã giải thoát chúng ta khỏi chết đời đời và cho chúng ta được tham dự vào sự sống bất diệt của Thiên Chúa.

Như thế, đối với chúng ta, những người đã tin nhận Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, là Đấng Cứu Thế và đang cố gắng sống Lời Chúa dạy, thì sống hay chết, không thành vấn đề, mà chỉ có một thực tại duy nhất là sống, sống trong Chúa, sống cho Chúa, sống thuộc về Chúa. Cái chết chẳng qua chỉ là bước vượt qua từ đời sống trần gian đến đời sống vinh quang vĩnh hằng với Chúa Cha trên trời. Chính vì có sự liên tục giữa hai cuộc sống mà đời sống trần gian này mới có ý nghĩa và mới quan trọng, đòi hỏi mỗi người chúng ta phải sống làm sao cho cuộc sống trần gian này là khởi điểm, là bảo đảm, là dấu chứng cho cuộc sống mai sau.

Anh chị em thân mến,

Trước khi bước vào Tuần Thánh là đỉnh cao của mầu nhiệm Khổ Nạn Phục Sinh, Giáo Hội đọc bài Tin Mừng hôm này nhằm kêu gọi chúng ta tin vào Đấng là sự sống lại và là sự sống. Niềm tin ấy thắp sáng lên trong chúng ta một hy vọng mà trần gian này dù đen tối đến đâu cũng không thể nào dập tắt được. Đức tin không chuẩn chước cho chúng ta khỏi những tang chế đau thương, những chia ly mất mát hay sự sợ hãi khi đối diện với cái chết. Nhưng đức tin là chấp nhận hiểu và sống các biến cố hiện tại dưới ánh sáng của sự sống siêu việt mà Đức Giêsu Kitô, Đấng là nguồn cội sự sống đã loan báo.

“Tôi là sự sống lại và là sự sống. Ai tin Tôi sẽ không chết bao giờ”. “Matta, con có tin điều đó không?”, Chúa Giêsu hỏi.

“Vâng, thưa Thầy, con tin”. Matta nói lên niềm tin của chị cũng là niềm xác tín của chúng ta: “Con tin Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống đã đến trong thế gian”.

Chớ gì khi tuyên xưng: “Tôi trông đợi kẻ chết sống lại và sự sống đời sau”, trong kinh Tin Kính chúng ta sắp đọc, niềm tin ấy không chỉ được phát biểu cách máy móc ngoài môi miệng, nhưng sẽ trở nên sức mạnh giúp chúng ta đứng vững trước mọi đau khổ thử thách, ngay cả cái chết. Đồng thời niềm tin ấy thúc đẩy chúng ta đến với anh em, để góp phần mang lại sự sống dồi dào cho anh em.

Veritas Radio

Mở cửa mộ

Mở cửa mộ

Tai họa ngày 11 tháng 09 năm 2001 trên đất Mỹ đã trở thành một nỗi ám ảnh đối với mọi người. Trong phút chốc, hai tòa tháp chọc trời đổ sập xuống, trở thành ngôi mộ khổng lồ chôn vùi mấy ngàn sinh mạng. Ngôi mộ gieo tang thương. Ngôi mộ gieo kinh hoàng. Ngôi mộ làm rung chuyển thế giới.

Ngôi mộ không chỉ hiện hữu từ khi toà tháp đôi đổ xuống. Trước đó ngôi mộ đã hiện diện trong trái tim của những người khủng bố. Sau đó ngôi mộ vẫn phủ màn u ám trên cuộc sống thân nhân bạn bè.

Như thế, ngôi mộ không chỉ xây bằng gạch đá. Nó được xây bằng những lực lượng chết chóc như sự hận thù, sự áp bức, sự độc ác… Ngôi mộ không chỉ chôn vùi sự sống. Nó chôn vùi cả niềm tin, cả niềm hy vọng.

Nhưng hôm nay, Chúa Giêsu đã dõng dạc mở cửa mộ và truyền cho người chết chỗi dậy bước ra. Việc Chúa Giêsu mở cửa mộ cho Lagiarô mở ra những chân trời mới cho đời sống con người.

Khi mở cửa mộ, Người đã mở cánh cửa sự sống. Thông thường, ngôi mộ là vương quốc của tử thần. Cửa mộ là cửa mở vào thế giới chết chóc. Ai đã vào đó chẳng còn hy vọng thoát ra. Nhưng hôm nay, Chúa Giêsu đã mở cửa mộ để Lagiarô không phải bước vào sự chết nhưng bước vào sự sống. Khi mở cửa mộ, Người phá tan sào huyệt Thần Chết. Khi tháo những dải băng liệm cuốn quanh thân thể Lagiarô, Người giải phóng ông khỏi dây trói ràng buộc của tử thần.

Khi mở cửa mộ, Người đã mở cánh cửa niềm tin. Trước đó, niềm tin của Mácta chỉ là một niềm tin mơ hồ, chung chung của đa số người Do thái thời ấy. Nhưng sau khi thấy Lagiarô sống lại, niềm tin của bà trở nên cụ thể, sống động và vững vàng. Trước đó, nhiều người Do thái chưa tin vào Chúa Giêsu. Nhưng sau khi được chứng kiến Lagiarô từ cõi chết sống lại, họ không thể nào không tin. Tảng đá lấp cửa mồ tung ra cũng làm bật tung tảng đá nghi ngờ che lấp trái tim, đưa họ tới tin nhận Chúa là Thiên Chúa.

Khi mở cửa mộ, Người mở ra cánh cửa niềm vui. Chết chóc gieo tang tóc u buồn. Ngôi mộ bao giờ cũng gợi lên nỗi buồn. Buồn ly biệt. Buồn mất mát. Buồn thất bại. Cái buồn vốn hay lây. Nước mắt người thân dễ làm cay mắt ta. Nên Chúa Giêsu không ngăn được dòng lệ. Nhưng khi Lagiarô bước ra, cả một trời vui. Đám tang bỗng biến thành đám hội. Lời chia buồn đổi thành lời chúc mừng. Thiên Chúa đã biến tang tóc thành niềm vui. Niềm vui ấy trọn vẹn.

