THÁNH GIUSE – MẪU GƯƠNG CHO GIA TRƯỞNG

THÁNH GIUSE – MẪU GƯƠNG CHO GIA TRƯỞNG

Tin Mừng hôm nay đề cập đến câu chuyện Truyền tin cho Giuse. Maria đã đính hôn với Giuse (x. Mt 1,18).Từ ngày hai bên nội ngoại làm lễ đính hôn cho Giuse và Maria, ai ai cũng vui mừng, chúc phúc cho đôi hôn nhân lý tưởng. Họ thương nhau không vì trai tài gái sắc, mà thương nhau vì cả hai đều nết na đức hạnh, cùng có một đức tin tinh tuyền từ gia đình đạo đức. Giuse là Người Công Chính. Maria là Đấng Đầy Ơn Phúc. Đó là tổ ấm cao sang nhất trong lịch sử nhân loại.

Sau ngày làm lễ đính hôn, chỉ chờ lễ cưới.Maria và Giuse vẫn chỉ biết hướng về tương lai, chuẩn bị cho gia đình mới sắp thiết lập.

Điều bất ngờ xảy đến với cuộc tình duyên êm đẹp. Thiên Chúa đã can thiệp vào dự án tương lai của Maria và Giuse. Thiên Chúa muốn cả hai thành Đấng Bậc Đồng Trinh để Ngài trao gửi Con Một dấu yêu của mình. Cả hai trở nên cha mẹ của con trẻ Giêsu về pháp lý và Maria ban tặng bản tính nhân loại cho Đấng Cứu Thế.

Thiên Chúa đi từng bước một. Truyền tin cho Đức Maria rồi truyền tin cho Giuse. Giữa hai biến cố trọng đại là cuộc khủng hoảng đối với Giuse.

Thấy Maria có thai, Giuse phải đau khổ lắm. Người hôn thê đạo hạnh mà ngài rất mực yêu thương lại mang thai trước khi về nhà chồng. Bối rối và khó xử nhưng ngài vẫn tiếp tục tin tưởng Maria trong sạch vẹn tuyền. Không một lời phàn nàn, ca thán, trách móc, Giuse không hề hạch sách hay tra hỏi Maria một lời nào, ngài âm thầm ôm lấy nổi đau riêng mình với một quyết định: “Đào vi thượng sách”. Giuse không còn chọn lựa nào khác: “vì là Người Công Chính và không muốn tố giác bà nên mới định tâm bỏ bà cách kín đáo” (1,19). Thế rồi, Thiên Thần đã hiện ra với Giuse trong giấc mộng giải thích cho ngài biết: “Người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần” (1,20); Thai nhi ấy không chỉ là một con người mà còn là Người Con của Thiên Chúa. Ngài là Thiên Chúa bởi Thiên Chúa, được sinh ra, không phải được tạo thành, vì Ngài đã có từ trước muôn thuở. Ngài là Con của Chúa Cha ở trên trời; đã từ trời xuống thế nhập thể trong lòng trinh nữ Maria, và đã làm Người. Và Người Con sẽ sinh ra ấy được Thánh Giuse đặt tên là Giêsu, vì chính Người sẽ cứu Dân của Người khỏi tội. Thiên Thần khuyên Giuse “Chớ sợ rước Maria về nhà mình” (1,20). Nhận ra Thánh Ý Thiên Chúa “Giuse đã làm như lời Thiên Thần Chúa truyền và ông đã rước bà về” (1,24).

Thiên Chúa đã đưa Thánh Giuse vào chương trình cứu độ của Ngài. Thánh Giuse đã tích cực góp phần thực hiện chương trình ấy. Ngài được Thiên Chúa chọn, trở thành người cha nuôi của Chúa Giêsu ở trần gian. Vì vai trò làm cha của Chúa Giêsu và làm bạn đời của Mẹ Maria, sống bên cạnh một người nữ trẻ tuổi xinh đẹp là Mẹ Maria, mà theo dự định của Thiên Chúa, sẽ trọn đời đồng trinh, nên các nghệ nhân thường có khuynh hướng hình dung Thánh Giuse như một cụ già. Điều đó không đúng! Thánh Giuse là một thanh niên trẻ trung và đầy sinh lực, có lẽ chỉ lớn hơn Mẹ Maria chừng năm bảy tuổi! Nhưng ngài là một người rất nhân đức, được Thiên Chúa chọn để đồng hành với Mẹ Maria đồng trinh trong cuộc đời dâng hiến của Mẹ. Mẹ đã hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa, không thuộc về người trần gian (ĐTGM. Phaolô BVĐ).

Thánh Giuse còn được sách Tin mừng gọi là “Người Công Chính”. Mà người công chính, theo lời Kinh thánh, là người sống bằng đức tin, hoàn toàn tin tưởng vào Thiên Chúa như tổ phụ Ápraham. Người Công Chính, nói đơn giản, là người tốt, ngay thẳng, trung tín. Là tôi tớ trung thành của Thiên Chúa, luôn thực thi trọn vẹn thánh ý của Thiên Chúa. Là con người luôn biết kính trọng và yêu thương tha nhân.

Thánh Giuse là một con người bình thường như mọi người, được Thiên Chúa giao phó thực hiện “những điều cao trọng” trong cuộc đời thường, như làm “cha nuôi của Chúa Giêsu”, làm “bạn đời của Đức Trinh Nữ Maria”. Ngài đã thực hiện đúng như ý muốn của Thiên Chúa trong mọi biến cố. Thiên Chúa bảo ngài cưới Mẹ Maria, đưa Mẹ về nhà mình, đưa Mẹ Maria sắp sinh nở về nguyên quán Bêlem để khai lý lịch, đưa Mẹ và hài nhi Giêsu chạy trốn sang Aicập, sau đó đưa gia đình về Nadarét vùng Galilê, Thánh Giuse luôn xin vâng theo Ý Chúa.

Thánh Giuse mạnh dạn đối diện với các vấn đề, đương đầu với các khó khăn, mà không bao giờ trách móc Thiên Chúa hay quy tội cho người khác. Ngài là một con người “đầy tinh thần trách nhiệm”, một con người nhiều sáng kiến trong bất cứ công việc gì được trao phó. Trước Thánh Ý Thiên Chúa, Giuse vâng phục và chu toàn. Từ Nadarét qua Bêlem, từ Bêlem đi Aicập, từ Aicập về Israel, Chúa bảo ngài đi là ngài đi, bảo ngài về là ngài về, bảo ngài làm thế nào là ngài làm thế ấy, đúng thời gian, đúng địa điểm mà không thắc mắc, không hoài nghi, không cự nự. Tất cả mọi lần Giuse đều thưa như Đức Maria “Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Thiên Thần truyền” (Lc1,38).

Để luôn hướng về Ý Chúa, Thánh Giuse đã âm thầm đi sâu vào đời sống nội tâm. Trong nội tâm thinh lặng, ngài lắng nghe Chúa. Thiên Chúa mà Giuse gắn bó là Đấng đã gọi ngài. Ngài hiểu tiếng gọi đó là một tình thương đặc biệt. Ngài trả lời như một giao ước, một gắn bó tín trung bền vững. Chúa gọi và chỉ dẫn ở từng chặng đường, ngài nghe và vâng theo. Cho dù gặp khó khăn trắc trở, ngài luôn vững tin ở Đấng đã gọi mình. Vì thế, nơi Thánh Giuse, con đường sống đạo là con đường tin cậy khiêm cung và tuyệt đối vào Thiên Chúa. Tin với tâm hồn thờ phượng, tạ ơn, với lòng phó thác và nguyện cầu tha thiết.

Ngày nay, Thánh Giuse vẫn đồng hành với chúng ta và che chở chúng ta, như đã đồng hành và che chở Mẹ Maria và Chúa Giêsu. Với kinh nghiệm của mình, ngài xứng đáng là thầy dạy đời sống nội tâm cho mỗi người chúng ta: dạy cho ta biết Chúa Giêsu, gần gũi với Chúa, chia sẻ cuộc đời của Chúa. Ngài giúp ta ý thức mình là người nhà của Chúa, là thành viên của Giáo Hội, Gia đình của Thiên Chúa tại trần gian.

Anh em Gia trưởng thân mến,

Thánh Giuse là một bài học khiết tịnh cho anh em. Không cần chờ tới tuổi già mới sống đời thanh tịnh. Sự thanh khiết của đôi bạn Giuse và Maria là do tình yêu. Sức mạnh và sự vui tươi của tuổi trẻ không là ngăn trở cho một tình yêu cao thượng. Khi cưới Mẹ Maria về, Thánh Giuse có một “trái tim trẻ trung” trong một thân xác trẻ trung. Khi được thiên thần báo mộng cho biết mầu nhiệm “Đức Maria là Mẹ Chúa Trời”, người đã sẵn sàng đón nhận Mẹ Maria, đồng hành với Mẹ, chăm sóc Mẹ, mà vẫn tôn trọng sự trinh nguyên của Mẹ. Mẹ Maria trở thành một niềm vui, một hồng ân cho Thánh Giuse.

Anh em là người cha người chồng trong gia đình. Anh em đừng bao giờ coi mình là ông chủ đầy quyền lực trong gia đình, muốn làm gì thì làm. Anh em phải biết tuân theo ý Chúa, phải bình tĩnh, biết quảng đại, hy sinh trong mọi khó khăn của gia đình theo gương Thánh Giuse.

Đứng trước những bối rối, đối diện với nghịch cảnh, gặp những thử thách, Thánh Giuse luôn chia sẽ nổi lòng với Đức Mẹ, ngài trăn trở những âu lo của Đức Mẹ, ngài chỉ muốn tìm giải pháp ưu việt cho nhất cho gia đình. Anh em gia trưởng cần có lòng tôn kính Thánh Giuse, thường xuyên xin ngài cố vấn cho các hoàn cảnh khó xử của mình. Ngài đã kinh qua tất cả nên ngài hiểu rõ hơn ai hết những nổi niềm của người Gia trưởng. Thánh Cả như một địa chỉ cần thiết, thân quen, anh em cần lui tới chuyện trò với ngài.

Hôn nhân là tổ ấm. Gia đình là chiếc nôi. Con cái đón nhận đời sống thể chất và tinh thần. Mỗi đứa con đều mang hình ảnh Thiên Chúa. Giáo dục để chúng lớn lên trong ơn gọi làm người, ơn gọi làm con Thiên Chúa. Nhiệm vụ giáo dục con cái thật thiêng liêng và cao cả. Thiên Chúa trao cho các Gia trưởng.

Thánh Giuse làm cha. Con của ngài vừa là con người vừa là Con Thiên Chúa – Đấng Cứu Độ. Con cái của anh em được làm con Thiên Chúa. Cho nên nhiệm vụ nuôi nấng dưỡng dục con cái là sứ vụ cao cả và là hồng ân quý giá Thiên Chúa ban cho anh em.

Anh em cần phải biết yêu thương và tôn trọng con cái mình. Hãy trở nên gương mẫu đạo đức thánh thiện cho con cái. Hãy tránh mọi thứ gương mù gương xấu. Từ lời nói đến thái độ sống xấu sẽ là đại họa cho con cái. Tuổi thơ các em đơn sơ như tờ giấy trắng, mỗi lời nói, mỗi cử chỉ của cha mẹ đều ghi đậm nét trên tờ giấy trắng tâm hồn và in dấu suốt cuộc đời các em. Bởi đó, trách nhiệm của người Gia trưởng đối với các em vô cùng quan trọng. Các em là thánh hay là quỷ tùy vào sự giáo dục và cách ăn nết ở của cha mẹ. Con cái là hoa trái của tình yêu và là niềm hy vọng của cha mẹ. Nguyện xin Thánh Giuse phù trợ cho anh em được trở nên những Gia trưởng thánh thiện, gương mẫu để đem hạnh phúc đến cho gia đình và cho cả xã hội tương lai.

Thánh Giuse mãi mãi là tấm gương cho anh em Gia trưởng soi. Tấm gương của một con người luôn thao thức lắng nghe tiếng Chúa và khi đã nghe thì mau mắn đáp lại không thắc mắc cho dù phải trả giá.Tấm gương của một con người luôn hướng tâm hồn về Chúa, xin vâng trước Thiên Ý, luôn phó thác để Chúa thực hiện chương trình cứu rỗi của Người.Tấm gương về người quản gia trung tín chăm sóc hai kho tàng quý giá nhất trần gian là Hài Nhi Giêsu và Mẹ Maria.

Thánh Giuse là con người thầm lặng, ít nói, khiêm tốn. Gioan Tẩy Giả chân thành “Người phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ bé lại”. Giuse đã sống điều đó mà không nói một lời. Chính cuộc sống ấy đã biến Thánh nhân thành một vị Đại Thánh. Thánh Cả đã đem cuộc đời mình biến thành một Lời Chúa sống động.

LM Giuse Nguyễn hữu An

Cầu Nguyện Với Thánh Giuse

Cầu Nguyện Với Thánh Giuse

joseph family

Chúng ta chỉ biết một chút ít về Giuse khi các tác giả Tin Mừng thuật lại những biến cố xảy ra trước và sau khi Đức Giêsu giáng lâm. Ta biết về gốc gác của Giuse, về hôn ước giữa ông và Maria, về những trằn trọc trăm mối tơ vò để tìm ra giải pháp tối ưu cho chuyện vị hôn thê sắp cưới của mình có mang, rồi chuyện truyền tin trong giấc mơ và những chuyến hành trình lắm chông gai và mệt mỏi. Qua những tình tiết nhỏ nhặt đó, ta thấy Giuse hẳn phải là một người có tinh thần trách nhiệm như thế nào. Giuse đã không hành xử theo cảm tính hay chỉ làm mọi chuyện cho qua. Đã có lúc Giuse phân vân không biết rời bỏ Maria hay tiếp tục cuộc hôn nhân này. Nhưng khi nhận được lệnh của Chúa là hãy rước Maria về, ông đã thực thi mệnh lệnh ấy như thể đó là sứ mạng của mình, như là chọn lựa của mình, không một lời oán than hay một đòi hỏi xin giải thích.

Khi Maria lâm bồn, hẳn là ông đã phải chạy vạy khắp nơi để tìm kiếm chỗ cho tươm tất. Khi không tìm thấy một nơi ấm êm và đường hoàng, hẳn là ông cũng buồn phiền lo lắng biết bao cho sức khỏe của vợ và hài nhi vừa mới sinh. Giữa đêm khuya giá lạnh, đang tựa đầu để mong nghỉ ngơi một chút thì đã phải vội vàng thức giấc để đưa vợ và con băng đường dài, trốn đi tị nạn ở nơi xa. Khi được lệnh trở về, ông cũng nghe ngóng tình hình, để quyết định xem nên cư trú ở đâu để vợ con có thể được an toàn, không bị những ganh ghét của thế lực trần gian làm hại. Và khi đã tìm được chỗ tốt nhất, ông tiếp tục hành nghề thợ mộc để kiếm cơm nuôi sống gia đình. Giuse đã hoàn toàn dành hết tâm huyết để chăm lo cho gia đình nhỏ bé, cùng với vợ giáo dưỡng Giêsu, cả thể chất lẫn tinh thần, với hết tất cả tình yêu và trách nhiệm của một người đàn ông cột trụ nơi tổ ấm.

Giêsu càng lớn lên, bình an và khỏe mạnh thì hình ảnh của Giuse cũng dần dần mờ nhạt đi. Đến một lúc, ta chẳng còn thấy Tin Mừng nhắc gì đến ông nữa. Ông qua đời khi nào, khi bao nhiêu tuổi… ta cũng chẳng hay biết. Giuse đã hoàn toàn để cho Chúa lớn lên, bằng cách để mình nhỏ bé đi. Những gì làm cho Chúa, ông kể như chẳng là gì to tát. Có chăng là trọn một niềm hạnh phúc vì cảm thấy vinh dự được Chúa cho cộng tác vào chương trình cứu độ của Ngài mà thôi.

Chỉ cần nghĩ đến chuyện Giuse đã hy sinh thế nào cho Thiên Chúa và cho gia đình nhỏ bé của mình, cũng đủ để chúng ta mường tượng được công trạng của ngài to lớn trong công trình cứu độ của Thiên Chúa. Vậy cớ gì ngài không hô hào lên tiếng cho người ta biết về những hy sinh của mình? Làm như thế cũng đáng chứ, cũng là điều hợp tình hợp ý mà bấy lâu nay chúng ta vẫn hay làm đấy thôi. Nhưng dường như đối với Giuse, được phục vụ Chúa là một niềm vinh hạnh, được hy sinh cho người khác điều ta nên làm. Nó hiển nhiên như ta hít thở, chứ chẳng phải là điều gì đó ghê gớm đến độ đáng được nêu danh. Chính cái tính cách khoan khai, khiêm nhường và lặng lẽ ấy của Giuse đã giúp cho thánh nhân sống trọn một đời mà không đau khổ dằn dặt chi, không hụt hẫng, nhưng lúc nào cũng bình an, hạnh phúc.

Giuse không cần chi người ta biết đến và ca tụng, có lẽ bởi vì Giuse đã có được phần thường cho chính mình rồi. Ông là một trong những người đầu tiên thấy được tận mắt, sờ được bằng tay hình hài của Con Thiên Chúa. Một quãng thời gian dài, ông có Chúa kề bên, được tập cho Chúa nói, được mớm cho Chúa ăn, được vui cười với Chúa. Rồi bỗng một ngày, niềm hạnh phúc như ngập tràn khóe mắt khi tai ông nghe chính Thiên Chúa gọi mình hai chữ “bố ơi” thật ngọt ngào và êm ái. Ông là ai mà được diễm phúc trở thành người được Con Thiên Chúa gọi là cha? Cả một huyền nhiệm cao vời đang hiển lộ trước mặt ông: một Thiên Chúa làm người mà ông đang ẵm bồng đây, đang gặp gỡ từng giây phút đây, được ôm lấy từng ngày đây. Có Giêsu rồi, ông đâu cần tìm kiếm điều gì nữa. Có nguồn hạnh phúc ở đây rồi, cần gì phải theo đuổi điều gì nữa.

Giuse có lẽ đã tạ thế trước khi Đức Giêsu bắt đầu sứ vụ công khai. Ông không được nghe những lời giáo huấn vàng ngọc của người con yêu của mình dành cho dân chúng. Nhưng biết đâu, khi căn dặn các môn đệ hãy biết phó thác mọi sự cho Chúa Cha, hãy vác thập giá hằng ngày, hãy sống sống khiêm nhường nhỏ bé, Đức Giêsu đã nghĩ đến vị dưỡng phụ yêu quý của mình. Giuse đã biến cuộc đời mình thành một lời nguyện ca tuyệt vời dâng lên Chúa.

