Cha Jose Luis Guerra tiếp cận và thay đổi các thành viên băng nhóm xã hội đen

Cha Jose Luis Guerra tiếp cận và thay đổi các thành viên băng nhóm xã hội đen

Dân chúng ở Monterrey- Mexico

Với chiếc áo Linh mục và dáng vẻ nghiêm chỉnh gọn gàng, cha Jose Luis Guerra nhìn không giống một thành viên của băng đảng xã hội đen chút nào. Tuy nhiên, vị Linh mục 34 tuổi, mới được nhận lãnh thánh chức Linh mục hồi tháng 8 vừa qua (2016), cha phó của Giáo xứ thánh Gioan Thánh giá ở quận Escobedo, tỉnh Nueva Léon ở miền bắc Mêxicô, khuấy động các đường phố của vùng ngoại ô lôi thôi lếch thếch của thành phố này với một băng đảng của chính mình; đó là “băng đảng của Chúa Kitô”. Cha Guerra đưa các lớp giáo lý và chứng tá của Chúa Kitô ra khỏi giáo xứ và đi vào vùng ngoại biên, nơi bị chiếm đóng bởi những người trẻ tuổi sống bên lề xã hội. Cha Guerra cũng là cố vấn của chương trình “Raza Nueva en Cristo” – “Cảnh sát mới trong Chúa Kitô” – một chương trình huấn luyện các thành viên cựu băng đảng và tiếp cận các nhóm theo cách riêng của họ và trên “lãnh địa” của họ – nghĩa là trên đường phố và sau khi trời tối. Các thành viên của phong trào biết ngôn ngữ xã hội đen nhưng bây giờ họ là những nhà loan báo Tin mừng và các giảng viên giáo lý cho các băng đảng. 

Việc đi ra vùng ngoại biên là một ví dụ của lời mời gọi các mục tử của Đức Giáo hoàng Phanxicô, để có mùi của chiên trong đàn của họ và lời mời gọi các tín hữu Công giáo đưa đức tin của họ đến những vùng ngoại biên. Đó cũng là một cách tiếp cận mới để nói đến các vấn đề băng nhóm trong một thành phố được biết như công nghiệp hóa và kinh doanh, nhưng trước đó cả thập kỷ đã bị băng hoại bởi các tổ chức tội phạm ngoài vòng kiểm soát và các bạo lực của các nhóm cung cấp ma túy. Cha Guerra cho biết có hàng trăm băng nhóm hình thành ở Monterrey. Các băng nhóm này lôi kéo phần lớn các người trẻ từ những gia đình bị tan vỡ hay những vùng bị thiệt thòi, bị  gạt ra ngoài lề xã hội. Nhiều khu vực, người dân ở đó là những công nhân có đồng lương thấp, sống trong những ngôi nhà chật chội tại một thành phố thường được xem là khu đô thị giàu nhất Mexico và một thành phố đầy những công xưởng sản xuất các đồ xuất khẩu.

Cha Guerra chưa bao giờ làm việc trên các đường phố, và lại càng ít giao tiếp với các với các thành viên băng đảng hơn nữa. Cha sinh ra trong một gia đình Công giáo trung lưu, học luật tại trường đại học địa phương và lo về pháp lý cho các doanh nghiệp và cũng làm việc cho chính phủ. Tuy vậy, kinh nghiệm mà cha đã trải qua khi còn là chủng sinh đã đặt cha trên một con đường khác. Cha cho biết, các chủng sinh sống và học hành trong một trị trấn nơi có những vấn đề của băng đảng và tội ác, họ dấn thân vào các chương trình của địa phương, cũng là một phần của kế hoạch loan báo Tin Mừng của giáo phận.  Khi là phó tế, cha đã hoạt động trong các ủy ban về xã hội và đã có một thời gian làm việc với những người vô gia cư không nhà không cửa. Việc nghiên cứu cuộc sống của họ đã giúp cha một phần trong việc tìm ra chân tướng rõ ràng của vấn đề cho Tổng Giáo phận Monterrey. Cha nhận ra là phần lớn những người vô gia cư ở Monterrey là những người di dân đến từ Trung Mỹ; họ đã vượt suốt chiều dài của nước Mexicô để đến Monterrey  nhưng họ không dám vượt qua tiếp 150 dặm cuối cùng để đến biên giới Hoa kỳ vì sợ các tổ chức bắt cóc và các tội phạm, có thể gây nguy hiểm cho sự sống của họ.

Cha Guerra đã chọn lối tiếp cận các vấn đề của các băng nhóm cách mới mẻ và không đối đầu với họ. Cha bắt đầu với việc xác định cách thức cha đến với họ bằng những ngôn từ mà các băng nhóm sẽ hiểu và cố gắng giảm thiểu thiệt hại hơn là lôi họ ra khỏi các tổ chức thường làm những việc bất hợp pháp. Cha nói: “Băng đảng của Chúa Kitô” không triệt hạ các băng đảng hay đe dọa các nhóm” vì theo cha, những băng nhóm này như là “gia đình” và là một cấu trúc hỗ trợ cho các thành viên của nó. Do đó, việc xóa bỏ các băng nhóm là điều không thể, nhưng cha có thể mang lại những thay đổi. Cha chia sẻ: “Bạn muốn điều gì: một tên xã hội đen tàn bạo hung hăng hay một thành viên băng đảng được Tin mừng hòa và đang rao giảng Tin Mừng cho người khác? Họ vẫn là thành viên của băng đảng nhưng họ không còn là thành viên của các băng đảng tìm kiếm thêm thế lực; họ không liên quan đến bạo lực và không đánh nhau với các băng đảng khác”.

Cha Guerra bắt đầu hoạt động với các băng đảng từ tháng giêng, khi cha đi ra khỏi giáo xứ của cha và đi vào các con phố của thành phố Monterrey. Từ từ, dần dần, cha đã tìm thấy những thành viên băng đảng muốn nói chuyện với cha. Cha ý thức đó là một công việc nguy hiểm. Tuy nhiên,những người trẻ này có một sự cởi mở đáng ấn tượng khi một Linh mục đi ra và đến với họ, lắng nghe họ ở các góc phố. Cha chia sẻ cách cha đến với họ là: “đi vào trái tim của các thành viên băng đảng … Không phán xét, không định kiến và có thái độ sẵn sàng.” Cha cũng chia sẻ mục đích của chương trình “Cảnh sát mới trong Chúa Kitô” là giúp các cựu thành viên của băng đảng tìm được cơ hội làm việc hoặc nơi chốn để học hành, giúp cho họ cách tạo nên những cơ hội để thành công trong cuộc sống. Nhóm của cha cũng tổ chức các giải bóng đá và các cơ hội để có thể đồng hành với các thành viên băng đảng, nhưng cách tiếp cận chính vẫn là về tinh thần. Cha Guerra thường nói về việc biết được trái tim của những người cha phục vụ. Cha nói: “Bạn phải biết trái tim của các môn đệ để có thể lôi kéo thêm được nhiều môn đệ cho Chúa Giêsu; đây là khẩu hiệu của việc đi ra ngoại biên của tôi. Đi ra và chạm đến trái tim của những người trẻ này. Để làm điều này, bạn phải đi và nghe họ trên đường phố và trên những góc phố vào ban đêm, là những nơi họ hiện diện.” (CNS 16/09/2016)

Hồng Thủy

 

Tuần hành ở Mexico chống ý thức hệ “gender” và bảo vệ gia đình

Tuần hành ở Mexico chống ý thức hệ “gender” và bảo vệ gia đình

Đức Phanxicô và các trẻ em Mexico

“Tôi hợp ý với các giám mục của Mexico trong việc ủng hộ những dấn thân của Giáo Hội và xã hội dân sự vì gia đình và sự sống, tại thời điểm này các vị yêu cầu sự quan tâm đặc biệt về mục vụ và văn hóa trên toàn thế giới”, đó là những lời Đức Thánh Cha Phanxicô trong buổi đọc kinh Truyền tin trưa Chúa nhật 26/9, để bày tỏ sự ủng hộ của mình với hàng chục ngàn người Mexico tuần hành chống lại việc hợp pháp hóa hôn nhân đồng tính vào thứ bảy 25/9 tại thành phố Mêxicô.

Sau những cuộc tuần hành tại 122 thành phố trên toàn lãnh thổ vào ngày 10 /9 vừa qua, Mexico chứng kiến một thành công mới đầy ấn tượng của Mặt trận quốc gia vì Gia đình, được kết hợp bởi các hiệp hội khác nhau, có mục đích ngăn cản tổng thống Enrique Peña Nieto hợp pháp hóa hôn nhân đồng tính và áp đặt ý thức hệ giới tính cho học sinh vị thành niên.

Các người tuần hành đã yêu cầu tổng thống nhìn nhận hôn nhân giữa một người nam và một người nữ là nền tảng của gia đình; cổ võ việc ủng hộ chính sách về gia đình; quyền của phụ huynh giáo dục con cái theo sự tin tưởng của mình và các giá trị; quyền của các trẻ em mồ côi được nhận nuôi bởi một người cha và một người mẹ. 4 điểm này được bao gồm trong một dự luật do sáng kiến của dân chúng – được 200 ngàn người ký tên – đã được nộp tại Thượng viện vào tháng 2 vừa qua và đang đợi được thảo luận.

Fernando Guzman, một trong những người tổ chức của cuộc tuần hành đã miêu tả cuộc tuần hành như “một ngày vui mừng, mạnh mẽ và có ý nghĩa”, mà trong đó dân chúng Mexico đã có thể nhắc lại lời yêu cầu tổng thống mở cuộc đối thoại với Mặt trận quốc gia vì Gia đình. Ông nói thêm về ý thức hệ giới tính: “một đàng là sự tôn trọng hoàn toàn những người đồng tính, đàng khác là dạy các trẻ em rằng chúng không phải là nam hay nữ mà là những gì mà họ muốn.” Ông Guzman khẳng định: điều này là không đúng, nó ngược lại với điều 3 của hiến pháp và chống lại quyền giáo dục con cái của các phụ huynh.”

Hiện nay, hôn nhân giữa những người đồng tính chỉ hợp pháp ở một vài tiểu bang của Mexico. Nhưng năm ngoái Tòa án tối cao đã tuyên bố các hôn nhân đồng tính là vi phạm hiến pháp và dự án cải cách do Tổng thống Peña Nieto hướng dẫn đã bắt đầu như thế . Ý định của ông là sửa đổi điều 4 của Hiến pháp để nhìn nhận hôn nhân giữa các người đồng tính như một “nhân quyền”. Nhân dân Mexico tiếp tục bảo vệ quyền của những người không thể tự vệ, là các trẻ em, được lớn lên trong một gia đình được tạo nên bởi một người cha và một người mẹ. (Zenit 26/09/2016)

Hồng Thủy

Người nghèo là trang chính của Tin Mừng luôn rộng mở trước mọi người

Người nghèo là trang chính của Tin Mừng luôn rộng mở trước mọi người

Pope Francis arrives to celebrate a Jubilee mass for catechists, at the Vatican, Sunday, Sept. 25, 2016

Người nghèo là trang chính của Tin Mừng luôn rộng mở trước mọi người.Ông nhà giầu bị tật nguyền trầm trọng hơn ông Ladarô đầy vết thương, vì ông bị mù loà trong cuộc sống sung túc giầu sang của ông, nên không trông thấy ông Ladarô nghèo nằm ngay trước của nhà mình.

ĐTC Phanxicô đã nói như trên trong bài giảng thánh lễ Năm Thánh các Giáo lỳ viên cử hành trước thềm Đền thờ Thánh Phêrô lúc 10 giờ ruỡi sáng Chúa Nhật 25 tháng 9 hôm qua. Cùng đồng tế với ĐTC có 10 Hồng Y, 30 Giám Mục và 650 linh mục. Tham dự thánh lễ ngoài 15.000 giáo lý viên đến từ nhiều nước trên thế giới, kể cả Việt Nam, còn có  hơn 30 ngàn tín hữu và du khách hành hương năm châu.

Như chúng tôi đã loan tin, từ chiều thứ sáu 15.000 giáo lý viên năm châu đã bắt đầu tham dự chương trình cử hành Năm Thánh, với các bài thuyết trình tại 4 nhà thờ ở Roma theo các thứ tiếng Bồ Đào Nha, Pháp, Anh và Tây Ban Nha. Ngày thứ bẩy các giáo lý viên đã chầu Mình Thánh Chúa và lãnh bí tích Hoà Giải tại 3 thánh đường gần Đền thờ Thánh Phêrô, và đi theo lộ trình “theo vết các thánh và các chân phước huấn giáo” trong đó có cả chân phước Anrê Phú Yên giáo lý viên. Chiều thứ bẩy đã có buổi hát kinh chiều và trình bầy chứng từ tại Đền thờ Thánh Phaolô ngoại thành.

Các bài sách Thánh trong thánh lễ đã được tuyên đọc bằng các thứ tiếng Anh và Tây Ban Nha. Thánh vịnh và Phúc Âm đã đuợc hát bằng tiếng Ý.

Giảng trong thánh lễ ĐTC mời gọi các giáo lý viên không mệt mỏi loan báo Chúa Kitô phục sinh là trung tâm điểm của đức tin kitô, sống chứng tá niềm hy vọng đem lại niềm vui, biết nhìn xa thấy rộng vuợt quá sự dữ và các vấn đề, đồng thời nhận ra và chú ý tới biết bao Ladarô thời nay, mau mắn trợ giúp và đáp ứng các nhu cầu của họ.