Khi mở cửa mộ, Chúa Giêsu mở cánh cửa hy vọng. Thiên Chúa đến biến đổi số phận con người. Con người không còn bị giam hãm trong thân phận hay chết, nhưng được thênh thang tự do trong cõi sống. Con người không sinh ra để chết đi nhưng để sống, sống mãi, vì Chúa là “sự sống”, “ai tin sẽ sống đời đời”. Con người không sinh ra để tàn lụi, nhưng để triển nở đến vô biên.

Trong mỗi người chúng ta có nhiều nấm mộ. Chúng ta bị giam hãm trong những nấm mộ tội lỗi, gian tham, ích kỷ, bất công, đam mê, ghen ghét hận thù, nghèo đói, thất học… Có những nấm mộ kiên cố, tự sức mình không thể phá nổi. Ta hãy xin Chúa đến mở những cửa mộ, lăn những tảng đá đè nặng đời ta, để ta được sự sống dồi dào của Chúa nuôi dưỡng. Đồng thời, ta cũng phải tiếp tay với Chúa, phá đi những nấm mộ vây bọc anh chị em chúng ta, để mọi người được sống và sống dồi dào như lòng Chúa mong ước, như định mệnh Chúa dành cho ta, những người con cái Chúa.

GỢI Ý CHIA SẺ

1) Tôi còn bị giam cầm trong những ngôi mộ nào?

2) Tôi còn muốn xây những ngôi mộ nào để chôn vùi anh em?

3) Hôm nay tôi phải làm gì để mở cửa mộ cho tôi và cho anh em?

4) Việc Chúa cho Lagiarô chết bốn ngày sống lại có ảnh hưởng gì trên tôi?

ĐTGM Ngô Quang Kiệt

“Ta là sự phục sinh của ngươi”

“Ta là sự phục sinh của ngươi”

Trong buổi nói chuyện với Matta, Chúa Giêsu đòi hỏi có một tiếng khẳng định quan hệ giữa chúng ta với Ngài:

Ta là sự sống lại và là sự sống. Ai tin Ta thì dầu có chết cũng sẽ sống; hễ ai sống và tin Ta sẽ không bao giờ chết. Con có tin như vậy không?

Dĩ nhiên chúng ta nhanh chóng trả lời “Có! Ngài là sự sống”. Nhưng sự sống nào? Chúng ta là những người đang sống. Ngài thêm gì vào sự sống của chúng ta? Thực ra, chúng ta là những sinh vật nhỏ bé bị cái chết rình rập. Chúa Giêsu muốn làm chúng ta trở thành những kẻ chiến thắng sự chết.

Trong trần thuật dài và bi thảm nói về sự sống lại của Lagiarô, ba cái chết được gợi ra và xen lẫn vào nhau: cái chết của Lagiarô, cái chết của Chúa Giêsu và cái chết của chúng ta. Trong khi đi tới nhà Lagiarô, Chúa Giêsu biết rằng cái chết cũng đang đe dọa Ngài: “Người Do thái muốn ném đá Thầy, sao Thầy còn quay trở lại đó nữa?”, các môn đệ nói với Ngài như thế.

Khi thấy Maria quá buồn khổ, Chúa Giêsu cũng bối rối cảm động. Ngài cảm thấy sâu sắc sự tuyệt vọng của thân phận con người, Ngài khóc bạn, Ngài thông hiệp với nỗi khổ của các chị của bạn và nghĩ đến cái chết của mình đang đến gần. Chưa bao giờ Ngài chìm đắm trong nỗi buồn khổ của chúng ta như thế. Những người chung quanh nói: “Kìa, Ngài yêu bạn mình biết bao!”

Nhưng họ ngạc nhiên, cả chúng ta nữa: “Chẳng phải Đấng quyền năng đã nói: Ta đến để mang lại sự sống cho các ngươi. Ta là sự sống lại và là sự sống?” hay sao?

Không phải Chúa Giêsu muốn làm cho chúng ta sống mạnh mẽ ở bên ngoài những khó nhọc, những thảm kịch của chúng ta và thậm chí cái chết nữa. Ở tận thâm sâu sự tuyệt vọng mà Chúa Giêsu chịu đựng cùng với chúng ta, Ngài sẽ cho chúng ta một dấu hiệu hùng hồn về cuộc sống vinh quang. Ngài đứng dậy và nói lớn lên: “Hỡi Lagiarô, hãy đi ra!”

Như mọi khi, đứng trước một dấu hiệu, phải thấy rõ rằng đó là một dấu hiệu, nghĩa là một lời mời gọi đi xa hơn nữa. Sự sống lại của Lagiarô là sự chiến thắng cái chết, nhưng là một sự chiến thắng tạm thời. Thế đã là nhiều rồi, một sự hy vọng điên rồ có thể nổi lên, cái chết không còn là phiến đá đè bẹp tất cả. Chúng ta đứng dậy để nghe mặc khải tối hậu vượt lên trên sự sống lại đơn giản:

Ta là sự phục sinh.

Đây là một điều khác hẳn! Chúa Giêsu không sống lại như Lagiarô. Sự sống lại của Chúa Giêsu là sự chiến thắng hoàn toàn trên sự chết, bước vào cuộc sống “vĩnh cửu”, không chỉ theo nghĩa vô tận, mà còn có nghĩa là một cuộc sống khác. Cuộc sống này chắc chắn vẫn là của con người, tuy vậy với những tính chất và chiều kích khác biệt.

Chúa Giêsu ban tặng cho chúng ta cuộc sống khác này. Ban tặng ngay tức khắc! Do đó mới có lời này: Ta đến để chúng được sống”. Và tất cả điều khẳng định lạ lùng này được dùng ở thì hiện tại: Ai nghe Ta thì được sống đời đời, người đó sẽ vượt qua cái chết mà đến sự sống (5,24). Chúa Giêsu đã là “sự sống lại” cho Ngài và sẽ là “sự sống lại” cho chúng ta. Đây là lời tuyên xưng đức tin khó khăn nhưng chúng ta vẫn làm. Điều chúng ta ít hiểu đó là Chúa Giêsu là sự phục sinh như thế nào.