Hôm nay, chúng ta hãy dành ít phút cầu nguyện với Thánh Giuse. Chúng ta hãy xin ngài chuyển cầu cùng Đức Giêsu, con ngài, cho chúng ta cũng biết sống khiêm nhu, âm thầm và lặng lẽ, suốt cuộc đời chỉ đi tìm một mình Chúa mà thôi, và dám can đảm để Chúa lớn lên, để mình nhỏ lại. Ước gì đó là niềm vui lớn nhất của cuộc đời Kitô hữu của chúng ta.

Pr. Lê Hoàng Nam, SJ – Vatican Radio

Châu Á có cảm nhận được lợi ích trong chiều hướng thay đổi của Đức Thánh Cha?

Châu Á có cảm nhận được lợi ích trong chiều hướng thay đổi của Đức Thánh Cha?

Kagefumi Ueno từ Tokyo, Nhật Bản

Đức Phanxicô, người Mỹ Latinh đầu tiên và là tu sĩ Dòng Tên đầu tiên đảm nhận chức Giáo Hoàng vào tháng 3 năm ngoái, ngay lập tức chiếm được trái tim của nhiều người và tiếp tục gây ấn tượng mạnh mẽ.

Thế nhưng, tôi tin rằng sự nổi tiếng của vị tân giáo hoàng này còn có ý nghĩa thật sự lớn hơn sự mến phục nhiều người dành cho ngài.

Trong khi cải cách Vatican đầy tai tiếng rõ ràng là một vấn đề quan trọng, tôi lại bị thu hút vào việc dường như Đức Phanxicô đang bắt đầu một nhiệm vụ lớn hơn nhiều đó là đưa ra một thách thức văn minh nhắm vào thay đổi bản chất và văn hóa của Vatican vốn đã không còn tiếp xúc với tính đa dạng toàn cầu và quan điểm của người đương thời, hiện đại hóa và đa dạng hóa toàn thế giới Công giáo.

Trong khi làm như thế, Đức Thánh Cha nhấn mạnh đến cách mạng hóa nhận thức từ ba góc độ: tái xác định nhiệm vụ của Giáo hội, biến đổi từ cơ cấu tập trung quyền sang cơ cấu phân quyền và biến đổi từ “văn hóa loại trừ” sang “văn hóa hội nhập”.

Trong đó góc độ thứ hai là phân quyền có tầm quan trọng đặc biệt đối với Giáo hội ở Nhật và châu Á.

Trong nhiều thập niên qua, Giáo hội Công giáo cai quản toàn thế giới thông qua một mô hình châu Âu mà không cân nhắc đủ đến các nền văn hóa bản địa của mỗi vùng.

Kết quả là khoảng cách giữa giáo huấn Công giáo và các nền văn hóa địa phương đôi khi mang lại khó khăn cho Giáo hội tại Mỹ Latinh và châu Á.

Dường như Đức Thánh Cha đang xem xét ý tưởng ủng hộ đặc điểm này của Giáo hội trong mỗi vùng, thậm chí là phải giảm bớt quyền lực của giáo hoàng và Vatican.

Điều này báo hiệu một động thái xa rời châu Âu và Rôma trong thế giới Công giáo, và Đức Thánh Cha đã bắt đầu đưa ra hai thách thức theo chiều hướng này.

Thứ nhất là đưa quan điểm Dòng Tên vào lối tư duy của Vatican. Bằng cách thuyết phục giới giáo sĩ thay đổi thói quen phung phí và bênh vực người nghèo, Đức Phanxicô đang đưa vào Vatican văn hóa tiết kiệm và vị tha ‘hoang sơ’ của Dòng Tên.

Thách thức thứ hai nằm trong việc hội nhập quan điểm Mỹ Latinh. Quan điểm “bênh vực người nghèo quan trọng hơn là quá ám ảnh với những nguyên tắc gia đình” được Đức Thánh cha Phanxicô ủng hộ, chưa từng được nghe nói từ các vị tiền nhiệm, vốn là người châu Âu và do đó không biết được thực trạng tai hại của “nạn nghèo khổ đích thực”.

Là người Mỹ Latinh và hiểu rõ cảnh nghèo khổ cùng cực, Đức Phanxicô đã mang quan điểm Mỹ Latinh vào Vatican và đã bắt đầu thu hẹp khoảng cách tâm lý giữa Rôma và nơi đó.

Đức Thánh Cha Phanxicô có nỗ lực giảm khoảng cách giữa châu Á với Rôma như thế không?

Chúng ta phải đánh giá từ lời nói và việc làm sau này của ngài, nhưng có những yếu tố tích cực.

“Hội nhập văn hóa” là từ được dùng để miêu tả cách Giáo hội Công giáo truyền bá đức tin bằng cách cho nó lọt qua màn chắn văn hóa bản địa trước để làm cho nó quen thuộc với người địa phương hơn trong các vùng khác nhau trên thế giới.

Đây là ý tưởng được linh mục Valignano ủng hộ cách đây 4 thế kỷ. Ngài là vị thừa sai Dòng Tên được cử sang Nhật, tại đây ngài đã tìm cách thực hiện ý tưởng này.

Mặc dù nỗ lực của ngài bị thất bại do sắc lệnh chống Kitô giáo của chế độ Tokugawa Shogunate (chính quyền quân sự Nhật thời phong kiến) và ý tưởng này dần dần biến mất từ khi ngài qua đời, Đức Phanxicô mang ADN Dòng Tên có thể cởi mở hơn với việc Á hóa Giáo hội tại Á châu thông qua hội nhập.

Từ “Á châu” đó có nghĩa gì?

Để tham khảo, chúng ta hãy xem xét cuộc thảo luận diễn ra trong Thượng Hội đồng Giám mục Á châu được tổ chức tại Rôma năm 1998.

Tại cuộc họp đó, nhiều tham dự viên châu Á than phiền rằng đạo Công giáo vẫn không phù hợp với các văn hóa châu Á, thể hiện thiếu hội nhập.

Chẳng hạn, đức tổng giám mục của Osaka chỉ ra Kitô giáo được nuôi dưỡng ở phương Tây mang đặc điểm của xu hướng quá thiên về người cha, nhị nguyên giữa da trắng và da đen, trong khi người châu Á tìm kiếm một nữ thần làm mẹ tất cả.

Lời bình luận này của một tổng giám mục Dòng Tên trùng với suy nghĩ của một chủng sinh và là vai chính trong cuốn tiểu thuyết Deep River của tác giả Công giáo Endo Shusaku.

Trong câu chuyện này, người chủng sinh chỉ ra đạo Công giáo châu Âu mang đặc điểm xác định rõ, lập luận và xem nhẹ tự nhiên quá đáng vốn xa lạ với người Nhật.

Tuy nhiên, khi châu Á nêu lên những quan điểm như thế vào năm 1998 đã bị Vatican cố tình làm ngơ.

Đức Phanxicô bày tỏ ý định ưu tiên viếng thăm châu Á trong năm nay và năm sau.

Ngài sẽ phản ứng như thế nào trước những tiếng nói bất mãn ở châu Á chưa được giải quyết là vấn đề khơi lên thích thú vô tận từ quan điểm văn minh.

Cuộc chiến gay go giữa “trung tâm” và “ngoại biên” và giữa “phổ quát” và “địa phương” là đề tài muôn thuở luôn ám ảnh bất kỳ nền văn mình nào. Đức Thánh Cha Phanxicô là hiện thân của vùng “ngoại biên”, là tu sĩ Dòng Tên đến từ Mỹ Latinh, ngài sẽ mang lại cho các Giáo hội ở châu Á và châu Phi cơ hội vàng để thuyết phục Rôma chấp nhận đặc điểm riêng của các Giáo hội này.

Đức Thánh Cha Phanxicô phản đối mô hình lấy Rôma làm trung tâm vốn tồn tại hơn 1,700 năm nay. Thách thức của ngài có vững hay không sẽ phụ thuộc vào chiều sâu của lòng tin về đa dạng hóa và hiện đại hóa thế giới Công giáo của ngài.

Nguồn: Hội nói tiếng Anh ở Nhật (ESUJ)

Giáo sư Kagefumi Ueno của Đại học Kyorin ở Tokyo là nhà bình luận và là cựu đại sứ Tòa Thánh

Người Ấn giáo Odisha đe dọa người Công Giáo vì xây nhà thờ

Người Ấn giáo Odisha đe dọa người Công giáo vì xây nhà thờ

Ritu Sharma từ New Delhi, Ấn Độ

Người Ấn giáo Odisha đe dọa người Công giáo vì xây nhà thờ thumbnail

Kêu gọi ngăn chặn bạo lực chống lại người Công giáo Ấn Độ. (Ảnh: ivarfjeld.com)

Cảnh sát Ấn Độ từ chối nhận đơn khiếu nại hôm thứ Năm, sau khi một nhóm Ấn giáo dọa tấn công dân làng Công giáo nếu họ tiến hành xây nhà thờ.

Hôm 11-3, một đám người giận dữ gồm hơn 30 người trong làng Ranipada thuộc bang Odisha (Orissa) lăng mạ các Kitô hữu và lấy đá dùng làm móng nhà thờ, theo các nhân chứng.

Những người Ấn giáo này đứng trước nhà giáo lý viên Bhagwan Pradhan đe dọa đánh ông và tấn công cộng đồng Công giáo nếu ông khuyến khích dân làng xây nhà thờ.

Năm 2008, nhà thờ trong làng này bị những kẻ cực đoan Ấn giáo thiêu rụi trong vụ bạo lực chống Kitô hữu trong vùng. Một mục sư Tin lành chạy vào nhà thờ lánh nạn trong lúc xảy ra bạo lực đã bị thiêu sống.

Vụ bạo lực kéo dài nhiều tuần khiến khoảng 100 người bị thiệt mạng và ít nhất 50,000 người mất nhà cửa.

“Cảnh sát từ chối nhận đơn khiếu nại và nói họ sẽ điều tra vụ này và nói chuyện với bên kia (những người Ấn giáo) trước nhưng theo luật thì họ phải nhận đơn khiếu nại trước rồi mới tiến hành điều tra”, Ramakant Paricha, luật sư đi cùng Pradhan đến đồn cảnh sát, nói.

Paricha cho ucanews.com biết có thể cảnh sát cố tìm cách dàn xếp giữa hai bên.

Pradhan, người khởi kiện, nói với ucanews.com rằng tất cả 52 gia đình Công giáo bộ lạc trong làng sống trong lo sợ từ vụ bạo lực năm 2008.

Ông kể tháng 11 năm ngoái những người cực đoan Ấn giáo cày đất nhà thờ nhằm đe dọ. Cảnh sát cũng từ chối nhận đơn kiện sau vụ việc đó, ông nói.

“Chúng tôi thường xuyên bị những người này đe dọa. Từ vụ bạo lực năm 2008, chúng tôi không được phép vào rừng gần nhà lấy củi và cũng không được dùng giếng nước chung trong làng”, ông kể.

Trích từ UCANEWS VN

Ba quốc gia Ả Rập cấm phim ‘Noah’ sắp phát hành

Ba quốc gia Ả Rập cấm phim ‘Noah’ sắp phát hành

Bahrain, Qatar and Các Tiểu vương quốc Ả Rập thống nhất tuyên bố bộ phim vi phạm giáo huấn đạo Hồi

Ba quốc gia Ả Rập vừa ra lệnh cấm phim của Hollywood “Noah” vì các lý do tôn giáo ngay trước buổi ra mắt bộ phim trên toàn thế giới, và nhiều quốc gia khác cũng sẽ làm theo ba quốc gia này, đại diện của Paramount Pictures nói với Reuters hôm thứ Bảy.

Cơn giận dữ của người Hồi giáo trước việc thể hiện các vị thánh trong nghệ thuật và các cách miêu tả hình ảnh Tiên tri Mohammad trên truyền thông châu Âu và Bắc Mỹ, đã nhiều lần làm bùng nổ các cuộc phản đối gây chết người tại các quốc gia theo đạo Hồi trên một thập niên qua, và thổi bùng những căng thẳng về văn hóa với phương Tây.

“Cơ quan kiểm duyệt của Qatar, Bahrain và Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống Nhất chính thức xác nhận trong tuần qua, cuốn phim sẽ không được công chiếu ở các quốc gia này.” Đại diện của hãng phim cho biết, Paramount Pictures đã sản xuất bộ phim với chi phí 125 triệu đôla Mỹ cùng các ngôi sao điện ảnh đoạt giải Oscar như Russell Crowe và Anthony Hopkins.

“Lý do chính thức mà họ đưa ra để xác nhận thông tin này là bởi ‘bộ phim đi ngược lại giáo huấn của đạo Hồi’,” vị đại diện này nói và thêm rằng một lệnh cấm tương tự sẽ được ban hành tại Ai Cập, Jordan và Kuwait.

Buổi chiếu ra mắt bộ phim ở Hoa Kỳ sẽ vào ngày 28-3.

Noah, nhân vật trong sách Sáng Thế đã đóng một con tàu để cứu gia đình mình và các loài vật, mỗi loài một cặp khỏi cơn đại hồng thủy, được sùng kính trong đạo Do Thái, Kitô giáo và Hồi giáo. Có hẳn một chương trong kinh Koran được dành để nói về Noah.

Al-Azhar ở Cairo, cơ quan quyền lực nhất của đạo Hồi theo dòng Sunni và là trung tâm của giáo huấn đạo Hồi trên một thiên niên kỷ qua, hôm thứ Năm đã ra một fatwa hay huấn thị tôn giáo lên án bộ phim này.

“Al-Azhar … nhắc lại phản đối trước bất cứ hành động nào miêu tả các ngôn sứ và các tiên tri của Thượng Đế và những người đi theo nhà Tiên tri (Mohammad), ơn bình an luôn ở với Người” – Al-Azhar tuyên bố.

Người ta “khiêu khích cảm xúc của tín đồ … và việc bị cấm, chỉ vì hành động rõ ràng vi phạm luật đạo Hồi”, fatwa nói thêm.

Bộ phim “The Passion of the Christ” (Cuộc Khổ Nạn Của Chúa Kitô) năm 2004 của đạo diễn Mel Gibson được công chiếu rộng rãi trong Thế giới Ả Rập, mặc cho làn sóng phản đối từ giới giáo sĩ Hồi giáo.

Một vở kịch truyền hình nhiều tập của Ả Rập năm 2012 có tên “Omar” nói về hành động dũng cảm của một vị vua người Hồi giáo hồi thế kỷ thứ bảy và là đồ đệ của nhà Tiên tri Mohammad cũng tìm cách chống lại những phản đối của giới giáo sĩ và đã phát trên một kênh truyền hình vệ tinh ở vùng Vịnh.

Nguồn: Huffington Post

Tri1ch từ UCANEWS VN

Đức Thánh Cha chủ sự kinh Truyền Tin: 16-3-2014

Đức Thánh Cha chủ sự kinh Truyền Tin: 16-3-2014

VATICAN. Trong buổi đọc kinh Truyền Tin với 60 ngàn tín hữu hành hương trưa chúa nhật 16-3-2014, ĐTC kêu gọi mọi người hãy mang sách Phúc Âm nhỏ theo người và đọc mỗi ngày một đoạn. Ngài cũng mời gọi cầu nguyện cho các nạn nhân máy bay của hãng Malaysia bị mất tích.

Trong bài huấn dụ ngắn trước khi đọc kinh, ĐTC đã quảng diễn bài Phúc Âm thuật lại biến cố Chúa Giêsu hiển dung trên núi trước ba môn đệ và ngài mời gọi mọi người cũng hãy ”lên núi” gặp gỡ Chúa trong kinh nguyện thinh lặng, và xuống núi, chia sẻ những cảm nghiệm thiêng liêng cũng như giúp đỡ các anh chị em đang gặp khó khăn. ĐTC nói:

Anh chị em thân mến, chào anh chị em!

Hôm nay, bài Tin Mừng trình bày cho chúng ta biến cố Chúa Hiển dung. Đây là giai đoạn thứ hai trong hành trình mùa chay: giai đoạn thứ I là những cám dỗ trong hoang địa, chúa nhật tuần trước; giai đoạn thứ II là cuộc Hiển dung. Chúa Giêsu ”mang theo ngài Phêrô, Giacôbê và Gioan, và ngài dẫn họ ra một nơi riêng, trên một núi cao” (Mt 17,1). Núi trong Kinh Thánh tượng trưng nơi gần gũi với Thiên Chúa và cuộc gặp gỡ thân mật với Chúa; đó là nơi cầu nguyện, ở trước sự hiện diện của Chúa. Trên núi ấy, Chúa Giêsu tỏ mình cho 3 môn đệ, Ngài hiển dung, sáng láng, rất đẹp; và rồi có ông Môisê và Elia hiện ra, chuyện vãn với Ngài. Khuôn mặt Ngài sáng ngời và áo Ngài trắng tinh đến độ Phêrô ngỡ ngàng, muốn ở lại đó, như thể thời gian ngưng lại. Bất chợt từ trên cao có tiếng Chúa Cha tuyên bố Đức Giêsu là Con yêu dấu của Người, và nói: ”Các ngươi hãy nghe lời Ngài” (v.5). Lời này rất quan trọng. Chúa Cha đã nói với các Tông đồ và Chúa nói với chúng ta nữa: ”Hãy nghe Chúa Giêsu, vì Người là Con Ta yêu dấu”. Trong tuần này, chúng ta hãy giữ lời ấy trong tâm trí: ”Các con hãy nghe Chúa Giêsu!”. Đây không phải là lời Giáo Hoàng nói, nhưng là Thiên Chúa Cha, nói với tất cả mọi người: với tôi, với anh chị em, với tất cả! Lời ấy như một trợ lực để tiến bước trên con đường Mùa Chay. ”Các con hãy nghe Chúa Giêsu!”.

