PHƯƠNG THẾ CHIẾN THẮNG CÁM DỖ

PHƯƠNG THẾ CHIẾN THẮNG CÁM DỖ

Phụng vụ Giáo hội đã bước vào Mùa Chay Thánh.

Mùa Chay trải dài 40 ngày.Thời gian này nhắc lại 40 năm của dân Israel trong sa mạc trước khi đến Đất hứa, 40 ngày ngôn sứ Êlia ở trên núi Horeb, 40 ngày Chúa Giêsu ăn chay cầu nguyện trong hoang địa.Thời gian 40 ngày là con số tượng trưng nói lên thời gian thử thách và thanh luyện.Trên con đường về Nước Trời, chúng ta trải qua những thử thách và thanh luyện.Thời gian 40 ngày chay tịnh thật quí giá để mỗi người nhìn lại bản thân, đánh giá lại chính mình để sám hối canh tân.

Hàng năm, Phúc Âm Chúa Nhật I Mùa Chay đều nói về cám dỗ. Chúa Giêsu vào hoang địa. Sau 40 đêm ngày ăn chay và cầu nguyện, Satan xuất hiện và cám dỗ. Chúa Giêsu đã chiến thắng Satan.

1. Chịu cám dỗ

Làm người ở đời là chấp nhận thân phận chịu cám dỗ. Thánh Kinh đã ghi nhận, từ buổi đầu sáng tạo đã có cám dỗ. Thụ tạo đầu tiên trong hàng các thiên thần đối diện với cám dỗ là Lucifer, một thiên thần sáng láng đã không vượt qua được cơn cám dỗ, và đã trở thành Satan tăm tối. Tiếp đến, thụ tạo đầu tiên trong con người là Adong và Evà cũng đã nếm mùi cám dỗ. Nguyên Tổ đã gục ngã thảm thương trước cám dỗ cho nên đau khổ sự chết đã tràn vào thế gian.Trong hành trình về Đất Hứa, dân Israel đi trong sa mạc và đã gặp nhiều cám dỗ: cám dỗ trở lại Ai cập để có bánh ăn; cám dỗ thờ tượng con bê vàng; cám dỗ thử thách Thiên Chúa.Vua Đavit sa ngã trước cám dỗ sắc dục nên đã phạm tội cướp vợ của Uria và đã giết chết người anh em này.Giuđa Iscariốt chỉ vì tham tiền nên đã phản bội Thầy và bán Thầy giá 30 đồng bạc bằng nụ hôn giả dối…Các chước cám dỗ của Satan đều chung quy về ba mục tiêu: danh, lợi, thú.

Thiên Chúa cho phép ma qủy cám dỗ để thử thách xem con người ta có trung tín hay không, và để cho con người có cơ hội lập công phúc, để họ có thể chứng minh đức tin của mình.

Thiên Chúa cho có sự cám dỗ để cho con người phấn đấu thanh luyện mình, và đồng thời, khi Ngài cho phép như thế, ma qủy cũng lợi dụng triệt để mà cám dỗ con người. Mỗi ngày, chúng bày ra những chước độc mưu thâm, mỗi lúc một tinh vi xảo quyệt, lắt léo khôn khéo để cám dỗ người ta.

Thiên Chúa ban ơn thêm sức để con người chúng ta có thể chống lại những cơn cám dỗ ấy. Không khi nào Chúa để con người phải chịu những cơn cám dỗ qúa sức mình chịu đựng được. Như vậy, chúng ta phải chiến đấu với những cơn cám dỗ. Điều cần thiết là chúng ta phải phân định được ma qủy với những hành động cám dỗ xấu xa của nó để chống trả và xa lánh.

2. Ma qủy thường cám dỗ như thế nào?

Ma qủy lừa dối con người.Ai cũng có trí khôn, biết phân biệt điều nào là xấu, là nguy hại và chẳng nên làm. Nhưng ma qủy lừa dối cho rằng việc làm đó là có lợi, là cần thiết nên người ta mới dấn sâu vào. Khi cám dỗ Evà, ma qủy không nói rằng ăn trái cấm đó là chống lại Thiên Chúa, nó chỉ nói rằng ăn trái này thì Bà sẽ được trở nên thông minh như Thiên Chúa. Có nhiều người bước vào nghiện ngập bằng những phút giây sảng khoái thăng hoa lừa dối. Nếu người ta biết sự xấu xa của tội thì có lẽ không ai lại đi phạm tội, nhưng người ta tưởng lầm, hoặc bị cám dỗ coi đó là hạnh phúc. Nếu người ta nhìn thấy những hình khổ nơi hỏa ngục thì chằng ai dám phạm tội. Ma qủy khiến người ta phạm tội bằng cách dẫn người ta một cách từ từ. Không khi nào có ai có thể phạm tội trọng ngay tức khắc, tội trọng chỉ bắt đầu bằng những tội nhẹ. Người ta thường nói, khi còn bé ăn trộm một qủa trứng, rồi khi lớn lên sẽ ăn trộm cả một con bò. Những tội trọng bắt đầu từ những nết xấu hay những tội nho nhỏ. Ma qủy cũng vậy, nó dẫn dắt người ta từ chỗ tưởng chừng vấp phạm những điều nhỏ tới phạm những điều lớn. Không ai nghiện thuốc ngay từ điếu hút đầu tiên, không ai nghiện rượu ngay khi uống chén đầu tiên. Nhưng dần dần nếu lập đi lập lại nhiều lần sẽ dẫn đến chỗ nghiện ngập (x. Buồn vui cùng kiếp người, ĐTGM Ngô Quang Kiệt, trang 33).

Chuyện kể rằng : khi ông Nôe trồng nho, Satan lấy làm lạ nên tiến lại gần hỏi :

– Ông đang trồng cây gì thế ?

– Cây nho.

– Nó có lợi gì không ?

– Có chứ. Trái nó vừa đẹp mắt, vừa ngon miệng. Từ trái nho ta còn có thể làm ra rượu giúp lòng người hưng phấn nữa.

– Vậy thì để tôi giúp ông.

Satan liền giết một con chiên, một con sư tử, một con lừa và một con heo. Lấy máu của chúng tưới gốc cây nho. Thế là cây nho lớn nhanh. Nôe lấy trái nho làm rượu.

Từ đó trở đi khi người ta uống một chút rượu vào thì sẽ vui vẻ dễ thương như con chiên; uống thêm chút nữa thì mạnh bạo như sư tử; nếu uống thêm thì sẽ ngu như lừa; nếu uống nữa thì… hoàn toàn như con heo vậy. (Truyện cổ Nước Pháp).

Ma qủy luôn lừa dối con người. Chúng ta phải luôn cảnh giác.

3. Phương thế chiến thắng cám dỗ

Noi gương Chúa Giêsu, chúng ta phải biết chống cự lại những cơn cám dỗ. Muốn chống lại, phải có những phương thế để có thể chiến thắng.

a. Lời Chúa

Ma qủy cám dỗ Chúa Giêsu từ những điều thường nhất là cơm bánh hàng ngày. Chúa nhịn ăn 40 đêm ngày, đói thì cần ăn, đó là điều rất đổi bình thường.Ma qủy lợi dụng điều đó để cám dỗ, sau đó mới cám dỗ những những điều mạnh hơn là thử thách Thiên Chúa và chống lại Ngài. Chúa Giêsu dùng Lời Chúa để chiến thắng.

Gương của Chúa Giêsu được Tin Mừng Thánh Luca kể rõ: mỗi lần ma qủy đưa ra một chước cám dỗ thì Chúa Giêsu lại lấy một lời của Kinh Thánh mà đẩy lui chước cám dỗ ấy:

– Có lời chép rằng: người ta không sống bằng cơm bánh mà còn bằng lời của Thiên Chúa nữa.(Lc 4,5)

– Có lời chép rằng:ngươi phải thờ lạy Chuá là Thiên Chúa ngươi và chỉ phụng thờ một mình Người.(Lc 4,8)

– Có lời chép rằng: ngươi đừng thử thách Chúa là Thiên Chúa ngươi.(Lc 4, 11).

“Sau khi đã xoay hết cách để cám dỗ Người, quỷ bỏ đi, chờ đợi thời cơ”. Satan tạm lánh vào bóng tối, khi có thời cơ thuận tiện sẽ quay lại tiếp tục tấn công. Có lần, Satan dùng miệng lưỡi của Phêrô để cám dỗ Chúa đừng lên Giêrusalem chịu khổ nạn. Chúa quay lại quát nạt: “Satan, hãy lui ra đằng sau, đừng gây cớ cho Ta vấp phạm”. Thời cơ ma quỷ chờ đợi chính là lúc Chúa Giêsu trải qua cuộc Khổ Nạn. Trong vườn Giêtsêmani, khi đối diện với cái chết đang cận kề, Chúa Giêsu không khỏi sợ hãi đến nổi “mồ hôi đổ ra như máu”. Người đã thân thưa cùng Chúa Cha đến hai lần: “ Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi phải uống chén này. Tuy vậy, xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha ” (Mt 26, 39b) ; “ Lạy Cha, nếu con cứ phải uống chén này mà không sao tránh khỏi, thì xin vâng ý Cha ” (Mt 26, 42b). Cao điểm là khi Chúa bị treo trên thập giá, Satan dùng miệng lưỡi kẻ qua người lại để cám dỗ Chúa xuống khỏi thập giá: “Ông Kitô vua Israel, cứ xuống khỏi thập giá ngay bây giờ đi để chúng ta thấy và tin”. Trong suốt cuộc đời dương thế, Chúa Giêsu đã phải chiến đấu chống lại nhiều cơn cám dỗ. Người thực sự là Thiên Chúa nhưng đồng thời Người cũng hoàn toàn là con người nên “Người cũng phải chịu trăm chiều thử thách y như ta” (Dt 4,15). Chúa Giêsu đã chiến thắng tất cả. Không một cám dỗ, không một thách thức nào có thể khiến Người lùi bước.

Lời Chúa là sức mạnh tâm linh, là lẽ sống thần linh và là lời ban sự sống. Đọc và suy gẫm Thánh Kinh sẽ đem lại cho chúng ta sức mạnh để chiến thắng tội lỗi.

b. Ăn chay cầu nguyện

Ăn chay cầu nguyện giúp con người chế ngự bản thân.Tội lỗi của con người là do không biết chế ngự bản thân. Ăn chay cầu nguyện giúp chúng ta biết thanh luyện con người mình, chế ngự bản thân, hãm dẹp dục vọng. 40 ngày Mùa Chay nhắc nhớ về 40 ngày đêm chay tịnh của Chúa Giêsu trong hoang địa, nhắc lại 40 năm dân Do thái lưu đày trong sa mạc chuẩn bị về Đất hứa. Mùa Chay là mùa tập luyện chiến đấu thiêng liêng, giúp chúng ta trở nên người thiện chiến, biết chế ngự và làm chủ bản thân.

Cầu nguyện là nhờ sức mạnh của Chúa Thánh Thần. Khi vào hoang địa, khi bị ma quỷ cám dỗ, Chúa Giêsu cần đến sự nâng đỡ của Chúa Thánh Thần. Người đã dựa vào sức mạnh của Chúa Thánh Thần và đã chiến thắng cám dỗ.

Khi chúng ta lâm vào những cuộc thử thách, phải đối diện với những mưu chước của ma quỷ, rất cần ơn Chúa Thánh Thần trợ lực. Chúa Giêsu mà còn cần đến Chúa Thánh Thần nữa, thì huống hồ là chúng ta !

Cần phải cầu nguyện (Lc 22,40; Cv 2,42; GLGH #2612,2742). Nhờ cầu nguyện, Chúa Giêsu đã không cô đơn một mình, nhưng “được Thánh Thần hướng dẫn” (Mt 4,1). Nhờ cầu nguyện, chúng ta được liên kết với sức mạnh của Thánh Thần và với Các Thánh trên trời.Vai trò của Chúa Thánh Thần thật quan trọng trong đời sống của chúng ta. Những lúc bị cám dỗ, những khi sống trong cô đơn, buồn chán và thất vọng…hãy cậy trông và khẩn cầu với Chúa Thánh Thần xin ơn phù trợ. Chính Chúa Giêsu đã hứa: “Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần mà Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy các con mọi điều” (Ga 14,26).

Chúng ta đang sống trong một xã hội có quá nhiều cám dỗ. Một xã hội đầy dẫy các tệ nạn và có nhiều lối sống buông thả. Đó là môi trường là cơ hội thuận tiện cho ma quỷ ẩn núp và tấn công. Cám dỗ ngày càng nhiều và ngày càng tinh vi dưới muôn hình dáng vẻ. Vì thế, lời dặn dò của Chúa Giêsu ngày càng khẩn thiết: “Hãy tỉnh thức và cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ”. Cơn cám dỗ độc hại nhất mà con người cần phải luôn tỉnh thức canh phòng và trường kỳ chiến đấu bằng mọi cách, chính là lòng ích kỷ, quan niệm sống hẹp hòi, thiển cận của chính mình, chỉ biết có mình mà quên kẻ khác, chỉ biết thu vén lợi ích cho riêng mình mà quên quyền lợi kẻ khác.

Để tỉnh thức và cầu nguyện, chúng ta cần sống theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần và ánh sáng soi dẫn của Lời Chúa, thực thi những việc đạo đức của Mùa Chay.

Chúa Giêsu đã từng căn dặn các Tông Đồ: “Hãy tỉnh thức”. Tỉnh thức để nhận ra mưu mô của ma quỷ, tỉnh thức trước những lôi cuốn của thế gian, tỉnh thức trước những yếu đuối của con người xác thịt.

Mùa Chay là thời gian đặc biệt để sám hối canh tân bản thân dưới ánh sáng Lời Chúa và thực hành ăn chay cầu nguyện theo gương Chúa Giêsu, nhờ đó mỗi người chúng ta sống đẹp lòng Thiên Chúa hàng ngày.

LM Giuse Nguyễn Hữu An

Cám dỗ

Cám dỗ

Chúng ta bắt đầu bước vào Mùa Chay Thánh, câu truyện của sách Sáng Thế Ký dẫn chúng ta trở lại sự khởi nguyên của dòng dõi loài người. Thiên Chúa sáng tạo con người từ bùn đất và thổi sinh khí ban cho con người có sự sống. Thiên Chúa đặt sẵn một mảnh vườn tuyệt đẹp để con người được vui hưởng hạnh phúc. Ngay từ giây phút đầu tiên, Thiên Chúa đã nhắc nhở hai ông bà tổ tiên Ađam và Evà về sự chọn lựa giữa sự sống và sự chết. Con rắn, biểu hiện của ma quỷ, đã cám dỗ lòng thèm khát của ông Ađam và bà Evà muốn trở nên giống Chúa qua sự hiểu biết về sự lành và sự dữ. Ma quỷ mon men dụ dỗ người đàn bà trước, Người nữ nói với con rắn: “Chúng tôi được ăn trái cây trong vườn; nhưng trái cây ở giữa vườn thì Thiên Chúa bảo: ‘Các ngươi đừng ăn, đừng động tới nó, nếu không sẽ phải chết.” (St 3,2-3). Bà Evà đã sa ngã nghe theo lời cám dỗ và cùng kéo lôi Ađam vào bẫy của ma quỷ. Ông bà đã chọn lựa sự bất tuân lệnh của Chúa và trong phút chốc sự ngây thơ vô tội đã biến mất.

Cám dỗ là sự ước muốn một hành động mà chúng ta có thể hưởng lạc ngay trong khoảnh khắc nhưng sau đó lại hối hận. Cám dỗ là hướng chiều về tội. Cám dỗ cũng là dịp hay cơ hội dẫn đến những ước muốn tò mò thực hiện những hành động xấu. Những đòi hỏi ước muốn của bản năng len lỏi vào mọi khía cạnh của cuộc sống. Chúng ta không thể nào thoả mãn tất cả mọi khao khát của lòng ham muốn hay dục vọng. Lòng ước muốn có thể là điều tốt hoặc xấu và điều phải hoặc trái. Chúng ta có quyền chọn lựa thái độ sống tốt. Dịp tội đưa dẫn chúng ta thoả mãn sự tò mò của tâm trí và đáp ứng những khao khát của ngũ quan thèm muốn. Vì nhùng nhằng với cơn cám dỗ, bà Evà bị rơi vào bẫy xập của ma quỷ. Người nữ thấy trái cây đẹp mắt, ngon lành và thèm ăn để nên thông minh. Bà hái trái cây ăn, rồi lại cho chồng, người chồng cũng ăn (x. St 3,6). Hậu quả của sự tò mò tìm kiếm những kinh nghiệm sống thực là: “Mắt họ liền mở ra và họ nhận biết mình trần truồng, nên kết lá vả che thân.” (St 3,7). Bài học kinh nghiệm sống đời giống như thế đã gây nên biết bao nhiêu thất bại nơi nhiều người. Thôi lỡ rồi!

Trong Kinh Lạy Cha, Chúa dạy chúng ta cầu xin: “Xin chớ để chúng con xa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ.” Chúng ta khó có thể tránh khỏi các cơn cám dỗ, vì nó xảy đến bất ngờ mọi nơi và mọi lúc dưới nhiều hình thức. Điều quan trọng là chúng ta phải biết tỉnh thức phấn đấu và thắng vượt. Thường thì các cơn cám dỗ đến rất nhẹ nhàng và xem ra hợp tình hợp lý. Nó đáp ứng đúng những nhu cầu đòi hỏi của lòng ao muốn thoả mãn thân xác và tâm linh. Muốn thắng các cơn cám dỗ, chúng ta cần tỉnh thức cầu nguyện và ăn chay hãm mình. Đôi khi chúng ta còn phải trốn chạy, người ta nói “đào vi thượng sách” là thế! Chúng ta phải biết lượng sức mình, nếu chúng ta coi thường mà cứ quanh quẩn trong thách đố, ma quỷ sẽ không buông tha cho chúng ta. Chúng ta thường đối diện với những cám dỗ về danh vọng, ham muốn quyền lực, đức công bằng, sự tham lam của cải vật chất, sự ghen tương, thù ghét và lòng ước muốn dâm dục.

Ma quỷ đã cám dỗ Chúa Giêsu về những ước muốn thoả mãn của ăn vật chất, quyền lực và danh vọng. Chúa Giêsu đã dứt khoát chống trả các chước cám dỗ một cách mau lẹ bằng cách dựa vào lời Kinh Thánh: “Nhưng Chúa Giêsu đáp lại: ‘Có lời chép rằng: ‘Người ta sống không nguyên bởi bánh, nhưng bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra.’” (Mt 4,4). Lời Chúa là lẽ sống và là khí giới vạn năng giúp chúng ta chiến đấu thắng vượt những cạm bẫy của ma quỷ. Với sức riêng, chúng ta khó vượt qua các mưu mô của quỷ dữ. Chúng ta cần phải cậy nhờ vào ơn Chúa và luôn tỉnh thức. Hằng ngày chúng ta đối diện với rất nhiều cơn cám dỗ. Trong khi lựa chọn thái độ sống là khi chúng ta chạm trán với sự cám dỗ giữa lành và dữ, tốt và xấu. Bảy mối tội đầu là bảy loại cám dỗ hay xuất hiện: tội kiêu ngạo, hà tiện, dâm dục, hờn giận, mê ăn uống, ghen ghét và lười biếng phụng thờ Thiên Chúa.

Tập trung hướng nhìn về Chúa và chỉ tôn thờ một mình Ngài. Chúa Giêsu thắng vượt các cơn cám dỗ dễ dàng bởi sự tỉnh thức và ăn chay nguyện cầu. Chúa đã dùng lời Kinh Thánh để đối đáp với những lạm dụng của ma quỷ: “Bấy giờ Chúa Giêsu bảo nó rằng: Hãy lui đi, hỡi Satan! Vì có lời đã chép: ‘Ngươi phải thờ lạy Chúa là Thiên Chúa ngươi, và chỉ phụng sự một mình Ngài.’” (Mt 4,10). Ma quỷ cũng thấu đạt lời Kinh Thánh, cũng khéo léo áp dụng, tuy nhiên không đúng nơi đúng chỗ và không có ý hướng ngay lành. Ma quỉ đã thất bại và bỏ cuộc. Lời Chúa là vũ khí rất lợi hại giúp chúng ta vượt thắng những mời mọc và khiêu khích của ma quỷ. Trong Mùa Chay Thánh này, chúng ta hãy cố gắng đọc, học hỏi, suy niệm và tin vào Lời Chúa. Nghi thức xức tro mời gọi: Hãy sám hối và tin vào Phúc Âm.