Ngài là sự phục sinh bởi vì Ngài có thể thông truyền cuộc sống phục sinh của Ngài, cuộc sống “thuộc về sự sống lại” của Ngài cho chúng ta. Khi chúng ta uống nước ở nguồn mạch này, chúng ta bắt đầu hiện hữu như thể chúng ta sẽ hiện hữu đời đời, trong khi hiệp thông tình yêu với Thiên Chúa và với anh em.

Đây không phải là những điều dễ nhận thấy được. Chúng ta tin rằng Mẹ Maria và các thánh đã trải qua một cuộc sống yêu đương trong sáng ở dưới thế này để đi đến sự viên mãn vĩnh cửu. Nhưng chúng ta, chúng ta có lẽ sẽ sống cho đến cuối đời một cuộc sống pha lẫn cái chết, bởi vì chúng ta không thông hiệp với cuộc sống của Chúa Kitô cho đủ.

Tôi nhớ lại một nữ tu bị bệnh ung thư đã chăm chú nghe tôi nói về tác động hiện tại có thể có của sự sống lại. tôi nói với chị: mỗi lần sự can đảm và tình yêu chiến thắng tội lỗi di căn nơi chúng ta, thì chính sức mạnh của sự phục sinh của Chúa Kitô đã giành lấy con người phục sinh từ cái chết rồi vậy.

André Sève

Niềm tin tín thác

Niềm tin tín thác

Cuộc đời có đau khổ, có hạnh phúc. Đau khổ và hạnh phúc hoà quyện vào nhau làm thành một cuộc đời đầy thi vị và ý nghĩa. Tựa như chanh và đường có vị ngọt vị chua. Cuộc đời cũng có ngọt ngào của hạnh phúc và có cả chua cay của khổ đau. Thế nhưng, nhiều người lại sợ hoà những vị chua, vị cay vào kiếp người. Họ sợ đau khổ. Họ sợ bất hạnh. Họ sợ nghi nan. Đối với họ, Thiên Chúa là lá bùa hộ mệnh để đảm bảo cho họ một cuộc đời an vui hạnh phúc. Họ cho rằng, dấu chỉ sự hiện hữu của Thiên Chúa là đẩy lùi sự dữ ra khỏi cuộc đời của họ. Có Chúa thì không thể có bất hạnh, không thể có khổ đau.

Đó là điều mà Matta và Maria đã từng nghĩ như thế! Các bà đã trách Thầy "nếu Thầy ở đây thì em con không chết". Thế nhưng, Lagiaro đã chết! Phải chăng hai bà cũng ngầm trách Chúa, lúc đó Thầy ở đâu? Lúc mà Lagiaro đang ốm nặng? Lúc mà tình thế có thể được cứu vãn? Nếu Thầy đến nhanh hơn một chút thì có lẽ đã chẳng có thảm cảnh hôm nay.

Thực vậy, khi Chúa Giêsu đến nhà Matta và Maria thì Lagiaro đã chết và đã chôn cất được 4 ngày rồi. Một thời gian đủ để thân xác có thể bắt đầu tan rã để hoà trộn với bùn đất. Dầu vậy, ở đây chúng ta thấy đức tin trổi vượt của Matta, một đức tin không lay chuyển trước thử thách để có thể thưa lên với Chúa rằng: "nhưng bây giờ con biết. Bất cứ điều gì Thầy xin cùng Thiên Chúa, Người cũng sẽ ban cho". Quả là một đức tin tinh tuyền, tuyệt đối, không lay chuyển trước sóng gió cuộc đời. Matta là một con người thật chân thành, bộc trực. Bà trách Chúa nhưng lòng bà vẫn tin vào quyền năng của Chúa. Trong đau khổ bà vẫn không tuyệt vọng. Thế nên, Chúa đã nói cùng bà: "Em con sẽ sống lại". Matta ngạc nhiên hơn là cảm động. Bà không hiểu nổi và chỉ ú ớ tuyên xưng: "Con biết em con sẽ sống lại khi kẻ chết sống lại trong ngày sau hết". Lúc này Chúa Giê su làm nổ tung một bí ẩn, chiếu sáng đức tin và đòi hỏi một lòng tin tín thác: "Thầy là sự sống và là sự sống lại. Ai tin Thầy thì dù có chết cũng sẽ sống lại, chị có tin được như thế không? Matta thưa: "Thưa Thầy con tin. Con tin Ngài là Đức Kitô, Con Thiên Chúa, Đấng phải đến trong thế gian".

Cuối cùng, Chúa đã nói với Matta và Maria và những người đang đứng đó: "nếu tin, thì sẽ thấy vinh quang Thiên Chúa". Và rồi Ngài đã gọi Lagiaro trong mồ bước ra trước sự ngỡ ngàng, sửng sốt của gia đình Matta, của dân chúng làng Bêtania.

Kính thưa quý Ông Bà Anh Chị Em,

Trong cuộc sống đầy bon chen để kiếm miếng cơm manh áo, chúng ta thấy cuộc đời sao khổ quá! Nhất là trong thời kỳ gạo quế củi châu, lạm phát gia tăng, kiếm đồng tiền đổi lấy chén gạo bát canh đã khó lại càng khó khăn hơn. Rồi cuộc đời đâu mấy khi bình yên. Sóng gió tư bề. Đau khổ bệnh tật. Thiên tai lũ lụt, hạn hán hoành hành. Năm nay, Việt Nam còn hứng chịu cái lạnh kéo dài khiến cho hàng trăm con trâu bò bị chết cóng, hàng trăm ngàn hecta đất không thể trồng cấy đúng mùa. Dịch bệnh lan tràn. Người dân nghèo lại càng nghèo thêm. Cái lạnh của trời đất hoà với cái lạnh của tình người khiến cho cái đói, cái khổ cứ lận vào cả một kiếp người. Đặc biệt là trân động đất gây nên sóng thần tại Nhật Bản đã khiến hơn 10 ngàn người thiệt mạng, hàng trăm ngàn người không có nhà cửa và biết bao khu phố phồn thịnh nay chỉ còn là đống hoang tàn.