Lời mời này của Chúa Cha rất quan trọng. Là môn đệ của Chúa Giêsu, chúng ta được mời gọi trở thành những người lắng nghe tiếng Chúa và coi trọng những lời của Ngài. Để lắng nghe Chúa Giêsu, cần đi theo Ngài, như đám đông trong Phúc Âm đã làm, đi theo Chúa trên những nẻo đường xứ Palestine. Chúa Giêsu không có nhà thờ chính tòa hoặc tòa giảng cố định, nhưng Ngài là một bậc thầy lưu động, trình bày giáo huấn dọc theo những con đường ngài đi qua, những nẻo đường không luôn luôn có thể đoán trước, và nhiều khi không dễ dàng. Theo Chúa Giêsu để nghe Ngài. Nhưng chúng ta cũng nghe Chúa Giêsu trong lời Ngài đã được viết ra, trong Phúc Âm. Tôi hỏi anh chị em: anh chị em mỗi ngày có đọc một đoạn Phúc Âm hay không? Đó là một điều tốt đẹp. Có một cuốn Phúc Âm nhỏ, mang trong mình, trong túi, trong sắc, và đọc một đoạn nhỏ bất kỳ lúc nào trong ngày. Trong đó Chúa Giêsu nói với chúng ta, trong Phúc Âm. Anh chị em hãy nghĩ đến điều đó, không khó đâu, cũng không cần 4 sách Phúc Âm, 1 trong 4 cuốn. Luôn mang Phúc Âm theo người, vì đó là Lời Chúa Giêsu để có thể nghe Ngài.

ĐTC nói thêm rằng:

”Từ biến cố Chúa Hiển Dung, tôi muốn nêu lên hai yếu tố ý nghĩa, có thể tóm gọn trong hai từ: đi lên và đi xuống. Chúng ta cần đi ra một nơi riêng, leo lên núi trong một nơi thinh lặng, để tìm lại chính mình và nhận thức rõ hơn tiếng Chúa. Nhưng chúng ta không thể ở lại đó! Cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa trong kinh nguyện tái thúc đẩy chúng ta xuống núi, và trở xuống cánh đồng, nơi chúng ta gặp gỡ bao nhiêu anh chị em đang bị vất vả cơ cực, bệnh tật, bất công, dốt nát, nghèo khổ vật chất và tinh thần đè nặng. Chúng ta được mời gọi mang hoa trái kinh nghiệm của chúng ta với Thiên Chúa cho những anh chị em ấy, chia sẻ với họ ân thánh đã nhận được. Đây là điều lạ lùng. Khi chúng ta nghe Lời Chúa Giêsu, chúng ta có Lời ấy trong con tim, Lời tăng trưởng. Và anh chị em có biết Lời tăng trưởng như thế nào không? Thưa bằng cách trao cho người khác. Lời Chúa Kitô trong chúng ta tăng trưởng khi chúng ta công bố lời ấy, khi chúng ta trao cho người khác. Và đó là đời sống Kitô. Đó là một sứ mạng của toàn thể Giáo Hội, của tất cả các tín hữu đã chịu phép rửa: lắng nghe Cúa Giêsu và trao tặng Ngài cho người khác. Anh chị em đừng quên điều này: trong tuần này, hãy nghe Chúa Giêsu! Rồi tuần tới Anh chị em sẽ nói với tôi xem anh chị em có làm điều này không: có một cuốn sách Phúc Âm nhỏ trong túi hoặc trong sắc, để đọc một đoạn nhỏ trong ngày”.

Giờ đây chúng ta hãy hướng về Mẹ Maria, Mẹ chúng ta và phó thác mình cho sự hướng dẫn của Mẹ để tiếp tục hành trình mùa chay này trong đức tin và lòng quảng đại, học cách leo lên hơn nữa bằng kinh nguyện, và đi xuống bằng tình bác ái huynh đệ.

Chào thăm

Sau khi ban phép lành cho mọi người, ĐTC đã chào thăm tất cả các tín hữu Roma và tín hữu hành hương. Ngài đặc biệt chào những người đến từ giáo phận Valencia bên Tây Ban Nha, các nhóm đến từ thành phố Mannheim bên Đức, và từ Skara bên Thụy Điển.

ĐTC nói thêm rằng: Tôi chào thăm và cám ơn các ban nhạc và ca đoàn đến từ miền Piemonte, Liguria, Emilia và Toscana của Italia cũng như một số chính quyền dân sự. ”Tôi đặc biệt chào Cộng đoàn ĐGH Gioan 23 do cha Oreste Benzi thành lập. Tối thứ sáu tới đây, Cộng đoàn sẽ thực hiện một đàng thánh giá đặc biệt qua các con đường ở trung tâm thành Roma này để cầu cho các phụ nữ nạn nhân của nạn buôn người”.

Tôi mời gọi anh chị em nhớ đến trong kinh nguyện những hành khách và phi hành đoàn của máy bay Malaysia và gia đình họ. Chúng ta hãy gần gũi họ trong lúc khó khăn này”.

ĐTC không quên chào thăm nhiều nhóm tín hữu ở các nơi tại Roma này, các nữ tu dòng Phan sinh hèn mọn Thánh Tâm, đông đảo các trường học ở Italia và các nước khác, đặc biệt là trường Công Giáo Mar Qardakh ở thành Erbil thuộc miền Kurdistan và trường của giáo phận London, bang Ontario, Canada.

Thăm giáo x

Lúc 4 giờ chiều cùng ngày 16-3-2014, ĐTC Phanxicô đã đến viếng thăm giáo xứ Đức Mẹ cầu nguyện ở khu vực Setteville di Guidonia, ngoại ô Roma, về hướng đông bắc, cách Vatican gần 24 cây số.

Đây là giáo xứ thứ 5 thuộc giáo phận Roma được ĐTC đương kim đến viếng thăm. Khi đến đây, ngài gặp gỡ trước tiên là các bệnh nhân và người khuyết tật, rồi gặp các trẻ em, đặc biệt là 150 em sẽ được xưng tội rước lễ lần đầu sau Phục Sinh sắp tới và 73 em sẽ chịu phép thêm sức, trước khi gặp cộng đoàn Con đường tân dự tòng. Như thường lệ, ngài cũng giải tội cho một số tín hữu rồi cử hành thánh lễ cho các tín hữu, trước khi trở về Vatican lúc 8 giờ rưỡi tối.

Ngài đến đây vào lúc 4 giờ chiều, gặp gỡ các thành phần tín hữu trong xứ đạo và cử hành thánh lễ vào lúc 6 giờ chiều.

Trong cuộc phỏng vấn dành cho Đài Vatican, cha sở Francesco Bagalà cho biết tại giáo xứ này vẫn còn thiết các dịch vụ xã hội, trường học, nơi sinh hoạt và các dịch vụ khác. Dân chúng tại đây là người trẻ, ban sáng khoảng 6 giờ họ đi làm và trở về nhà lúc 8 giờ tối. Đây là một khu vực nhà ngủ. Rõ ràng là ở đây không có trường học thật là điều bất tiện. Giáo xứ đảm trách các trường học trong toàn vùng. Đây là một thiếu sót nhưng chúng tôi hy vọng trường sắp được thiết lập tại đây.

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

DÕI BƯỚC THEO CHÚA

DÕI BƯỚC THEO CHÚA

Người ta kể rằng năm ấy dù mới lên mười tuổi, cậu Chai-san đã được bố cho đi theo một đoàn lữ hành phải vượt cao nguyên trùng điệp với những đỉnh đồi, những ngọn núi vừa hùng vĩ vừa thơ mộng. Đêm đến đoàn lữ hành trú ngụ trong những chiếc lều vải thô sơ. Một đêm nọ cậu bé Chai-san cảm thấy có một sức mạnh từ bên trong thúc đầy cậu trốn ra khỏi lều. Và kìa, giữa miền núi cao, bầu trời đầy trăng sao lấp lánh như bao trùm lấy cậu. Một cảm giác hạnh phúc nhẹ nhàng xâm chiếm tâm hồn Chai-san. Cậu có cảm tưởng như cả vũ trụ xinh đẹp này đã được tạo dựng để ban tặng cho cậu, và nó đang nâng tâm hồn cậu lên với Đấng Tạo Hóa.

Bỗng chốc bầu khí yên tĩnh và an bình bị xáo trộn vì tiếng gọi của người cha: “Chai-san, mày trốn đi đâu rồi? Trở vào lều đi”. Chai-san miễn cưỡng trở vào lều và tiếc nuối nói với cha: “Bố ơi, bầu trời trăng sao đẹp quá chừng!”.

Thưa anh chị em,

Trong truyền thống Thánh Kinh cũng như trong hầu hết các tôn giáo, núi cao thường được xem như là nơi gặp gỡ giữa trời và đất, giữa Thần Linh và con người. Những mạc khải quan trọng trong Kinh Thánh đều diễn ra trên núi cao. Môsê đã được kêu mời lên núi Sinai để gặp gỡ Giavê Thiên Chúa và đón nhận lề luật cho Dân Chúa. Êlia đã ròng rã 40 đêm ngày lên núi Horeb để gặp Chúa. Êlisê cũng lên núi Carmel để gặp Chúa. Và Chúa Giêsu cũng khởi sự đời công khai bằng 40 đêm ngày chay tịnh trên núi cao, rồi trong ba năm sứ vụ, Ngài vẫn thường lặng lẽ một mình lên núi để cầu nguyện cùng Cha Ngài.

Trong Tin Mừng hôm này, Chúa Giêsu đã đưa ba môn đệ thân tín nhất lên núi Thabor để tỏ vinh quang của Ngài cho các ông. Từ trên núi cao, Phêrô, Giacôbê, Gioan đã nhận ra được con người và sứ mệnh của Chúa Giêsu. Từ trên đỉnh cao, các ông thấy vinh quang của ngài như một lời hứa được thực hiện, như thành tựu của một sứ mệnh, như đích điểm của một con đường, con đường thập giá dẫn đến vinh quang.

Thế nhưng, thưa anh chị em, người ta không lên núi cao để ở lại đó, mà là để nhìn rõ hơn con đường phải đi. Đối với Chúa Giêsu, con đường phải đi đó chính là con đường lên Giêrusalem với cuộc tử nạn đang chờ đợi Ngài. Và Ngài đã xuống núi để giáp mặt với cuộc đời, để tiếp tục hành trình xuyên qua khổ nạn và cái chết thập giá. Từ trên núi cao, Chúa Giêsu cũng muốn đưa ba môn đệ thân tín của Ngài trở lại cuộc đời, trở lại với những thử thách, chống đối đang chờ đợi trước mắt các ông.

Thật vậy, cuộc tỏ vinh quang của Chúa Giêsu trên núi đã xảy ra sau khi Phêrô tuyên xưng: “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”. Lời tuyên xưng này lại gắn liền với lời Chúa Giêsu loan báo cuộc Thương Khó của Ngài và kèm theo lời mời gọi: “anh em hãy bỏ mình, vác thập giá đi theo Thầy” (Mt 16,24). Vậy là đúng vào lúc các môn đệ đã nhận ra Chúa Giêsu là Đức Kitô, là Đấng Cứu Thế, thì trước mắt các ông hình ảnh một Đấng Cứu Thế oai hùng lẫm liệt theo các ông quan niệm, bắt đầu tan biến, để hiện ra một Đấng Cứu Thế đau khổ, bị đày đọa, bị khai trừ, bị giết chết. Hình ảnh đó thật là khó hiểu đối với các môn đệ, vì lòng tin của các ông còn mộc mạc, phàm tục. Cho nên, chẳng lạ gì, Phêrô đã lên tiếng khuyên can Chúa Giêsu đừng đi theo con đường đau khổ đó làm gì. Nhưng thật không may cho ông, vì Chúa Giêsu cứ khăng khăng một mực, lại còn quay sang mắng ông: “Satan, cút đi!”. Vì ông đã tự đồng hóa với Satan cám dỗ Chúa trong sa mạc.

Rồi bây giờ thì lại cũng chính Phêrô đã dám đề nghị cắm lều ở lại trên núi Thabor, vì ở đây sướng quá, khỏi phải đi qua con đường đau khổ mà ông đã khuyên can Thầy. Nhưng rồi, mở mắt ra, ông thấy chỉ còn một mình Chúa Giêsu trên đỉnh núi. Ánh sáng rực rỡ đã tan biến, và Chúa Giêsu còn đánh thức các ông dậy, giục các ông xuống núi, đi lên Giêrusalem với Ngài để chịu tử nạn như Thầy đã báo trước.

Chính trong giờ phút biến hình rực rỡ vừa rồi, ông Môsê và ngôn sứ Elia đã đàm đạo với Chúa Giêsu về “cuộc ra đi” Ngài sắp hoàn thành tại Giêrusalem, và tiếng Chúa Cha phán: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hết lòng quý mến. Các ngươi hãy vâng nghe lời Ngài”. Lời đó chính là để công nhận, để tán thành bước đường vượt qua đau thương của Chúa Giêsu, và mời gọi các môn đệ hãy đi theo Thầy. Vì thế, mấy Thầy trò lại xuống núi. Và Phêrô cũng như các môn đệ khác phải đi theo sau Thầy qua con đường khổ nạn thập giá mới đến ánh sáng vinh quang Phục Sinh.

Anh chị em thân mến,

Không phải hông có lý do mà phụng vụ năm nào cũng đặt bài Tin Mừng Chúa hiển dung sáng láng hôm nay vào giữa Mùa Chay. Giáo Hội muốn đưa chúng ta lên núi, hé mở cho chúng ta chiêm ngưỡng một chút vinh quang phục sinh của Chúa Giêsu, để chúng ta thêm tin tưởng vào Ngài, để chúng ta có những giây phút nghỉ ngơi lấy sức trước khi xuống núi, trở về với cuộc sống bình thản trên các nẻo đường phẳng lặng hay đầy sóng gió đưa đến núi Can-vê. Chúng ta cần được Chúa đến gần, đưa tay đập vào người như “đã đến gần, vỗ vào người các môn đệ”, để thức tỉnh chúng ta, để chúng ta biết chuẩn bị sẵn sàng đón nhận mọi gian nan đau khổ trên đường đời.

Con đường Thương Khó của Chúa khởi đầu từ khi Ngài xuống núi. Rồi đây, Ngài cũng sẽ biến hình “không còn hình tượng người ta nữa”, để dạy chúng ta biết phải đi qua con đường thập giá mới đến vinh quang khải hoàn sống lại. Trong ngôn ngữ La-tinh, người ta chơi chữ: “Per crucem ad lucem”, nghĩa là “qua thập giá đến ánh sáng”. Qua Thứ Sáu Tử Nạn mới đến Chúa Nhật Phục Sinh. Đường thánh giá không dừng lại ở nấm mồ, nhưng mở ra trong niềm vui tưng bừng của ngày sống lại. Đó là quy luật của muôn đời.

Thưa anh chị em,

Trong cuộc hành trình đức tin của chúng ta, cũng có những giây phút chúng ta được đưa lên núi cao để gặp Chúa, núi cao của Thánh lễ, núi cao của những giờ phút dành cho việc cầu nguyện. Nhưng chúng ta không lên núi để ở đó mãi, mà là để trở lại với cuộc đời với muôn thử thách, đắng cay, với những gặp gỡ từng ngày. Chấp nhận cuộc sống với tinh thần lạc quan, chấp nhận chiến đấu mà không buông xuôi bỏ cuộc, sống như thể là tiếp tục con đường Chúa Giêsu đã đi qua. Chấp nhận những người anh em chúng ta gặp gỡ trên đường đi, chấp nhận những khác biệt, những bất toàn của người anh em cùng đồng hành, sống như thể là dõi bước theo đường Chúa đã đi qua.

Xin ánh sáng Phục sinh của Đức Kitô luôn dẫn bước chúng ta trên đường, để chúng ta biết đón nhận và sống trọn từng phút giây cuộc sống. Xin ánh sáng Phục Sinh của Đức Kitô chiếu dọi và hướng dẫn cuộc hành trình đức tin của chúng ta được tiếp tục trên dấu chân của Ngài.

Veritas Radio

MẮT ĐỨC TIN, MẮT CỦA TRÁI TIM

MẮT ĐỨC TIN, MẮT CỦA TRÁI TIM

Có nhiều điều ta nhìn mà không thấy. Ví dụ: tình yêu, tình bạn, tình mẫu tử. Ta chỉ thấy những dấu hiệu của tình yêu như: sự âu yếm, quà tặng, sự quên mình. Còn chính tình yêu thì ta không thấy. Điều chính yếu thì vô hình. Ta chỉ thấy được bằng trái tim.

Có nhiều điều ta chỉ thấy bề mặt mà không thấy bề sâu. Ví dụ như con người. Khi nhìn một người, ta chỉ thấy diện mạo, hình dáng bên ngoài. Ít khi ta thấy được tâm tư tình cảm của người khác, kể cả những người thân yêu sống kề cận bên ta. Linh hồn người ta không ai thấy bao giờ. Vì linh hồn thiêng liêng. Ta chỉ thấy được bằng đức tin.

Chúa Giêsu xuống thế làm người đã trở nên giống như một người phàm. Người che giấu thần tính vinh quang sáng láng trong một thân xác nghèo hèn, bình thường. Không ai nhận ra thần tính của Người. Ngay cả các môn đệ luôn luôn kề cận bên Người.

Hôm nay, khi Chúa tỏ mình ra các ông chới với ngỡ ngàng. Lòng các ông tràn ngập niềm vui khi nhìn thấy vinh quang của Chúa Giêsu. Thần tính vinh quang phát lộ rực sáng. Và nhân tính được tôn vinh. “Diện mạo Chúa Giêsu chói lọi như mặt trời và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng”.

Thần tính Chúa Giêsu biểu lộ chứng thực Người là Thiên Chúa ẩn mình. Thì ra manh áo đơn sơ của bác thợ mộc che giấu cả một nguồn ánh sáng chói lọi. Tấm thân dân dã nghèo hèn lại là chiếc bình chứa đựng Ngôi Hai Thiên Chúa cao sang.

Ánh sáng thần tính rọi vào nhân tính đem lại cho ta bao niềm hi vọng. Vì nhân tính của Chúa Giêsu gánh lấy cả nhân loại trên mình, nên ánh sáng thần linh cũng soi rọi cả vào chúng ta, vào thế giới tăm tối của tội lỗi, yếu hèn, vào thân xác rã rời mệt mỏi của ta.

Ánh sáng ấy cho tôi hiểu rằng, Thiên Chúa đang ẩn tàng trong vạn vật. Người ở nơi thâm sâu nhất của hữu thể tôi như thánh Augustinô đã cảm nghiệm: “Người ởi bên trong, còn tôi ở bên ngoài”.

Người ẩn tàng trong mọi quan hệ, trong mọi niềm vui, trong mọi tình bạn, trong mọi tình yêu. Bởi vì hạnh phúc là gì nếu không phải đi tìm cái cốt lõi, là nguồn mạch của hạnh phúc, là chính Thiên Chúa hằng sống.

