Đức Thánh Cha Phanxicô: Cộng đoàn Kitô giáo là một cộng đoàn ra đi

Đức Thánh Cha Phanxicô: Cộng đoàn Kitô giáo là một cộng đoàn ra đi

VATICAN. Trưa Chúa Nhật ngày 1 tháng 6, gần một trăm ngàn tín hữu hành hương đã về Quảng Trường Thánh Phêrô để nghe bài giáo huấn của Đức Thánh Cha, đọc kinh Lạy Nữ Vương Thiên Đàng và nhận phép lành từ ngài.

Trong bài chia sẻ, Đức Thánh Cha đã triển khai ý tưởng về ngy lễ Chúa Thăng Thiên. Ngài nhấn mạnh đến việc “ra đi” của người môn đệ Chúa. Đây là lệnh truyền chứ không phải là chọn lựa. Mọi người, mọi cộng đoàn, mọi dòng tu đều phải ra đi để làm chứng cho Chúa. Ngoài ra, Đức Thánh Cha cũng triển khai một ý tưởng khác là nhờ những thương tích của Đức Giêsu, chúng ta đã được tha thứ mọi tội lỗi. Đức Giêsu về trời nhưng Ngài không rời bỏ chúng ta, Ngài vẫn hiện diện với chúng ta qua Giáo Hội. Ngài vẫn đồng hành với chúng ta, dù chúng ta không thấy Người.

Sau đây là toàn văn bài chia sẻ của ngài:

“Xin chào anh chị em,

Ngày hôm nay, ở Ý và ở nhiều nước khác mừng lễ Chúa Thăng Thiên, việc này xảy ra bốn mươi ngày sau Lễ Phục Sinh. Giêsu xa rời các môn đệ và thế giới (X. Cv 1,2.9). Tin Mừng theo thánh Matthêu tường thuật lại lệnh truyền của Đức Giêsu dành cho các môn đệ: lời mời gọi hãy ra đi, hãy lên đường để loan báo cho muôn dân biết thông điệp cứu độ (x. Mt 28,16-20). "Ra đi", hay đúng hơn là "lên đường" trở thành từ khóa của ngày lễ hôm nay: Đức Giêsu khởi hành tiến về với Cha và ra lệnh cho các môn đệ khởi hành tiến về thế giới.

Đức Giêsu lên đường, thăng thiên, nghĩa là trở về với Cha, Đấng đã sai Ngài xuống thế. Ngài đã hoàn thành việc của mình và bây giờ Ngài trở về cùng cha. Nhưng ở đây không gợi lên cho chúng ta sự xa cách, vì Ngài vẫn luôn ở cùng chúng ta, theo một dạng thức khác. Với sự thăng thiên của mình, Chúa Phục Sinh đã thu hút cái nhìn của các tông đồ – và của cả chúng ta nữa – về tầm cao của Thiên Đàng để cho chúng ta thấy cùng đích của hành trình của chúng ta là chính Chúa Cha. Chính Ngài cũng đã từng nói rằng Ngài ra đi là để dọn chỗ cho chúng ta ở trên Thiên Đàng. Tuy nhiên, Đức Giêsu vẫn hiện diện ở đây và hoạt động nơi những biến cố của lịch sử con người với quyền năng và ân sủng của Thánh Thần Ngài; Ngài ở cạnh mỗi người chúng ta, dù chúng ta không thế tỏ tường bằng mắt, nhưng có Ngài ở đó! Ngài đồng hành với chúng ta, hướng dẫn chúng ta, cầm tay chúng ta và nâng chúng ta dậy mỗi khi chúng ta vấp ngã. Đức Giêsu phục sinh ở kề bên những Kitô hữu bị bắt bớ và bị phân biệt đối xử; ngài ở gần tất cả chúng ta, hôm nay, ngài hiện diện ở đây, nơi quảng trường này; Thiên Chúa luôn ở với chúng ta! Anh chị em có tin đều này không? Bây giờ chúng ta hãy cùng nhau nói lớn lên: Thiên Chúa ở cùng chúng ta.

Khi trở về Trời, Đức Giêsu mang đến với Chúa Cha một món quà. Món quà nào vậy? Những thương tích của Ngài. Thân thể của Ngài hết sức tuyệt đẹp, không có những vết thâm tím, không có những đau vết đau từ đòn roi, nhưng còn lại những thương tích. Khi ngài về với Chúa Cha, Ngài sẽ chỉ cho Chúa Cha thấy những thương tích ấy và Ngài nói với Chúa Cha rằng: "Cha ơi, Cha nhìn này, đây là giá phải trả cho ơn tha thứ mà Cha đã ban". Khi Chúa Cha nhìn thấy những thương tích của Đức Giêsu, Ngài sẽ tha thứ cho chúng ta, không phải vì chúng ta tốt lành, nhưng vì Đức Giêsu đã trả thay cho chúng ta. Nhìn đến những thương tích của Đức Giêsu, Chúa Cha sẽ động lòng thương yêu. Đây là điều mà Đức Giêsu làm trên Thiên Đàng hôm nay: cho Chúa Cha thấy giá phải trả cho ơn tha thứ, đó chính là những thương tích của Ngài. Chúa Cha luôn luôn tha thứ, vì Người nhìn thấy những thương tích của Đức Giêsu, Người nhìn thấy tội lỗi chúng ta và Người tha thứ tất cả.

Nhưng Đức Giêsu vẫn hiện diện với chúng ta qua Giáo Hội mà Ngài đã sai đi để nới rộng sứ mạng. Lời cuối cùng Đức Giêsu nói với các môn đệ là lệnh truyền hãy ra đi: "Anh em hãy đi và làm cho muôn dân tr thành môn đệ Thầy" (Mt 28,19). Đây chính xác là một lệnh truyền, không phải là một chọn lựa! Cộng đoàn Kitô giáo là một cộng đoàn "ra đi", "lên đường". Giáo Hội đưc khai sinh đ ra đi. Anh chị em có thể hỏi tôi: thế thì những cộng đoàn trong đan viện thì sao? Vâng, những cộng đoàn này "ra đi" bằng lời cầu nguyện, bằng con tim mở ra với thế giới, với những chân trời của Thiên Chúa. Thế còn những ngưi già, người bệnh thì sao? Họ cũng vậy, họ ra đi bằng lời cầu nguyện và kết hiệp với những thương tích ca Đức Giêsu.

Đc Giêsu đã nói với các môn đ đưc sai đi rằng: "Thầy sẽ ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế" (v.20). Không có Đức Giêsu, tự sức chúng ta, chúng ta không thể làm gì được! Trong hoạt đng tông đồ, sức mạnh của chúng ta, nguồn lực của chúng ta, cơ cấu của chúng ta không đủ, dù là rất cần thiết. Không có sự hiện diện của Thiên Chúa và sức mạnh của Thánh Thần Ngài, công việc của chúng ta, dù được tổ chức tốt, cũng sẽ không thể sinh hiệu quả. Vì thế, chúng ta hãy ra đi để nói cho mọi người biết Đức Giêsu là ai.

Cùng với Đc Giêsu, Đức Maria, mẹ chúng ta, luôn đồng hành với chúng ta. Bây giờ, Mẹ đã ở trong nhà Cha, Mẹ là Nữ Vương Thiên Đàng, và chúng ta hãy khẩn cầu cùng Mẹ trong lúc này; như Đức Giêsu luôn ở cùng chúng ta, Mẹ Maria, Mẹ của niềm hy vọng, cũng đồng hành với chúng ta.”

Sau khi đọc Kinh Lạy Nữ Vương Thiên Đàng, Đức Thánh Cha gợi nhắc với mọi người về ngày Quốc Tế Truyền Thông Xã Hội hôm nay, với chủ đề: Truyền thông hướng đến phục vụ nền văn hóa gặp gỡ. Ngài chia sẻ rằng các phương tiện truyền thông xã hội có thể phục vụ cho cảm thức hiệp nhất của gia đình nhân loại, sự liên đới và dấn thân để nhân phẩm con người được tôn trọng. Ngài xin mọi người hãy cầu nguyện để việc truyền thông trong mọi hình thức có thể giúp cho việc gặp gỡ giữa con người, cộng đồng, quốc gia; một cuộc gặp gỡ đặt nền tảng trên sự tôn trọng và lắng nghe nhau.

Sau đó, Đức Thánh Cha nhắc đến một vị vừa được phong Chân Phước ở Collevalenza, rồi Ngài gửi lời chào đến tất cả các khách hành hương đang có mặt tại quảng trường Thánh Phêrô.

Pr. Lê Hoàng Nam, SJ
 

Lời Chúa

Lời Chúa

(Trích trong ‘Sống Tin Mừng’)

Nơi mục tựa ngắn của một tập sách do chính mình viết có tựa đề: "Biết Và Không Biết Về Thiên Chúa". Tác giả Đức Hồng Y Sacrunez, một triết gia và cũng là một thần học gia nổi tiếng của thập niên 60 đã trình bày niềm xác tín của mình như sau:

"Người ta không thể nào không nói về Thiên Chúa, mọi kinh nghiệm tốt xấu, tích cực hay tiêu cực đều đưa con người đến việc đặt vấn đề về Thiên Chúa. Con người không thể loại bỏ hay quên hẳn Thiên Chúa được, con người vẫn nói về Thiên Chúa, nhưng khi nói rồi con người cảm thấy lời nói của mình về Ngài như không có ý nghĩa gì cả, lời nói đó trở thành như một sự im lặng to lớn."

Từ nhận định trên đây Đức Hồng Y rút ra hai điểm kết luận ngắn rất quan trọng:

Thứ nhất, con người cần trân trọng quí mến những lời nói, tuy là của con người nhưng đã được Thiên Chúa sử dụng để mạc khải chính Mình cho con người.

Thứ hai, để lời nói của mình về Thiên Chúa có được chút giá trị nào đó, diễn tả thực thể Thiên Chúa thì con người cần có cảm nghiệm về Thiên Chúa.

Chúng ta ghi nhận là các Tông Đồ ngày xưa đã thực hiện hai điều căn bản này. Họ trân trọng, quí mến lời Chúa giảng dạy. Họ trung thành thông truyền, không xuyên tạc và các ngài là những kẻ có kinh nghiệm trực tiếp về Chúa trước khi ra đi rao giảng cho kẻ khác.

Chúa đã gọi các Tông Đồ để các ngài sống bên cạnh Chúa trong suốt thời gian Chúa giảng dạy, đến độ tác giả của thư thứ nhất Thánh Gioan và truyền thống cho là thánh Gioan Tông Đồ, một trong mười hai Tông Đồ đã sống bên cạnh Chúa trong suốt cuộc đời rao giảng, tác giả thư thứ nhất thánh Gioan đã viết ngay đầu thư như sau: "Những gì chúng tôi đã thấy, đã nghe, đã chạm đến về Ngôi Lời Hằng Sống, về Con Thiên Chúa, chúng tôi loan truyền lại cho anh chị em."

Mừng Lễ Chúa Lên Trời hôm nay, chúng ta được mời gọi như các Tông Đồ ngày xưa, tiếp tục công việc của Chúa. Trước khi lên trời, Chúa đã ra lệnh cho các Tông Đồ: "Mọi quyền hành trên Trời, dưới đất, được trao ban cho Thầy, chúng con hãy ra đi giảng dạy muôn dân, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần. Giảng dạy và tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho các con, và Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế."

Người ta không thể nào không nói về Thiên Chúa. Chúng ta, những đồ đệ của Chúa không thể nào không chia sẻ về Chúa cho anh chị em, không những bằng lời nói mà còn bằng những việc làm. Nhưng để làm chứng nhân cho Chúa thì hai điều kiện căn bản mà Đức Hồng Y đã nhắc cho chúng ta là trân trọng, quí mến những lời nói của Chúa, đây là những lời mà Con Thiên Chúa Nhập Thể đã nói cho con người biết về mầu nhiệm Thiên Chúa, chúng ta cần trân trọng, quí mến Lời đó. Những Lời đó và cũng là những Lời mà Con Thiên Chúa đã chọn để mạc khải Thiên Chúa cho con người. Chúng ta cần trân trọng những Lời đó.

Điểm thứ hai, chúng ta cần sống trực tiếp có cảm nghiệm về Chúa, sống với Chúa trước để có thể làm chứng cho Chúa: "Thầy ở cùng chúng con mọi ngày cho đến tận thế." Trân trọng tuân giữ lời rao giảng và duy trì kinh nghiệm khi gặp Chúa, sống với Chúa qua đời sống cầu nguyện, việc cử hành Bí Tích Thánh Thể và Bí Tích Thánh Thể là phương thế để Chúa hiện diện, để Chúa thực hiện điều Ngài đã quả quyết: "Thầy ở cùng chúng con mọi ngày cho đến tận thế."

Chúng ta không nên có thái độ vắng chủ nhà gà vọc niêu tôm, kể Chúa như kẻ ra đi đã khuất mắt không còn hiện diện trên trần gian này nữa, để chúng ta được tự do gây xáo trộn, tự do phá bỏ mọi giá trị. Chúa Lên Trời là một biến cố khai mạc giai đoạn mới, giai đoạn của một sự hiện diện mới và của sự dấn thân mới của mỗi người chúng ta để làm chứng cho Chúa. Chúng ta cần sống với Chúa, lắng nghe Lời Chúa và trân trọng tuân giữ Lời Chúa để trở thành những chứng nhân của Chúa.

Xin Chúa giúp mỗi người chúng ta được thực hiện điều này và cho chúng ta được trưởng thành trong đức tin. Amen.

Veritas Radio

SỰ SỐNG MỚI- HIỆN DIỆN MỚI.

SỰ SỐNG MỚI- HIỆN DIỆN MỚI.

Có lẽ nhiều người ngạc nhiên tự hỏi: sao trong bài Phúc Âm lễ Thăng Thiên hôm nay, chẳng thấy nói gì đến trời, đến bay lên? Thắc mắc như vậy là hợp lý. Ta vẫn quen gọi hôm nay là lễ Chúa Giêsu lên trời. Và theo quan niệm bình dân, không gian chia làm ba tầng. Tầng dưới đất là âm ty, địa ngục, dành cho người chết. Tầng mặt đất mà ta đang sống là dương gian. Và tầng trên mặt đất là trời. Chúa Giêsu đã sống trên mặt đất, khi chết Người bị chôn trong lòng đất, đi vào cõi âm ty. Sống lại, Người trở lại mặt đất. Và hôm nay Người được đưa lên trời, bay lên đám mây, ngự bên hữu Chúa Cha.

Đó chỉ là một lối diễn tả bình dân. Thực ra, trời đâu phải là một nơi chốn. Con người có thân xác, bị giới hạn trong không gian, cần một nơi chốn để cư ngụ. Thiên Chúa không bị giới hạn trong không gian thì đâu còn bên tả bên hữu gì nữa.

Vậy, tại sao ta nói Chúa Giêsu lên trời? Lên trời ở đây có ý nghĩa gì?

Trời không phải là một nơi chốn, nhưng là một trạng thái, trong đó Ba Ngôi Thiên Chúa sống chan hoà yêu thương. Sự sống của Thiên chúa không giống sự sống của cây cỏ. Cũng không giống như sự sống của động vật hay loài người. Đó là sự sống thần linh. Sự sống vượt không gian, vượt thời gian, không còn bị lệ thuộc vào điều kiện vật chất. Sự sống không còn bị hao hụt, giảm thiểu bởi đau đớn, bệnh tật, đói khát. Đó là sự sống viên mãn tràn đầy. Được tham dự vào sự sống ấy là một hạnh phúc vô song. Đó chính là thiên đường. Lên trời hay lên thiên đàng như vậy không phải là thay đổi nơi chốn nhưng là thay đổi sự sống. Đó là chuyển đổi sự sống hữu hạn của con người sang sự sống vô hạn của Thiên Chúa. Đó là rời bỏ thế giới hữu hạn của loài người để bước vào thế giới vô hạn của Thiên Chúa. Đức Giêsu lên trời có nghĩa là Đức Giêsu về với Thiên Chúa, sống với Thiên Chúa, sống cuộc sống Thiên Chúa. Lên trời không phải lên theo chiều cao trong không gian vật lý. Nhưng là lên theo cấp độ sự sống, là sống cao hơn, mạnh mẽ hơn, tràn đầy hơn.

Chính vì thế, Chúa Giêsu lên trời không phải giã từ thế giới, để đi vào xa vắng mịt mù. Nhưng Người không đi vào một hiện hữu mới để hiện diện mãnh liệt hơn. Không còn bị kềm chế trong không gian, giờ đây Người hiện diện ở khắp mọi nơi. Không còn bị lệ thuộc vào một thân xác, giờ đây Người có thể hiện diện dưới nhiều hình thức khác nhau.

Người ở đó trong những trang Sách Thánh đầy lời lẽ nhiệm mầu để dạy cho ta biết con đường về với Thiên Chúa. Người ở đó trong bí tích Thánh Thể huyền diệu để nuôi linh hồn ta, để kết hợp với ta, để giúp ta đủ sức mạnh đi hết con đường trần gian khổ. Người ở đó trong những người anh em đồng tâm nhất trí cùng nhau dâng lời cầu nguyện lên Chúa Cha. Người ở đó trong những anh em bé nhỏ nghèo hèn đang chờ chúng ta mở rộng trái tim, mở rộng vòng tay nhân ái. Người ở đó trong những người hiến thân phục vụ anh em, trong những người hy sinh bản thân mình cho công bình, cho chân lý, cho một thế giới tươi đẹp hơn. Người có mặt trên khắp mọi nơi nẻo đường, trong tất cả mọi cảnh ngộ của cuộc đời. Người có mặt trong mọi thời gian đúng như Người đã hứa: “Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế”.

Bây giờ thì chúng ta đã hiểu: Trời không phải là một nơi chốn xác định, là một không gian vật lý có thể cân đo đong đếm. Nhưng trời là Thiên đàng, là chính sự sống của Thiên Chúa Ba Ngôi, là chính Thiên Chúa Ba Ngôi.

Bây giờ chúng ta đã hiểu lên trời không phải là bay bổng lên không gian. Nhưng là chuyển đổi cấp độ sự sống, hay là bước vào sự sống siêu nhiên của Thiên Chúa.

Bây giờ thì chúng ta đã hiểu, lên trời không phải là vắng mặt, là xa vắng nhưng lại là một hiện diện vô cùng phong phú, vô cùng mãnh liệt, ở bên cạnh tất cả mọi người, ở mọi nơi và ở mọi thời.

Chúa Giêsu là người mở đường cho nhân loại. Người tiến về một thế giới sự sống viên mãn, cao cả để cho ta thêm niềm tin tưởng rằng: vận mệnh của Người cũng sẽ là vận mệnh của ta. Ta cũng sẽ được cùng Người bước vào sự sống thần linh vĩnh cửu, miễn là ta đi vào con đường của Người: con đường khiêm nhường phục vụ. Miễn là ta vâng giữ lời Người truyền dạy: Hãy yêu tha nhân như chính bản thân mình.

Lạy Đức Giêsu, xin hãy nâng lòng con lên khao khát những sự trên trời. Amen.

GỢI Ý CHIA SẺ

1) Bạn có cảm nhận được sự hiện diện của Chúa Giêsu trong đời sống hằng ngày?

2) Bạn làm cách nào để mọi người cảm thấy Chúa Giêsu đang hiện diện mãnh liệt trong thế giới?

3) Bạn làm gì để xây dựng Nước Trời?

ĐTGM Ngô Quang Kiệt

Nơi chân trời và mặt đất giao nhau

Nơi chân trời và mặt đất giao nhau

(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)

Có hai nhà đạo sĩ kia, một hôm đọc thấy trong một cuốn sách khảo cổ cho biết: có một nơi chân trời và mặt đất giao nhau. Hai nhà đạo sĩ bèn quyết định lên đường đi tìm cho được nơi chân trời và mặt đất giao nhau như trong sách đã cho biết. Hai ông còn thề nguyền sẽ không trở về bao lâu chưa tìm được nơi trời đất giao nhau đó. Bởi vì hai ông được biết ở nơi đó sẽ có một cánh cửa mở ra chân trời. Khi cửa mở ra, người ta sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa.

Sau một cuộc hành trình lâu dài và gian khổ, hai nhà đạo sĩ đã tìm được nơi chân trời và mặt đất giao nhau. Hai ông cũng đã mở được cánh cửa trời… Nhưng đến lúc bước vào cửa trời, hai ông hết sức bỡ ngỡ, vì hai ông gặp lại chính căn phòng quen thuộc của mình… Lúc ấy hai ông mới hiểu: con đường lên trời bắt đầu từ mặt đất này, trong đời thường, nơi mình đang sống hằng ngày.

Anh chị em thân mến, đường lên trời bắt đầu từ mặt đất này, nơi “Trời Mới Đất Mới” sẽ xuất hiện trong ngày Chúa chúng ta “trở lại cũng một cách y như Ngài đã lên trời”. Chúa lên trời không có nghĩa là Ngài ra đi. Bởi vì ra đi là để lại sự vắng mặt. Đàng này, Chúa không để chúng ta đơn độc, Ngài còn “ở lại với chúng ta mãi cho đến tận thế”.

Chúa lên trời là Chúa “khuất dạng”, không còn hiện diện bằng xương bằng thịt trước mắt chúng ta nữa, để bắt đầu một sự hiện diện ẩn khuất, nghĩa là Chúa vẫn có mặt đó mà chúng ta không thấy được. Ngài vẫn ở giữa chúng ta, trong những nơi mà Ngài đã dạy chúng ta biết để nhận ra Ngài: trong Lời Chúa, trong các bí tích, trong anh chị em, trong những người nghèo khổ… Ngài không chỉ hiện diện mà còn ở, còn cư ngụ. Một chỗ ở có ý nghĩa sâu sắc hơn một sự hiện diện: Người ta có thể hiện diện trên đường phố, còn ở thì chỉ ở trong nhà mà thôi. Thiên Chúa chỉ muốn có một chỗ ở, một ngôi nhà riêng của Ngài và ngôi nhà đó là chính chúng ta: “Ngài ở với chúng ta mọi ngày cho đến tận thế”, Ngài ở với chúng ta như ở trong ngôi nhà của Ngài.

Khi nói “Chúa lên trời ngự bên hữu Chúa Cha” hay khi cầu nguyện: “Lạy Cha chúng con ở trên trời”, chúng ta đừng tưởng Chúa ở xa cách chúng ta. Ngài ở trên các tầng mây xanh. Không! Nếu đóng khung Chúa ở trên trời là chúng ta bắt Ngài phải di tản. Chúng ta đánh mất Ngài! Nhưng qua kiểu nói tượng hình của Kinh Thánh, chúng ta hãy hiểu việc Chúa lên trời là một cuộc thăng quan tiến chức, được thêm uy quyền, hiệu năng, và do đó được hiện diện một cách sâu đậm, thắm thiết hơn, chứ không phải một cuộc thăng thiên xét theo không gian, khiến Ngài xa lìa thế giới chúng ta.

Vì vậy, thiên sứ phải lay tỉnh các môn đệ đang mải mê nhìn lên trời: “Hỡi các ông, người Galilê, thôi đừng đứng đó mà nhìn lên trời nữa!”. Nhưng hãy đi mở mang Nước Chúa và sự hiện diện của Ngài bằng cách hoàn thành công trình đang dang dở của Ngài ở trần gian này: “Hãy đi đến với muôn dân, làm phép Rửa cho họ, nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Dạy bảo họ tuân giữ những điều Thầy đã truyền cho anh em, để muôn dân trở nên môn đệ của Thầy”. Đó, như thế là Chúa lên trời là để khởi đầu sứ vụ của Giáo Hội: Các môn đệ phải ra đi làm chứng về sự sống lại của Chúa Giêsu, không phải chỉ ở Giêrusalem và nơi những người Do Thái mà thôi, mà còn ở khắp nơi, cho đến tận cùng trái đất và nơi tất cả dân tộc.

Anh chị em thân mến, từ ngày Chúa lên trời, sứ mạng của chúng ta là phải đi vào trần gian, trở về với thực tế, nhìn kỹ vào cuộc sống của nhân loại, của mọi người anh em trên mặt đất này, để cùng với mọi người ra sức xây dựng Nước Trời đang thành hình ngay trong trần thế này, giữa thế giới hôm nay, tuỳ theo mức độ chính thế giới này có thể hiện được tình thương, có phản ảnh được tình yêu vô biên của Thiên Chúa hay không. Đúng theo tinh thần của Tin Mừng: Nước Trời không phải chỉ là chuyện đời sau, mà còn phải là thực tế hiện tại: như hạt cải trong thửa vườn, như men trong bột, như muối cho đời: “Nước Trời ở giữa anh em”.

Như thế, thưa anh chị em, Thiên Chúa không đóng đô ở riêng một chỗ nào trong không gian, trên các tầng trời. Ngài ở bất cứ nơi nào có tình yêu thương. Nếu cứ luyến tiếc nhìn lui lại quá khứ, hãy mải mê ngước mắt lên trời, chúng ta sẽ quên rằng Thiên Chúa đang ở với chúng ta mọi ngày cho đến tận thế. Thiên Chúa đang hiện diện bất cứ nơi nào có tình yêu thương nhau, đùm bọc nhau, chia sẻ cho nhau. Và chỗ nào có một cộng đoàn, một xã hội như vậy, lớn hay nhỏ, đang thành hình thì từ chỗ đó, Nước Trời đang bắt đầu hiện diện.

Trái lại, chỗ nào người ta còn giành giựt nhau, còn áp bức, khai thác, bóc lột nhau, còn coi nhau như thù nghịch, thì khỏi cần tìm địa ngục ở đâu xa hơn nữa: địa ngục đang bắt đầu từ chỗ đó. Thiên đàng hay địa ngục, chúng ta đang bắt đầu xây dựng hay đào sâu ngay từ trong cuộc sống chúng ta hôm nay.

Vậy, ngày Chúa lên trời, thay vì chỉ mải mê nhìn lên trời, thụ động trông chờ ngày Chúa trở lại, chúng ta hãy nhìn xuống mặt đất, hãy cùng nhau góp sức xây dựng con đường lên trời ngay từ mặt đất này; vì chính từ mặt đất này mà “Trời Mới Đất Mới” sẽ xuất hiện trong ngày Chúa chúng ta “trở lại cũng một cách y như Ngài đã về trời”.

Công đồng Vaticanô II đã nói: “Vẫn biết rằng quê hương vĩnh cửu của chúng ta không phải ở trần gian này và chúng ta chỉ đi qua để về quê hương trên trời, nhưng thực là sai lầm, nếu vì đó mà nghĩ rằng mình có thể xao lãng nghĩa vụ của mình ở trần gian” (Mv 43,1b). Vì thế, trông đợi “Trời Mới Đất Mới” không những không làm giảm bớt mà còn tăng thêm nơi chúng ta ý chí xây dựng trời đất hiện tại này. Bởi vì xây dựng trời đất hiện tại là xây dựng “Trời Mới Đất Mới” (MV 39,2a), là xây dựng quê hương vĩnh cửu của chúng ta vậy.

 

Lễ Thăng Thiên – Damiano

Lễ Thăng Thiên – Damiano

Trích đoạn Tin Mừng của lễ Chúa Lên Trời hôm nay là đoạn kết thúc Tin Mừng thánh Matthêu. Khung cảnh là miền Galilê, một miền dân ngoại. Chúa Giêsu dặn các ông đến đây để gặp gỡ các ông lần cuối và căn dặn những điều cần thiết trước khi rời bỏ thế gian mà về Trời. Trong những lời nói cuối cùng nầy, có hai lời dặn rất quan trọng:

“Anh em hãy đi làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần”.

“Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”.

Lời dặn của Chúa Giêsu cho thấy, Nước Chúa không chỉ dành riêng cho dân Do thái mà cho cả muôn dân; cũng vì thế mà ngày đem các ông đến Galilê là miền dân ngoại.

Theo lời Chúa hôm nay thì tất cả những ai chịu phép rửa đều là môn đệ của Chúa. Và muốn trở thành môn đệ thì phải có hai đều kiện: phải chịu phép rửa nhân danh Chúa Ba Ngôi mà còn phải tuân giữ những điều Thầy đã truyền cho anh em. Điều kiện thứ nhất thì tương đối dễ vì là kitô hữu thì ai cũng được chịu phép rửa; nhưng điều kiện thứ hai thì ít ai giữ cho trọn hảo. Và người ta cứ tưởng lầm rằng hễ chịu phép rửa đã là người kitô hữu rồi, còn điều kiện thứ hai: sống lời Chúa thì thường được kể như là điều kiện phụ trội, có hay không cũng được. Theo Lời Chúa thì đó là một quan niệm hết sức sai lầm. Cả hai điều kiện điều cần thiết; và nhiều khi điều kiện thứ hai còn cần hơn cả điều kiện thứ nhất, vì có những người tuy chưa được rửa tội nhưng sống tốt lành hợp với Lời Chúa thì vẫn được cứu rỗi.

Vì thế thánh Matthêu dùng cụm từ “trở thành môn đệ” để nói lên rằng người môn đệ là người sống theo lời dạy của Thầy mình, vì đó là điều kiện để trở thành môn đệ Chúa.

Trong lời dặn thứ hai: Thầy sẽ ở với anh em mọi ngày cho đến tận thế, Chúa bảo đảm cho các tông đồ cũng như cho Hội Thánh sự hiện diện hằng ngày của Chúa trong công việc rao giảng Tin Mừng khắp thế gian. Người tông đồ không cô đơn vì luôn có Chúa ở cùng. Trước mọi khó khăn và thử thách, người tông đồ ý thức về sự hiện diện của Chúa nên tâm hồn vẫn bình an, vẫn can đảm và kiên trì.

Trước khi về trời, Chúa Giêsu đã giao cho các Tông Đồ và Hội Thánh tiếp tục sứ mệnh của Ngài ở thế gian. Là môn đệ của Chúa Kitô, mỗi người Kitô hữu cũng được Chúa giao cho nhiệm vụ mở mang Nước Chúa, rao giảng Tin Mừng bằng chính cuộc sống của chúng ta, một cuộc sống đầy chất Phúc Âm. Thánh Phaolô đã ý thức được nhiện vụ đó và đã kêu lên: khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng.

Lời nói cuối cùng.

Chuyện xảy ra trong một bệnh viện ở New York.

Một thanh niên được đưa lên bàn mổ. Đội ngủ phẩu thuật đã sẵn sàng, vị bác sĩ giải phẩu nói với bệnh nhân: Tôi tưởng đã đến lúc phải nói thật với em: Cái lưỡi của em bị ung thư, và để cứu sống em, chúng tôi phải cắt cái lưỡi của em. Nếu em cần nói điều gì lần cuối thì em nói đi vì sau khi mất lưỡi, em không bao giờ nói được nữa! Người thanh niên tái mặt, những bắp thịt ở môi em rung lên vì sợ hãi. Nhưng sau một phút im lặng, vẻ mặt người bệnh bổng từ từ bình tĩnh lại; cuối cùng, vân dụng tất cả sức lực còn lại, anh nhìn mọi người đứng chung quanh một lượt, rồi nhìn lên trời và thốt lên: Xin chúc tụng danh Chúa Giêsu! Đó là lời quan trọng nhất mà anh thốt ra lần cuối!

Lời nói cuối cùng của bệnh nhân nầy đã làm bừng tỉnh đức tin của tất cả những người đứng chung quanh giường bệnh. Giường bệnh cũng là nơi truyền giáo. Nhà tù cũng là nơi truyền giáo. Cuộc sống đời thường cũng là nơi truyền giáo.

Đức Thánh Cha nhắc nhở các Giám Mục phục vụ

Đức Thánh Cha nhắc nhở các Giám Mục phục vụ

VATICAN. ĐTC Phanxicô nhắn nhủ các GM luôn cảnh giác canh chừng đối với bản thân và Dân Chúa trong tinh thần phục vụ.

Trong bài giảng thánh lễ truyền chức cho Đức tân GM Fabio Fabene, Phó Tổng thư ký Thượng HĐGM thế giới, chiều ngày 30-5-2014 tại Đền thờ Thánh Phêrô, ĐTC nói đến nghĩa vụ của các GM, nối tiếp các thánh Tông Đồ trong việc rao giảng Tin Mừng Cứu Độ và thánh hóa các tín hữu nhờ các bí tích đức tin.

Ngài đặc biệt nhắn nhủ tiến chức về nghĩa vụ chủ chăn: đừng bao giờ để sự háo danh và kiêu ngạo xảy đến trong tâm hồn: GM được chọn để phục vụ con người và phải luôn có thái độ phục vụ như Chúa Giêsu. Chức GM là danh xưng của một sự phục vụ, không phải là vinh dư, vì GM có nhiệm vụ phục vụ hơn là thống trị, như lời Chúa dạy: ”Ai là kẻ lớn nhất trong các con, thì hãy trở thành người bé nhỏ nhất, ai cai quản thì hãy trở thành như người phục vụ”.

ĐTC cũng giải thích rằng GM là người canh chừng chính mình và dân Chúa. Sự canh chừng này có nghĩa là canh thức, chú ý để bảo vệ bản thân khỏi bao nhiêu tội lỗi và những thái độ trần tục, và để bảo vệ dân Chúa khỏi những chó sói.. Canh chừng trên dân Chúa cũng có nghĩa là cầu nguyện, như Môisê đã làm xưa kia, giơ hai tay lên cao, chuyển cầu cho dân Chúa.

Tham dự thánh lễ truyền chức có hàng ngàn tín hữu, cùng với hàng chục HY, GM và hơn 100 LM đồng tế với ĐTC.

Đức tân GM Fabene sinh tại Roma cách đây 55 năm (1959) nhưng nhập tịch giáo phận Viterbo ở mạn bắc Roma, thụ phong linh mục năm 1984, và từng giữ chức chánh văn phòng tại Bộ giám Mục. Hồi đầu tháng 2 năm nay, cha được ĐTC bổ nhiệm làm Phó Tổng thư ký Thượng HĐGM thế giới ngày 8-4 vừa qua, ngài nâng cha lên hàng GM.

Cho đến nay vị giữ chức vụ này thường không phải là GM, nhưng trong thư gửi đến ĐHY Lorenzo Baldisseri, Tổng thư ký Thượng HĐGM thế giới, để thông báo việc nâng Đức Ông Fabio Fabene lên hàng GM, ĐTC Phanxicô giải thích rằng việc bổ nhiệm này muốn nêu đề cao chức năng của Thượng HĐGM như phương tiện góp phần vào cuộc đối thoại giữa người kế nhiệm thánh Phêrô và giám mục đoàn. (SD 31-5-2014).

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio
 

Đức Thánh Cha đau buồn vì sự dửng dưng đối với thảm trạng Syria

Đức Thánh Cha đau buồn vì sự dửng dưng đối với thảm trạng Syria

VATICAN. ĐTC Phanxicô bày tỏ đau buồn vì sự dửng dưng của thế giới đối với thảm trạng tại Syria và kêu gọi các tổ chức từ thiện Công giáo tiếp tục các hoạt động cứu trợ.

Ngài bày tỏ lập trường trên đây trong sứ điệp gửi các đại diện của 25 tổ chức từ thiện Công giáo nhóm họp hôm 30-5-2014, tại Vatican, với Hội đồng Tòa Thánh Cor Unum, Đồng Tâm, để phối hợp các hoạt động cứu trợ các nạn nhân chiến tranh Syria. ĐTC đích thân đến chào thăm và khích lệ các tham dự viên.

Trong sứ điệp ĐTC khẳng định rằng: ”Chúng ta phải đau lòng nhận thấy cuộc khủng hoảng Syria vẫn chưa được giải quyết, trái lại cứ tiếp tục và có nguy cơ người ta quen tới thảm trạng này: quên các nạn nhân hằng ngày, những đau khổ khôn tả, hàng ngàn người tỵ nạn, trong đó có người già và trẻ em, đang chịu đau khổ và nhiều khi đang chết vì đói và bệnh tật do chiến tranh gây ra. Sự dửng dưng này làm đau lòng! Một lần nữa chúng ta phải lập lại cái tên của căn bệnh làm cho chúng ta rất đau buồn trên thế giới ngày nay, đó là hoàn cầu hóa sự dửng dưng”.

ĐTC đề cao hoạt động kiến tạo hòa bình và cứu trợ nhân đạo mà các cơ quan bác ái Công Giáo đang thi hành trong bối cảnh này chính là một sự biểu lộ trung thực tình thương của Thiên Chúa các con cái Người đang bị áp bức và lo âu.

ĐTC tái kêu gọi lương tâm của những nhân vật chủ chốt trong cuộc xung đột tại Syria, các tổ chức thế giới và công luận. Ngài viết: ”Tất cả chúng ta đều ý thức rằng tương lai nhân loại được xây dựng với hòa bình chứ không phải bằng chiến tranh: chiến tranh tàn phá, giết hại, làm cho dân chúng và các nước nghèo nàn. Tôi xin tất cả các phe hãy nhìn đến công ích, cho thực hiện cấp thời những hoạt động cứu trợ nhân đạo và làm cho võ khí sớm im tiếng, đồng thời dấn thân thương thuyết, đặt lên hàng đầu thiện ích của Syria và toàn dân nước này, và cả những người đang phải tỵ nạn ở nơi khác, và họ có quyền được sớm trở về quê hương”.

ĐTC đặc biệt nghĩ đến các cộng đoàn Kitô, là khuôn mặt của một Giáo hội đang chịu đau khổ và hy vọng. Ngài viết: ”Sự sống còn của họ trên toàn vùng Trung Đông là mối lo lắng sâu đậm của Giáo Hội hoàn vũ: Kitô giáo phải được tiếp tục sống tại nơi nguyên gốc của mình”.

Sau cùng ĐTC bày tỏ lòng biết ơn đối với các tổ chức từ thiện Công Giáo và nói rằng ”Hoạt động bác ái và cứu trợ cảu anh chị em là một dấu hiệu quan trọng nói lên sự gần gũi của toàn thể Giáo Hội, đặc biệt của Tòa Thánh đối với nhân dân Siria và các dân tộc khác ở Trung Đông”.

Khóa họp hôm 30-5-2014 có mục đích tiếp tục hành trình từ hai năm nay của Tòa Thánh và nối tiếp cuộc gặp gỡ trong hai ngày mùng 4 và 5-6 năm ngoái để trợ giúp Syria, cũng như kiểm điểm hoạt động cho đến nay của các cơ quan từ thiện Công Giáo trong việc trợ giúp Syria.

Ban sáng, sau lời dẫn nhập của ĐHY Robert Sarah, Chủ tịch Hội đồng Cor Unum, điều hợp viên của khóa họp, ĐHY Pietro Parolin, Quốc vụ khanh Tòa Thánh, đã tường trình vấn đề, rồi đến các bài tham luận của Đức TGM Mario Zenari, Sứ thần Tòa Thánh tại Siria, và Đức Cha Antoine Audo, chủ tịch tổ chức Caritas tại nước này. Sau cùng có bản tường trình về hoạt động của Văn phòng thông tin ở Beirut, thủ đô Liban, được thiết lập hồi năm ngoái để thu thập và phổ biến các dữ kiện về hoạt động của các tổ chức bác ái Công Giáo.

Ban chiều, các tham dự viên thảo luận về những khía cạnh cụ thể trong việc cộng tác giữa các cơ quan từ thiện khác nhau ở Syria và các nước láng giềng.

Theo thống kê mới mất, 3 năm chiến tranh đã làm cho 160 ngàn người chết tại Syria và hơn 2 triệu người nước này tỵ nạn sang các nước láng giềng, không kể 6 triệu người phải di tản trong nội địa. (SD 30-5-2014)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio
 

Thư Mời Lễ Bế Giảng 2013 – 2014

Saint Boniface Catholic Church – Cộng Đoàn Đức Mẹ Mông Triệu – Anaheim

Trường Việt Ngữ và Văn Hoá Phan Bội Châu

120 N. Janss St., Anaheim, CA. 92805

Anaheim, Ngày 15 Tháng 5 Năm 2014

Thư Mời Lễ Bế Giảng 2013 – 2014

Kính Gửi Quý Phụ Huynh và các em học sinh,

Ban Điều Hành Trường Việt Ngữ và Văn Hoá Phan Bội Châu trân trọng kính mời quý Phụ Huynh cùng

toàn thể các em học sinh tham dự Lễ Bế Giảng tại Hội Trường Giáo Xứ Saint Boniface – Anaheim.

Lễ Bế Giảng được tổ chức vào ngày 14 tháng 6 năm 2014 (June 14, 2014), từ lúc 1:00 PM – 3:30 PM.

Chương trình gồm có:

1:00PM – 1:30 PM: Triển lãm bích báo & tập họp học sinh

1:30PM – 1:45 PM: Chào Quốc Kỳ Mỹ-Việt & dâng lời cầu nguyện

1:45PM – 2:00 PM: Đôi lời của quý quan khách

2:00PM – 2:15 PM: Lời chào của trường VN PBC, thầy cô & các em học sinh

2:15PM – 2:45 PM: Lời chia sẻ của quý PHHS- Chương trình đố vui của HS lớp 1& 4

2:45PM – 3:15 PM: Văn nghệ & phát thưởng, tín chỉ cho các em. Lời nguyện kết.

3:15PM – 3:30 PM: Dọn dẹp hội trường

Chúng tôi rất mong sự hiện diện đông đủ của quý phụ huynh và các em học sinh tham dự Lễ Bế Giảng.

Trong dịp này, chúng ta cùng dâng lên Thiên Chúa lời tán tụng và tri ân cho món quà trí hiểu do Thiên Chúa

ban cho con em chúng ta để hấp thụ ngôn ngữ và văn hoá Việt Nam, và tham gia các sinh hoạt lành mạnh trong

môi trường Giáo Dục Công Giáo tại Cộng Đoàn Thánh Boniface, Anaheim. Qua những thành quả các con em

quý vị đã đạt trong năm học qua, đây cũng là dịp chúng ta nên quy tụ để chúc mừng và cổ võ các em. Một lần

nữa, xin kính mời quý phụ huynh cùng con em quý vị tham dự đông đủ trong Lễ Bế Giảng này vào ngày 14

tháng 06, 2014. Nguyện xin Thiên Chúa Tình Yêu chúc lành cho mọi thiện chí quý vị đã dành cho chương trình

Việt Ngữ. Chúng tôi chúc quý Phụ Huynh và gia đình một mùa hè vui tươi, hạnh phúc và tràn đầy hồng ân của

Thiên Chúa.

 

Trân Trọng Kính Mời,

Hiệu Trưởng trường Việt ngữ và Văn Hoá Phan Bội Châu

Trần Ngọc Khuyến

 

Phụ Huynh lưu ý:

*Xin quý vị cho các em học sinh ăn trưa trước ở nhà.

*Quý vị có thể tùy ý đóng góp: snack & bánh ngọt.

*Mọi thắc mắc và đóng góp xin liên lạc: 714-396-1988 https://vn.cddmmtanaheim.org

Thông báo của ban điều hành trường Việt Ngữ PBC – Đoàn Thiếu Nhi Thánh Thể

Các lớp Việt Ngữ & Thiếu Nhi vẫn tiếp tục

vào mỗi thứ Bảy từ 31-05-2014 đến 07-06-2014

 

Thời gian:
  • Việt Ngữ: 1:30PM – 3:30PM
  • Thiếu Nhi: 4:00PM – 6:00PM
 
Lễ bế giảng của trường Việt ngữ sẽ vào ngày 14/6/2014 lúc 1:00pm
 
Mong quý phụ huynh cho các em học sinh tham dự đông đủ. 
Nguyện xin Thiên Chúa Tình Yêu chúc lành cho mọi thiện chí quý vị đã dành cho chương trình Việt Ngữ & Thiếu Nhi. 

 

Mọi thắc mắc xin gọi: (714) 396 1988 &  https://vn.cddmmtanaheim.org
 
Đại diện Trường VN PBC và Đoàn Thiếu Nhi Thánh Thể,

Trần Khuyến & Trưởng Long

Phần hai bài phỏng vấn Đức Thánh Cha Phanxicô trên chuyến bay về Roma

Phần hai bài phỏng vấn Đức Thánh Cha Phanxicô trên chuyến bay về Roma

Chúng tôi xin gửi tới quý vị và các bạn phần hai bài phỏng vấn Đức Thánh Cha Phanxicô dành cho các nhà báo quốc tế trên chuyến bay từ Tel Aviv về Roma tối thứ hai 26-5-2014.

Trong phần đầu của cuộc phỏng vấn các phóng viên, đại diện cho các nhóm nói tiếng Ý, Anh, Tây Ban Nha, Pháp và Bồ Đào Nha, đã đưa ra các câu hỏi liên quan tới: các cử chỉ tự phát của Đức Thánh Cha khiến cho mọi người cảm động, các vụ giáo sĩ tu sĩ và nhân viên của Giáo Hội lạm dụng tính dục trẻ vị thành niên, các gương mù gương xấu chi phí chống lại sứ điệp Giáo Hội nghèo và của người nghèo hay không trong sáng trong tiền bạc, phong trào chống âu châu đang lên, và quy chế của thành Giêrusalem.

Sau đây là nội dung phần hai cuộc phỏng vấn. Anh Jan-Christoph Kitzler, phóng viên đài phát thanh Đức, hỏi:

Hỏi: Trong chuyến công du vừa qua Đức Thánh Cha đã nhiều lần gặp gỡ và nói chuyện với Đức Thượng Phụ Bartolomaios. Chúng con tự hỏi không biết hai vị có đề cập tới các bước cụ thể xích lại gần nhau, hay có dịp đề cập tới vấn đề này không, ngoài việc ra Tuyên ngôn chung và cầu nguyện, chắc chắn cũng là một dấu chỉ mạnh mẽ. Con cũng tự hỏi không biết Giáo Hội công giáo có thể học vài điều từ Giáo Hội chính thống hay không, con muốn nói tới sự kiện các linh mục có gia đình. Đây là một câu hỏi mà nhiều tín hữu công giáo, đặc biệt tại Đức, đặt ra, cả dưới ánh sáng bức thư mà các phụ nữ yêu các linh mục gửi cho Đức Thánh Cha?

Đáp: Nhưng mà Giáo Hội công giáo cũng có các linh mục lập gia đình chứ: đó là các linh mục công giáo hy lạp, công giáo Copte. Trong lễ nghi đông phương có các linh mục lấy vợ. Bởi vì độc thân không phải là một tín lý: nó là một luật sống, mà tôi đánh giá rất cao và tôi tin rằng nó là một món qùa cho Giáo Hội. Vì không phải là một tín lý đức tin, nên có cánh cửa luôn luôn rộng mở. Trong lúc này chúng tôi không nói đến chuyện đó, như là chương trình, ít nhất trong lúc này. Chúng tôi có các điều quan trọng hơn cần làm. Với Đức Thượng Phụ Barlolomaios, đề tài này đã không được bàn tới, vì nó thực sự là đề tài phụ thuộc trong tương quan với anh em chính thống. Chúng tôi đã nói tới sự hiệp nhất: mà sự hiệp nhất thì được làm trên đường đi, sự hiệp nhất là một lộ trình. Chúng ta không bao giờ có thể làm ra sự hiệp nhất trong một hội nghị thần học. Và Đức Thượng Phụ đã nói với tôi rằng điều tôi đã biết là đúng, rằng Đức Thượng Phụ Athenagoras đã nói với Đức Phaolô VI: ”Chúng ta thanh thản cùng đi, tất cả các nhà thần học chúng ta để họ trên một hòn đảo, để họ thảo luận với nhau, và chúng ta tiến bước trên con đường cuộc sống”. Thật vậy, tôi đã nghĩ có lẽ… Nhưng không, nó đúng vậy! Trong những ngày này Đức Bartolomaios đã nói với tôi như thế. Cùng bước đi, cùng cầu nguyện, cùng làm việc trong biết bao nhiêu chuyện mà chúng ta có thể cùng làm với nhau, trợ giúp lẫn nhau. Chẳng hạn với các Giáo Hội, tại Roma và biết bao nhiêu nơi khác. Mà tại Roma biết bao nhiêu tín hữu chính thống sử dụng các nhà thờ công giáo vào giờ nọ giờ kia, như một sự trợ giúp để cùng đi, đúng không? Chúng tôi cũng đã đề cập tới một chuyện khác, mà có lẽ trong Hội Đồng liên chính thống người ta làm một cái gì đó: đó là ngày lễ Phục Sinh, bởi vì nó hơi nực cười: “Này bạn, hãy nói cho tôi biết Chúa Kitô của bạn sống lại khi nào vậy? – Tuần tới – Ồ, Chúa Kitô của tôi đã sống lại tuần vừa qua rồi!” Phải, ngày lễ Phục Sinh là một đầu chỉ của sự hiệp nhất, đúng không? Chúng tôi yêu thương nhau, chúng tôi kể cho nhau nghe các khó khăn trong việc cai quản của chúng tôi. Và có một điều mà chúng tôi nói với nhau khá nhiều đó là vấn đề môi sinh. Đức Thượng Phụ rất lo âu và cả tôi cũng thế, chúng tôi đã cùng nhau nói nhiều về một công việc chung liên quan tới vấn đề này.

Cha Lombardi nói: ”Vì chúng ta không phải chỉ là người âu châu hay Mỹ, nhưng cũng có các nhà báo Á châu nữa, nên xin nhường lời cho anh Shoko Ueda của hãng tin Tokyo Nhật Bản hỏi Đức Thánh Cha, vì Đức Thánh Cha cũng đang chuẩn bị cho các chuyến đi Á châu”.

Anh Shoko Ueda hỏi:

Hỏi: Con cám ơn Đức Thánh Cha. Rất tiếc con không nói đươc tiếng Ý, nên con xin hỏi bằng tiếng Anh. Chuyến tông du tới của Đức Thánh Cha là viếng thăm Nam Hàn, vì thế con muốn đặt câu hỏi liên quan tới các vùng Á châu. Trong các nước gần Nam Hàn có Bắc Hàn và Trung Quốc, là những nơi không có tự do tôn giáo và tự do ngôn luận. Đức Thánh Cha có nghĩ làm cái gì cho các anh chị em đang phải khổ đau vì các tình thế này hay không?

Đáp: Tôi quý trọng Á châu. Có hai chương trình viếng thăm: một tại Nam Hàn để gặp gỡ giới trẻ Á châu, rồi vào tháng giêng năm tới có một chuyến viếng thăm Sri Lanka và Philipines trong vùng đã bị tai nạn sóng thần. Vấn đề không được tự do hành đạo không phải chỉ có tại vài nước Á châu, mà cũng có tại các nước khác trên thế giới nữa. Tự do tôn giáo không phải là điều có trong tất cả mọi nước. Có vài nước kiểm soát tự do tôn giáo một cách nhẹ nhàng và an bình, các nước khác đưa ra các biện pháp kết cục trở thành một việc thực sự bách hại các kitô hữu. Có các vị tử đạo, ngày nay có các kitô hữu chết vì đạo. Tín hữu công giáo và không công giáo, nhưng là những người chết vì đạo. Và tại một vài nước không thể đeo Thánh Giá hay không thể có một cuốn Thánh Kinh. Không thể dậy giáo lý cho trẻ em ngày nay. Và tôi tin rằng mình không lầm, tin rằng trong thời đại này có nhiều người chết vì đạo hơn là trong các thời gian đầu của Giáo Hội. Tại vài nơi chúng ta phải tới gần một cách thận trọng để trợ giúp các anh chị em ấy. Chúng ta phải cầu nguyện nhiều cho các Giáo Hội dau khổ này: họ đau khổ nhiều lắm. Các Giám Mục và Tòa Thánh kín đáo hoạt động để trợ giúp các nước này, trợ giúp kitô hữu của các nước này. Nhưng đây không phải là điều dễ dàng. Chẳng hạn, tôi xin nói với anh một điều này. Trong một nước có lệnh cấm cầu nguyện chung với nhau. Nhưng các kitô hữu sống tại đó lại muốn cử hành Thánh Thể. Có một ông thợ là linh mục. Ngài đến và ngồi vào bàn giả bộ uống trả, nhưng họ cử hành Thánh thể. Nếu có cảnh sát đến, họ dấu ngay các sách lễ đi, và đang uống trà. Điều này xảy ra ngày nay đấy. Không dễ dàng đâu!

Cha Lombardi nói: Con hy vọng Đức Thánh Cha cũng sẽ mau đến thăm Nhật Bản nữa… Tốt lằm, hơn nửa giờ rồi. Con tin là chúng ta cũng có bổn phận phải săn sóc sức khỏe của mình và sự nghỉ ngơi của Đức Thánh Cha nữa. Vì thế… Đức Thánh Cha nói là ngài muốn tiếp tục, hay các nhà báo phải tiếp tục. Tiếp tục nữa? Tiếp tục. Vậy thì tốt. Anh chị em thấy chưa, tôi muốn bảo vệ Đức Thánh Cha, nhưng mà ngài không muốn. Như thế chúng ta tiếp tục với nhóm tiếng Ý, với câu hỏi của anh Fausto Gasparoni, phóng viên của hãng tin ANSA.

Hỏi: Thưa Đức Thánh Cha, trong triều đại của ngài Đức Thánh Cha đương đầu với nhiều dấn thân, và ngài làm điều đó một cách rất sít sao đầy đặc, như chúng ta thấy trong các ngày này. Nếu mai kia, trong một ngày không xa, Đức Thánh Cha cảm thấy không còn sức để chu toàn sứ vụ của mình nữa, Đức Thánh Cha có nghĩ tới cùng lựa chọn từ bỏ sứ vụ như vị tiền nhiệm đã làm hay không?

Đáp: Tôi sẽ làm điều Chúa sẽ nói tôi làm: cầu nguyện, tìm kiếm ý muốn của Thiên Chúa. Nhưng tôi tin rằng Đức Thánh Cha Biển Đức XVI không phải là một trường hợp duy nhất, nhưng đã xảy ra là ngài đã không có sức, và nói một cách liêm chính, ngài là một con người của lòng tin, rất mực khiêm nhường, ngài đã lấy quyết định này. Tôi tin rằng ngài là một sự mở ra: cách đây 70 năm hầu như đã không có các giám mục về hưu. Nhưng bây giờ có rất nhiều. Điều gì sẽ xảy ra đối với các giáo hoàng về hưu? Tôi tin rằng chúng ta phải nhìn vào ngài như là một mở ra. Ngài đã mở ra một cánh cửa, cánh cửa của các Giáo Hoàng về hưu. Sẽ có nhiều vị khác nữa, hay không có. Chỉ có Thiên Chúa biết. Nhưng cánh cửa này đã được mở ra: tôi tin rằng một Giám Mục Roma, một Giáo Hoàng cảm thấy sức lực của mình yếu kém đi, bởi vì bây giờ người ra sống lâu – thì phải tự đặt các câu hỏi như Đức Thánh Cha Biển Đức đã làm.

Bây giờ chúng ta nhường lời cho anh John Allen thuộc nhóm tiếng Anh.

Hỏi: Thưa Đức Thánh Cha, hôm nay Đức Thánh Cha đã gặp một nhóm những người sống sót của cuộc diệt chủng Do thái. Đức Thánh Cha biết có một gương mặt còn gợi lên nhiều bối rối đối với vai trò của ngài trong cuộc diệt chủng: đó là Đức Pio XII vị tiền nhiệm của Đức Thánh Cha. Chúng con muốn biết tại sao trước khi làm Giáo Hoàng, Đức Thánh Cha đã viết và đã nói rằng mình ngưỡng mộ Đức Pio XII, nhưng cũng muốn thấy các văn khố được mở ra, trước khi đi đến một kết luận vĩnh viễn. Như thế chúng con muốn biết – vì Đức Thánh Cha mới tôn hai vị tiền nhiệm lên hàng hiển thánh – vậy Đức Thánh Cha có ý định tiếp tục tiến trình điều tra trước khi quyết định tôn phong chân phước cho Đức Pio XII hay không?

Đáp: Án liên quan tới Đức Pio XII đã được mở. Tôi đã hỏi tin tức, chưa có phép lạ nào, và nếu không có các phép lạ, thì không thể tiến tới được. Và nó dừng ở đó. Chúng tôi phải chờ đợi thực tại, xem thực tại của án phong tiến triển như thế nào, rồi mới nghĩ tới việc quyết định được. Nhưng sự thực là điều này: chưa có phép lạ nào, và cần phải có một phép lạ cho việc tuyên phong chân phước. Án phong của Đức Pio XII ngày nay là như thế. Và tôi không thể nghĩ là có phong chân phước cho ngài hay không, bởi vì tiến trình chậm.

Bây giờ thì đến lượt Argentina từ một nhân vật mà Đức Thánh Cha biết: đó là chị Elisabetta Piqué.

Hỏi: Đây là môt câu hỏi của nhóm nói tiếng Tây Ban Nha phối hợp với Mêhicô. Đức Thánh Cha đã trở thành một vị lãnh đạo tinh thần và cả chính trị nữa, và Đức Thánh Cha đang mở ra nhiều viễn tượng bên trong Giáo Hội cũng như bên ngoài cộng đồng quốc tế. Bên trong Giáo Hội chẳng hạn hhư điều gì sẽ xảy ra với việc cho các cặp ly dị tái hôn được rước Mình Thánh Chúa, và trong cộng đồng quốc tế như việc làm trung gian gây kinh ngạc cho thế giới, về cuộc gặp gỡ tại Vaticăng… Đức Thánh Cha không sợ bị thất bại hay sao? Và bây giờ con xin hỏi bằng kiểu nói Tây Ban Nha ”Đức Thánh Cha không đang bỏ qúa nhiều thịt vào lửa” hay sao, khi dấy lên nhiều chờ mong như vậy; Đức Thánh Cha không sợ gặp vài thất bại nào đó hay sao?

Đáp: Trước hết tôi xin giải thích rõ về cuộc gặp gỡ tại Vaticăng: đó sẽ là một cuộc gặp gỡ cầu nguyện, chứ không phải để làm trung gian hay tìm ra các giải pháp. Không. Chúng tôi sẽ họp nhau để cầu nguyện thôi. Rồi mỗi người trở về nhà mình. Nhưng tôi tin rằng lời cầu nguyện quan trọng và cùng nhau cầu nguyện mà không thảo luận, điều này trợ giúp. Đó sẽ là một cuộc gặp gỡ cầu nguyện: sẽ có một rabbi, một vị lãnh đạo hồi giáo và tôi. Tôi đã xin vị Quản thủ Thánh Địa tổ chức các điều này cho cụ thể một chút.

Thứ hai, xin cám ơn câu hỏi liên quan tới các người đã ly dị. Thượng Hội Đồng Giám Mục sẽ bàn về gia đình, về vấn đề của gia đình, các sự phong phú của gia đình, về tình trạng hiện nay của gia đình. Tài liệu trình bầy trước của Đức Hồng Y Kasper đã có 5 chương: 4 chương về gia đình, các hay đẹp của gia đình, nền tảng thần học, vài vấn đề gia đình; và chương 5 nói về mục vụ cho những người ly thân, việc tiêu hôn và các người ly dị. Trong vấn đề này cũng có việc rước lễ. Tôi không thích nghe nhiều người, kể cả các linh mục, nói: ”Ah, Thượng Hội Đồng Giám Mục cho các người ly dị rước lễ”. Và họ đi đến đó. Tôi đã nghe làm như thể là mọi chuyện được giản lược vào một trường hợp nghi nghĩa (Casistica). Nhưng mà không. Việc này tế nhị và rộng rãi hơn nhiều. Ngày nay chúng ta đều biết gia đình bị khủng hoảng, và nó là cuộc khủng hoảng toàn cầu. Người trẻ không muốn lập gia đình, hay không muốn lấy nhau, nhưng chung sống, hôn nhân bị khủng hoảng và gia đình bị khủng hoảng. Và tôi không muốn chúng ta rơi vào trường hợp nghi nghĩa này: ”có thể hay không có thể” . Vì thế tôi cám ơn chị đã đưa ra câu hỏi này, bởi vì nó cho tôi dịp giải thích vấn đề. Vấn đề mục vụ gia đình rất là rộng rãi. Và phải cứu xét từng trường hợp một. Có một điều đó là Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã ba lần đề cập tới những người ly dị, và người đã giúp tôi nhiều lắm. Một lần tại Alto Adige, một lần khác tại Milano, và lần thứ ba tôi không nhớ ở đâu, à, tại Hội nghị Hồng Y công khai để chỉ định các Tân Hồng Y, bởi vì hội nghị cuối cùng là hội nghị riêng nhằm duyệt xét các các tiến trình hủy bỏ hôn nhân, cho một ít người, xem xét niềm tin qua đó một người tiến tới hôn nhân và minh giải rằng các người ly dị không bị vạ tuyệt thông, nhưng biết bao lần họ bị đối xử như những người bị vạ tuyệt thông. Đây là vấn đề nghiêm trọng. Thượng Hội Đồng sẽ bàn về gia đình: các phong phú, các vấn đề của gia đình, các giải pháp, việc tiêu hôn. Cũng sẽ có vấn đề liên quan tới các người đã ly dị tái hôn. Trong tháng thứ hai triều đại của tôi Đức Cha Eterovic, thư ký Thượng Hội Đồng Giám Mục, đã tới gặp tôi với ba đề tài mà Hội đồng hậu thượng hội đồng giám mục đề nghị cho Thượng Hội Đồng Giám Mục tới. Đề nghị thứ nhất rất mạnh mẽ và tốt liên quan tới ”điều Chúa Giêsu Kitô đem tới cho con người ngày nay”. Nó tiếp tục Thượng Hội Đồng Giám Mục về rao giảng Tin Mừng. Tôi đã chấp nhận và chúng tôi đã thảo luận một chút về việc cải tổ phương pháp, và sau cùng tôi nói: ”Chúng ta hãy thêm vào một cái gì đó: điều Chúa Giêsu Kitô đem tới cho con người và gia đình ngày nay”. Thế rồi tôi đi tham dự phiên họp thứ nhất của hội đồng, tôi thấy người ta nói tới toàn đề tài, rồi từ từ người ta nói tới ”điều Chúa Giêsu Kitô đem tới cho gia đình” và ”Thượng Hội đồng giám Mục về gia đình” mà không nhận ra. Tôi chắc chắn là Thần Khí Chúa đã hướng dẫn chúng tôi chọn tựa đề này, bởi vì ngày nay gia đình cần các trợ giúp mục vụ. Chị Elisabetta, tôi không biết đã có giải thích rõ ràng một chút không?

Chúng ta còn vài người trong danh sách nhưng xin mời chị Philipine de Saint Pierre, tân giám đốc đài truyền hình công giáo Pháp, và chúng tôi cũng chúc mừng chị.

Hỏi: Thưa Đức Thánh Cha, câu hỏi của con cũng là của nhóm các nhà báo tiếng Pháp. Đức Thánh Cha có thể cho chúng con biết đâu là các chướng ngại cho việc cải tổ các cơ quan Trung Ương Tòa Thánh Roma, và hôm nay chúng ta đang ở điểm nào rồi không?

Đáp: Mà chướng ngại đầu tiên là tôi đây chứ ai… Nhưng chúng ta ở điểm tốt, bởi vì tôi tin rằng tôi không nhớ ngày tháng nhưng ba tháng, phải ba tháng hay ít hơn, sau ngày tôi được bầu làm Giáo Hoàng đã có Hội đồng 8 Hồng Y được thành lập.

(Cha Lombardi nhắc ngài là một tháng).

À, một tháng sau khi được bầu. Rồi trong các ngày đầu tháng 7 chúng tôi đã họp nhau lần đầu tiên, và từ đó tới nay chúng tôi làm việc. Hội đồng làm việc gì? Hội đồng duyệt xét toàn Tông hiến ”Pastor Bonus” và các cơ quan Trung Ương Roma. Hội đồng đã tham khảo ý kiến với các Hội Đồng Giám Mục toàn thế giới, với tất cả các cơ quan trung ương Tòa Thánh và bắt đầu nghiên cứu vài điều. Điều này có thể làm như thế này điều kia làm như thế kia. Nhập vài cơ quan làm một để giảm nhẹ tổ chức … Một trong những điểm chìa khóa đã là vấn đề kinh tế. Và cơ quan kinh tế sẽ trợ giúp rất nhiều. Nó phải làm việc với Phủ Quốc Vụ Khanh, bởi vì nó là một kết hợp. Mọi người làm việc với nhau. Vào tháng 7 tới chúng tôi có bốn ngày làm việc với Ủy ban này, rồi vào tháng 9, tôi tin vậy, sẽ có bốn ngày làm việc nữa. Người ta làm việc khá nhiều. Và người ta chưa trông thấy tất cả các kết qủa. Nhưng kết qủa kinh tế là kết qủa đầu tiên, bởi vì có vài vấn đề mà báo chí đã nói tới khá nhiều, và chúng tôi phải xem xét thấy chúng. Các chướng ngại là các chướng ngại bình thường của toàn tiến trình. Nghiên cứu con đường… Sự tin chắc rất là quan trọng. Đây là một công việc của sự tin chắc, của việc trợ giúp. Có vài người không trông thấy rõ vấn đề, nhưng mọi cải tổ đều tạo ra các điều này. Nhưng tôi hài lòng, thật sự hài lòng. Chúng tôi đã làm việc khá nhiều, và Ủy ban này trợ giúp chúng tôi biết bao.

Cha Lombardi đã chân thành cám ơn Đức Thánh Cha quá quảng đại, vì sau chuyến viếng thăm ngoại thường khiến mọi ngươi cản động như vậy, đã dành cho các nhà báo gần một giờ phỏng vấn. Cha cầu chúc cuộc gặp gỡ cầu nguyện do Đức Thánh Cha đề ra đem lại nhiều kết qủa và hòa bình trên thế giới mà mọi người mong ước. Đức Thánh Cha cám ơn các nhà báo về sự đồng hành và sự khoan dung. Và ngài xin họ cầu nguyện cho ngài, vì ngài cần nhiều lời cầu nguyện.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio
 

Phòng Tiệc Ly là nơi Giáo Hội khai sinh và từ đó chảy ra con suối bác ái trở thành dòng sông lớn

Phòng Tiệc Ly là nơi Giáo Hội khai sinh và từ đó chảy ra con suối bác ái trở thành dòng sông lớn

Phòng Tiệc Ly là nơi Giáo Hội khai sinh và từ đó chảy ra con suối bác ái trở thành dòng sông lớn. Nó nhắc nhớ hy lễ, việc phục vụ, tình bạn, sự chia sẻ, tình huynh đệ, sự hòa hợp và bình an. Từ Phòng Tiệc Ly Giáo Hội đã khởi hành với Bánh được bẻ ra giữa các bàn tay, với các vết thương của Chúa Giêsu trong đôi mắt, và Chúa Thánh Thần tình yêu trong con tim.

Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói như trên trong bài giảng thánh lễ đồng tế với các Hồng Y, Thượng Phụ và Giám Mục trong Phòng Tiệc Ly lúc 17 giờ 20 chiều thứ hai 26-5-2014. Đây cũng là Sinh hoạt cuối cùng của Đức Thánh Cha Phanxicô trong ngày thứ ba viếng thăm Thánh Địa.

Sau khi gặp các linh mục tu sĩ nam nữ trong Vương cung thánh đường Giệtsêmani, Đức Thánh Cha đã trồng một cây ô liu bên cạnh cây ô liu Đức Phaolô VI đã trồng cách đây 50 năm trong vườn Cây Dầu. Tiếp đến ngài đã đi xe tới Phòng Tiệc Ly nằm cách đó 2 cây số trong thành cổ Giêrusalem.

Phòng Tiệc Ly là chiếc nôi của Giáo Hội khai sinh, nơi Chúa Giêsu Kitô đã thành lập chức Linh Mục, các Bí tích Thánh Thể và Hòa Giải. Từ ”Coenaculum” tiếng La tinh ám chỉ nơi dùng bữa tối, nhưng nói chung nó ám chỉ tầng trên nơi tiếp khách trong nhà. Sự xác thực của Phòng Tiệc Ly đã rất cổ xưa, từ thế kỷ thứ III. Vào thế kỷ thứ IV có một nhà thờ mới được xây gần Phòng Tiệc Ly gọi là nhà thờ ”Thánh Sion”. Năm 614 nhà thờ này bị người Hồi tàn phá, khi người Hồi xâm lăng Thánh Địa. Nó được tái thiết rồi lại bị người Hồi phá hủy. Khi Đạo Binh Thập Tự tới Thánh Địa, nhà thờ ở trong tình trạng đổ nát, chỉ trừ nhà nguyện nguyện hai tầng của Phòng Tiệc Ly. Đạo Binh Thập Tự Kitô đã xây một vương cung thánh đường ba gian dọc gồm ”Phòng bên trên, tức Nhà nguyện Tiệc Ly, ”nơi Đức Maria ngủ” và một nhà nguyện bên dưới kỷ niệm biến cố Chúa Giêsu rửa chân cho các môn đệ.

Năm 1187 thành Giêrsusalem bị thất thủ và rơi vào tay Saladino. Người Hồi cho phép kitô hữu hành hương thăm viếng và các linh mục có thể cử hành thánh lễ trong Phòng Tiệc Ly. Khi các tu sĩ Phanxicô tới Thánh Địa năm 1335 vương cung thánh đường do Đạo binh Thập tự xây bị bỏ hoang và hầu như bị tàn phá hoàn toàn. Sau nhiều thương thuyết dài và khó khăn với Sultan Ai Cập và trả một số tiền rất lớn, vua Roberto của vương quốc Napoli và hoàng hậu Sancia đã thành công trong việc giao cho các tu sĩ dòng Phanxicô trông coi Nhà Tiệc Ly. Các tu sĩ tái thiết với sự trợ giúp của các nghệ sĩ đảo Chypre, theo mô hình đầu tiên hai tầng. Các tu sĩ cũng xây một tu viện bên cạnh cho các anh em đặc trách quản trị các nơi thánh tại Giêrusalem và Bếtlêhem. Cha bề trên tu viện được nhận chức là ”Người canh giữ Núi Sion”.

Năm 1524 người Hồi chiếm các phòng bên dưới Phòng Tiệc Ly, vì cho đó là ”Mộ của ngôn sứ Đavít”. Tiếp đến đế quốc Ottoman ra sắc lệnh lấy lại cả Phòng Tiệc Ly ở tầng trên, và buộc các tu sĩ Phanxicô phải bỏ cả tu viện bên cạnh. Phòng Tiệc Ly bị biến thành đền thờ Hồi giáo, và chính quyền hồi cấm các kitô hữu lui tới nơi này.

Trong phòng bên dưới có một mộ kỷ niệm không hài cốt gọi là ”Mộ vua Đavít”, là đích điểm hành hương của tín hữu Do thái có khuynh hướng quốc gia, cả khi thiếu nền tảng lịch sử và khảo cổ liên quan tới mộ vua Đavít tại đây. Nhà nguyện phía trước, xưa kia là nhà nguyện ghi nhớ biến cố Chúa Giêsu rửa chân cho các môn đệ, biến thành hội đường do thái.

Nhà nguyện Tiệc Ly bên trên dài 15,3 mét rộng 9,4 mét được tái thiết theo kiểu Gôtích hồi thế kỷ XIV, có một cầu thang nối liền tầng dưới với tầng trên gồm 8 bậc dẫn lên nhà nguyện kỷ niệm biến cố Chúa Thánh Thần hiện xuống. Người ta cũng thấy cái ”Mihrab” xây năm 1929, khi nhà nguyện bị biến thành đền thờ Hồi giáo, chỉ cho tín hữu Hồi giáo thấy hướng thành phố La Mecca. Đức Phaolô VI đã cầu nguyuện tại đây ngày mùng 5 tháng giêng năm 1964, Đức Gioan Phaolô II đã dâng thánh lễ tại đây ngày 23 tháng 3 năm 2000, và Đức Biển Đức XVI ngày 12 tháng 5 năm 2009.

Hiện nay Phòng Tiệc Ly là sở hữu của chính quyền Israel, nhưng nằm dưới quyền tài phán của Ủy ban hồi quản trị các nơi thánh Hồi giáo của Giordania và chỉ được dùng cho cac lễ nghi tôn giáo, và vua Abdullah II là thủ lãnh tối cao của Ủy ban này.

Các tu sĩ Phanxicô đã dọn một bàn thờ với các ghế cho các vị đồng tế. Giảng trong thánh lễ kính Chúa Thánh Thần Đức Thánh Cha nói:

Anh em thân mến, thật là một ơn lớn lao Chúa ban cho chúng ta, được tụ họp nhau nơi đây trong Phòng Tiệc Ly để cử hành Bí tích Thánh Thể. Nơi đây Chúa Giêsu đã ăn bữa Tiệc Chiều sau hết với các Tông Đồ; nơi ngài đã hiện ra giữa các vị sau khi sống lại; nơi Chúa Thánh Thần đã hiện xuống với quyền lực trên Mẹ Maria và các môn đệ. Đây là nơi Giáo Hội sinh ra và ra đi. Từ đây Giáo Hội đã khởi hành với Bánh được bẻ ra giữa các bàn tay, với các vết thương của Chúa Giêsu trong đôi mắt, và Chúa Thánh Thần tình yêu trong con tim. Chúa Giêsu phục sinh được Chúa Cha gửi đến trong Phòng Tiệc Ly thông truyển cho các Tông Đồ cùng Thần Khí của Người, và với sức mạnh này Ngài gửi các vị ra đi canh tân gương mặt của trái đất (x. Tv 104,30).

Đi ra, khởi hành không có nghĩa là quên lãng. Giáo Hội đi ra giữ gìn ký ức những điều đã xảy ra; Chúa Thánh Thần nhắc cho Giáo Hội nhớ từng lời nói, từng cử chỉ và vén mở ý nghĩa của chúng. Phòng Tiệc Ly nhắc cho chúng ta biết việc phục vụ và rửa chân mà Chúa Giêsu đã thành toàn, như mẫu gương cho các môn đệ Người. Rửa chân cho nhau có nghĩa là tiếp đón nhau, chấp nhận nhau, yêu thương nhau, phục vụ lẫn nhau. Có nghĩa là phuc vụ người nghèo, người đau yếu, người bị loại trừ. Với Thánh Thể Phòng Tiệc Ly nhắc chúng ta nhớ tới hy lễ. Trong mỗi buổi cử hành Thánh Thể Chúa Giêsu tự hiến cho Thiên Chúa Cha vì chúng ta, để chúng ta cũng có thể hiệp nhất với Người, dâng cuộc sống, công việc làm, các vui buồn khổ đau của chúng ta cho Thiên Chúa, dâng mọi sự như hy lễ tinh thần.

Phòng Tiệc Ly nhắc chúng ta nhớ tới tình bạn. Chúa Giêsu nói với nhóm Mười Hai: ”Thầy không gọi các con là tôi tớ… nhưng là bạn hữu” (Ga 15,15). Chúa làm cho chúng ta trở thành bạn của Người, ký thác cho chúng ta ý muốn của Thiên Chúa Cha và ban chính Người cho chúng ta. Đó là kinh nghiệm đẹp nhất của kitô hữu, và một cách đặc biệt của linh mục: trở thành bạn của Chúa Giêsu.

Tiếp tục bài giảng thánh lễ cử hành trong Phòng Tiệc Ly Đức Thánh Cha nói: Phòng Tiệc Ly nhắc nhớ cuộc từ biệt và lời hứa gặp lại các bạn của Người: ”Khi Thầy sẽ đi rồi…. Thầy sẽ lại đến và đem các con đi với Thầy, để Thầy ở đâu thì các con cũng ở đó” (Ga 14,3). Chúa Giêsu không rời chúng ta, Người không bao giờ bỏ rơi chúng ta, Người đi trước chúng ta trong nhà của Chúa Cha và Người muốn đem chúng ta tới đó. Tuy nhiên Phòng Tiệc Ly cũng nhằc nhớ tới điều tiêu cực, Đức thánh Cha nói:
Nhưng Phòng Tiệc Ly cũng nhắc nhớ sự nhỏ nhen, tính tò mò ”ai là người phản bội?”, sự phản bội. Và mọi người trong chúng ta, chứ không luôn luôn phải là người khác, có thể sống lại các thái độ này, khi chúng ta nhìn người anh em với sự tự mãn, khi chúng ta phán xét họ, khi chúng ta phản hội Chúa Giêsu với các tội lỗi của chúng ta.

Phòng Tiệc Lỵ nhắc nhở sự chia sẻ, tình huynh đệ, sự hòa hợp, sự bình an giữa chúng ta. Đã có biết bao nhiêu tình yêu thương, biết bao nhiêu điều thiện đã nảy sinh từ Phòng Tiệc Ly! Biết bao nhiêu bác ái đã xuất phát từ đây, như một dòng sông chảy từ nguồn, ban đầu chỉ là một con suối nhỏ rồi lan rộng và trở thành con sông lớn… Tất cả các Thánh đã kín múc từ đây; dòng sông lớn sự thánh thiên của Giáo Hội luôn luôn bắt nguồn từ đây, luôn luôn mới mẻ, từ Trái Tim Chúa Kitô, từ Thánh Thể, từ Thần Khí Thánh của Người.

Sau cùng Phòng Tiệc Ly nhắc chúng ta nhớ tới sự khai sinh của gia đình mới, Giáo Hội, do Chúa Giêsu phục sinh thành lập. Một gia đình có một Bà Mẹ là Đức Trinh Nữ Maria. Các gia đình kitô thuộc đại gia đình này, và tìm thấy trong đó ánh sáng và sức mạnh để bước đi và canh tân, qua các nhọc mệt và thử thách của cuộc sống. Tất cả mọi con cái Thiên Chúa thuộc mọi dân tộc và ngôn ngữ đều được mời gọi thuộc gia đình này, tất cả là anh em và là con cái của một Cha duy nhất ở trên trời. Đó là chân trời của Phòng Tiệc Ly: chân trời của Chúa phục sinh và của Giáo Hội.

Từ đây Giáo Hội ra đi, được linh hoạt bởi Thần Khí. Tụ tập cầu nguyện với Mẹ Chúa Giêsu, Giáo Hội luôn sống trở lại sự chờ đợi Thánh Thần được tuôn đổ xuống một lần nữa: Lậy Chúa, xin Thần Khí Chúa xuống và canh tân mặt đầt (c. Tv 104,30).

Sau Thánh Lễ Đức Thánh Cha đã bắt tay chào các tu sĩ nam nữ và giáo dân hiện diện bên ngoài, kể cả mấy cảnh sát. Tiếp đến ngài đi xe đến núi Scopus cách đó 5 cây số để lấy trực thăng bay về phi trường Ben Gourion ở Tel Aviv. Tại đây lễ nghi từ biệt đã diễn ra lúc 8 giờ chiều. Đức Thánh Cha, tổng thống Perez và Thủ tướng Netanyahu đã duyệt hàng chào danh dự. Đức Thánh Cha đã bắt tay từ biệt các giới chức đạo đời và cả các cảnh sát viên và nhân viên phục vụ phi trường.

Tổng thống và Thủ tướng Israel đã tiễn Đức Thánh Cha tới tận chân thang máy bay. Khi bắt tay từ biệt Đức Thánh Cha Thủ tướng Netanyahu đã nói: ”Xin Đức Thánh Cha cầu nguyện cho chúng tôi, và chúng tôi cũng cầu nguyện cho ngài”. Lên tới cửa máy bay Đức Thánh Cha còn quay lại giơ tay chào mọi người. Ngài bắt tay các nhân viên phi hành đoàn trước khi vào ghế ngồi. Trong khi chờ đợi máy bay cất cánh, ống kính đài truyền hình Israel cho thấy Đức Thánh Cha đọc báo. Chiếc máy bay của hãng hàng không El Al B777 của Israel đã rời phi trường Tel Aviv lúc 8 giờ 20 tối thứ hai và đáp xuống phi trường Ciampino lúc 11 giờ đêm. Từ đó Đức Thánh Cha đã đi trực thăng về Vaticăng kết thúc chuyến viếng thăm Thánh Địa ba ngày.

*** Tuy chương trình ba ngày viếng thăm dầy đặc và khá mệt mỏi nhưng trên đường về Roma Đức Thánh Cha cũng đã dành cho các nhà báo một cuộc phỏng vấn đài 50 phút vế tất cả mọi vấn đề. Cha Lombardi Giám đốc phòng báo chí Tòa Thánh đã cám ơn Đức Thánh Cha dành thời giờ cho các nhà báo sau chuyến viếng thăm mệt nhọc này. Chị Cristina Caricato thuộc đài truyền hình 2000 đã hỏi Đức Thánh Cha:

Hỏi: Thưa Đức Thánh Cha, trong các ngày qua Đức Thánh Cha có các cử chỉ được chú ý trên toàn thế giới: đặt tay trên bức tường tại Bếtlehem, làm dấu thánh giá, ôm hôn những người do thái sống sót của các trại tập trung tại Yad Vashem, ôm hôn Đức Thượng Phụ Bartolomaios và các vị lãnh đạo các Giáo Hội Kitô khác tại Thánh Mộ. Đức Thánh Cha đã nghĩ trước và muốn có các cử chỉ đó hay sao, và đâu sẽ là các kết qủa của chúng ngoài cử chỉ rất lớn là đã mời hai tổng thổng Perez và Abu Mazen tới Vaticăng?

Đáp: Các cử chỉ chân thực nhất là các cử chỉ không được nghĩ trước, nhưng chúng tới. Tôi đã nghĩ ”Có thể làm một cái gì đó”, nhưng các cử chỉ cụ thể thì không có cử chỉ nào được nghĩ trước cả. Vài cử chỉ như cử chỉ mời hai tổng thống tham dự buổi cầu nguuện chung thì có được nghĩ là làm ở đó, nhưng có biết bao nhiêu vấn đề khung cảnh nơi chốn phải để ý, và không phải là điều dễ. Tôi có nghĩ một chút tới vấn đề này, nhưng sau cùng thì xảy ra điều mà tôi hy vọng là tốt. Nhưng chúng đã không được nghĩ và tính toán trước. Tôi thấy cần phải làm điều gì đó, nhưng nó tự phát, thế thôi. Ít nhất nói thật ra thì tôi nghĩ ”có thể làm một cái gì đó”, nhưng cụ thể thì không. Chẳng hạn tại đài tưởng niệm Yad Vashem, không có gì hết, nhưng rồi nó tới. Và như vậy đó.

Câu thứ hai của anh Frank Rocca, nhà báo hãng tin công giáo của Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ, đại diện nhóm nói tiếng Anh.

Hỏi: Thưa Đức Thánh Cha, Đức Thánh Cha đã có những lời lẽ rất mạnh mẽ chống lại việc lạm dụng tính dục của trẻ em vị thành niên từ phía hàng giáo sĩ, các linh mục. Đức Thánh Cha đã thành lập một Ủy ban đặc biệt để đương đầu với vần đề này trên bình diện Giáo Hội hoàn vũ. Chúng ta biết rằng trên thực tế trong tất cả mọi Giáo Hội địa phương có các điều luật bắt buộc luân lý và pháp luật cộng tác với các chính quyền dân sự cách này hay cách khác. Nhưng nếu có một Giám Mục không tuân hành các đòi buộc này thì Đức Thánh Cha sẽ giải quyết ra sao: bó buộc vị ấy từ nhiệm, hay có các hình phạt khác? Trong cụ thể làm thế nào để có kỷ luật?

Đáp: Bên Argentina chúng tôi thường nói với những người có đặc quyền đặc lợi: ”Người này là một con ông cháu cha đó”. Nhưng trong vấn đề này thì sẽ không có ”con ông cháu cha” đâu. Trong lúc này có ba Giám Muc đang bị điều tra, và một vị đã bị kết án, và người ta đang lượng định hình phạt cần đưa ra. Không có các đặc quyền đặc lợi. Lạm dụng tính dục các trẻ vị thành niên là một tội thật xấu xa hết sức, chúng ta biết đó là một vấn đề nghiêm trọng khắp nơi, nhưng tôi chỉ chú ý tới Giáo Hội. Một linh mục làm điều đó là phản bội Thân Mình của Chúa, bởi vì linh mục ấy phải đưa bé trai, bé gái, thanh niên, thiếu nữ này tới với sự thánh thiện, vì các em tin tưởng vị linh mục. Nhưng thay vì dẫn đưa chúng tới sự thánh thiện thì lại lạm dụng chúng. Đây là điều rất trầm trọng. Cũng y như – tôi chỉ so sánh thôi – cũng y như cử hành một lễ đen vậy, chẳng hạn. Cần phải đưa nó tới sự thánh thiện, thì lại đưa nó tới một vấn đề kéo dài suốt đời. Sẽ có thánh lễ tại nhà trọ Santa Martha với nạn nhân bị lạm dụng tính dục với Đức Hồng Y O'Malley thuộc Ủy ban này: tôi sẽ gặp riêng họ. Liên quan tới điều này phải tiến tới. Và không có sự nhân nhượng.

Câu hỏi thứ ba của anh Eusebio Val phóng viên báo ”LaVanguardia” nhật báo lớn nhất tại Barcelona, đại diện cho nhóm nói tiếng Tây Ban nha.

Hỏi: Thưa Đức Thánh Cha, ngay từ ngày đầu sứ vụ Đức Thánh Cha đã gióng sứ điệp của một Giáo Hội nghèo và cho người nghèo, nghèo trong sự đơn sơ và khổ hạnh. Nhưng đôi khi chúng con trông thấy các gương mù gương xấu chẳng hạn như vụ căn hộ của Đức Hồng Y Bertone, hay buổi lễ ngày phong Thánh hoặc trở lại với chuyện liên quan tới Đức Hồng Y Bertone, sự hỗn loạn của Viện giáo vụ hay nhà băng Vatican liên quan tới 15 triệu Euros… Đức Thánh Cha nghĩ sao? Phải làm sao để đừng có các mâu thuẫn chống lại sứ điệp của sự khắc khổ?

Đáp: Có một lần Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ Người trong Phúc Âm: ”Không thể tránh được các gương mù gương xấu. Chúng ta là người, tất cả là người tội lỗi. Và sẽ có các gương mù gương xấu. Vấn đề là tránh để đừng xảy ra nhiều gương mù gương xấu hơn. Trong việc quản trị kinh tế cần có sự liêm chính và trong sáng. Hai ủy ban: ủy ban nghiên cứu Viện giáo vụ IOR và Ủy ban nghiên cứu mọi vấn đề của thành Vaticăng đã đưa ra các kết luận và đưa ra các chương trình hành động. Giờ đây với Văn phòng thư ký kinh tế do Đức Hồng Y Pell làm chủ tịch, các cải tổ do hai ủy ban cố vấn sẽ được thực thi. Nhưng có các việc không ăn khớp, và sẽ luôn có các việc không ăn khớp, bởi vì chúng ta là người, nhưng việc cải tổ phải được tiếp tục.

Các Giáo Phụ đã nói: ”Ecclesia semper reformanda” Giáo Hội luôn luôn cải cách. Chúng ta phải chú ý cải tổ Giáo Hội mỗi ngày, bởi vì chúng ta tội lỗi, chúng ta yếu đuối, và sẽ có các vấn đề. Việc quản trị mà Văn phòng thư ký kinh tế đang làm sẽ giúp minh nhiên các gương mù gương xấu, các vấn đề… Chẳng hạn trong Viện giáo vụ tức nhà băng Vaticăng tôi tin là ở thời điểm này chúng đã được đóng lại. Số người không có quyền mở trương mục là 1,600. Tổ chức IOR là để giúp Giáo Hội. Các giám mục giáo phận, các nhân viên Vatican và các người chồng hay vợ góa của họ có quyền có trương mục. Những người khác, các tòa đại sứ không có quyền có trương mục. Nhà băng Vatican không phải dành cho mọi người. Và đóng trương mục của những người không có quyền là một việc tốt. Liên quan tới vụ 15 triệu Euros thì còn đang được cứu xét. Nó không rõ ràng. Có lẽ nó là sự thật, nhưng trong lúc này thì vấn đề chưa được xác định. Nó đang được cứu xét để công bằng.

Câu hỏi tiếp là của anh Sébastien Maillard, phóng viên của báo La Croix thuộc nhóm nói tiếng Pháp.

Hỏi: Sau vùng Trung Đông giờ đây chúng ta trở về Âu châu. Đức Thánh Cha có lo lắng vì phong trào Duy nhân dân đang gia tăng tại âu châu như được biểu lộ trong cuộc bỏ phiếu Quốc Hội Âu châu ngày hôm qua hay không?

Đáp: Trong những ngày này tôi đã có một ít giờ cầu nguyện với Kinh Lậy Cha, nhưng tôi không có tin tức về cuộc bầu cử, Tôi không có các dữ kiện, ai thắng ai không thăng. Nhưng mà duy nhân dân trong nghĩa nào?

Hỏi: Trong nghĩa ngày nay nhiều người dân Âu châu lo sợ, họ nghĩ rằng trong Âu châu không có tương lai. Có nhiều người thất nghiệp và đảng chống âu châu đã gia tăng mạnh trong lần bầu cử này…

Đáp: Đây là đề tài tôi đã nghe nói liên quan tới Âu châu, tin tưởng hay không tin tưởng nơi Âu châu, liên quan tới cả đồng Euro nữa. Có người muốn trở lại đàng sau… Tôi không hiểu nhiều lắm về các điều này. Nhưng anh đã cho tôi một từ chìa khóa: nạn thất nghiệp. Đây là điều trầm trọng. Điều trầm trọng, bởi vì tôi giải thích nó như thế này. Chúng ta đang sống trong một hệ thống kinh tế thế giới trong đó tiền bạc là trọng tâm, chứ không phải bản vị con người. Trong một hệ thống kinh tế đích thật con người phải là trung tâm. Nhưng ngày nay ở trung tâm có tiền bạc. Để duy trì điều này, để quân bằng thì phải tiến tới với các biện pháp ”loại bỏ”. Và người ta loại bỏ trẻ em. Mức sinh tại Âu châu không cao. Tôi tin rằng ở Italia được 1.2 %, Pháp được 2% hay hơn một chút, Tây Ban Nha còn thấp hơn Italia chỉ được 1%. Người ta loại bỏ các trẻ em, người ta loại bỏ người già: người già không hữu dụng, trong lúc này người ta còn thăm họ, vì họ đã về hưu và họ cần, nhưng là điều thêm vào thôi. Nhưng tại nhiều nước người ta loại bỏ người già cả với các tình trạng lén lút làm cho chết êm dịu nữa. Nghĩa là người ta cho thuốc mem cho tới một thời điểm nào đó thội. Và trong lúc này đây người ta loại bỏ người trẻ, và đây là điều vô cùng trầm trọng, vô cùng trầm trọng. Tại Italia tôi tin rằng số người trẻ thất nghiệp hầu như tới 40%, tôi không chắc; tại Tây Ban Nha tôi chắc chắn là 50%. Và trong vùng Andalusa nam Tây Ban Nha số người trẻ thất nghiệp là 60%. Điều này có nghĩa là cả một thế hệ của ”Không-không”, họ không học hành và không làm việc và đây là điều vô cùng trầm trọng. Người ta loại bỏ cả một thế hệ người trẻ. Đối với tôi nền văn hóa loại bỏ này rất trầm kha. Nhưng đây không phải chỉ là bên Âu châu mà thôi, mà ở khắp nơi, nhưng người ta cảm thấy nhiều hơn bên Âu châu. Nếu so sánh với nền văn hóa thoải mái cách đây 10 năm! Và đây là điều thê thảm. Đây là lúc khó khăn. Một nền kinh tế vô nhân. Tôi đã không sợ hãi viết trong tông huấn ”Niềm vui của Tin Mừng” rằng: hệ thống kinh tế này giết người. Và tôi lập lại điều đó. Tôi không biết tôi đã tới gần nỗi lo lắng cảu anh một chút hay chưa?

Chị Ilze Scamparini, phóng viên đài Rede Globo Brasil, hỏi Đức Thánh Cha.

Hỏi: Thưa Đức Thánh Cha, Đức Thánh Cha có đồng ý với việc trả lại thành Giêrusaelm cho người Palestine không? Làm thế nào để giải quyết ”vấn đề của thành Giêrusalem” hầu có được một nền hòa bình ổn định và lâu dài, như Đức Thánh Cha đã nói?

Đáp: Có nhiều đề nghị liên quan tới vấn đề Giêrusalem. Giáo Hội công giáo, Toà Thánh Vaticăng, có lập trường của mình trên bình diện tôn giáo: nó sẽ là thành phố của hòa bình của ba tôn giáo. Đó là trên bình diện tôn giáo. Các biện pháp cụ thể cho hòa bình cần được phát xuất từ việc thương thuyết. Phải thương thuyết. Tôi sẽ đồng ý điều phát xuất từ cuộc thương thuyết giả dụ như nó sẽ là thủ đô của nước này và nước kia. Tôi không nói rằng nó phải như vậy; không, đó là giả thuyết mà họ phải thương thảo. Thật thế tôi không cảm thấy mình là chuyên viên để nói rằng ”phải làm cái này cái nọ” nếu không sẽ thật là điên rồ! Nhưng tôi tin rằng cần phải bước vào cuộc thương thuyết với sự liêm chính, tình huynh đệ, sự tin tưởng lẫn nhau trên con đường thương thảo. Và trong đó cần phải thương lượng tất cả: toàn vùng đất và cả các tương quan với nhau nữa Cần phải có can đảm để làm điều đó. Tôi cầu xin Chúa rất nhiều để cho hai vị lãnh đạo, hai chính quyền có can đảm tiến tới. Đó là con đường duy nhất cho hòa bình. Còn Giêrusaelem thế này thế nọ, tôi chỉ nói điều Giáo Hội phải nói và đã luôn luôn nói: đó là ước gì Giêrusalem được giữ gìn như thủ đô của ba tôn giáo, như điểm quy chiếu, như một thành phố hòa bình – tôi cũng nghĩ tới từ thánh thiêng, nó không đúng – nhưng một thành phố hòa bình và tôn giáo.

Bài phỏng vấn còn các câu hỏi liên quan tới vấn đề linh mục có gia đình, tới chuyến viếng thăm Á châu và tình hình của các Kitô hữu khổ đau trong các nước không có tự do tôn giáo và tự do ngôn luận như Trung Cộng và Bắc Hàn, vấn đề từ nhiệm chức vụ Giáo Hoàng, việc phong chân phước cho Đức Pio XII, khả thể cho các tín hữu ly dị tái hôn rước lễ, và tiến trình cải tổ giáo triều Vatican. Chúng tôi sẽ gửi tới qúy vị và các bạn nội dung các câu trả lời của Đức Thánh Cha Phanxicô trong lần phát tới.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Đức Thánh Cha mời gọi tín hữu cầu nguyện thật nhiều cho sự hiệp nhất các tín hữu kitô, cho nền hòa bình tại Thánh Địa, vùng Trung Đông và trên toàn thế giới

Đức Thánh Cha mời gọi tín hữu cầu nguyện thật nhiều cho sự hiệp nhất các tín hữu kitô, cho nền hòa bình tại Thánh Địa, vùng Trung Đông và trên toàn thế giới

Trong buổi tiếp kiến chung hơn 70,000 tín hữu sáng thứ tư 28-5-2014 tại quảng trường Thánh Phêrô, Đức Thánh Cha Phanxicô đã tha thiết mời gọi tín hữu cầu nguyện thật nhiều cho sự hiệp nhất các tín hữu kitô, cho nền hòa bình tại Thánh Địa, vùng Trung Đông và trên toàn thế giới.

Như qúy vị và các bạn đã biết, Đức Thánh Cha vừa mới công du ba nước Jordan, Palestine và Israel về, vì thế trong bài huấn dụ ngài đã chia sẻ với các tín hữu một số cảm tưởng và tâm tình của ngài. Đức Thánh Cha đã không quên cám ơn các giới chức đạo đời, chính quyền Giordania, Palestine và Israel, cũng như tất cả mọi người đã cộng tác để chuyến viếng thăm được diễn ra thành công tốt đẹp.

Nhắc tới kỷ niệm chuyến viếng thăm và cuộc gặp gỡ lịch sử giữa Đức Giáo Hoàng Phaolô VI và Đức Thượng Phụ Athenagoras tại Thánh Địa cách đây 50 năm, Đức Thánh Cha nói: Trong Công Đồng Chung Vaticăng II Đức Phaolô VI đã khai mạc các chuyến công du ngoài nước Italia của các Giáo Hoàng trong thời hiện đại. Cử chỉ ngôn sứ đó của Giám Mục Roma và Đức Thượng Phụ Costantinopoli đã đặt viên đá chỉ đường trên lộ trình đau khổ nhưng nhiều hứa hẹn của sự hiệp nhất giữa mọi kitô hữu, và từ đó tới nay đã có các bước tiến ý nghĩa. Vì thế cuộc gặp gỡ của tôi với Đức Thượng Phụ Bartolomaios, người anh em yêu mến trong Chúa Kitô, đã là cao điểm của chuyến viếng thăm. Chúng tôi đã cầu nguyện tại Mộ Chúa Giêsu cùng với Đức Thượng Phụ chính thống Giêrusalem Theophilos III và Đức Thượng Phụ Armeni Tông truyền Bourhan cũng như các Tổng Giám Mục và Giám Mục của các Giáo Hội khác nhau và các cộng đoàn, các giới chức chính quyền dân sự và nhiều tín hữu. Đức Thánh Cha chia sẻ cảm tưởng của ngài như sau:

Tại đây, nơi đã vang lên lời loan báo sự Phục Sinh, chúng tôi đã cảm thấy tất cả sự cay đắng và khổ đau của các chia rẽ còn hiện hữu giữa các môn đệ Chúa Kitô. Và điều này thật gây đau đớn, gây đau đớn cho con tim. Chúng ta còn chia rẽ. Tại nơi đã vang lên lời loan báo sự Phục Sinh, nơi Chúa Giêsu trao ban sự sống cho chúng ta, chúng ta còn một chút chia rẽ, nhưng nhất là trong buổi cử hành tràn đầy tình huynh đệ, qúy mến và tôn trọng nhau đó, chúng tôi đã cảm thấy mạnh mẽ tiếng nói của vị Mục Tử Nhân Lành Phục Sinh muốn làm cho tất cả mọi con chiên của Người thành một đoàn duy nhất; chúng tôi đã cảm thấy ước mong chữa lành các vết thương còn mở và kiên trì theo đuổi con đường hướng tới sự hiệp thông trọn vẹn. Một lần nữa, như các vị Tiền Nhiệm đã làm, tôi xin lỗi vì những điều chúng ta đã làm để tạo ra sự chia rẽ này, và tôi xin Chúa Thánh Thần giúp chúng ta chữa lành các vết thương mà chúng ta đã gây ra cho các anh em khác. Chúng ta tất cả là anh em trong Chúa Kitô, và với Đức Thượng Phụ Bartolomaios chúng ta là bạn, là anh em, và chúng tôi đã chia sẻ ước muốn cùng nhau tiến bước, làm tất cả những gì có thể, cùng nhau cầu nguyện, cùng nhau làm việc cho đoàn chiên Chúa, tìm kiếm hòa bình, giữ gìn thụ tạo, chúng ta có chung biết bao nhiêu điều. Và như là anh em chúng ta phải tiến tới.

Một mục đích khác của chuyến hành hương này là khích lệ con đường tiến tới hòa bình trong vùng, là ơn của Thiên Chúa đồng thời cũng là dấn thân của con người. Tôi đã làm điều đó tại Jordan, tại Palestine và Israel. Và tôi đã luôn luôn làm điều đó như người hành hương, nhân danh Thiên Chúa và nhân danh con người, và mang theo trong tim một sự thương cảm lớn lao đối với các con cái của vùng Đất này đã sống trong chiến tranh từ qúa lâu rồi, và sau cùng họ có quyền biết tới hòa bình! Vì thế tôi đã khuyến khích các kitô hữu để cho mình được Chúa Thánh Thần ”xức dầu” với con tim rộng mở và ngoan ngoãn, để luôn có khả năng có các cử chỉ khiêm tốn, huynh đệ và hòa giải. Thần Khí cho phép có các thái độ đó trong cuộc sống thường ngày với các người của các nền văn hóa và tôn giáo khác nhau, và như thế trở thành những ”thủ công” của hòa bình. Hòa bình được làm một cách thủ công. Không có các kỹ nghệ chế tạo hòa bình. Nhưng người ta làm hòa bình mỗi ngày một cách thủ công, với con tim rộng mở để ơn của Thiên Chúa tới. Do đó tôi đã khích lệ các kitô hữu để cho mình được ”xức dầu”.

Tại Giordania tôi đã cám ơn chính quyền và nhân dân vì dấn thân của họ tiếp đón nhiều người tỵ nạn đến từ các vùng chiến tranh, một sự dấn thân nhân bản đáng được và đòi hỏi sự yểm trợ của cộng đồng quốc tế. Tôi đã rất bị ấn tượng bởi lòng quảng đại của nhân dân Giordania tiếp nhận người tỵ nạn, biết bao nhiêu người tỵ nạn trốn chạy chiến tranh, trong vùng này. Xin Chúa chúc lành, chúc lành thật nhiều cho dân tộc hiếu khách này. Và chúng ta phải cầu nguyện để Chúa chúc lành cho sự tiếp đón này và xin anh chị em hãy đòi hỏi tất cả các cơ cấu quốc tế trợ giúp dân tộc này trong công việc tiếp nhận của họ. Đức Thánh Cha cũng báo cho tín hữu biết sáng kiến của ngài như sau:

Trong chuyến hành hương tại những nơi khác tôi cũng đã khích lệ các chính quyền liên hệ theo đuổi các cố gắng để giảm bớt các căng thẳng trong vùng Trung Đông, nhất là tại vùng đất Siria bị bầm dập, cũng như tiếp tục tìm kiếm một giải pháp công bằng cho cuộc xung khắc giữa người Palestine và Israel. Vì thế tôi đã mời tổng thống Israel và tổng thống Palestine, cả hai là những người đích thật của hòa bình và tạo dựng hòa bình, đến Vaticăng để cùng tôi cầu nguyện cho hòa bình. Và tôi xin anh chị em đừng để chúng tôi một mình: xin anh chị em cầu nguyện, cầu nguyện nhiều để Chúa ban hòa bình cho chúng ta, ban hòa bình cho vùng đất được chúc phúc ấy! Tôi tin cậy nơi lời cầu nguyện của anh chị em. Hãy cầu nguyện mạnh mẽ, hãy cầu nguyện trong thời gian này, hãy cầu nguyện nhiều để hòa bình tới.

Chuyến hành hương Thánh Địa này cũng là dịp củng cố trong đức tin các cộng đoàn kitô, đang đau khổ qúa nhiều, và để bầy tỏ lòng biết ơn của toàn thể Giáo Hội đối với sự hiện diện của các kitô hữu trong vùng này và trong toàn vùng Trung Đông. Các anh chị em này của chúng ta là các chứng nhân can đảm của niềm hy vọng và tình bác ái, là ”muối đất và ánh sáng” trong vùng Đất này. Với cuộc sống đức tin và lời cầu nguyện của họ và với sinh hoạt giáo dục và bác ái quý báu, họ hoạt động cho sự hòa giải và tha thứ, góp phần vào thiện ích chung của xã hội.

Với chuyến hành hương này là một ơn đích thật của Chúa, tôi đã muốn đem tới một lời hy vọng, nhưng tới lượt mình tôi cũng đã nhận được một lời hy vọng! Tôi đã nhận được nó từ các anh chị em, hy vọng ”chống lại mọi hy vọng” (Rm 4,18), qua biết bao nhiêu khổ đau, như các nỗi khổ đau của người chạy trốn quê hương của mình vì các xung khắc; như các nỗi khổ đau của biết bao nhiêu người trong các vùng khác nhau trên thế giới này, bị kỳ thị và khinh rẻ vì niềm tin của họ nơi Chúa Kitô. Chúng ta hãy tiếp tục gần gũi họ! Chúng ta hãy cầu nguyện cho họ và cho nền hòa bình tại Thánh Địa và trong vùng Trung Đông. Ước chi lời cầu nguyện của toàn thể Giáo Hội cũng nâng đỡ con đường tiến về sự hiệp nhất trọn vẹn giữa các kitô hữu, để thế giới tin vào tình yêu của Thiên Chúa, là Đấng đã đến ở giữa chúng ta nơi Đức Giêsu Kitô. Và giờ đây tôi mời tất cả anh chị em cùng tôi cầu xin Đức Bà, là Nữ Vương Hòa Bình, Nữ Vương sự hiệp nhất giữa các tín hữu kitô, là ”Mẹ” của tất cả mọi kitô hữu: xin Mẹ ban hòa bình cho chúng ta, và cho toàn thế giới, và xin Mẹ đồng hành với chúng ta trên con đường hiệp nhất.

Rồi Đức Thánh Cha đã cùng tín hữu đọc một kinh Kính Mừng cho ý chỉ này.

Tiếp đến Đức Thánh Cha đã chào các đoàn hành hương bắc Mỹ và Tây Âu cũng như các nhóm hành hương đến từ các nước xa như Australia, Nam Phi, Philippines, Indonesia, Mexico, Argentina và Brazil. Đức Thánh Cha đã đặc biệt cám ơn các đoàn hành hương Giordania và Israel vì sự tiếp đón quảng đại và nồng hậu dành cho ngài trong chuyến tông du vừa qua. Ngài giữ gìn các kỷ niệm ấy trong tim và xin Chúa ban cho họ tràn đầy phước lộc, thịnh vượng và một nền hòa bình lâu bền.

Chào các đoàn hành hương Italia, đặc biệt là giới trẻ, người đau yếu và các cặp vợ chồng mới cưới Đức Thánh Cha nhắc cho mọi người biết tháng 5 kính Đức Mẹ sắp kết thúc. Ngài xin người trẻ biết chạy đến ẩn náu nơi Đức Mẹ khi gặp khó khăn, người đau yếu can đản đương đầu với thập giá mỗi ngày lấy Đức Mẹ làm điểm quy chiếu. Đức Thánh Cha nhắn nhủ các cặp vợ chồng mới cưới biến gia đình thành tổ ấm cầu nguyện và thông cảm lẫn nhau.

Buổi tiếp kiến đã kết thúc với Kinh Lạy Cha và phép lành tòa thánh Đức Thánh Cha ban cho mọi người.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio
 

Sứ điệp Đức Thánh Cha gửi Tổ Chức Lao Động quốc tế

Sứ điệp Đức Thánh Cha gửi Tổ Chức Lao Động quốc tế

VATICAN. ĐTC Phanxicô kêu cộng đồng quốc tế giải quyết nạn thất nghiệp của giới trẻ, đồng thời ngài tái lên án nạn lao động nô lệ và buôn người.

Ngài bày tỏ lập trường trên đây trong sứ điệp gửi các tham dự viên khóa họp thứ 103 của tổ chức Lao Động Quốc tế, khai diễn hôm 28-5-2014 và kéo dài đến ngày 12-6 tới đây tại Genève, Thụy Sĩ.

ĐTC ca ngợi tổ chức lao động quốc tế vì những đóng góp để duy trì phẩm giá của lao công con người trong bối cảnh sự phát triển xã hội và kinh tế, qua những cuộc thảo luận và cộng tác giữa các chính phủ, các công nhân viên và chủ nhân.

Đề cập đến nạn thất nghiệp đang làm cho những biên cương của nạn nghèo đói lan rộng trên thế giới, khiến cho nhiều người trẻ thất nghiệp lâm vào tình trạng nản chí, mất đi cảm thức tự trọng và thấy mình trở nên xa lạ trong xã hội, ĐTC viết: ”Khi hoạt động để có nhiều cơ hội hơn cho công ăn việc làm, chúng ta khẳng định xác tín theo đó chính ”nhờ công việc tự do, sáng tạo, tham gia và nâng đỡ nhau, mà con người biểu lộ vằ thăng tiến phẩm giá cuộc sống của họ” (Evangelii gaudium, 192).

Trong bối cảnh trên đây, ĐTC tố giác thảm trạng vô số người nam nữ phải rời bỏ quê hương đi tìm công ăn việc làm. Họ thường gặp phải sự nghi kỵ và loại bỏ, không kể những thảm trạng và tai nạn. Dù trải qua bao hy sinh như thế, những người di dân nam nữ ấy thường không tìm được công việc xứng đáng và trở thành nạn nhân của sự hoàn cầu hóa thái độ dửng dưng, lãnh đạm. Tình trạng của họ cũng khiến họ gặp những nguy hiểm khác như nạn buôn người, cưỡng bách lao động và nô lệ. Thật là một điều không thể chấp nhận được vì trong thế giới chúng ta ngày nay, nạn lao động như nô lệ trở thành một điều thông thường” (Sứ điệp nhân ngày Thế giới Di Dân và Tị Nạn, 24-9-2013). Điều này không thể tiếp tục nữa!

ĐTC tái khẳng định rằng: ”Nạn buôn người là một ai ương, một tội ác chống lại toàn thể nhân loại. Đã đến lúc cần chung sức và cộng tác để giải thoát các nạn nhân và loại bỏ tội ác này đang làm thương tổn tất cả chúng ta, từ các gia đình riêng rẽ cho đến toàn thể cộng đoàn thế giới (Diễn văn trước các vị đại sứ cạnh Tòa Thánh, 12-12-2013).

Sau cùng, ĐTC kêu gọi củng cố các hình thức cộng tác hiện nay và thiết lập các phương thức mới để mở rộng tình liên đới. Điều này đòi phải tái nhấn mạnh phẩm giá của mỗi người, quyết tâm trong việc áp dụng các tiểu chuẩn quốc tế về lao động; đề ra kế hoạch phát triển qui trọng tâm về con người như tác nhân chủ yếu và là người đầu tiên được hưởng lao động, v.v… (SD 28-5-2014)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

 

Lo ngại về tình hình sức khoẻ của Đức Giáo Hoàng

Lo ngại về tình hình sức khoẻ của Đức Giáo Hoàng

Edward Pentin cho Newsmax

Khi Đức Giáo Hoàng Phanxicô bắt đầu chuyến công du Đất Thánh hôm thứ Bảy với lịch trình công việc dày đặc mà một người khoẻ mạnh cũng có thể khó khăn, nội bộ Vatican cũng đặt ra những vấn đề về sức khỏe của Đức Giáo Hoàng.

Một số người bên trong Tòa Thánh đang trao đổi với nhau những quan tâm về tình trạng sức khoẻ của Đức Phanxicô và hỏi liệu Ngài có làm việc quá sức.

Chưa đầy hai năm trước khi được bầu làm Giáo Hoàng, vị Giáo Hoàng 77 tuổi có phong thái khoẻ mạnh linh hoạt mà một người dù bằng nửa tuổi của Ngài cũng khó có thể bắt kịp.

Nhưng những người quan sát kỹ hơn thì lưu ý rằng cơ thể Đức Giáo Hoàng có thể khó theo kịp năng lực và sức sống trẻ trung của Ngài, đặc biệt Ngài chỉ có một lá phổi.

Khi còn là một đứa trẻ tại Argentina, trước khi có sự tiến bộ của thuốc kháng sinh, Đức Giáo Hoàng đã bị nhiễm trùng khiến bác sĩ phải phẫu thuật loại bỏ hầu hết một lá phổi.

Qua nhiều năm, điều đó có vẻ ổn, nhưng gần đây Đức Giáo Hoàng đã hủy một số cuộc tiếp kiến vì lý do sức khỏe.

Mặc dù đã lên kế hoạch từ nhiều tháng trước, nhưng Đức Giáo Hoàng tuần trước đã phải huỷ chuyến thăm dự kiến vào ​​ngày 18-5 đến Đền Đức Mẹ Divino Amore ở ngoại ô Rôma. Mục đích chuyến thăm nhằm “soi sáng các cam kết” của Đức Giáo Hoàng trước chuyến thăm Đất Thánh, nhưng sau chuyến đi phải hủy vào cuối tuần vì Đức Giáo Hoàng bị cảm lạnh.

Đây không phải là lần duy nhất cuộc hẹn bị trì hoãn hoặc hủy bỏ trong những tháng gần đây.

Vào ngày 28-2, Đức Phanxicô huỷ chuyến thăm Đại Chủng viện Rôma vì bị “sốt nhẹ.”

Trước đó, đầu tháng Mười Hai, Ngài buộc phải hủy vào phút cuối cùng cuộc họp tại Vatican với Đức Hồng Y Angelo Scola, Tổng Giám mục Milan cùng phái đoàn đến dự triển lãm năm 2015. Vatican cho biết Đức Giáo Hoàng “bị mệt” sau buổi tiếp kiến ​​chung tại quảng trường Thánh Phêrô, trong đó Ngài đã chào các tín hữu trong gần ba giờ đồng hồ.

Đức Hồng y Ấn Độ Telesphore Toppo Placidus, Tổng Giám mục Giáo phận Ranchi, nói với nhật báo Libero tiếng Ý rằng ngài đã dâng lễ đồng tế với Đức Giáo Hoàng vài ngày vào mùa hè năm ngoái và thấy Đức Giáo Hoàng “rất mệt mỏi.”

Ngài nói thêm: “Tôi thật sự không biết Đức Giáo Hoàng có thể duy trì cường độ làm việc như thế này trong bao lâu”.

Tháng Chín năm ngoái, tạp chí Argentina Noticias cho biết, bác sĩ riêng của Đức Giáo Hoàng tại Argentina nói ông “lo ngại” về sức khỏe bệnh nhân.

“Tôi tin là có điều gì đó không ổn”, Liu Ming, bác sĩ người Hoa theo đạo Lão trước đây đã giúp chữa cho Đức Giáo Hoàng các vấn đề về tim và gan bằng phương pháp châm cứu và các cách điều trị phương Đông khác nói.

Nhưng phát ngôn viên Vatican cha Federico Lombardi trấn an mọi lo ngại. Chuyến thăm đến đền Đức Mẹ Divino Amore sẽ có thể “rất khó khăn” vì Đức Phanxicô thông thường muốn gặp nhiều người và các đoàn thể. “Tôi nghĩ rằng Đức Giáo Hoàng nghĩ: ‘Vâng, chúng ta có thể làm điều đó vào dịp khác,’ và không nên quá quan tâm về việc đó”, cha nói.

Một vài người gần Đức Giáo Hoàng cho biết họ thấy Ngài khó thở, và trong thời gian 14 tháng làm giáo hoàng, Ngài đã tăng cân đáng kể, có lẽ gần đến 20 pound.

Nguồn: Newsmax

Trích từ UCANEWS VN

Phòng Tiệc Ly là nơi Giáo Hội khai sinh và từ đó chảy ra con suối bác ái trở thành dòng sông lớn

Phòng Tiệc Ly là nơi Giáo Hội khai sinh và từ đó chảy ra con suối bác ái trở thành dòng sông lớn

Phòng Tiệc Ly là nơi Giáo Hội khai sinh và từ đó chảy ra con suối bác ái trở thành dòng sông lớn. Nó nhắc nhớ hy lễ, việc phục vụ, tình bạn, sự chia sẻ, tình huynh đệ, sự hòa hợp và bình an. Từ Phòng Tiệc Ly Giáo Hội đã khởi hành với Bánh được bẻ ra giữa các bàn tay, với các vết thương của Chúa Giêsu trong đôi mắt, và Chúa Thánh Thần tình yêu trong con tim.

Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói như trên trong bài giảng thánh lễ đồng tế với các Hồng Y, Thượng Phụ và Giám Mục trong Phòng Tiệc Ly lúc 17 giờ 20 chiều thứ hai 26-5-2014. Đây cũng là Sinh hoạt cuối cùng của Đức Thánh Cha Phanxicô trong ngày thứ ba viếng thăm Thánh Địa.

Sau khi gặp các linh mục tu sĩ nam nữ trong Vương cung thánh đường Giệtsêmani, Đức Thánh Cha đã trồng một cây ô liu bên cạnh cây ô liu Đức Phaolô VI đã trồng cách đây 50 năm trong vườn Cây Dầu. Tiếp đến ngài đã đi xe tới Phòng Tiệc Ly nằm cách đó 2 cây số trong thành cổ Giêrusalem.

Phòng Tiệc Ly là chiếc nôi của Giáo Hội khai sinh, nơi Chúa Giêsu Kitô đã thành lập chức Linh Mục, các Bí tích Thánh Thể và Hòa Giải. Từ ”Coenaculum” tiếng La tinh ám chỉ nơi dùng bữa tối, nhưng nói chung nó ám chỉ tầng trên nơi tiếp khách trong nhà. Sự xác thực của Phòng Tiệc Ly đã rất cổ xưa, từ thế kỷ thứ III. Vào thế kỷ thứ IV có một nhà thờ mới được xây gần Phòng Tiệc Ly gọi là nhà thờ ”Thánh Sion”. Năm 614 nhà thờ này bị người Hồi tàn phá, khi người Hồi xâm lăng Thánh Địa. Nó được tái thiết rồi lại bị người Hồi phá hủy. Khi Đạo Binh Thập Tự tới Thánh Địa, nhà thờ ở trong tình trạng đổ nát, chỉ trừ nhà nguyện nguyện hai tầng của Phòng Tiệc Ly. Đạo Binh Thập Tự Kitô đã xây một vương cung thánh đường ba gian dọc gồm ”Phòng bên trên, tức Nhà nguyện Tiệc Ly, ”nơi Đức Maria ngủ” và một nhà nguyện bên dưới kỷ niệm biến cố Chúa Giêsu rửa chân cho các môn đệ.

Năm 1187 thành Giêrsusalem bị thất thủ và rơi vào tay Saladino. Người Hồi cho phép kitô hữu hành hương thăm viếng và các linh mục có thể cử hành thánh lễ trong Phòng Tiệc Ly. Khi các tu sĩ Phanxicô tới Thánh Địa năm 1335 vương cung thánh đường do Đạo binh Thập tự xây bị bỏ hoang và hầu như bị tàn phá hoàn toàn. Sau nhiều thương thuyết dài và khó khăn với Sultan Ai Cập và trả một số tiền rất lớn, vua Roberto của vương quốc Napoli và hoàng hậu Sancia đã thành công trong việc giao cho các tu sĩ dòng Phanxicô trông coi Nhà Tiệc Ly. Các tu sĩ tái thiết với sự trợ giúp của các nghệ sĩ đảo Chypre, theo mô hình đầu tiên hai tầng. Các tu sĩ cũng xây một tu viện bên cạnh cho các anh em đặc trách quản trị các nơi thánh tại Giêrusalem và Bếtlêhem. Cha bề trên tu viện được nhận chức là ”Người canh giữ Núi Sion”.

Năm 1524 người Hồi chiếm các phòng bên dưới Phòng Tiệc Ly, vì cho đó là ”Mộ của ngôn sứ Đavít”. Tiếp đến đế quốc Ottoman ra sắc lệnh lấy lại cả Phòng Tiệc Ly ở tầng trên, và buộc các tu sĩ Phanxicô phải bỏ cả tu viện bên cạnh. Phòng Tiệc Ly bị biến thành đền thờ Hồi giáo, và chính quyền hồi cấm các kitô hữu lui tới nơi này.

Trong phòng bên dưới có một mộ kỷ niệm không hài cốt gọi là ”Mộ vua Đavít”, là đích điểm hành hương của tín hữu Do thái có khuynh hướng quốc gia, cả khi thiếu nền tảng lịch sử và khảo cổ liên quan tới mộ vua Đavít tại đây. Nhà nguyện phía trước, xưa kia là nhà nguyện ghi nhớ biến cố Chúa Giêsu rửa chân cho các môn đệ, biến thành hội đường do thái.

Nhà nguyện Tiệc Ly bên trên dài 15,3 mét rộng 9,4 mét được tái thiết theo kiểu Gôtích hồi thế kỷ XIV, có một cầu thang nối liền tầng dưới với tầng trên gồm 8 bậc dẫn lên nhà nguyện kỷ niệm biến cố Chúa Thánh Thần hiện xuống. Người ta cũng thấy cái ”Mihrab” xây năm 1929, khi nhà nguyện bị biến thành đền thờ Hồi giáo, chỉ cho tín hữu Hồi giáo thấy hướng thành phố La Mecca. Đức Phaolô VI đã cầu nguyuện tại đây ngày mùng 5 tháng giêng năm 1964, Đức Gioan Phaolô II đã dâng thánh lễ tại đây ngày 23 tháng 3 năm 2000, và Đức Biển Đức XVI ngày 12 tháng 5 năm 2009.

Hiện nay Phòng Tiệc Ly là sở hữu của chính quyền Israel, nhưng nằm dưới quyền tài phán của Ủy ban hồi quản trị các nơi thánh Hồi giáo của Giordania và chỉ được dùng cho cac lễ nghi tôn giáo, và vua Abdullah II là thủ lãnh tối cao của Ủy ban này.

Các tu sĩ Phanxicô đã dọn một bàn thờ với các ghế cho các vị đồng tế. Giảng trong thánh lễ kính Chúa Thánh Thần Đức Thánh Cha nói:

Anh em thân mến, thật là một ơn lớn lao Chúa ban cho chúng ta, được tụ họp nhau nơi đây trong Phòng Tiệc Ly để cử hành Bí tích Thánh Thể. Nơi đây Chúa Giêsu đã ăn bữa Tiệc Chiều sau hết với các Tông Đồ; nơi ngài đã hiện ra giữa các vị sau khi sống lại; nơi Chúa Thánh Thần đã hiện xuống với quyền lực trên Mẹ Maria và các môn đệ. Đây là nơi Giáo Hội sinh ra và ra đi. Từ đây Giáo Hội đã khởi hành với Bánh được bẻ ra giữa các bàn tay, với các vết thương của Chúa Giêsu trong đôi mắt, và Chúa Thánh Thần tình yêu trong con tim. Chúa Giêsu phục sinh được Chúa Cha gửi đến trong Phòng Tiệc Ly thông truyển cho các Tông Đồ cùng Thần Khí của Người, và với sức mạnh này Ngài gửi các vị ra đi canh tân gương mặt của trái đất (x. Tv 104,30).

Đi ra, khởi hành không có nghĩa là quên lãng. Giáo Hội đi ra giữ gìn ký ức những điều đã xảy ra; Chúa Thánh Thần nhắc cho Giáo Hội nhớ từng lời nói, từng cử chỉ và vén mở ý nghĩa của chúng. Phòng Tiệc Ly nhắc cho chúng ta biết việc phục vụ và rửa chân mà Chúa Giêsu đã thành toàn, như mẫu gương cho các môn đệ Người. Rửa chân cho nhau có nghĩa là tiếp đón nhau, chấp nhận nhau, yêu thương nhau, phục vụ lẫn nhau. Có nghĩa là phuc vụ người nghèo, người đau yếu, người bị loại trừ. Với Thánh Thể Phòng Tiệc Ly nhắc chúng ta nhớ tới hy lễ. Trong mỗi buổi cử hành Thánh Thể Chúa Giêsu tự hiến cho Thiên Chúa Cha vì chúng ta, để chúng ta cũng có thể hiệp nhất với Người, dâng cuộc sống, công việc làm, các vui buồn khổ đau của chúng ta cho Thiên Chúa, dâng mọi sự như hy lễ tinh thần.

Phòng Tiệc Ly nhắc chúng ta nhớ tới tình bạn. Chúa Giêsu nói với nhóm Mười Hai: ”Thầy không gọi các con là tôi tớ… nhưng là bạn hữu” (Ga 15,15). Chúa làm cho chúng ta trở thành bạn của Người, ký thác cho chúng ta ý muốn của Thiên Chúa Cha và ban chính Người cho chúng ta. Đó là kinh nghiệm đẹp nhất của kitô hữu, và một cách đặc biệt của linh mục: trở thành bạn của Chúa Giêsu.

Tiếp tục bài giảng thánh lễ cử hành trong Phòng Tiệc Ly Đức Thánh Cha nói: Phòng Tiệc Ly nhắc nhớ cuộc từ biệt và lời hứa gặp lại các bạn của Người: ”Khi Thầy sẽ đi rồi…. Thầy sẽ lại đến và đem các con đi với Thầy, để Thầy ở đâu thì các con cũng ở đó” (Ga 14,3). Chúa Giêsu không rời chúng ta, Người không bao giờ bỏ rơi chúng ta, Người đi trước chúng ta trong nhà của Chúa Cha và Người muốn đem chúng ta tới đó. Tuy nhiên Phòng Tiệc Ly cũng nhằc nhớ tới điều tiêu cực, Đức thánh Cha nói:

Nhưng Phòng Tiệc Ly cũng nhắc nhớ sự nhỏ nhen, tính tò mò ”ai là người phản bội?”, sự phản bội. Và mọi người trong chúng ta, chứ không luôn luôn phải là người khác, có thể sống lại các thái độ này, khi chúng ta nhìn người anh em với sự tự mãn, khi chúng ta phán xét họ, khi chúng ta phản hội Chúa Giêsu với các tội lỗi của chúng ta.

Phòng Tiệc Lỵ nhắc nhở sự chia sẻ, tình huynh đệ, sự hòa hợp, sự bình an giữa chúng ta. Đã có biết bao nhiêu tình yêu thương, biết bao nhiêu điều thiện đã nảy sinh từ Phòng Tiệc Ly! Biết bao nhiêu bác ái đã xuất phát từ đây, như một dòng sông chảy từ nguồn, ban đầu chỉ là một con suối nhỏ rồi lan rộng và trở thành con sông lớn… Tất cả các Thánh đã kín múc từ đây; dòng sông lớn sự thánh thiên của Giáo Hội luôn luôn bắt nguồn từ đây, luôn luôn mới mẻ, từ Trái Tim Chúa Kitô, từ Thánh Thể, từ Thần Khí Thánh của Người.

Sau cùng Phòng Tiệc Ly nhắc chúng ta nhớ tới sự khai sinh của gia đình mới, Giáo Hội, do Chúa Giêsu phục sinh thành lập. Một gia đình có một Bà Mẹ là Đức Trinh Nữ Maria. Các gia đình kitô thuộc đại gia đình này, và tìm thấy trong đó ánh sáng và sức mạnh để bước đi và canh tân, qua các nhọc mệt và thử thách của cuộc sống. Tất cả mọi con cái Thiên Chúa thuộc mọi dân tộc và ngôn ngữ đều được mời gọi thuộc gia đình này, tất cả là anh em và là con cái của một Cha duy nhất ở trên trời. Đó là chân trời của Phòng Tiệc Ly: chân trời của Chúa phục sinh và của Giáo Hội.

Từ đây Giáo Hội ra đi, được linh hoạt bởi Thần Khí. Tụ tập cầu nguyện với Mẹ Chúa Giêsu, Giáo Hội luôn sống trở lại sự chờ đợi Thánh Thần được tuôn đổ xuống một lần nữa: Lậy Chúa, xin Thần Khí Chúa xuống và canh tân mặt đầt (c. Tv 104,30).

Sau Thánh Lễ Đức Thánh Cha đã bắt tay chào các tu sĩ nam nữ và giáo dân hiện diện bên ngoài, kể cả mấy cảnh sát. Tiếp đến ngài đi xe đến núi Scopus cách đó 5 cây số để lấy trực thăng bay về phi trường Ben Gourion ở Tel Aviv. Tại đây lễ nghi từ biệt đã diễn ra lúc 8 giờ chiều. Đức Thánh Cha, tổng thống Perez và Thủ tướng Netanyahu đã duyệt hàng chào danh dự. Đức Thánh Cha đã bắt tay từ biệt các giới chức đạo đời và cả các cảnh sát viên và nhân viên phục vụ phi trường.

Tổng thống và Thủ tướng Israel đã tiễn Đức Thánh Cha tới tận chân thang máy bay. Khi bắt tay từ biệt Đức Thánh Cha Thủ tướng Netanyahu đã nói: ”Xin Đức Thánh Cha cầu nguyện cho chúng tôi, và chúng tôi cũng cầu nguyện cho ngài”. Lên tới cửa máy bay Đức Thánh Cha còn quay lại giơ tay chào mọi người. Ngài bắt tay các nhân viên phi hành đoàn trước khi vào ghế ngồi. Trong khi chờ đợi máy bay cất cánh, ống kính đài truyền hình Israel cho thấy Đức Thánh Cha đọc báo. Chiếc máy bay của hãng hàng không El Al B777 của Israel đã rời phi trường Tel Aviv lúc 8 giờ 20 tối thứ hai và đáp xuống phi trường Ciampino lúc 11 giờ đêm. Từ đó Đức Thánh Cha đã đi trực thăng về Vaticăng kết thúc chuyến viếng thăm Thánh Địa ba ngày.

*** Tuy chương trình ba ngày viếng thăm dầy đặc và khá mệt mỏi nhưng trên đường về Roma Đức Thánh Cha cũng đã dành cho các nhà báo một cuộc phỏng vấn đài 50 phút vế tất cả mọi vấn đề. Cha Lombardi Giám đốc phòng báo chí Tòa Thánh đã cám ơn Đức Thánh Cha dành thời giờ cho các nhà báo sau chuyến viếng thăm mệt nhọc này. Chị Cristina Caricato thuộc đài truyền hình 2000 đã hỏi Đức Thánh Cha:

Hỏi: Thưa Đức Thánh Cha, trong các ngày qua Đức Thánh Cha có các cử chỉ được chú ý trên toàn thế giới: đặt tay trên bức tường tại Bếtlehem, làm dấu thánh giá, ôm hôn những người do thái sống sót của các trại tập trung tại Yad Vashem, ôm hôn Đức Thượng Phụ Bartolomaios và các vị lãnh đạo các Giáo Hội Kitô khác tại Thánh Mộ. Đức Thánh Cha đã nghĩ trước và muốn có các cử chỉ đó hay sao, và đâu sẽ là các kết qủa của chúng ngoài cử chỉ rất lớn là đã mời hai tổng thổng Perez và Abu Mazen tới Vatican?

Đáp: Các cử chỉ chân thực nhất là các cử chỉ không được nghĩ trước, nhưng chúng tới. Tôi đã nghĩ ”Có thể làm một cái gì đó”, nhưng các cử chỉ cụ thể thì không có cử chỉ nào được nghĩ trước cả. Vài cử chỉ như cử chỉ mời hai tổng thống tham dự buổi cầu nguuện chung thì có được nghĩ là làm ở đó, nhưng có biết bao nhiêu vấn đề khung cảnh nơi chốn phải để ý, và không phải là điều dễ. Tôi có nghĩ một chút tới vấn đề này, nhưng sau cùng thì xảy ra điều mà tôi hy vọng là tốt. Nhưng chúng đã không được nghĩ và tính toán trước. Tôi thấy cần phải làm điều gì đó, nhưng nó tự phát, thế thôi. Ít nhất nói thật ra thì tôi nghĩ ”có thể làm một cái gì đó”, nhưng cụ thể thì không. Chẳng hạn tại đài tưởng niệm Yad Vashem, không có gì hết, nhưng rồi nó tới. Và như vậy đó.

Câu thứ hai của anh Frank Rocca, nhà báo hãng tin công giáo của Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ, đại diện nhóm nói tiếng Anh.

Hỏi: Thưa Đức Thánh Cha, Đức Thánh Cha đã có những lời lẽ rất mạnh mẽ chống lại việc lạm dụng tính dục của trẻ em vị thành niên từ phía hàng giáo sĩ, các linh mục. Đức Thánh Cha đã thành lập một Ủy ban đặc biệt để đương đầu với vần đề này trên bình diện Giáo Hội hoàn vũ. Chúng ta biết rằng trên thực tế trong tất cả mọi Giáo Hội địa phương có các điều luật bắt buộc luân lý và pháp luật cộng tác với các chính quyền dân sự cách này hay cách khác. Nhưng nếu có một Giám Mục không tuân hành các đòi buộc này thì Đức Thánh Cha sẽ giải quyết ra sao: bó buộc vị ấy từ nhiệm, hay có các hình phạt khác? Trong cụ thể làm thế nào để có kỷ luật?

Đáp: Bên Argentina chúng tôi thường nói với những người có đặc quyền đặc lợi: ”Người này là một con ông cháu cha đó”. Nhưng trong vấn đề này thì sẽ không có ”con ông cháu cha” đâu. Trong lúc này có ba Giám Muc đang bị điều tra, và một vị đã bị kết án, và người ta đang lượng định hình phạt cần đưa ra. Không có các đặc quyền đặc lợi. Lạm dụng tính dục các trẻ vị thành niên là một tội thật xấu xa hết sức, chúng ta biết đó là một vấn đề nghiêm trọng khắp nơi, nhưng tôi chỉ chú ý tới Giáo Hội. Một linh mục làm điều đó là phản bội Thân Mình của Chúa, bởi vì linh mục ấy phải đưa bé trai, bé gái, thanh niên, thiếu nữ này tới với sự thánh thiện, vì các em tin tưởng vị linh mục. Nhưng thay vì dẫn đưa chúng tới sự thánh thiện thì lại lạm dụng chúng. Đây là điều rất trầm trọng. Cũng y như – tôi chỉ so sánh thôi – cũng y như cử hành một lễ đen vậy, chẳng hạn. Cần phải đưa nó tới sự thánh thiện, thì lại đưa nó tới một vấn đề kéo dài suốt đời. Tuần tới ngày mùng 6 mùng 7 hay ngày mùng 3 tháng 6 sẽ có thánh lễ tại nhà trọ Santa Marta với 6, 7 nạn nhân bị lạm dụng tính dục: hai người từ Đức, hai người từ Anh hay Ai Len tôi không biết rõ, sẽ là 8 người với Đức Hồng Y O'Malley thuộc Ủy ban này: tôi sẽ gặp riêng họ. Liên quan tới điều này phải tiến tới. Và không có sự nhân nhượng.

Câu hỏi thứ ba của anh Eusebio Val phóng viên báo ”LaVanguardia” nhật báo lớn nhất tại Barcelona, đại diện cho nhóm nói tiếng Tây Ban nha.

Hỏi: Thưa Đức Thánh Cha, ngay từ ngày đầu sứ vụ Đức Thánh Cha đã gióng sứ điệp của một Giáo Hội nghèo và cho người nghèo, nghèo trong sự đơn sơ và khổ hạnh. Nhưng đôi khi chúng con trông thấy các gương mù gương xấu chẳng hạn như vụ căn hộ của Đức Hồng Y Bertone, hay buổi lễ ngày phong Thánh hoặc trở lại với chuyện liên quan tới Đức Hồng Y Bertone, sự hỗn loạn của Viện giáo vụ hay nhà băng Vaticăng liên quan tới 15 triệu Euros… Đức Thánh Cha nghĩ sao? Phải làm sao để đừng có các mâu thuẫn chống lại sứ điệp của sự khắc khổ?

Đáp: Có một lần Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ Người trong Phúc Âm: ”Không thể tránh được các gương mù gương xấu. Chúng ta là người, tất cả là người tội lỗi. Và sẽ có các gương mù gương xấu. Vấn đề là tránh để đừng xảy ra nhiều gương mù gương xấu hơn. Trong việc quản trị kinh tế cần có sự liêm chính và trong sáng. Hai ủy ban: ủy ban nghiên cứu Viện giáo vụ IOR và Ủy ban nghiên cứu mọi vấn đề của thành Vaticăng đã đưa ra các kết luận và đưa ra các chương trình hành động. Giờ đây với Văn phòng thư ký kinh tế do Đức Hồng Y Pell làm chủ tịch, các cải tổ do hai ủy ban cố vấn sẽ được thực thi. Nhưng có các việc không ăn khớp, và sẽ luôn có các việc không ăn khớp, bởi vì chúng ta là người, nhưng việc cải tổ phải được tiếp tục.

Các Giáo Phụ đã nói: ”Ecclesia semper reformanda” Giáo Hội luôn luôn cải cách. Chúng ta phải chú ý cải tổ Giáo Hội mỗi ngày, bởi vì chúng ta tội lỗi, chúng ta yếu đuối, và sẽ có các vấn đề. Việc quản trị mà Văn phòng thư ký kinh tế đang làm sẽ giúp minh nhiên các gương mù gương xấu, các vấn đề… Chẳng hạn trong Viện giáo vụ tức nhà băng Vaticăng tôi tin là ở thời điểm này chúng đã được đóng lại. Số người không có quyền mở trương mục là 1.600. Tổ chức IOR là để giúp Giáo Hội. Các giám mục giáo phận, các nhân viên Vaticăng và các người chồng hay vợ góa của họ có quyền có trương mục. Những người khác, các tòa đại sứ không có quyền có trương mục. Nhà băng Vaticăng không phải dành cho mọi người. Và đóng trương mục của những người không có quyền là một việc tốt. Liên quan tới vụ 15 triệu Euros thì còn đang được cứu xét. Nó không rõ ràng. Có lẽ nó là sự thật, nhưng trong lúc này thì vấn đề chưa được xác định. Nó đang được cứu xét để công bằng.

Câu hỏi tiếp là của anh Sébastien Maillard, phóng viên của báo La Croix thuộc nhóm nói tiếng Pháp.

Hỏi: Sau vùng Trung Đông giờ đây chúng ta trở về Âu châu. Đức Thánh Cha có lo lắng vì phong trào Duy nhân dân đang gia tăng tại âu châu như được biểu lộ trong cuộc bỏ phiếu Quốc Hội Âu châu ngày hôm qua hay không?

Đáp: Trong những ngày này tôi đã có một ít giờ cầu nguyện với Kinh Lậy Cha, nhưng tôi không có tin tức về cuộc bầu cử, Tôi không có các dữ kiện, ai thắng ai không thăng. Nhưng mà duy nhân dân trong nghĩa nào?

Hỏi: Trong nghĩa ngày nay nhiều người dân Âu châu lo sợ, họ nghĩ rằng trong Âu châu không có tương lai. Có nhiều người thất nghiệp và đảng chống âu châu đã gia tăng mạnh trong lần bầu cử này…

Đáp: Đây là đề tài tôi đã nghe nói liên quan tới Âu châu, tin tưởng hay không tin tưởng nơi Âu châu, liên quan tới cả đồng Euro nữa. Có người muốn trở lại đàng sau… Tôi không hiểu nhiều lắm về các điều này. Nhưng anh đã cho tôi một từ chìa khóa: nạn thất nghiệp. Đây là điều trầm trọng. Điều trầm trọng, bởi vì tôi giải thích nó như thế này. Chúng ta đang sống trong một hệ thống kinh tế thế giới trong đó tiền bạc là trọng tâm, chứ không phải bản vị con người. Trong một hệ thống kinh tế đích thật con người phải là trung tâm. Nhưng ngày nay ở trung tâm có tiền bạc. Để duy trì điều này, để quân bằng thì phải tiến tới với các biện pháp ”loại bỏ”. Và người ta loại bỏ trẻ em. Mức sinh tại Âu châu không cao. Tôi tin rằng ở Italia được 1,2 %, Pháp được 2% hay hơn một chút, Tây Ban Nha còn thấp hơn Italia chỉ được 1%. Người ta loại bỏ các trẻ em, người ta loại bỏ người già: người già không hữu dụng, trong lúc này người ta còn thăm họ, vì họ đã về hưu và họ cần, nhưng là điều thêm vào thôi. Nhưng tại nhiều nước người ta loại bỏ người già cả với các tình trạng lén lút làm cho chết êm dịu nữa. Nghĩa là người ta cho thuốc mem cho tới một thời điểm nào đó thội. Và trong lúc này đây người ta loại bỏ người trẻ, và đây là điều vô cùng trầm trọng, vô cùng trầm trọng. Tại Italia tôi tin rằng số người trẻ thất nghiệp hầu như tới 40%, tôi không chắc; tại Tây Ban Nha tôi chắc chắn là 50%. Và trong vùng Andalusa nam Tây Ban Nha số người trẻ thất nghiệp là 60%. Điều này có nghĩa là cả một thế hệ của ”Không-không”, họ không học hành và không làm việc và đây là điều vô cùng trầm trọng. Người ta loại bỏ cả một thế hệ người trẻ. Đối với tôi nền văn hóa loại bỏ này rất trầm kha. Nhưng đây không phải chỉ là bên Âu châu mà thôi, mà ở khắp nơi, nhưng người ta cảm thấy nhiều hơn bên Âu châu. Nếu so sánh với nền văn hóa thoải mái cách đây 10 năm! Và đây là điều thê thảm. Đây là lúc khó khăn. Một nền kinh tế vô nhân. Tôi đã không sợ hãi viết trong tông huấn ”Niềm vui của Tin Mừng” rằng: hệ thống kinh tế này giết người. Và tôi lập lại điều đó. Tôi không biết tôi đã tới gần nỗi lo lắng cảu anh một chút hay chưa?

Chị Ilze Scamparini, phóng viên đài Rede Globo Brasil, hỏi Đức Thánh Cha.

Hỏi: Thưa Đức Thánh Cha, Đức Thánh Cha có đồng ý với việc trả lại thành Giêrusaelm cho người Palestine không? Làm thế nào để giải quyết ”vấn đề của thành Giêrusalem” hầu có được một nền hòa bình ổn định và lâu dài, như Đức Thánh Cha đã nói?

Đáp: Có nhiều đề nghị liên quan tới vấn đề Giêrusalem. Giáo Hội công giáo, Toà Thánh Vaticăng, có lập trường của mình trên bình diện tôn giáo: nó sẽ là thành phố của hòa bình của ba tôn giáo. Đó là trên bình diện tôn giáo. Các biện pháp cụ thể cho hòa bình cần được phát xuất từ việc thương thuyết. Phải thương thuyết. Tôi sẽ đồng ý điều phát xuất từ cuộc thương thuyết giả dụ như nó sẽ là thủ đô của nước này và nước kia. Tôi không nói rằng nó phải như vậy; không, đó là giả thuyết mà họ phải thương thảo. Thật thế tôi không cảm thấy mình là chuyên viên để nói rằng ”phải làm cái này cái nọ” nếu không sẽ thật là điên rồ! Nhưng tôi tin rằng cần phải bước vào cuộc thương thuyết với sự liêm chính, tình huynh đệ, sự tin tưởng lẫn nhau trên con đường thương thảo. Và trong đó cần phải thương lượng tất cả: toàn vùng đất và cả các tương quan với nhau nữa Cần phải có can đảm để làm điều đó. Tôi cầu xin Chúa rất nhiều để cho hai vị lãnh đạo, hai chính quyền có can đảm tiến tới. Đó là con đường duy nhất cho hòa bình. Còn Giêrusaelem thế này thế nọ, tôi chỉ nói điều Giáo Hội phải nói và đã luôn luôn nói: đó là ước gì Giêrusalem được giữ gìn như thủ đô của ba tôn giáo, như điểm quy chiếu, như một thành phố hòa bình – tôi cũng nghĩ tới từ thánh thiêng, nó không đúng – nhưng một thành phố hòa bình và tôn giáo.

Bài phỏng vấn còn các câu hỏi liên quan tới vấn đề linh mục có gia đình, tới chuyến viếng thăm Á châu và tình hình của các Kitô hữu khổ đau trong các nước không có tự do tôn giáo và tự do ngôn luận như Trung Cộng và Bắc Hàn, vấn đề từ nhiệm chức vụ Giáo Hoàng, việc phong chân phước cho Đức Pio XII, khả thể cho các tín hữu ly dị tái hôn rước lễ, và tiến trình cải tổ giáo triều Vatican. Chúng tôi sẽ gửi tới qúy vị và các bạn nội dung các câu trả lời của Đức Thánh Cha Phanxicô trong lần phát tới.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio
 

Hoạt động của Đức Thánh Cha Phanxicô tại Jerusalem sáng ngày 26-5-2015

Hoạt động của Đức Thánh Cha Phanxicô tại Jerusalem sáng ngày 26-5-2015

JERUSALEM. ĐTC Phanxicô đã dành sáng thứ hai 26-5-2014, ngày cuối trong 3 ngày viếng thăm của ĐTC tại Thánh Địa, để gặp gỡ các chức sắc Hồi giáo và Do thái giáo, viếng viện Yad Vashem tưởng niệm cuộc diệt chủng và gặp gỡ chính quyền Israel.

Gặp gỡ thủ lãnh Hồi Giáo

Lúc 8 giờ sáng, ĐTC giã từ tòa Khâm Sứ Tòa Thánh ở Jerusalem nơi ngài qua đêm, để đến viếng thăm vị Đại Giáo Trưởng Hồi giáo tại thành này, cạnh Đền thờ Hồi giáo cách đó 4 cây số. Đền thờ tọa lạc trên một sân hình thang dài gần 500 mét và rộng khoảng 300 mét, chiếm 1 phần 6 diện tích của Cổ Thành Jerusalem. Đây là nơi thánh đối với cả 3 tôn giáo độc thần: người Do thái coi đây là nơi Abraham sát tế con là Isaac và là địa điểm Đền thờ vua Salomon đã xây cất; người Hồi giáo coi đây là nơi thánh thứ 3 của đạo này, sau La Mecca và Medina bên Arập Sauđi, còn đối với các Kitô hữu, đây là nơi Chúa Giêsu đã tiên báo về sự phá hủy Đền thờ Jerusalem.

Trên sân rộng này có 2 Đền Thờ lớn của Hồi giáo được kiến thiết: Thứ I là Đền thờ Mái Vòm đá tảng là đền Hồi giáo cổ kính nhất tại Thánh Địa, lần đầu tiên được xây hồi năm 640 và 47 năm sau đó được thay thế bằng Đền thờ như hiện nay, có hình bát giác, 8 phía đều được trang điểm bằng ngọc quí, và phần dưới bằng cẩm thạch đa sắc. Vật liệu xây cất Đền thờ này lấy từ các thánh đường và đền đài trước đó thời Bizantine và Roma. Thứ II là Đền thờ Al-Aqsa được kiến thiết hồi thế kỷ thứ 8 và đã trải qua nhiều lần tái thiết.

Đến nơi, ĐTC đã viếng thăm Đại Mufti thành Jerusalem và toàn Palestine là Sheik Muhamad Agmad Hussein, và vị Tổng giáo đốc Hội đồng bảo trì các gia sản Hồi giáo, đón tiếp và hướng dẫn viếng thăm.
Vị Đại Mufti nói với ĐTC rằng: ”Hòa bình chỉ có thể khi chấm dứt mọi cuộc chiếm đóng của Israel và khi dân tộc Palestine được tự do và mọi quyền của mình”.

Trong lời chào vị Đại Mufti Hồi giáo, ĐTC cho biết ngài đến viếng thăm các nơi đã ghi dấu vết sự hiện diện trần thế của Chúa Giêsu Kitô. Nhưng cuộc hành hương sẽ không trọn vẹn nếu không gặp gỡ những người và cộng đoàn sống tại phần đất này.

Nhắc đến tổ phụ Abraham vốn được cả người Hồi giáo, Kitô và Do thái nhìn nhận, tổ phụ đã sống tại đất này như người lữ hành, bỏ dân chúng, nhà cửa để thực hiện cuộc phiêu lưu tinh thần mà Chúa gọi Người thực hiện. ĐTC nói:

”Lối sống của Abraham cũng phải là thái độ tinh thần của chúng ta. Không bao giờ chúng ta có thể tự mãn, coi mình là chủ tể cuộc sống của chúng ta; chúng ta không thể giới hạn vào mình, khép kín, chắc chắn trong những xác tín của chúng ta. Đứng trước mầu nhiệm Thiên Chúa, chúng ta cảm thấy mình phải luôn sẵn sàng ra khỏi chính mình, ngoan ngoãn đối với tiếng gọi mà Thiên Chúa gửi đến chúng ta, cởi mở đối với tương lai mà Chúa muốn xây dựng cho chúng ta”.

Sau cùng ĐTC tha thiết kêu gọi những con người và cộng đoàn nhìn nhận mình là con cháu Abraham: ”Chúng ta hãy tôn trọng và yêu thương nhau như anh chị em! Chúng ta hãy học hiểu đau khổ của người khác! Ước gì không người nào lạm dụng danh Thiên Chúa để thi hành bạo lực! Chúng ta hãy cùng nhau làm việc cho công lý và hòa bình!”.

Viếng Bức Tường Than Khóc

Pope at western wall

Giã từ các vị lãnh đạo Hồi giáo vào lúc 9 giờ sáng, ĐTC và đoàn tùy tùng tiến sang bức tường Phía Tây quen gọi là Bức tường than khóc, chỉ cách đó 1 cây số. Đây là di tích còn lại của bức tường phía tây của Sân Đền thờ Jerusalem. Khi vua Hêrôđê cho tu bổ Đền thờ này, ông cho nới rộng khu vực chung quanh và trong dịp đó ông canh tân bức tường nâng đỡ Sân. Tường cao 15 mét và được tu bổ trong những thời kỳ kế tiếp. Về mặt tinh thần, Bức tường phía tây này là nơi thờ phượng trung tâm của Do thái giáo, vì những lý do lịch sử và tôn giáo, với nhiều phong tục, như thói quen nhét những mảnh giấy trên đó có viết những ước vọng và kinh nguyện vào các kẽ hở giữa các viên đá của tường.

Đến khu vực Bức tường phía tây, ĐTC đã được vị Rabbi Trưởng và ông Chủ tịch của Hội đồng quản trị nơi thánh, đón tiếp và tháp tùng đến gần Bức tường. Tại đây ngài dừng lại cầu nguyện nồng nhiệt trong thinh lặng, tay phải ngài đặt trên tường. Rồi ngài đọc kinh Lạy Cha ngài tự tay viết bằng tiếng Tây Ban Nha, trước khi nhét vào khe trong tường.

Hai người bạn tháp tùng ĐTC từ Argentina là Rabbi Do thái Abraham Skorka và giáo sư Hồi giáo Omar Abboud, cũng đi gần ngài tại bức tường. Họ tiến đến ôm ĐTC thật là cảm động.
Trước khi rời khu vực Bức Tường Than Khóc, ĐTC đã ghi vào sổ vàng lưu niệm câu ”Tôi đến để cầu nguyện và tôi xin Chúa ban ơn hòa bình”.

Đặt vòng hoa tại Mộ Theodore Herzl

Pope đặt vòng hoa mộ

Liền đó, ngài dùng xe lên núi Herzl cách đó 4 cây số để đặt vòng hoa tưởng niệm, theo nghi thức ngoại giao của Nhà Nước Israel, theo đó mỗi vị Quốc trưởng nước khác đến viếng thăm, đều được mời đặt vòng hoa tại mộ của ông Theodor Herzl, người sáng lập Phong trào Sion tại Hội nghị ở Basel Thụy Sĩ năm 1897, cổ võ dân Do thái hồi cư lập quốc.

Đến nghĩa trang, ĐTC đã được tổng thống và thủ tướng đón tiếp và tháp tùng lên tới lăng của Ông Herzl. Tại đây, hai thiếu niên đã giúp ĐTC đặt vòng hoa tại mộ.

Khi thấy ĐTC đặt tay cầu nguyện tại bức tường ngăn cách mà Israel dựng lên tại Bethlehem, thủ tướng Netanyahu đã xin ngài cũng viếng bia tưởng niệm các nạn nhân của nạn khủng bố gần đó mộ ông Herl và ngài đã nhận lời thực hiện cử chỉ này.

Viếng viện Yad Vashem

Pope at Yad Vashem

Pope thăm viếng viện  Yad Vashem

ĐTC đến Viện bảo tàng Yad Vashem tưởng niệm cuộc diệt chủng Do thái, chỉ cách mộ ông Herzl khoẳng 800 mét.

Đến nơi ĐTC đã được vị giám đốc trung tâm tiếp đón và hướng dẫn vào phòng tưởng niệm, trên nền có ghi tên 21 trại tập trung thời Đức quốc xã. Tại đây cũng có tổng thống, thủ tướng Israel và Rabbi chủ tịch Hội đồng viện Yad Vashem.

ĐTC đã thắp lên ngọn lửa và được hai thiếu niên Công Giáo giúp đặt vòng hoa tưởng niệm, trước khi nghe một đoạn sách Cựu Ước.

Lên tiếng trong dịp này, ĐTC đã trình bày một suy tư thật cảm động, vì ngài rất nhạy cảm đối với sức mạnh của sự ác vô nhân đạo, trách nhiệm của con người và những cơ chế tội lỗi – như Đức Gioan Phaolô 2 đã nói – chúng chống lại phẩm giá con người được Thiên Chúa dựng nên theo hình ảnh của ngài. Chúng dựa trên sự tôn thờ con người, từ chối Thiên Chúa. Theo nghĩa đó, Viện tưởng niệm này là ký ức về hành trình mà con người thực hiện.

Và ĐTC kết luận với lời nguyện: ”Công lý thuộc về Chúa là Thiên Chúa chúng con, sự ô nhục ở trên khuôn mặt chúng con (Xc Bar 1,15). Xin Chúa cứu chúng con khỏi tội ác kinh khủng này. Xin nhớ đến chúng con trong lượng từ bi Chúa. Xin ban cho chúng con ơn xấu hổ về những gì chúng con có thể làm như là con người, ơn xấu hổ vì sự tôn thờ thần tượng kinh khủng này, vì đã coi rẻ và tàn phá thân xác chúng con, thân xác mà Chúa đã dựng nên từ bùn, và ban cho hơi thở sinh động. Lạy Chúa, không bao giờ nữa!”

ĐTC đã chào thăm một số người sống sót và ký vào sổ lưu niệm.

Viếng thăm hai v Đại Rabbi Do thái

Tiếp tục các cuộc gặp gỡ và viếng thăm sáng ngày 26-5-2014, ĐTC đã đến Trung Tâm Heichal Schlomo cách viện Yad Vashem 7 cây số để chào thăm 2 vị Đại Rabbi của Do thái giáo. Trung tâm này tọa lạc cạnh Đại Hội đồng Do thái Jerusalem.

Đại Rabbi Askenazi Yona Metzger năm nay 61 tuổi và Đại Rabbi Sefardita là Shlom Amar năm nay 66 tuổi. Trong dịp gặp gỡ, ĐTC cho biết ”Giáo Hội Công Giáo hoàn toàn nhìn nhận các căn cội Do thái trong đức tin của mình và tôi tin tưởng rằng với sự trợ giúp của quí vị, từ phía Do thái, không những có sự duy trì nhưng còn gia tăng ước muốn, đặc biệt nơi các thế hệ trẻ, tìm hiểu thêm về Kitô giáo, ngay cả tại phần đất được chúc phúc này, trong đó Kitô giáo nhìn nhận căn cội của mình. Sự hiểu biết gia sản tinh thần của mình, quí chuộng những gì chúng ta có chung với nhau và tôn trọng những gì khác biệt giữa chúng ta, có thể là yếu tố hướng dẫn để phát triển thêm các quan hệ giữa chúng ta”.

Thăm Tổng Thống Shimon Peres

 

Pope meets President of Israelis Shimon Peres

Kế đến ĐTC đến dinh Tổng thống Israel để viếng thăm Tổng thống Shimon Peres. Khi vào dinh, ngài được tổng thống giới thiệu một số trẻ em bị ung thư ở giai đoạn cuối đời vì các em ước muốn được gặp ĐGH trước khi qua đời.
Hai vị đã hội kiến riêng trước khi tiến ra vườn bên ngoài. Tại đây ngài đã trồng một cây ôliu kỷ niệm, rồi viếng thăm vườn và ra trước ra lễ đài đơn sơ, với phần trao đổi diễn văn, trước sự hiện diện của một ca đoàn nữ sinh và nhiều quan khách khác.

Trong diễn văn nồng nhiệt trước tổng thống Israel, ĐTC bày tỏ lòng quí chuộng đối với thái độ và những nỗ lực của ông trong việc bệnh vực hòa bình. Ngài cũng nhắc đến tầm quan trọng của thành Jerusalem đối với 3 tôn giáo độc thần. Ngài cũng nói rằng: ”Các nơi thánh không phải là những viện bảo tàng hoặc dinh thự cho các du khách, nhưng là nơi mà các cộng đồng tín hữu sống đức tin, sống văn hóa của mình và thực thi những sáng kiến bác ái. Cần phải bảo tồn tính chất thánh thiêng của các nơi ấy, không phải chỉ bảo vệ gia sản quá khứ, nhưng cả những con người viếng thăm các nơi ấy nữa.

Và ĐTC mạnh mẽ khẳng định rằng: ”Về vấn đề này tôi lập lại mong ước làm sao để mọi người tránh những sáng kiến và những hành vi trái ngược với ý chí đã được bày tỏ để đạt tới một hiệp định thực sự và không ngừng quyết tâm theo đuổi hòa bình phù hợp với những điều tuyên bố. Cần quyết liệt loại bỏ tất cả những gì đi ngược sự theo đuổi hòa bình và sự sống chung trong niềm tôn trọng nhau giữa các tín hữu Do thái, Kitô, và Hồi giáo; việc sử dụng bạo lực và khủng bố, bất kỳ loại kỳ thị nào vì lý do chủng tộc hoặc tôn giáo, chủ trương áp đặt quan điểm của mình gây thiệt hại cho các quyền của người khác, chủ trương bài do thái dưới tất cả mọi hình thức, cũng như bạo lực hoặc những biểu thị bất bao dung chống lại con người và các nơi thờ phượng của Do thái, Kitô và Hồi giáo”.

Sau cùng, ĐTC nhắc đến sự kiện tại quốc gia Israel có nhiều cộng đoàn Kitô sinh sống. Họ là thành phần trọn vẹn của xã hội và tham gia với đầy đủ danh nghĩa vào các sinh hoạt xã hội, chính trị và văn hóa. ”Các tín hữu Kitô mong muốn đóng góp cho công ích từ căn tính của mình, và xây dựng hòa bình, như những công dân với đầy đủ danh nghĩa, họ loại bỏ mọi thái độ cực đoan, và họ dấn thân thực thi hòa giải và hòa hợp. Sự hiện diện của họ và sự tôn trọng các quyền của họ là bảo đảm một sự đa nguyên lành mạnh và là bằng chứng về sức sinh động của các giá trị dân chủ, sự ăn rễ sâu của các giá trị nạn trong đời sống cụ thể của quốc gia”.

Giã từ tổng thống Shimon Peres của Israel, ĐTC Đến Trung Tâm Đức Bà của Tòa Thánh. Nhà này nguyên thủy do các cha Dòng Đức Bà lên trời người Pháp thành lập hồi năm 1884 trên khu đất rộng 4 ngàn mét vuông để làm nơi tiếp đón các tín hữu hành hương người Pháp đến Thánh Địa. Tại đây đó 144 phòng và 2 phòng hội lớn, một thính đường 500 chỗ.

Năm 1973, vì các cha dòng Đức Bà Lên Trời bán trung tâm này, nên Tòa Thánh đã thủ đắc và biến thành một trung tâm quốc tế. Đức Gioan Phaolô 2 đổi tên thành Trung Tâm Đức Bà ở Jerusalem. Và năm 2004, Ngài ủy thác cho các cha dòng Đạo Binh Chúa Kitô đảm trách.

Tại Trung Tâm, vào lúc gần 1 giờ rưa, ĐTC đã tiếp kiến riêng và hội kiến với thủ tướng Israel, Ông Netanyahu, trước khi dùng bữa trưa với đoàn tùy tùng.

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio
 

Buổi cầu nguyện đại kết tại Đền Thờ Mộ Thánh

Buổi cầu nguyện đại kết tại Đền Thờ Mộ Thánh

Pope Francis, Bartholomew I

JERUSALEM. Lần đầu tiên trong lịch sử, ĐTC Phanxicô và các vị lãnh đạo các Giáo Hội Kitô khác đã cầu nguyện chung tại Đền Thờ Mộ Thánh ở Jerusalem chiều chúa nhật 25-5-2014.

Trong cuộc viếng thăm 3 ngày tại Thánh Địa, chiều ngày 25-5-2014 ĐTC đã từ Bethlehem bay đến Tel Aviv. Tại đây sau nghi thức tiếp đón với sự hiện diện của tổng thống Shimon Peres và thủ tướng Netanyahu, ĐTC đã đáp trực thăng về Jerusalem. Nơi đây, ngài đã gặp và hội kiến riêng với Đức Thượng Phụ Bartolomaios I, Giáo Chủ Chính Thống Constantinople, tại tòa Khâm Sứ Tòa Thánh, giống như vị tiền nhiệm của ngài là Đức Phaolô 6 đã gặp Đức Thượng Phụ Athenagoras 50 năm về trước. Trong cuộc gặp gỡ này, hai vị đã ký vào một tuyên ngôn chung bày tỏ quyết tâm tiếp tục hành trình tiến về sự hiệp nhất trọn vẹn, tiếp tục công việc của Ủy ban hỗn hợp quốc tế đối thoại thần học giữa Công Giáo và Chính Thống.

Tiếp đến, vào lúc 7 giờ tối, hai vị đến Đền Thờ Mộ Thánh để cử hành buổi cử hành đại kết với sự tham dự của các đại diện Công Giáo, Chính Thống, Amérni, Tin Lành và Anh giáo, các vị Tổng lãnh sự của 5 nước bảo đảm qui luật statu quo của Thánh Địa là Pháp, Bỉ, Tây Ban Nha, Italia và Hy Lạp, cùng với đông đảo khách mời. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử, một buổi cầu nguyện đại kết được cử hành tại nơi an táng Chúa Cứu Thế.

Sau khi tiến vào Đền thờ Mộ Thánh từ hai cửa khác nhau, ĐTC và Đức Thượng Phụ ôm chào nhau rồi hai vị cùng tiến vào nơi cử hành buổi cầu nguyện giữa tiếng hát của ca đoàn Hy Lạp.

Sau lời chào mừng của Đức Thượng Phụ Chính Thống Hy Lạp của thành Jerusalem, mọi người đã nghe đọc hai đoạn Tin Mừng phục sinh bằng tiếng Hy Lạp (Ga 20,1-9) và La Tinh (Mt 28,1-10), và bài ngỏ lời của Đức Thượng Phụ Bartolomaios, đến lượt ĐTC lên tiếng.

Church-of-the-Holy-Sepulchre 1

Đền thờ Mộ Thánh (Holy Sepulchre)

Diễn văn ca ĐTC

Ngài nhắc đến cuộc gặp gỡ lịch sử cách đây 50 năm giữa Đức Phaolô 6 và Đức Thượng Phụ Athenagoras, đồng thời chào thăm và cám ơn các vị lãnh đạo Kitô hiện diện. ĐTC nói đến điểm nòng cốt chung của tất cả các tín hữu Kitô, và khích lệ mọi cố gắng tìm về hiệp nhất:

”Thật là một ân phúc đặc biệt được họp nhau cầu nguyện nơi đây. Ngôi mộ trống, ngôi mộ mới ở trong vườn nơi mà Ông Giuse d'Arimatea đã kính cẩn an táng xác Chúa Giêsu, là nơi từ đó đã xuất phát lời loan báo Phục Sinh: ”Các bà đừng sợ! Tôi biết các bà tìm Đức Giêsu chịu đóng đanh. Ngài không ở đây. Ngài đã sống lại như đã nói trước. Vậy các bà hãy đến, hãy nhìn nơi Ngài đã được an táng. Mau lên hãy đi nói với các môn đệ: ”Ngài đã sống lại từ cõi chết” (Mt 28,5-7).

”Lời loan báo này, được củng cố nhờ chứng tá của những người được Chúa Phục Sinh hiện ra, chính là trọng tâm sứ điệp Kitô, được trung thành truyền lại từ đời này sang đời khác, như ngay từ đầu thánh Phaolô Tông Đồ làm chứng (..1 Cr 15,3-4)… Đó là nền tảng đức tin liên kết chúng ta, nhờ đó chúng ta cùng nhau tuyên xưng rằng Chúa Giêsu Kitô, Con duy nhất của Chúa Cha và là Chúa duy nhất của chúng ta, ”đã chịu khổ nạn dưới thời Quan Phongxiô Philato, chịu đóng đanh, chịu chết và mai táng; xuống ngục tổ tông; ngày thứ ba Người sống lại từ cõi chết” (Kinh Tin Kính). Mỗi người chúng ta, mỗi tín hữu đã chịu phép rửa trong Chúa Kitô, đều sống lại một cách thiêng liêng từ ngôi mộ này, vì trong phép rửa, tất cả chúng ta thực sự được tháp nhập vào Vị Trưởng Tử của toàn thể công trình sáng tạo, được mai táng với Ngài, để cùng Ngài được sống lại và có thể bước đi trong một đời sống mới (Xc Rm 6,4).

”Chúng ta hãy đón nhận ân phúc đặc biệt trong lúc này. Chúng ta hãy sốt sắng mặc niệm cạnh ngôi mộ trống, để tái khám phá ơn gọi Kitô cao cả của chúng ta: chúng ta là những người của sự phục sinh, chứ không phải của sự chết. Từ nơi này, chúng ta hãy học sống cuộc sống của chúng ta, những cơ cực của các Giáo Hội chúng ta và toàn thế giới dưới ánh sáng buổi sáng Phục Sinh. Mỗi vết thương, mỗi đau khổ, mỗi đớn đau, đều được chất trên vai của vị Mục Tử Nhân Lành, Ngài đã hiến mạng sống mình và qua hy sinh của Ngài, Ngài đã mở đường dẫn đến đời sống vĩnh cửu. Những vết thương mở rộng là những cánh cửa qua đó dòng từ bi của Chúa đổ tràn trên thế giới. Chúng ta đừng để nền tảng niềm hy vọng của chúng ta bị cướp mất! Chúng ta đừng để thế giới bị thiếu Tin Mừng Phục Sinh! Và chúng ta đừng điếc trước tiếng gọi mạnh mẽ hiệp nhất vang dội chính từ nơi này, qua những lời của Đấng Phục Sinh đã gọi tất cả chúng ta là anh em của Ngài” (Xc Mt 28,10; Ga 20,17).

ĐTC nhận xét rằng ”Chắc chắn là chúng ta không thể phủ nhận những chia rẽ vẫn còn giữa chúng ta, là những môn đệ của Chúa Giêsu: nơi thánh này càng làm cho chúng ta đau đớn cảm thấy thảm trạng đó. Tuy nhiên, 50 năm sau vòng tay ôm của hai Người Cha đáng kính của chúng ta, với lòng biết ơn và kinh ngạc, chúng ta hãy nhìn nhận rằng do sự thúc đẩy của Chúa Thánh Linh, chúng ta có thể thực hiện những bước tiến thật quan trọng tiến về hiệp nhất. Chúng ta ý thức rằng còn phải tiến trên những con đường khác để đạt tới sự hiệp thông trọn vẹn, sự hiệp thông có thể được biểu lộ qua sự chia sẻ cùng bàn tiệc Thánh Thể mà chúng ta nồng nhiệt ao ước; nhưng những khác biệt không được làm cho chúng ta khiếp sợ hoặc làm tê liệt hành trình của chúng ta. Chúng ta phải tin rằng cũng như có thể lật ngược tảng đá chắn mộ, thì cũng có thể loại bỏ mọi chướng ngại vẫn còn ngăn cản sự hiệp nhất trọn vẹn giữa chúng ta. Thật là một ân thánh phục sinh mà chúng ta có thể nếm hưởng trước. Mỗi lần chúng ta xin lỗi nhau vì những tội đã phạm đối với các tín hữu Kitô khác và mỗi lần chúng ta có can đảm trao ban và nhận sự tha thứ ấy, chúng ta cảm nghiệm sự phục sinh! Mỗi lần chúng ta khắc phục những thành kiến cũ, và có can đảm thăng tiến những quan hệ huynh đệ mới, chúng ta tuyên xưng rằng Chúa Kitô thực sự sống lại! Mỗi lần chúng ta suy nghĩ tương lai của Giáo Hội từ ơn gọi hiệp nhất của Hội Thánh, thì ánh sáng của ban mai Phục Sinh bừng sáng! Về điểm này tôi muốn lập lại mong ước đã được các vị tiền nhiệm của tôi bày tỏ, đó là duy trì một cuộc đối thoại với tất cả mọi anh em trong Chúa Kitô để tìm ra một hình thức thực thi sứ vụ của Giám Mục Roma, phù hợp với sứ mạng của mình, mở ra một tình trạng mới và có thể trong bối cảnh hiện nay làmột sự phục vụ yêu thương và hiệp thông được tất cả mọi người công nhận (Xc Gioan Phaolô 2, Thông điệp Ut unum sint, 95-96).

Tiếp tục bài diễn văn tại buổi cầu nguyện đại kết ở Đền Thờ Mộ Thánh, ĐTC Phanxicô nói:

”Trong khi chúng ta dừng lại tại nơi thánh này như những người hành hương, chúng ta cũng nhớ đến trong kinh nguyện đến toàn vùng Trung Đông, vẫn còn bị bạo lực và xung đột. Và trong kinh nguyện, chúng ta không quên bao nhiêu người nam nữ, tại các nơi khác trên thế giới, đang chịu đau khổ vì chiến tranh, nghèo đói; cũng như nhiều tín hữu Kitô bị bách hại vì đức tin nơi Chúa Phục Sinh. Khi các tín hữu Kitô thuộc các hệ phái khác nhau cùng chịu đau khổ, cạnh nhau, và trợ giúp nhau trong tình bác ái huynh đệ, thì một phong trào đại kết đau khổ, đại kết bằng máu được thực hiện và có hiệu năng đặc biệt không những trong bối cảnh các cuộc bách hại ấy xảy ra, nhưng do sức mạnh của sự thông công giữa các thánh, cho toàn thể Giáo Hội nữa.

”Kính thưa Đức Thượng Phụ, người anh em yêu quí, toàn thể anh chị em quí mến, chúng ta hãy bỏ qua một bên những do dự mà chúng ta thừa hưởng từ quá khứ, và cởi mở tâm hồn cho Thánh Linh tác động, Thánh Thần Tình Thương (Xc Rm 5,5) và Chân Lý (Xc Ga 16,13) để cùng nhau mau lẹ tiến bước hướng về ngày hồng phúc là sự hiệp thông trọn vẹn được tái lập. Trong hành trình đó chúng ta được nâng đỡ bằng lời cầu nguyện mà chính Chúa Giêsu, tại thành này, hôm áp ngày chịu khổ nạn, chịu chết và sống lại, dâng lên Chúa Cha cho các môn đệ và chúng ta không ngừng khiêm tốn nhắc lại như kinh nguyện của chúng ta: ”Xin cho chúng được nên một.. để thế gian tin” (Ga 17,21).

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Đức Thánh Cha Phanxicô mời tổng thống Mahmoud Abbas và Simon Perez tham dự cuộc gặp gỡ cầu nguyện cho hòa bình tại Vatican

Đức Thánh Cha Phanxicô mời tổng thống Mahmoud Abbas và Simon Perez tham dự cuộc gặp gỡ cầu nguyện cho hòa bình tại Vatican

Đức Thánh Cha Phanxicô mời tổng thống Palestine Mahmoud Abbas và Israel Simon Perez tham dự một cuộc gặp gỡ cầu nguyện cho hòa bình với ngài tại Vatican. Ngài khích lệ hai chính quyền can đảm cương quyết gia tăng các nỗ lực để đem lại hòa bình cho hai dân tộc trong hai quốc gia độc lập, cùng chung sống trong tự do, an ninh, hòa bình, trong tình huynh đệ và tôn trọng các quyền của nhau, cũng như trở thành mô thức sống chung hòa bình cho các vùng bị khủng hoảng trên toàn thế giới.

Đức Thánh Cha đã đưa ra lời kêu gọi trên đây trong thánh lễ cử hành tại quảng trường Vương cung thánh đường Giáng Sinh ở Bếtlêhem sáng Chúa Nhật 25-5-2014.

Chúa Nhật 25-5-2014 Đức Thánh Cha đã viếng thăm vùng đất của người Palestine và đã có năm sinh hoạt chính: gặp gỡ giới lãnh đạo Palestine, chủ sự thánh lễ cho tín hữu tại quảng trường trước Vương cung thánh đường Giáng Sinh ở Bếtlehem và chào thăm các trẻ em tỵ nạn. Tiếp đến Đức Thánh Cha đến Tel Aviv và vào ban chiều ngài chủ sự buổi cử hành đại kết trong Vương cung thánh đường Thánh Mộ. Sau đây là chi tiết các sinh hoạt của Đức Thánh Cha.

Lúc 7 giờ rưỡi sáng Chúa Nhật Đức Thánh Cha đã rời Tòa sứ thần Tòa Thánh để đến phi trường quốc tế Amman lấy trực thăng đi Giêrusalem. Lễ nghi tiễn biệt đã diễn ra tại phi trường Hoàng hậu Alia. Vua Giordania đã đón Đức Thánh Cha tại cửa vào phi trường. Hai vị đã trao đổi với nhau trước khi có lễ nghi từ biệt theo cung cách quốc khách.

Lúc 8 giờ ba chiếc trực thăng ”Superpuma” đã cất cánh chở Đức Thánh Cha và đoàn tùy tùng đến Bếtlêhem cách đó 75 cây số. Tiếp đón Đức Thánh Cha tại bãi đậu trực thăng ở Bếtlehem có Đức Tổng Giám Mục Giuseppe Lazzarotto, Sứ thần Tòa Thánh cạnh Israel kiêm Khâm sứ Tòa Thánh tại Giêrusalem và Palestine, Đức Cha Fouad Twal Thượng phụ Latinh Giêrusalem, Đức Cha Yasser Ayyach, Tổng Giám Mục Hy lạp Melkít Petra và Filadelphia, Đức Cha Sleiman, Tổng Giám Mục Baghdad kiêm Giám quản tông tòa Petra và Filadelfia, Đức Cha Maroun Laham Giám quản Giordania, cha Pierbattista Pizzaballa Bề trên dòng Phanxicô quản thủ Thánh Địa và Rabbi Abraham Skorka, Viện trưởng trường Rabbi châu Mỹ Latinh và hai Đức Ông cố vấn và thư ký Tòa Sứ Thần.

 

PALESTINIAN-ISRAEL-VATICAN-RELIGION-POPE  AFP

Đức Thánh Cha và đoàn tùy tùng đã đi xe về dinh tổng thống Palestine ở Bếtlehem cách đó 2 cây số rưỡi. Bếtlehem ”Beit Lekhem” trong tiếng do thái có nghĩa là ”Nhà của bánh”, là thành phố có 25,000 dân cư, nằm ở độ cao 765 mét trên mặt biển. Dân chúng sống về nghề nông, chăn nuôi và thủ công nghệ chế tượng ảnh và vật dụng bằng gỗ ô liu và xà cừ. Thánh Kinh gọi nó là Bếtlehem vùng Giuđea và là quê sinh của vua Đavít. Bếtlehem nổi tiếng với biến cố Chúa Giêsu Kitô giáng sinh, và từ thời xa xưa đã là nơi thu hút tín hữu hành hương toàn thế giới.

Năm 135 hoàng đế Adriano xây đền thờ kính thần Adone nhằm xóa bỏ ảnh hưởng của Kitô giáo. Nhưng năm 330 hoàng đế Costantino cho xây vương cung thánh đường trên hang đá giáng sinh. Năm 384 thánh Girôlamô đến sống tại đây và dịch Thánh Kinh Do thái ra tiếng Latinh. Đó là bản văn Vulgata. Sau khi Hồi giáo đánh chiếm Thánh Địa năm 638 toàn vùng nằm dưới ảnh hưởng chính trị của Califfo Omar. Năm 1099 khi nghe tin Đạo binh thánh giá tới gần người hồi tàn phá thành phố. Năm sau đó vua Baldovino được phong làm vua Giêrusalem. Nhưng năm 1187 Hồi giáo lại tái chiếm Bếtlehem. Thành phố suy tàn dần và năm 1600 chỉ còn là một làng nhỏ. Vào thế kỷ XIX thành phố hồi sinh và có da số dân theo Kitô giáo.

Từ năm 1918 Bếtlehem nằm dưới sự đô hộ của Anh quốc và năm 1948 thuộc vương quốc Hashemít của Giordania. Năm 1967 Bếtlehem, mạn đông Giêrusalem và vùng Cisgiordania bị Israel chiếm đóng. Từ năm 1995 nó thuộc vùng đất của người Palestine. Ông Yasser Arafat tổng thống Palesitine đã xây dinh tổng thống tại đây.

Tín hữu và dân chúng đã đem theo cờ Tòa Thánh và cờ Palestine cũng như bong bóng và ca hát chào mừng Đức Thánh Cha trong bầu khí lễ hội rất tươi vui. Trên cửa sổ các dinh thự chung quanh quảng trường Vương cung thánh đường Máng Cỏ treo nhiều hình vẽ cảnh Giáng Sinh, Đức Mẹ, Chúa Hài Đồng và các mục đồng của các họa sĩ nổi tiếng thế giới. Cũng có hình Đức Thánh Cha gặp gỡ tổng thống Mahmopud Abbas tại Vaticăn, treo tại nhiều nơi trong thành phố.

 

Pope Francis

 

PALESTINIAN-ISRAEL-VATICAN-RELIGION-POPE-MASS  AFP

Tổng thống Palestine Mahmoud Abbas đã tiếp đón Đức Thánh Cha trước dinh theo nghi lễ quốc khách. Rồi hai vị lên văn phòng ở lầu một hội kiến với nhau. Có một vài đại diện của cộng đoàn kitô Palestine đến từ dải Gazar trao vài sứ điệp cho Đức Thánh Cha. Tiếp đến Đức Thánh Cha đã gặp hàng lãnh đạo Palestine và tổng thống Abbas đã đọc diễn văn chào mừng ngài.

Đáp lời tổng thống Mahmoud Abbas Đức Thánh Cha đã cám ơn Chúa cho ngài đến viếng thăm nơi Chúa Giêsu, Hoàng Tử Hòa Bình đã giáng sinh và cám ơn tổng thống và nhân dân Palestine vì sự tiếp đón nồng hậu dành cho ngài. Từ nhiều thập niên qua vùng Trung Đông đã sống các hậu qủa thê thảm của cuộc xung đột kéo dài đã gây ra biết bao nhiêu thương tích cần phải chữa lành và cả khi bạo lực không bùng cháy, thì tình hình bất ổn và sự không hiểu biết giữa các bên cũng tạo ra sử bất ổn, các quyền bị khước từ, sự cô lập và di tản của nhiều cộng đoàn, các chia rẽ, thiếu thốn và khổ đau đủ loại. Đức Thánh Cha bầy tỏ sự gần gũi của ngài đối với những ai phải đau khổ vì các hậu qủa của xung khắc ấy và ngài đã ra lời kêu gọi như sau:

Từ cùng thẳm con tim tôi muốn nói rằng: đã đến giờ chấm dứt tình trạng này ngày càng trở nên không thể chấp nhận được, và điều này vì thiện ích của tất cả mọi người. Vì thế cần gia tăng các cố gắng và sáng kiến nhằm tạo dựng ra các điều kiện của một nền hòa bình ổn định, dựa trên công lý, việc thừa nhân các quyền của từng người và trên sự an ninh của nhau. Đã đến lúc tất cả mọi người hãy có can đảm quảng đại và sáng kiến phục vụ công ích, có can đảm hòa bình, dựa trên việc tất cả mọi người thừa nhận quyền hai quốc gia hiện hữu và được hưởng hòa bình và an ninh trong các biên giới được quốc tế thừa nhận.

Tôi nồng nhiệt cầu chúc rằng vì mục đích này mọi phía tránh các sáng kiến và các cử chỉ chống lại ý muốn tuyên bố đạt đến một thỏa hiệp đích thật và không mệt mỏi theo đuổi hòa bình với sự quyết tâm và trung thực. Hòa bình đem theo nó nhiều thiện ích cho các dân tộc của vùng này và cho toàn thế giới. Vì thế cần phải nhất quyết bước tới hòa bình, cả khi mỗi người phải từ bỏ vài điều đi nữa.

Tôi cầu chúc cho dân tộc Palestine và Israel cũng như các giới lãnh đạo liên hệ dấn thân trên con đường xuất hành hạnh phủc này tiến về hòa bình với lòng can đảm và cương quyết cần thiết cho mọi cuộc xuất hành. Hòa bình trong an ninh và tin tưởng lẫn nhau sẽ trở thành khung cảnh quy chiếu ổn định giúp đương đầu và giải quyết các vấn đề khác và như thế cống hiến một cơ hội phát triển quân bình, để trở thành mô thức cho các vùng khủng hoảng khác.

Đức Thánh Cha cũng nhắc tới sinh hoạt của cộng đoàn kitô cống hiến phần đóng góp ý nghĩa cho công ích của xã hội và chia sẻ các vui buồn khổ đau của toàn dân. Các kitô hữu muốn tiếp tục nắm giữ vai trò của mình như công dân có đầy đủ guyền lợi cùng với các công dân khác được coi như anh chị em của nhau.

Đức Thánh Cha ca ngợi tổng thống Abbas như là người của hòa bình và tạo dựng hòa bình. Cuộc gặp gỡ mới đây tại Vaticăng và sự hiện diện của ngài tại Palestine minh chứng cho các tương quan tốt đẹp giữa Tòa Thánh và Nước Palestine, mà ngài cầu mong gia tăng cho thiện ích của tất cả mọi người. Đức Thánh Cha đánh giá cao dấn thân chuẩn bị một Thỏa hiệp giữa các Phe liên quan tới các khía cạnh khác nhau của cuộc sống của Cộng đoàn công giáo của quốc gia, với sự chú ý đặc biệt tới tự do tôn giáo. Thật thế, việc tôn trọng quyền nền tảng này của con người, một trong những điều kiện không thể khước từ được của hòa bình, tình huynh đệ, và hòa hợp. Nó nói với thế giới rằng phải và có thể tìm ra một thỏa hiệp tốt đẹp giữa các nền văn hóa và tôn giáo khác nhau. Nó làm chứng rằng chúng ta có chung với nhau biết bao điều và quan trọng có thể nhận ra một con đường chung sống thanh thản, trật tự và hòa bình, trong việc tiếp nhận các khác biệt và trong niềm vui là anh chị em với nhau vì là con cái của một Thiên Chúa duy nhất. Thưa tổng thống và các bạn tụ tập nhau tại Bếtlêhem này xin Thiên Chúa toàn năng chúc lành, che chở và ban cho qúy vị sự khôn ngoan và sức mạnh cần thiết để can đảm tiếp tục con đường hòa bình làm sao để gươm giáo trở thành lưỡi cầy và miền đất này có thể tái nở hoa trong thịnh vượng và hoà hợp.

Sau cuộc gặp gỡ tổng thống và giới chức chính quyền Palestine, lúc 10 giờ rưỡi Đức Thánh Cha đã đi xe díp trắng đến quảng trường trước vương cung thánh đường Giáng Sinh, cách đó 2 cây số rưỡi, để cử hành thánh lễ cho tín hữu, có sự tham dự của tổng thống Mahmoud Abbas và các giới chức chính quyền và đông đảo tín hữu, đến từ Galilea và Gaza, cũng như ba trăm công nhân Á châu làm việc tại Israel.

Trên đường đến Bếtlêhem Đức Thánh Cha đã dừng lại chỗ có bức tường cao 10 mét ngăn cách biên giới của Israel với vùng đất Palestine để cầu nguyện, trước khi tiếp tục tiến vào Bếtlêhem. Bức tường này đã bắt đầu được chính quyền Israel khởi công xây cất ngày 14 tháng 4 năm 2002 trong thời kỳ ”antifada” II giữa các năm 2000 tới 2005, nhằm ngăn chặn các vụ khủng bố phá hoại bằng hom người của người Palestine. Bức Tường được gọi là ”bức tường ô nhục” này cao 8-9 thước, dài 450 cây số trên tổng số 708 cây số dự trù, thường xây lấn trên đất của người Palestine, chia cắt đất đai, ruộng vườn của người Palestine và tạo ra biết bao nhiều bất công, khó nhọc vất vả, mất thời giờ cho người Palestine, mỗi khi phải di chuyển, kể cả các trẻ em khi đi học phải đi vòng xa qua các trạm kiểm soát của lính do thái gác biên giới.

Bà Vera Baboun thị trường thành phố đã chào đón Đức Thánh Cha.

Thánh lễ đã được cử hành bằng tiếng Latinh và A rập. Các bài sách thánh đã được tuyên đọc bằng tiếng A rập và thánh ca là thánh ca Giáng Sinh quốc tế nhưng bằng tiếng A Rập.

Giảng trong Thánh lễ Đức Thánh Cha nói: ”Đây là dấu chỉ: các ngươi sẽ tìm thấy một trẻ thơ cuốn tã nằm trong máng có” (Lc 2,12). Trẻ thơ Giêsu sinh ra tại Bếlehem là dấu chỉ Thiên Chúa ban cho người chờ đợi ơn cứu rỗi và luôn mãi là dấu chỉ sự hiền dịu của Thiên chúa và sự hiện diện của Ngài trong thế giới. Từ hình ảnh của Chúa Hài Nhi Đức Thánh Cha nghĩ tới các trẻ em trên toàn thế giới và nói:

Cả ngày nay nữa các trẻ em cũng là một dấu chỉ, dấu chỉ của niềm hy vọng, dấu chỉ của sự sống, nhưng cũng là dấu chỉ ”bắt mạch” giúp hiểu sức khỏe của một gia đình, một xã hội, sức khỏe của toàn thế giới. Khi các trẻ em được tiếp nhận, yêu thương, giữ gìn và che chở, thì gia đình lành mạnh, xã hội tốt đẹp hơn, thế giới nhân bản hơn. Chúng ta hãy nghĩ tới công trình của Học viện Effetà Phaolo VI đối với các trẻ em câm điếc: đó là một dấu chỉ cụ thể lòng lành của Thiên Chúa. Ngày hôm nay Thiên Chúa cũng lập lại với chúng ta các người nam nữ của thế kỷ XXI: ”Đây là dấu chỉ, các ngươi sẽ tìm thấy một trẻ thơ…”. Trẻ thơ Bếtlêhem giòn mỏng như tất cả các trẻ sơ sinh. Không biết nói tuy Ngôi Lời đã nhập thể, đã đến để thay đổi trái tim và sự sống con người. Trẻ Thơ đó cũng như mọi trẻ thơ, yếu đuối và cần được trợ giúp và che chở. Cả ngày nay nữa các trẻ em cần được tiếp nhận và bảo vệ từ khi còn ở trong lòng mẹ.

Rất tiếc trong thế giới mgày nay là thế giới đã phát triển các kỹ thuật tinh vi nhất, vẫn còn có biết bao nhiêu trẻ em sống trong các điều kiện vô nhân, ngoài lề xã hội, trong các vùng ngoại ô các thành phố lớn hay trong các vùng quê. Biết bao nhiêu trẻ em ngày nay còn bị khai thác đối xử tàn tệ, bị làm nô lệ, là đối tượng của bạo lực và các vụ buôn bán bất hợp pháp. Ngày nay có quá nhiều trẻ em tỵ nạn, di cư đôi khi bị chết chìm trên biển, đặc biệt trong biển vùng Địa Trung Hải. Hôm nay chúng ta xấu hổ vì tất cả những điều đó trước mặt Thiên Chúa, trước Thiên Chùa trở thành Hài Nhi.

Tiếp tục bài giảng Đức Thánh Cha đã đưa ra một loạt các câu hỏi: chúng ta là ai trước Hài Nhi Giêsu? Chúng ta là ai trước các trẻ em ngày nay? Chúng ta có giống Mẹ Maria và Cha Thánh Giuse tiếp đón Chúa Giêsu và lo lắng cho Người với tình nẫu tự và phụ tử hay không? Hay chúng ta giống như vua Hêrốt muốn loại trừ Ngài? Chúng ta có giống các mục đồng mau mắn qùy xuống thờ lạy Người vá dâng cho Người các món qùa khiêm tốn hay chúng ta thờ ơ? Có lẽ chúng ta hùng biện và duy đạo đức, là những người khai thác các hình ảnh của trẻ em nghèo nhằm sinh lời? Chúng ta có khả năng ở gần chúng và ”Mất thời giờ” với chúng không? Chúng ta có biết lắng nghe chúng, gìn giữ chúng cầu nguyện cho chúng và với chúng không? Hay chúng ta bỏ bê chúng để lo lắng cho các lợi lộc của chúng ta?

”Đây là dầu chỉ: các ngươi sẽ tìm thấy một trẻ thơ…”. Có lẽ trẻ thơ ấy khóc. Nó khóc vì đói, vì lạnh, vì muốn được bế bồng trên tay. Đức Thánh Cha áp dụng cho các trẻ em ngày nay và nói:

Cả ngày nay nữa các trẻ em khóc, khóc rất nhiều và tiếng khóc của các em gọi mời chúng ta. Trong thế giới này mỗi ngày vứt bỏ hàng tấn thực phẩm và thuốc men, có các trẻ em khóc vô ích vì đói vì bệnh có thể chữa được một cách đễ dàng. Trong một thời đại tuyên bố bảo vệ các trẻ em vị thành niên, người ta buôn bán vũ khí rốt cuộc rơi vào tay các trẻ em chiến binh; người ta buôn bán các sản phẩm do các trẻ em nhân công nô lệ làm. Tiếng khóc của các em bị bóp nghẹt: các em phải chiến đấu, phải làm việc, các em không thể khóc! Nhưng mẹ của các em, những bà Rachel ngày nay khóc: họ khóc các con họ và không muốn được an ủi (x. Mt 2,18).

”Đây là dầu chỉ”. Hài Nhi Giêsu đã sinh ra tai Bếtlêhem, mọi trẻ em sinh ra và lớn lên tại mọi phần của thế giới là dấu chỉ bắt mạch cho phép kiểm thực tình trạng sức khỏe của gia đình, cộng đoàn và quốc gia của chúng ta. Từ việc bắt mạch thẳng thắn và liêm chính đó có thể nảy sinh ra một kiểu sống mới, trong đó các tương quan không còn là xung khắc đàn áp, duy tiêu thụ nữa, mà là các tương quan của tình huynh đệ, tha thứ, hòa giải, chia sẻ và yêu thương.

Ôi lậy Mẹ Maria, Mẹ Chúa Giêsu là Đấng đã tiếp đón xin đậy chúng con tiếp đón, là Đấng đã thờ lậy xin dạy chúng con thờ lậy, là Đấng đã đi theo xin dạy chúng con đi theo. Amen.

Các lời nguyện giáo dân đã được đọc bằng các thứ tiếng A rập, Ý, Anh, Tagalog. Mấy chục linh mục đã giúp Đức Thánh Cha cho tín hữu rước Mình Thánh Chúa

Trước khi Đức Thánh Cha đọc lời nguyện kết lễ Đức Tổng Giám Mục Fouad Twal, Thượng Phụ latinh Giêrusalem đã đại diện mọi người cám ơn Đức Thánh Cha và nói: Chúng con mong ước chuyến viếng thăm này của Đức Thánh Cha làm sống dậy trong con tim của mọi người sứ điệp Giáng Sinh, hòa bình và hơi ấm của Hang Đá Bếtlêhem. Chúng con cầu mong rằng chuyến hành hương của Đức Thánh Cha giúp mọi người sống sự cao cả của sự khiêm nhường của Bếtlêhem, thừa nhận sự vô ích của xấc xược, vẻ đẹp của tuổi thơ và sự vô tội. Có biết bao trẻ thơ bị các người lớn lãnh đạo thế giới này bắt buộc sống lang thang, thường bị bỏ rơi: trẻ em không nhà cửa, không cha mẹ chạy trên các con dường bụi bặm của các trại tỵ nạn, vì không còn nhà ở và nơi nương tựa. Có biết bao trẻ em phải nghe lại những lời ”không còn chỗ trong quán trọ” đã được nói với Mẹ Maria và Cha Thánh Giuse xưa kia. Không có chỗ cho chúng cả trong các chính sách gia đình, trong luật lệ và trong các cuộc đàm phán cho một nền hòa bình không tìm ra đường đến với chúng con, một nền hòa bình không chọc thủng được các bức tường sợ hãi không tin tưởng bao quanh thành phố này. Các người trẻ của chúng con đã theo gót Chúa Giêsu, sống kinh nghiệm di cư, đói khát, lạnh lẽo và thường khi trông thấy nhà cửa của chúng bị phá hủy.

Cùng với Đức Thánh Cha chúng con xin Hài Nhi Giêsu nới rộng hang đá của Người để tiếp đón biềt bao nhiêu trẻ em nạn nhân của bạo lực vô nhân và bất công. Làm sao không nhớ cầu nguyện cho biết bao nhiêu tù nhân chen chúc trong các nhà tù. Đói một miếng bánh, nhưng đói công lý và hòa bình hơn, đói một mái nhà tiếp đón họ. Các Hêrốt thời này chưa hết lo sợ hòa bình hơn chiến tranh, sợ hãi các gia đình lành mạnh và sẵn sàng giết người và tiếp tục giết người… Là con cháu của các mục đồng xưa kia tiếp nhận lời mời của các thiên thần, chúng con cùng với Đức Thánh Cha đến Bếtlêhem để thờ lậy Hài Nhi và chúc mừng cha mẹ Người. Nhân danh các Giám Mục công giáo, nhân dân Palestin và biết bao nhiêu khách hành hương đến Bếtlêhem như nhà của họ, chúng con cám ơn sự hiện diệơn của Đức Thánh Cha với chúng con hôm nay cùng với tất cả các trẻ em lành mạnh và tàn tật của nhiều trung tâm ở Bếtlêhem chúng con cầu nguyện cho Đức Thánh Cha và gắn bó vời Đức Thánh Cha.

Cộng đoàn đã cùng Đức Thánh Cha hát Kinh Lạy Nữ Vương Thiên đàng. Trước khi ban phép lành cuối lễ Đức Thánh Cha đã đưa ra một sáng kiến bất ngờ chưa từng có ngài nói: “Ở nơi Hoàng Tử Hòa Bình đã sinh ra này, tôi ước mong mời tổng thống Mahmoud Abbas và tổng thống Simon Perez cùng tôi dâng một lời cầu nguyện mạnh mẽ khẩn nài Thiên Chúa ban cho ơn hóa bình. Tôi cống hiến nhà tôi ở Vatican để tiếp đón cuộc gặp gỡ cầu nguyện này”. Mọi người đều ước mong hòa bình và biết bao nhiêu người xây dựng nó mỗi ngày với các cử chỉ bé nhỏ. Nhiều người đau khổ và kiên nhẫn chịu đựng sự vất vả của biết bao nhiêu nỗ lực để xây dựng hòa bình. Và tất cả đặc biệt những người được đặt để phục vụ các dân tộc của mình – chúng ta có bổn phận trở thành dụng cụ của hòa bình, trước hết bằng lời cầu nguyện. Xây dựng hòa bình khó, nhưng sống không có hòa bình là một đau đớn. Tất cả mọi người nam nữ của vùng Đất này và toàn thế giới xin chúng ta đem tới trước Thiên Chúa khát vọng hòa bình nồng cháy của họ”.

Mọi người đã vỗ tay tán đồng sáng kiến của Đức Thánh Cha.

Tiếp đến Đức Thánh Cha đã phó thác cho cánh tay chở che hiền mẫu của Mẹ Maria vùng đất này và tất cả những người sống trong đó, để họ có thể sống trong công lý, hòa bình và tình huynh đệ. Đức Thánh Cha xin Mẹ canh thức trên các gia đình, người trẻ và người già, trên những người đã đánh mất đức tin niềm hy vọng, an ủi người đau yếu, tù đầy và tất cả những ai đau khổ, nâng đỡ các chủ chăn để các vị là ”ánh sáng và muối đất” trong vùng đất được chúc phúc này, nâng đỡ các công trình giáo dục, đặc biệt đại học Bếtlêhem. Khi chiêm ngưỡng thánh Gia tại Bếtlêhem này tôi nghĩ tới Nagiarét nơi tôi hy vọng sẽ đến thăm vào một dịp khác, nếu Chúa muốn. Chúng ta hãy phó thác cho Đức Thánh Trinh Nữ số phận của nhân loại, để mở ra trong thế giới các chân trời mới và hứa hẹn của tình huynh đệ, liên đới và hòa bình.

Sau cùng Đức Thánh Cha ban phép lành cuối lễ cho tín hữu.

Từ giã mọi người Đức Thánh Cha đã đến nhà khách Casa Nova của các cha Dòng Phanxicô Quản thủ Thánh Địa để dùng bữa trưa với 5 gia đình người tỵ nạn và nghỉ ngơi chốc lát trước khi viếng thăm Vương cung thánh đường và Hang Đá Giáng Sinh. Nhà dòng bên cạnh Casa Nova hiện có 37 tu sĩ sinh sống. Vương cung thánh đường dài 54 mét rộng 36 mét gồm 5 gian dọc. Hai trong ba cửa vào bị xây kín cửa thứ ba thấp để ngăn chặn binh sĩ đi ngựa vào trong nhà thờ. Năm 326 hoàng đế Costantino cho xây một vương cung thánh đường bao trùm lên hang đá Giáng sinh. Năm 529 nhà thờ bị hư hỏng vì hỏa hoạn và vì cuộc nổi loạn của người Samaria và được tu sửa năm 540. Năm 614 quân của Cosrone II xâm chiếm vùng này nhưng không tàn phá nhà thờ vì có hình của ba vua mang sắc phục Ba Tư. Từ thời đạo binh Thánh Giá nhà thờ được trang hoàng với các bức khảm đá mầu và hình vẽ theo kiểu bisantin. Hang đá Giáng Sinh được lát đá cẩm thạch.

Năm 1187 Saladino chiếm Giêrsusalem nhưng không tàn phá nơi thánh. Năm 1347 các cha Phanxicô được đế quốc Ottoman giao việc trông coi vương cung thánh đường và sở hữu hang đá Giáng Sinh. Sang thế kỷ XVI là thời gian tranh chấp giữa các tu sĩ Phanxicô và các tu sĩ chính thống hy lạp và tùy theo các người bảo trợ. Sau khi người Venezia bị thua và trục xuất khỏi đảo creta năm 1669, phía chính thống được phép trông coi Hang đá và vương cung thánh đường, trong khi năm 1690 các tu sĩ Phanxicô được trông coi Hang đá Giáng Sinh. Bên cạnh là vương cung thánh đường thành nữ Catarina và là giáo xứ Latinh do các cha dòng Phanxicô xây năm 1882 thay thế một nhà thờ thời Trung cổ.

Lối xuống hang đá Giáng Sinh nằm bên phải vương cung thánh đường. Lối lên dẫn vào trong nhà thờ thánh nữ Catarina bên trái. Hang đá Giáng Sinh dài 12 mét 3 rộng 3 mét rưỡi, nơi có bàn thờ Giáng Sinh bên dưới có ngôi sao bạc ghi dấu nơi Chúa Giêsu sinh ra với hàng chữ Latinh: ”Hic de Virgine Maria Jesus Christus natus est” ”Đây là nơi Đức Giêsu Kitô được sinh ra bởi Trinh Nữ Maria”. Hang đá có 53 chiếc đèn trong đó có 9 cái thuộc Giáo Hội Latinh. Đàng sau bên phải là máng cỏ nơi Chúa Giêsu nằm trong nôi.

Sau khi viếng thăm và cầu nguyện tại Hang Đá, Đức Thánh Cha đã trở lại nhà Casa Nova để chụp hình lưu niệm với các tu sĩ Phanxicô. Tiếp đến ngài đi xe đến Trung tâm Phoenix cách đố 5 cây số để gặp gỡ các trẻ em thuộc các trại tỵ nạn. Đây là trung tâm phục hồi cho người tỵ nạn của trại Dheisheh đã được Thánh Gioan Phaolô II tài trợ xây cất và viếng thăm năm 2000, nhân kỷ niệm 25 năm ngài làm Giáo Hoàng. Trong đại thính đường của trung tâm có mấy trăm trẻ em đến từ các trại Sheisheh, Aida và Beit Jibrin. Một bé trai và một bé gái tặng Đức Thánh Cha vài hình vẽ, các thư và đồ thủ công do các em làm. Các em cầm nhiều mảnh giấy có viết các hàng chữ: ”Chúng con muốn tự do thờ phượng”, ”Người hồi và người Kitô sống dưới sự chiếm đóng” vv.. Một bé trai đại diện các em chào mừng Đức Thánh Cha và nói lên ước mong của các em được sống trong hòa bình tự do an bình và tình huynh đệ. Em nói:” Thưa Đức Thánh Cha chúng con đã mở mắt chào đời và trông thấy sự chiếm đóng. Chúng con muốn chết trong tự do”.

Các em cũng hát mừng Đức Thánh Cha và bầy tỏ các ước vọng đó. Tiếp đến hai em bé mặc sắc phục A rập tặng qùa cho Đức Thánh Cha một bức tranh và một cánh tay bị cột bởi dây xích. Đức Thánh Cha đã chào em bé dại diện và ngài cám ơn các em đã hát rất hay và tặng ngài kỷ niệm rất ý nghĩa.

Ngỏ lời với các em Đức Thánh Cha nói ngài hiểu các ước vọng sâu xa của các em. Nhưng ngài chỉ xin nói với các em một diều: không được dùng bạo lực để đáp trả lại bạo lực. Trái lại cần dùng sự thiện, hòa bình và việc làm kiên trì để trả lời bạo lực. Tiếp đến Đức Thánh đã ban phép lành cho các em.

Lúc 15 giờ 40 Đức Thánh Cha đã đi xe đến bãi đậu trực thăng. Tại đây đã diễn ra lễ nghi từ biệt với sự hiện diện của tổng thống Mahmoud Abbas và các giới chức chính quyền Palestine. Trực thăng chở Đức Thánh Cha tởi Tel Aviv để bắt đầu chặng thứ ba của chuyến viếng thăm trên đất Israel.

Linh Tiến Khải

Little Saigon: Cộng Ðồng Công Giáo thắp nến hiệp thông quốc nội

Little Saigon: Cộng Ðồng Công Giáo thắp nến hiệp thông quốc nội

Lâm Hoài Thạch/Người Việt

SANTA ANA, California (NV) – “Ðiểm chính của đêm thắp nến hôm nay là cầu nguyện cho quê hương Việt Nam thoát khỏi cảnh Trung Cộng đang xâm chiếm nước Việt Nam. Ðây chỉ là một giáo hội nhỏ ở hải ngoại, đáp lời mời gọi của Ðức Cha Bùi Văn Ðọc, Tổng Giám Mục Chủ Tịch Hội Ðồng Giám Mục Việt Nam kêu gọi tất cả giáo xứ có một đêm thắp nến để cầu nguyện cho quê hương Việt Nam trước cảnh nguy nan này.”

Đêm thắp nến cầu nguyện tại Trung Tâm Công Giạo-23-2014

Ðó là lời của ông Lâm Kim Bảo, chủ tịch cộng đồng công giáo giáo phận Orange County kiêm trưởng ban tổ chức đêm thắp nến chống Trung Cộng vào chiều Thứ Sáu tại Trung Tâm Công Giáo, Santa Ana.

“Thứ hai, là cầu nguyện cho tất cả những ngư phủ ở Việt Nam, họ cũng là đồng bào ruột thịt của chúng ta đang bị Trung Cộng đánh đập và thương vong khi đang hành nghề kiếm sống tại vùng biển của Việt Nam,” ông Bảo cho biết thêm.

Rất đông đảo đồng hương đến ủng hộ cho đêm thắp nến này. Trên sân khấu tổ chức có một bức tranh thật lớn hình bản đồ Việt Nam và hình giàn khoan dầu Trung Cộng bị gạch chéo. Và một biểu ngữ: “Ðêm Thắp Nến Cầu Nguyện cho quê hương trong cơn nguy biến.”

Theo ban tổ chức cho biết, Cộng Ðồng Công Giáo Việt Nam, Giáo Phận Orange County, có hơn 15 cộng đoàn đều đến tham dự. Ngoài ra, còn có các dân cử, quý lãnh đạo tinh thần, những đại diện của nhiều hội đoàn và đoàn thể tại Nam California cùng nhiều đồng hương không phải là người Công Giáo cũng đến để tham dự đêm thắp nến này.

Ðiều hợp chương trình, nữ MC Minh Phượng và Bác Sĩ Trần Việt Cường.

Trước khi chương trình khai mạc, Ðức Cha Dominic Mai Thanh Lương, giám mục phụ tá Giáo Phận Orange County chia sẻ với mọi người: “ Kính thưa quý vị, Ðức Tổng Giám Mục Phaolô Bùi Văn Ðọc đã kêu gọi tất cả những người Việt Nam Công Giáo ở trong quốc nội đóng một chút tiền để giúp cho những anh em nạn nhân ngư phủ bị Trung Cộng hành hạ ở hai đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Cho nên hôm nay chúng ta cũng sẽ có sự lạc quyên đó.”

dem-thap-nen-cau-nguyen-dsc-0724

Trong hình từ trái: Kỹ Sư Nguyễn Mạnh Chí, Đức Giám Mục Mai Thanh Lương và ông Lâm Kim Bảo.

“Ông chủ tịch Lâm Kim Bảo đã cho các em huynh trưởng thiếu nhi lo về việc quyên góp này, và đồng thời các em cũng lo việc thắp nến đêm nay. Còn một điểm nữa, ở bên ngoài có bàn để ghi danh đi bầu cho những ai đã có quốc tịch Hoa Kỳ, chúng ta cố gắng làm công việc này, vì đây là bổn phận và cũng là danh dự mà chúng ta đã biết là lá phiếu ở đây rất quan trọng.” Ðức Cha Lương chia sẻ thêm.

Phần hỗ trợ Thánh ca do Ca Ðoàn Thánh Giuse với sự điều hợp của nhạc sĩ Phạm Thuyên.

Sau nghi thức khai mạc, ông Lâm Kim Bảo chào mừng và cám ơn mọi người đến tham dự và nói về ý nghĩa của đêm thắp nến cầu nguyện.

Ông Bảo nói: “Ðất nước Việt Nam đã thực sự lâm nguy. Chúng tôi xin được nêu lên mục tiêu và ý nghĩa của đêm thắp nến như sau: Cầu nguyện ơn trên phù hộ đất nước của chúng ta, cầu xin anh linh tổ tiên đất nước Việt Nam đồng hành cùng dân tộc, chúng ta trong trận chiến một mất, một còn. Hôm nay, khẳng định ý chí quyết chiến, quyết thắng chống ngoại xâm và nội thù, bảo vệ chủ quyền đất nước vẹn toàn lãnh thổ, đẩy mạnh cuộc đấu tranh ở hải ngoại, yểm trợ đồng bào ở trong nước trong cuộc đấu tranh, quyết đem lại nền hòa bình, dân chủ tự do cho dân tộc.”

Ðức Giám Mục Mai Thanh Lương phát biểu: “Ðất nước của chúng ta đã thấm nhuần máu của các Thánh Tử Ðạo. Hôm nay chúng ta đến đây để van nài Ðức Mẹ. Nước nhà đang lâm nguy, nhìn vào bức tranh đây chúng ta thấy, những đảo Hoàng Sa và Trường Sa hầu sư đã bị Trung Quốc chiếm được và họ mang cả giàn khoan sang đấy khoan dầu và đã đánh đập ngư dân dân Việt Nam, tịch thu tài sản của họ và làm cho nhiều người bị thương. Chính vì vậy mà Hội Ðồng Giám Mục Việt Nam đã kêu gọi chúng ta.”

Tiếp theo, Ðức Cha Nguyễn Thái Hợp phát biểu. Ông nhắc đến lời hứa của giáo dân với Ðức Mẹ Fatima: “Chúng ta hãy ăn năn sám hối để cầu nguyện cho hòa bình thế giới.”

Giám Mục Nguyễn Thái Hợp nói: “Theo cái nhìn linh cảm nào đó, thì thấy rằng, giàn khoan HD-981 có lẽ là một cái tát vào mặt của dân tộc ta; là một nỗi đau đối với dân tộc ta; là một hành động xâm lược ngang ngược của Trung Quốc để thực hiện chính sách Ðại Hán của họ. Tuy nhiên, nếu nhìn theo phương diện khác, thì rất có thể giàn khoan này lại là một cơ hội để người Việt trong và ngoài nước đoàn kết.”

Đêm thắp nến cầu nguyện tại Trung Tâm Công Giáo 05-23-2014

Linh mục nói xong, rất nhiều tràng vỗ tay nhiệt tình ủng hộ. Ngài nói tiếp: “Sự hiện diện của giàn khoan đó, như một chứng tích để giúp nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam suy nghĩ lại mối tương quan với nhà nước Trung Quốc, suy nghĩ lại mối tương quan xây dựng ý thức hệ mà quên mất dân tộc; để suy nghĩ lại giá trị đích thực của 16 chữ vàng và gấm vóc, tất cả có ý nghĩa gì khi thực tế đau thương như vậy.”

“Riêng đối với những người có tôn giáo của chúng ta cứ cầu nguyện để giàn khoan đó sẽ đánh dấu một sự kiện rất đặc biệt trong lịch sử của nước Việt Nam. Có thể đất nước của chúng ta sẽ đi đến chỗ diệt vong với bước tiến của giàn khoan này, với chính sách xâm lấn của Ðại Hán như tằm ăn dâu. Nhưng có thể giàn khoan đó cũng là một lý chứng để thức tỉnh lòng yêu nước và chí khí của những người Việt Nam để đoàn kết lại với nhau.”

“Có một số người nói rằng, đã đến lúc cần một Hội Nghị Diên Hồng mới, để nối kết tất cả những người Việt ở trong cũng như ngoài nước. Những người Việt thuộc những tôn giáo có chính kiến khác nhau cùng ngồi lại để cùng đóng góp cho đất nước. Nếu được như vậy, thì dù giàn khoan còn hiện diện ở đấy, đất nước chúng ta sẽ không có nguy cơ diệt vong. Bởi vì, để cứu được đất nước, cần sự đoàn kết của tất cả những người Việt.”

Tiếp theo là phần phát biểu của quan khách tham dự, gồm Hòa thượng Thích Chơn Thành, Viện chủ chùa Liên Hoa và linh mục Mai Khải Hoàn, Bác sĩ Võ Ðình Hữu, hai thị trưởng Tạ Ðức Trí và Michael Võ, ông Nguyễn Thanh Liêm, cựu nghị viên Diệp Miên Trường, 3 chủ tịch cộng đoàn dâng lời nguyện, gồm có: ông Hoàng Xuân Lai – Costa Mesa, Nguyễn Năng Chí – Anaheim và Ðinh Thịnh – Chúa Kitô Cứu Thế, và Luật Sư Nguyễn Xuân Nghĩa.

Bài hát: “Nữ Vương Hòa Bình” do ca đoàn Thánh Giuse đồng ca với các giáo dân.

Ban tổ chức trình chiếu những đoạn video clip “Ðồng bào trong nước xuống đường đả đảo Trung cộng xâm lược Việt Nam.”
Mọi người cùng ca đoàn Thánh Giuse đồng ca bài “Hát Kinh Hòa Bình.”

Cuối cùng là phần thắp nến cầu nguyện. Ðức Cha Mai Thanh Lương và Hòa thượng Thích Chơn Thành lên thắp ngọn nến đầu tiên trước bàn thờ tổ quốc.

Mọi người, với ngọn nến trên tay và đồng hát những bài: “Thắp Sáng Trong Con,” “Mẹ Rất Nhân Từ” và “ Bài Ca Hiệp Nhất.”

Hùng ca “Ðêm Mê Linh” kết thúc chương trình.

Người Việt