Đứng trước một viễn cảnh đầy những khổ đau như thế, nhiều người đã thầm trách Chúa, Chúa ở đâu sao để cuộc đời luôn giăng đầy những sầu đau? Chúa có nhìn thấy những bất hạnh mà con đang gặp phải trong cuộc đời vốn dĩ lắm nổi trôi lại nhiều phiền muộn này? Bài phúc âm hôm nay, mời gọi chúng ta đặt niềm tín thác vào Thiên Chúa. Thiên Chúa vẫn luôn quan tâm đến chúng ta. Người luôn đi bước trước để an ủi, nâng đỡ chúng ta. Người cũng đang mời gọi chúng ta đặt niềm tin vào Chúa như Matta để trong những biến cố đau thương nhất của cuộc đời chúng ta vẫn có thể thưa lên cùng Chúa. Con tin rằng: Chúa có thể làm những điều tốt đẹp nhất cho con.

Đau khổ là một sự dữ. Bất hạnh của cuộc đời là đêm tối của đức tin. Tuy nhiên qua những biến cố này, niềm tin lại toả sáng trong cuộc đời chúng ta. Chính trong những bất hạnh đó, chúng ta mới thấy con người thật nhỏ bé, tầm thường, chúng ta mới thấy sự bất toàn của kiếp người để đặt niềm tín thác vào Thiên Chúa. Con người luôn bất lực trước sự dữ, nhưng nếu Thiên Chúa muốn, Ngài có thể giải thoát chúng ta ngay bây giờ khỏi mọi điều sự dữ. Xin Chúa cho mỗi người chúng ta luôn biết đặt niềm tin tưởng cậy trông vào Chúa ngay giữa những gian nan của dòng đời và ngay giữa những bất hạnh của cuộc đời chúng ta. Amen.

* * *

Sống và chết là hai việc hoàn toàn mâu thuẫn, chống đối nhau. Tâm lý con người ai cũng muốn sống và không muốn chết: ham sống sợ chết là tâm lý tự nhiên của con người. Lòng ham sống thúc đẩy con người phải bám vào nhiều thứ, nhất là của cải, tiền bạc, chẳng hạn như ông nhà giàu trong Tin Mừng: thâu hoạch lúa thóc đầy tràn, ông phải xây thêm nhà kho, tự cho đời sống mình như thế thật là bảo đảm, tha hồ ăn chơi sung sướng. Nhưng Chúa bảo ông: thật là hạng khờ dại, vì đêm nay ông chết, của cải có bảo đảm được mạng sống ông không? Ông còn nắm giữ được của cải không? và quả thực ông đã vỡ mộng khi đối diện với cái chết. Mỗi ngày trên thế giới có khoảng 30 ngàn người chết, bao nhiêu người bị Chúa cho là "hạng khờ dại", vì lúc chết, tay buông xuông, người ta không còn có thể bám vào một vật gì cả: "Vua Ngô ba mươi sáu tấn vàng, chết xuống âm phủ chẳng mang được gì". "Trăm năm nào có gì đâu, chẳng qua một nấm cỏ khâu xanh rì". "Ba vạn sáu ngàn ngày là mấy, cảnh phù du trông thấy cũng nực cười".

Nếu nghèo là không có, hoặc có rồi mà mất đi, như không có tiền bạc là nghèo vật chất, mồ côi cha mẹ là nghèo tình thương, dốt nát là nghèo về trí thức, bệnh tật là nghèo về sức khỏe, thì cái chết đưa người ta đến cái nghèo cùng cực. Người khoẻ mạnh hay còn trẻ chưa cảm thấy rõ điều này. Nhưng chúng ta cũng biết cái chết nói lên sự bất lực của y khoa, của mọi thứ khả năng tự vệ trên cõi đời này: quyền hành nhất trần gian cũng chết, giàu có nhất nhân loại cũng chết, sung sướng tất cả đời cũng chết. Mọi người đều bó tay trước cái chết.

Trước định luật nghiêm khắc ấy, con người lo âu, bồn chồn, và người ta cố níu kéo sự sống lâu chừng nào hay chừng ấy, dẫu vẫn biết là bất lực. Bởi thế mới có những quảng cáo về thuốc "trường sinh" hay "bất tử". Có một câu chuyện như sau: Thời chiến quốc, có một người đem dâng vua nước Sở một vị thuốc "bất tử". Người ấy mang vị thuốc này vào hoàng cung, viên quan canh cửa quát hỏi: "Vị thuốc này có ăn được không?". Người ấy đáp: "Dạ, ăn được", tức thì viên quan giật lấy vị thuốc và ăn. Truyện đến tai vua, vua truyền bắt viên quan đó đem giết. Viên quan xin vào gặp vua và kêu van rằng: "Tâu hoàng thượng, hạ thần đã hỏi người đem dâng thuốc, người ấy nói: ăn được, nên hạ thần mới dám ăn, thế là hạ thần vô tội mà lỗi ở người dâng thuốc, hơn nữa, người đem thuốc nói là thuốc bất tử, ăn vào thì không chết nữa, thế mà hạ thần mới ăn, đã sắp phải chết. Vậy là thuốc tử chứ sao gọi là bất tử được? Hoàng thượng giết hạ thần thực là bắt tội một người vô tội, trong khi thiên hạ dối gạt hoàng thượng mà hoàng thượng vẫn tin". Nhà vua nghe nói có lý nên tha tội chết cho viên quan ấy.