Lòng con người hay hướng chiều về điều dữ là do bởi bản tính mỏng giòn, ô nhiễm bởi tội nguyên tổ. Thánh Phaolô Tông đồ trong thở gửi giáo đoàn Rôma đã viết: “Anh em thân mến, cũng như do một người mà tội lỗi đã nhập vào thế gian, và do tội lỗi mà có sự chết, và thế là sự chết đã truyền tới mọi người, vì lẽ rằng mọi người đã phạm tội.” (Rm 5,12). Nếu ai nói rằng mình không bao giờ phạm tội, đó là người nói dối và lừa đảo chính mình. Đôi khi chúng ta chỉ xét mình một cách hời hợt bên ngoài và chỉ xưng thú một vài lỗi lầm quen thuộc. Thí dụ: Một năm chúng ta có cơ hội xưng tội vào Mùa Chay, khi vào toà cáo giải, có người xưng: Thưa cha, trong năm qua con có bỏ lễ Chúa Nhật 2 lần, xin hết. Có lẽ chúng ta chưa xét mình cho đủ. Không dám nhìn vào đời sống nội tâm và không biết cách xét mình. Chúng ta có thể xét mình bằng cách dựa vào 10 giới răn của Chúa và 6 điều răn của Hội Thánh. Chúng ta có thể xét mình về những tội trong tư tưởng, lời nói, việc làm và những điều thiếu sót. Chúng ta có thể xét mình về bổn phận đối với Chúa, với tha nhân và với chính mình. Càng xét mình kỹ, càng xưng thú rõ ràng và thật lòng ăn năn chừa cải, chúng ta mới có cơ hội thăng tiến trên đường nhân đức.

Truyện minh hoạ: Có một thiếu phụ đem quần áo ra giếng chung để giặt nhưng vì sợ người ta thấy quần áo mình quá dơ bẩn, nên vội vàng giặt sơ sơ rồi gấp mang về phơi. Vì thế, quần áo không có cái nào sạch cả. Ngày nay, nhiều người cũng làm như thế trước mặt Chúa và trong toà cáo giải với linh mục. Vì sợ linh mục nghe biết tội mình quá ô uế, nên họ không dám xưng từng tội một và chỉ trình bày cách tổng quát. Họ giấu những tội trọng hay cố tình nói cho nhẹ bớt, nên linh hồn họ dơ vẫn hoàn dơ.

Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa đã xuống trần hy sinh chịu chết trên thập giá để cứu độ. Chúa có uy quyền để tha thứ mọi tội lỗi của chúng ta đã phạm. Vì như bởi tội không vâng lời của một người mà muôn người trở thành những tội nhân thế nào, thì do đức vâng lời của một người mà muôn người trở thành kẻ công chính cũng như thế (x. Rm 5,19). Chúa đến để cứu độ chứ không phải để luận phạt chúng sinh. Khi đi rao giảng Tin Mừng Nước Trời, Chúa Giêsu đã tha tội cho nhiều người: Chúa tha tội cho người đàn bà tội lỗi khi xức dầu chân Chúa, tha tội cho phụ nữ Samaria tại giếng Giacob, tha tội cho người bất toại và tha tội cho kẻ trộm bị đóng đinh cùng… Chúa cũng đã trao quyền tháo cởi cho Thánh Phêrô, các tông đồ và những người kế vị. Chúng ta tin tưởng vào quyền năng tha thứ của Chúa.

Lạy Chúa, bước vào Mùa Chay Thánh là chúng con bắt đầu bước vào mùa tập luyện. Xin cho chúng con biết can đảm xét mình và nhận diện tình trạng tâm hồn yếu đuối và tội lỗi. Chúng con là kẻ tội lỗi cần đến lòng thương xót của Chúa. Xin Chúa xót thương và tha thứ tội lỗi chúng con.

LM Giuse Trần Việt Hùng

CON NGƯỜI TRƯỚC CÁM DỖ CỦA BA THÙ

CON NGƯỜI TRƯỚC CÁM DỖ CỦA BA THÙ

Cũng bởi vì cám dỗ là “Khêu gợi lòng ham muốn đến mức làm cho sa ngã” (từ nguyên), nên nói đến cám dỗ là nói đến những vuốt ve nhẹ nhàng, những mời mọc hấp dẫn, cùng với những phong toả ngọt ngào, khó lòng từ chối, vượt thoát. Con người đứng trước những cám dỗ của ba thù, thường thì khó lòng cưỡng nổi, bị khuất phục là cái chắc. Chỉ cần một kẻ thù là Xa-tan cám dỗ cũng đã thấy khó lòng chống đỡ nổi, huống hồ tới ba kẻ thù cùng lúc tấn công thì làm sao tránh khỏi sa chước cám dỗ? Nhưng 3 kẻ thù đó là ai mà ghê gớm vậy? Đó chính là: 1- Dục vọng của bản thân; 2- Hấp lực của thế gian; 3- Cạm bẫy của Xa-tan. Nói con người đứng trước ba thù vây hãm cũng chẳng khác gì một thành trì bị “thù trong – giặc ngoài” hãm hại, chỉ còn nước bó tay chờ chết.

Đó là nói về con người trần thế, nhưng vấn đề đặt ra hôm nay là tại sao Đức Giê-su là Thiên Chúa mà còn bị ma quỷ cám dỗ không chỉ một lần mà tới 2 lần: Bài Tin Mừng hôm nay (CN.I/MC-A – Mt 4, 1-11) trình thuật trước khi khai mạc sứ vụ, Đức Giê-su vào hoang địa ăn chay 40 đêm ngày và chịu để ma quỷ cám dỗ. Sau đó, trước khi chính thức bước vào cuộc thương khó, Người lại bị cám dỗ tại vườn Ghết-sê-ma-ni, đến độ phải kêu lên với Chúa Cha: “Áp-ba, Cha ơi, Cha làm được mọi sự, xin cất chén này xa con.” (Mc 14, 36).

Cứ xét chuyện Đức Giê-su bị cám dỗ sẽ thấy ma quỷ rất sành tâm lý, chúng không chỉ cám dỗ về vật chất mà còn cả về tinh thần nữa: Về vật chất, chúng đem miếng ăn, sự vinh hoa phú quý trần thế làm mồi nhử; về mặt tinh thần, chúng đánh ngay vào tính tự cao tự đại của con người, lấy quyền lực siêu phàm làm mồi nhử. Với Đức Giê-su Ki-tô thì chuyện ma quỷ cám dỗ chỉ là chuyện nhỏ (bằng chứng là khi chúng đi quá lố, Đức Giê-su ngay lập tức đã đuổi thẳng: “Xa-tan kia, xéo đi!” – Mt 4, 10); nhưng sở dĩ Chúa chịu để ma quỷ cám dỗ, cũng là có ý muốn làm gương để răn dạy mọi người hãy cảnh giác trước mưu mô thâm độc của ba thù. Nói ma quỷ rất sành tâm lý, vậy tại sao chúng thất bại? Chuyện cũng dễ hiểu, ma quỷ dù biết Đức Giê-su là Con Thiên Chúa, là Thiên Chúa thật (bản tính Thiên Chúa), nhưng trước mắt chúng là một chàng thanh niên Giê-su bằng xương bằng thịt (bản tính loài người) như mọi người bình thường khác, vì thế chúng đem chính những thứ mà con người trần tục thường mê đắm để làm mồi cám dỗ, hầu có thể hạ gục Người.

Trước hết, chúng biết Đức Giê-su vào hoang địa ăn chay 40 đêm ngày, chắc chắn Người phải đói bụng, vậy thì miếng ăn lúc này là mồi nhử hữu hiệu nhất, bởi chính đây mới là kẻ thù đáng sợ nhất của con người trần thế: Đó là kẻ thù từ bên trong (tự thân chủ thể) – là “thù trong” chớ không phải “giặc ngoài” – kẻ thù đến từ bên ngoài (khách thể). Tuy nhiên, có một điều rất đáng lưu ý là ma quỷ không đưa bánh thật ra, mà lại đưa một hòn đá rồi bảo Đức Giê-su hoá phép cho hòn đá ấy biến thành bánh mà ăn. Cái quỷ quyệt của ma quỷ chính ở điểm này, bởi với một con người bình thường thì chúng chỉ cần đưa ra miếng bánh, nhưng đây lại là Thiên Chúa đầy quyền năng, vì thế chúng nhắm vào tâm lý kiêu ngạo, hiếu thắng, muốn chứng tỏ mình của con người, để kích động Chúa. Và nếu vì đói bụng, hoặc cũng có thể do bản tính loài người hay kiêu căng tự phụ, Chúa làm phép lạ biến đá thành bánh để ăn, thì Chúa đã mắc mưu thâm độc của chúng. Nói cách khác, nếu làm theo ý ma quỷ thì Chúa đã bị khuất phục, bị sai khiến theo ý chúng. Nhưng chúng đã thất bại, bởi đối tượng chúng cám dỗ không chỉ là một chàng thanh niên Giê-su Na-da-ret bình thường, mà còn là Con Một Thiên Chúa được sai đến để chế ngự tội lỗi, cứu độ nhân loại.

Không đánh vào cái bụng đói của Chúa được, chúng xoay qua mặt tâm linh, đó là tính kiêu ngạo. Nếu là một con người bình thường, khi biết chắc là mình có nhảy xuống từ nóc Đền Thờ cao chót vót cũng sẽ được “Thiên Chúa sẽ truyền cho thiên sứ lo cho bạn, và thiên sứ sẽ tay đỡ tay nâng” (Mt 4, 6), chắc chắn họ sẽ nhảy xuống liền, và như thế sẽ được hoan hô ca tụng tận mây xanh. Lòng kiêu căng tự phụ được ve vuốt, đối với con người thì còn gì hơn thế nữa? Ngay từ Nguyên tổ của loài người, chuyện này cũng đã xảy ra: Khi rắn (ma quỷ) xúi bà E-va ăn trái cấm, bà còn e ngại vì nhớ Lời Đức Chúa: “Các ngươi không được ăn, không được động tới, kẻo phải chết”, thì ngay lập tức “Rắn nói với người đàn bà: “Chẳng chết chóc gì đâu! Nhưng Thiên Chúa biết ngày nào ông bà ăn trái cây đó, mắt ông bà sẽ mở ra, và ông bà sẽ nên như những vị thần biết điều thiện điều ác.” (St 2, 4-5). Ấy thế là Nguyên tổ phạm tội, loài người bị tội lỗi thống trị. Loài người là vậy đó, nhưng với Đức Giê-su thì vì Người là Thiên Chúa, nên Người quở mắng liền: “Nhưng cũng đã có lời chép rằng: Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi.” Sau 2 lần thất bại, ma quỷ lại xoay qua mặt phú quý vinh hoa là mồi nhử hấp dẫn nhất đối với con người. Chỉ cần quy phục, quỳ lạy chúng, sẽ được tất cả. Lần này thì Chúa đuổi thẳng: “Xa-tan kia, xéo đi! ” và ma quỷ thất bại hoàn toàn, bỏ đi một nước.

Quả thật, giặc từ bên ngoài đánh chiếm thành trì, còn có thể thấy rõ kẻ thù, may ra còn hy vọng chiến đấu; nhưng nếu đó là kẻ thù từ bên trong thì chúng đã đồng hóa với “cái tôi” trở thành vô hình vô ảnh; vậy thì làm sao chống đỡ cho nổi? Nói như vậy thì phải chăng con người luôn bị ma quỷ cám dỗ và đành thúc thủ trước những mưu mô quỷ quyệt của chúng sao? Xin thưa, nếu anh chỉ sống theo xác thịt, chiều theo thị hiếu vật chất, thì bảo đảm anh thua là cái chắc, nhưng anh còn một vũ khí rất lợi hại để có thế chống lại được ba thù, có thế chiến thắng được những cơn cám dỗ. Câu “Muốn thắng người, phải thắng được mình trước” (tục ngữ) có thể viết thành “Muốn thắng chước cám dỗ của ma quỷ, phải thắng được mình trước”. Mà cái vũ khi lợi hại để có thể thắng được mình (nhiên hậu mới nói đến thắng được cám dỗ), đó chính là: CẦU NGUYỆN.

Không tự tin quá đáng (sẽ thành tự kiêu), cũng không tự ti, mà hãy dốc lòng tin cậy vào Thiên Chúa, bởi “Nếu chỉ vì một người, một người duy nhất (là A-đam) sa ngã, mà sự chết đã thống trị, thì điều Thiên Chúa làm qua một người duy nhất là Đức Giê-su Ki-tô, lại còn lớn lao hơn biết mấy. Quả vậy, những ai được Thiên Chúa ban ân sủng dồi dào và cho trở nên công chính, thì sẽ được sống và được thống trị” (Rm 5, 17). “Được sống và được thống trị”, ấy chẳng phải là chiến thắng đó sao? Vậy thì tại sao lại không thể làm như lời dạy của Thánh Gia-cô-bê Tông đồ: “Anh em đau khổ ư? Người ấy hãy cầu nguyện. Ai vui vẻ chăng? Người ấy hãy hát thánh ca. Ai trong anh em đau yếu ư? Người ấy hãy mời các kỳ mục của Hội Thánh đến; họ sẽ cầu nguyện cho người ấy, sau khi xức dầu nhân danh Chúa. Lời cầu nguyện do lòng tin sẽ cứu người bệnh; người ấy được Chúa nâng dậy, và nếu người ấy đã phạm tội, thì sẽ được Chúa thứ tha. Anh em hãy thú tội với nhau và cầu nguyện cho nhau để được cứu thoát” (Gc 5, 13-16).

Vâng, để “Được sống và được thống trị”, xin cùng dâng lời cầu nguyện: Ôi ! Lạy Chúa Giê-su Ki-tô, chính nhờ sống theo Thần Khí hướng dẫn vào trong hoang địa ăn chay cầu nguyện 40 đêm ngày, mà Chúa đã được đầy sức mạnh chiến thắng được cơn cám dỗ quỷ quyệt của ma quỷ. Để có thể chống chọi được với những mời mọc hấp dẫn, những cám dỗ ngọt ngào của xác thịt, của ma quỷ, cúi xin Chúa thương giúp chúng con thực hành theo lời Thánh Phê-rô: “Vậy anh em hãy tự khiêm tự hạ dưới bàn tay uy quyền của Thiên Chúa, để Người cất nhắc anh em khi đến thời Người đã định. Mọi âu lo, hãy trút cả cho Người, vì Người chăm sóc anh em. Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh thức, vì ma quỷ, thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé. Anh em hãy đứng vững trong đức tin mà chống cự, vì biết rằng toàn thể anh em trên trần gian đều trải qua cùng một loại thống khổ như thế” (1Pr 5, 6-9). Ôi lạy Chúa, con tín thác nơi Ngài. Amen.

JM. Lam Thy ĐVD

 

Đức Thánh Cha gặp hàng giáo sĩ Roma: kêu gọi thực thi lòng từ bi

Đức Thánh Cha gặp hàng giáo sĩ Roma: kêu gọi thực thi lòng từ bi

VATICAN. Trong buổi gặp gỡ các LM Roma sáng thứ năm 6-3-2014, ĐTC Phanxicô đặc biệt nhắc nhở các vị thể hiện lòng từ bi đối với các tín hữu, đặc biệt qua bí tích Hòa Giải.

Hiện diện tại Đại thính đường Phaolô 6 có ĐHY Agostino Vallini, Giám quản Roma, 9 GM phụ tá, và khoảng 1 ngàn LM và phó tế phục vụ trong 330 giáo xứ thuộc giáo phận Roma.

Trong bài suy niệm sau bài đọc Tin Mừng theo thánh Matheo kể lại sự kiện Chúa Giêsu chạnh lòng thương khi thấy con người mệt mỏi và kiệt lực như đoàn chiên không có mục tử chăm sóc, ĐTC gợi lại sứ điệp về lòng từ bi thương xót của Chúa mà thánh nữ Faustina truyền bá và nói rằng: ”Trong tư cách là các thừa tác viên của Giáo Hội, chúng ta có nhiệm vụ giữ cho sứ điệp về lòng từ bi thương xót của Chúa được luôn sinh động, nhất là trong các bài giảng, các cử chỉ và dấu hiệu, các quyết định mục vụ, ví dụ trả lại sự ưu tiên cho bí tích Hòa Giải và đồng thời cho các việc bác ái từ bi”.

ĐTC giải thích rằng: ”Chúa Giêsu đã có tâm lòng của Thiên Chúa, nghĩa là đầy dịu dàng đối với dân chúng, nhất là những người bị loại bỏ, các tội nhân, những bệnh nhân không ai chăm sóc.. Vì thế, theo hình ảnh vị Mục Tử Nhân Lành, linh mục là người từ bi và thương xót, gần gũi dân chúng và phục vụ tất cả mọi người. Bất cứ ai bị thương tổn trong cuộc sống một cách nào đó, có thể tìm thấy nơi vị linh mục sự quan tâm và lắng nghe. Đặc biệt linh mục chứng tỏ lòng từ bi qua việc ban bí tích Hòa Giải; biểu lộ tâm tình ấy trong thái độ, trong cách thức đón nhận, lắng nghe, khuyên bảo và ban phép xá giải..”

ĐTC cảnh giác và phê bình những linh mục ”được khử trùng”, lãnh đạm, những LM ”phòng thí nghiệm”, họ không giúp đỡ Giáo Hội. Ngài nói: chúng ta có thể nghĩ Giáo Hội ngày nay như một bệnh viện dã chiến săn sóc những người bị thương. Và có bao nhiêu ngừơi bị thương vì những vấn đề vật chất, vì những gương mù gương xấu, kể cả trong Giáo Hội, những người bị thương vì những ảo tưởng của trần thế”.

Cũng trong bài huấn dụ, ĐTC kêu gọi các LM đề phòng tránh hai thái độ lỏng lẻo và ngặt nghèo. Ngài nói: ”Giữa các cha giải tội, có những cách thức khác biệt, đó là điều bình thương, nhưng không thể có sự khác biệt về nòng cốt, nghĩa là về đạo lý luân lý lành mạnh và lòng từ bi. Thái độ lỏng lẻo cũng như thái độ ngặt nghèo đều không làm chứng về Chúa Giêsu Kitô, và cũng chẳng nâng đỡ những người mà chúng ta gặp”.

ĐTC giải thích rằng ”Người ngặt nghèo đóng đinh con người vào luật lệ được hiểu một cách lạnh lùng và cứng nhắc. Trái lại người lỏng lẻo chỉ có vẻ bề ngoài là từ bi, nhưng thực tế họ không coi trọng vấn đề lương tâm, coi nhẹ tội lỗi.”

”LM thực sự có lòng từ bi thương xót hành động như người Samaritano nhân lành, vì con tim của LM ấy có khả năng cảm thương, đó là con tim của Chúa Kitô.. Chúng ta biết rõ rằng thái độ lỏng lẻo cũng như thái độ ngặt nghèo đều không làm gia tăng sự thánh thiện. Trái lại lòng từ bi tháp tùng và làm gia tăng hành trình thánh thiện”. Sau cùng, ngài mời gọi các LM xét mình xem mình có lòng từ bi, cảm thông với dân chúng, về đời sống cầu nguyện: Ban tối, cha kết thúc mỗi ngày như thế nào? Với Chúa hay với máy truyền hình?

Hai mẫu gương linh mục

ĐTC ứng khẩu kể lại tấm gương của hai linh mục thuộc giáo phận Buones Aires, Argentina: vị thứ nhất nổi bật về việc giải tội và vị thứ hai về lòng từ bi.