Quảng diễn lời thánh Phaolô căn dặn Timôthê “duy trì giới răn của Chúa nguyên tuyền không thể khiển trách được” (1 Tm 6,14),  ĐTC nói thánh Phaolô chỉ nói đến một giới răn chứ không dặn phải chú ý tới nhiều điểm và nhiều khía canh. Xem ra ngài làm cho chúng ta gắn chặt cái nhìn vào điều nòng cốt của đức tin. Nòng cốt ấy là lời loan báo phục sinh: Chúa Giêsu đã sống lại, Chúa yêu bạn, Ngài đã trao ban cho bạn cuộc sống của Ngài; phục sinh, sống động Ngài ở bên cạnh bạn và chờ đợi bạn mỗi ngày. Áp dụng vào việc cử hành Năm Thánh các giáo lý viên ĐTC nói:

Trong Năm Thánh này của các giáo lý viên chúng ta được mời gọi không mệt mỏi đặt để ở hàng đầu lời loan báo chính yếu này của đức tin: Chúa đã sống lại. Không có các nội dung quan trọng hơn, không có gì vững chắc và thời sự hơn. Mỗi nội dung đức tin trở thành xinh đẹp, nếu gắn liền với trung tâm này, nếu được xuyên qua bởi mầu nhiệm phục sinh. Nếu bị cô lập hóa,  nó mất đi ý nghĩa và sức mạnh. Chúng ta được mời gọi luôn luôn sống và loan báo sự mới mẻ trong tình yêu của Chúa: Chúa Giêsu thực sự yêu thương bạn, như bạn là. Hãy dành chỗ cho Ngài, mặc dù có các thất vọng và các vết thương của cuộc sống, hãy để cho Ngài có khà thể yêu thương bạn. Bạn sẽ không bị thất vọng đâu!”.

Điều răn mà thánh Phalô nói tới khiến cho chúng ta suy nghĩ tới điều răn mới của Chúa Giêsu: “Các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con” (Ga 15,12). Chính trong khi yêu thương chúng ta loan báo Thiên Chúa-Tình Yêu: không phải do sức mạnh của việc thuyết phục, không bao giờ đưóc áp đặt sự thật, cũng không phải vì co cứng trong việc tuân giữ vài đòi buộc tôn giáo hay luân lý. Thiên Chúa được loan báo, khi chúng ta gặp gỡ các bản vị con người, chú ý tới lịch sử và con đường đời sống của họ. Vì Chúa không phải là một tư tưởng, nhưng là một Người sống động: sứ điệp của Ngài đi qua chứng tá đơn sơ và chân thật, với việc lắng nghe và tiếp nhận, với niềm vui dãi toả ra ngoài. Chúng ta không nói tốt về Chúa Giêsu, khi chúng ta buồn sầu; cũng không thông truyền vẻ đẹp của Thiên Chúa chỉ bằng các bài giảng hay. Thiên Chúa của niềm hy vọng được loan báo bằng cách sống Tin Mừng của tình bác ái ngày hôm nay, không sợ hãi làm chứng cho Ngài, cả với các hình thức mới mẻ.

ĐTC nói tiếp trong bài giảng thánh lễ Ngày Năm Thánh của các Giáo lý viên: Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay giúp chúng ta hiểu yêu thương có nghĩa là gì, nhất là giúp chúng ta tránh được vài nguy hiểm. Trong dụ ngôn có một người giầu, không nhận ra Ladarô, một người nghèo khổ “nằm trước cửa nhà ông” (Lc 16,20). Người giầu này, thực ra, không làm hại ai, cũng không bị nói là ngươi xấu. Nhưng ông có một tật nguyền lớn hơn tật nguyền của ông Ladarô, là người “đầy vết thương”: ông nhà giầu này bị mù trầm trọng, bởi vì ông không thể nhìn quá thế giới của mình, được làm bằng các bữa tiệc sang trọng và quần áo đẹp đẽ. Ông không trông thấy quá căn nhà của mình, nơi có Ladarô nằm, bởi vì ông không chú ý tới điều xẩy ra ở bên ngoài. Ông không nhìn với đôi mắt, bởi vì ông không cảm thấy trong con tim. Trong tim ông tinh thần thế tục đã bước vào và làm tê liệt linh hồn. Tinh thần thế tục giống như “một cái lỗ đen” nuốt trửng  sự thiện, dập tắt tình yêu, vì nó nuốt mọi sự trong cái tôi của mình. Khi đó người ta chỉ trông thấy các dáng vẻ bề ngoài, và không nhận ra tha nhân, vì người ta trở thành dửng dưng với mọi sự. Ai bị bệnh mù trầm trọng này, thì thường có các thái độ “mắt lé”: nhìn các người danh tiếng, có địa vị cao được thế giới ngưỡng mộ với lòng kính trọng, mà không thèm nhìn biết bao nhiêu Ladarô này nay, không thèm nhìn các người nghèo túng và các người đau khổ, là những người được Chúa ưu ái.

Nhưng Chúa nhìn kẻ bị thế giới lãng quên và gạt bỏ. Ông Ladarô là nhân vật duy nhất được gọi tên trong tất cả các dụ ngôn của Chúa Giêsu. Tên của ông có nghĩa là “Thiên Chúa trợ giúp”. Thiên Chúa không quên ông, Ngài tiếp nhận ông vào trong tiệc của Nước Ngài, cùng với tổ phụ Abraham, trong sự hiệp thông phong phú của tình yêu thương. Trái lại, ông nhà giầu trong dụ ngôn cũng không có cả một tên gọi nữa; cuộc sống của ông bị rơi vào quên lãng, bởi vì ai sống cho chính mình thì không làm nên lịch sử. Nhưng một kitô hữu phải làm nên lịch sử! Họ phải ra khỏi chính mình, phải làm lịch sử! Nhưng ai sống cho chính mình, thì không làm lịch sử. Sự vô cảm ngày nay đào sâu các vực thẳm luôn mãi không thể vượt qua được nữa. Và chúng ta, trong lúc này, đã bị rơi vào căn bệnh này của sự thờ ơ, của ích kỷ, của tinh thần thế tục.

ĐTC nói thêm trong bài giảng: Còn có một chi tiết khác nữa trong dụ ngôn, một đối kháng. Cuộc sống sung túc của người không tên này được miêu tả như phô trương: tất cả nơi ông đòi hỏi các nhu cầu và quyền lợi. Trái lại, cái nghèo của ông Ladarô được diễn tả với phẩm giá cao: từ miệng ông không thốt ra các lời than van, phản đối hay khinh rẻ. Áp dụng vào cuộc sống giáo lý viên ĐTC nói:

Đây là một giáo huấn có giá trị: như là các người phục vụ lời của Chúa Giêsu chúng ta được mời gọi không phô trương bề ngoài và không tìm vinh quang; chúng ta cũng không được buồn sầu và than van. Chúng ta không phải là các ngôn sứ loan báo tai ương, ưa thích phơi bầy các nguy hiểm hay lệch lạc; không phải là người sống trong các hầm trú môi trường của mình, bằng cách đưa ra các phán đoán cay đắng liên quan tới xã hội, Giáo Hội, liên quan tới mọi sự và mọi người, bằng cách gây ô nhiễm thế giới với sự tiêu cực. Khuynh hướng nghi ngờ than vãn không phải là của người quen thuộc với Lời của  Thiên Chúa.

Ai loan báo niềm hy vọng của Chúa Giêsu là người đem niềm vui và nhìn xa thấy rộng, có các chân trời, không có một bức tường khép kín họ, họ nhìn thấy xa, bởi vì họ biết nhìn xa hơn sự dữ và các vấn đề. Đồng thời họ nhìn rõ điều ở gần, bởi vì họ chú ý tới tha nhân và các nhu cầu của người khác. Ngày hôm nay Chúa hỏi chúng ta: trước biết bao Ladarô mà chúng ta trông thấy, chúng ta được mời gọi âu lo, tìm ra các con đường để gặp gỡ và giúp đỡ họ, mà không luôn luôn uỷ thác cho các người khác hay nói: “Ngày mai tôi sẽ giúp bạn. Hôm nay tôi không có giờ, ngày mai tôi sẽ giúp bạn”. Và điều này là một tội. Thời giờ mà chúng ta dành để cứu giúp các người khác là thời giờ dành cho Chúa Giêsu, là tình yêu tồn tại: nó là kho  tàng trên trời, mà chúng ta chiếm hữu ở đây trên trái đất này.

Kết luận, các giáo lý viên và anh chị em thân mến, xin Chúa ban cho chúng ta ơn luôn luôn được canh tân mọi ngày bởi niềm vui của lời loan báo đầu tiên: Chúa Giêsu đã chết và đã sống lại. Chúa Giêsu yêu thương chúng ta cách cá biệt! Xin ngài ban cho chúng ta sức mạnh sống và loan báo giới răn của tình yêu, bằng cách vượt thắng sự mù loà của vẻ bề ngoài và các nỗi buồn thế tục. Xin Ngài khiến cho chúng ta nhậy cảm với người nghèo, họ không phải là phần thêm vào Tin Mừng nhưng là một trang chính , luôn luôn rộng mở trước mắt mọi người.

Các lời nguyện giáo dân đã được đọc bằng các thứ tiếng Bồ Đào Nha, Pháp, Thái Lan, Đức, và Tầu cầu cho các nhu cầu của Giáo Hội và thế giới. Lời nguyện tiếng Thái xin Chúa mở mắt người mù, soi sáng tâm trí của những người không tin, hoán cải con tim của những người tội lỗi và làm nảy sinh ra các giáo lý viên và những người loan báo Tin Mừng cứu độ. Hàng trăm linh mục đã giúp ĐTC trao Mình Thánh Chúa cho tín hữu.

Trước khi kết thúc thánh lễ ĐTC nói ngày hôm kia tại Wuersburg bên Đức cha Engelmarr Unzeitig thuộc dòng Thừa Sai Marienhill đã được phong chân phước. Ngài đã bị giết trong trại tập trung Dachau do sự thù ghét đức tin; ngài đã lấy tình yêu chống lại thù hận, sự dịu hiền chống lại tàn ác. Cầu mong gương của ngài giúp chúng ta là các chứng nhân của tình bác ái và niềm hy vọng cả giữa các khốn khó.

ĐTC cũng hiệp ý với các Giám Mục Mexico trong việc ủng hộ dấn thân của Giáo Hội và xã hội dân sự cho gia đình và sự sống, đang cần sư lưu tâm mục vụ và văn hoá trên toàn thế giới. ĐTC cũng bảo đảm lời cầu nguyện của ngài cho dân nước Mêhicô để bạo lực chấm dứt. Trong các ngày vừa qua nó đã sát hại vài linh mục.

Hôm qua cũng là Ngày quốc tế người điếc. ĐTC gửi lởi chào tất cả mọi người điếc hiện diện và khích lệ họ góp phần cho một Giáo Hội và một xã hội ngày càng có khả năng tiếp đón mọi người hơn.

Sau cũng ĐTC đặc biệt chào và cám ơn các giáo lý viên vì dấn thân của họ trong Giáo Hội phục vụ việc loan báo Tin Mừng. Ngài xin Mẹ Maria trợ giúp họ kiên trì trên con đường đức tin và làm chứng bằng cuộc sống cho điều họ thông truyền trong giáo lý.

Tiếp đến ĐTC đã đọc Kinh Truyền Tin và ban phép lành toà thánh cho mọi người.

Linh Tiến Khải

Julia Greeley, một nô lệ ở Denver, trở nên gương mẫu của lòng thương xót

Julia Greeley, một nô lệ ở Denver, trở nên gương mẫu của lòng thương xót

julia-greeley-photo

Trên các đường phố của thành phố Denver tiểu bang Colorado, Hoa kỳ, vào cuối những năm 1800 và đầu những năm 1900, người ta rất quen thuộc với hình ảnh của một phụ nữ da màu đội một chiếc mũ mềm màu đen, mang đôi giày quá khổ, dùng chiếc khăn tay thấm nhẹ đôi mắt kém của mình, kéo chiếc xe kéo nhỏ màu đỏ. Đó là Julia Greeley, Thiên thần bác ái của Denver, đang mang thực phẩm, áo quần và sự khích lệ, đi phân phát cho các người nghèo và vô gia cư của thành phố

Greeley sinh ra trong một gia đình nô lệ ở Hannibal, Missouri giữa các năm 1833 và 1848; năm sinh của Greeley không được biết rõ bởi vì cô là con của một người nô lệ. Cô đã bị đối xử tàn tệ khủng khiếp. Một lần kia, khi người chủ đánh mẹ cô, ngọn roi đã vụt vào mắt phải của cô và làm nó bị hư. Sau tuyên ngôn giải phóng nô lệ của tồng thống Abraham Lincoln vào năm 1863, cô là một trong những người được tự do. Năm 1878, Greeley theo gia đình của William Gilpin, vị thống đốc đầu tiên của bang Colorado, nơi Greeley đang giúp việc, đến Denver. Làm việc trong môi trường quý phái thượng lưu, Greeley cũng quen biết với một số gia đình giàu sang có thế giá của Denver, nhưng trái tim của Greeley vẫn dành cho người nghèo; Greeley yêu thương họ. Sau khi nghỉ làm việc tại gia đình thống đốc, Greeley đã làm những việc lặt vặt khắp nơi trong thành phố. Greeley đã đến giáo xứ Thánh Tâm ở Denver và trở lại Công giáo vào năm 1878. Greeley là một giáo dân nhiệt thành, lãnh nhận Mình Thánh Chúa hàng ngày và trở thành một thành viên năng động của dòng Phanxicô tại thế vào năm 1901. Greeley có một lòng sùng kính Thánh Tâm cách đặc biệt.