Hiện nay các nhà bác học đang cố tìm ra một thứ thuốc làm cho con người khỏi chết. Được chăng? Chúng ta cứ hy vọng. Đó là vấn đề còn trong giả thuyết, nhưng theo Kinh Thánh thì không thể nào có được, vì Chúa đã phán với ông bà nguyên tổ: "ngươi sẽ trở về bụi đất". Từ đó, chết là một định luật Chúa ra cho loài người, loài người không thể phá nổi định luật này. Nói khác đi, con người đã mắc phải một chứng bệnh nan y không thể nào chữa khỏi, đó là bệnh chết. Cái án chết áp dụng cho hết mọi người: hữu sinh hữu tử: có sinh có chết là một điều tất yếu.

Nhưng qua cái chết và sự sống lại của Ngài, Chúa Giêsu đã loan báo cho con người một tin mừng: cái chết không còn là một ngõ cụt hay tận cùng nữa mà là cửa ngõ dẫn vào một cuộc sống mới, một cuộc sống trong Đức Kitô và cùng với Đức Kitô trong cõi vĩnh hằng. Vì thế, thánh Tê-rê-xa Hài Đồng Giêsu đã nói: "Nếu một mai bạn thấy tôi nằm chết, bạn đừng buồn, vì chính Cha chung của chúng ta là Thiên Chúa đã đến đón tôi đi, đơn giản vậy thôi". Hoặc như thánh Phaolô đã nói: "Đối với tôi, sống là Đức Kitô và chết là một mối lợi". Làm thế nào để được như thế? Chúng ta hãy sống theo câu nói của một bà mẹ kia đã khuyên bảo đứa con trai sắp bước vào đời: "Con ơi, ngày con mở mắt chào đời, mọi người đều tươi cười, còn con thì khóc. Con hãy sống thế nào đề ngày cuối đời, một mình con tươi cười, mà mọi người lại tràn lệ".

LM Tạ Duy Tuyền

Đức Thánh Cha cổ võ Giáo Hội Ruanda tiếp tục hòa giải

Đức Thánh Cha cổ võ Giáo Hội Ruanda tiếp tục hòa giải

VATICAN. ĐTC khuyến khích Giáo Hội tại Ruanda tiếp tục dấn thân trong nỗ lực hòa giải và chữa lành vết thương, 20 năm sau cuộc diệt chủng tại nước này.

Cuộc diệt chủng xảy ra hồi năm 1994 và xung đột giữa hai bộ tộc Hutu và Tutsi tại Ruanda đã làm cho khoảng 800 ngàn người thiệt mạng, 4 GM và hàng trăm LM bị giết.

Ngỏ lời trong buổi tiếp kiến sáng hôm 3-4-2014 dành cho các GM thuộc 8 giáo phận ở Ruanda, ĐTC nói: ”20 năm sau các biến cố bi thảm ấy, sự hòa giải và chữa lành các vết thương chắc chắn vẫn là ưu tiên của Giáo Hội tại Ruanda. Tôi khuyến khích anh em kiên trì trong sự dấn thân mà anh em đã đảm nhận qua nhiều sáng kiến. Tha thứ những xúc phạm và hòa giải chân thực có vẻ là điều không thể có được dưới con mắt người phàm sau bao nhiêu đau khổ, nhưng đó là một hồng ân có thể nhận được từ Chúa Kitô, nhờ đời sống đức tin và kinh nguyện, cho dù con đường còn dài và đòi phải kiên nhẫn, tôn trọng lẫn nhau và đối thoại”.

Trong cùng ý hướng trên đây, ĐTC khuyến khích các GM và Giáo Hội tại Ruanda hãy tăng cường sự đoàn kết và hiệp nhất với nhau. Ngài nói: ”Điều quan trọng là vượt thắng những thành kiến và chia rẽ bộ tộc, làm sao để Giáo Hội có cùng một tiếng nói duy nhất, biểu lộ sự hiệp nhất và tái khẳng định sự hiệp thông với Giáo Hội hoàn vũ và Người Kế vị thánh Phêrô”.

ĐTC kêu gọi tăng cường những quan hệ tín nhiệm giữa Giáo Hội và Nhà Nước. Việc cử hành kỷ niệm 50 năm thiết lập quan hệ ngoại giao giữa Tòa Thánh và Ruanda vào ngày 6-6 tới đây có thể là cơ hội để nhắc lại những thành quả tốt đẹp mà mọi người có thể mong đợi từ những quan hệ ấy, để mưu ích cho nhân dân Ruanda.

Về phương diện mục vụ, ĐTC nhắn nhủ các GM Ruanda đặc biệt quan tâm đến việc giáo dục giới trẻ, nhất là giáo dục các trẻ em và người trẻ về các giá trị Tin Mừng, qua việc học hỏi Lời Chúa. Ngài cũng đề cao vai trò của giáo dân, các giáo lý viên, nhất là những người dấn thân trong các cộng đoàn Giáo Hội cơ bản.

ĐTC nói thêm rằng ”Cần có một sự cảnh giác đặc biệt đối với gia đình, giữa lúc gia đình ngày nay đang bị đe dọa rất nhiều do tiến trình tục hóa, và tại Ruanda, bao nhiêu gia đình đã bị chia rẽ và gộp lại. Các gia đình ấy đang cần sự quan tâm săn sóc của anh em”.

Sau cùng, ĐTC cám ơn các LM đã dấn thân quảng đại trong sứ vụ. Ngài nói: ”Tôi khuyến khích anh em hãy không ngừng kiện toàn việc huấn luyện cho các chủng sinh về mặt nhân bản, trí thức và tu đức. Ước gì họ luôn có những nhà đào tạo là những LM gương mẫu và vui sống chu toàn sứ vụ LM. Anh em hãy cố gắng gần gũi với các LM của mình, lắng nghe và sẵn sàng đối với họ. Trách vụ của các linh mục thật khó khăn và họ cần sự đích thân khích lệ của anh em”.

Ruanda rộng 26,338 cây số vuông với 10 triệu 500 ngàn dân, gồm 3 bộ tộc Hutu, Tutsi và Twa. 80% là tín hữu Kitô trong đó 4,9 triệu là tín hữu Công Giáo (SD 3-4-2014).