Ánh sáng ấy ngầm nói với tôi rằng: Vinh quang Thiên Chúa như hạt giống đang vùi chôn trong lòng tất cả mọi anh em sống quanh tôi. Vinh quang ấy đang bị che khuất đàng sau những mái tranh thô sơ, những thân thể gầy guộc, những ánh mắt mệt mỏi lờ đờ.

Nhận thức ấy thôi thúc tôi trở về tìm Chúa trong đáy lòng mình. Càng bóc đi lớp vỏ tội lỗi, dung nhan Thiên Chúa càng hiện rõ. Càng chìm sâu vào nội tâm thinh lặng, tôi càng tới gần Chúa.

Nhận thức ấy giúp tôi kính trọng anh em vì anh em là những cung thánh đền thờ nơi Thiên Chúa ngự trị, là những vườn ươm hạt mầm thần linh, là những bình sành chứa đựng kho tàng cao quý.

Như thế, sống Mùa Chay là thực hiện một hành trình nọi tâm: trở về đáy lòng mình để gặp được Chúa.

Ăn chay là đến với anh em bằng thái độ kính trọng, là bảo vệ hạt mầm thần linh đang đâm chồi nảy lộc trong các tâm hồn.

Chương trình hành động trong Mùa Chay là tiếp tay đem ánh sáng thần linh của Chúa Kitô soi chiếu vào những mảnh đời tăm tối, những thân phận hẩm hiu. Sao cho dung nhan nhân loại chói ngời ánh sáng nhân phẩm, ánh sáng văn hoá, ánh sáng lương tâm và ánh sáng thần linh.

Như thế ta đang công tác vào việc biến hình thế giới. Như thế ta đang bước theo chân Chúa Kitô, đưa nhân loại vào hành trình phục sinh.

Lạy Chúa Kitô, xin ban cho con đức tin mạnh mẽ để con nhìn thấy Chúa trong anh em. Xin ban cho con trái tim bén nhạy để con nhìn thấy những thực tại vô hình. Amen.

ĐTGM. Ngô Quang Kiệt

Vinh Quang

VINH QUANG

Để chuẩn bị chương trình cứu độ loài người, Thiên Chúa đã chọn ông Abram làm tổ phụ một dân tộc. Vào thời điểm đó, ông Abram và bà Sara còn hiếm muộn, vì tuổi đã cao mà chưa có con nối dòng. Thiên Chúa đã ban lời hứa: “Ta sẽ làm cho ngươi nên một dân lớn, Ta sẽ ban phúc cho ngươi, cùng làm vinh danh ngươi, ngươi sẽ được diễm phúc.” (St 12,2). Tổ phụ đã bước đi trong niềm tin phó thác và một lòng tin tưởng tuyệt đối vào sự quan phòng của Thiên Chúa. Theo lệnh Chúa, ông bà đã rời quê hương xứ sở đi đến miền đất Chúa hứa. Ông Abram đã trải qua biết bao thử thách thăng trầm. Ông vâng lệnh Chúa một cách vô điều kiện, ngay cả khi Thiên Chúa muốn ông hiến dâng đứa con trai độc nhất làm hy tế. Qua sự trung tín, Abram đã được Thiên Chúa đổi tên thành Abraham. Abraham trở nên tổ phụ của tất cả những người có niềm tin vào Thiên Chúa duy nhất. Ông đã được Thiên Chúa đoái hoài ban cho có con đàn, cháu đống nối dòng trải qua muôn thế hệ từ đời nọ tới đời kia.

Dân tộc Dothái thuộc dòng dõi của Tổ phụ Abraham. Một dân tộc đã được Chúa yêu thương chăm sóc dẫn đường, nhưng cũng là một dân phải chịu nhiều sự đắng cay, khổ đau và thăng trầm nhất trong lịch sử nhân loại. Khoảng năm 1300 trước Công nguyên, dòng dõi con cháu của Tổ phụ Abraham đã rời nước Aicập để tiến vào Miền Đất Hứa. Năm 996 trước Công nguyên, Vua David đã chiếm hữu thành Giêrusalem và đặt làm thủ đô của vương quốc. Con của vua David là vua Salômôn đã xây dựng Đền thờ đầu tiên năm 950 B.C. để kính thờ Thiên Chúa. Năm 586 trước Công nguyên, Đền thờ Giêrusalem đã bị phá hủy bởi Vua Nebuchadezzar và dân chúng đã phải chịu cảnh lưu đầy tại Babylon. Năm 515 trước Công nguyên, con dân được trở về quê hương xứ sở để xây dựng lại Đền Thờ lần thứ hai. Khi Chúa Giêsu xuất hiện rao giảng Tin Mừng, Ngài đã tiên báo về sự sụp đổ của Đền thờ Giêrusalem. Vào năm 70, Đền thờ Giêrusalem đã bị tàn phá bình địa bởi Hoàng đế Titô và chỉ còn để lại bức tường than khóc ô nhục cho tới nay.

Trải qua 20 thế kỷ, dân tộc Dothái chịu trăm ngàn thách đố dưới sự chiếm đóng và đô hộ của nhiều quốc gia. Dân chúng phải đi tản mác khắp nơi trên thế giới. Mãi tới năm 1948, nước Dothái mới được công nhận là một nước độc lập và tự trị. Giêrusalem trở thành thủ đô của nước Dothái (State of Israel). Và nhờ sự quả cảm dũng lực của thần dân Dothái từ khắp mọi nơi trên thế giới, năm 1967, họ đã mở cuộc chiến tranh tấn công 6 ngày vào các nước lân bang của Israel, đã nới rộng và tái chiếm nhiều phần đất của tổ tiên thuở xưa. Gần 2.000 năm lưu lạc, giờ đây, dân tộc Dothái đã chính thức được sống trên phần đất mà các tổ phụ đã dựng xây. Miền đất đã ghi dấu tất cả những giai đoạn thăng trầm qua thời các tổ phụ, các quan án, các vua, các tiên tri và hình thành lịch sử Ơn Cứu Độ. Chính trên miền đất này, Chúa Giêsu đã xuất hiện rao giảng Tin Mừng cứu độ. Một ngày kia, Chúa đã đưa ba môn đệ lên núi Tabo và biến hình vinh quang trước mặt các ông. Thiên Chúa vẫn đoái thương con dân mà Người đã chọn: “Ta sẽ ban phúc cho ai chúc phúc ngươi, và chúc dữ cho ai chúc dữ ngươi. Mọi dân tộc trên mặt đất sẽ nhờ ngươi mà được diễm phúc.” (St 12,3).

Tất cả những lời giảng dạy uy quyền cùng với những phép lạ kèm theo đã chứng thật Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa. Chúa đã hạ mình nhập thể mặc lấy thân xác loài người để cư ngụ giữa chúng ta. Chúa biến hình là trở về tình trạng nguyên thủy của Đấng là trung gian vạn vật. Chúa đã muốn mạc khải bản tính Thiên Chúa cho các môn đệ. Người đã tỏ hiện vinh quang cao cả đích thực: “Người biến hình trước mặt các ông: mặt Người chiếu sáng như mặt trời, áo Người trở nên trắng như tuyết.” (Mt 17,2). Chúa biến hình là để củng cố niềm tin và khai mở mầu nhiệm về sự sống vĩnh cửu cho các Tông đồ. Nhưng rồi Chúa Giêsu không dừng lại trong sự biến hình vinh quang sáng láng, Ngài còn phải xuống núi dấn thân hoàn tất con đường thánh giá khổ đau để cứu độ nhân loại. Đây chỉ là một khoảnh khắc hé mở một niềm hy vọng vinh phúc bất diệt.

Cùng hiện diện với Chúa Giêsu, có ông Môsê và tiên tri Êlia và ba Tông đồ Phêrô, Gioan và Giacôbê đi theo Chúa. Phêrô sung sướng chìm đắm trong nguồn ân sủng cõi thiên đã muốn lưu lại trong cảnh giới thần tiên: “Lúc ông còn đang nói, thì có một đám mây sáng bao phủ các Ngài, và có tiếng từ trong đám mây phán rằng: ‘Đây là Con Ta yêu dấu rất đẹp lòng Ta, các ngươi hãy nghe lời Người.’” (Mt 17,5). Thiên Chúa Cha đã chứng nhận sứ mệnh cao cả của Chúa Giêsu Cứu Thế. Kinh nghiệm trên núi Taborê là nguồn hy vọng sáng ngời cho các tông đồ và cho chúng ta còn đang lữ hành dưới thế. Chúa Giêsu sẽ dẫn chúng ta qua con đường thập giá tới vinh quang. Chúng ta không thể đi con đường tắt để đạt được triều thiên vinh thắng. Các tông đồ đã xác tín con đường đi theo Chúa.

Trong Mùa Chay Thánh, chúng ta có cơ hội trở về nguồn để suy gẫm sứ vụ của Chúa Kitô. Ngài đã từng bước trải nghiệm những cám dỗ, những đau khổ và vinh quang. Con đường mòn Chúa đã đi loan báo tin mừng không đơn giản, dễ dàng. Cụ thể, Chúa đã phải trèo dốc, vượt đồi, lên non và với đôi chân trần rảo khắp các làng mạc và thành thị. Chúa không chỉ giảng dạy nơi hội đường, nhưng đã rong ruổi khắp chốn quy tụ từng nhóm nhỏ mời gọi sám hối đổi đời, dạy dỗ sự thật về Nước Trời và chữa lành bệnh hoạn tật nguyền cả thân xác và tâm hồn. Trong 3 năm giảng dạy, Chúa đã thi hành sứ vụ từ Galilê, miền Nazareth, qua ngả Samaria và xuống Giuđêa, trọng tâm là Giêrusalem. Khoảng cách từ Bắc xuống Nam rất xa xôi và núi non hiểm trở. Chúa đã tận dụng mọi cơ hội để cải hoá lòng người và uốn nắn trái tim của họ trong tình yêu.

Thánh Phaolô trong thư gửi Timôthêô đã mời gọi sự cộng tác loan truyền Tin Mừng cứu độ: “Con thân mến, con hãy đồng lao cộng tác với Cha vì Tin Mừng, nhờ quyền lực của Thiên Chúa.” (2 Tm 1,8). Phaolô tự nhận là đứa con đẻ non trong ân sủng cứu độ của Chúa, nhưng ông đã hết mình truyền rao chân lý mà ông đã lãnh nhận từ chính Chúa Kitô Phục Sinh. Cho dù đối diện với sự khó khăn, bị xua trừ, bắt bớ, đánh đập, tù đày và ngay cả sự chết, Phaolô vẫn một niềm tin tưởng và cậy trông vào sự sống trường sinh và vinh quang bất diệt mà Chúa Kitô sẽ thưởng ban. Tin Mừng cứu độ đã được tiếp tục truyền rao đến khắp cùng bờ cõi, những ai tin vào Chúa Kitô thì sẽ được lãnh ơn cứu độ.

Chúa Kitô đã đến trần gian và đã hoàn tất sứ vụ của Ngài. Ngài đã chiến thắng sự dữ và thần chết. Lời Tin Mừng của Chúa có uy lực giải thoát và dẫn đường chúng ta bước vào miền đất trường sinh. Chúng ta không còn phải tìm kiếm đâu xa, nhưng hãy trở về múc tận nguồn ơn cứu độ trong niềm tin vào Chúa Kitô, vào Thánh Kinh và đời sống Bí tích của Giáo Hội. Tin Mừng sẽ giải thoát và dẫn dắt chúng ta tới vinh quang sáng ngời. Thánh Phaolô viết: “Nhưng bây giờ mới tỏ bày bằng sự xuất hiện của Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu Chuộc chúng ta, Người đã dùng Tin Mừng tiêu diệt sự chết và chiếu soi sự sống, và sự không hư nát được tỏ rạng.” (2 Tm 1,10). Sự biến hình của Chúa Giêsu là dấu chứng kỳ diệu và là niềm hy vọng tuyệt đối cho mọi kẻ còn đang lữ hành giữa biển đời ô trọc này.

Lạy Chúa, vinh quang của Chúa chói lòa. Chúa là ánh sáng chiếu dọi vào thế gian u tối. Xin cho chúng con biết dõi theo ánh sáng của Chúa để tìm về nguồn an lạc và nguồn sống vinh phúc trường sinh.

Lm. Giuse Trần Việt Hùng

Nghe lời Người

Nghe lời Người

Sau khi được tiên báo về cuộc Thương khó Chúa Giêsu sắp phải trải qua, các môn đệ đã xuống tinh thần trầm trọng, thậm chí các ông còn ngần ngại đồng hành với Chúa lên Giêrusalem.

Tin mừng Nhất Lãm tường thuật lời loan báo về cuộc tử nạn. Chúa Giêsu đưa Nhóm Mười Hai đi lên Giêrusalem, dọc đường, Người nói với các ông: “Này chúng ta lên Giêrusalem, và Con Người sẽ bị nộp cho các thượng tế và kinh sư. Họ sẽ kết án xử tử Người, sẽ nộp Người cho dân ngoại nhạo báng, đánh đòn và đóng đinh vào thập giá và ngày thứ ba, Người sẽ chỗi dậy” (Mt, 17-19).

Theo tin mừng Luca và Maccô, các môn đệ không hiểu và sợ hãi khi nghe Thầy loan báo về cuộc thương khó. “Nhưng các ông không hiểu gì cả; đối với các ông, lời ấy còn bí ẩn, nên các ông không rõ những điều Người nói” (Lc 18,34); “Người dẫn đầu các ông. Các ông kinh hoàng, còn những kẻ theo sau cũng sợ hãi. Người lại kéo riêng Nhóm Mười Hai ra, và bắt đầu nói với các ông về những điều sắp xảy đến cho mình” (Mc 10,32).

Vì không hiểu nên sợ. Sợ nên không muốn đi. Phêrô kéo riêng Chúa ra mà ngăn cản và trách móc. Chúa trách mắng Phêrô, nhưng để giúp Phêrô cần có sự can thiệp của Chúa Cha. Vì thế, biến cố Biến Hình đã xảy ra (Mt 17,1-9).

Chúa đưa ba môn đệ lên núi Tabor. Biến Hình rực rỡ nhằm củng cố tinh thần cho các môn đệ sau khi Chúa loan báo cuộc khổ nạn.

1. Núi Tabor

Tôi được diễm phúc lên Núi Tabor. Từ khách sạn ở Nazareth xe đi qua những thung lũng với nhiều vườn cây ôliu, vườn chuối, vườn cam xanh tươi ngút mắt. Tabor là ngọn núi rất đẹp, nó đưa mình lên êm ả từ một cánh đồng cỏ xanh. Xe buýt chỉ đến chân núi, sau đó phải đổi xe chuyên leo núi. Lên dốc cao, đường ngoằn ngoèo theo vòng xoáy trôn ốc như đường Đèo Ngoạn Mục. Trời thật lạnh khoảng 4độ, gió thổi rét buốt trên đỉnh có độ cao 600m làm ai nấy run lên vì lạnh.

Núi Tabor có một ngoại hình rất cân đối. Núi mọc lên giữa cánh đồng như một bàn thờ giữa trời đất, giống như lễ đàn của các bộ lạc để tế thần minh. Lúc Chúa Giêsu đem ba môn đệ yêu quý lên đây, không gian phải rất im vắng. Chỉ có gió vi vu và mây nắng với rừng cây thắm một màu xanh hùng vĩ.

Núi tiêu biểu cho quyền năng và vinh quang của Thiên Chúa. Núi là nơi mặc khải những điều trọng đại như khi xưa Thiên Chúa hiển linh trên núi Sinai với Môsê, núi Khoreb với Êlia, núi Tabor với ba môn đệ. Từ đỉnh núi, nhìn về hướng nam là làng Naim, một thành cổ hiện tại người Ảrập sinh sống, nơi đây Chúa cho con trai bà goá sống lại. Nazareth, một thị trấn sầm uất về hướng tây và Biển hồ Galilê mênh mang phía đông. Tabor, ngọn núi thiêng tạo thành một tam giác đều. Cả ba nơi đều gắn liền với cuộc đời Chúa Giêsu: lớn lên, truyền đạo và hiển dung. Bên ngoài, phía trái Nhà thờ vẫn còn dấu vết tường đá tu viện các cha dòng Bênêđictô một thời Trung cổ huy hoàng.

Theo sử gia Josephus thì nhóm Nhiệt Thành (Zelot) đã chiến đấu với quân Roma tại đây vào năm 66tcn. Năm 1634 các thầy Phanxicô mới dành lại được ngọn núi này từ tay quân Thổ. Nhưng mãi gần 300 năm sau mới xây được Nhà thờ.

Nhà Thờ Hiển Dung xây dựng từ năm 1925 do các cha dòng Phanxicô phụ trách. Mặt tiền nhà thờ lối kiến trúc nổi bật với hai ngọn tháp vuông cao vút. Bên trong hai ngọn tháp này là hai nguyện đường nhỏ kính tổ phụ Môisen và Êlia. Một bức tranh tuyệt đẹp theo nghệ thuật mosaic phía trên bàn thờ vòm cung thánh. Chúa biến hình trong hào quang rực sáng. Hai bên có Môisen trên núi Sinai và Êlia trên núi Carmel. Phía dưới là ba môn đệ Phêrô, Gioan và Giacôbê.

2. Biến hình

Tường thuật biến cố biến hình, cả ba Phúc âm đều nhấn mạnh đến thái độ hoảng sợ của các môn đệ. “Thực ra, ông không biết phải nói gì, vì các ông hoảng sợ” (Mc 9,6); “Khi thấy mình vào trong đám mây, các ông hoảng sợ” (Lc 9,34); “Nghe vậy, các môn đệ kinh hoàng ngã sấp mặt xuống đất” (Mt 17,6). Và khi Phêrô “ngã sấp mặt xuống đất” thì Chúa đến chạm vào ông và bảo: “Chỗi dậy đi, đừng sợ”.

Các môn đệ không thể hiểu được hành trình của Đấng Cứu Thế sao lắm gian nan; kẻ theo Ngài làm sao không ngại ngùng sợ hãi cho được! (x. Mt 17,13-14; Mc 8,34; Mt 8,18; Mc 13,9; Lc 9,26).