Dù cho nghèo khổ, Greeley không cần thứ gì cho chính mình; Greeley dành nhiều thời gian của mình để giúp đỡ các gia đình nghèo khổ xung quanh. Khi  không còn thứ gì của mình để giúp đỡ, Greeley đi ăn xin, quyên góp quần áo, thực phẩm và các vật dụng khác để cho ngừoi nghèo. Greeley thường làm việc vào ban đêm, lết trên đôi chân cà nhắc, sau khi đã làm việc suốt ngày dài, để không làm phiền gây bối rối cho những người bà giúp đỡ, nhất là những gia đình da trắng nghèo. Greeley giúp các bé gái nghèo có bộ áo xứng đáng để rước Mình Thánh Chúa lần đầu; bà hiện diện bên những gia đình có người qua đời, hay tìm cha mẹ nuôi cho các trẻ mồ côi. Julia Greeley còn có lòng tha thứ, không thù oán người chủ nô lệ đã làm cho bà bị hư mắt. Bà nói rằng vết sẹo làm xấu mặt của bà nhưng không làm tâm hồn bà xấu. Khi phục vụ cho người nghèo khổ Greeley không bao giờ tra hỏi về niềm tin hay tôn giáo của họ. Tất cả những điều bà muốn làm là nâng dậy những ai đang chiến đấu và đau khổ như bà đã từng trải qua.

Julia Greeley qua đời ngày 7 tháng 6 năm 1918, ngày lễ Thánh Tâm Chúa Giêsu, hưởng thọ khoảng 80 tuổi. Bà Greeley đã được lãnh nhận các bí tích cuối cùng trước khi về bên Chúa. Vì bà sống trong một nhà trọ nên khi qua đời, thi hài của bà được đặt tại một giáo xứ Công giáo trong 5 tiếng đồng hồ và một dòng người không ngừng tuôn đến để bày tỏ sự kính trọng đối với một phụ nữ nổi tiếng và rất được yêu mến. Bà Greeley được chôn cất tại nghĩa trang núi Oliu.

Vì công việc bác ái của Greeley, một nhà văn đã gọi bà là “Hội Thánh Vinh sơn Phaolô một thành viên”; thánh Vinh sơn đã lập dòng các Nữ tử bác ái, và Greeley được ví như một người con của bác ái. Trong Năm Thánh Lòng thương xót, Julia Greeley được chọn làm mẫu gương của lòng thương xót cho địa phương. Ông David Uebbing, chưởng ấn của tổng Giáo phận Denver nhận xét: “Julia Greeley nổi bật bởi vì cô quá phi thường. Dù chỉ nhận được 10 đến 12 đô la mỗi tháng bằng việc nấu nướng và dọn dẹp nhà cửa, cô thường dùng nó để giúp những người nghèo khác. Điều đó thể hiện rất nhiều về lòng từ thiện của Greeley. Thêm vào đó, Greeley còn có lòng sùng kính sâu đậm với Thánh Tâm Chúa Giêsu, thể hiện qua việc mỗi tháng bà đi bộ đến 20 trạm cứu hỏa khác nhau của thành phố để phân phát phù hiệu, hình ảnh, các tài liệu về Thánh Tâm cho các lính cứu hỏa, cả Công giáo và không Công giáo. Điếu đó làm cho các công việc của lòng thương xót mà bà đã làm, cụ thể và thiêng liêng, là điều được mời gọi đặc biệt trong Năm thánh này, thật sống động.” Tờ Denver Post đã viết về di sản của Julia Greeley bao gồm “80 năm của một cuộc sống đáng giá… dấn thấn vô vị lơi… và thói quen cho đi và chia sẻ chính mình và những tài sản của mình”. (CNA 07/09/2016)

Hồng Thủy

 

Cha Christian Sieland ở Papua New Guinea vượt rừng sâu núi cao đến với giáo dân

Cha Christian Sieland ở Papua New Guinea vượt rừng sâu núi cao đến với giáo dân

Một Giám mục Papua New Guinea cử hành lễ ngoài trời

Trong khu rừng sâu thẳm vùng Melanesia, có một Linh mục Công giáo gốc Papua New Guinea trèo đèo lội suối, đi bộ hàng dặm trong rừng rậm để đến với đàn chiên sống ở những khu vực xa xăm hẻo lánh và để chăm sóc các giáo xứ nghèo khổ nhất vào các cuối tuần. Đó là cha Christian Sieland, thuộc Giáo phận Kundiawa, nước Papua New Guinea, một đất nước thuộc châu Đại dương, có 5 triệu dân. Để đến với giáo dân của mình, cha Sieland đã phải trèo qua những vùng đồi núi dốc đá đầy nguy hiểm.

Cha chia sẻ: Những người dân này sống ở một nơi có địa hình khó khăn và hiểm trở. Thiên Chúa đã đặt họ ở đó. Đó là nhà của họ. Tất cả các vật liệu được sử dụng để xây dựng nhà thờ đã được ông bà của họ vác trên vai di chuyển đến. Họ tự hào có sự hiện diện của Giáo Hội trong khu vực của họ. Nhiều người chỉ có một vài bộ quần áo hoặc chỉ có đủ tiền để sống hết tuần. Họ có thể nghèo, nhưng họ nhận biết tất cả các ơn lành Thiên Chúa ban cho họ. Họ không chết đói vì Thiên Chúa đã ban cho họ một mảnh đất màu mỡ, nơi hầu như có thể trồng tất cả mọi thứ. Họ không khát vì Thiên Chúa ban cho họ những dòng suối từ núi, sạch trong và tươi mát, ngay cạnh bên để có thể lấy nước từ đó… Khi bạn nhìn thấy đức tin đơn sơ nhưng đâm rễ sâu của họ và so sánh với đức tin của bạn được tô điểm với những bằng cấp, chứng chỉ, bạn sẽ quý trọng đức tin đơn sơ của ‘những người bé nhỏ’ này hơn”.

Cha Sieland khen ngợi lòng hiếu khách của những tín hữu Công giáo này. Cha kể lại: “Khi tôi, cha sở của họ, đến nhà thăm họ hoặc là ngủ trọ qua đêm, họ dọn cho tôi một đĩa đầy thức ăn, họ cho tôi ngủ trên giường tiện nghi nhất của họ và có mùng che muỗi. Sự chăm sóc và kính trọng họ dành cho một Linh mục làm tôi nhiều lần cảm động và ngay cả bối rối. Nhưng làm sao chúng ta có thể từ chối những cử chỉ hiếu khách từ những người có đức tin đơn giản như thế? Họ không có gì nhiều để ban tặng cho ta, nhưng những thứ nhỏ nhặt họ mang cho chúng ta là những thứ xuất phát từ sâu thẳm trong trái tim họ”.

Số tín hữu Công giáo của Giáo phận chiếm khoảng 30% trong tổng số 375 ngàn cư dân trong vùng. Giáo phận bao gồm vùng núi Wilhelm, là ngọn núi cáo nhất của Papua New Guinea với độ cao khoảng 4500 m. Vài vùng đất ở những khu vực vô cùng xa xôi đến nỗi người dân chưa bao giờ nhìn thấy một chiếc xe hơi.

Tại sao cha Sieland lại dấn thân phục vụ ở vùng đất xa xôi hiểm trở này? Cha suy tư về sứ vụ của mình như sau: “Động lực của tôi thật là đơn giản. Nếu tôi, một Linh mục được thụ phong, không đến với những người dân này, vậy thì ai sẽ đi? Không phải là tôi đã được thụ phong cho mục đích này sao, cụ thể là mang các bí tích đến cho người dân và nuôi dưỡng họ với thức ăn tinh thần, ví dụ như Lời Chúa, Thánh Thể? Không có Linh mục nghĩa là không có Thánh thể, không có xưng tội không có bí tích nào cả. Nếu tôi không đi, nghĩa là tôi đã cướp của họ quyền được lãnh nhận lương thực thiêng liêng mà Thiên Chúa đã ban. Tôi sẽ biện minh cho mình trước nhan Thiên Chúa về việc không “nuôi các con chiên của Người” như thế nào? Ngay cả khi chỉ có 10 người già cần được thăm viếng, tôi vẫn băng núi vượt sông để đến với họ”.

Cha cho biết là đã hơn 40 năm, kể từ khi độc lập vào năm 1975, chính quyền Papua New Guinea không đến thăm vùng này. Nhưng “Giáo hội đã ở đây từ khi những thừa sai đầu tiên của dòng Ngôi Lời bắt đầu rao giảng Tin Mừng cho dân chúng vào những năm đầu thập niên 1930 và 1940”. Số thừa sai châu Âu đang sút giảm đáng kể. Ngay cả với sự giúp đỡ của các thừa sai đến từ Uc, Ba lan, Ấn độ và Indonesia, hàng giáo sĩ địa phương vẫn không thể chăm sóc các vùng đất mà các người đi trước đã khai phá. 

Các giá trị truyền thống và phương Tây hiện đại đang đụng độ nhau và thế hệ trẻ có vẻ hơi bị lạc lối hay bối rối. Cha Sieland lo lắng là các giá trị truyền thống tốt đẹp tương tự với những giá trị Tin mừng đang biến mất dần và trong vòng 20 năm nữa nó sẽ mất hoàn toàn. Cha nói: “Một trong những thử thách lớn nhất đó là đánh mất các giá trị Tin mừng như trung thực, minh bạch, tôn trọng, yêu thương, dấn thân và cống hiến trong đời sống gia đình, hôn nhân, trong giáo xứ, nơi trường học cũng như ngoài trường học… Còn có những vấn đề xuất phát từ nền văn hóa Melanesi với quan hệ đa thê, sự xung đột giữa Kitô giáo và niềm tin truyền thống về ma thuật với những thực hành bạo lực và giết người. Giáo hội địa phương cố gắng hết sức để đối lai niềm tin này bằng cách giáo dục dân chúng và tiêu diệt sự mê tín, nhưng điều này không xảy ra trong một sớm một chiều nhưng cần có thời gian. (CNA 09/08/2016)

Hồng Thủy

Đức Thánh Cha tiếp thân nhân các nạn nhân vụ khủng bố ở Nice

Đức Thánh Cha tiếp thân nhân các nạn nhân vụ khủng bố ở Nice

Đức Thánh Cha tiếp thân nhân các nạn nhân vụ khủng bố ở Nice

VATICAN. Sáng ngày 24-9-2016, ĐTC đã tiếp kiến 1 ngàn thân nhân của các nạn nhân vụ khủng bố mù quáng tại thành phố Nice bên Pháp tối ngày lễ Quốc Khánh 14-7 năm nay.

Một kẻ khủng bố đã lái xe vận tải đâm vào hàng ngàn người tham dự buổi bắn pháo hoa ở bờ biển, làm cho 84 người chết và hàng trăm người bị thương.

Lên tiếng tại buổi tiếp kiến, ĐTC xúc động chia buồn với các thân nhân và nói rằng ”nỗi đau buồn này càng sâu đậm khi tôi nghĩ đến các trẻ em, thậm chí có toàn bộ một số gia đình bị tước bỏ sự sống bất thình lình và thê thảm như vậy”.

Ngài cũng nhắc nhở rằng ”Đối với các tín hữu Kitô chúng ta, nền tảng hy vọng chính là Chúa Giêsu đã chịu chết và sống lại… Ước gì niềm xác tín về sự sống đời đời, – một điều cũng có nơi các tín hữu thuộc các tôn giáo khác-, là niềm an ủi cho anh chị em trong cuộc sống, và là động lực mạnh mẽ để anh chị em kiên trì can đảm tiếp tục hành trình của anh chị em tại thế này”.

ĐTC không quên cầu nguyện cho tất cả những người bị thương, trong một số trường hợp có những người bị cưa cắt, trong thể xác và tinh thần. Ngài cũng ca ngợi tinh thần liên đới mà thảm trạng ở Nice khơi lên, đồng thời cám ơn tất cả những người đã cứu giúp các nạn nhân, đặc biệt là hiệp hội Huynh Đệ miền Alpes-Maritimes, bao gồm các tôn giáo khác nhau, trong đó có nhiều tổ chức bác ái Công Giáo.

ĐTC khẳng định rằng ”thiết lập một cuộc đối thoại chân thành và những quan hệ huynh đệ giữa mọi người, đặc biệt là những người cùng tuyên xưng một Thiên Chúa duy nhất và từ bi, là một điều ưu tiên cấp thiết mà các vị lãnh đạo chính trị và tôn giáo, cần tìm cách cổ võ và mỗi người được kêu gọi thực hiện chung quanh mình. Khi cám dỗ co cụm vào mình, hoặc cám dỗ dùng oán thù và bạo lực để đáp trả bạo lực, lên tới mức độ mạnh mẽ, thì sự hoán cải nội tâm chân thành là điều cần thiết. Đó là sứ điệp Tin Mừng được gửi đến tất cả chúng ta” (SD 24-9-2016)

 G. Trần Đức Anh OP

Bạn nên nói gì với một người vô gia cư?

Bạn nên nói gì với một người vô gia cư?

Một người vô gia cư

Một cảnh tượng thường thấy ở ngã tư đường của các thành phố là một người vô gia cư với tấm bảng: “Không nhà, nghèo đói. Xin giúp đỡ. Bất cứ giúp đỡ nào.” Nhiều người dừng đèn đỏ rồi vội vàng đi qua , phớt lờ những người này. Chúng ta nên làm gì trước khi đèn xanh bật lên?

Hội truyền giáo thành thị “Chúa Kitô trong thành phố” có trụ sở tại Denver đưa ra những lời khuyên.

Đầu tiên là hỏi tên người đó. Nhóm này nói: “Một trong những người bạn đường phố của chúng tôi nói cho chúng tôi biết, đã 4 tháng anh không nghe ai gọi tên của mình”. Hãy hỏi tên họ và nhớ và chào họ nếu gặp lại họ. Bạn sẽ ngạc nhiên khi thấy gương mặt họ sáng lên vì bạn nhớ họ. Hội “Chúa Kitô trong thành phố” nói: “Yêu thương là biết và được biết. Vì vậy, người vô gia cư trở nên bị xa lạ và bị phân tách, không chỉ khỏi xã hội nhưng còn khỏi kinh nghiệm của chính tình yêu.”

Một cách thế nữa để tạo nên liên lạc cá nhân là: “bước tới và bắt tay họ.” Cử chỉ đơn giản này phá bỏ rào ngăn cách và bày tỏ là bạn nhìn nhận phẩm giá của họ.

Mỗi năm, một nhóm mới của các thừa sai “Chúa Kitô trong thành phố” tập họp ở Denver với nỗ lực như đi đến với người vô gia cư. Khoảng 25 thừa sai trẻ tình nguyện 2 năm, được huấn luyện tinh thần và học vấn trong thời gian họ phục vụ. Mỗi thừa sai gặp gỡ khoảng 500 người vô gia cư.

Nhóm khuyên mọi người tặng những đồ vật thực tế như vớ, nước, găng tay, vv. thay vì tiền bạc.  Những ai cho thức ăn nên nhớ những người vô gia cư thường có vấn đề về răng nên không thể nhai những đồ cứng. Nhóm chia sẻ: “Cho tiền là một quyết định cá nhân cần phải phân định. Các thẻ quà tặng có thể là một chọn lựa tốt thay thế cho tiền mặt. Các đồ vật bày tỏ ra sự quan tâm cá nhân của người cho thì thường giúp chú trọng đến tình bạn hơn.

Lời khuyên cuối cùng của nhóm là “hứa cầu nguyện cho họ và thi hành nó”. Nhóm “Chúa Kitô trong thành phố” nói: “Chúng tôi cố gắng là một Chúa Kitô khác với các bạn đường phố của chúng tôi, nhưng chúng tôi chấp nhận là chúng tôi chỉ có thể làm rất nhiều. Phần còn lại chúng tôi để cho Thiên Chúa trong lời cầu nguyện. Người yêu thương các bạn của chúng tôi hơn chúng tôi từng có thể.” (CNA 23/09/2016)

Hồng Thủy

(Thi Thuy le)

Tu chính qui luật cứu xét phép lạ trong các án phong thánh

Tu chính qui luật cứu xét phép lạ trong các án phong thánh

Tu chính qui luật cứu xét phép lạ trong các án phong thánh

VATICAN. Bộ Phong Thánh đã ban hành qui luật mới nghiêm ngặt hơn, điều hành hoạt động của Ủy ban giám định y khoa bộ phong thánh.

Trong một bài đăng trên báo Quan sát viên Roma, số ra ngày 23-9-2016, Đức TGM Marcello Bartolucci, Tổng thư ký Bộ Phong Thánh, cho biết qui luật đã được Bộ Phong thánh soạn thảo và được ĐHY Pietro Parolin, Quốc vụ khanh Tòa Thánh phê chuẩn theo sự ủy nhiệm của ĐTC ngày 24-8 năm 2016.

Qui luật mới từ nay đòi phải có đa số phiếu cao hơn khi các bác sĩ chuyên gia của Bộ Phong Thánh cứu xét một sự kiện giả thiết là phép lạ. Đa số đó là 5 trên 7 hoặc 4 trên 6. Một vụ không thể được tái cứu xét hơn 3 lần. Để tái cứu xét một vụ giả thiết là phép lạ thì đòi phải có một ban giám định y khoa với các thành viên mới. Nhiệm kỳ của vị Chủ tịch Ban giám định y khoa chỉ có thể tái bổ nhiệm một lần, tức là 5 năm cộng thêm 5 năm.

Tất cả những người cứu xét sự kiện giả thiết là phép lạ gồm những người chủ án, tòa án, các thỉnh nguyện viên, các chuyên viên và chức sắc của Bộ Phong Thánh buộc phải giữ bí mật.

Thù lao trả cho các chuyên gia chỉ được phép chuyển qua phương thức chuyển khoản qua ngân hàng.

Đức TGM Bartolucci khẳng định rằng ”Mục đích của qui luật này là vì thiện ích của các án phong thánh, và không bao giờ được tách rời khỏi sự thật lịch sử và khoa học của những phép lạ được kiểm chứng. Việc nghiên cứu các phép lạ này phải được thực hiện trong sự trong sáng, khách quan và thẩm quyền chắc chắn của các chuyên gia y khoa có trình độ chuyên môn cao, rồi sau đó được Ban Cố Vấn Thần học cứu xét, trước khi đệ lên khóa họp của các Hồng Y và Giám Mục, sau cùng là đệ lên ĐTC để ngài phê chuẩn. Ngài là người duy nhất có thẩm quyền nhìn nhận một biến cố ngoại thường là phép lạ đích thực” (Oss. Romano 23-9-2016)

G. Trần Đức Anh OP 

Tòa Thánh tham gia Hiệp Ước chống tham nhũng

Tòa Thánh tham gia Hiệp Ước chống tham nhũng

Tòa Thánh tham gia Hiệp Ước chống tham nhũng

Hôm 19-9-2016, ĐHY Pietro Parolin, Quốc vụ khanh Tòa Thánh, đã chính thức trao văn kiện tham gia Hiệp ước này, đã được Đại hội đồng LHQ thông qua ngày 31-10 năm 2003.

Khi bày tỏ sự tham gia Hiệp ước, nhân danh Tòa Thánh và cả Quốc gia Thành Vatican, Tòa Thánh bày tỏ 2 sự dè dặt và 3 tuyên ngôn giải thích được coi là thành phần của Văn kiện tham gia.

Vì thế, chiếu theo khoản số 68 triệt 2 của Hiệp ước, qui định việc chấp nhận cả những biện pháp hữu hiệu để phòng ngừa và chống lại các tội tham nhũng trong lãnh vực công quyền, Hiệp ước này bắt đầu có hiệu lực đối với Tòa Thánh và Quốc gia thành Vatican từ ngày 19-10 tới đây.

Trong một bài đăng trên báo Quan sát viên Roma của Tòa Thánh, Đức TGM ngoại trưởng Paul Gallagher nhắc lại trong trong Tông Sắc ”Tôn nhan Thương Xót” (Misericordiae Vultus) ngày 11-4 năm 2015 để ấn định Năm Thánh đặc biệt về Lòng thương xót, ĐTC Phanxicô đã tố giác nạm tham nhũng như tai ương của xã hội và kêu tích cực bài trừ tệ nạn này.

Hiệp Ước của LHQ chống tham nhũng có đối tượng là thăng tiến và củng cố các biện pháp phòng ngừa và bài trừ nạn tham những, tạo điều kiện dễ dàng cho sự cộng tác và trợ giúp chuyên môn trong lãnh vực quốc tế, cũng như tịch thu các tài sản đã thủ đắc bất hợp pháp. Theo một nghĩa rộng lớn hơn, hiệp ước nhắm thắng tiến sự thanh liêm, trách nhiệm và ý ngay chính trong việc quản trụ công vụ.

Đặc biệt các quốc gia phê chuẩn Hiệp ước chống tham nhũng bó buộc phải truy tố và trừng phạt sự tham nhũng tích cực và thụ động của các nhân viên công quyền thuộc quốc gia của mình và cả những nhân viên công quyền ngoại quốc, cũng như sự tham nhũng trong lãnh vực tư nhân. Ngoài ra các nước phải tuyên bố có thể truy tố theo luật sự chiếm hữu bất hợp pháp, lạm dụng chức vụ, tẩy tiền và làm chứng gian. (SD 23-9-2016)

G. Trần Đức Anh OP

Đức Thánh Cha kêu gọi ký giả tôn trọng sự thật

Đức Thánh Cha kêu gọi ký giả tôn trọng sự thật

Đức Thánh Cha kêu gọi ký giả tôn trọng sự thật và phẩm giá con người

VATICAN. ĐTC Phanxicô kêu gọi các ký giả tôn trọng sự thật, phẩm giá con người và góp phần làm tăng trưởng chiều kích xã hội của con người.

 Ngài đưa ra lời kêu gọi trên đây trong buổi tiếp kiến sáng thứ năm, 22-9-2016, dành cho 200 người thuộc Hội đồng toàn quốc ký giả đoàn của Italia.

 Lên tiếng trong dịp này, sau khi đề cao tầm quan trọng của các ký giả trong xã hội, với những khó khăn và đòi hỏi của nghề nghiệp, ĐTC mời gọi họ hãy dừng lại để suy nghĩ về điều mình đang làm và cách thức mình làm. Cụ thể, ngài kêu gọi các ký giả suy tư về 3 yếu tố, đó là yêu mến sự thật, sống với tinh thần nghề nghiệp, và tôn trọng phẩm giá con người.

 – Yêu mến sự thật không phải chỉ có nghĩa là khẳng định, nhưng còn sống sự thật và làm chứng về sự thật trong công việc của mình. Vấn đề ở đây không phải là tín hữu hay không phải tín hữu, nhưng là mình có thành thật, lương thiện với bản thân và tha nhân hay không. Tương quan là trọng tâm của mọi việc truyền thông.. và không tương quan nào có thể đứng vững lâu dài nếu nó dựa trên sự thiếu lương thiện.

 Tiếp đến là sống với tinh thần nghề nghiệp. Điều này đòi người ký giả không đặt nghề nghiệp của mình để phục vụ cho những lợi lộc phe phái, dù đó là lợi lộc kinh tế hoặc chính trị. Nghĩa vụ của ngành ký giả, hay đúng hơn là ơn gọi của ký giả, là qua sự tìm kiếm sự thật, làm gia tăng chiều kích xã hội của con người, tạo điều kiện cho sự sống chung đích thực trong xã hội.

 Sau cùng là sự tôn trọng phẩm giá con người, đây là điều quan trọng trong mọi nghề nghiệp, đặc biệt là trong nghề báo chí, vì đàng sau những tường thuật một biến cố có những tìm cảm, cảm xúc, và xét cho cùng là chính cuộc sống của con người.

 ĐTC nói: ”Tôi thường phê bình tật nói hành nói xấu như một thứ khủng bố, người ta có thể giết người bằng miệng lưỡi. Nếu điều này có giá trị đối với mỗi cá nhân, trong gia đình hay tại nơi làm việc, thì nó càng được áp dụng cho các ký giả, vì tiếng nói của họ có thể đi tới mọi người, và đây là một khí giới rất mạnh mẽ. Nghề ký giả phải luôn luôn tôn trọng phẩm giá con người. Một bài báo đăng ngày hôm nay, và ngày mai sẽ được thay bằng một bài khác, nhưng sự sống con người bị vu khống bất công, sẽ bị hủy hoại mãi mãi. Dĩ nhiên sự phê bình là điều hợp pháp, như sự tố giác, phê bình sự ác, nhưng điều này luôn phải được thi hành trong sự tôn trọng người khác, cuộc sống và tình cảm của họ. Nghề ký giả không thể trở thành một khí giới tàn phá con người và thậm chí cả các dân tộc.

 Và ĐTC cầu chúc cho ngành ký giả ngày càng trở thành một dụng cụ xây dựng, một nhân tố phục vụ công ích và một động cơ đẩy mạnh tiến trình hòa giải, biết chống lại cám dỗ xách động đụng độ, chia rẽ (SD 22-9-2016)

 G. Trần Đức Anh OP

Công bố qui chế mới Bộ Thông Tin của Tòa Thánh

Công bố qui chế mới Bộ Thông Tin của Tòa Thánh

Công bố qui chế mới Bộ Thông Tin của Tòa Thánh

VATICAN. Hôm 22-9-2016, ĐTC đã cho công bố Quy chế Bộ Truyền Thông (Segreteria per le comunicazioni) của Tòa Thánh.

Bộ này được ĐTC thành lập ngày 27-6-2015 qua tự sắc ”Bối cảnh truyền thông hiện nay” (L'attuale contesto comunicativo), bao gồm 9 cơ quan của Tòa Thánh liên quan đến lãnh vực truyền thông, đó là: Hội đồng Tòa Thánh truyền thông xã hội, Phòng báo chí Tòa Thánh, Ban Internet Vatican, Đài Phát thanh Vatican, Trung Tâm truyền hình Vatican, Báo Quan sát viên Roma, Nhà in Vatican, Ban Nhiếp Ảnh và Nhà Sách Nhà Xuất bản Vatican. Việc thành lập Bộ Truyền thông nhắm đáp ứng bối cảnh truyền thông ngày nay, với sự hiện diện và phát triển của các phương tiện truyền thông kỹ thuật số và những yếu tố hội tụ và tương tác.

Bộ truyền thông gồm có 5 phân bộ là: Phân bộ Tổng Vụ, Phân Bộ Biên Tập, Phân Bộ Phòng báo chí Tòa Thánh, Phân Bộ Kỹ thuật, và Phân Bộ thần học mục vụ.

Theo qui chế mới, Bộ Truyền Thông ở dưới sự điều khiển của Vị Bộ trưởng và vị Tổng thư ký, cùng với 5 vị Giám đốc 5 phân Bộ. Vị Bộ trưởng hiện nay là Đức Ông Dario Edoardo Viganò, người Italia, nguyên là Tổng Giám đốc trung tâm truyền hình Vatican, và vị Tổng thư ký là Đức Ông Lucio Adrian Ruiz, người Argentina, nguyên là trưởng ban Internet của Vatican.

Bộ có các thành viên và các vị Cố vấn. Trong số các thành viên này có Đức Cha Phêrô Nguyễn Văn Khảm, GM Mỹ tho. Các thành viên tham dự Đại hội của Bộ truyền thông nhóm hai năm một lần để đề ra hướng đi tổng quát, hoặc bàn về những vấn đề do vị Bộ trưởng đề nghị.

Có một điều khoản (số 19) bàn về sự chuyển tiếp của 9 cơ quan truyền thông trước đây của Tòa Thánh để dần dần hội nhập vào cơ cấu duy nhất của bộ. Qui chế được ban hành thí nghiệm có giá trị 3 năm, bắt đầu từ ngày 1-10 tới đây.

Tổng số các nhân viên thuộc 9 cơ quan truyền thông hiện nay của Tòa thánh vào khoảng 700 người. Với việc gộp tất cả thành một Bộ truyền thông duy nhất, Tòa Thánh sẽ tiết kiệm được ngân sách. (SD 22-9-2016)

G. Trần Đức Anh OP 

Các Giám mục Pêru kêu gọi Nhà nước bảo vệ sự sống

Các Giám mục Pêru kêu gọi Nhà nước bảo vệ sự sống

hình ảnh của bào thai trong cuộc biểu tình chống luật cho phá thai

Lima, Pêru – Ngày Sự sống lần thứ 22 với chủ đề “Gia đình, sống niềm vui của tình yêu” được cử hành cách đây vài ngày đã kết thúc Tuần lễ Gia đình quốc gia Peru.

Ủy ban Sự sống và Gia đình của Hội đồng Giám mục viết trong thông cáo đăng trên trang web Ủy ban: “Sự sống con người là một món quà thánh thiêng, đặc biệt là trong giai đoạn đầu thụ thai. Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta trước cả khi tạo thành chúng ta, trong ý tưởng của Người, và chúng ta được tạo thành để yêu thương chúng ta và yêu thương.”

Trong thông cáo này, các Giám mục đã lên tiếng báo động về những quyết định gần đây của Tòa án Lima trong việc phân phát miễn phí “thuốc viên ngày hôm sau” tại các trung tâm y tế của nước này. Các giám mục của Peru giải thích: “Thuốc này là "một cuộc tấn công vào sự sống con người, đặc biệt là vào những người nhỏ nhất và thiếu khả năng tự vệ, là những người không có tiếng nói.” Các ngài cũng đưa ra lời kêu gọi để cho Nhà nước – kể từ khi việc bảo vệ sự sống được đề cập tại điều 2 của Hiến pháp quốc gia – nhớ rằng “chức năng của Nhà nước là tôn trọng và thúc đẩy các quyền con người của tất cả người dân Pêru, không phân biệt bất cứ loại người nào, dù là ít tuổi hay không có khả năng hành động. (22/9/2016 Agenzia Fides)

Hồng Thủy

 

Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ

Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ

Thánh lễ tại nhà nguyện Marta, 22.09.2016

Có sự lo lắng đến từ Chúa Thánh Thần và có sự lo lắng đến từ cái tâm gian ác. Khi có tâm gian ác thì bên ngoài là cái hư danh ảo vọng và bên trong là tâm hồn trống rỗng. Đức Thánh Cha chia sẻ như thế trong thánh lễ sáng nay tại nhà nguyện thánh Marta.

Hai loại lo lắng

Bài Tin Mừng hôm nay kể về việc vua Herode lo lắng, sau khi đã giết Gioan Tẩy Giả. Bây giờ Herode lại bất an khi nghe tin về Chúa Giêsu. Herode làm chúng ta nhớ tới cái bất an của vua Herode Cả. Sau cuộc thăm viếng của Ba Vua từ Phương Đông, Herode Cả đứng ngồi không yên vì nghe tin có vị Tân Vương mới sinh tại Bêlem. Trong linh hồn, có hai loại lo lắng: loại lo lắng tốt đến từ Chúa Thánh Thần để thúc đẩy người ta làm việc thiện, còn loại lo lắng xấu phát sinh từ cái tâm gian ác. Herode Cả đã giải quyết nỗi lo của mình bằng cách giết hại hàng loạt trẻ em.

Những kẻ gây ra tội ác và nuôi dưỡng ác tâm thì không thể sống trong bình an, mà sẽ ngứa ngáy liên tục, và những vết ngứa ấy cứ tiếp tục lan ra… Bởi vì họ đã gây ra điều ác, và tất cả những điều ác thì đều có chung gốc rễ: tham lam, hư danh, kiêu ngạo. Ba cái này là gốc rễ của mọi tội lỗi, và chúng không để cho tâm hồn chúng ta được bình an.

Hư danh, tâm hồn trống rỗng

Bài đọc thứ nhất trích từ sách Giảng Viên nói về sự hư danh, ảo vọng, phù vân. Những điều phù phiếm lấp đầy chúng ta. Ảo tưởng về cuộc sống trường thọ, ảo vọng chỉ như bong bóng xà phòng. Cái phù vân không đem lại cho chúng ta ích lợi chân thực. Ích lợi gì cho người làm lụng vất vả và đầy lo lắng? Nếu đó chỉ là những lo lắng về vẻ bề ngoài, trông như thế này, nhìn như thế kia. Lo lắng như thế là phù vân. Nói đơn giản: cái hư danh chỉ tô vẽ cuộc sống. Những tâm hồn đau bệnh như thế, chỉ lo tô vẽ cái vẻ bề ngoài. Cái hư danh, cái phù vân giống như một tâm hồn trống rỗng. Nhìn bên ngoài thì tốt, mà bên trong thì hư hỏng. Cái phù vân làm cho chúng ta sống giả tạo.

Nhìn một phần tưởng là thế, mà sự thật toàn phần thì không phải thế  

Bằng cách nào mà những kẻ lừa đảo lại chiến thắng? Đúng là họ chiến thắng, nhưng cái chiến thắng này là “giả”, là không thật. Chiến thắng này là hư ảo, vì là sống giả vờ, vì là sống cỏ vẻ như, vì là sống vẻ bề ngoài. Đức Thánh Cha nhắc lại lời nói mạnh mẽ của thánh Benado: “Bạn cứ thử nghĩ mà xem bạn là gì chứ? Bạn sẽ là thức ăn cho giun dế. Tất cả những thứ tô vẽ này đều là giả trá, bởi vì rồi đây giun dế sẽ ăn hết, bạn sẽ chẳng là gì.” Tuy nhiên, sức mạnh của hư danh đến từ đâu? Nó đến từ sự tự đắc gian manh, “nó không cho bạn nhìn thấy những sai lỗi, nó che phủ mọi thứ, mọi thứ bị che đậy”.

Bao nhiêu người trông có vẻ như… rất là tốt! Mỗi Chúa nhật họ đều đi Lễ. Họ giữ những chức vụ lớn trong Giáo hội. Đó là những gì anh chị em thấy, còn bên trong thì toàn là tham nhũng. Có những người như thế, nhưng cũng có nhiều người thực sự đạo đức thánh thiện. Cái phù vân thường chỉ cho người ta nhìn thấy một phần, còn tất cả sự thật lại hoàn toàn khác. Vậy đâu là chốn an toàn để chúng ta nương náu? Chúng ta đọc thấy trong Thánh Vịnh: “Lạy Thiên Chúa, trải qua bao thế hệ, Ngài là nơi chúng con náu ẩn.” Chúng ta nhớ lại lời của Chúa Giêsu: “Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống.” Lạy chúa, xin cứu chúng con khỏi ba gốc rễ của mọi sự dữ: tham lam, hư danh, kiêu ngạo. Và trên hết, xin cứu chúng con khỏi hư danh, vì nó đã gây ra quá nhiều nỗi đau.

Tứ Quyết SJ

Thiên Chúa là chuyên viên tạo những “cơ hội thứ hai”

Thiên Chúa là chuyên viên tạo những "cơ hội thứ hai"

Thiên Chúa giàu lòng xót thương

Ngày 9 tháng 9 vừa qua (2016), Judy Hehr, một bà mẹ người Mỹ 4 con, đã được mời trình bày kinh nghiệm cá nhân về lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa trong Hội nghị lần thứ 96 của Hội đồng quốc gia Hoa kỳ về phụ nữ Công giáo. Cuộc nói chuyện của Judy kết nối với chủ đề hội nghị của Hội đồng quốc gia Hoa kỳ về phụ nữ Công giáo: ‘Phụ nữ Công giáo – Khí cụ của Lòng thương xót”, đề tài bắt nguồn từ Năm Thánh Lòng thương xót do Đức Giáo hoàng Phanxicô khởi xướng.

Judy Hehr cho biết: ngay khi còn là một bé gái, Judy đã bị lạm dụng tình dục bởi những người mà cô có thể tin tưởng. Rồi khi cô lên trung học, mẹ cô đã đột ngột qua đời sau một cơn đau tim. Việc mất đi người mình thương yêu cậy dựa đã đẩy Judy vào nghiện ngập ma túy và rượu chè, trong khi cô cũng bị chứng rối loạn tiêu hóa dày vò; cô đã phá bỏ mọi giới răn và đã tự tử nhưng không thành công. Nhưng giờ đây cô muốn các thính giả biết rằng Thiên Chúa là chuyên viên trong việc tạo cho chúng ta một cơ hội thứ hai, để giúp chúng ta thay đổi cuộc sống, tìm lại bình an và ý nghĩa của cuộc sống.

Trong buổi nói chuyện đầy cảm xúc này, Judy chia sẻ: “Thiên Chúa đã cho tôi một trái tim mới và người đã biến đống hỗn loạn của cuộc đời tôi thành một sứ điệp. Tôi đã có tôn giáo…. đã có những luật lệ….hàng tấn điều luật. Nhưng tôi đã không có mối liên hệ với Chúa Giêsu”. Dù sinh ra trong một gia đình Công giáo, tham dự Thánh lễ các ngày Chúa nhật và các ngày lễ trọng, nhưng Judy vẫn cảm thấy thiếu một điều gì đó trong cuộc sống của mình. Cô thú nhận là việc bị lạm dụng từ bé bởi những người mà cô có thể tin tưởng đã để lại một vết thương trong lòng cô. Cô đánh mất sự tin tưởng và khó khăn để cảm thấy sự hiện diện của Thiên Chúa. Càng lớn lên cô càng khao khát được biết và biết, khao khát yêu và được yêu. Sau khi mẹ cô, người thật sự hiểu và yêu thương cô, qua đời, cô và năm chị em gái khác đã bỏ Giáo hội.

Khi cô đang quay cuồng bởi sự mất mát khủng khiếp sau cái chết của người mẹ yêu quý, Hehr thấy mình rơi vào trong tình trạng ngày càng nguy hiểm, như bị cuốn vào một "hố sâu" mà dường như không thể thoát ra được. Cô giải thích: “Tôi không hiểu rằng phẩm giá là một điều mà Thiên Chúa đã ban cho tôi và không ai có thể cướp nó khỏi tôi. Khi mẹ tôi qua đời, không có ai nói với tôi ‘cô gái ơi! Thiên Chúa làm mọi điều tốt lành cho những ai yêu mến Người’”.

Sau những năm tự khóc thương mình cũng như tự kết án mình đã khiến Hehr trở nên giam cầm chính mình, không tiếp xúc với ai. Nhưng sau nhiều năm, sau những trị liệu thành công của các chứng nghiện ma túy và rượu chè, sau khi cô dần dần thức tỉnh với tình trạng bi đát của mình và canh tân đức tin của mình, Hehr cho biết, cô đã nhận ra rằng Thiên Chúa có một kế hoạch cho tất cả cuộc sống của cô. Ngay cả mối quan hệ lạnh lùng cứng cỏi của cô với chồng đã được biến đổi nhờ đức tin, thông qua các chương trình Catholic Retrouvaille, một chương trình dành cho các cuộc hôn nhân đang gặp vấn đề khó khăn. Cô nói: “Bây giờ tôi có thể nhìn lại quá khứ và thấy bàn tay của Thiên Chúa trong mỗi biến cố của cuộc đời tôi. Tôi nhận ra những khó khăn của tôi chính là những quà tặng lớn nhất Người ban cho tôi”. Đức tin của Judy cũng sinh hoa trái với nhận biết mới là chính Đức Mẹ Maria đã dẫn mình đến với Chúa Giêsu và cô đã khám phá ra sứ điệp và lòng sùng kính Lòng thương xót Chúa.

Hiện nay Judy Hehr đi diễn thuyết khắp Hoa kỳ. Bà Hehr đã nhìn nhận là các thành viên của Hội đồng quốc gia Hoa kỳ về Phụ nữ Công giáo đang thay đổi thế giới, từng người từng lúc: “Các bạn cống hiến không giới hạn … các bạn cho đi không tính toán. Hãy tiếp tục làm những điều các bạn đang làm”. Năm 1960, tổ chức này đã mời Mẹ Têrêsa, khi ấy còn là một nữ tu chưa được nhiều người biết đến, đến thuyết trình tại Hội nghị tổ chức ở Las Vegas. Sứ điệp của Mẹ có một hiệu quả mạnh mẽ đến nỗi sau buổi nói chuyện của Mẹ, các quà tặng bắt đầu được gửi đến cho sứ vụ của Mẹ ở Ân độ. Đối với bà Jane Schiszik, một thành viên lâu dài của tổ chức, bà đến đây vì những điều tốt đẹp này. Những kinh nghiệm được chia sẻ tại hội nghị  này có thể làm thay đổi cuộc sống. (CNS 07/09/2016)

Hồng  Thủy

Đức cha Gabuza: “Các bệnh nhân tâm thần được Thiên Chúa quý trọng”

Đức cha Gabuza: "Các bệnh nhân tâm thần được Thiên Chúa quý trọng"

Đức cha Abel Gabuza

Johannesburg – “Thật là không thể chấp nhận về phương diện luân lý khi có 36 bệnh nhân tâm thần chết trong vòng vài tháng, từ khi được chuyển từ trung tâm Chăm sóc Sức khỏe và Sự sống đến các tổ chức phi chính phủ và các có sở địa phương khác mà không có bất cứ can thiệp nào của sở Y tế Gauteng”. Đó là những lời được viết trong một tuyên ngôn do Đức cha Abel Gabuza, Giám mục Kimberley, chủ tịch Ủy ban Công lý và Hòa bình của Hội đồng Giám mục Nam Phi ký.

Diễn tả sự gần gũi của Giáo hội với gia đình của các nạn nhân, Đức cha Abel Gabuza nói: “trong khi chờ đợi kết quả điều tra của Bộ Y tế, chúng tôi muốn bày tỏ quan ngại sâu sắc của chúng tôi rằng sở Y tế Gauteng đã không để ý đến những cảnh báo từ xã hội dân sự và các gia đình rằng việc xóa bỏ hợp đồng với trung tâm Esidimeni và chuyển các bệnh nhân không nên làm cách vội vã. Đức cha phê bình tính toán kinh tế của quyết định này. Sở Y tế đã chấm dứt hợp đồng với trung tâm Sự sống Esidimeni bởi vì chi phí hàng tháng cho mỗi nạn nhân là khoảng 728 euro, và tổng số chi phí lên đến 2,1 triệu euro mỗi năm.

Đức cha nhìn nhận đây là chi phí quá cao nhưng điều này không có nghĩa là chính quyền được miễn trách nhiệm cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe đầy đủ cho người dân. Đức cha kết luận: “"Một hệ thống y tế mà đặt lợi nhuận trên dân chúng và không có các biện pháp thích hợp để kiểm soát chi phí, thì nó vừa vượt khả năng chi trả của quốc gia vừa là bản án tử hình cho dân nghèo". "Các bệnh nhân tâm thần đáng quý trọng trước mặt Thiên Chúa. Do đó, sự sống của họ nên được xem là quan trọng hơn so với đòi buộc của hiệu quả tài chính và việc tạo ra lợi nhuận.” (Agenzia Fides 20/09/2016)

Hồng Thủy

Tình yêu thương xót tha thứ và trao ban diễn tả sự toàn thiện của Thiên Chúa

Tình yêu thương xót tha thứ và trao ban diễn tả sự toàn thiện của Thiên Chúa

ĐTC Phanxicô hôn một em bé trong buổi tiếp kiến chung sáng thứ tư 21-9-2016

Sự toàn thiện của Thiên Chúa là ở nơi tình yêu thương xót. Tình yêu thương xót đó được diễn tả ra bằng việc tha thứ và cho đi, là hai cột trụ của Kitô giáo. Không phán xét lên án, nhưng tìm phục hồi phẩm giá là con Thiên Chúa cho người anh em làm lỗi và quảng đại giúp đỡ họ trong mức độ có thể.

Kính thưa quý vị thính giả, ĐTC Phanxicô đã nói như trên với hơn 40 ngàn tín hữu và du khách hành hương năm châu tham dự buổi tiếp kiến chung sáng thứ tư hôm qua.

Trong bài huấn dụ ngài đã giải thích ý nghĩa đoạn trích chương 6 Phúc Âm thánh Luca: “Anh em hãy có lòng nhân từ, như Cha anh em là Đấng nhân từ. Anh em đừng xét đoán, thì anh em sẽ không bị Thiên Chúa xét đoán. Anh em đừng lên án, thì sẽ không bị Thiên Chúa lên án. Anh em hãy tha thứ, thì sẽ được Thiên Chúa thứ tha. Anh em hãy cho, thì sẽ được Thiên Chúa cho lại. Người sẽ đong cho anh em đấu đủ lượng đã dằn, đã lắc và đầy tràn, mà đổ vào vạt áo anh em. Vì anh em đong bằng đấu nào, thì Thiên Chúa sẽ đong lại cho anh em bằng đấu ấy." (Lc 6,36-38).

ĐTC nói: Chúng ta vừa nghe đoạn Phúc Âm thánh Gioan từ đó đuợc rút ra khẩu hiệu của Năm Thánh ngoại thường này: “Hãy thương xót như Thiên Chúa Cha”. Câu đầy đủ là: “Các con hãy thương xót như Cha các con là Đấng xót thương” (c. 36).  Đây không phải là một khẩu hiệu quảng cáo nhằm gây hiệu quả, nhưng là một dấn thân của cuộc sống. Để hiểu rõ kiểu nói này chúng ta phải đối chiếu với kiểu nói song song trong Phúc Âm thánh Mátthêu, trong đó Chúa Giêsu nói: “Vì vậy các con hãy toàn thiện như Cha các con ở trên Trời là Đấng toàn thiện” (Mt 5,48). Trong bài giảng trên núi, mở đầu với các Mối Phúc Thật, Chúa dậy chúng ta rằng sự hoàn thiện hệ tại tình yêu, là việc thành toàn mọi điều khoản của Luật Lệ. Trong viễn tượng này thánh sử Luca nói rõ rằng sự toàn thiện là tình yêu thương xót: là hoàn thiện có nghĩa là thương xót. Một người không thương xót có toàn thiện không? Không! Một người không thương xót có tốt không? Không! Lòng tốt và sự toàn thiện đâm rễ nơi lòng thương xót. Dĩ nhiên, Thiên Chúa hoàn thiện. Tuy nhiên, nếu chúng ta coi Ngài như thế, thì đối với con người sẽ không thể nào hướng tới sự hoàn thiện tuyệt đối ấy được. Trái lại, có Thiên Chúa trước mắt như Đấng thương xót cho phép chúng ta hiểu tốt hơn sự hoàn thiện của Thiên Chúa hệ tại điều gì và thúc đẩy chúng ta sống tràn đầy tình yêu, sự thương cảm và lòng thương xót giống như Ngài. Nhưng tôi tự hỏi: các lời của Chúa Giêsu có thực tế không? Có đúng thật là có thể yêu như Thiên Chúa yêu và thương xót như Ngài không? ĐTC trả lời:

Nếu chúng ta nhìn lịch sử cứu độ, chúng ta thấy rằng tất cả sự mạc khải của Thiên Chúa là một tình yêu liên lỉ không mệt mỏi đối với con người; Thiên Chúa như một người cha và như một người mẹ yêu thương bằng một tình yêu không dò thấu được, và Ngài đổ tràn tình yêu ấy trên mọi thụ tạo. Cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá là tột đỉnh lịch sử tình yêu của Thiên Chúa đối với con người. Một tình yêu lớn lao tới độ chỉ Thiên Chúa mới có thể thực hiện được thôi. Đương nhiên là so sánh với tình yêu vô bờ này, tình yêu của chúng tá sẽ luôn luôn thiếu sót. Nhưng khi Chúa Giêsu xin chúng ta thương xót như Thiên Chúa Cha, Ngài không nghĩ tới số lượng đâu! Ngài xin các môn đệ Ngài trở thành dấu chỉ, các con kênh, các chứng nhân lòng thương xót của Ngài.

Tiếp tục bài huấn dụ ĐTC nói: Và Giáo Hội chỉ có thể là bí tích lòng thương xót của Thiên Chúa trong thế giới, trong mọi thời đại và đối với toàn nhân loại. Vì thế mỗi kitô hữu được mời gọi là chứng nhân lòng thương xót, và điều này xảy ra trên con đường nên thánh.  Chúng ta hãy nghĩ tới biết bao nhiêu vị thánh nam nữ đã trở thành những người thương xót, bởi vì các vị đã để cho con tim của mình tràn đầy lòng thương xót. Các vị đã cho tình yêu của Thiên Chúa thân xác, bằng cách đổ tràn đầy nó trong biết bao nhiêu nhu cầu của nhân loại khổ đau. Trong việc nở hoa của biết bao nhiêu hình thức bác ái có thể nhận ra các phản ánh của gương mặt xót thương của Chúa Kitô.

Chúng ta hãy hỏi: đối với các môn đệ thương xót có nghĩa là gì? Điều này đã được Chúa Giêsu giải thích với hai động từ “tha thứ” (c. 37) và “cho đi” (c. 38). ĐTC giải thích như sau:

Trước hết lòng thương xót được diễn tả trong sự tha thứ: “Anh em đừng xét đoán, thì anh em sẽ không bị Thiên Chúa xét đoán. Anh em đừng lên án, thì sẽ không bị Thiên Chúa lên án. Anh em hãy tha thứ, thì sẽ được Thiên Chúa thứ tha”. Chúa Giêsu không có ý lật đổ công lý của con người, nhưng Ngài nhắc cho các môn đệ  biết rằng để có các tương quan huynh đệ cần ngưng các phán xử và kết án. Thật ra sự tha thứ là cột trụ chống đỡ cuộc sống của cộng đoàn kitô, bởi vì trong đó được cho thấy sự nhưng không của tình yêu thương qua đó Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta trước.

ĐTC nói tiếp trong bài huấn dụ: Kitô hữu phải tha thứ! Tại sao vậy? Bởi vì họ đã được thứ tha. Tất cả chúng ta ở đây hôm nay, tại quảng trường này, tất cả chúng ta, chúng ta đã dược tha thứ. Không có ai trong chúng ta, trong cuộc sống của mình, đã không cần sự tha thứ của Thiên Chúa. Và bởi vì chúng ta đã được thứ tha, nên chúng ta phải tha thứ. Chúng ta đọc Kinh Lậy Cha mỗi ngày: Xin tha tội  chúng con. Xin tha tội chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con” Nghĩa là tha thứ biết bao xúc phạm, biết bao tội lỗi. Và như thế tha thứ thì dễ dàng: Nếu Thiên Chúa đã tha thứ cho tôi, tại sao tôi lại không phải tha thứ cho người khác? Tôi cao cả hơn Thiên Chứa sao? Anh chị em hiểu rõ điều này chưa? Cột trụ của sự tha thứ này cho chúng ta thấy sự nhưng không của tình yêu Thiên Chúa, là Đấng đã yêu chúng ta trước.

Phán xét và kết án ngưòi anh em phạm tội là sai lầm. Không phải bởi vì  chúng ta không muốn thừa nhận tội lỗi, nhưng bởi vì lên án người có tội là bẻ gẫy mối dây huynh đệ  với họ, và khinh rẻ lòng thương xót của Thiên Chúa, là Đấng, trái lại, không muốn từ bỏ ai trong các con cái của Ngài.

Chúng ta không có quyền lên án ngưòi anh em lầm lỗi: Anh em đừng xét đoán, thì anh em sẽ không bị Thiên Chúa xét đoán. Anh em đừng lên án, thì sẽ không bị Thiên Chúa lên án. Anh em hãy tha thứ, thì sẽ được Thiên Chúa thứ tha, chúng ta không ở bên trên họ: trái lại chúng ta có bổn phận phục hồi cho họ phẩm giá là con Thiên Chúa  Cha, và đồng hành với họ trên con đường hoán cải.

Chúa Giêsu cũng chỉ cho Giáo Hội Ngài môt cột trụ thứ hai: là “cho đi” : “Anh em hãy cho, thì sẽ được Thiên Chúa cho lại. Người sẽ đong cho anh em đấu đủ lượng đã dằn, đã lắc và đầy tràn, mà đổ vào vạt áo anh em. Vì anh em đong bằng đấu nào, thì Thiên Chúa sẽ đong lại cho anh em bằng đấu ấy” (c. 38). Thiên Chúa cho vượt ngoài các công nghiệp của chúng ta, nhưng Ngài sẽ còn quảng đại hơn với tất cả những ai đã sống quảng đại trên trái đất này. Chúa Giêsu không nói điều sẽ xảy ra cho những người không cho, nhưng hình ảnh “cái đấu” là một lời cảnh cáo: với mức độ tình yêu mà chúng ta cho đi, chính chúng ta là những người quyết định chúng tra sẽ bị phán xử như thế nào, đuợc yêu thương như thế nào. Nếu nhìn kỹ, chúng ta thấy có một luận lý trung thực: trong mức độ chúng ta nhận được từ Thiên Chúa, chúng ta cho người anh em, và trong mức độ chúng ta cho người anh em chúng ta nhận được từ Thiên Chúa” .

ĐTC nói thêm trong bài huấn dụ: Vì thế tình yêu thương xót là con đường duy nhất phải theo. Chúng ta tất cả đều cần sống thương xót hơn một chút biết bao, không nói xấu tha nhân, không xét đoán, không “vặt lông” kẻ khác với các lời chỉ trích của chúng ta, với các ghen tương tỵ hiềm. Không! Tha thứ, thương xót, sống cuộc đời mình trong tình yêu và cho đi. Lòng bác ái và tình yêu thương này cho phép các môn đệ của Chúa Giêsu không đánh mất đi căn tính đã nhận được từ Ngài và được thừa nhận như là con cái của chính Thiên Chúa Cha.  Nơi tình yêu mà họ – nghĩa là chúng ta – thực thi trong cuộc sống, vang vọng lên Lòng Thương Xót không bao giờ cùng ấy của Thiên Chúa (x. 1 Cr 13,1-12). Nhưng chúng ta đừng quên điều này: lòng thương xót và việc cho đi; tha thứ và cho đi. Như thế con tim nở rộng, nở rộng trong tình yêu. Trái lại, sự ích kỷ, tức giận, khiến cho con tim nhỏ lại, nhỏ lại, nhỏ lại và cứng như một cục đá. Anh chị em thích điều nào? Một con tim bằng đá hay sao? Tôi xin hỏi anh chị em đó. Hãy trả lời? Tín hữu trả lời “không!”. ĐTC nói: Tôi không nghe rõ. Tín hữu trả lời “không!” Một con tim tràn đầy tình yêu? Tín hữu trả lời “có!” Nếu anh chị em thích một con tim tràn đầy tình yêu, thì hãy sống thương xót! Xin cám ơn anh chị em.

ĐTC đã chào  nhiều đoàn hành hương khác nhau, Trước khi ra quảng trưởng ngài đã chào các bệnh nhân tụ tập trong đại thính đuờng Phaolô VI để tránh mưa. ĐTC đã cùng mọi người đọc Kính Mùng và ngài đã ban phép lành cho họ.

Ngài đã chào các nhóm nói tiếng Pháp trong đó có các tín hữu giáo phận Angoulême, do ĐGM sở tại hướng dẫn, các đoàn hành hương đến từ Bỉ, Camerun, Hy Lạp, Côte d’ Ivoire và Canada. Ngài cũng chào các đoàn hành hương đến từ các nước Anh, Êcốt, Ailen, Đan Mạch, Na Uy, Nhật Bản, Trung Quốc, Indonesia, Malyaysia, Việt Nam, Philippines, Nam Phi, Australia và Hoa Kỳ, cũng như các đoàn hành hương Đức, Thuỵ Sĩ, Áo, Ba Lan, Slovac và các nước nói tiếng Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha, đặc biệt các tín hữu Brasil. Trong số các đoàn hành hương Slovac có các quân nhân do ĐC Frantisek Rabek hướng dẫn. Cũng có một nhóm tín hữu Thổ Nhĩ Kỳ giáo phận Smirne, do ĐC Lorenzo Piretto hướng dẫn.

Trong số các đoàn hành hương Italia có tín hữu các giáo phận  Acqui, Grosetto, Nola, Sessa Aurunca, Tortona; các đại chủng sinh liên giáo phận Udine, Trieste và Gorizia, do ĐTGM Mazzocato hướng dẫn; các tham dự viên khóa hội học do Đại Học Thánh Giá tổ chức; các vị giám đốc các nhà Chúa Quan Phòng Italia, các thừa sai dòng Monfortani mừng 300 năm ngày sinh của thánh lập dòng Luigi Maria Grignion de Monfort. Ngài cũng chào các bạn trẻ các bệnh nhân  và các đôi tân hôn. ĐTC cầu chúc chuyến hành hương Roma củng cố đức tin và đức mến của mọi người, và việc bước qua Cửa Thánh ban ơn toàn xá cho họ và các thân nhân của họ đã qua đời. Ước chi thánh sử Mátthêu mà Giáo Hội mừng kính soi sáng cho họ trên con đường theo Chúa.

Sau cùng ĐTC cũng nhắc tới Ngày quốc tế bệnh Alzheimer lần thứ 23 với đề tài “Xin hãy nhớ đến tôi” cử hành hôm qua. Ngài xin mọi người cầu nguyện cho những người sống gần các bệnh nhân biết đáp ứng các nhu cầu của họ với con mắt đầy tình yêu thương.

Buổi tiếp kiến đã kết thúc với Kinh Lạy Cha và phép lành toà thánh ĐTC ban cho mọi người.

Linh Tiến Khải

Hướng dẫn mục vụ cho Linh mục Canada trong những trường hợp tự tử có trợ giúp

Hướng dẫn mục vụ cho Linh mục Canada trong những trường hợp tự tử có trợ giúp

hình ảnh biểu thị của dụng cụ giúp chết êm dịu

Ottawa, Ontario – Các Giám mục của bang Alberta và các vùng miền Tây bắc Canada đã đưa ra những hướng dẫn mục vụ giúp các giáo sĩ trong việc trợ giúp mục vụ cho những người được xem là sử dụng “cái chết êm dịu” hay “tự tử được trợ giúp”, những điều hiện tại hợp pháp ở Canada.

Tài liệu dài 32 trang, được viết cho các Linh mục và các giáo xứ, đưa ra hướng dẫn khi nào những người trong các trường hợp nói trên hợp pháp nhận các bí tích hay nghi lễ an táng Công giáo. Tài liệu bao gồm các tham khảo giáo luật và hướng dẫn mục vụ cho các trường hợp đặc biệt. Tài liệu hướng dẫn đặc biệt về việc ban các bí tích hòa giải và xức dầu bệnh nhân.

Trước tiên, tài liệu xác định rằng: các hối nhân tuy chưa “bị giết” hay chưa thực hiện việc tự tử, nhưng đã bắt đầu tiến trình này, một vấn đề trầm trọng. Nếu các hối nhân không rút lại quyết định thì họ sẽ bị giết. Họ ở trong tình trạng khách quan của tội. Họ đã sắp xếp công khai để ai đó sẽ giết họ.

Tài liệu nhắc lại 3 yếu tố quyết định một tội trọng, nhưng lưu ý là một người có thể không biết “eutanasia” ( cái chết êm dịu) là một tội trọng và sự tự do của một người có thể bị thương tổn do trầm cảm, thuốc, hoặc áp lực từ những người khác.

Trong trường hợp hối nhân ý thức về sự trầm trọng của tình trạng và xem xét lại quyết định thì Linh mục có thể ban phép tha tội. Còn nếu họ không nghĩ đến chuyện rút lại ý muốn tự tử mà họ biết là tội trọng thì trong trường hợp này, thừa tác viên nên hoãn lại việc ban ơn tha tội cho đến khi đương sự thích hợp để được nhận bí tích.

Bí tích xức dầu bệnh nhân thường được ban sau bí tích hòa giải, nhưng cũng có thể được ban cho một người đang hôn mê, với giả thiết là họ hối lỗi. Những người không ăn năn hối hận thì không thích hợp lãnh bí tích.

Các Linh mục được khuyến khích khuyên nhủ bệnh nhận từ bỏ quyết định với sự ăn năn và tin tưởng. Nhưng nếu bệnh nhân vẫn bướng bỉnh không ăn năn thì bí tích xức dầu không thể được ban. Còn nếu một người đang có ý định yêu cầu trợ giúp tự tử hay “chết êm dịu”, nhưng chưa quyét định thực hiện thì không bị từ chối bí tích xức dầu. Đây là cơ hội quý giá để một người gặp Chúa Giêsu, Đấng là Thầy và chữa lành.

Về nghi lễ an táng, các Giám mục nhắc các tín hữu trung hòa giữa hai sự thật. Thứ nhất, các nghi lễ an táng được dành cho mọi tội nhân. Giáo hội như người mẹ khoan dung, luôn mong muốn cầu khẩn cho con cái mình dù họ có xa lạc. Thứ hai, Giáo hội yêu cầu “việc cử hành nghi thức an táng là dấu chỉ thật của đức tin và tôn trọng lương tâm và quyết định của người chết.

Tài liệu liệt kê những loại tội nhân không hợp pháp nhận các nghi lễ an táng Công giáo trừ khi có dấu hiệu ăn năn trước khi chết. Các Giám mục viết: “Thực tế, Giáo hội cử hành nghi thức an táng Kitô giáo cho những người đã tự tử. Chúng ta không thể phán xét lý do một người đã chọn quyết định đó hay là tình trạng tâm hồn của họ. Tuy nhiên, trường hợp “trợ tử” hay “chết êm dịu”, là một tình huống mà đôi khi sự sắp đặt của một người và tự do của một người bệnh kinh niên có thể được biết rõ hơn, đặc biệt là nếu nổi tiếng. Trong những trường hợp như vậy, có thể là không được cử hành nghi lễ an táng Kitô giáo. Nếu Giáo hội từ chối cử hành an táng cho một ai đó, không phải là trừng phạt người đó nhưng nhìn nhận quyết định của họ – một quyết định trái ngược với đức tin Kitô giáo, quyết định mà cách nào đó, nổi tiếng và công khai và có thể làm tổn hại đến cộng đoàn Kitô giáo và nền văn hóa rộng lớn hơn.

Các Giám mục khuyên nhủ quan tâm đến gia đình của người chết. Có thể là gia đình không muốn người thân của họ chọn các cách chết như trên, và họ đang chờ đợi sự giúp đỡ, an ủi, cầu nguyện của Giáo hội. Trong trường hợp như vậy, nghi thức an táng có thể cử hành miễn là không gây gương xấu cho mọi người.

Các Giám mục nhắc nhở: “Phải luôn nhớ là việc an táng cho người chết là một trong những việc của lòng thương xót cụ thể. Cho nên, ngay cả khi nghi thức an táng của Giáo hội bị từ chối, thì phụng vụ Lời Chúa ở nhà hay những lời cầu nguyện đơn giản ở huyệt mộ được đề nghị. Thánh lễ cầu hồn cho người chết có thể được dâng sau đó. Đây là vấn đề do quyết định mục tử khôn ngoan của Linh mục. Cách thế chăm sóc và trợ giúp một gia đình trong thảm kịch này luôn là điều chúng ta phải suy nghĩ, dù là chúng ta cử hành nghi lễ an táng hay không.” (CNS 20/09/2016)

Hồng Thủy

Tuyên ngôn hòa bình của các vị lãnh đạo tôn giáo tại Assisi

Tuyên ngôn hòa bình của các vị lãnh đạo tôn giáo tại Assisi

Tuyên ngôn hòa bình của các vị lãnh đạo tôn giáo tại Assisi

ASSISI. Các vị lãnh đạo tôn giáo thế giới bày tỏ quyết tâm dấn thân xây dựng hòa bình, đồng thời lên án mọi hình thức lạm dụng tôn giáo để biện minh cho khủng bố, bạo lực và chiến tranh.

Lập trường trên đây được các vị bày tỏ trong tuyên ngôn chung vào cuối ngày cầu nguyện cho hòa bình thế giới tại Assisi 20-9-2016 trước sự hiện diện của 500 vị lãnh đạo các tôn giáo và hàng chục ngàn tín hữu tại quảng trường trước Vương cung thánh đường thánh Phanxicô ở Assisi.

Tại buổi bế mạc này, một số vị lãnh đạo tôn giáo trong đó có Đức Thượng Phụ Bartolomaios I, Giáo chủ chính thống Constantinople, Hòa thượng Giáo chủ Tông phái Phật giáo Thiên Thai, Nhật Bản, một số vị khác, sau cùng là ĐTC.

Buổi lễ được tiếp tục với phần đọc một lời kêu gọi Hòa Bình, được trao cho các em bé thuộc nhiều nước khác nhau.

Lời kêu gọi hòa bình

”Là những người nam nữ thuộc các tôn giáo khác nhau, chúng tôi họp nhau như những người lữ hành tại thành của thánh Phanxicô. Tại đây cách đây 30 năm, vào năm 1986, theo lời mời của ĐGH Gioan Phaolô 2, các vị đại diện tôn giáo toàn thế giới, lần đâu tiên tham dự một cách trọng thể, để khẳng định mối liên hệ không thể tách rời giữa đại thiện ích hòa bình và thái độ tôn giáo chân chính. Từ biến cố lịch sử ấy, đã khởi sự một cuộc lữ hành dài, qua nhiều thành phố trên thế giới, đưa nhiều tín hữu can dự vào cuộc đối thoại và cầu nguyện cho hòa bình; đã liên kết nhưng không tạo nên sự lẫn lộn, mang lại những tình bạn liên tôn vững chắc và góp phần dập tắt không ít các cuộc xung đột. Đây là tinh thần đang linh hoạt chúng tôi: thực hiện cuộc gặp gỡ trong đối thoại, chống lại mọi hình thức bạo lực và lạm dụng tôn giáo để biện minh cho chiến tranh và khủng bố. Tuy nhiên, trong những năm qua, vẫn còn bao nhiêu dân tộc đang bị thương tổn đau thương vì chiến tranh. Người ta vẫn luôn không hiểu rằng chiến tranh làm cho thế giới xấu hơn, để lại gia sản đau thương và oán thù. Tất cả bị mất mát với chiến tranh, kể cả những kẻ thắng trận.

”Chúng tôi đã dâng lời khẩn nguyện lên Thiên Chúa, xin Ngài ban hồng ân hòa bình cho thế giới. Chúng tôi nhìn nhận sự cần thiết phải liên lỷ cầu nguyện cho hòa bình, vì lời cầu nguyện bảo vệ và soi sáng thế giới. Hòa bình là danh xưng của Thiên Chúa. Ai khẩn cầu danh Thiên Chúa để biện minh cho khủng bố, bạo lực và chiến tranh, thì không đi theo con đường của Chúa: chiến tranh nhân danh tôn giáo trở thành chiến tranh tôn giáo. Với xác tín mạnh mẽ, chúng tôi tái khẳng định rằng bạo lực và khủng bố trái ngược với tinh thần tôn giáo chân chính.

”Chúng tôi đã lắng nghe tiếng kêu của người nghèo, các trẻ em, các thế hệ trẻ, các phụ nữ và bao nhiêu anh chị em đang đau khổ vì chiến tranh; cùng với họ chúng tôi mạnh mẽ nói rằng: Không chấp nhận chiến tranh! Ước gì tiếng kêu đau thương của bao nhiêu người vô tội được lắng nghe. Chúng tôi khẩn thiết xin các vị lãnh đạo các dân nước hãy giải trừ những động lực chiến tranh: sự ham hố quyền bính và tiền bạc, lòng tham lam của những kẻ buôn bán võ khí, những lợi lộc phe phái, những trả thù vì quá khứ. Xin gia tăng sự dấn thân cụ thể để lại trừ những nguyên nhân tiềm ẩn của các cuộc xung đọt: những tình trạng nghèo đói, bất công, và chênh lệch, sự bóc lột và coi rẻ sự sống con người.

”Sau cùng, hãy mở ra một thời đại mới, trong đó thế giới hoàn cầu hóa trở thành gia đình các dân tộc. xin thực thi trách nhiệm kiến tạo hào bình chân thực, quan tâm đến những nhu cầu đích thực của con người và của các dân tộc, vượt thắng những xung đột bằng sự cộng tác, chiến thắng những oán thù và vượt lên trên những hàng rào bằng cuộc gặp gỡ và đói thoại. Không gì bị mất mát khi thực sự thi hành đối thoại. Không gì là không có thể nếu chúng ta ngỏ lời với Thiên Chúa trong kinh nguyện. Tất cả đều có thể là những người xây dựng hòa bình; từ Assisi chúng tôi quyết tâm canh tâm dấn thân trở thành những người xây dựng hòa bình với sự phù giúp của Thiên Chúa, cùng với tất cả những người nam nữ thiện chí.

Sau khi tuyên ngôn hòa bình được công bố, mọi người đã thinh lặng mặc niệm các nạn nhân chiến tranh, trước khi các vị đại diện tôn giáo ký vào Lời Kêu Gọi hòa bình, và thắp sáng hai cây đèn nhiều ngành.

Ngày cầu nguyện được kết thúc với cử chỉ trao ban bình an giữa các tham dự viên.

G. Trần Đức Anh OP

Mohammad Sammak: “Đức Phanxicô là lãnh đạo tinh thần của toàn nhân loại”

Mohammad Sammak: “Đức Phanxicô là lãnh đạo tinh thần của toàn nhân loại”

Ngày cầu nguyện cho hòa bình thế giới tại Assisi 1

“Đức Giáo hoàng Phanxicô đươc xem như nhà lãnh đạo tinh thần cho toàn thể nhân loại khi ngài nói rằng không có tôn giáo tội ác, nhưng có tội ác trong mọi tôn giáo." Ông Mohammad Sammak, cố vấn chính trị cho Đại giáo trưởng Hồi giáo của Liban và Tổng Thư ký Ủy ban Quốc gia về đối thoại giữa Kitô hữu và người Hồi giáo, đã phát biểu trong lễ khai mạc Hội nghị quốc tế về con người và tôn giáo được bắt đầu chiều Chúa nhật 18/09/2016.

Ông Sammak miêu tả nhóm “nhà nước Hồi giáo” như “một nhóm của những kẻ báo thù, tuyệt vọng và cực đoan, những kẻ đã cướp Hồi giáo và sử dụng chỉ cho mục đích báo thù, trong khi đối với Hồi giáo – ông đưa ra ví dụ như việc phá hủy của các nhà thờ và tu viện ở Syria và Iraq – không ai được phép sử dụng những viên đá của một nhà thờ để xây nhà của mình.”

Ông nhắc đến cha Paolo Dall'Oglio, người đã “cống hiến cuộc đời để phục vụ người Hồi giáo và Kitô hữu ở Syria” và Đức cha Mar Gregorios Yohanna Ibrahim, Giám mục của Aleppo, đã bị bắt cóc cách đây ba năm, là người mà ông đã được biết đến trong các buổi cầu nguyện cho hòa bình tổ chức bởi Sant'Egidio trong những năm qua.

Ông cũng nói về cha Jacques Hamel, đã bị giết hồi tháng 7 vừa qua trong khi đang dâng Thánh lễ tại một nhà thờ ở Rouen, nước Pháp. Ông nói: “Cha Hamel là một nạn nhân không chỉ đối với Giáo Hội của các bạn, mà còn đối với tôn giáo của chúng tôi”. Cuối cùng, ám chỉ tới nước Liban của mình, ông khẳng định rằng “mối quan hệ giữa tín hữu của các tôn giáo khác nhau không thể dựa trên việc loại trừ người khác  – như nhóm “nhà nước Hồi giáo” (IS) muốn – và ngay cả trên sự khoan dung. Nó phải được dựa trên niềm tin vào chủ nghĩa đa nguyên và đa dạng, trên sự tôn trọng đối với nền tảng ý thức hệ và lý trí, những điều là nền tảng cho sự đa dạng.” Ông kết luận: “Quyền công dân không thể dựa trên sự khoan dung nhân nhượng, nhưng là dựa trên quyền lợi.” (Zenit 20/09/2016)

Hồng Thủy

 

Ngày cầu nguyện cho hòa bình thế giới tại Assisi

Ngày cầu nguyện cho hòa bình thế giới tại Assisi

Ngày cầu nguyện cho hòa bình thế giới tại Assisi

ASSISI. 30 năm sau cuộc gặp gỡ các vị lãnh đạo tôn giáo thế giới ở Assisi để cầu nguyện cho hòa bình, ĐTC Phanxicô đã đến nơi này hôm 20-9-2016 để cùng hơn 500 vị đại diện các tôn giáo để cầu cho hòa bình thế giới đồng thời chống lại những lạm dụng tôn giáo để khủng bố và thi hành bạo lực.

Ngày cầu nguyện lần này có chủ đề là ”Khao khát hòa bình. Các Tôn giáo và Văn hóa đối thoại”, được Cộng đồng thánh Egidio ở Roma, giáo phận Assisi và đại gia đình dòng Phanxicô tổ chức.

Sau khi đáp trực thăng từ Roma đến Assisi lúc 11.30, ĐTC đã dành hơn 1 tiếng đồng hồ để bắt tay chào từng vị lãnh đạo tôn giáo và các tham dự viên khác, bắt đầu từ Đức Thượng Phụ Bartolomaios I, Giáo Chủ Chính Thống Constantinople, một đại diện Hồi giáo, Đức TGM Giáo chủ Liên hiệp Anh giáo, Đức Thượng Phụ Efrem II, Giáo Chủ Chính Thống Siria ở Antiokia, Hòa thượng Thủ lãnh Phật giáo Thiên Thai(Tendai) ở Nhật Bản, các đại diện Hồi giáo, chính quyền thành Assis, v.v.

Trong số những người dùng bữa trưa thanh đạm tại nhà ăn của Thánh Tu Viện Phanxicô cũng có 12 người tị nạn do Cộng đồng thánh Egidio chăm sóc.

Cầu nguyện cho hòa bình

Lúc 4 giờ là giờ cầu nguyện cho hòa bình được cử hành tại nhiều nơi ở Assisi, theo các nghi thức riêng của các tôn giáo. Riêng các tín hữu Kitô đã cầu nguyện tại Vương cung thánh đường dưới của Đền thánh Phanxicô.

Trong bài suy niệm tại buổi cầu nguyện này, ĐTC nói đến sự khao khát của Thiên Chúa đối với tình yêu của con người và đòi chúng ta đáp lại, thể hiện qua lòng bác ái đối với con người, nhất là những người đau khổ. Ngài nói:

”Đấng là Tình Yêu không được yêu mến”: trong một số trình thuật, chính thực tại này làm cho Thánh Phanxicô Assisi sao xuyến. Vì yêu thương Chúa chịu đau khổ, thánh nhân không xấu hổ khi khóc và than vãn lớn tiếng (Xc Fonti Franscane, n.1413). Chúng ta cần quan tâm đến thực tại này khi chiêm ngắm Thiên Chúa chịu đóng đanh, khao khát tình yêu. Mẹ Têrêsa Calcutta muốn rằng trong các nhà nguyện thuộc các cộng đoàn của Mẹ, cạnh tượng Chúa chịu đóng đanh, có ghi chữ ”Ta khát”. Giải cơn khát tình thương của Chúa Giêsu trên thánh giá qua việc phục vụ những người nghèo nhất trong những người nghèo, đó là câu trả lời của Mẹ. Thực vậy, Chúa được giải khát nhờ tình yêu cảm thương của chúng ta, Ngài được an ủi, khi chúng ta cúi mình nhân danh Chúa trên những lầm than của người khác. Trong cuộc phán xét, Chúa sẽ gọi là ”những người được chúc phúc những ai đã cho người khát được uống, đã trao tặng tình yêu cụ thể cho người đang cần: ”Tất cả những gì các con làm cho một trong những anh em bé mọn nhất của Thầy đây, là các con làm cho Thầy” (Mt 25,40).

ĐTC nhận xét rằng:

”Những lời của Chúa Giêsu gọi hỏi chúng ta, đòi chúng ta đón nhận trong lòng và trả lời bằng cuộc sống của chúng ta. Trong câu ”Ta khát” của Chúa, chúng ta có thể nghe thấy tiếng kêu của những người đau khổ, tiếng kêu âm thầm của những trẻ em vô tội mà người ta từ chối không cho sinh ra, lời khẩn xin thống thiết của những người nghèo và những người đang cần hòa bình hơn cả. Các nạn nhân chiến tranh đang kêu cầu hòa bình, chiến tranh làm ô nhiễm các dân tộc vì oán thù và làm ô nhiễm trái đất vì những võ khí: Các anh chị em của chúng ta đang khẩn xin hòa bình, những người đang sống dưới đe dọa của những cuộc dội bom và pháo kích, hoặc bị buộc lòng phải rời bỏ gia cư, di cư tới một nơi bất định, bị tước đoạt mọi sư. Tẩt cả những người ấy là anh chị em của Đấng Chịu Đóng Đanh, những người bé nhỏ của Nước Chúa, những chi thể bị thương và bị đốt cháy trong thân mình Chúa. Họ đang khát. Nhưng nhiều khi người ta chỉ cho họ dấm chua của sự từ khước, giống như Chúa Giêsu. Ai lắng nghe họ? Ai quan tâm trả lời cho họ? Quá nhiều khi họ gặp phải sự im lặng nặng nề của sự dửng dưng lãm đạm, ích kỷ của những người khó chịu, sự lạnh lùng của người dập tắt tiếng kêu cứu của họ một cách dễ dàng bằng cách chuyển qua kênh truyền hình khác.

Đứng trước Chúa Kitô chịu đóng đanh, ”là Sức mạnh và sự khôn ngoan của Thiên Chúa” (1 Cr 1,24), các tín hữu Kitô chúng ta được kêu gọi chiêm ngắm mầu nhiệm Tình Yêu không được yêu mến và đổ tràn lòng thương xót trên thế giới. Trên Thánh Giá, cây sự sống, hút lấy sự ô nhiễm dửng dưng và trả lại cho thế giới dưỡng khí của tình yêu. Từ cạnh sườn Chúa Kitô trên Thánh giá, có nước chảy ra, biểu tượng của Thánh Thần ban sự sống (Xc Ga 19,34); ước gì từ chúng ta, các tín hữu của Chúa, cũng chảy ra lòng cảm thương đối với tất cả những người đang khát ngày nay.”

G. Trần Đức Anh OP