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Chuẩn bị lễ Phong Thánh cho 2 Đức Giáo Hoàng 27-4-2014

Chuẩn bị lễ Phong Thánh cho 2 Đức Giáo Hoàng 27-4-2014

ROMA. Chính quyền và các giới chức hữu trách tại thành phố Roma đã đề ra những kế hoạch cụ thể để chuẩn bị lễ phong hiển thánh cho hai vị Giáo Hoàng Gioan 23 và Gioan Phaolô 2 vào ngày Chúa Nhật 27-4 tới đây.

Hôm 1 tháng 4-2014, đô trưởng Roma, bác sĩ Ignazio Marino, cùng các quan chức khác của thành phố, đã mở cuộc họp báo để trình bày kế hoạch và các biện pháp như:

– Cấm xe di chuyển trên đại lộ Fori Imperiali từ hý trường Colosseo tới Quảng trường Venezia. Đường này chỉ dành cho người đi bộ mà thôi, từ 7 giờ chiều thứ sáu Tuần Thánh 18-4 đến hết ngày 4-5 tới đây. 3 màn hình khổng lồ sẽ được bố trí tại đây để các tín hữu và du khách để có thể theo dõi buổi đi Đàng Thánh Giá trọng thể ĐTC Phanxicô cử hành tối thứ sáu Tuần Thánh và lễ Phong thánh 9 ngày sau đó, 27-4.

– Từ ngày 26 đến 28-4, sở vệ sinh thành phố sẽ đặt hơn 1 ngàn nhà vệ sinh hóa học gần Vatican, dọc theo đại lộ Fori Imperiali và các địa điểm khác có đông người tụ tập.

– Cả hai đường xe điện ngầm A và B của thành phố sẽ hoạt động không ngừng từ sáng sớm ngày 26-4 đến sau nửa đêm thứ hai 28-4. Đường xe bus số 64 nối liền nhà ga trung ương Termini đến Vatican cũng sẽ hoạt động 24 tiếng đồng hồ vào cuối tuần lễ phong thánh: 26 và 27-4. Ngoài ra có các xe bus con thoi chở khách từ các bãi đậu xe bus đến Vatican. Chính quyền chỉ cấp giấy phép cho 4,326 xe bus (pullman) tức là khoảng 216 ngàn người, được vào trong thành phố Roma. Trong những ngày 25, 26,27-4-2014 chỉ những xe pullman với giấy phép G (Grande Evento, Biến Cố Lớn) mới được vào thành phố, và phí tổn xin giấy phép này là 50 Euro.

– Có 2,630 người thiện nguyện thuộc sở bảo vệ dân chúng sẽ được bố trí trong hai ngày 26 và 27-4 để giúp kiểm soát các đám đông.

– 4 triệu chai nước sẽ được phân phát miễn phí cho các khách hành hương trong ngày 27-4.

– 4 ngàn cảnh sát lưu thông sẽ làm việc vào cuối tuần lễ Phong thánh, và 6,400 cảnh sát thành phố sẽ luân phiên nhau làm việc theo ca từ 13 đến 28-4, từ là từ tuần thánh đến lễ Phục Sinh và lễ phong thánh.

– Các bệnh xá ”dã chiến” sẽ được thiết lập gần Vatican, cùng với 13 trạm cứu cấp, do 81 toán cứu thương đảm trách; 106 xe cứu thương sẽ ở trong tình trạng ứng trực. Thành phố cũng dựng 5 lều ”các bà mẹ” để săn sóc và thay tã cho các hài nhi.

– Các du khách và tín hữu có thể mua thẻ ”Roma pass 48 hours), một thẻ giá 28 Euro giá trị trong 2 ngày, để di chuyển vô giới hạn trên xe metro, bus và tram, cũng như vào các viện bảo tàng, các khu vực khảo cổ,v.v.
– Mặt khác, ban nghi lễ phụng vụ của ĐTC cho biết đã phân phát hết 700 vé cho các linh mục cho rước lễ trong lễ Phong thánh sáng ngày 27-4, và 5 ngàn vé cho các giáo sĩ tại khu vực riêng ở Quảng trường thánh Phêrô trong đại lễ này đã được phân phát hết. Các giáo dân không cần vé để vào dự lễ.

– Ngoài đại lộ Fori Imperiali, một số nơi khác cũng được bố trí màn hình khổng lồ như đường Hòa Giải, Quảng trường Nhân Dân (Piazza del Popolo) và Quảng trường Phục Hưng (Piazza di Risorgimento) gần Vatican để các tín hữu có thể tham dự lễ phong thánh.

– Từ 21 giờ tối thứ bẩy 26-4-2014 là đêm thức trắng: nhiều nhà thờ ở trung tâm Roma mở cửa để các tín hữu cầu nguyện và xưng tội. Tại 11 thánh đường có linh hoạt phụng vụ bằng các thứ tiếng: Ban lan, Ý, Anh, Tây Ban Nha và Pháp.

– Để các tín hữu có thể theo dõi đại biến cố phong thánh, một Website chính thức được thiết lập: www.2papisanti.org và bằng 5 thứ tiếng: Ý, Anh, Pháp, Tây Ban Nha và Ba Lan.

– Trong những ngày tới, có thể tải Application miễn phí tựa đề ”Santo Subito” dạng Android cũng như IOS (bằng các thứ tiếng Ý, Anh, Tây Ban Nha và Ba Lan), qua đó có cung cấp những thông tin về việc tổ chức và tin tức về việc phong thánh cũng như tải các tài liệu dự kiến cho lễ phong thánh.

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Raio

Đức Thánh Cha diễn giải về bí tích Hôn Phối

Đức Thánh Cha diễn giải về bí tích Hôn Phối

VATICAN. Trong tuổi tiếp kiến chung 60 ngàn tín hữu hành hương sáng thứ tư, 2 tháng 4-2014, tại Quảng trường Thánh Phêô, ĐTC Phanxicô đã diễn giải về bí tích Hôn Phối và kêu gọi tái lập việc đọc kinh trong gia đình.