Nếu người ta làm an toàn những viên thuốc đắng bằng vỏ bọc kẹo ngọt; Chúa Giêsu hoá giải tin cuộc khổ nạn bằng cuộc Biến Hình rực rỡ. Bọc kẹo chứ không bọc thuốc ngũ. Hoá giải chứ không gây mê. Chúa cho các môn đệ thấy trước một thoáng Phục Sinh trước Phục Sinh. Chúa cho cảm nếm một chút Thiên đàng. Các ông đã tưởng là Thiên Đàng nên Phêrô xin làm ba lều để an nhàn trên núi cao, ngũ yên trong hào quang, quên đi các bạn và các cuộc truyền giáo dưới chân núi. Các ông không biết rằng Thầy Giêsu chỉ lên đỉnh Tabor trong chốt lát rồi xuống núi chuẩn bị vác thập giá bước vào cuộc thương khó. Hai đỉnh núi Tabor và Calvariô không xa nhau lắm về mặt địa lý, nhưng lại là con đường vạn lý. Chúa Giêsu đã nối kết hai đỉnh núi bằng con đường tình yêu cứu độ.

Biến cố Chúa biến hình trên núi Tabor là một trong những biến cố đặc biệt. Nó trở nên như một ngôi sao sáng cho các môn đệ trong đêm tối của những gian nan thử thách. Biến cố ấy vẫn luôn ghi đậm trong ký ức của các môn đệ. Nó là một điểm tựa, là một trợ lực cho đức tin của các ngài trong suốt tiến trình theo Chúa Giêsu.

Câu chuyện Chúa Biến hình trên núi Tabor được đặt làm sườn cho cả văn kiện “Tông Huấn Vita Consecrata” (đời sống thánh hiến). Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II ban hành ngày 25.3.1996, đúc kết những thành quả của Thượng Hội Đồng Giám Mục tháng 10.1994. Tông Huấn trình bày vẻ đẹp của đời tu. Con đường tu đức được ví như một cuộc đi tìm cái đẹp (số 19),hướng tới sự chiêm ngưỡng nhan Chúa, chân phúc dành cho các tâm hồn trong trắng. Các Tu sĩ đã bị thu hút bởi vẻ đẹp của Chúa; họ mê say chiêm ngưỡng Chúa, để rồi phản chiếu khuôn mặt rạng rỡ của Ngài (số 27); sau khi lên núi chiêm ngắm Chúa Biến Hình, các môn đệ được mời hãy đi xuống núi để phục vụ (số 75); họ còn phải trèo lên một núi khác đó là núi Calvariô (số 14;40). Nhiều năm huấn luyện trong nhà dòng, người thanh niên nam nữ nhiều khi phải “sinh” ra bốn năm lần mới biến hình nên một Tu sĩ: từ ứng sinh, thỉnh sinh, tiền tập sinh, tập sinh, khấn sinh, nhiều năm sau mới khấn trọn đời và vẫn tiếp tục hành trình biến đổi đời mình nhờ gặp gỡ Chúa Kitô.

3. Nghe Lời Người

Người sống đời tận hiến cũng như người tín hữu, muốn được “biến hình” trong đời sống cũng như muốn được trở nên “con yêu dấu” của Thiên Chúa cần phải “vâng nghe lời Người”. Không chỉ nghe bằng tai bằng mắt mà còn nghe bằng hết tâm hồn cũng như bằng cả cuộc đời quy chiếu sống theo Đức Kitô.

Cả ba Phúc âm đều tường trình tiếng nói từ trời cao. Lời Chúa Cha như giới thiệu, chuẩn nhận Chúa Con và là lệnh truyền cho chúng ta. “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người” (Mt 17,5); “ Đây là Con yêu dấu của Ta. Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người” (Mc 9,6); “Đây là Con Ta, Người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người” (Lc 9,35).

Các ngươi hãy vâng nghe lời Người”. Đó là lệnh truyền của Chúa Cha, là điệp khúc kết luận của tiếng nói từ trời cao. Điệp khúc quan trọng vì cả ba Phúc âm đều nói đến. Lời của Chúa Kitô chính là chuẩn mực, là lề luật tuyệt đối mang lại ơn cứu độ cho nhân loại. Lời của Chúa Kitô là Lời Giao Ước vĩnh cửu cho con người được tham dự vào sự sống thần linh của Thiên Chúa Ba Ngôi.

Các ngươi hãy vâng nghe lời Người”, một phán quyết long trọng và công khai của Chúa Cha. Từ nay, vâng nghe Lời Chúa Kitô, chúng ta sẽ được biến hình với Chúa Kitô, cùng được hưởng vinh quang Phục sinh với Chúa Kitô.

Chẳng ai gặp Thiên Chúa thực sự mà lại không biến hình. Ðời sống kết hiệp thực sự với Thiên Chúa làm cho người Kitô hữu tỏa sáng rực rỡ. Biến hình không phải là trở thành cái gì khác mình, như Tôn Ngộ Không với các trò biến hoá. Biến hình là trở lại với cái tôi sâu thẳm của mình, tôi là con yêu dấu của Thiên Chúa. Từ khi chịu phép Thánh Tẩy, chúng ta đã bước vào một cuộc biến hình, từ từ và liên tục

Một nhà giáo dục nổi tiếng người Pháp đã tâm sự về cuộc đời của ông: Khi còn trẻ, tôi có tinh thần cách mạng và mỗi khi cầu nguyện, tôi luôn cầu xin Chúa một điều là: Lạy Chúa, xin ban cho con nghị lực để biến đổi thế giới này. Khi đã lớn tuổi và nhận thấy gần quá nửa đời người trôi qua mà tôi không thay đổi được một người nào hết, nên tôi đã thay đổi lời cầu nguyện của tôi như sau: Lạy Chúa, xin ban cho con nghị lực để biến đổi những người trong gia đình của con. Giờ đây tôi đã già nua và những ngày còn lại chỉ đếm được trên đầu ngón tay, nên lời cầu nguyện của tôi lại được thay đổi một lần nữa như sau: Lạy Chúa, xin ban cho con nghị lực để biến đổi chính mình con. Và ông kết luận: Nếu tôi biết cầu nguyện như thế này từ ngày còn trẻ thì tôi đã không uổng phí cả cuộc đời.

Mùa Chay Thánh là mùa chiến đấu thiêng liêng, giúp mỗi người sống sống chay tịnh và hy sinh, cầu nguyện và tập nhân đức, chế ngự và làm chủ bản thân. Đây là thời gian thánh giúp từng người sám hối canh tân bản thân dưới ánh sáng Lời Chúa và thực hành ăn chay cầu nguyện theo lời dạy của Chúa Giêsu.

Lạy Chúa, Chúa đã dạy chúng con phải vâng nghe Con yêu dấu của Chúa; xin lấy lời hằng sống nuôi dưỡng đức tin của chúng con, nhờ vậy cặp mắt tâm hồn chúng con sẽ trong sáng để nhìn thấy vinh quang Chúa tỏ hiện trong cuộc đời chúng con. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con. Amen. (Lời nguyện Nhập lễ, Chúa Nhật II Mùa Chay).

Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

“BẢN TÍNH KHÓ DỜI”

“BẢN TÍNH KHÓ DỜI”

Tiếng đứa em lanh lảnh nói: Chị hai sao lại bỏ anh rể?

+ Vì anh ấy cờ bạc, rượu chè nên chị không chịu được.

+ Nhưng anh ấy đã có tật cờ bạc, rượu chè trước khi lấy chị mà.

+ Vì chị tưởng là thời gian anh ấy sẽ biến đổi, ai ngờ càng ngày càng tệ hơn!

Người xưa thường có câu: “Bản tính khó dời”, “chứng nào tật ấy” đều nói lên tính cách của một con người khó mà thay đổi được. Thay đổi một thói quen của con người thì có thể, nhưng rất khó lòng thay đổi bản tính một khi đã ăn sâu trong con người của họ.

Thói hay chửi của Chí Phèo là một điển hình. Chí Phèo đã được Nam Cao phác họa như một tên vô lại, tối ngày say sỉn, chỉ làm được một việc duy nhất là chửi khống và ăn vạ. Về tài chửi của hắn, Nam Cao tả: Hắn vừa đi vừa chửi. Bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn chửi. Bắt đầu chửi Trời. Có hề gì? Trời có của riêng nhà nào? Rồi hắn chửi đời. Thế cũng chẳng sao: đời là tất cả nhưng chẳng là ai. Tức mình hắn chửi ngay tất cả làng Vũ Ðại. Nhưng cả làng Vũ Ðại ai cũng nhủ: “Chắc nó trừ mình ra!”. Không ai lên tiếng cả. Tức thật! Ồ! Thế này thì tức thật! Tức chết đi được mất!

Ðã thế, hắn phải chửi cha đứa nào không chửi nhau với hắn. Nhưng cũng không ai ra điều. Mẹ kiếp! Thế thì có phí rượu không? Thế thì có khổ hắn không? Không biết đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn cho hắn khổ đến nông nỗi này? A ha! Phải đấy, hắn cứ thế mà chửi, hắn chửi đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn, đẻ ra cái thằng Chí Phèo! Hắn nghiến răng vào mà chửi cái đứa đã đẻ ra Chí Phèo.

Xem ra ở đời ai cũng có tật xấu. Ai cũng có điều phải sửa, vì “nhân chi sơ tính bản thiện”, nhưng thời gian đã biến chúng ta ra xấu xa bởi biết bao thói hư tật xấu. Sự khôn ngoan nhắc nhở chúng ta phải cố gắng biến mình trở lại hình ảnh ban đầu, đừng ngoan cố sống trong tội lỗi, hãy sửa mình nên hoàn thiện theo hình ảnh của Chúa. Một hình ảnh tinh tuyền không để dục vọng làm chủ. Một hình ảnh trong sáng không để vẩn đục bằng những thói hư tật xấu.

Hôm nay, Chúa biến hình trở về với căn tính Thiên Chúa của Ngài. Phê-rô đã ngây ngất khi chiêm ngắm dung nhan thật của Thầy Giê-su. Phê-rô cùng các môn đệ càng thêm xác tín về Thiên tính trong con người của Thầy Giê-su. Phê-rô cảm thấy toại nguyện và chỉ còn mong muốn một điều duy nhất là được ở bên Chúa mãi mãi.

Sứ điệp ngày lễ Chúa hiển dung như nhắc nhở chúng ta nhớ mình là họa ảnh của Thiên Chúa. Con người được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa, thế nên con người phải giữ mãi vẻ đẹp tinh tuyền của phẩm giá con người. Nếu có những đam mê tật xấu làm chúng ta biến chất thì đây là dịp Chúa nhắc nhở chúng ta phải biến hình mỗi ngày trở về với căn tính của chúng ta là hình ảnh của Chúa? Là hình ảnh của Chúa thì không thể làm tôi cho ma quỷ ? Là hình ảnh của Chúa thì không thể để cho dục vọng lôi kéo chúng ta làm điều xấu? Là hình ảnh của Chúa chúng ta phải luôn hướng về sự thiện, luôn có những ước mơ thanh cao, luôn sống vị tha và phục vụ mọi người.

Tiếc rằng, con người hôm nay đã để mình biến chất trong dòng đời lắm cám dỗ bon chen. Nhiều người đã bán rẻ phẩm giá làm người để đổi lấy chút danh lợi thú trần gian. Nhiều người đã không chỉ biến chất mà còn biến dạng khi lao mình tìm kiếm và thỏa mãn dục vọng đến nỗi xem thường luân thường đạo lý làm người. Đôi khi còn vì danh lợi thú mà làm hại đồng loại, mà gây nên biết bao đau thương cho nhân thế.

Ước gì mỗi người chúng ta hãy biết mình là hình ảnh của Thiên Chúa thật tốt đẹp biết bao, để biết trân trọng, gìn giữ nét đẹp đó trong cuộc sống của mình. Đồng thời cũng biết trân trọng vẻ đẹp ấy nơi tha nhân qua đời sống bác ái, vị tha. Xin Chúa giúp chúng ta biết biến đổi mình mỗi ngày trở nên giống Chúa hơn trong suy nghĩ và hành động hầu xứng đáng là con cái Thiên Chúa. Amen.

Lm. Jos Tạ Duy Tuyền

Xin Ơn Sống Mùa Chay

Xin Ơn Sống Mùa Chay

Mùa Phụng Vụ lại dẫn chúng ta đến một tâm tình khác, mùa có chút bi thương buồn bã hơn, nhưng lại là mùa chuẩn bị cho chúng ta đón nhận một món quà thật to lớn từ Thiên Chúa. Ngôi Hai Thiên Chúa đã xuống thế làm người. Việc Người trở nên đồng hóa với con người đã là một dấu chỉ vô cùng to lớn cho tình yêu mà Thiên Chúa dành cho nhân loại. Thế nhưng, ngay từ khi Người giáng thế, đã có biết bao dấu chỉ xảy đến gợi nhắc chúng ta về một sự hy sinh khác cao cả và vô cùng ý nghĩa mà Người sẽ tiếp tục thực hiện vì ơn cứu độ cho toàn thể con người. Từ Đông Phương xa xôi, các đạo sỹ lần theo ánh sao đêm để triều yết Hài Nhi. Trong số những món quà họ mang theo để biếu Người, có nhũ hương và mộc dược, thứ dùng để ướp xác người chết. Khi Người chịu phép cắt bì, ông Simêon đã nói về một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn Maria. Biến cố lạc mất Giêsu trong Đền Thờ năm 12 tuổi cũng nói về một cuộc chia ly nào đấy sẽ đến về sau. Khi khởi sự sứ mạng công khai, Gioan Tẩy Giả đã giới thiệu Giêsu như là “con chiên của Thiên Chúa”, một con vật bị đem đi sát tế để đền tội cho muôn người. Đỉnh cao của công cuộc cứu thể được thực hiện nơi Đức Giêsu là cái chết của Người. Nhưng đấy không phải là một cái chết bình thường. Ngoài những hàm oan và đau đớn, vốn là cái bề ngoài mà ta có thể thấy được nơi sự hy sinh của Đức Giêsu trên thập giá, cuộc Tử Nạn của Đấng Cứu Thế còn mang một ý nghĩa thiêng liêng cao vời, mà trong mùa chay này, chúng ta được mời gọi để trầm mình chiêm ngắm.

Mùa chay là mùa chúng ta được mời gọi để suy nghĩ về tình yêu, một tình yêu đích thực, trong suốt nhưng cũng có phần lạ kỳ nhất trong lịch sử nhân loại: tình yêu của Thiên Chúa dành cho từng người tội nhân chúng ta. Vì yêu thương chúng ta, vinh quanh lẫy lừng của một Thiên Chúa, Giêsu cũng chẳng màng chi đến. Ngài chấp nhận bị nộp vào tay người đời, bị xem là đồ bị nguyền rủa và xấu xa. Ngài đến để thi ân giáng phúc cho người ta, nhưng chính Ngài lại bị chính những người mình yêu bội phản và giết chết mình. Ấy vậy mà Ngài không hề buông ra một lời phản kháng, trái lại, còn an ủi, còn nói lời thứ tha. Khi yêu, người ta chẳng màng chi đến mình nữa. Tất cả những gì người ta làm chỉ nhắm đến hạnh phúc và tương lai tươi sáng của người mình yêu. Giêsu đã yêu mà không hề chiếm giữ, yêu mà vẫn tôn trọng tự do, Ngài chỉ mong chờ, chứ không bắt buộc người mình yêu phải yêu mình như thế. Chúng ta có cảm nghiệm được tình yêu này của Giêsu trong cuộc đời mình không?

Mùa chay cũng là mùa chúng ta được mời gọi để suy nghĩ về vinh quang thập giá của người môn đệ Chúa. Nếu như người đời vẫn quan niệm vinh quang là có thật nhiều của cải và quyền lực, được người khác tâng bốc và tung hô, có thể sai khiến được nhiều người, thì vinh quang của chúng ta – những người môn đệ Chúa là lấy phục vụ làm đầu, là dành phần hơn cho người khác, lãnh phần thiệt hại về phía mình. Vinh quang của thập giá không phải cố chiếm vị trí trọng tâm để người khác hướng về mình với sự ngưỡng mộ và ca khen, nhưng là âm thầm rút về đằng sau, hy sinh mà không đòi đền đáp, cho đi mà chẳng mong đáp đền. Vinh quang của thập giá hệ ở tình yêu và lấy sự tha thứ làm phương dược xoa dịu đi tất cả những oán hờn căm phẫn, những ác độc mưu toan. Ai trong chúng ta cũng mong muốn mình làm lớn, chẳng ai thích cúi mình, thích phục vụ. Người nào có thể quên đi lợi ích của mình vì người khác, ấy mới thật sự là một con người dũng mãnh và phi thường. Sẽ dễ hơn cho chúng ta để sống một cuộc đời hưởng thụ. Nhưng nếu chúng ta dám sống hai chữ “hy sinh”, ta mới thật sự là người đáng hưởng phúc lộc “vinh quang”. Chúng ta đang tìm kiếm vinh quang của Thiên Chúa hay vinh quang của người đời? Có bao giờ ta xác tín rằng “vinh quang của ta là thập giá Đức Kitô” chưa?

Thời gian mùa chay cũng mời gọi chúng ta hãy nhớ đến thân phận tro bụi của mình, nhớ đến cái kết cục thảm khốc mà ai cũng phải tiến đến là cái chết, nhớ đến những ảo tưởng và phù hoa mà tiền tài và danh vọng ở thế gian này bày vẽ trước mặt ta. Hãy suy nghĩ về cái chóng qua của một kiếp con người? Cũng tựa như những cánh hoa tươi trong vườn. Một thời hoa cũng thơm hương, gọi mời ong bướm muôn phương, nhưng rồi cũng có ngày hoa trở nên xơ xác. Cao sang mấy, danh vọng mấy, rồi có ngày chúng cũng sẽ trôi tuột khỏi bàn tay ta. Ta được mời gọi để hướng đến một điều gì đó bền vững hơn, chắc chắn hơn, một tài sản cao quý hơn trên Nước Thiên Đàng sau khi chết. Ta hãy tìm cách tích trữ của cải ấy qua đời sống cầu nguyện, qua những việc hy sinh và qua những việc bác ái.

Chúng ta hãy cầu xin Chúa ban ơn cho chúng ta, giúp chúng ta có được một sự chuẩn bị thật chu đáo trong mùa chay thánh này, để có thể đón chờ hồng ân cứu độ của Thiên Chúa.

Pr. Lê Hoàng Nam, SJ

Kỷ niệm một năm Giáo Hoàng của Đức Thánh Cha Phanxicô

Kỷ niệm một năm Giáo Hoàng của Đức Thánh Cha Phanxicô

VATICAN. Hôm 13-3-2014, Giáo Hội đã mừng kỷ niệm 1 năm ĐHY Jorge Bergoglio SJ được bầu làm Giáo Hoàng Phanxicô.

Cha Lombardi, Giám đốc Phòng báo chí Tòa Thánh cho biết, ngày kỷ niệm 1 năm của ĐTC Phanxicô không có gì đặc biệt: ĐGH cầu nguyện và trong một Tweet, ngài xin mọi người cầu nguyện cho ngài.

Rất nhiều điện văn đã được gửi về Vatican để chúc mừng ĐTC, trong khi ngài và các vị lãnh đạo tại Tòa Thánh tham dự tuần tĩnh tâm mùa chay tại Ariccia (cách Roma 30 cây số) từ chiều 9 đến sáng 14-3-2014.

Ngoài điện văn của các vị lãnh đạo Công Giáo, người ta cũng đặc biệt chú ý đến điện văn của Đức Thượng Phụ Kirill I, Giáo Chủ Chính Thống Nga, trong đó có đoạn viết: ”Năm đầu tiên triều đại Giáo Hoàng của Ngài được đánh dấu bằng những hy vọng lớn và những công trình quan trọng của Giáo Hội Công Giáo.. Sự dấn thân của Ngài trong việc làm cho các lý tưởng Tin Mừng hiện diện trong đời sống xã hội hiện đại đã mang lại những thành quả… Sự chăm sóc và quan tâm của ĐGH đối với người đau khổ nhắc nhớ cho mọi người về nghĩa vụ yêu thương huynh đệ”.
Đức Thượng Phụ Kirill cũng nhấn mạnh rằng ”Các quan hệ song phương giữa Công Giáo và Chính Thống Nga đã được phát triển thêm trong năm qua.. Tôi đánh giá mức độ cao trong sự cảm thông và dấn dấn của hai bên nhắm củng cố sự cộng tác giữa Chính Thống và Công Giáo, trong việc củng cố các giá trị luân lý, tinh thần Kitô giáo trong thế giới ngày nay, việc bảo vệ những người bị áp bức và chân thành phục vụ tha nhân”, đó là những lãnh vực cộng tác giữa Giáo Hội Chính Thống và Giáo hội Công Giáo Roma” (AGI 13-3-2014)

Một số nhận định và cảm tưởng

Phái viên hãng tin Công Giáo Hoa Kỳ ở Roma đã thu thập cảm tưởng và nhận định của một số Hồng Y về năm đầu tiên của ĐGH Phanxicô, nhân dịp các vị về Roma tham dự công nghị đặc biệt của hồng y đoàn về các vấn đề mục vụ gia đình và lễ phong 19 Hồng y mới (từ 21 đến 23-2-2014):

ĐHY Donald Wuerl, TGM giáo phận Washington, thủ đô Hoa kỳ, nhận định rằng ”Năm qua thật là một năm ngoại thường. ĐGH Phanxicô đã có thể giúp dân chúng nhìn thấy khuôn mặt của Chúa Kitô hữu hình trong Giáo Hội của Ngài. Thật là một món quà đặc biệt và là một thách đố cho tất cả chúng ta”.

Đức tân Hồng Y Vincent Nichols, TGM giáo phận Westminster Thủ đô Anh quốc, thì nói: ”ĐGH Phanxicô mang lại những món quà đặc biệt cho vai trò của ĐGH. Ngài mang cho mỗi người một động lực hăng hái lớn lao và niềm vui được là người Công Giáo, một thách thức sâu đậm làm sao để cuộc sống của chúng ta có Chúa Kitô là trung tâm. Ngài mời gọi đổi mới quyết liệt trong Giáo Hội bắt đầu từ gốc rễ. ĐGH đi tới trọng tâm sự hiện hữu của Giáo Hội, cho thấy lý do tại sao Giáo Hội hiện hữu: nghĩa là chúng ta là những môn đệ thừa sai của Chúa. Chúng ta được mời gọi tháp tùng Chúa và được kêu gọi đi ra ngoài để chia sẻ Tin Mừng”.

ĐHY Luis Tagle, TGM giáo phận Manila, Philippines, nói: ”Đối với tôi, ĐGH Phanxicô là một người có niềm vui sâu xa trong nội tâm. Năm đầu tiên của ngài biểu lộ rất nhiều điều mà tôi tin tưởng. Ví dụ ĐGH nói Giáo Hội cần phải khiêm tốn hơn, là một Giáo Hội lắng nghe, một Giáo Hội không tự phụ là có mọi câu trả lời, một Giáo Hội có thể bị hoang mang như những người khác khi cuộc sống của họ bị xáo trộn, một Giáo Hội im lặng – thứ im lặng của người chiêm niệm, chứ không phải im lặng vì phẫn nộ.. Nhiều người quí chuộng điều đó, nhưng một số thành phần trong Giáo Hội thì không. Họ giải thích sự thái độ cảm thông, thinh lặng, lắng nghe của bạn như một sự khuất phục đối với thế gian và là một sự lơ là với sứ vụ ngôn sứ. Nhưng sứ vụ ngôn sứ là điều rộng rãi hơn là thái độ phẫn nộ. Tôi nghĩ cứ la ó, la làng, đó không phải là phương thức thích hợp để giải quyết các vấn đề..”

ĐHY Tagle nói thêm rằng: ”Tôi rất vui mừng vì ĐTC trở lại với lối sống hợp với Tin Mừng hơn, một lối sống dẫn đưa chúng ta đến chỗ tự phê bình về những gì chúng ta đã thừa hưởng và thanh tẩy những điều đó dưới ánh sáng Phúc Âm”.

ĐHY Oswald Gracias, TGM giáo phận Mumbai Ấn độ và là một trong 8 HY cố vấn của ĐGH, nhận xét rằng ”Triều đại Giáo Hoàng của ĐTC Phanxicô đã tạo nên sự khác biệt cho Giáo Hội, Giáo Hội tại Ấn độ chẳng hạn, và Giáo Hội tại Á châu. Chúng tôi đã tìm đến với người nghèo nhiều hơn, và ĐGH cũng làm cho chúng tôi suy nghĩ lại, cứu xét cuộc sống và hoạt động về phương diện chất lượng, chứ không phải chỉ về số lượng mà thôi, dành ưu tiên cho sự tiếp xúc với con người. Đó là điều ĐGH nhắc nhở chúng tôi. Và cũng cần phải sống đơn sơ, ĐGH thúc đẩy chúng tôi trở về những điều căn bản, biến chúng tôi thành Giáo Hội như Chúa Giêsu mong muốn”.

ĐHY Gracias cũng kể rằng khi người ta hỏi ĐGH Phanxicô xem điều gì mới mẻ ngài đang mang lại cho Giáo Hội, ngài đáp: ”Tất cả những gi tôi muốn cho Giáo Hội chính là Chúa Giêsu Kitô”. ĐHY nói tiếp: ”Tôi rất vui mừng vì cả thế giới đã phản ứng tích cực. Đó thực là một thách đố đối với mọi vị tân Giáo Hoàng. Có thể nói ĐGH Phanxicô đã gảy vào dây đàn đúng! Tôi hy vọng tất cả các HY chúng tôi có thể cộng tác vơi nhau và ủng hộ ĐGH về những gì ngài muốn làm cho Giáo Hội, nghĩa là làm cho Hội Thánh được sinh động hơn. Tôi thực sự cảm thấy ĐGH Phanxicô làm cho Giáo Hội tái trở thành tiến nói của người nghèo, là tiếng nói luân lý trên thế giới, và dân chúng lắn gnghe ngài. Tôi hy vọng dân chúng không những chỉ lắng nghe ĐGH nhưng còn hành động theo những gì ngài nói”

– ĐHY Wilfrid Napier dòng Phanxicô, TGM giáo phận Durban, Nam Phi, nhận xét rằng: ”ĐGH Phancixô đã trao tặng đức tin, lối sống Công Giáo với một sắc thái, một tinh thần và một sự nhấn mạnh khác. Tôi có thể nói điều cốt yếu của ĐGH Phanxicô là: nếu tôi nhìn xem tôi là ai, tôi có thể thấy tất cả những điều sai lầm với tôi, và chỉ nhờ ơn Chúa mà tôi không phải là con người sai lầm mà tôi có thể trở thành, vì vậy sở dĩ tôi được như hiện nay là nhờ ơn Chúa. Có hai cực: tôi là người tội lỗi và ơn thánh của Chúa đang biến đổi tôi”.

”Ngài không phải là điều ngài đang là vì địa vị ngài được, nhưng vì một quan hệ với Thiên Chúa và quan hệ với Chúa Giêsu, chính điều đó làm cho ngài khác người. Dĩ nhiên đối với tôi, trong tư cách là tu sĩ Phanxicô, có hai thách đố mà ĐGH đang đương đầu, nghĩa là ngài là một tu sĩ dòng Tên sống theo đường lối Phanxicô hơn tôi. Đối với tôi đó là một thách đố tốt đẹp mà tôi có thể chia sẻ với ĐGH, cái ý tưởng sống như thánh Phanxicô Assisi” (CNS 4-3-2014)

Nhận định của Cha Lombardi SJ

Trong số những người có một vai trò quan sát đặc biệt đối với triều đại của ĐGH Phanxicô là cha Federico Lombardi, dòng Tên, Tổng giám đốc đài Vatican và Giám đốc phòng báo chí Tòa Thánh. Cha đã dành cho hãng tin Zenith ở Roma một cuộc phỏng vấn về Đức đương kim Giáo Hoàng:

H. Thưa cha Lombardi, việc bầu cử ĐGH Phanxicô đã thay đi hoàn toàn thái độ của các cơ quan truyn thông đối với chức vụ Giáo Hoàng. Đâu là bí quyết của ĐGH Phanxicô trong vn đề này và khả năng đả thông của Ngài với dân chúng đã thu phục được giới truyền thông như vậy?

Đ. Có một sự thay đổi về ngôn ngữ, không những về lời nói nhưng cả những cử chỉ và thái độ nữa. ĐGH Phanxicô đã đánh động được tâm hồn của con người, đặc biệt là ngài vượt lên trên được khoảng cách và các hàng rào. Trọng tâm của ngôn ngữ mới này là việc loan báo tình thương của Chúa Kitô cho tất cả mọi người, đề tài lòng từ bi và tha thứ của Chúa cho mọi người. Trước đó, trong giới truyền thông có một thành kiến được phổ biến, người ta nghĩ rằng Giáo Hội luôn nói ”không” và không gần gũi với dân chúng. ĐGH Phanxicô đã thành công trong việc giúp dân chúng hiểu được có một cách khác để đọc sứ điệp của Thiên Chúa và tương quan của Giáo Hội với dân chúng.

H. ĐGH Phanxicô thường ứng khẩu nói với dân chúng, và ngài cũng trả lời phỏng vấn cho những ngưi xin, và ngài cũng điện thoại riêng cho nhiều người. Trong bối cảnh đó, đâu là những vấn đế mà vị Giám đốc Phòng báo chí Tòa Thánh gặp phải?

Đ. Vấn đề tôi gặp phải trong những tình trạng như thế cũng giống như vấn đề của các hiến binh Vatican khi ĐGH muốn đến gần, tiếp xúc với dân chúng, và từ chối không chịu dùng xe chắn đạn. Chúng tôi phục vụ ĐGH và chúng tôi học về lối hành động, cách sống và phương thức đả thông của ngài với dân chúng. Tôi phải hiểu: tôi có thể cộng tác vào sự truyền thông của ngài như thế nào. Khi ĐGH nói, trả lời phỏng vấn, nói trực tiếp với dân chúng, tôi không gì để nói thêm, tôi chỉ can thiệp khi xảy ra vài vấn đề cần làm sáng tỏ.

H. Một năm đã trôi qua trong triều đại Giáo Hoàng của Đức Phanxicô và tạp chí Time của Mỹ đã chọn ngài làm người nổi bật nhất trong năm 2013. Cha có thể bình luận gì về sự chọn lựa như thế?

Đ. ĐGH Phanxicô không phải là người tìm kiếm thành công hoặc sự nổi tiếng. Một lần khi người ta hoan hô ngài, ngài nói: ”Anh chị em đừng nói “Viva il Papa, Hoan hô Đức Giáo Hoàng!” Nhưng hãy nói ”Viva Gesù!”, Hoan hô Chúa Giêsu. Đồng thời ĐTC Phanxciô có thể chấp nhận là ”Người nổi bật nhất trong năm” theo tạp chí Time. Nếu sự chọn lựa của tạp chí này có nghĩa là làm cho mục đích sứ mạng của Giáo Hội được nhìn nhận, và sứ điệp mà ĐGH Phanxicô thông truyền, thì đó là điều tốt, đáng chào mừng, nếu không thì chắc chắn đối với ĐGH, điều đó chẳng mang lại điều gì cho ngài.

H. Thưa cha Lombardi, có những lời khuyên nào cha muốn nói với các ký giả không để họ cải tiến việc truyền thông của họ, nhất là về ĐGH, về Giáo triều Roma và Giáo Hội nói chung?

Đ. Điều thường thiếu nơi các ký giả, đó là ý hướng sứ mạng của Giáo Hội và của ĐGH. Nhiều khi các ký giả đọc các biến cố và đưa ra những giải thích xa lạ với thực tại của Giáo Hội, ví dụ họ nhìn và giải thích dưới khía cạnh chính trị hoặc kinh tế. Vì thế, về Giáo Hội, chỉ thỉ nhìn dưới khía cạnh tranh giành quyền bính hoặc lợi lộc kinh tế phe phái. Đó là tình trạng bi thảm dưới thời Vatileaks với những tài liệu của Tòa Thánh bị thất thoát và đăng tải trên báo chí. Trái lại, đó là một tiến trình tìm kiếm cuộc sống và hành động phù hợp với Phúc Âm, canh tân nội tâm và thanh tẩy.

H. Trong bối cảnh đó, nhiều ký giả chỉ nhìn sự canh tân giáo triều Roma như một sự đổi mới thuộc loại chính trị. Cha có thể nói gì về sự kiện này?

Đ. ĐGH đã thành công trong việc giúp người ta hiểu rằng Giáo Hội hiện hữu là để nói với dân chúng rằng họ được Thiên Chúa yêu thương. Vì thế việc cải tổ giáo triều Roma chỉ là điều phụ thuộc: việc cải tổ này giúp Giáo Hội loan báo sứ điệp Tin Mừng hữu hiệu hơn, không phải ở Vatican mà thôi, nhưng trong các giáo phận và các khu vực ven biên. Cac cơ cấu trung ương Tòa Thánh hiện hữu không phải để thống trị, nhưng để phục vụ và trợ giúp: việc cải tổ nhắm tới mục đích đó.

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio
 

Các tấn kích chống lại gia đình

Các tấn kích chống lại gia đình

Phỏng vấn Đức Cha Jan Franciszek Watroba, Chủ tịch Hội Đồng Giám Mục Ba Lan

Hồi đầu tháng 2 năm 2014 các Giám Mục Ba Lan đã về Roma viếng mộ hai thánh Tông Đồ Phêrô Phaolô và thăm Tòa Thánh. Ngày thứ tư 5-2-2014 các vị đã tham dự buổi Đức Thánh Cha Phanxicô tiếp kiến chung tín hữu tại quảng trường Thánh Phêrô. Chào các Giám Mục Ba Lan Đức Thánh Cha đã xin các vị chuyển lời chào thăm của ngài tới các linh mục, tu sĩ và giáo dân nam nữ của Giáo Hội Ba Lan. Ngài nói: ”Tôi bảo đảm với anh em lời cầu nguyện của tôi cho anh em và những người mà Chúa đã tín thác cho sự chăm sóc của anh em. Xin anh em cũng cều nguyện cho tôi. Xin Chúa chúc lành cho anh em và cho Giáo Hội Ba Lan.” Đề tài chính được các Giám Mục Ba Lan đề cập tới trong các ngày viếng thăm tại Roma là tình hình của các gia đình.

Nhận xét về cuộc gặp gỡ của các Giám Mục Ba Lan với Đức Thánh Cha Phanxicô Đức cha Piotr Libera, Giám Mục Plock, cho biết đó đã là một cuộc gặp gỡ rất đơn sơ và rất huynh đệ. Mở đầu cuộc gặp gỡ Đức Hồng Y Tổng Giám Mục Cracovia đã trình bầy tình hình của Giáo Hội Ba Lan, tình hình của các Giáo Tỉnh. Sau đó Đức Thánh Cha đã ngỏ lời và mời chúng tôi đặt câu hỏi. Và chúng tôi đã bắt đầu đưa ra một loạt các câu hỏi và các suy tư, bắt đầu với tình hình của các gia đình ngày nay, rồi tới các vấn đề của số sinh giảm sút và các kiểu khủng hoảng khác nhau trong gia đình. Chúng tôi cũng đã đề cập tới vấn đề rất quan trọng là việc tái truyền giảng Tin Mừng. Liên quan tới vấn đề này tôi đã đưa ra một câu hỏi, đó là: ”Làm thế nào để để cho mục vụ gia đình của chúng tôi trong các Giáo Hội địa phương mang tính cách rao truyền giáo lý Tin Mừng hơn? Bởi vì việc rao truyền giáo lý Tin Mừng gặp khó khăn. Các linh mục cao niên không quen với kiểu giảng rao truyền Tin Mừng này. Đôi khi họ hơi khép kín. Cũng có thể nói rằng các vị hơi sợ hãi sự mới mẻ này một chút, liên quan tới đề tài tập rao truyền giáo lý Tin Mừng”. Đức Thánh Cha đã trả lời một cách đơn sơ rằng cần phải bắt đầu từ các chủng viện: các chủng sinh phải tập có tinh thần truyền giáo. Rồi Đức Thánh Cha chuyển sang đề tài giảng: phải giảng như thế nào, ngày nay phải giảng dậy ra sao. Ngài nói rằng các bài giảng không nên dài qúa. Đức Giám Mục tổng tuyên úy quân đội Ba Lan thì trình bầy tình hình khó khăn của các binh sĩ Ba Lan từ Afghanistan trở về quê hương, rất thường khi họ mang theo biết bao nhiêu vết thương nội tâm. Và ngài hỏi Đức Thánh Cha làm sao có thể giúp đỡ họ. Đức Thánh Cha đã nhấn mạnh tầm quan trọng của công tác mục vụ cho các quân nhân gặp khó khăn trong việc hội nhập xã hội và thành lập một gia đình tốt. Sau cùng chúng tôi đã một lần nữa mời Đức Thánh Cha viếng thăm Ba Lan và chủ sự Ngày Quốc Tế Giới Trẻ tại Cracovia.

Đức Cha Wojciech Polak, Giám Mục phụ tá giáo phận Gniezno và là Tổng thư ký Hội Đồng Giám Mục Ba Lan, thuộc nhóm cuối cùng về Roma viếng mộ hai thánh Tông Đồ và thăm Tòa Thánh, thì cho biết các Giám Mục rất hài lòng về chuyến viếng thăm và gặp gỡ Đức Thánh Cha và sống tình hiệp thông với Giáo Hội hoàn vũ. Các vị đã sống kinh nghiệm tình yêu thương hiền phụ của Đức Thánh Cha Phanxicô. Các lời khích lệ của ngài đã trao ban can đảm và hướng dẫn cho tương lai. Giáo Hội tại Ba lan đang phải sống các thách đố của thế giới ngày nay, nhất là các thách đố liên quan tới sự sống con người, việc bảo vệ sự sống từ lúc thụ thai cho tới lúc chết tự nhiên, cũng như việc bảo vệ gia đình. Đó là tất cả các vấn đề mục vụ quan trọng đối với xã hội. Các Giám Mục đã được củng cố bởi các lời nhắn nhủ của Đức Thánh Cha cũng như bởi các cuộc gặp gỡ với các Bộ và cơ quan khác nhau của Trung Ương Tòa Thánh. Sự tiếp đón nồng hậu cũng khích lệ chúng tôi đề ra chương trình cho các dự án mục vụ củng cố Giáo Hội Ba Lan trong tình hiệp thông với Giáo Hội Roma và Giáo Hội hoàn vũ.

Ba Lan rộng gần 314 ngàn cây số vuông, có 38,6 triệu dân, gần 97% là gốc Ba Lan, số còn lại gồm các nhóm nhỏ gốc Đức, Ucraina, Bielorussia và Do thái. Đại đa số dân Ba lan theo Công Giáo nhưng chỉ có 46% đi tham dự thánh lễ Chúa Nhật, khoảng 30-40% trong các thành phố, và 70-80% tại vùng quê. Giáo Hội chính thống có khoảng nửa triệu tín hữu, trong khi tín hữu tin lành được khoảng 100 ngàn, tín đồ Chứng nhân Giêhôva hơn 125 ngàn. Tín hữu do thái hồi năm 1939 được 3 triệu nhưng đã bị Đức Quốc Xã truy lùng và tiêu diệt trong cuộc diệt chủng Shoah. Những người sống sót di cư sang Hoa Kỳ, Anh quốc, Pháp, và Israel.

Sau đây chúng tôi xin gửi tới qúy vị và các bạn bài phỏng vấn Đức Cha Jan Franciszek Watroba, Giám Mục Rzeszow, Chủ tịch Hội Đồng Giám Mục Ba Lan, về các tấn kích chống lại gia đình. Bài phỏng vấn do Stefano Leszczynski thuộc chương trình tiếng Ba Lan đài Vaticăng, thực hiện.

Hỏi: Thưa Đức Cha Watroba, đâu là thái độ của tín hữu Ba Lan đối với gia đình ngày nay?

Đáp: Đa số người Ba Lan tuyên bố mình tin Thiên Chúa và là thành phần của Giáo Hội công giáo. Nhiều người trẻ hiểu ra rằng đối với họ gia đình là một nơi họ có thể học sống làm người, học biết các giá trị kitô, là nơi họ có thể cảm thấy an ninh. Vì thế thật là lạ lại có một sự tấn kích nhằm phá hủy gia đình. Mới đây có vài hiệp hội đã thăng tiến ý thức hệ giống trong các trường học. Họ muốn thay đổi định nghĩa về gia đình, phả hủy căn tính của người nam và người nữ. Vấn đề rất nghiệm trọng, cũng bởi vì Bộ Giáo Dục Ba Lan đã không lên tiếng chống lại các việc này. Có một vấn đề khác đó là số người trẻ chung sống không lấy nhau gia tăng. Trong trường hợp họ có con với nhau, thì con cái họ không được giáo dục trong đức tin kitô.

Hỏi: Tình hình tục hóa nặng nề mà Đức Cha đã miêu tả và nó ảnh hưởng trên các gia đình Ba Lan, có giá trị đối với những người Ba Lan sống tại hải ngoại không thưa Đức Cha?

Đáp: Có rất nhiều gia đình Ba Lan sống cảnh di cư vì nhiều lý do, nhất là vì công ăn việc làm. Có biết bao nhiêu trẻ em chỉ nhìn thấy cha mẹ trong các dịp lễ. Như thế tiến trình giáo dục nhiều khi bị đảo lộn bởi sự cô đơn của các trẻ em, chỉ sống với cha hay với mẹ, hoặc với ông bà nội ngoại trong các trường hợp đặc biệt. Các liên hệ gia đình đôi khi bị bẻ gẫy, và tiến trình giáo dục tôn giáo bị để trong tay các thầy cô hay các linh mục.

Hỏi: Đây là một tình cảnh rất khó khăn của gia đình bên Ba Lan, nhưng một ít cũng là tình cảnh trong các nước khác của Âu châu. Nhưng cũng có các khía cạnh tích cực có thể nêu bật trong công tác mục vụ cho các gia đình tại Ba Lan, có đúng thế không thưa Đức Cha?

Đáp: Vâng, đúng vậy. Có các ánh sáng cho phép nhìn tương lai với sự lạc quan, mặc dù có những điều tiêu cực như đã kể trên đây. Hiện nay chúng tôi có một trong các hệ thống mục vụ gia đình tốt nhất. Trong Hội Đồng Giám Mục có một trung tâm với vị giám đốc phối hợp tất cả các sáng kiến thăng tiến sự sống.

Trong tất cả mọi giáo phận đều có các trung tâm, nơi các người trẻ đính hôn có thể chuẩn bị lãnh bí tích Hôn Phối. Chúng tôi nhận thấy hơn 90% các bạn trẻ đã đinh hôn tham dự các khóa giáo lý tiền hôn nhân. Các trung tâm mục vụ gia đình cũng trợ giúp các cặp hôn nhân gặp khủng hoảng và thăng tiến một kiểu sống kitô trong gia đình. Có một lý do làm cho chúng tôi vui sướng nữa, đó là nhận thấy sự gia tăng liên tục của các phong trào công giáo, nơi giáo dân được mời gọi cống hiến một chứng tá tươi vui của cuộc sống kitô trong gia đình.

Hỏi: Thưa Đức Cha, các giáo phận Ba Lan đang chuẩn bị cho Thượng Hội Đồng Giám Mục Thế Giới về gia đình như thế nào?

Đáp: Đây là điều rất mới mẻ. Bên ba Lan chúng tôi nhận thấy có rất nhiều sáng kiến giúp làm cho giáo huấn của Giáo Hội liên quan tới gia đình hiện diện trong cuộc sống thường ngày. Nhiều giáo dân đã trả lời cho cuộc thăm dò ý kiến. Ho đã trả lời các câu hỏi mà Đức Thánh Cha Phanxicô đưa ra liên quan tới lý do của Thượng Hội Đồng Giám Mục Thế Giới khóa đặc biệt về gia đình. Họ đã trình bầy quan điểm của họ và đã thảo luận với các linh mục để có thể hiểu căn tính giáo dân của họ một cách tốt đẹp hơn trong Giáo Hội.

(RG 6-2-2014)

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Đức Thánh Cha bắt đầu tuần tĩnh tâm mùa chay

Đức Thánh Cha bắt đầu tuần tĩnh tâm mùa chay

ARICCIA. Trong những ngày này, ĐTC Phanxicô và các vị lãnh đạo tại Tòa Thánh, đang tham dự tuần tĩnh tâm tại Trung Tâm ”Thầy Chí Thánh” của dòng thánh Phaolô ở Ariccia cho đến sáng thứ sáu 14-3 tới đây.

Ariccia là một thị trấn có 18 ngàn dân cư, cách Roma khoảng 30 cây số về mạn đông nam, trên cao độ 412 mét so với mặt biển và nhìn xuống hồ Albano. Trung tâm tĩnh tâm của dòng thánh Phaolô có 128 phòng.

ĐTC đã đi chung xe bus với các Hồng Y và chức sắc của Tòa Thánh lúc 4 giờ chiều chúa nhật 9-3 vừa qua. Tổng cộng có 83 người, kể cả các nhân viên an ninh và phục vụ.

Các bài suy niệm do Cha Angelo De Donatis, cha sở một giáo xứ ở Roma, đảm trách.

Tuần tĩnh tâm bắt đầu lúc 6 giờ chiều chúa nhật vừa qua với kinh chiều, rồi bài suy niệm đầu tiên, trước khi chầu Mình Thánh Chúa và bữa tối vào lúc 7 giờ rưỡi.

Trong những ngày kế tiếp, lúc 7 giờ rưỡi sáng có thánh lễ đồng tế, 9 giờ rưỡi suy niệm và 12 giờ rưỡi là bữa trưa. Ban chiều lúc 4 giờ có bài suy niệm, sau đó là kinh chiều lúc 6 giờ rồi chầu Thánh Thể.

Sáng thứ sáu, 14-3, sau bài suy niệm, ĐTC và các vị tháp tùng sẽ rời nhà tĩnh tâm lúc 10 giờ rưỡi để trở về Roma. (SD 10-3-2014)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

 

Đức Thánh Cha sẽ viếng thăm Hàn Quốc từ ngày 14 đến 18-8-2014

Đức Thánh Cha sẽ viếng thăm Hàn Quốc từ ngày 14 đến 18-8-2014

VATICAN. Hôm 10-3-2014, Phòng báo chí Tòa Thánh chính thức loan báo: ĐTC sẽ viếng thăm Hàn quốc từ ngày 14 đến 18-8 năm nay.

Thông cáo nói rằng: ”Nhận lời mời của Tổng thống và các Giám Mục Hàn Quốc, ĐTC Phanxicô sẽ viếng thăm Cộng hòa Hàn quốc từ ngày 14 đến 18-8 năm nay, nhân dịp Đại hội kỳ 6 của giới trẻ Công Giáo Á châu, sẽ tiến hành tại Giáo phận Đại Điền. (Daejeon).

Theo hãng tin Asianews, ĐTC sẽ chủ sự lễ tôn phong 124 vị tử đạo Hàn Quốc, đứng đầu là Ông Phaolô Duẫn Trì Trung, (Yun Ji Chung) (1759-1791), lên bậc chân phước.

Sau khi có tin chính thức về cuộc viếng thăm của ĐTC, ĐHY Anrê Liêm Chu Chánh (Yeom Soo-jung), TGM giáo phận Thủ Đô Hán Thành, ra thông cáo nói rằng “Tôi muốn bày tỏ sự chào đón nồng nhiệt nhất của tôi đối với ĐGH Phanxicô sẽ đến viếng thăm Hàn Quốc. Tôi thực sự biết ơn vì sự kiện ĐTC đã nghĩ đến giới trẻ Á châu và các tín hữu Hàn Quốc, khi quyết định thực hiện hành trình dài như thế đến đất nước chúng tôi. Trong thánh lễ tạ ơn ngày 23-2-2014 của các Hồng y mới, ĐTC đã có những lơi quí mến đối với Hàn quốc, và giờ đây chúng tôi biết rằng ngài sẽ đến đất nước chúng tôi, tôi có thể cảm thấy ơn thánh dồi dào của Chúa”.

ĐHY Anrê Liêm viết thêm rằng: ”Cuộc viếng thăm của ĐTC là một niềm vui lớn và một phúc lành lớn cho đất nước chúng tôi. Tôi cầu nguyện để cuộc viếng thăm của ngài có thể mang lại hòa bình và hòa giải cho bán đảo Hàn Quốc. Tôi hy vọng điều này cũng có thể là một cơ hội cho toàn thể Á châu, được biết an bình của Chúa. Ước gì đó cũng là một dịp để những người nghèo và người ở ngoài lề xã hội được tái hy vọng” (SD 10-3-2014)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Kinh Truyền Tin với Đức Thánh Cha: Mùa Chay – canh tân lời hứa khi lãnh Bí tích Rửa Tội

Kinh Truyền Tin với Đức Thánh Cha: Mùa Chay – canh tân lời hứa khi lãnh Bí tích Rửa Tội

VATICAN. Trưa Chúa Nhật thứ nhất mùa Chay, 9.3 vừa qua, đông đảo tín hữu hành hương lại quy tụ về quảng trường Thánh Phêrô để nghe lời giáo huấn của Đức Thánh Cha, cùng đọc kinh Truyền Tin với ngài và nhận phép lành từ ngài.

Trong bài chia sẻ, Đức Thánh Cha đã lấy gợi hứng từ bài Tin Mừng Đức Giêsu chịu cám dỗ trong sa mạc của Tin Mừng Mt 4,1-11. Ngài nói:
“Tin Mừng của Chúa Nhật thứ nhất Mùa Chay trình bày cho chúng ta biến cố Đức Giêsu chịu cám dỗ, Thánh Thần ngự xuống trên Ngài khi Ngài chịu phép rửa tại sông Giordan, rồi đưa Ngài vào hoang đa để chiến đấu với Satan trong bốn mươi ngày trước khi bắt đầu sứ vụ công khai.”

Bằng những lời lẽ đơn sơ, Đức Thánh Cha chia sẻ rằng mục đích các cơn cám dỗ của kẻ thù là muốn Đức Giêsu đi ra khỏi con đường hiến tế và tình yêu, cũng như từ bỏ kế hoạch của Thiên Chúa Cha để đi tìm hạnh phúc và thoải mái cho chính mình. Ngài nói:

“Tên cám dỗ tìm cách kéo Đức Giêsu ra khỏi kế hoạch của Chúa Cha, khỏi con đường hiến tế và tình yêu đ đảm nhận một con đường dễ dàng hơn của thành công và quyền lực. Cả Đc Giêsu và tên Satan đều trích dẫn những đoạn Kinh Thánh. Thực ra, đ kéo Đức Giêsu ra khỏi con đường thập giá, tên quỷ đã bày ra trước mắt Đức Giêsu một niềm hy vọng sai lạc về Đấng Messia: sự sung túc về kinh tế, trong lời xúi giục hóa đá thành bánh; một kiểu biểu diễn và phép lạ, với ý tưởng gieo mình xuống từ nóc đền thờ Giêrusalem và để Thiên Thần cứu mình; và cuối cùng là đánh đổi quyền lực và sự thống trị với việc thờ phượng Satan.”

Thế nhưng, Đức Giêsu đã chống trả lại những cơn cám dỗ đầy sức hấp dẫn ấy một cách quyết liệt và trước sau vẫn trung thành với Chúa Cha. Đức Thánh Cha cũng nhắc lại những lời nói của Đức Giêsu và xem đó như là những gì Đức Giêsu muốn nhắn nhủ từng người chúng ta, là hãy biết cậy dựa vào Lời Chúa, đừng thử thách Thiên Chúa và chỉ thờ phượng một mình Thiên Chúa mà thôi. Ngài chia sẻ rằng:

Đc Giêsu đã quyết liệt chống trả lại tất cả những cám dỗ này và biểu lộ ý muốn đi theo con đưng mà Cha đã vạch ra mà không có sự thỏa hiệp với tội lỗi và lý luận của thế gian. Khi đáp trả lại Satan, Ngài đã nhắc chúng ta rằng "con người sống không chỉ nhờ cơm bánh nhưng bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra" (Mt 4,4); và điều này ban cho chúng ta sức mạnh và nâng đỡ chúng ta trong cuộc chiến chống lại tinh thần thế gian vốn đy con người xuống cấp độ của những nhu cầu chính yếu, khiến con ngưi quên đi những gì là chân, là thiện, là mỹ, cơn đói khát Thiên Chúa và tình yêu của Ngưi. Hơn nữa, Ngài cũng nhắc nhở chúng ta rằng "có lời Kinh Thánh viết rằng: ngươi chớ thử thách Chúa là Thiên Chúa của ngươi", bởi vì con đưng đức tin phải trải qua bóng tối, nghi ngờ và chính điu đó bi đắp cho sự kiên nhẫn và sự chờ đợi lâu bền. Cuối cùng, ngài nhắc nhở rằng "có lời Kinh Thánh nói: Ngươi chỉ thờ pợng một mình Thiên Chúa mà thôi; có nghĩa là chúng ta phải loại bỏ mọi ngẫu tượng, mọi thứ phù phiếm và xây dựng cuộc sống của chúng ta trên những gì là thiết yếu.”

Đức Thánh Cha còn chia sẻ thêm rằng Đức Giêsu đã luôn trung tín với Chúa Cha. Sự trung tín ấy được đặc biệt thể hiện nơi cuộc Thương Khó của Ngài. Sự trung tín ấy đã đưa Ngài đến chiến thắng chung cuộc, và Satan, thủ lãnh thế gian đã bị kết án. Ngài nói:

“Những lời này của Đc Giêsu sau đó đã được chuyển thành hành động cụ thể. Sự trung tín tuyệt đối của Ngài vào kế hoạch tình yêu của Chúa Cha ba năm sau đã đưa dn Ngài đến việc hạ bệ "thủ lãnh thế gian này (Ga 16,11), trong cuộc Tử Nạn và Thập Giá và nơi đó Giêsu đã đi đến cuộc chiến thắng chung cuộc, chiến thắng của tình yêu.”

Cuối cùng, Đức Thánh Cha mời gọi mọi người hãy tận dụng thời gian mùa Chay này để làm mới lại những gì ta đã cam kết khi lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội là từ bỏ Satan cùng những âm mưu thâm độc của nó và chỉ hướng về một mình Chúa mà thôi. Ngài chia sẻ:

Anh chị em thân mến, thời gian mùa chay là cơ hội thuận lợi để tất cả chúng ta thực hiện cuộc hành trình hoán cải, chân thành đối diện với chính mình cùng với những trang Tin Mừng này. Chúng ta hãy làm mới lại lời hứa chúng ta đã có khi lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội: từ bỏ Satan và tất cả những hành vi và cám dỗ của nó đc đi trên con đường của Thiên Chúa và "đt đến sự Phục sinh trong niềm vui của Thánh Thần"
Sau khi đọc kinh Truyền Tin, Đức Thánh Cha ban phép lành và gửi lời chào đến tất cả các khách hành hương, các nhóm, đoàn, hội đang hiện diện ở quảng trường thánh Phêrô và ngài xin họ hãy cầu nguyện cho ngài.

Pr. Lê Hoàng Nam, SJ – Vatican Radio

Đức Thánh Cha tiếp phái đoàn Hội Đồng đại kết các Giáo hội Kitô

Đức Thánh Cha tiếp phái đoàn Hội Đồng đại kết các Giáo hội Kitô

VATICAN. Trong buổi tiếp kiến phái đoàn Hội đồng đại kết các Giáo Hội Kitô sáng 7-3-2014, ĐTC đề cao tầm quan trọng của các hoạt động đại kết và kêu gọi đẩy mạnh các hoạt động cộng tác giữa các tín hữu Kitô.

Hội đồng đại kết được thành lập năm 1948 tại Hòa Lan và hiện có trụ sở ở Genève, Thụy Sĩ, qui tụ 349 Giáo Hội Kitô không Công Giáo với khoảng 500 triệu tín hữu trên thế giới. Giáo Hội Công Giáo không phải là thành viên, nhưng từ lâu vẫn cộng tác với Hội đồng đại kết.

Phái đoàn Hội đồng Đại kết do Mục Sư Tổng thư ký Olav Fykse Tveit, thuộc Giáo Hội Tin Lành Luther Na Uy, hướng dẫn.

Lên tiếng trong buổi tiếp kiến, ĐTC cám ơn Hội đồng đại kết vì sự phục vụ chính nghĩa hiệp nhất giữa các tín hữu Kitô, đồng thời ngài kêu gọi không nên chấp nhận sự chia rẽ giữa các Kitô hữu như một yếu tố không thể tránh được trong kinh nghiệm lịch sử của Giáo Hội. ĐTC nói:

”Nếu các tín hữu Kitô cố tình không biết đến lời kêu gọi hiệp nhất mà Chúa gửi đến cho họ, thì họ có nguy cơ cố tình không biết chính Chúa và ơn cứu độ do Chúa cống hiến qua thân mình của Ngài là Giáo Hội: 'Không có ơn cứu độ nơi danh nào khác; thực vậy không có danh nào khác được ban cho nhân loạii để nhờ đó chúng ta được cứu độ” (Cv 4,12).

ĐTC cũng nhắc lại sự kiện Giáo Hội Công Giáo bắt đầu cộng tác với Hội đồng đại kết từ thời công đồng chung Vatican 2, những quan hệ đó giúp vượt thắng những hiểu lầm lẫn nhau, và đạt tới một sự cộng tác đại kết chân thành, gia tăng sự trao đổi các hồng ân giữa các cộng đoàn với nhau.

Ngài nhận định rằng: ”Con đường dẫn đến sự hiệp thông trọn vẹn và hữu hình là một con đường ngày nay vẫn còn cam go và lên dốc. Nhưng Chúa Thánh Linh mời gọi chúng ta đừng sợ, hãy tiến bước trong tin tưởng, đừng hài lòng với những tiến bộ mà chúng ta có thể cảm nghiệm được trong những thập niên gần đây”.

ĐTC không quên đề cao tầm quan trọng của việc cầu nguyện cho sự hiệp nhất các tín hữu Kitô và ngài cầu chúc cuộc gặp gỡ của phái đoàn Hội đồng đại kết với Hội đồng Tòa Thánh hiệp nhất các tín hữu Kitô trong những ngày này giúp xác định cách thức hữu hiệu nhất để tiến bước trên con đường cộng tác với nhau (SD 7-3-3014)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

NHỮNG CUỘC CÁM DỖ BẤT TẬN

NHỮNG CUỘC CÁM DỖ BẤT TẬN

Khởi đầu công cuộc cứu chuộc, Chúa Giêsu đã trải qua biến cố chịu thử thách, chịu ma quỷ cám dỗ, nhưng Ngài đã chiến thắng. Những cám dỗ của Chúa Giêsu xét cho cùng cũng có thể rút về hai điểm chính, là cám dỗ về thực thể mình là ai? Đến sống trên trần gian này để làm gì?

Ma quỷ cám dỗ Chúa Giêsu về thực thể mình là Con Thiên Chúa: “Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì hãy biến những hòn đá này thành thức ăn”.

Thử thách đòi có dấu lạ để trắc nghiệm xem mình có thật là Con Thiên Chúa hay không. Ma quỷ cám dỗ Chúa nghi ngờ thay đổi sứ mạng đã lãnh nhận từ Thiên Chúa Cha: “Nếu ông sấp mình thờ lạy ta, thì ta sẽ cho ông tất cả”.

Sứ mạng của Chúa Giêsu là con người trở về cùng Thiên Chúa, chứ đâu phải con người làm nô lệ cho tội lỗi để củng cố vinh quang cho riêng mình Ngài. Chúa Giêsu nhắc lại: “Con chỉ tôn thờ một mình Thiên Chúa mà thôi”.

Sống vâng phục Thiên Chúa, thi hành thánh ý Ngài đã là sứ mạng căn bản nhất của con người, của mỗi người chúng ta đã được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa và đã được Chúa Giêsu Kitô cứu chuộc để trở thành con cái Thiên Chúa, được chia sẻ sự sống Thần Linh của Thiên Chúa. Chúng ta được Chúa Giêsu chỉ cho chúng ta con đường để chiến thắng những cám dỗ, và chúng ta không thể nào tránh khỏi con đường này trong cuộc sống của mình, đó là con đường vâng phục, lắng nghe Lời Chúa.

Hôm nay chúng ta bắt đầu Mùa Chay, và chúa nhật thứ nhất Mùa Chay, chúng ta dốc quyết một điều cụ thể cho đời sống của mình trong Mùa Chay này. Mỗi người chúng ta hãy nhìn về cuộc sống của mình, xem mình đã có ý thức về thực thể mình là ai và xác tín mình là con của Thiên Chúa, đã được Chúa Giêsu cứu chuộc hay không? Có ý thức rõ ràng là sứ mạng của mình trên trần gian này là sống vâng phục Thiên Chúa, sống với Thiên Chúa không?

Chúng ta hãy dốc quyết một cách cụ thể trong Mùa Chay này, đọc Lời Chúa, ít ra không đọc hàng ngày thì mỗi tuần một lần để cho Lời Chúa chỉ dẫn cuộc sống chúng ta, nhắc cho chúng ta luôn luôn nhớ mình là con cái Thiên Chúa và sống trên trần gian này bằng cuộc sống vâng phục thánh ý Thiên Chúa.

Dám nói không

Đời Tam Quốc, Quan Văn Trường bị thất thủ thảm bại ở Hạ Bì. Thân đơn nhất mã, phò hai người chị dâu (tức vợ của Lưu Bị) qua nương tựa nhà Tào Tháo. Đêm đến, Tào Tháo cho ba người ngủ chung một phòng, dụng tâm là muốn cho chị em loạn luân, chúa tôi phải thất lễ.

Quan Văn Trường một dạ thẳng ngay không để tà tâm vật dụng quyến rũ, tay cầm đuốc, tay cầm sách Xuân Thu đọc đến sáng.

Mọi người thấy vậy khen Văn Trường là người chính trực. Từ đó, danh từ “Ngọn đuốc Văn Trường” được dùng để ám chỉ những kẻ ngay thẳng, không để vật dục quyến rũ lòng mình.

Những con người anh dũng lướt thắng cám dỗ như Quan Văn Trường quả là hiếm. Càng hiếm hơn nữa, những con người không để cho vật dục quyến rũ. Vì người ta đã quen lối sống dễ dãi, thích hưởng thụ, ham khoái lạc. Cho nên, tâm trí họ lúc nào cũng là mặt đất, không đủ sức bật để vượt qua những cám dỗ thử thách, mà vươn lên những ý tưởng cao thượng, những ý nghĩ thánh thiêng.

Dù thế nào đi nữa, cám dỗ vẫn là số phận của con người. Đối với người Kitô hữu, cám dỗ càng đeo đuổi họ như hình với bóng, nó chỉ buông tha khi họ đã đi hết cuộc hành trình trần gian. Tuy nhiên, thành công hay thất bại cũng tùy thuộc họ chiến thắng hay đầu hàng các cơn cám dỗ. Số phận đời đời cũng sẽ căn cứ vào việc họ đã vượt qua cơn thử thách hay buông xuôi bỏ cuộc.

Cuộc đời Đức Giêsu không thiếu những cơn cám dỗ, có lúc nhất thời, có khi dai dẳng. Những cơn cám dỗ ấy hoặc đến từ ma quỷ, hoặc từ người ta, hay chính khi lại ngay trong bản thân Người.

Tin Mừng hôm nay thuật lại các cơn cám dỗ từ ma quỷ: Chúng dụ dỗ Người biến đá thành bánh mà ăn, vì Người đã ăn chay ròng rã bốn mươi đêm ngày. Chúng khiêu khích Người hãy gieo mình xuống từ nóc cao đền thờ. Chúng hứa cho Người vinh hoa lợi lộc các nước, nếu Người sấp mình bái lạy chúng. Cuối cùng, Đức Giêsu đã oanh liệt chiến thắng các cơn cám dỗ ấy, nhờ trưng dẫn các câu Kinh Thánh. Thật vậy, cám dỗ nào cũng bị Người đánh bại bởi các lời Kinh Thánh.

Kinh Thánh chính là khiên thuẫn cho người tín hữu trong mọi cơn cám dỗ. Một khi lời Chúa đã thấm nhiễm vào con tim, khối óc, và toát ra trong các hành vi của người tín hữu, thì không một cơn cám dỗ nào mà họ không thể vượt qua, không một thử thách nào mà họ không lướt thắng.

Cám dỗ nào cũng dẫn chúng ta đến một chọn lựa. Hoặc là chọn thánh ý Chúa hoặc là chọn chính mình. Người không có lời Chúa hướng dẫn, thường hay chọn mình lắm: họ chọn danh vọng cho mình, giàu sang cho mình, khoái lạc cho mình. Khi “cái tôi” đã đầy ứ trong lòng thì Thiên Chúa phải đội nón ra đi.

Đức Giêsu đã không thể thắng các cơn cám dỗ, nếu Người chỉ qui hướng về mình. Người sẽ thua ma quỷ, nếu Người tìm vinh danh mình khi hóa đá thành bánh, Người sẽ bị sập bẫy Satan khi nhảy xuống từ nóc cao đền thờ để được khen ngợi tung hô. Người sẽ thất bại thảm thương khi quỳ lạy ma quỷ để được vinh hoa thế gian. Nhưng không, không bao giờ Người làm thế, vì tinh thần chủ đạo của Người, vũ khí sắc bén của Người chính là “Thánh ý Cha”. Người suy nghĩ, nói năng, hành động bất cứ điều gì cũng là để theo Thánh ý Cha. Chính trong cơn cám dỗ khốc liệt nhất của Người trước cái chết, Người cũng chỉ thốt lên: “Cha ơi, nếu được, xin cho chén này rời khỏi con. Nhưng xin đừng theo ý con, mà theo ý Cha” (Mt 26,39).

Muốn vâng theo ý Cha, cần phải cầu nguyện và ăn chay, hy sinh và hãm mình. Trước khi chịu ma quỷ cám dỗ, Đức Giêsu đã chẳng ăn chay, cầu nguyện suốt bốn mươi đêm ngày đó sao?

Mùa chay là mùa dọn mình để chiến đấu với các cơn cám dỗ. Cám dỗ từ ma quỷ, từ nơi người khác, và nhất là từ ngay chính bản thân. Có bao nhiêu giác quan là có bấy nhiêu cửa ngõ cho cám dỗ đi vào.

Nếu so sánh vũ khí để chiến đấu với cơn cám dỗ là “cung và tên” thì “cung” chính là lòng khiêm tốn nhận mình yếu hèn cần nhờ ơn Chúa, và “tên” chính là ý chí cương quyết nói “không” trước cơn thử thách. Trong các kế sách để thắng cám dỗ chỉ có duy nhất một diệu kế. Đó là kế “Đào vi thượng sách”.

Dù bầu trời đen mênh mông bao trùm địa cầu, thì trong một bờ đá nào đó, cánh hoa mảnh mai vẫn hồn nhiên nở trong đêm khuya. Cánh hoa mỏng manh là thế mà sao dũng mạnh hơn tâm hồn chúng ta nhiều quá! Nếu hoa lá là ngôn sứ của Thiên Chúa, thì sứ điệp của chúng là: Hãy mềm mại để cho lời Chúa đưa chúng ta vượt qua đêm mưa bão của cám dỗ, thử thách. Và ngày mai trời lại sáng.

Veritas Radio

NHỮNG CƠN CÁM DỖ

NHỮNG CƠN CÁM DỖ

Có nhiều người thắc mắc: Ăn chay là gì? Phải chăng là để dằn vặt thân xác, hành khổ con người cho Chúa vui lòng? Hỏi như vậy là chưa hiểu đạo, chưa hiểu hết ý nghĩa của việc ăn chay. Chúa đâu phải quá độc ác, bệnh hoạn, vui lòng khi thấy con người chịu khốn khổ. Ăn chay một phần để hy sinh đền tội, nhưng mục đích chính của việc ăn chay là để thao luyện tâm hồn chống lại quỷ dữ.

Ngày nay người ta quên sự có mặt của ma quỷ. Nhưng ma quỷ vẫn có đó và và vẫn tích cực hoạt động nhằm phá huỷ thế giới, tiêu diệt con người. Ma quỷ rất tinh ma xảo quyệt nên người ta khó nhận ra âm mưu, dấu vết của chúng.

Nhìn vào ba cuộc ma quỷ cám dỗ Đức Giêsu, ta thấy ma quỷ rất tinh khôn. Nó có kế hoạch, có chiến thuật, tấn công nhiều đợt, nhiều bước.

Thoạt tiên ma quỷ tấn công vào những bản năng sơ đẳng nhất nơi con người: bản năng sinh tồn, bản năng thống trị, bản năng đối nghịch. Những bản năng ấy gắn liền với những nhu cầu căn bản, chính đáng của con người.

Kéo chú ý của người ta vào những nhu cầu rồi, ma quỷ tiến bước thứ hai, đó là phóng đại những nhu cầu đó lên, làm cho người ta lầm tưởng rằng, đó là những nhu cầu cấp bách, phải thoả mãn ngay tức khắc.

Khi ta đã hoàn toàn mê mẩn vì cái bẫy nhu cầu, ma quỷ mới đẩy ta đến bước thứ ba, đó là tìm thoả mãn những nhu cầu theo ý riêng mình. Cách giải quyết đó ngược lại với ý muốn của Thiên Chúa. Mục đích sau cùng của ma quỷ là xúi giục ta phản loạn, không sống tâm tình người con hiếu thảo với Chúa, chống lại Chúa và sau cùng lìa xa Thiên Chúa.

Ông bà nguyên tổ đã rơi vào bẫy của ma quỷ nên đã không sống tâm tình của người con hiếu thảo, muốn lìa bỏ cha mình, muốn ngang bằng cha mình, muốn chống lại cha mình.

Chúa Giêsu, trái lại, đã sáng suốt vạch trần âm mưu của ma quỷ và kiên quyết sống tâm tình của người con hiếu thảo.

Khi ma quỷ phóng đại nhu cầu, muốn cho Chúa Giêsu tưởng rằng con người chỉ là vật chất, chỉ sống nhờ bánh vật chất, vật chất là tất cả đời sống. Chúa Giêsu đã sáng suốt chỉ cho ta thấy vật chất không phải là tất cả, bánh vật chất của trần gian là cần, nhưng bánh tinh thần của trời cao còn cần hơn.

Khi ma quỷ thúc giục Chúa Giêsu hãy thoả mãn tức khắc nhu cầu cảu mình, Chúa Giêsu đã biết kiên nhẫn chờ đợi. Khi ma quỷ khích Chúa Giêsu dùng quyền năng riêng của mình để thoả mãn nhu cầu, Chúa Giêsu đã từ chối. Người muốn vâng phục Đức Chúa Cha, tin tưởng phó thác vận mệnh trong tay Chúa Cha, để mặc Chúa cha quyết định.

Tuy đã thắng trong cuộc đọ sức đầu tiên, Chúa Giêsu vẫn tiếp tục bị ma quỷ cám dỗ trong suốt cuộc đời. Cơn dỗ khi đến từ những người tin theo Chúa, muốn tôn Chúa làm vua để được ăn no nê bánh vật chất, khi thì đến từ những người chống đối đòi xin phép lạ từ trời xuống. Có lúc ma quỷ mượng chính những người thân tín như Phêrô để ngăn cản Chúa Giêsu thực hành ý Chúa Cha. Có lúc ma quỷ dùng cái chết ghê sợ để uy hiếp tinh thần, mong Chúa Giêsu lùi bước để tìm ý riêng mình. Chúa Giêsu đã chiến thắng mọi cơn cám dỗ vì Người luôn tìm thánh ý Chúa Cha. Dù khi phải chiến đấu trong mồ hôi pha máu, Người vẫn nói: “Lạy Cha, xin đừng theo ý Con, xin vâng theo ý Cha mà thôi”.

Ma quỷ vẫn đang tiếp tục tạo nên những cơn cám dỗ. Và nhiều khi chúng ta đã mắc bẫy ma quỷ. Ta mắc bẫy ma quỷ khi mải mê đuổi theo những nhu cầu tiêu thụ quá đáng. Ta rơi vào âm mưu ma quỷ khi ta muốn có tất cả và có tức khắc. Ta hoàn toàn nằm trong vòng tay ma quỷ khi ta dùng mọi phương tiện để thoả mãn những nhu cầu, bất chấp ý Thiên Chúa.

Thay vì tuân phục ý Chúa, tôi luôn luôn bắt Chúa làm theo ý tôi. Thay vì vâng lời Chúa, tôi luôn luôn muốn sai bảo Chúa.

Mùa Chay này, Chúa kêu gọi tôi trở về với Chúa. Muốn trở về với Chúa, tôi phải chiến đấu chống lại ma quỷ. Muốn đủ sức chống lại ma quỷ, tôi phải luyện tập bỏ ý riêng mình và tìm vâng phục ý Chúa.

Hãy đặt ra cho mình một chương sống Mùa Chay bằng tăng cường hy sinh, cầu nguyện, ăn chay và làm việc bác ái.

Thiên Chúa Cha, Đấn giàu lòng thương xót đang chờ đón tôi trở về, và sẽ ban sức mạnh để tôi đủ sức chống lại mọi chước cám dỗ, nếu tôi biết sống trọn tình con thảo, tin cậy phó thác vào Người.

Lạy Thiên Chúa là Cha của con, xin đón nhận tâm hồn khiêm nhường sám hối của con.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1) Theo bạn, ngày nay ma quỷ còn hoạt động trong thế giới không? Nếu có, bạn cho một ví dụ.
2) Bạn thường thua hay thắng cuộc khi gặp phải cám dỗ. Thua, tại sao? Thắng, nhờ đâu?
3) Đâu là âm mưu của ma quỷ che dấu đàng sau những cơn cám dỗ?

ĐTGM Giuse Ngô Quang Kiệt