”LM thứ nhất còn sống, linh mục nổi bật của Buenos Aires, cha ấy kém tuổi tôi, và sắp được 72 tuổi. Ngày nay phần lớn các linh mục trong giáo phận đến xưng tội với cha ấy. Một hôm cha ấy đến gặp tôi và nói: Thưa cha, con hơi bối rối, con tha thứ nhiều quá. Nhưng khi con cảm thấy cơn bối rối ấy tăng lên mạnh quá, con đến trước Nhà Tạm Mình Thánh Chúa và con nói với Chúa Giêsu: ”Tại Chúa đã làm gương xấu cho con!”

ĐTC Phanxicô bình luận rằng ”Nếu ai sống sự tha thứ ấy thì cũng có thể trao ban sự tha thứ ấy cho người khác”.

Về vị linh mục thứ hai, ĐGH Phanxicô thú nhận là đã lấy trộm Thánh Giá của vị ấy trong quan tài. ”Đó là một linh mục dòng Thánh Thể nổi tiếng và các LM khác cũng đến xưng tội với cha ấy. Một trong hai lần ĐGH Gioan Phaolô 2 đến thăm Argentina, ngài xin gửi đến cho ngài một cha giải tội ở tòa Sứ Thần Tòa Thánh, và người ta đã gửi vị linh mục ấy đến giải tội cho Đức Giáo Hoàng”.

”Khi vị linh mục ấy qua đời, thì tôi đang là Tổng đại diện và ở trong tòa Giám Mục. Tại đó cứ mỗi sáng tôi xuống xem máy Fax để coi có tin gì được gửi tới hay không. Và buổi sáng Phục Sinh, tôi đọc thấy tờ Fax báo: ”Hôm qua, cha Aristide đã qua đời”. Cha được 94 hay 96 tuổi, khoảng đó. Hôm ấy tôi phải đi gặp các linh mục ở nhà dưỡng lão, nhưng sau bữa trưa, tôi đến nhà thờ của cha Aristide. Trong tầng hầm nhà thờ chỉ có quan tài, hai bà cụ già và chẳng có hoa gì cả. Tôi tự nhủ: ”Vị linh mục này đã tha thứ bao nhiêu tội lỗi cho hàng giáo sĩ và giờ đây chẳng có bông hoa nào”. Nghĩ thế tôi đi lên và ra chỗ người bán hoa ở ngã tư đường để mua hoa, hoa hồng.

Trở lại hầm nhà thờ, tôi bắt đầu chuẩn bị trang điểm quan tài với các hoa vừa mua. Lúc ấy tôi nhìn thấy xâu chuỗi mân côi cha Aristide đang cầm ở tay, ”tên trộm' mà mỗi người chúng ta vẫn có trong lòng, chợt xuất hiện trong tâm trí tôi. Tôi liền lấy tay dứt thánh giá nhỏ của xâu chuỗi mân côi trong tay cha Aristide và cầu nguyện với cha: ”Xin cha cho con một nửa lòng từ bi của cha”. Tôi cảm thấy một cái gì mạnh mẽ. Thánh giá ấy tôi bỏ trong một túi nhỏ và luôn mang theo người. Bây giờ áo giáo hoàng không có túi ở ngực, nhưng tôi vẫn luôn mang một túi vải nhỏ bên trong với thánh giá ấy. Và khi có một ý tưởng xấu chống lại ai, thì tôi đặt tay trên túi vải đựng thánh giá ấy, và tôi cảm thấy ơn thánh” (mọi người vỗ tay!). (SD 6-3-2014).

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio
 

Đức Thánh Cha chủ sự lễ tro

Đức Thánh Cha chủ sự lễ tro

Pope Francis celebrate at Santa  Sabina Basilica 1

ROMA. ĐTC Phanxicô mời gọi các tín hữu sống mùa chay qua việc gia tăng cầu nguyện, chay tịnh và làm phúc giúp đỡ tha nhân.

Ngài đưa ra lời nhắn nhủ này trong bài giảng thánh lễ thứ tư lễ tro hôm 5-3-2014, sau cuộc rước thống hối lần đầu tiên ngài chủ sự, đi từ nhà thờ thánh Anselmo của dòng Biển Đức tới đền thờ thánh nữ Sabina của dòng Đa Minh trên đồi Avventino ở Roma.

Đi trong đoàn rước lúc quá 4 giờ rưỡi với ĐTC, có gần HY – trong đó có ĐHY Quốc vụ khanh Pietro Parolin, hơn 30 GM, đông đảo tu sĩ dòng Biển Đức và Đa Minh, trong đó có 2 vị Tổng quyền của 2 dòng liên hệ. Trên quãng đường dài 500 mét, các vị vừa đi vừa hát kinh cầu các thánh, và thánh ca thống hối.

Tại Vương cung Thánh Đường thánh nữ Sabina, có từ thế kỷ thứ V, ĐTC đã chủ sự thánh lễ đồng tế với các Hồng Y và Giám Mục, trước sự tham dự của linh mục tu sĩ nam nữ và giáo dân, đặc biệt là các vị lãnh đạo Hội Hiệp sĩ Malta.

Trong bài giảng, trước tiên ĐTC mời gọi mọi người hãy cởi mở với Thiên Chúa và anh chị em: ”Chúng ta đang sống trong một thế giới ngày càng giả tạo, trong một nền văn hóa quan tâm tới ”hành động”, tới những gì là ”hữu dụng” trong đó vô tình chúng ta loại bỏ Thiên Chúa ra khỏi chân trời của chúng ta. Mùa chay kêu gọi chúng ta hãy tỉnh thức, hãy nhớ rằng chúng ta là thụ tạo, chứ không phải là Thiên Chúa”.

Pope Francis celebrates the Ash Wednesday mass Santa  Sabina Basilica 1

Tiếp đến, dựa vào bài Phúc Âm của ngày lễ, ĐTC nhắc nhở các tín hữu hãy sống hành trình thiêng liêng mùa chay bằng việc cầu nguyện, chay tịnh và làm phúc (Xc Mt 6,1-6.16-18). Ngài nói: ”cả ba điều này bao hàm sự cần thiết này, đó là đừng để mình bị những điều bề ngoài thống trị: điều đáng kể không phải là cái vẻ bề ngoài; giá trị sự sống không tùy thuộc sự ủng hộ của người khác hoặc thành công, nhưng tùy thuộc điều chúng ta có trong nội tâm”.

ĐTC lần lượt giải thích 3 yếu tố: trước tiên là cầu nguyện, đây là sức mạnh của mỗi Kitô hữu: mùa chay là mùa cầu nguyện khẩn trương, siêng năng hơn, có khả năng đảm trách những nhu cầu của anh em, chuyển cầu trước Thiên Chúa cho bao nhiêu tình trạng nghèo đói và đau khổ.”

”Thứ hai là chay tịnh. Chay tịnh bao gồm việc chọn lựa một lối sống tiết độ, không phung phí, không vứt bỏ. Chay tịnh giúp chúng ta tập luyện tâm hồn quen với những gì là thiết yếu và sự chia sẻ. Đó là dấu chỉ sự ý thức và trách nhiệm trước những bất công, lạm quyền, đặc biệt là đối với những người nghèo hèn bé nhỏ, và là dấu chỉ niềm tín thác chúng ta đặt tới Thiên Chúa và sự quan phòng của Chúa.”

”Sau cùng là làm phúc, nó nói lên sự nhưng không, vì trong khi làm phúc, chúng ta cho một người khác mà không mong nhận được cái gì bù lại. Sự nhưng không phải là một trong những đặc tính của Kitô hữu. Ngày nay, sự nhưng không thường không thuộc về đời sống hằng ngày, vì trong đó người ta mua bán, tính toán, đo lường. Việc làm phúc giúp chúng ta sống sự nhưng không của hồng ân, là sự giải thoát khỏi ám ảnh chiếm hữu, sợ mất điều mình có, nỗi buồn phiền của kẻ không muốn chia sẻ với tha nhân sự sung túc của mình”.

Trong nghi thức bỏ tro sau bài giảng, ĐHY Jozef Tomko, người Slovak, nguyên Tổng trưởng Bộ truyền giáo, có nhà thờ hiệu tòa là Đền thờ thánh nữ Sabina, đã bỏ tro trên đầu ĐTC, trước khi ngài bỏ tro cho các Hồng y và một số tín hữu, trong khi 12 LM Đa Minh và Biển Đức bỏ tro trên đầu các tín hữu hiện diện.

Sau thánh lễ, tại trụ sở Bề trên Tổng quyền dòng Đa Minh, cạnh thánh đường, ĐTC đã gặp gỡ cộng đoàn các tu sĩ Đa Minh tại Roma, đặc biệt là các bề trên 8 tu viện tại thủ đô Giáo Hội. (SD 5-3-2014)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Mùa Chay là thời gian thuận tiện giúp trở về với tình yêu của Thiên Chúa và tha nhân

Mùa Chay là thời gian thuận tiện giúp trở về với tình yêu của Thiên Chúa và tha nhân

Mùa Chay là thời gian thuận tiện để thay đổi hướng đi, tái chiếm lại khả năng phản ứng trước thực tại sự dữ luôn thách thức chúng ta. Nó là thời gian hoán cải trở về với tình yêu của Thiên Chúa và tha nhân, canh tân cá nhân và cộng đoàn, sống thái độ sự nhưng không và lòng thương xót của Chúa.

Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói như trên với 60,000 tín hữu và du khách hành hương trong buổi tiếp kiến sáng thứ tư hàng tuần 5-3-2014 tại quảng trường thánh Phêrô. Trong bài huấn dụ Đức Thánh Cha đã nói về Mùa Chay. Ngài nói: Thứ Tư lễ Tro hôm nay bắt đầu lộ trình Mùa Chay kéo dài 40 ngày dẫn đưa chúng ta tới Tam Nhật Phục Sinh, tưởng niệm cuộc khổ nạn, cái chết và sự phục sinh của Chúa là trọng tâm mầu nhiệm cứu độ của chúng ta. Ngài định nghĩa Mùa Chay như sau:

Mùa Chay là thời gian ”mạnh mẽ”, một điểm ngoặt có thể tạo thuận lợi cho từng người trong chúng ta thay đổi, hoán cải: chúng ta tất cả đều cần trở nên tốt lành hơn, thay đổi hướng lên cao, thay đổi cho sự thiện, và Mùa Chay giúp chúng ta làm điều đó. Và như thế chúng ta ra khỏi các tập quán mệt mỏi và việc làm quen lười biếng với sự dữ quấy phá chúng ta. Trong Mùa Chay Giáo Hội hướng tới chúng ta hai lời mời gọi quan trọng: ý thức sống động hơn về công trình cứu chuộc của Chúa Kitô, và sống bí tích Rửa Tội với nhiều dấn thân hơn.

Ý thức về các điều kỳ diệu mà Chúa đã làm đối với ơn cứu rỗi của chúng ta chuẩn bị tâm trí chúng ta cho một thái độ biết ơn đối với Thiên Chúa, về tất cả những gì Người đã ban cho chúng ta, về tất cả những gì Người đã thành toàn cho dân Người và cho toàn thể nhân loại. Từ đây phát xuất ra sự hoán cải của chúng ta: nó là câu trả lời biết ơn đối với mầu nhiệm tuyệt vời của tình yêu của Thiên Chúa. Khi chúng ta trông thấy tình yêu mà Thiên Chúa có đối với chúng ta, chúng ta cảm thấy muốn tới gần Người và đó là sự hoán cải.

Sống tận cùng bí tích Rửa Tội đó là lời mời gọi thứ hai. Nó có nghĩa là không để cho mình quen với các hoàn cảnh tồi tệ và bần cùng, mà chúng ta gặp khi đi trên các con đường thành phố và đất nước của chúng ta. Đức Thánh Cha giải thích điểm này như sau:

Có nguy cơ chấp nhận một cách thụ động vài cung cách hành xử và không kinh ngạc trước các thực tại buồn thương vây quanh chúng ta. Chúng ta quen với bạo lực, như thể nó là một tin dĩ nhiên thường ngày; chúng ta quen với các anh chi em ngủ ngoài đường, không có một mái nhà để trú ẩn. Chúng ta quen với các người tị nạn đi tìm tự do và phẩm giá, không được đón tiếp như đáng lý ra họ phải được đón tiếp. Chúng ta quen sống trong một xã hội yêu sách không cần Thiên Chúa, trong đó cha mẹ không dậy dỗ con cái cầu nguyện, cũng không dậy con cái làm dấu Thánh Giá.

Tôi xin hỏi anh chị em: con cái anh chị em có biết làm dấu Thánh Giá không? Hãy nghĩ tới điều đó. Các cháu của anh chị em có biết làm dấu Thánh Giá không? Anh chị em có dậy chúng làm dấu Thánh Giá không? Hãy nghĩ và trả lời trong thâm tâm anh chị em. Chúng có biết đọc Kinh Lậy Cha không? Chúng có biết cầu nguyện Đức Mẹ với Kinh Kính Mừng không? Hãy nghĩ và hãy tự trả lời. Sự quen thuộc với các thái độ không kitô và tiện lợi ấy làm tê liệt con tim của chúng ta!

Mùa Chay tới với chúng ta như thời gian quan phòng giúp thay đổi hướng đi, giúp chiếm lại khả năng phản ứng trước thực tại sự dữ luôn luôn thách thức chúng ta. Mùa chay được sống như thời gian của sự hoán cải, của sự canh tân cá nhân và cộng đoàn. Qua việc tiến tới gần Thiên Chúa và tin tưởng gắn bó với Tin Mừng. Như thế nó cũng cho phép chúng ta nhìn với đôi mắt mới các anh chị em khác và các nhu cầu của họ.

Vì thế Mùa Chay là thời gian thuận tiện để trở về vời tình yêu đối với tha nhân, một tình yêu biết lấy làm của mình thái độ nhưng không và xót thương của Chúa, là Đấng đã tự làm cho mình trở nên nghèo nàn để khiến cho chúng ta được giầu có” (2Cr 8,9). Khi suy niệm các mầu nhiệm chính của đức tin, cuộc khổ nạn, thập giá và sự sống lại của Chúa Kitô, chúng ta nhận ra rằng ơn Cửu Chuộc vô bờ đã được ban cho chúng ta là do sáng kiến nhưng không của Thiên Chúa. Chúng ta cảm tạ Thiên Chúa vì mầu nhiệm tình yêu bị đóng đinh của Người; đức tin đích thật, hoản cải và rộng mở con tim cho người anh em là các yếu tố nòng cốt giúp sống Mùa Chay. Trên con đường này chúng ta muốn khẩn nài sự chở che và trợ giúp của Mẹ Maria với lòng tin tưởng đặc biệt. Ước chi Mẹ là người đầu tiên tin nơi Chúa Kitô, đồng hành với chúng ta trong các ngày cầu nguyện sâu xa và sám hối để được thanh tẩy và canh tân chúng ta tiến tới việc cử hành mầu nhiệm vĩ đại của lễ Vượt Qua của Con Mẹ.

Bên cạnh các đoàn hành hương Bắc Mỹ và Âu châu có các đoàn hành hương Indonesia, Mehicô, Argentina và Brasil. Đức Thánh Cha đã chào tín hữu và chúc mọi người Mùa Chay thánh thiện.

Trong số các đoàn Italia Đức Thánh Cha chào nhóm các nữ tu y tá của Hiệp hội các Bề Trên tổng quyền dòng nữ, các vị thanh tra các trường công giáo đang tham dự phiện họp đo Liên Hiệp các học viện giáo dục Italia tổ chức tại Roma, nhóm các thanh nữ Thế Hệ Ba của phong trào Tổ Ấm. Khi nghe họ la lớn Đức Thánh Cha nói: ”Các cô gái này ồn ào qúa nhỉ. Ai cũng nghe thấy rồi.” Ngài chúc mọi người trẻ sống đức tin tươi vui và làm chứng cho tình yêu của Chúa đối với mọi người.

Vì lễ Tro đã khai mạc con đường Mùa Chay Đức Thánh Cha đặc biệt mời gọi các bạn trẻ sống thời gian ơn thánh này với tinh thần sám hối đích thật, trở về với Thiên Chúa Cha, là Đấng luôn giang tay chờ đón mọi người. Ngài khích lệ các anh chị em đau yếu dâng các khổ đau của họ để cầu nguyện cho ơn trở về của những người sống xa Thiên Chúa. Ngài xin các cặp vợ chồng mới cưới can đảm và quảng đại xây dựng gia đình họ trên đá tảng vững bền của tình yêu Thiên Chúa.

Buổi tiếp kiến đã kết thúc với Kinh Lạy Cha và phép lành tòa thánh Đức Thánh Cha ban cho mọi người.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio
 

Sứ điệp Đức Thánh Cha gửi chiến dịch Huynh đệ Mùa Chay Brazil

Sứ điệp Đức Thánh Cha gửi chiến dịch Huynh đệ Mùa Chay Brazil

VATICAN. ĐTC Phanxicô hỗ trợ chiến dịch mùa chay động viên tại Brazil chống nạn buôn người, đồng thời kêu gọi mọi người xét mình về những thái độ làm thương tổn phẩm giá con người.

Ngài bày tỏ lập trường trên đây trong sứ điệp gửi Giáo Hội tại Brazil nhân dịp khai mạc chiến dịch Huynh Đệ mùa chay lần thứ 51 hôm 5-3-2014, với chủ đề ”Tình huynh đệ và nạn buôn người”, và khẩu hiệu của chiến dịch là ”Chúa Kitô đã giải thoát chúng ta để chúng ta được tự do” (Gl 5,1).

Trong sứ điệp, ĐTC khẳng định rằng ”Không thể dửng dưng khi ta biết có những con người bị mua bán như hàng hóa! Chúng ta hãy nghĩ đến những vụ nhận con nuôi để lấy cơ phận, những phụ nữ bị lường gạt và bó buộc phải hành nghề mại dâm; chúng ta hãy nghĩ đến những công nhân bị bóc lột, không có quyền lợi cũng chẳng có tiếng nói, v.v. Đó là nạn buôn người”.

ĐTC nhấn mạnh rằng ”Về điểm này cần có một sự xét mình sâu xa: thực vậy bao nhiêu lần chúng ta dung thứ, để cho một người bị coi như đồ vật, bị trưng bày để bán như một sản phẩm hoặc để thỏa mãn những ước muốn vô luân? Không bao giờ được để con người bị mua bán như hàng hóa. Ai sử dụng và bóc lột con người, dù là một cách gián tiếp, thì trở thành đồng lõa với sự lạm dụng ấy” (Diễn văn trước các Đại sứ mới, 12-12-2013).

Đi xuống bình diện gia đình, ĐTC khẳng định rằng: ”Nếu chúng ta vào một nhà, bao nhiêu lần chúng ta thấy tại đó có sự đè nén, đàn áp! Cha mẹ biến con cái thành nô lệ, con cái nô lệ hóa cha mẹ; vợ chồng, quên ơn gọi hôn nhân, khai thác nhau như thể những sản phẩm tiêu thụ, những sản phẩm người ta dùng rồi vứt bỏ; những người già không có chỗ đứng trong xã hội, các trẻ em và thiếu niên không có tiếng nói. Bao nhiêu cuộc tấn công các giá trị căn bản của gia đình và của sự sống chung trong xã hội!”

ĐTC nói: ”Đúng vậy, cần phải xét mình sâu xa: làm sao ta có thể loan báo niềm vui Phục Sinh, mà lại không liên với với những người ở trái đất này bị phủ nhận tự do của họ?”

”Hỡi dân Brazil quí mến, anh chị em hãy chắc chắc rằng nếu ta xúc phạm đến nhân phẩm của người khác, chính vì trước đó ta đã làm mất nhân phẩm của ta. Và tại sao ta làm như thế? Thưa để được quyền bính, tiếng tăm và lợi lộc vật chất .. Anh chị em hãy ngạc nhiên: thật là lạ: để đạt được điều đó, tôi đánh mất phẩm giá làm con cái Chúa, đã được cứu chuộc bằng máu của Chúa Kitô trên thập giá và được Thánh Linh bảo đảm, Đấng kêu lên trong chúng ta ”Abba, Lạy Cha!” (Xc Gl 4,6). Mọi người đều có nhân phẩm như nhau: khi tôi chà đạp nhân phẩm của người khác thì tôi cũng chà đạp nhân phẩm của tôi!”.

Theo tổ chức Phi chính phủ ”Walk free”, Tiến bước tự do, nguyên tại Brazil có ít nhất 200 ngàn người bị biến thành nô lệ. (SD 5-3-2014)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Đức Thánh Cha tiếp kiến 85 Giám Mục Tây Ban Nha

Đức Thánh Cha tiếp kiến 85 Giám Mục Tây Ban Nha

VATICAN. Trong buổi tiếp kiến sáng 3-3-2014, dành cho 85 GM Tây Ban Nha, ĐTC Phanxicô khích lệ các vị đẩy mạnh việc loan báo Tin Mừng trong xã hội tại đây ngày càng dng dưng đối với tôn giáo.

Các GM thuộc 70 giáo phận tại Tây Ban nha chia thành 2 đoàn v Roma hành hương viếng mộ hai thánh Tông Đ và thăm Tòa Thánh từ ngày 24-2 đến 8-3-2014. Trong buổi tiếp kiến chung 2 đoàn, ĐTC nhận xét rằng anh em đang trải qua kinh nghiệm cam go về sự dửng dưng của nhiều tín hữu đã chịu phép rửa và anh em còn phải đương đầu với một nền văn hóa tc hóa, đóng khung Thiên Chúa trong đời sống riêng tư và loại bỏ Ngài ra khỏi lãnh vực công cộng. ĐTC nói: ”Điều cần là đừng quên lịch sử của anh em. Từ đó chúng ta học biết rằng ơn thánh của Chúa không bao giờ tàn lụi và Chúa Thánh Linh tiếp tục hoạt động quảng đại trong thực tại ngày nay”.

Từ tiền đ đó, ĐTC khích l các GM Tây Ban Nha đừng từ nan nỗ lực nào để mở ra những con đường mới cho Tin Mừng, đi tới tâm hồn mỗi ngưi, để họ khám phá vị đã tiềm ẩn trong đó là Chúa Kitô người bạn và người anh”.

ĐTC nhắn nhủ các GM Tây Ban Nha tăng cường sự cộng tác với các LM, tu sĩ nam nữ và giáo dân, đồng thời đặt Giáo Hội trong tình trạng truyền giáo trường kỳ, để kêu gọi những ngưi đã xa lìa Giáo Hội, củng cố đức tin, nhất là nơi người trẻ. Đ được vậy, cần quan tâm đến tiến trình khai tâm Kitô giáo. Đức tin không phải chỉ là một gia sản văn hóa mà thôi, nhưng còn là một món quà, một hồng ân nảy sinh từ cuộc gặp bản thân với Chúa Giêsu và vui mừng đón nhận sự sống mới ngài Chúa ban tặng chúng ta.

Cũng trong bài huấn dụ, ĐTC cổ võ các GM Tây Ban Nha khơi dy và làm cho đức tin của các tín hữu đưc sinh động, chuẩn bị hôn nhân kỹng và tháp tùng các gia đình. Ngài nói: ”Một gia đình được loan báo Tin Mừng là một tác nhân vững mạnh để truyền giảng Tin Mừng, nhất là chiếu tỏa những điều kỳ diệu mà Thiên Chúa thực hiện nơi họ. Ngoài ra, vì là một môi trường tự nhiên của sự quảng đi, nên gia đình sẽ cổ võ sự nảy sinh ơn gọi theo Chúa trong chức linh mục và đời sống thánh hiến”.

ĐTC cũng đề cao các hoạt động của Giáo Hội tại Tây Ban Nha phục vụ người nghèo. Trong những năm gn đây, Caritas Tây Ban Nha và nhiu cơ quan từ thiện bác ái khác đã đáng được sự biết ơn của nhiều người, dù là tín hữu hay ngưi không có tín ngưỡng.

Tây Ban Nha rộng gần 506 ngàn cây số vuông với hơn 46 triu dân cư, trong s đó trên 92% là tín hu Công Giáo, nhưng với số người nhập cư gia tăng, con số các tín hữu Hồi giáo tại nưc này cũng tăng theo. (SD 3-3-2014).

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Các thách đố lớn nhỏ đối với Giáo Hội tại Bulgaria

Các thách đố lớn nhỏ đối với Giáo Hội tại Bulgaria

Phỏng vấn Đức Cha Christo Proykov, Chủ tịch Hội Đồng Giám Mục

Ngày 13-2-2014 các Giám Mục Bulgaria đã bắt đầu chuyến viếng mộ hai Thánh Tông Đồ Phêrô Phaolô và thăm Tòa Thánh.

Cộng đoàn công giáo nước này tuy bé nhỏ nhưng rất sinh động. Bulgaria rộng gần 111,000 cây số vuông, có 7.5 triệu dân, gồm 84.8% gốc Bulgari, 8.8% gốc Thổ Nhĩ Kỳ, 4.9% gốc Rom và 1.5% gồm các sắc dân khác. Trên bình diện tôn giáo 86.3% theo Chính Thống, 12.78% theo Hồi giáo. Tín hữu công giáo La tinh được khoảng hơn 70,000 và có khoảng 20,000 tín hữu công giáo đông phương.

Sau đây chúng tôi xin gửi tới qúy vị và các bạn bài phỏng vấn Đức Cha Christo Proykov, Chủ tịch Hội Đồng Giám Mục Bulgaria, về các thách đố lớn nhỏ đối với Giáo Hội nước này.

Hỏi: Thưa Đức Cha Proykov, Giáo Hội công giáo tại Bulgaria hiện nay ra sao?

Đáp: Giáo Hội công giáo tại Bulgaria sống chứng tá kitô trong một xã hội có rất nhiều thách đố. Có các thách đố chung cho mọi nước Âu châu như: chủ trương tiêu thụ, tương đối hóa luân lý, hưởng lạc, thiếu các giá trị nền tảng cho cuộc sống nhân bản. Nhưng cũng có vài thách đố chuyên biệt thừa hưởng từ chế độ Liên Xô trong qúa khứ, thí dụ như sự dốt nát về tôn giáo rất phổ biến, đối với cả những người tự coi mình là tín hữu kitô. Tình hình hiện nay tại Bulgaria không dễ dàng, nhưng có thể nói thuận tiện cho việc thả lưới rao giảng Tin Mừng và gieo vãi Lời Chúa.

Hỏi: Thế nhưng riêng bên trong lòng cộng đoàn công giáo thì tình hình ra sao thưa Đức Cha?

Đáp: Giữa các tín hữu công giáo và ba giáo phận thuộc hai nghi lễ Latinh và Đông phương có sự cộng tác mạnh mẽ. Có các cuộc gặp gỡ và các buổi tĩnh tâm cho giới trẻ. Sự kiện này cống hiến cho các bạn trẻ sống trong các giáo xứ rải rác trong các thành phố Bulgaria cơ hội trao đổi các kinh nghiệm phong phú. Trong mùa hè chúng tôi tổ chức các đại hội toàn quốc cho giới trẻ và cho người lớn tuổi. Và cũng có các cuộc họp mặt định kỳ dành cho các gia đình và các nhóm khác, do phong trào Tổ Ấm tổ chức và hướng dẫn. Mục vụ âm thầm của thời kỳ bị bách hại tôn giáo được dần dần thay thế bởi mục vụ tích cực, có khả năng tái lượng định giá trị của sự tự do tôn giáo. Bên trong Giáo Hội chúng tôi tìm cách phối hợp các sinh hoạt ngày càng rộng lớn hơn, liên quan tới các lãnh vực phụng vụ, dạy giáo lý, bác ái, và thăng tiến ơn gọi.

Có Hội đồng quốc gia bề trên các dòng tu nam nữ, khiến cho sự cộng tác giữa các dòng với nhau có thể thực hiện được. Giữa các tín hữu của chúng tôi không có vấn đề liên quan tới giáo thuyết, và các giáo huấn của Giáo Hội một cách chung được chấp nhận. Việc nhận thức các chỉ dẫn của Công Đồng Chung Vatican II liên tục gia tăng. Nhân dịp kỷ niệm 50 năm triệu tập Công Đồng, các tài liệu của Công Đồng và Sách Toát yếu giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo đã được in ấn rộng rãi bằng tiếng Bulgari, trong khi bản dịch Sách Giáo Lý đã có từ trước. Chúng tôi cũng in các sách của Đức Thánh Cha Biển Đức XVI như ”Đức Giêsu thành Nagiarét”. Trong lúc này đây chúng tôi cũng đang dịch Youcat và Tông huấn ”Niềm vui Tin Mừng” của Đức Thánh Cha Phanxicô. Tương quan giữa ba Giám Mục thuộc hai lễ nghi rất là thân tình, và các tín hữu cũng thường xuyên tiếp xúc với nhau một cách phong phú.

Hỏi: Thưa Đức Cha, tín hữu Bulgari đã tiếp nhận tin Đức Thánh Cha Phanxicô được bầu làm Giáo Hoàng như thế nào?

Đáp: Cũng như trên toàn thế giới, tin Đức Thánh Cha Biển Đức XVI từ nhiệm sứ vụ Phêrô đã khiến cho chúng tôi rất đỗi ngạc nhiên. Tin Đức Thánh Cha Phaxicô được bầu làm Giáo Hoàng đã được tín hữu Bulgari tiếp đón với niềm vui và tình con thảo. Tín hữu bị lôi cuốn bởi thái độ yêu thương của ngài đối với các người yếu đuối nhất trong xã hội. Thái độ di chuyển tự nhiên và lòng cảm đảm của ngài đương đầu với các vấn đế khó khăn và quan trọng chinh phục cảm tình của nhiều người. Các Giám Mục Bulgari chúng tôi đặc biệt hạnh phúc đã được mời gặp Đức Thánh Cha Phanxicô sau khi gặp Đức Thánh Cha Biển Đức XVI nhân chuyến viếng thăm Ad limina lần này. Tín hữu của chúng tôi chờ đợi với niềm vui để nghe chúng tôi tường thuật những gì đã sống với Đức Thánh Cha Phanxicô, sau khi từ Roma trở về.

Hỏi: Hiện tình gia đình bên Bulgaria ra sao thưa Đức Cha?

Đáp: Ngày nay hơn bao giờ hết gia đình bị thử thách rất cam go. Chúng tôi là chứng nhân của các tấn kích chống lại gia đình đến từ mọi phía. Người ta tìm xóa bỏ căn cước và phẩm giá của nó, bằng cách hạ thấp nó xuống hàng của một sự chung sống tầm thường. Trong dư luận công cộng tại Bulgaria gia đình vẫn còn được hiểu như sự kết hiệp giữa một người nam và một người nữ. Luật Bulgaria không thừa nhận hôn nhân giữa các người đồng phái, nhưng trào lưu tư tưởng này cũng len vào trong xã hội của chúng tôi, và điều này tạo ra các đòi hỏi mục vụ mới. Nhiều gia đình mang thương tích của nạn ly dị. Tiến trình tục hóa cũng đang trở thành triệt để trong xã hội Bulgari, đặc biệt là giữa các thế hệ mới. Nó đặt vấn đề đối với nền tảng sự bất khả phân ly của hôn nhân, cũng như sự cần thiết phải lập gia đình.

Người ta thực hành phá thai một cách nhẹ dạ, và người ta quảng cáo việc ngừa thai. Có ít cặp vợ chồng sống cuộc sống tính dục theo các giáo huấn của Giáo Hội, và lý do thường là sự dốt nát lớn, cũng bởi vì thiếu một nền giáo dục kitô trong các gia đình, hậu qủa của 50 năm sống dưới chế độ cộng sản vô thần của nhà nước; trong thời gian đó việc dậy dỗ tôn giáo đã bị hạn chế rất nhiều. Người ta cảm thấy một nhu cầu rất lớn của việc đào tạo kitô trong các gia đình. Chúng tôi tìm làm những gì có thể qua các khóa chuẩn bị hôn nhân, tổ chức các khóa học và các cuộc gặp gỡ cho các gia đình, các khóa giáo lý cho người lớn, và các cuộc gặp gỡ đào tạo cho giới trẻ về huấn quyền của Giáo Hội liên quan tới các đề tài này. Năm nay chúng tôi có chương trình tổ chức các đại hội toàn quốc cho các gia đình.

Hỏi: Thưa Đức Cha, tương quan của Giáo Hội cộng giáo với Giáo Hội chính thống tại Bulgaria ra sao?

Đáp: Giáo Hội chính thống chiếm đa số dân tại Bulgaria. Tôi biết Đức tân Thượng Phụ Neofit từ nhiều năm nay. Ngài là một người có lòng tin sâu xa, thông minh và rất thông thái. Chúng tôi đã vui mừng tiếp nhận tin ngài được bầu làm Thượng Phụ cách đây một năm, và tôi nghĩ rằng Giáo Hội chính thống đã làm một sự lựa chọn rất tốt. Các tương quan với ngài chân thành và chúng tôi trân trọng nhau. Mặc dầu vậy, trên bình diện cơ cấu thật đáng cầu mong có nhiều tiếp xúc và liên hệ hơn nữa giữa chúng tôi. Nhưng giữa các giáo dân thì các tiếp xúc và cộng tác rất kết quả.

Hỏi: Giáo Hội có gặp khó khăn không thưa Đức Cha, và Giáo Hội được nâng đỡ như thế nào?

Đáp: Trên bình diện kinh tế, Giáo Hội công giáo tại Bulgaria không nhận được tài trợ nào từ phía nhà nước. Các linh mục sống nhờ các bổng lễ và các của dâng cúng của tín hữu, ngoài trợ cấp hàng năm của Bộ các Giáo Hội Đông Phương và các tổ chức nước ngoài trợ giúp các Giáo Hội nghèo. Nhưng tất cả những nguồn lợi đó thường không đủ cho các nhu cầu cấp thiết, và mọi linh mục phải tự tìm các nguồn lợi khác. Điều này đòi hỏi thời gian và các cố gắng để có thể lo lắng cho các sinh hoạt mục vụ. Hơn nữa, với cuộc khủng hoảng kinh tế tài chánh hiện nay luôn luôn có những người nghèo mới sống tùy thuộc vào sự trợ giúp của Giáo Hội; nhưng rất tiếc là chúng tôi không luôn luôn có thể trợ giúp họ. Caritas Bulgaria có tổ chức vài sinh hoạt phục vụ ổn định như việc phân phát thuốc men miễn phí, các bữa ăn nóng cho hàng chục người nghèo trong các thành phố khác nhau. Trong năm nay cũng có các người tị nạn Siri và từ các nước khác nữa. Tại Sophia chúng tôi có một trạm y tế miễn phí để giúp người nghèo. Bên cạnh tòa chuẩn giáo phận, với sự trợ giúp ”100 dự án” của tổ chức Cor Unum Đồng Tâm của Tòa Thánh, chúng tôi đã thành lập một trung tâm ban ngày cho các bà mẹ độc thân. Chúng tôi cũng có trung tâm ban ngày gọi là ”Truyền Tin” để trợ giúp các người tàn tật. Cũng có các dự án trợ giúp tại gia cho người già, và các chương trình trợ giúp người nghiện xì ke ma túy, người già cả và vô gia cư cũng như cho người tỵ nạn, không phân biệt ai hết. Tuy có các khó khăn tài chánh nghiêm trọng nhưng Giáo Hội vẫn khích lệ dân chúng trợ giúp người nghèo một cách nhưng không.

Hỏi: Thưa Đức Cha, đâu là sự hiện diện của Giáo Hội trong lãnh vực truyền thông và các phương tiện truyền thông nắm vai trò nào trong việc tái truyền giảng Tin Mừng?

Đáp: Ngày nay các phương tiện truyền thông công giáo là các phương tiện quan trọng giúp chu toàn sứ mệnh của Giáo hội. Qua liên mạng Internet có thể thông truyền, rao giảng Tin Mừng, trợ giùp biết bao nhiêu người tiến bước trên con đường hoán cải. Giáo Hội có sự hiện diện tốt trên trang mạng. Các giáo phận và nhiều giáo xứ có một địa chỉ trên trang mạng Internet, nhưng chắc chắn là trang mạng đẹp nhất cũng không thể thay thế được tương quan trực tiếp giữa con người với nhau. Có các blog, các nhóm thân hữu trên Facebook, địa chỉ đưa tin tức về Giáo hội địa phương và Giáo Hội hoàn vũ, và dĩ nhiên là trang mạng của chương trình tiếng Bulgari của đài phát thanh Vatican.

Theo luật lệ hiện hành tại Bulgaria Giáo Hội có quyền có một khoảng không nào đó trên đài truyền hình và trên đài phát thanh trong các ngày lễ. Những lần khác thì Giáo Hội được mời nói lên các ý kiến và nhận xét của mình liên quan tới các vấn đề thời sự, và tham dự vào các cuộc thảo luận bàn tròn và các cuộc phỏng vấn. Tất cả đều là các dịp tốt để phổ biến Tin Mừng và giáo huấn của Giáo Hội. Ngoài ra, khi có các biến cố quan trọng đối với Giáo Hội Hoàn Vũ, các phương tiện truyền thông xã hội tỏ ra quan tâm như biến cố Đức Thánh Cha Biển Đức XVI từ nhiệm, và biến cố bầu Đức Thánh Cha Phanxicô, là người ngày càng thu hút sự chú ý của giới truyền thông, trong nghĩa tích cực. Đại hội do Hàn lậm viện khoa học Bulgari tổ chức nhân kỷ niệm 50 năm kết thúc triều đại giáo hoàng của Đức Gioan XXIII cũng đã gây được tiếng vang. Đức Gioan XXIII đã sống bên Bulgaria 10 năm như là Khâm Sứ Tòa Thánh. Biến cố kỷ niệm 50 ban hành Thông điệp ”Hòa bình dưới thế” của Ngài cũng đã được giới báo chí lưu tâm; và nhân dịp này thông điệp cũng đã được dịch và in bằng tiếng Bulgari. Như Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói: ”các phương tiện truyền thông là một ơn của Thiên Chúa, và khi được sử dụng tốt chúng có thể góp phần rất nhiều vào việc xây dựng Nước Thiên Chúa”.

(RG 12-2-2014)

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Sống đơn sơ thanh đạm và chia sẻ của cải với các anh chị em túng thiếu

Sống đơn sơ thanh đạm và chia sẻ của cải với các anh chị em túng thiếu

Đức Thánh Cha Phanxicô mời gọi mọi người sống đơn sơ thanh đạm và chia sẻ của cải với các anh chị em cần được trợ giúp nhất, đặc biệt trong mùa Chay sắp bắt đầu. Ngài cũng kêu gọi các phe liên hệ tại Ucraine vượt thắng các khó khăn để cùng nhau xây dựng tương lai quốc gia, đồng thời và cầu mong cộng đồng quốc tế hỗ trợ mọi sáng kiến đốithoại và hòa hợp.

Đức Thánh Cha đã đưa ra lời kêu gọi trên đây trong buổi đọc Kinh Truyền Tin với tín hữu tại quảng trường Thánh Phêrô trưa Chúa Nhật hôm qua. Cho dù trời mưa những cũng đã có hơn 40,000 tín hữu và du khách hành hương tham dự buổi đọc Kinh Truyền tin với Đức Thánh Cha.

Trong bài huấn dụ Đức Thánh Cha đã nhắc tới Phúc Âm đề cập tới sự quan phòng của Thiên Chúa, là một trong các sự thật an ủi nhất. Ngài nói: Ngôn sứ Isaia trình bầy nó với hình ảnh tình yêu thương tràn đầy hiền dịu: ”Có phụ nữ nào quên được đứa con thơ của mình hay chẳng thương đứa con mình đã mang nặng đẻ đau? Cho dù nó có quên đi nữa, thì Ta, Ta cũng chẳng quên ngươi bao giờ” (Is 49,15). Thiên Chúa quan phòng yêu thương săn sóc lo lắng cho chúng ta. Thật là đẹp biết bao! Lời mời gọi tin tưởng nơi Thiên Chúa này cũng tìm thấy một văn bản song song trong lời Chúa Giêsu như ghi trong Phúc Âm thánh Mátthêu: ”Các con hãy nhìn xem chim trời, chúng không gieo không gặt cũng không tích trữ trong kho lẫm, thế mà Cha các con trên Trời nuôi chúng… Các con hãy xem các bông huệ mọc ngoài đồng. Chúng không nhọc công, không kéo sợi. Nhưng Thầy bảo cho các con biết ngay cả vua Salmon, dù vinh hoa tột bậc cũng không mặc đẹp bằng một bông hoa ấy” (Mt 6,28-29).

Khi nghĩ tới biết bao nhiêu người sống trong các điều kiện tạm bợ, hay trong bần cùng xúc phạm đến nhân phẩm của họ, các lời này của Chúa Giêsu xem ra trừu tượng, nếu không nói là ảo tượng. Nhưng trên thực tế chúng thời sự hơn bao giờ hết! Chúng nhắc cho chúng ta biết rằng không thể phục vụ hai chủ: Thiên Chúa và tiền của. Đức Thánh Cha giải thích như sau:

Cho tới khi nào mỗi người tìm thu tích cho chính mình, sẽ không có công bằng. Trái lại, nếu chúng ta tín thác nơi sự quan phòng của Thiên Chúa cùng nhau tìm kiếm Nước Người, thì khi đó sẽ không có ai thiếu thốn điều cần thiết dể sống một cách xứng đáng. Một con tim bị xâm chiếm bởi sự khao khát chiếm hữu là một con tim trỗng rỗng Thiên Chúa. Vì vậy Chúa Giêsu đã nhiều lần cảnh cáo người giầu, bởi vì họ có nguy cơ lớn đặt an ninh nơi của cải thế gian này. Trong một con tim bị chiếm hữu bởi giàu sang, thì không có nhiều chỗ cho đức tin. Trái lại, nếu dành chỗ nhất cho Thiên Chúa, thì khi đó tình yêu của Người dẫn đưa tới chỗ chia sẻ các của cải giầu sang, để chúng phục vụ các dự án liên đới và phát triển, như biết bao nhiêu gương sáng cả mới đây nữa trong lịch sử Giáo Hội chứng minh cho thấy.

Tiếp tục bài huấn dụ Đức Thánh Cha nói con đường mà Chúa Giêsu chỉ xem ra có thể ít thực tế đối với tâm thức chung và đối với các vấn đề của cuộc khủng hoảng kinh tế. Nhưng nếu suy nghĩ cho thấu đáo, nó đem chúng ta tới cái thang giá trị đúng đắn. Chúa nói: ”Sự sống chẳng trọng hơn của ăn, và thân xác chẳng trọng hơn áo mặc sao?” (Mt 6,25). Và Đức Thánh Cha rút ra giải pháp cụ thể cho cuộc sống con người như sau:

Để cho không ai phải thiếu bánh ăn, nước uống, áo mặc, nhà ở, việc làm và sức khỏe, tất cả chúng ta cần nhận biết mình là con cái của Thiên Chúa Cha trên Trời, vì thế là anh chị em với nhau, và có cung cách hành xử đúng như con cái Chúa và anh chị em với nhau. Và như thế sự quan phòng của Thiên Chúa đi ngang qua việc chúng ta phục vu tha nhân, sự chia sẻ của chúng ta với người khác. Và khi Thiên Chúa gọi chúng ta ra khỏi đời này, chúng ta chỉ có thể đem theo những gi chúng ta đã chia sẻ. Bởi vì anh chi em biết không? Khăn liệm xác không có túi! Tốt hơn là chia sẻ, bởi vì chúng ta chỉ mang về Trời điều mà chúng ta đã chia sẻ với tha nhân. Tôi đã nhắc lại điều này trong sứ điệp cho Ngày Hòa Bìn Thế giới mùng 1 tháng giêng năm nay: con đường cho hòa bình là tình huynh đệ.

Dưới ánh sáng Lời Chúa của Chúa Nhật hôm nay, chúng ta hãy khẩn nài Đức Trinh Nữ Maria như Mẹ sự Quan Phong của Thiên Chúa. Chúng ta hãy tín thác cho Mẹ cuộc sống của chúng ta, con đường của Giáo Hội và của nhân loại. Đặc biệt chúng ta hãy khẩn nài sự bầu cử của Mẹ để chúng ta tất cả cố gắng sống một kiểu sống đơn sơ thanh đạn, chú ý tới nhu cầu của các anh chị em cần trợ giúp nhất.

Tiếp đến Đức Thánh Cha đã cất Kinh Truyền Tin và ban phép lành tòa thánh cho mọi người.

Sau Kinh Truyền Tin Đức Thánh Cha đã xin mọi người cầu nguyện cho dân nước Ucraine đang trải qua tình trạng tế nhị hiện nay. Như đã biết, sau khi quốc hội Ucraine truất phế tổng thống Yakonovich, người dân vùng Crimea phò Nga đòi hiệp nhất với Nga. Quốc Hội Nga đã bỏ phiếu chấp thuận cho tổng thống Putin gửi binh sĩ Nga sang Crimea. Hoa Kỳ và Liên Hiệp Âu châu đã mạnh mẽ lên án việc can thiệp quân sự của Nga tại Crimea, và coi đó là vi phạm quyền quốc tế; nhưng tổng thống Putin trả lời rằng nước Nga có quyền bảo vệ các lợi lộc của mình trong vùng này. Hội đồng bảo an Liên Hiệp Quốc đã triệu tập phiên hop khẩn và ông tổng thư ký Ban Ki Moon kêu gọi mọi phía bình tình đối thoại để tìm giải pháp. Người ta có cảm tưởng thế giới lại trở về thời kỳ chiến tranh lạnh.

Sau khi chào các nhóm tín hữu đến từ nhiều giáo phận Italia, Đức Thánh Cha nhắc cho mọi người biết Mùa Chay sẽ bắt đầu trong tuần tới này. Nó là con đường dẫn dân Chúa tiến về lễ Phục Sinh, con đường của sám hối, chống lại sự dữ với khí giới là lời cầu nguyện, việc ăn chay và lòng thương xót. Nhân loại cần đến công lý hòa giải, hòa bình, nhưng sẽ chỉ có chúng, khi hết lòng quay trở về với Thiên Chúa là nguồn mạch của chúng. Sau cùng Đức Thánh Cha nói: Chúng ta hãy bước vào mùa Chay trong tinh thần liên đới huynh đệ với tất cả những ai trong các thời gian này đang bị thử thách bởi bất công và xung khắc bạo lực.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Tiền và Nước Trời

Tiền và Nước Trời

Có người đã luận bàn về đồng tiền như sau:

Tiền có thể:

– Mua được cao lương mỹ vị, nhưng không mua được sự ngon miệng

– Mua được thuốc thang đắt giá, nhưng không mua được sức khỏe.

– Mua được chăn êm nệm ấm, nhưng không mua được giấc ngủ ngon lành.

– Mua được nhà cao cửa rộng, nhưng không mua được mái ấm gia đình.

– Mua được trò chơi giải trí, nhưng không mua được sự bình an thanh thản của tâm hồn.

– Mua được sách vở tài liệu, nhưng không mua được sự thông minh, kiến thức.

– Mua được bạn bè, nhưng không mua được tình nghĩa.

– Mua được trái tim, nhưng không mua được tình yêu.

– Mua được thân xác, nhưng không mua được tâm hồn.

– Mua được đời này, nhưng không mua được đời sau.

– Mua được con người, nhưng không mua được Thiên Chúa

– Mua được visa để đi khắp nơi trên thế giới, nhưng không mua được hộ chiếu để vào Nước Trời…

Bạn thân mến! Lời Chúa trong Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay cũng nhắc đến tiền của: “Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi tiền của được” (Mt.6:24)

Đồng tiền là vật có máu “lạnh”. Từ xa xưa ông cha ta đã nói: “Lạnh như tiền!” Tiền còn là bạc. Bạc không chỉ là một loại quí kim, mà còn có nghĩa là bạc bẽo, bạc tình, bạc nghĩa. Vì tiền mà mất cha mẹ, mất vợ chồng, mất anh em bạn bè…

Tiền bạc không ưa thích con người, nhưng con người ưa thích tiền bạc. Dù tiền rách, tiền bẩn, tiền cũ… người ta vẫn dành cho nó một cảm tình đặc biệt. Có ai chê tiền đâu! Từ người già cho tới em bé, ai ai cũng đều thích tiền.

Chúa Giêsu không bài bác tiền của, không phê phán sự giàu sang, cũng không bác bỏ người giàu. Ngài chỉ nhắc nhở về thái độ phải có đối với tiền của và cảnh cáo những người giàu có trong việc sử dụng đồng tiền.

Tiền của tự nó không xấu. Xấu hay tốt là tùy ở nhận thức, thái độ và cách sử dụng của con người. Chúa Giêsu lên án sự ham mê tiền của, đặt tiền của cao hơn Chúa, coi tiền của là mục đích của cuộc sống, đến nỗi dành hết sức lực, thời gian, trí tuệ để chiếm hữu thật nhiều tiền.

Tiền của cần thiết cho cuộc sống. Thế nhưng nó cũng là nguyên nhân cho biết bao băng hoại, tráo trở trong xã hội, đổ vỡ trong gia đình, hư đốn trong bản thân. Khi con người đề cao và bám víu vào tiền của, coi tiền của là vạn năng, là cùng đích của cuộc sống …thì con người sẽ trở thành nô lệ cho tiền của.

Tiền của có thể trở thành phương tiện giúp ta đạt tới đích điểm là Nước Trời, nhưng cũng có nguy cơ đẩy ta xa Chúa, đi tìm kiếm những sự phụ thuộc chóng qua của thế gian. Do đó, điều quan trọng là phải biết sử dụng tiền của như phương tiện để tìm kiếm Nước Trời. “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ khác, Người sẽ thêm cho” (Mt.6:33)

Tâm sự của con chim Sẻ:

Bạn thân mến!

Tôi chỉ là con Sẻ nhỏ. Một con chim thật tầm thường. Đời tôi cũng chẳng có giá trị gì nhiều, nhưng Thiên Chúa đã chăm sóc tôi…

Tôi không có kho lẫm, tôi không bao giờ gieo hạt hay gặt hái, nhưng Thiên Chúa đã ban cho tôi phần của một con chim sẻ, chỉ đủ dùng và không có được một hạt dư…

Tôi biết có nhiều con chim sẻ ở khắp nơi, nhưng khi một đứa trong chúng tôi bị rơi xuống đất, Cha trên trời cũng biết rõ điều ấy…

Dù nhỏ bé, nhưng tôi không bao giờ bị quên lãng – dù yếu đuối, nhưng tôi không bao giờ sợ hãi…Vì có Cha trên trời luôn nâng đỡ chở che …

Tôi bay lượn trong những khu rừng rậm rạp, hay nhẹ nhàng trên những khóm hoa – tôi không cần bản đồ hay la bàn, nhưng không bao giờ tôi lạc lối…

Lời Chúa hôm nay cất tiếng mời gọi: “Hãy nhìn xem chim trời…Cha anh em ở trên trời vẫn lo cho chúng! Anh em không đáng giá hơn các con chim ấy sao?… (Mt.6:26)

Vì thế xin đừng lo lắng! Nhưng hãy đặt tất cả đời ta trong vòng tay yêu thương quan phòng của Cha trên trời, Bạn nhé!

Veritas Radio

Thiên Chúa hay thần tài?

Thiên Chúa hay thần tài?

Trong bài Phúc Âm Mt 6, 24-34 mà chúng ta nghe đọc trong Chúa Nhật 8 Thường Niên năm A, và trong dịp Tết Nguyên Đán, Đức Giêsu dùng ba ví dụ rất nên thơ gợi cảm để chỉ cho chúng ta thấy một sự lo lắng thái quá về đời sống vật chất là vô lý nếu như chúng ta còn tin có Thiên Chúa là Cha chúng ta. Ví dụ thứ nhất: chim trời không gieo, không gặt nhưng chúng vẫn được Cha trên trời nuôi sống. Ví dụ thứ hai: cuộc đời của mỗi người chúng ta có một quảng thời gian nhất định sống ở trần gian này, – điều đó chúng ta không thay đổi được, dù có lo lắng cũng chẳng kéo dài đời mình thêm một vài gang tấc! Và cuối cùng: hoa huệ ngoài đồng không làm lụng, không kéo sợi, thế mà dù vua Sa-lo-mon vinh hoa tột bậc cũng không mặc đẹp bằng nó. Kết luận của ba ví dụ là: nếu như Thiên Chúa quan tâm nuôi sống chim trời và ban áo mặc cho hoa đồng cỏ nội, thì lẽ nào Chúa lại không lo lắng cho con người hơn gấp bội sao? Kết thúc bài giảng, Chúa Giêsu tuyên bố: “Vậy đừng quá lo lắng về ngày mai. Ngày mai cứ để ngày mai lo. Ngày nào có cái khổ của ngày đó”.

Chúng ta đồng ý rằng lời Chúa Giêsu dạy chúng ta hôm nay thật là hấp dẫn. Có gì đáng mong ước hơn là có Cha Trên Trời lo lắng cho ta? Tuy nhiên, càng suy nghĩ và đi sâu vào thực tế, chúng ta càng thấy mọi sự chẳng đơn giản chút nào.

Những lo lắng chính đáng

Con người thời đại ta cũng như mọi thời đại, đều có trăm ngàn nỗi lo, và những nỗi lo chính đáng. Đừng nói gì xa xôi, chỉ nguyên những nhu cầu tối thiểu của cuộc sống đã làm điên đầu nhiều bậc cha mẹ gia đình: lo sao cho có cái ăn, cái mặc, cho căn nhà ở khỏi giột nát khi tới mùa mưa, cho con cái được học hành, cho có thuốc thang khi bệnh tật, cho giá cả đừng tăng vọt, mùa màng không thất thoát… Những nỗi lo như thế phát xuất từ trách nhiệm của mỗi người, đều chính đáng và đẹp lòng Chúa.

Chúa Giêsu không muốn cho chúng ta lười biếng hoặc sống vô trách nhiệm. Chim trời cũng phải vất vả tìm mồi. Có những thứ chim phải bay thật xa mới tới chỗ có thức ăn. Hoa huệ ngoài đồng cũng có khi phải đâm rễ len lỏi giữa sỏi đá để tìm chất nuôi sống. Đàng khác chính Chúa cũng nói rằng: “Ngày nào có cái khó, cái khổ của ngày đó”. Vậy khó nhọc, gian khổ là điều có thực, gắn vào thân phận con người.

Không những Chúa không muốn ta sống lười biếng, vô lo, vô trách nhiệm, mà còn muốn ta phải làm việc để cùng với Người hoàn hiện thế giới này và góp phần vào công cuộc cứu độ thế giới. Ngay lúc vừa mới dựng nên loài người, Thiên Chúa đã ra lệnh cho họ phải canh tác trái đất và làm chủ vạn vật. Trong dụ ngôn về những nén bạc (x. Mt 25, 15-25), Chúa Giêsu đã hỏi mỗi người đã dùng tài năng Chúa ban mà làm lợi cho Người được bao nhiêu, chứ không phải đã chôn giấu nó an toàn như thế nào. Thế thì ta có quyền và có bổn phận phải lo lắng, tính toán, phải có kế hoạch, phải phòng xa. Điều Chúa không chấp nhận là chúng ta lo lắng về đời sống vật chất như thể đó đã là cùng đích của đời sống, là tuyệt đối cho đời mình.

Thiên Chúa hay Thần Tài?

Câu then chốt nhất của bài Phúc Âm hôm nay là: “Tiên vàn hãy lo tìm kiếm Nước Chúa và đời sống công chính như Nguời đòi hỏi, còn các thứ kia (nghĩa là của cải vật chất), Người sẽ thêm cho.” Tiên vàn hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa: đây mới là vấn đề ưu tiên.

Nỗi lo số một của người môn đệ Chúa Giêsu là nước Thiên Chúa. Mọi sự khác cũng cần thiết. Nhưng không được đặt lên trên Nước Thiên Chúa. Phải dành ưu tiên cho Nước Thiên Chúa, rồi mới đến các thứ khác. Đó là trật tự phải tôn trọng. Nhưng đây không phải là vấn đề thời gian sau trước nhưng là vấn đề giá trị mà khi cần phải chọn lựa, ta phải biết đâu là thiết yếu đâu là thứ yếu.

Lời dạy của Chúa Giêsu là hệ trọng. Và nó cũng phù hợp với kinh nghiệm sống của chúng ta. Người ta thường lấy của cải vật chất làm ưu tiên số một và cho rằng của cải giàu sang sẽ giải quyết được mọi vấn đề của xã hội và của con người. Nhưng thực tế luôn luôn chứng minh rằng suy nghĩ và hành động như thế là sai lầm. Xã hội tư bản lấy sự sản xuất của cải hàng hoá dư dật và sự hưởng thụ tự do làm mục tiêu, và bắt mọi sự khác phải phục vụ cho mục tiêu ấy, nên đã rơi vào khủng hoảng về tinh thần, về lý tưởng sống. Và vì mục tiêu ấy, người ta khai thác các tài nguyên thiên nhiên một cách vô độ và ngày nay thiên nhiên quay lại “trả thù” con người, đe dọa cuộc sống trên trái đất. Ở các nước xã hội chủ nghĩa trước đây, theo lý thuyết người ta coi kinh tế là yếu tố quyết định mọi sự khác, và tuy vẫn nói kinh tế phải phục vụ con người, nhưng trên thực tế con người và các giá trị đạo đức bị chà đạp trầm trọng… Sau khi hàng loạt nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu sụp đổ, những nước khác đã quay sang kinh tế thị trường và cũng đang phát triển theo hướng phương Tây, liệu có tránh nổi những tiêu cực gắn liền vào tư bản chủ nghĩa không? Của cải vật chất là ông chủ không dễ gì khuất phục nổi. Tinh thần thường tỏ ra yếu đuối và không hấp dẫn bằng của cải giàu sang. Ở Việt Nam xã hội chủ nghĩa “thời mở cửa”, điều đó cũng đang được chứng minh.

Của cải là cần thiết. Nhưng của cải tự nó không mang lại hạnh phúc cho con người. Nó phải là một phương tiện, một người tôi tớ. Nhưng khốn thay, tên đầy tớ này rất có uy quyền, rất dễ trở thành ông chủ của con người, để con người phục dịch nó với bất cứ giá nào.

“Tiên vàn hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đời sống công chính như Người đòi hỏi”: Sống theo ưu tiên đó, có nghĩa là chúng ta vẫn phải làm việc, phải vất vả, phải lo lắng và biết tiên liệu, nhưng chúng ta sẽ không nô lệ vật chất, sẽ không bán rẻ lương tâm vì đồng tiền bát gạo, sẽ coi trọng con người hơn của cải và đặt các giá trị luân lý đạo đức lên trên các giá trị vật chất.

Sống theo ưu tiên của Nước Thiên Chúa, người Kitô hữu sẽ giữ được sự tự do thanh thoát và bình an ngay giữa những nhiệm vụ nặng nề nhất, vì họ biết có Chúa là Cha yêu thương cùng lo cho họ và với họ, và chỉ có Người mới đem lại cho họ niềm hạnh phúc đích thực mà họ hằng mong ước.

Lm Nguyễn Hồng Giáo


 

“KHÔNG AI CÓ THỂ LÀM TÔI HAI CHỦ”

“KHÔNG AI CÓ THỂ LÀM TÔI HAI CHỦ”

Những ngày vừa qua, bức “Thư Ngỏ” viết ngày 17.2.2014 của ĐGM Giáo Phận Phan Thiết được công bố trên Vietcatholic (x. vietcatholic.net/media/140216PhanThiet.pdf), đã làm xôn xao công luận. “Một linh mục thuộc giáo phận Phan Thiết tự nhận là được Đức Giám Mục gửi qua Mỹ để xin tiền xây dựng Trung Tâm Thánh Mẫu Tàpao”. Nhưng “TGM không Phan Thiết không cử linh mục nào sang Mỹ với nhiệm vụ trên”, nên “xin quý vị vui lòng cảnh giác trước sự việc có dấu hiệu lừa đảo nêu trên”.

Sức mạnh của Tiền Bạc thật là khủng khiếp. Chúa Giêsu đã so sánh nó với một ông chủ có khả năng cạnh tranh với chính Thiên Chúa. “Không ai có thể làm tôi hai chủ… Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi Tiền Của được” (Lc 16, 13). Việc tôn thờ tiền bạc không xứng hợp với việc phụng sự Thiên Chúa. Chúa đã nói trước đó: “Kho tàng của anh ở đâu thì lòng trí anh ở đó”.

Tiền Của luôn luôn là ông chủ xấu nhưng có thể là một người tôi tớ tốt. Nhưng bằng cách nào ta có thể bắt nó làm tôi tớ mình được?

Những lời dạy trên được Chúa Giêsu đưa ra sau dụ ngôn về người quản gia bất lương. Anh này đã biển thủ tiền bạc hoa lợi của chủ. Ông chủ biết được liền bắt anh ta làm phúc trình trước khi sa thải. Anh ta kêu các con nợ đến, đồng loã với họ làm ra những biên lai giả: kẻ mắc nợ chủ 100 thùng dầu ô liu, anh ta bảo viết 50 thùng; người mắc nợ 100 dạ lúa thì anh ta bảo viết lại thành 80. Như thế, các con nợ kia trở thành bạn hữu của tên quản gia vì đã chịu ơn anh ta, bởi thế sau khi bị sa thải anh ta được họ đón về nhà.Tại Palettin vào thời ấy, quản gia có thể cho người khác vay tài sản của chủ. Thường họ không có thù lao, nên khi lập hợp đồng thì hay ghi số lượng trội hơn số lượng cho vay, để lúc hoàn trả, họ giữ lại số dư làm của riêng. Trong dụ ngôn, người quản gia bất chính có thể đã tính toán lại để ông chủ thu đúng số tài sản của ông, và như vậy anh ta hy sinh số dư đáng lẽ thuộc về mình. Người chủ sẽ không bị thiệt hại mà các con nợ lại rất biết ơn anh ta. Chính vì đó mà “ông chủ khen tên quản gia bất lương đó đã hành động khôn khéo” (Lc 16,8).

Từ cách xoay xở mau lẹ của tên quản gia trong một tình huống ngặt nghèo như thế, Chúa Giêsu rút ra bài học: “Hãy dùng tiền của bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền hết bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi ở vĩnh cữu” (Lc 16, 9). Bạn bè đây là ai? Họ là ai mà lại có thể đón người ta vào nơi ở không phải tạm thời nhưng vĩnh cữu?

Muốn trả lời, cần liên kết dụ ngôn “người quản gia” với dụ ngôn “ông nhà giàu và anh Lazarô nghèo khó” (Lc 16). Ông nhà giàu sống ích kỷ trong sự giàu sang của mình, ngày ngày yến tiệc linh đình, mặc cho anh Lazarô nằm chờ chết trước cửa nhà ông ta. Sau khi cả hai chết, ông phú hộ sa hoả ngục, còn anh Lazarô thì được vào thiên đàng. Trong cơn cực hình, ông ta kêu van tổ phụ Abraham can thiệp để Lazarô cứu giúp mình cách nào, nhưng Abraham trả lời rằng số phận hai người như thế là công bằng và dứt khoát rồi, không thể thay đổi được nữa.

Như thế, của cải thường chia cách con người với nhau, nó đã chia cách ông nhà giàu với anh Lazarô khi còn sống, thì khi họ chết rồi, dẫu muốn cũng không còn cách nào nối lại dây liên lạc nữa. Ông ta giàu có như thế mà không biết dùng của cải để làm cho Lazarô nên bạn hữu của mình, để anh đón ông vào nơi hạnh phúc vĩnh cữu.

Tên quản gia bất chính (nhưng khôn khéo) hơn ông ta ở chỗ đã biết dùng “tiền bạc gian dối mà mua lấy bạn bè“, bảo đảm cho tương lai của mình. Phần rỗi đời đời lại không đáng cho ta bỏ công bỏ của ra mà chăm lo hơn bội phần sao? Muốn được cứu rỗi đời đời, hãy có nhiều bạn bè. Bạn bè đó chính là những người nghèo khó mà chúng ta biết phục vụ, biết chia sẽ của cải với họ.

Câu hỏi: “Làm thế nào cho của cải thành tên tôi tớ phục vụ ta?”.

Tin Mừng hôm nay cho câu trả lời.

1. Thiên Chúa làm chủ cuộc đời mình

Chúng ta phải để cho Thiên Chúa làm chủ cuộc đời mình chứ không phải là Tiền Của. Không được để cho của cải đời này trở thành như mục đích của cuộc đời. Nó là một ông chủ xấu, một ông chủ khắc nghiệt, một ông chủ giả dối. Nó làm hư hỏng gia đình, hư hỏng xã hội, hư hỏng con người khi nó được coi như thần tượng, như giá trị cao nhất phải đạt tới bằng mọi cách.

Là ông chủ xấu nhưng tiền của có thể là người đầy tớ tốt và cần thiết.

Chúa Giêsu không lên án tiền bạc. Người không khinh chê của cải đời này. Chính Người đã phải lao động vất vả để sinh sống và nuôi sống cha mẹ mình. Khi ra rao giảng công khai, Người đã phải sống nhờ vào lòng tốt của kẻ khác, của bạn bè. Tiền của cần cho cuộc sống. Nó cần cho ta làm điều thiện và cho xã hội xây dựng các công trình công ích như nhà thương, nhà trường, nhà tình thương, nhà nuôi người già, người tàn tật, trẻ mồ côi, xây dựng đường sá, cầu cống, nhà máy điện, Nhà thờ, nhà giáo lý, nhà mục vụ… Chúng ta cần tới tiền bạc nhưng phải giữ sự thanh thoát đối với nó. Ta sẽ không để cho của cải chóng qua làm chủ ta nếu ta thường xuyên nghiền ngẫm lời cảnh cáo sau đây của Chúa Giêsu: “Được cả thế gian mà thiệt mất mạng sống mình thì nào có lợi chi!” (Mt 16, 26).

Tiền của đời này được giao cho ta quản lý, và ta sẽ phải phúc trình trước mặt Chúa về cách quản lý của mình. Không thể nói: của tôi, tôi muốn làm gì thì làm! Cách thức tốt nhất để quản lý tiền của mà không sợ làm trái ý Chúa, đó là dùng nó để phục vụ, nhất là phục vụï người nghèo. Như thế là chuẩn bị cho mình một chỗ chắc chắn trong Nước Trời.

Người nghèo được Thiên Chúa ưu đãi. Họ là công dân ưu tuyển của Nước Trời. Ta phải làm cho họ trở nên bạn hữu của ta. Giám mục Bossuet nói: “Người giàu là người ngoại kiều đối với Nước Trời, chính người nghèo làm cho họ nhập tịch thành công dân của Nước Trời”. Còn thánh Âu Tinh viết đại ý như sau: Bạn có của cải ư? Tốt lắm. Cha bạn để lại cho bạn một gia tài kếch xù ư? Điều đó là hợp pháp. Nhà bạn chất đầy hoa lợi do công lao khó nhọc bạn làm ra: Tôi chẳng có gì trách bạn cả. Nhưng xin đừng gọi những thứ đó là sự “giàu có”. Gọi chúng như thế là đã bắt đầu yêu thích chúng rồi, và nếu bạn yêu thích chúng, bạn sẽ cùng bị tiêu diệt với chúng. Bạn nên tiêu dùng chúng đi thì hơn, bạn sẽ không bị chết mất; hãy chia sẽ đi, rồi bạn sẽ nên giàu có, hãy gieo rồi bạn sẽ được gặt. Vâng, những của cải kia chỉ là giả dối. Hễ sở hữu chúng là bạn sinh ra lo âu. Nếu là sự giàu có đích thực, ắt chúng phải mang lại cho bạn sự bình an mới phải. Chỉ một mình Thiên Chúa là sự giàu có đích thực của chúng ta! (x. Hai Ông Chủ, Lm Nguyễn Hồng Giáo, Ofm).

2. Tin tưởng vào ơn Quan Phòng của Thiên Chúa

Đấng Tạo Hóa ân cần chăm lo cho các loài thụ tạo đã được khẳng định trong nhiều bản văn Thánh kinh. Chúa Giêsu dùng ba ví dụ rất nên thơ gợi cảm nói về sự quan phòng. Chim trời không gieo, không gặt nhưng chúng vẫn được Cha trên trời nuôi sống; Cuộc đời của mỗi người có một quảng thời gian nhất định sống ở trần gian này, điều đó ta không thay đổi được, dù có lo lắng cũng chẳng kéo dài đời mình thêm một vài gang tấc; hoa huệ ngoài đồng không làm lụng, không kéo sợi, thế mà dù vua Salomon vinh hoa tột bậc cũng không mặc đẹp bằng nó. Kết luận của ba ví dụ là: nếu như Thiên Chúa quan tâm nuôi sống chim trời và ban áo mặc cho hoa đồng cỏ nội, thì lẽ nào Chúa lại không lo lắng cho con người hơn gấp bội sao? Kết thúc bài giảng, Chúa Giêsu tuyên bố: “Vậy đừng quá lo lắng về ngày mai. Ngày mai cứ để ngày mai lo. Ngày nào có cái khổ của ngày đó“. Tin cậy vào Thiên Chúa, chúng ta sẽ được hưởng những quan tâm của Cha trên trời.

3. Tiên vàn hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa.

Của cải vật chất là cần thiết. Nhưng của cải tự nó không mang lại hạnh phúc cho con người. Nó phải là một phương tiện, một người tôi tớ. Nhưng khốn thay, tên đầy tớ này rất có uy quyền, rất dễ trở thành ông chủ của con người, để con người phục dịch nó với bất cứ giá nào. Phải dành ưu tiên cho Nước Thiên Chúa, rồi mới đến các thứ khác. Đó là trật tự phải tôn trọng. Nhưng đây không phải là vấn đề thời gian sau trước nhưng là vấn đề giá trị mà khi cần phải chọn lựa, ta phải biết đâu là thiết yếu đâu là thứ yếu.

Tiên vàn hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đời sống công chính như Người đòi hỏi“. Sống theo ưu tiên đó, chúng ta vẫn phải làm việc, phải vất vả, phải lo lắng và biết tiên liệu, nhưng chúng ta sẽ không nô lệ vật chất, sẽ không bán rẻ lương tâm vì đồng tiền bát gạo, sẽ coi trọng con người hơn của cải và đặt các giá trị luân lý đạo đức lên trên các giá trị vật chất. Tìm kiếm sự công chính, tức là nổ lực nên thánh bằng cách thực thi thánh ý Thiên Chúa. “Còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho”, tức là những nhu cầu vật chất mà Chúa Giêsu đề cập đến như: thức ăn, áo mặc, đây là những nguyên do lo lắng của dân ngoại, nhưng không của con cái Thiên Chúa. Chúa Giêsu không hứa với “những người công chính” là Thiên Chúa sẽ ban cho họ dư đầy của cải trần thế, nhưng đơn giản là đảm bảo cho họ nhu cầu cần thiết hằng ngày. (x. Thiên Chúa hay thần tài, Lm Nguyễn Hồng Giáo, Ofm).

Sống theo ưu tiên của Nước Thiên Chúa, người Kitô hữu sẽ giữ được sự tự do thanh thoát và bình an ngay giữa những nhiệm vụ nặng nề nhất, vì họ biết có Chúa là Cha yêu thương cùng lo cho họ và với họ, và chỉ có Người mới đem lại cho họ niềm hạnh phúc đích thực mà họ hằng mong ước.

LM Giuse Nguyễn Hữu An

CÓ TIN, CÓ KHÁC

CÓ TIN, CÓ KHÁC

“Vai mang bị bạc kè kè. Nói quấy, nói quá chúng nghe rầm rầm”. “Bần cư náo thị vô nhân vấn. Phú tại sơn lâm hữu khách tầm”. “Có tiền mua tiên cũng được”. “Vạn sự phải có cái đầu tiên là tiền đâu?”. “Hạ tầng kiến trúc quyết định thượng tầng kiến trúc”. “Ai nắm hầu bao thì người ấy có quyền quyết định”. “Có thực mới vực được đạo”. “Nhất sĩ nhì nông, hết gạo chạy rông, nhất nông nhì sĩ”… Rất nhiều kiểu nói văn hoa hay dí dỏm của người xưa hay người đời nay như đã minh chứng sức mạnh to lớn, sức cuốn hút khó cưỡng của vật chất, tiền bạc. Chính Chúa Kitô cũng đã từng đặt đối trọng thần tài với Thiên Chúa khi dạy bảo: “Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi Tiền Của được” (Mt 6,24).

Dĩ nhiên, đã là người trong thân phận xác phàm thì không thể coi thường các điều kiện thể lý và vật chất. Pascal đã từng cảnh tỉnh rằng ai muốn sống như thiên thần thì sẽ có nguy cở trở thành loài vật. Để ban ơn cứu độ cho con người, Thiên Chúa đã chọn con đường vào trần gian, mang lấy thân nhục thể. Đã đón nhận xác đất vật hèn thì Con Thiên Chúa làm người chấp nhận bị điều kiện hoá bởi các quy luật sinh hoá lý mà trong đó vai trò của vật chất, tiền bạc không nhỏ chút nào. Ngay từ lúc khởi đầu công cuộc rao giảng tin mừng, chính Người cũng đã bị thần dữ cám dỗ về lãnh vực này (x.Mt 4,1-11).

Vấn đề đặt ra đó là vị trí chủ-tớ trong tương quan giữa con người chúng ta với của cải, tiền bạc. Của cải, tiền bạc vốn là tốt nhưng chúng chỉ tốt khi phục vụ con người, nghĩa là làm tôi con người. Chúng trở thành xấu khi con người đội chúng trên đầu trên cổ, xem chúng như những vị thần toàn năng. Rất nhiều câu ngạn ngữ nói đến ý tưởng này, chẳng hạn như “tiền bạc là tên đầy tớ tốt, nhưng là ông chủ tồi”… Chúng ta có thể nói rằng xưa lẫn nay người ta đều đồng thuận về chân lý này nghĩa là phải biết làm chủ tiền bạc, của cải. Thế nhưng trong thực tế thì dường như ngược lại. Chuyện để cho của cải, tiền bạc lôi kéo mình đến chỗ không hay, điều khiển mình làm những sự chẳng nên là chuyện không hiếm. Một thực tế nữa đó là những người thường lên tiếng khuyên dạy người ta cách thế làm chủ tiền của theo kiểu luân lý hay nói nôm na là dạy đời thì thường là những người đang sung túc, đủ đầy tiền của, không phải gánh chịu cảnh bán mặt cho đất, bán lưng cho trời ngày hai buổi, để kiếm cái ăn, cái mặc cho mình và gia đình. Chính vì thế mà biết bao văn chương chữ nghĩa về đề tài bạc tiền thoặt nghe rất dễ nhận nhưng chẳng làm thay đổi người nghe. Dòng đời xô bồ vẫn cứ chảy. Ma lực của đồng tiền vẫn cứ ngự trị cách này cách khác. Làm sao để đứng vững trước dòng xoáy của các nhu cầu cơm áo gạo tiền cũng như các phương tiện để sinh tồn và phát triển? Chúa Kitô cho chúng ta chiếc chìa khoá căn bản đó là lòng tin.

Đức tin tiên vàn là ân ban của Thiên Chúa. Đức tin cũng là sự đáp trả của con người trong tự do và hiểu biết. Chúa Kitô mời gọi chúng ta dùng trí khôn để suy xét, cân nhắc và chọn lựa giữa những điều hơn kém. Với trí khôn bình thường, người ta dễ dàng nhận ra phần hơn kém giữa mạng sống và của ăn, giữa thân xác và áo quần. Thế mà vẫn có đó nhiều người vì cơm áo mà đã phải thiệt thân. Lưới đã rách thì cố tìm mấy viên chì cũng chẳng được ích gì. Từ dữ kiện đời thường Chúa Kitô mời gọi chúng ta phân định phần thiệt hơn giữa sự sống đời này với sự sống đời đời, đồng thời mời gọi chúng ta hướng cái nhìn lên Đấng Toàn năng chí ái, Đấng đã cho chúng ta từ hư vô hiện hữu ở đời này.

Cần xác định rằng không một ai trên trần gian này tự quyết định hay phải trả một giá nào cho việc làm người, chào đời của bản thân. Không một ai tự mình làm người nhưng là được dựng nên, được tạo thành. Người có niềm tin nhìn nhận việc làm người của mình do Đấng toàn năng. Cách riêng Kitô hữu tin nhận Đấng Toàn Năng cũng là Người Cha chí ái. Vì yêu thương nên Thiên Chúa đã cho tôi làm người, chào đời. Không bao giờ Thiên Chúa bỏ rơi chúng ta. Chẳng có người mẹ nào quên được đứa con mình mang nặng đẻ đau. Cho dù thỉnh thoảng có một đôi người mẹ trần gian vô tâm với con của mình thì Thiên Chúa chẳng bao giờ bỏ quên chúng ta (x.Is 49,14-15). Tác giả Thánh Vịnh luận lý rằng nếu Thiên Chúa ghét bỏ bất cứ loài nào thì Người đã không dựng nên nó.

Chúa Kitô mời gọi chúng ta hãy nhìn xem hoa cỏ, chim trời để vững tin vào Thiên Chúa, Đấng luôn yêu thương, chăm sóc mọi loài, nhất là loài người. Có được niềm tin này thì Kitô hữu cho dù vẫn phải gắng công kiếm tìm sinh kế cho bản thân và tha nhân nhưng không quá “lo lắng” theo kiểu người chưa hoặc không nhận biết Thiên Chúa. Vẫn nỗ lực lao tác kiếm tìm của cải vật chất nhưng chúng ta phải biết sử dụng chúng để phục vụ sự sống, để phát triển tình yêu. Đây là nội hàm lời dạy của Chúa Kitô: “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người…” (Mt 6,33).

Chúng ta ra sức kiếm tìm vật chất, tiền của để làm gì? Trả lời rốt ráo câu hỏi trên theo ánh sáng mạc khải thì chúng ta sẽ biết cách kiếm tìm của cải đẹp lòng Thiên Chúa. Thử hỏi rằng đã có nét khác biệt nào giữa Kitô hữu và bà con lương dân hay người khác đạo trong cách thế kiếm tìm vật chất, của tiền cũng như cách thế sử dụng chúng? Thiết nghĩ đây là một cách thế biểu lộ niềm tin mang tính khả tín và cũng là một cách thế rao giảng tin mừng hữu hiệu ngay giữa môi trường sống của Kitô hữu chúng ta. Và sẽ không thừa khi đề cập đến một hiện thực đó là đã có nhiều anh em lương dân hay bà con khác đạo xa lánh, từ chối ánh sáng tin mừng chỉ vì các gương xấu của Kitô hữu trong vấn đề kiếm tìm và sử dụng của cải, tiền bạc.

Dùng niềm tin để biện minh cho lối sống thì ít thuyết phục hơn là dùng chính cuộc sống để minh chứng cho niềm tin.

Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa

Đức Thánh Cha kêu gọi Giáo Hội Mỹ la tinh quan tâm đến giới trẻ

Đức Thánh Cha kêu gọi Giáo Hội Mỹ la tinh quan tâm đến giới trẻ

VATICAN. ĐTC Phanxicô kêu gọi Giáo Hội tại Mỹ châu la tinh đặc biệt quan tâm tiếp đón, lắng nghe, săn sóc và mời gọi giới trẻ theo Chúa Kitô.

Ngài đưa ra lời kêu gọi trên đây trong buổi tiếp kiến sáng ngày 28-2-2014, dành cho 45 HY, GM và chuyên gia cố vấn thuộc Ủy ban Tòa Thánh về Mỹ châu la tinh, vừa kết thúc khóa họp toàn thể kéo dài 4 ngày tại Vatican (25-28.2.2014) dưới quyền chủ tọa của ĐHY Chủ tịch Marc Ouellet, người Canada, cũng là Tổng trưởng Bộ GM.

Chủ đề khóa họp là ”Sự cấp thiết về giáo dục và thông truyền đức tin cho giới trẻ Mỹ châu la tinh”.

Lên tiếng trong buổi tiếp kiến, ĐTC đã dựa vào trình thuật Tin Mừng về cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và chàng thanh niên giàu có (Xc Lc 18,18-23) và quảng diễn 3 thái độ của Chúa Giêsu mà Giáo Hội cần noi theo:

– Trước tiên là ”đón nhận, một thái độ đi trước mọi việc giảng huấn và sứ vụ tông đồ. Chúa Giêsu yêu thương và đón nhận chàng thanh niên, đặt mình trong hoàn cảnh của mỗi người, kể cả những người chối bỏ Ngài.”

ĐTC nói: ”Đó cũng phải là thái độ của Giáo Hội: Gần gũi người trẻ trong mọi môi trường cuộc sống như học đường, gia đình, nơi làm việc.. quan tâm đến những nhu cầu và khát vọng của người trẻ, không phải về mặt vật chất mà thôi. Rất nhiều người trẻ đang gặp những vấn đề trầm trọng.. Chúa yêu cầu chúng ta đừng bỏ rơi người trẻ,.. họ đang cần được cảm thấy được đề cao giá trị trong phẩm giá, được yêu thương và cảm thông”.

– Tiếp đến, ”Chúa Giêsu đối thoại chân thành và thân mật với chàng thanh niên. Lắng nghe những lo âu của anh ta và giải thích dưới ánh sáng Kinh Thánh. Chúa Giêsu không lên án, không có thành kiến. Giáo Hội cũng phải làm sao giúp người trẻ cảm thấy Giáo Hội là nhà của họ; không phải chỉ mở cửa mà thôi, nhưng còn phải ra đi tìm kiếm người trẻ.. Giáo Hội là mẹ và không thể dửng dưng lãnh đạm, nhưng biết những lo lắng của họ và nâng họ lên con tim của Thiên Chúa”.

– Sau cùng Chúa Giêsu mời gọi chàng thanh niên đi theo Ngài: Anh hãy bán mọi của cải.. và đến đây theo Thầy” (Xc Lc 18,22).

ĐTC nói với các HY và GM rằng: ”Những lời này không mất tính chất thời sự. Người trẻ cần được nghe những lời ấy từ chúng ta. Họ cần được nghe rằng Chúa Kitô không phải là một nhân vật tiểu thuyết, nhưng là một nhân vật sống động… Nếu chúng ta chỉ hài lòng với việc mang lại những an ủi phàm nhân cho người trẻ, thì chúng ta đánh lừa họ. Điều quan trọng là chúng ta cống hiến cho người trẻ điều tốt đẹp nhất mà chúng ta có, đó là Chúa Kitô, Tin Mừng của Người, cùng với một chân trời mới, giúp người trẻ đương đầu với cuộc sống phù hợp với niềm tin, sâu xa và nhìn cao trông rộng”.

Và ĐTC kết luận rằng: ”Giáo Hội tại Mỹ châu la tinh không thể đánh mất kho tàng giới trẻ, với tất cả những tiềm năng của họ, để giúp xã hội tăng trường, với những khát vọng cao cả là họp thành một đại gia đình những người anh chị em được hòa giải trong tình thương”.

Trong 4 ngày họp, các HY và GM thành viên của Ủy ban cũng bàn về ”ý nghĩa triều đại Giáo Hoàng của Đức Phanxicô đối với Mỹ châu la tinh: những đòi hỏi và trách nhiệm”, ”Thực tại giới trẻ tại Mỹ châu la tinh”, tương quan giữa các thế hệ trẻ và chính trị, trong đó có vai trò giáo dục của Giáo Hội dành cho người trẻ về việc xây dựng hòa bình và công lý.

Trong bối cảnh trên đây, các thành viên cũng kiểm điểm thành quả của Ngày Quốc Tế giới trẻ hồi cuối tháng 7 năm 2013 tại Rio de Janeiro bên Brazil, với sự hiện diện của ĐTC. (SD 28-2-2014)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Đức Thánh Cha gặp gỡ 60 Giám Mục bạn Phong trào Focolare

Đức Thánh Cha gặp gỡ 60 Giám Mục bạn Phong trào Focolare

VATICAN. Trong buổi tiếp kiến sáng ngày 27-2-2014, dành cho các GM bạn của Phong trào Focolare (Tổ Ấm), ĐTC đề cao linh đạo hiệp thông như một yếu tố cơ bản trong mọi nỗ lực loan báo Tin Mừng.

60 GM đến từ 4 châu lục đang tham dự cuộc gặp gỡ lần thứ 37 từ ngày 24 đến 28-2-2014 tại trung tâm của Phong trào Tổ Ấm ở Castel Gandolfo về đề tài ”đặc tính hỗ tương của tình yêu thương giữa các môn đệ Chúa Kitô”.
Lên tiếng trong buổi tiếp kiến, ĐTC nhận xét rằng: ”Xã hội ngày nay rất cần chứng tá về một lối sống biểu lộ sự mới mẻ mà Chúa Giêsu ban cho chúng ta, đó là anh chị em yêu thương nhau, mặc dù có những khác biệt về tính tình, gốc gác, tuổi tác.. Chứng tá này làm nảy sinh ước muốn được tham gia vào biểu tượng cao cả là Giáo Hội.”
ĐTC giải thích rằng: ”Khi một người nhận thấy sự yêu thương nhau giữa các môn đệ Chúa Kitô là điều có thể và có khả năng biến đổi chất lượng quan hệ giữa con người với nhau, thì họ cảm thấy được kêu gọi khám phá, hoặc tái khám phá Chúa Kitô, cởi mở đối với cuộc gặp gỡ với Chúa hằng sống và đang hoạt động, họ cũng được thúc đẩy ra khỏi chính mình để đến gặp tha nhân và phổ biến niềm hy vọng họ đã nhận được”.

ĐTC cũng nhắc lại lời Đức Chân Phước Giáo Hoàng Gioan Phaolô 2 trong Tông thư ”Ngàn Năm mới đang đến” (Novo millennio ineunte) kêu gọi biến Giáo Hội thành nhà và trường dạy hiệp thông, và ngài gọi đây là một thách đố lớn chúng ta cần đương đầu nếu muốn trung thành với ý định của Thiên Chúa và đáp ứng những mong đợi sâu xa của thế giới.

ĐTC Phanxicô khẳng định rằng ”Biến Giáo Hội thành nhà và trường dạy hiệp thông” thực là một điều cơ bản để mọi nỗ lực loan báo Tin Mừng được hữu hiệu, vì nó biểu lộ ước muốn sâu xa của Chúa Cha, đó là mọi con cái Chúa sống với nhau như anh chị em, và biểu lộ ý muốn thành tâm của Chúa Kitô: ”Ước gì tất cả chúng được nên một” (Ga 17,21).

Trong 4 ngày gặp gỡ, các GM trao đổi với nhau qua hai cuộc thảo luận bàn tròn:

– Thứ I về đề tài: ”Những đường hướng Giáo Hội nổi bật trong năm đầu tiên của ĐGH Phanxicô”. Hai vị phát biểu gợi ý là ĐHY João Braz de Aviz, người Brazil, Tổng trưởng Bộ các dòng tu, và Đức TGM Vincenzo Zani, Tổng thư ký Bộ giáo dục Công Giáo.

– Thứ II về đề tài: ”Đặc tính công nghị (sinodalità) ngày nay, dưới ánh sáng giáo huấn và thực hành của ĐGH Phanxicô”. Trong số các vị trình bày gợi ý trong cuộc thảo luận này có ĐHY Kurt Koch, người Thụy Sĩ, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh hiệp nhất các tín hữu Kitô, và hai GM khác.

Hai buổi chiều 25 và 26-2-2014, các GM, theo các vùng địa lý, môi trường xã hội và tôn giáo khác nhau, đã trình bày những chứng từ bản thân (SD 27-2-2014)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio
 

Bí tích Xức Dầu Bệnh Nhân cho phép chúng ta sờ mó được lòng xót thương của Thiên Chúa đối với con người

Bí tích Xức Dầu Bệnh Nhân cho phép chúng ta sờ mó được lòng xót thương của Thiên Chúa đối với con người

Ngay từ thời các Tông Đồ Giáo Hội đã có thói quen ban bí tích Xức Dầu và cầu nguyện cho các bệnh nhân. Vị linh mục và các người có mặt đại diện cho toàn cộng đoàn kitô tụ tập chung quanh người bệnh và các thân nhân của họ để cầu nguyện cho họ, dưỡng nuôi đức tin và đức cậy của họ trong tình huynh đệ liên đới. Và chính Chúa Giêsu cầm tay chúng ta và nhắc nhở chúng ta rằng cả sự dữ và cái chết cũng không bao giờ có thể tách rời chúng ta ra khỏi Ngài.

Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói như trên trong buổi tiếp kiến chung hơn 40,000 tín hữu và du khách hành hương năm châu sáng thứ tư 26-2-2014 tại quảng trường thánh Phêrô. Chào mọi người ngài ca ngợi tín hữu can đảm, vì tuy tiên báo thời tiết cho biết trời mưa, nhưng họ vẫn đến tham dự buổi tiếp kiến đông đảo. Thật ra, sáng thứ tư trời tạnh ráo và có chút nắng ấm. Mở đầu bài huấn dụ Đức Thánh nói:

Anh chi em thân mến, hôm nay tôi muốn nói với anh chị em về bí tích Xức Dầu Bệnh Nhân, là bí tích cho phép chúng ta sờ mó được với đôi bàn tay lòng xót thương của Thiên Chúa đối với con người. Trong qúa khứ nó được gọi là ”Phép xức dầu tột cùng”, vì nó được hiểu như sự củng cố tinh thần trong giờ chết cận kề. Nhưng nói tới bí tích ”Xức dầu các bệnh nhân” giúp chúng ta trải rộng cái nhìn trên kinh nghiệm của tật bệnh và khổ đau, trong chân trời lòng xót thương của Thiên Chúa.

Có một hình ảnh kinh thánh diễn tả tất cả mầu nhiệm tỏa thoát ra từ bí tích Xức Dầu cho các bệnh nhân sự sâu thẳm của nó: đó là dụ ngôn người Samaritano nhân hậu, trong Phúc âm thánh Luca (Lc 10,30-35).

Mỗi lần chúng ta cử hành Bí tích này chính Chúa Giêsu, trong con người của vị linh mục, tới gần người khổ đau, người bệnh nặng hay người già cả. Dụ ngôn nói rằng người Samaritano nhân hậu săn sóc người khỗ đau bằng cách đổ dầu và rượu trên các vết thương của ông. Dầu khiến chúng ta nghĩ tới dầu được Giám Mục làm phép hằng năm trong Lễ Dầu ngày Thứ Năm Tuần Thánh, để xức cho các bệnh nhân. Trái lại, rượu là dấu chỉ của tình yêu thương và ơn thánh của Chúa Kitô, nảy sinh từ ơn sự sống Người ban cho chúng ta, và diễn tả tất cả sự phong phú của chúng trong cuộc sống bí tích của Giáo Hội.

Sau cùng, người khổ đau được tín thác cho chủ quán trọ, để ông có thể tiếp tục săn sóc cho mgười đó, mà không chú ý gì tới các chi phí. Vậy ai là chủ quản trọ? Đó là Giáo Hội, là cộng đoàn kitô, là chúng ta, trong thân xác và trong tinh thần, để chúng ta có thể tiếp tục đổ trên họ tất cả lòng xót thương và ơn cứu độ của Chúa một cách vô chừng mực.

Tiếp tục bài huấn dụ về bí tích Xức Dầu Bệnh Nhân, Đức Thánh Cha nói: lệnh truyền ấy được nêu bật một cách rõ rằng và chính xác trong thư của thánh Giacôbê, trong đó người dặn dò các tín hữu: ”Ai đau yếu thì hãy mời các kỳ mục của Hội Thánh đến; họ sẽ cầu nguyện cho người ấy sau khi xức dầu nhân danh Chúa. Và lời cầu nguyện được làm với lòng tin sẽ cứu người bệnh: Chúa sẽ nâng người ấy dậy; và nếu người ấy đã phạm tội, thì sẽ được Chúa thứ tha” (Gc 5,14-15). Đức Thánh Cha giải thích thêm như sau:

Như vậy, đây là một thực hành đã có từ thời các Tông Đồ. Thật thế, Chúa Giêsu đã dậy các môn đệ đặc biệt có lòng yêu thương các bệnh nhân và những người đau khổ như Ngài, và đã thông truyền cho họ khả năng và nhiệm vụ tiếp tục ban phát nhân danh Ngài và theo con tim của Ngài, sự xoa dịu và bình an, qua ơn thánh đặc biệt của Bí tích này. Tuy nhiên, điều này không được khiến cho chúng ta rơi vào chỗ tìm kiếm phép lạ một cách ám ảnh, hay rơi vào yêu sách có thể luôn luôn được chữa lành. Nhưng nó là sự gần gũi chắc chắn của Chúa Giêsu đối với người bệnh, cả đối với người già, bởi vì mỗi người già, mỗi người qúa 65 tuổi đều có thể nhận bí tích này: đó chính là Chúa Giêsu đến gần chúng ta. Nhưng khi một người bệnh nghĩ: ”Mình hãy mời linh mục đến”, thì người ta bàn lui bàn tới: – ” Không, không, đừng, vì ổng đem đến cái không may, thôi đừng gọi nữa”, hay: ”Như thế người bệnh sẽ hoảng sợ”. Tại sao vây? Tại vì người ta nghĩ rằng, khi có người đau và linh mục đến thì sau linh mục là nhà hòm đến: đâu có thật như vậy!

Vị linh mục đến để trợ giúp bệnh nhân hay người già: vì thế thật là quan trọng việc linh mục thăm viếng các bệnh nhân. Gọi linh mục đến để ngài xức dầu và chúc lành cho người bệnh chứ. Bởi vì Chúa Giêsu đến gần để nâng bệnh nhân dậy, ban cho họ sức mạnh, niềm hy vọng và trợ giúp họ. Và cũng để tha tội cho họ nữa. Đây là điều rất đẹp! Và xin anh chị em đừng nghĩ đó là điều cấm kị.

Bởi vì vấn đề đó là càng ngày người ta càng ít xin có thể cử hành Bí tích Xức Dầu Bệnh Nhân hơn. Lý do chính là ở chỗ trong biết bao gia đình Kitô, do ảnh hưởng của nền văn hóa và sự nhậy cảm ngày nay, người ta đi tới chỗ coi sự khổ đau và chính cái chết như là một điều cấm kị, như cái gì cần phải che dấu và nói đến càng ít càng tốt. Có đúng thật là sự khổ đau, bệnh tật và chính cái chết vẫn là một mầu nhiệm trong nhiều khía cạnh của chúng; nó vượt cao hơn chúng ta và trước nó các lời nói giảm đi. Đó cũng là điều cảm nhận được trong lễ nghi Xức Dầu, trong đó với một kiểu rất đơn giản và kính trọng người ta nói rằng: ”Vị linh mục đặt tay trên thân thể người bệnh, mà không nói gì”.

Anh chị em thân mến, thật là đẹp khi biết rằng trong lúc khổ đau và bệnh tật, chúng ta không cô đơn: thật ra, vị linh mục và những người hiện diện trong lễ nghi Xức Dầu Bệnh Nhân đại diện cho toàn cộng đoàn kitô, như là một thân mình duy nhất, quây quần chung quanh người đau khổ và các thân nhân của họ, dưỡng nuôi trong họ đức tin và đức cây, bằng cách nâng đỡ họ với lời cầu nguyện và hơi ấm huynh đệ. Nhưng sự ủi an lớn lao nhất đến từ sự kiện chính Chúa Giêsu hiện diện trong bí tích cầm tay chúng ta, vuốt ve chúng ta như Người đã làm với các bệnh nhân xưa kia. Người nhắc nhớ chúng ta rằng chúng ta thuộc về Người và không gì, kể cả sự dữ và cái chết – sẽ có thể tách rời chúng ta ra khỏi Người.

Chúng ta hãy có thói quen mời linh mục đến xức dầu cho các bệnh nhân – tôi không nói tới người bị cảm cúm ba bốn ngày là hết – nhưng khi có bệnh nặng – và cho cả các người già nữa, xin linh mục đến ban bí tích này cho họ, ban cho họ sự củng cố và sức mạnh của Chúa Giêsu để họ tiến bước.

Chào tín hữu các đoàn hành hương đến từ nhiều nước tây âu, bắc Mỹ và châu Mỹ Latinh, Đức Thánh Cha khuyến khích họ đừng bao giờ sợ hãi mời các linh mục đến ban bí tích Xức Dầu cho các thân nhân bị bệnh, vì đó là phương thế Thiên Chúa dùng để ban ơn thánh cho các bệnh nhân.

Cũng như thường lệ Đức Thánh Cha đã dành thời giờ chào và vuốt ve an ủi hàng chục bệnh nhân lớn nhỏ ngồi trên xe lăn, trước khi bắt tay và nói chuyện với những người được đừng hai bên khán đài và các cặp vợ chồng mới cưới. Ngài thường nói chuyện và trao đổi lâu với họ. Cặp nào cũng muốn ôm hôn Đức Thánh Cha, và dĩ nhiên là họ có nhiều hìmh rất đẹp với ngài.

Buổi tiếp kiến đã kết thức với Kinh Lạy Cha và phép lành tòa thánh Đức Thánh Cha ban cho mọi người.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Giới thiệu nội dung thư Đức Thánh Cha Phanxicô gửi các gia đình

Giới thiệu nội dung thư Đức Thánh Cha Phanxicô gửi các gia đình

Lúc 12 giờ trưa ngày 25 tháng 2-2014 Đức Tổng Giám Mục Vincenzo Paglia, Chủ tịch Hội Đồng Tòa Thánh về Gia Đình, đã mở cuộc họp báo giới thiệu thư Đức Thánh Cha Phanxicô gửi cho các gia đình. Ngài nói với hàng chục nhà báo hiện diện trong Phòng Báo Chí Tòa Thánh rằng hơn bao giờ hết trong các tháng qua gia đình đã ở trong tâm trí của Giáo Hội. Bằng chứng là các lời nhắn nhủ dặn dò của Đức Thánh Cha Phanxicô về gia đình trong năm đầu tiên triều đại của người; cuộc hành hương của các gia đình trong Năm Đức Tin; cuộc gặp gỡ của Đức Thánh Cha với các đôi bạn trẻ đã đính hôn trong ngày lễ thánh Valentino; gia đình và hôn nhân trong việc cứu xét của Công Nghị các Hồng Y; việc chuẩn bị và cử hành Thượng Hội Đồng Giám Mục Ngoại Thường sắp tới trong năm 2014 về đề tài ”Các thách đố mục vụ về các gia đình trong bối cảnh của việc loan báo Tin Mừng”; Ngày Quốc Tế các Gia Đình tại Philadelphia vào tháng 9 năm 2015; Thượng Hội Đồng Giám Mục bình thường vào tháng 10 năm 2015: các biến cố này trong các năm qua được nói từ con tim của Giáo Hội và đánh động sâu xa con tim của gia đình nhân loại và và gia đình kitô.

Với bức thư gửi cho các gia đình trên thế giới này, Đức Thánh Cha Phanxicô muốn lôi cuốn gia đình vào trong lộ trình Thượng Hội Đồng Giám Mục Thế Giới, một cuộc hành hương, mà hình ảnh lễ Dâng Chúa Giêsu vào Đền Thờ gợi lên với hiệu qủa đặc biệt. Kiểu tham dự đầu tiên vào lộ trình này là lời cầu nguyện. Các gia đình không chỉ là đối tượng của sự chú ý, mà cũng là chủ thể của cuộc hành hương này nữa, xét rằng các gia đình là thành phần đa số của Giáo Hội và được ghi dấu bởi bí tích Hôn Phối. Đức Thánh Cha nhìn các gia đình với lòng biết ơn của người nhận ra công trình, mà chính Thiên Chúa hoàn thành qua tình yêu của người nam và người nữ, của các cha mẹ, con cái, anh chị em, của các ông bà và cháu chắt.

Chúng ta không thể quên rằng sự giãi tỏa của Kitô giáo thời tiên khởi đã xảy ra qua mạng lưới của các gia đình. Đây cũng là một bài học lớn cho thời đại chúng ta, đang khẩn nài một mùa truyền giáo mới của việc rao giảng Tin Mừng.

Tiếp tục buổi họp báo giới thiệu thư Đức Thánh Cha gửi cho các gia đình, Đức Cha Paglia nói: Đức Thánh Cha xin các gia đình kitô cảm nhận được trách nhiệm sứ mệnh của họ trong thời đại hỗn loạn và âu lo ngày nay. Ngài xin sự trợ giúp của họ. Nếu không có các gia đình, lời Chúa Giêsu, lời Giáo Hội, lời Đức Giáo Hoàng nói về tình yêu phu thê có khả năng rộng mở cho tình yêu hiệp thông của Thiên Chúa đối với mọi người sẽ trừu tượng, ngập ngừng và vô hiệu. Nhưng cảm tạ Chúa, các gia đình hiện hữu, và sự hiện diện của chúng sinh động. Vì thế thật là ý nghĩa, các Chủ chăn và các Gia đình sống thời điểm này, đồng tâm nhất trí trong lời cầu nguyện, như trong Nhà tiệc ly tinh thần quy tụ toàn thế giới, chờ đợi Thần Khí dấy lên một mùa Hiện Xuống mới. Trong khi thôi thúc các gia đình cầu nguyện, xem ra Đức Thánh Cha cũng nói với tất cả mọi gia đình Kitô rằng: ”Bức thư của chúng tôi chính là anh chị em” (2 Cr 3,2).

Thật vậy, ai có thể nói về ơn cao trọng là hôn nhân và gia đình đối với nhân loại hơn là các gia đình tín hữu? Ai có thể nói – và không chỉ bằng lời – rằng gia đình đâm rễ sâu trong hôn nhân là một thiện ích không tài nào so sánh được, cần phải giữ gìn cẩn thận? Qua các lời đơn sơ này Đức Thánh Cha gợi ý rằng chứng tá xinh đẹp của các gia đình tín hữu qủa thật là một bức thư ”viết trong con tim”, để cho mọi người đọc, để đánh động trong sâu thẳm con tim của nhiều người.

Thật thế, Đức Thánh Cha thường nói về gia đình trong các bài giảng và các suy tư của ngài. Ngài ý thức được các khó khăn mà người trẻ ngày nay gặp phải. Cuộc khủng hoảng kinh tế, văn hóa, đức tin, và nói cho cùng đó là cuộc khủng hoảng của chính bản vị con người nữa, không kháng cự lại sức mạnh của các khó khăn. Con người ước muốn thực hiện chính mình trong cuộc sống, thành lập một cộng đoàn và không khép kín trong chính mình. Nhưng nó gặp sức mạnh nền văn hóa của sự tạm bợ, nỗi sợ hãi lãnh trách nhiệm trong cuộc sống. Sự kiện này cũng trùng hợp với một cuộc khủng hoảng của hàng lãnh đạo chính trị, với sự xa cách gia tăng giữa dân nghèo và tầng lớp ưu việt, khép kín trong các lợi lộc riêng tư của họ, và đã đánh mất đi ý thức về trách nhiệm đối với xã hội dân sự. Thiếu một đường lối chính trị nâng đỡ gia đình.

Nhiều người muốn lập gia đình, nhưng sợ không có công ăn việc làm và nhà ở. Họ sợ phải lấy một quyết định suốt đời, vì mọi sự chung quanh đều bay biến. Rồi lại còn có áp lực của các nhóm không chấp nhận một quan điểm kinh thánh về phẩm giá con người nam nữ, được tạo dựng nên giống hình của Thiên Chúa, và có ơn gọi cộng tác vào việc vun trồng canh giữ trái đất. Họ tạo ra một nền văn hóa khép kín trong chủ thuyết cá nhân thuần túy. Đồng thời, có làn sóng tục hóa gia tăng khiến cho một số kitô hữu chạy theo của cải vật chất ngày càng nhiều hơn, để hưởng lạc thú, tham vọng, tham gia vào quyền bính gây hại cho tha nhân.

Chính trong bối cảnh này Đức Thánh Cha Phanxicô đã quyết định triệu tập Thượng Hội Đồng Giám Mục ngoại thường vào tháng 10 năm 2014 để tìm hiểu tình hình của gia đình trong các bối cảnh văn hóa và xã hội khác nhau; và Thượng Hội Đồng Giám Mục bình thường năm 2015 để gợi ý cho Đức Thánh Cha phối hợp một công tác mục vụ gia đình cho Giáo Hội hoàn vũ. Đó cũng chính là đề tài mà ngài đã thảo luận với Công Nghị Hồng Y cách đây mấy hôm. Trong đó ngài đã tái khẳng định gia đình là tế bào nền tảng của xã hội loài người, ngay từ đầu đã được Thiên Chúa Tạo Hóa dựng nên và chúc phúc, để người nam và người nữ sinh con cái đông đúc trên mặt đất. Như thế, gia đình diễn tả phản ảnh của Thiên Chúa, Duy Nhất, Ba Ngôi.

Đức Thánh Cha cũng nêu bật vẻ đẹp và sự cao cả của gia đình và hôn nhân, một thực tại đơn sơ nhưng phong phú, bao gồm niềm vui và hy vọng, nhọc mệt và khỗ đau, như toàn cuộc sống con người. Đức Thánh Cha cũng nhấn mạnh sự cần thiết phải đào sâu nền thần học về gia đình và mục vụ gia đình trong các điều kiện sống ngày nay. Ngày nay gia đình bị khinh rẻ và bị đối xử tồi tệ. Nhưng chính vì thế cần phải thừa nhận việc thành lập gia đình ngày nay xinh đẹp và tốt lành chừng nào, không thể thiếu đối với cuộc sống của thế giới và tương lai của nhân loại biết bao.

Sau đây chúng tôi xin gửi đến qúy vị và các bạn thư Đức Thánh Cha Phanxicô gửi cho các gia đình. Ngài viết: ”Các gia đình thân mến, hôm nay tôi trình diện trước ngưỡng cửa gia đình của anh chị em để nói với anh chị em về một biến cố mà, như đã biết, sẽ diễn ra vào tháng 10 tới đây tại Vaticăng. Đó là Thượng Hội Đồng Giám Mục ngoại thường, được triệu tập để thảo luận về đề tài ”Các thách đố mục vụ về gia đình trong bối cảnh của việc rao truyền Tin Mừng”. Thật thế ngày nay Giáo Hội được mời gọi loan báo Tin Mừng cũng bằng cách đương đầu với các cấp bách mục vụ liên quan tới gia đình.

Cuộc hẹn hò quan trọng này liên lụy tới toàn dân Chúa, các Giám Mục, linh mục, các người sống đời thánh hiến và tín hữu giáo dân của các Giáo Hội địa phương trên toàn thế giới, đang tham gia tích cực vào việc chuẩn bị với các gợi ý cụ thể, và với phần đóng góp không thể thiếu của lời cầu nguyện. Sự đỡ nâng của lời cầu nguyện thật cần thiết và có ý nghĩa một cách đặc biệt từ phía anh chị em, hỡi các gia đình thân mến! Thật vậy, Thượng Hội Đồng Giám Mục này được đặc biệt dành cho anh chị em, cho ơn gọi và sứ mệnh của anh chị em trong Giáo Hội và trong xã hội, cho các vấn đề của hôn nhân, của cuộc sống gia đình, của việc giáo dục con cái, cho vai trò của các gia đình trong sứ mệnh của Giáo Hội. Vì thế tôi xin anh chị em tha thiết cầu xin Chúa Thánh Thần, để Người soi sáng cho các Nghị Phụ và hướng dẫn các vị trong nhiệm vụ đòi hỏi nhiều dấn thân của các vị. Như anh chị em biết, Thượng Hội Đồng Giám Mục ngoại thường này sẽ được theo sau bởi Thượng Hội Đồng Giám Mục bình thường, cũng đề cập tới đề tài gia đình. Và trong bối cảnh đó, vào tháng 9 năm 2015 cũng sẽ có Cuộc gặp gỡ của các Gia đình tại Philadelphia. Như vậy chúng ta tất cả hãy cùng nhau cầu nguyện để, qua các biến cố này, Giáo Hội chu toàn một lộ trình phân định đích thực và đề ra các phương tiện mục vụ thích hợp, hầu trợ giúp các gia đình đương đầu với các thách đố hiện nay với ánh sáng và sức mạnh đến từ Tin Mừng.

Tôi viết bức thư này cho anh chị em trong ngày cử hành lễ Dâng Chúa Giêsu và Đền Thờ. Thánh sử Luca kể lại rằng Đức Mẹ và thánh Giuse đem Con Trẻ vào đền thờ để dâng cho Chúa, theo Lề Luật Môshê, và hai cụ già Simeong và Anna được Chúa Thánh Thần thúc đẩy, đến gặp các Ngài và nhận ra nơi Đức Giêsu Đấng Messia (x. Lc 2,22-38). Ông Simeong ẵm Người trên tay và cảm tạ Thiên Chúa, bởi vì sau cùng ông đã ”trông thấy” ơn cứu độ; bà Anna tuy đã cao niên, nhưng tìm lại được sức mạnh mới và bắt đầu nói về Con Trẻ với tất cả mọi người. Đây là một hình ảnh đẹp: hai cha mẹ trẻ và hai người già, được quy tụ bởi Chúa Giêsu. Thật thế, Chúa Giêsu khiến gặp gỡ và hiệp nhất các thế hệ! Người là suối nguồn không thể cạn của tình yêu thương chiến thắng mọi khép kín, mọi cô đơn, mọi buồn sầu. Trên con đường gia đình của anh chị em, anh chị em chia sẻ với nhau biết bao nhiêu lúc tươi đẹp: các bữa ăn, sự nghỉ ngơi, công việc trong nhà, giải trí, cầu nguyện, các cuộc du hành và các cuộc hành hương, các hành động liên đới… Tuy nhiên, nếu thiếu tình yêu, thì thiếu niềm vui; và Chúa Giêsu trao ban cho chúng ta tình yêu đích thật: Người cống hiến cho chúng ta Lời của Người, soi sáng con đường của chúng ta; Người cho chúng ta Bánh sự sống, nâng đỡ sự mệt nhọc thường ngày của chúng ta trên đường đời.

Các gia đình thân mến, lời cầu nguyện của anh chị em cho Thượng Hội Đồng Giám Muc sẽ là một kho tàng qúy báu làm giầu cho Giáo Hội. Tôi cám ơn anh chị em, và xin anh chị em cũng cầu nguyện cho tôi nữa, để tôi có thể phục vụ Dân Chúa trong chân lý và bác ái. Xin sự chở che của Đức Trinh Nữ Maria diễm phúc và của thánh Giuse luôn đồng hành với tất cả anh chị em và trợ giúp anh chị em bước đi hiệp nhất trong tình yêu và việc phục vụ lẫn nhau. Tôi hết lòng khẩn nài Chúa ban phép lành cho mọi gia đình.

Từ Vatican, ngày mùng 2 tháng 2 năm 2014, lễ Dâng Chúa Giêsu vào Đền Thờ.

Ký tên Phanxicô

(SD 25-2-2014)

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Hội đồng Gia đình mới của Giáo hội có thể do một cặp vợ chồng đứng đầu

Hội đồng Gia đình mới của Giáo hội có thể do một cặp vợ chồng đứng đầu

Marco Tosatti cho Vatican Insider/La Stampa

Hội đồng Gia đình mới của Giáo hội có thể do một cặp vợ chồng đứng đầu thumbnail

Picture: Catholic San Francisco

La Croix (tờ báo Công giáo Pháp) phỏng vấn Đức Hồng y Rodriguez Maradiaga, chủ tịch ủy ban gồm 8 hồng y được Đức Thánh cha Phanxicô chọn làm cố vấn cho ngài về cải cách Giáo triều. Đức hồng y người Honduras, tổng giám mục Tegucicalpa, đã đưa ra cái nhìn tổng quan về bối cảnh chính quyền trung ương của Giáo hội trong tương lai. Đức hồng y nhấn mạnh ý tưởng thành lập một Thánh bộ đặc trách giáo dân (giáo dân hiện đang có một Hội đồng Giáo hoàng đại diện), và nhiều ý tưởng khác nữa.

“Giáo hội rõ ràng cần điều này. Chúng ta có Thánh bộ Giám mục, Thánh bộ Đời tu trì và Thánh bộ Giáo sĩ, nhưng giáo dân chỉ có Hội đồng Giáo hoàng mặc dù họ chiếm đa số trong Giáo hội. Chúng ta không thể tiếp tục như thế này được. Sau Công đồng Vatican II giáo dân chỉ có một văn phòng. Hội đồng Giáo hoàng bị hạn chế vì nó không có quyền pháp lý. Đây là lý do chúng ta cần có một Thánh bộ thật sự”.

Theo đức hồng y, trong Thánh bộ này cũng nên có một Hội đồng Giáo hoàng về gia đình, “đứng đầu là một cặp vợ chồng. Tại sao vậy? Đó sẽ là một dấu chỉ tuyệt vời. Và sẽ thật tuyệt khi có Thánh bộ Giáo dân trong Giáo hội. Tôi có thể nói với anh rằng Chúa Thánh Linh đang thúc đẩy theo hướng này. Ngày càng nhiều nam nữ giáo dân cùng nhận trách nhiệm làm lãnh đạo trong Giáo hội”.

Về số phận của Viện Giáo vụ (IOR) và khả năng xóa sổ viện này, Đức Hồng y Rodriguez Maradiaga nói “mọi thứ phụ thuộc vào các báo cáo. Nhưng chữa lành một người bệnh thì tốt hơn là đưa một người trở về từ cõi chết. Tôi nghĩ chúng ta cần tránh xóa bỏ bất kỳ cơ quan nào”.

Đức Hồng y Maradiaga còn nói về công tác của Ủy ban liên quan đến chính quyền trung ương của Giáo hội. Ngài cho biết ngài và 7 hồng y còn lại “hiện nay đã ghi chép lại tất cả những gì chúng tôi quan sát thấy nơi Văn phòng Quốc vụ khanh. Chúng tôi nhấn mạnh Quốc vụ khanh thực chất là thư ký của Đức Thánh Cha. Ngài không phải là thủ tướng hay tổng trấn”.

Đức Hồng y người Honduras, đã có rất nhiều cuộc phỏng vấn và dường như ngài được “ủy quyền” nói về cải cách, đề cập đến khả năng thành lập một tổ chức tài chính. “Nó có thể được gọi là văn phòng tài chính. Đây là một ý tưởng rất hợp lý và tôi tin rằng cần có một tổ chức như thế để giúp chúng ta có tổ chức hơn và phục vụ tốt hơn. Tài chính được phân chia giữa các cơ quan khác nhau. Chúng ta hiện có Văn phòng Quản trị tài sản tông tòa, Văn phòng Kinh tế Tòa Thánh, Văn phòng Quản lý thành phố Vatican, IOR…Có thể nhưng đây là một trong những việc chúng tôi đang thảo luận; đây có thể là ý tưởng để một người chịu trách nhiệm mọi thứ”.

Nguồn tin: Vatican Insider/La Stampa

UCANEWS VN

Việt Nam y án luật sư bất đồng chính kiến

Việt Nam y án luật sư bất đồng chính kiến

AFP và ucanews.com từ Hà Nội, Việt Nam

Việt Nam y án luật sư bất đồng chính kiến thumbnail

Luật sư và blogger Công giáo Lê Quốc Quân tại tòa phúc thẩm (ảnh AFP/Vietnam News Agency)

Phiên tòa khinh thường phản đối của quốc tế và biểu tình địa phương

Một trong những nhà bất đồng chính kiến ​​nổi bật nhất Việt Nam mất quyền kháng cáo án tù tội trốn thuế vào hôm thứ Ba, trong khi hàng chục người ủng hộ biểu tình bên ngoài tòa án phản đối nhà nước cộng sản đàn áp bất đồng chính kiến​​.

Đông đảo cảnh sát chung quanh tòa phúc thẩm Hà Nội nơi xử ý án hai năm rưỡi tù cho luật sư và blogger Công giáo Lê Quốc Quân. Ông bị kết án tháng Mười năm ngoái và các nhà vận động nhân quyền cho là có động cơ chính trị.

“Bị cáo không hối tiếc và thiếu thái độ tôn trọng hội đồng xét xử,” chánh án Nguyễn Văn Sơn cho biết, xác nhận án tù và khoản tiền phạt tương đương 57.000 USD.

Đường truyền truyền hình từ phòng quan sát phiên toàn ngay lập tức bị cắt sau khi tuyên án.

Trước đó luật sư nói với tòa rằng ông “hoàn toàn vô tội” trước cáo buộc chống lại ông.

“Tôi là nạn nhân của âm mưu chính trị. Tôi phản đối phiên tòa,” ông nói.

Ông Quân đang tuyệt thực 17 ngày nay, em trai ông cho biết, trông ông mệt mỏi và ốm yếu khi đứng trước vành móng ngựa và có lúc bị ngất khiến nhân viên an ninh phải đỡ ông đứng dậy.

Ông Quân bắt đầu tuyệt thực sau khi yêu cầu có cuốn Kinh Thánh và được gặp linh mục xưng tội của ông bị từ chối. Ông sẽ tiếp tục tuyệt thực nếu kháng cáo của ông bị phản bác, theo bản tin đài phát thanh dòng Chúa Cứu Thế Việt Nam.

Luật sư bào chữa Bùi Quang Nghiêm nói, phiên tòa với cáo buộc trốn thuế là một trò hề.

“Nếu hội đồng muốn xét xử ông Lê Quốc Quân vì những hoạt động của ông ta, thì quý vị không cần phải mang ông ra tòa vì tội trốn thuế,” ông nói.

Luật sư Quân năm nay 43 tuổi, đã viết hàng loạt chủ đề nhạy cảm trên blog, bao gồm các quyền dân sự, đa nguyên chính trị và tự do tôn giáo, bị giam giữ từ tháng 12 năm 2012.

Ông Lê Quốc Quyết, em trai luật sư Quân cho biết bên ngoài tòa án rằng gia đình đã không được phép tham dự phiên tòa.

Khoảng 150 người tụ tập bên ngoài tòa án la to “Tự do cho Lê Quốc Quân” và vẫy các biển hiệu kêu gọi thả ngay lập tức vị luật sư Công giáo, đã gây hỗn loạn giao thông vào giờ cao điểm.

Quy mô cuộc biểu tình là bất thường tại Việt Nam, nơi nhà chức trách kiểm soát chặt chẽ bất đồng chính kiến​​.

Hàng trăm người lưu thông trên đường bị kẹt trong cuộc biểu tình vào sáng sớm.

Việt Nam, quốc gia độc đảng, thường xuyên bị các tổ chức nhân quyền và chính phủ phương Tây lên án đàn áp bất đồng chính kiến và vi phạm tự do tôn giáo có hệ thống.

Hồi đầu tháng, tổ chức Phóng viên Không Biên giới cho biết Việt Nam chỉ xếp sau Trung Quốc số lượng các blogger bị giam giữ, với ít nhất 34 blogger hiện đang ngồi tù.

Đại sứ quán Mỹ tại Hà Nội cho biết hồi tháng Mười rằng phán quyết dành cho ông Lê Quốc Quân là một phần của xu hướng “đáng lo ngại” ở Việt Nam khi sử dụng luật thuế để bỏ tù những ai bày tỏ quan điểm chính trị một cách ôn hòa.

Trong bài đăng trên Facebook, nhóm vận động pháp lý Tù nhân Lương tâm cho biết: “Nhóm Công tác Liên hợp quốc về Giam giữ Tùy tiện đã xem xét vụ việc và yêu cầu chính phủ Việt Nam thả ông ngay lập tức.”

UCANEWS VN