Trong số hàng trăm nhóm hiện diện, đông đảo nhất là các nhóm đến từ Italia, gồm các học sinh, các giáo xứ, và hiệp hội, đặc biệt có 90 quân nhân thuộc Lữ Đoàn 5 Hiến Binh ở Bologna, trung Italia, 300 sĩ quan và thủy quân thuộc Hàng không Mẫu Hạm Cavour, và 200 cảnh sát quốc gia từ thành Ravenna và Rimini. Từ nước ngoài, đông nhất 35 nhóm từ Cộng hòa Liên bang Đức, 13 nhóm từ Áo và 6 nhóm từ Thụy Sĩ. Đến từ nhiều nước khác nhau có 30 tham dự viên cuộc hội thảo do Hội đồng Tòa Thánh về gia đình tổ chức, 50 nữ tu thuộc tổng tu nghi Dòng Nữ Tử Đức Bà Thánh Tâm, và 45 nữ tu thuộc dòng Con Đức Mẹ Phù Hộ.

Tuy giờ chính thức được ấn định cho buổi tiếp kiến là 10 giờ rưỡi, nhưng lúc 9 giờ 45, ĐTC đã xuất hiện tại quảng trường, trên chiếc xe díp mui trần màu trắng, tiến qua các lối đi để chào thăm các tín hữu, hôn các em bé do các nhân viên an ninh bế lên ngài.

Khi ĐTC lên tới lễ đài, mọi người đã nghe các LM đọc bằng 5 thứ tiếng đoạn thứ 5 thư thánh Phaolô gửi tín hữu thành Ephêso dạy các đôi vợ chồng hãy yêu thương nhau như chính Chúa Giêsu đã yêu thương và hiến mình vì Hội Thánh.

Bài huấn giáo của ĐTC

Trong bài huấn giáo sau phần tôn vinh Lời Chúa, ĐTC đã trình bày về Bí tích Hôn phối là bài chót trong loại giáo lý về các bí tích. Ngài nói:

”Anh chị em thân mến, mến chào anh chị em,

Hôm nay chúng ta nói về bí tích hôn phối và kết thúc loạt bài giáo lý về các bí tích. Bí tích hôn phối dẫn chúng ta đến trọng tâm ý định của Thiên Chúa, là một ý định giao ước với dân Ngài, với tất cả chúng ta, một ý định hiệp thông. Ở đầu sách Sáng Thế, cuốn sách đầu tiên trong bộ Kinh Thánh, khi kết thúc trình thuật về sự sáng tạo, có nói rằng: ”Thiên Chúa đã tạo dựng con người theo hình giảng của Ngài; theo hình ảnh Thiên Chúa Ngài tạo dựng họ: Ngài sáng tạo họ có nam có nữ.. vì thế người nam sẽ bỏ cha mẹ và kết hiệp với vợ mình, và cả hai nên một thân thể” (St 1,27; 2,24). Hình ảnh Thiên Chúa là một đôi hôn nhân, là người nam và người nữ, tất cả hai, chứ không phải chỉ có người nam, và người nữ. Đó là hình ảnh Thiên Chúa, và tình yêu, giao ước của Thiên Chúa với chúng ta, được tượng trưng trong giao ước giữa người nam và người nữ. Đây là một điều thật là đẹp! Chúng ta được tạo thành để yêu thương, như phản ánh Thiên Chúa và tình thương của Chúa. Và trong sự kết hiệp vợ chồng người nam và người nữ thực hiện ơn gọi này qua dấu chỉ hỗ tương và cuộc sống hiệp thông trọn vẹn và chung kết. Khi một người nam và một người nữ cử hành bí tích hôn phối, thì có thể nói Thiên Chúa phản ánh trên họ: Ngài in trên họ những đường nét của Ngài và đặc tính không thể xóa bỏ của tình yêu Ngài. Hôn nhân là hình ảnh tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta. Thật là đẹp! Cả Thiên Chúa cũng là hiệp thông. Ba Ngôi: Cha, Con và Thánh Linh từ đời đời và mãi mãi trong trong sự hiệp nhất hoàn hảo. Và điều này chính là mầu nhiệm Hôn Phối: đó là Thiên Chúa làm cho đôi vợ chồng trở nên một cuộc sống duy nhất – Kinh Thánh nói là ”một thân thể duy nhất” – theo hình ảnh của tình yêu Thiên Chúa, trong dấu chỉ hiệp thông bắt nguồn từ nơi Thiên Chúa và kín múc sức mạnh từ đó.”

Tiếp tục bài giáo lý, ĐTC nói:

”Thánh Phaolô, trong thư gửi tín hữu thành Ephêsô, làm nổi bật điều này là: nơi các đôi vợ chồng Kitô có phản ánh mầu nhiệm mà Thánh Tông Đồ định nghĩa là ”cao cả”, có nghĩa là tương quan được Chúa Kitô thiết lập với Giáo Hội, một tương quan có đặc tính hôn nhân tuyệt vời (Xc Ep 5,21-33). Điều này có nghĩa là Hôn nhân đáp ứng một ơn gọi đặc thù và phải được coi là một sự thánh hiến (Xc Vui Mừng và Hy Vọng, 48); Familiaris consortio, 56). Thực vậy, do bí tích Hôn Phối, các đôi vợ chồng được ủy thác một sứ mạng riêng và đích thực, để từ những điều đơn sơ, bình thường, họ có thể hữu hình hóa tình thương mà Chúa Kitô yêu thương Giáo Hội của Ngài, tiếp tục hiến thân cho Giáo Hội, trong sự trung tín và phục vụ”.

”Thực là một ý định tuyệt vời những gì ở trong bí tích Hôn Phối! Và nó được thể hiện trong sự đơn sơ và cả trong sự dòn mỏng của thân phận con người. Chúng ta biết rõ đời sống vợ chồng có bao nhiêu khó khăn và thử thách.. Điều quan trọng là giữ cho mối liên hệ với Thiên Chúa được luôn sinh động, mối liên hệ này là nền tảng mối liên hệ vợ chồng. Mối liên hệ thực sự luôn luôn là liên hệ với Chúa. Khi gia đình cầu nguyện thì mối liên hệ ấy được duy trì. Khi người chồng cầu nguyện cho vợ, và người vợ cầu cho chồng, mối liên hệ ấy trở nên bền chặt hơn. Hai người cầu cho nhau. Và quả thực là trong đời sống gia đình có bao nhiêu là khó khăn: công ăn việc làm, thiếu tiền, con cái có vấn đề.. bao nhiêu là khó khăn. Và bao nhiêu lần vợ chồng căng thẳng, cãi nhau. Trong hôn nhân vẫn có những vụ cãi nhau, và nhiều khi bát đĩa bay. Anh chị em cười, nhưng đó là sự thật. Nhưng chúng ta không nên buồn vì điều này. Thân phận con người là như thế. Nhưng bí quyết là tình yêu mạnh hơn những lúc cãi nhau. Và vì thế tôi khuyên các đôi vợ chồng, đừng bao giờ kết thúc một ngày mà không làm hòa với nhau, nếu đã cãi nhau. Để làm hòa với nhau không cần phải gọi LHQ, chỉ cần một cử chỉ nhỏ, một cái vuốt âu yến. Và ngày mai lại bắt đầu. Đó là cuộc sống: tiến bước như thế trong can đảm, can đảm muốn sống chung với nhau. Đời sống hôn nhân là điều rất đẹp và chúng ta phải luôn giữ gìn, bảo vệ con cái.”

”Một vài lần tôi đã nói ở đây, có 3 lời giúp cho đời sống vợ chồng. Tôi không biết anh chị em có nhớ 3 lời ấy không: ba lời phải luôn nói trong gia đình: xin vui lòng, cám ơn, và xin lỗi. Xin vui lòng: để không xen mình trong đời sống vợ chồng; cám ơn người phối ngẫu của mình, cám ơn điều mà anh, em đã làm. Và vì tất cả chúng ta đều có sai lỗi, nên cần nói lời này: xin lỗi. Với 3 lời này, với kinh nguyện của vợ chồng cho nhau, và vợ chồng luôn làm hòa với nhau trước khi kết thúc một ngày, hôn nhân sẽ tiếp tục tiến bước. Xin Chúa chúc lành cho anh chị em!

Chào thăm

Sau bài giáo lý trên đây bằng tiếng Ý, các linh mục thuộc các cơ quan Tòa Thánh đã lần lượt tóm tắt bài giáo lý trong các ngôn ngữ khác nhau: Pháp, Anh, Đức, Bồ đào nha, Arập, Ba Lan. Các vị cũng dịch những lời chào của ĐTC gửi đến các nhóm tín hữu hiện diện. Chẳng hạn bằng tiếng Pháp ngài đặc biệt chào thăm các tu huynh tu viện đại kết Taizé với thầy Alois, các thành viên hiệp hội các ký giả tôn giáo.

Với các tín hữu nói tiếng Anh, ĐTC nhắc đến nhiều người hành hương đến từ Anh quốc, xứ Galles, Đan Mạch, Na Uy, Malta Nhật bản, Canada và Hoa Kỳ. Ngài cũng nói: ”Tôi vui mừng đón tiếp Liên hiệp Công Giáo trợ giúp y tế tại Hoa Kỳ và các linh mục tham dự khóa thường huấn về thần học tại Trường Bắc Mỹ ở Roma này”.

Với các tín hữu nói tiếng Ba Lan, ngài nhắc đến ngày giỗ lần thứ 9 của Chân phước Giáo Hoàng Gioan Phaolô 2 ngày 2-4 năm 2005 và nói: ”Chúng ta nghĩ đến lễ phong hiển thánh cho Người mà chúng ta sẽ cử hành vào cuối tháng 4 này. Ước gì sự chờ đợi biến cố này là cơ hội cho chúng ta chuẩn bị tinh thần và làm sinh động lại gia sản đức tin mà Người để lại. Noi gương Chúa Kitô, Đức Gioan Phaolô 2 là người rao giảng Lời Chúa không biết mệt mỏi cho thế giới, rao giảng chân lý và sự thiện. Người đã làm điều thiện kể cả với những đau khổ của Người. Đó chính là giáo huấn bằng cuộc sống của Người và Dân Chúa đã đáp lại với tất cả lòng yêu mến và quí chuộc. Ước gì sự chuyển cầu của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô 2 củng cố nơi chúng ta đức tin, niềm hy vọng, và lòng mến. Ước gì phép lành Tòa Thánh của tôi tháp tùng anh chị em trong trời gian chuẩn bị này.”

Sau cùng, ĐTC chào đông đảo các nhóm tiếng Ý, các nữ tu tham dự tổng tu nghị của dòng, các tín hữu thuộc các giáo xứ và hội đoàn khác nhau, cả hiệp hội những bệnh nhân bị xơ cứng. Ngài nhăc đến nhóm Jemo Nnanzi ở thành phố L'Aquila trung Italia, bị động đất cách đây 5 năm. Ngài cũng ngỏ lời với các bạn trẻ, cac bệnh nhân và các đôi vợ chồng mới cưới, và nhắc đến lễ kính thánh Phanxicô di Paola. Ngài nói: Hỡi những người trẻ thân mến, đặc biệt là những người thuộc làng thiếu niên Maddaloni, các con hãy học nơi thánh Phaolô di Paola lòng khiêm nhường là sức mạnh chứ không phải là một sự yếu đuối. Hỡi anh chị em bệnh nhân, đừng mệt mỏi trong việc xin Chúa giúp đỡ. Và anh chị em tân hôn, hãy thi đua nhau trong việc quý chuộng và giúp đỡ nhau”.

ĐTC đã cùng mọi người hát kinh Lạy Cha và ban phép lành cho tất cả.

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio