Bài suy niệm thứ 3: tìm lại hiệp nhất xung quanh Bữa tiệc ly của Chúa Giêsu

Bài suy niệm thứ 3: tìm lại hiệp nhất xung quanh Bữa tiệc ly của Chúa Giêsu

Đề tài của bài suy niệm thứ 3 trong tuần tĩnh tâm của Đức Thánh Cha là “Bánh và thân thể, rượu và máu”

Cha Michelini chú giải đoạn Tin mừng về Bữa tiệc ly (Mt 26,20-35).

Ăn cùng nhau

Bài suy niệm khởi đi từ một yếu tố đặc trưng cho chiều kích nhân loại của việc cùng ăn. Chúa Giêsu ngồi vào bàn cùng với 12 tông đồ. Ngồi cùng bàn muốn nói đến cảm nghiệm nét đẹp của ở cùng với nhau và nhận cùng thứ được chuẩn bị cho một hành động yêu thương. Theo thánh sử Gioan Tông đồ, chính Chúa Giêsu Phục sinh cũng đã chuẩn bị thức ăn cho các môn đệ của Ngài, bên bờ hồ Galilê (x. Ga 21,9).

Ăn uống: sự yếu đuối và tội lỗi của con người

Thức ăn và ăn uống cũng đưa ra ánh sáng tội lỗi của con người cũng như tính ích kỷ và sự yếu đuối của con người. Chúng ta nhớ đên biểu tượng Thánh kinh của sự bất tuân đầu tiên xảy đến do thức ăn (St 3,1) và tội ác đầu tiên, giết một người anh em, xảy đến do lòng ghen tức của Cain đối với lễ vật của Aben (St 4,4). Chúng ta cũng không quên sự chia rẽ giữa các anh em, Giacóp và Esau là bởi cơn đói (st 25,34). Chúng ta còn có thể đi xa hơn nữa, cho đến khi đọc thông điệp Laudato si’ nói về sự ích kỷ đối với lương thực.

Trong thực tế, ăn uống là dấu hiệu đầu tiên của sự yếu ớt mong manh thật sự về mặt nhân chủng học: một nhu cầu con người và yếu kém. Ăn uống trước hết là nhận sự sống bên ngoài mình, nghĩa là nhận biết mình không độc lập. Nói khác đi, nhận ra giới hạn của mình. Ăn cùng với người khác là thú nhận với người khác giới hạn này của thụ tạo. Bởi lý do này, các thiên thần trong Thánh kinh không ăn uống.”

Bữa Tiệc ly: Chúa Giêsu trao ban tất cả

Trong bữa tiệc ly của Chúa Giêsu nổi bật yếu tố này: Giuđa trao nộp Chúa. Nhưng Chúa Giêsu, trong đêm bị phản bội, đã không thu hồi món quà của Ngài, đã ban tất cả những gì Ngài có thể trao: thân mình Ngài và máu Ngài (1Cor 11).

Ngôi Lời, Chúa Con, đã dâng hiến ngôi vị thần linh của mình, dù là Thiên Chúa nhưng Ngài đã không nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa (Phil 2,6). Giờ đây Ngài trao ban chính bản tính nhân loại, là thân xác ngài, bởi vì trong thân xác này mà Ngôi Lời đã làm người. Bằng cách thức này, Chúa Giêsu trao ban tất cả chính mình, không giữ lại điều gì.

Ơn tha tội

Bài học của thánh Mátthêu về bữa Tiệc ly nêu bật một điểm mà chúng ta chỉ tìm thấy ở đây, máu đổ ra từ thập giá để tha tội lỗi. Cuối cùng, ai đọc Tin mừng này, tìm ra ý nghĩa của tến Giêsu và có thể biết cách thức tha tội, cách thức mà Con Thiên Chúa và cùng với Ngài, Chúa Cha và Chúa Thánh Thần cùng thực hiện để trao ban sự sống. Như Thánh vịnh 49,8 nói, con người không thể tự đền hay trả giá cho mình xứng hợp, chỉ Thiên Chúa chuộc đền con người khỏi chính họ và khỏi sự dữ.

3 vấn đề suy tư

Cha Michelini đưa ra 3 câu hỏi suy tư: thứ nhất, nói về tương quan chúng ta với thức ăn. Xét mình với quy luật thứ 7 của thánh Inhaxio: Cần tránh để tâm hồn chú ý đến thứ mình ăn và tránh ăn vội vã vì ngon miệng, trái lại cần làm chủ mình, trong cách ăn cũng như trong số lượng.”

Thứ hai: các Kitô hữu chúng ta làm sao có thể phải tìm ra sự hiệp nhất xung quanh bàn ăn, thực hiện cùng cách thức chia sẻ của chúng ta sự chia sẻ linh độn của cộng đoàn Corintô.

Cuối cùng là vấn nạn về ơn tha tội. Chúng ta có thật sự ý thức rằng Chúa Giêsu đã đổ máu Ngài ra, với chính sự sống và không chỉ với lời nói, đã nói và đã trao ban sự tha thứ của Thiên Chúa. (RV 07/03/2017)

Hồng Thủy

Liên kết tình yêu dành cho Chúa với tình yêu cho tha nhân

Liên kết tình yêu dành cho Chúa với tình yêu cho tha nhân

Ariccia – Thứ hai, 06/03, là ngày thứ hai trong tuần tĩnh tâm của Đức Thánh Cha Phanxicô và các cộng sự viên trong giáo triều Roma.

Đề tài của bài suy niệm thứ nhất vào ban sáng có chủ đề “Lời tuyên xưng của thánh Phêrô và hành trình lên Giêrusalem của Chúa Giêsu.”

Trong tuần tĩnh tâm, những giờ phút cầu nguyện là những thời khắc trung tâm. Cha Michelini nhắc rằng chúng ta phải cầu nguyện bởi Chúa Giêsu đã thực hành đầu tiên. Chúa Giêsu quyết định trong cầu nguyện chứ không qua các giấc mơ hay nhờ các pháp sư như Alexandre đại đế. Cầu nguyện cho chúng ta cơ hội lắng nghe tiếng nói của Thiên Chúa: “Tôi phân định dựa trên tiêu chuẩn nào? Tôi quyết định bốc đồng, để cho mình bị thói quen áp đặt, đặt bản thân mình và quan tâm của cá nhân mình trên cả vương quốc của Thiên Chúa? Tôi có lắng nghe tiếng nói của Thiên Chúa, nói một cách khiêm tốn?”

Khiêm tốn lắng nghe

Cha Michelini gợi ý rằng Chúa Cha không chỉ nói qua Chúa Con, nhưng đã nói với Chúa Con qua thánh Phêrô. Chúa Giêsu cũng đã thực hiện các việc làm do người khác cầu xin thúc giục. Trong cuộc đời của Ngài, có những cuộc gặp gỡ tác động đến sứ vụ của Ngài. Theo truyền thống do thái giáo, Thiên Chúa vẫn tiếp tục nói với loài người bằng những cách thức rất khiêm tốn, như là qua lời của trẻ nhỏ và người khờ dại. Cha Michelini mời gọi suy tư: Tôi có sự khiêm nhường lắng nghe của Phêrô không? Chúng ta có khiêm nhường lắng nghe nhau trong khi lưu ý đến các định kiến mà chúng ta chắc chắn có, nhưng chú ý đón nhận điều mà Chúa muốn, thay vì đóng lòng mình lại. Tôi có lắng nghe tiếng nói của người khác, có thể là người yếu đuối hay tôi chỉ lắng nghe tiếng tôi?”

Theo Chúa Giêsu và vác thập giá

Thánh Mátthêu nói Chúa Giêsu rút lui. Cha Michelini nhấn mạnh rằng Chúa Giêsu rút lui khi nghe Gioan Tẩy giả bị bắt và khi biết nhóm Pharisiêu muốn giết Ngài. Nhưng các cuộc rút lui của Chúa Giêsu không là dừng lại, mà sau khi rút lui, Ngài làm những việc cụ thể, đó là bắt đầu loan báo Nước Chúa và chữa lành các người bệnh. Chúa Giêsu tiếp tục sứ vụ với trách nhiệm mới, cho đến khi sứ vụ này đưa Ngài lên Giêrusalem.

Cha giảng thuyết Michelini suy tư: Nhìn vào thánh Phêrô, mỗi người chúng ta có thể và phải đặt câu hỏi. Trước hết chúng ta tự hỏi xem “tôi có can đảm đi đến cùng để theo Chúa Giêsu không, với ý thức là sẽ vác thánh giá, như Ngài đã nói, khi loan báo sự phục sinh, niềm vui, nhưng cũng là thử thách: nếu ai muốn theo Thầy thì hãy từ bỏ chính mình, vác thập giá và theo Thầy.”

Đề tài của bài suy niệm thứ hai vào ban chiều là “những lời cuối cùng của Chúa Giêsu và khởi đầu cuộc Thương khó.”

Cha Michelini nhắc rằng những lời cuối cùng của cuộc đời dương thế của Chúa Giêsu được đánh dấu bằng những khoảnh khắc thinh lặng. Đối mặt với sự im lặng, đây là một cơ hội để tự hỏi “có phải tôi rao truyền đức tin chỉ bằng lời nói hoặc cuộc sống của tôi có phải là rao giảng Tin Mừng. Sau đó, tôi tự hỏi sự im lặng của tôi thuộc loại nào, và liên quan đến các hoạt động của Giáo Hội mà tôi thực hiện, tôi có tội trong khi im lặng những lúc không nên im lặng.”

Nhắc lại đoạn Tin mừng nói về  người phụ nữ xức dầu lên chân Chúa Giêsu, cha Michelini nói: “Nhiều người không có can đảm để gõ cửa nhà chúng ta, và chúng ta phải đi đến với những người này. Nếu chúng ta trung thực và nhìn vào nội tâm, chúng ta không thể không đặt cả chúng ta vào số những người nghèo đó: mỗi người, tận sâu thẳm, là người nghèo đối với người khác. Những lời của Chúa Giêsu nói rằng sứ vụ của Ngài không kết thúc với sự hiện hữu lịch sử của Ngài, và trong thực tế, nó tiếp tục với sự dấn thân của cộng đồng tín hữu cho tất cả người nghèo, kể cả chúng ta.” Cha kết luận,  vì vậy, “chúng ta được kêu gọi liên kết tình yêu dành cho Chúa với tình yêu cho tha nhân.” (ACI/SD 07/03/2017)

Hồng Thủy

Cuộc đời Chúa Giêsu không phải là câu chuyện tưởng tượng

Cuộc đời Chúa Giêsu không phải là câu chuyện tưởng tượng

Ariccia – Chiều Chúa nhật 05/03, Đức Thánh Cha Phanxicô và các cộng sự viên của ngài trong giáo triều Roma đã bắt đầu tuần tĩnh tâm do cha Giulio Michelini, dòng Anh em hèn mọn, thường được gọi là dòng Phanxicô, giảng thuyết.

9 bài suy niệm của cha Michelini xoay quanh cuộc Thương khó, cái chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu theo thánh sử Mátthêu. Cha Michellini đã bắt đầu bài suy niệm đầu tiên vào chiều tối chúa nhật.

Cha Michelini nhấn mạnh trong bài giới thiệu: “Chúa Giêsu thực sự chết và cuộc đời của Ngài không phải là một câu truyện tưởng tượng.”

Cha Michelini đặt câu hỏi cho các tham dự viên tuần tĩnh tâm: Trong tuần tĩnh tâm người ta sống điều gi? Lấy cảm hứng từ Tông huấn Evangelii Gaudium (Niềm vui Tin mừng), cha nói, mỗi người phải xem mình nằm trong số những người cần được tái phúc âm hóa. Theo cha, “cuộc truyền giảng Tin mừng mới được hiểu đầu tiên là đốt sáng lên trái tim của các tín hữu thường tham gia vào cộng đoàn.”

Tuần tĩnh tâm sẽ kết thúc vào sáng thứ 6, 10/03 và sau đó Đức Thánh Cha sẽ trở về Vatican ngay sau đó. (ACI 06/03/2017)

Hồng Thủy

 

Croatia sẽ sớm hoàn thành một trong những tượng Đức Mẹ lớn nhất thế giới

Croatia sẽ sớm hoàn thành một trong những tượng Đức Mẹ lớn nhất thế giới

Šibenik, Croatia – Một tượng Đức Mẹ Loreto cao gần 17m đang được thực hiện ở thành phố Primošten, Croatia. Đây sẽ là một trong những nơi kính Đức Mẹ lớn nhất thế giới.

Chính quyền thành phố Primošten cho biết đây là dự án duy nhất ở Croatia và cả bên ngoài nước này. Dự án này được chúc lành bởi Đức Thánh Cha.

Tượng Đức Mẹ Loreto được dựng ở Primošten, thành phố ven biển, một thành phố trên đồi, 20 dặm về hướng nam của Šibenik. Primošten nổi tiếng với các vườn nho và bãi biển, và bây giờ sẽ được ghi dấu như là nơi có một trong những tượng Đức Mẹ lớn nhất thế giới.

Người dân Primošten có lòng sùng kính đặc biệt đối với Đức Mẹ Loreto và dân thành phố  cử hành ngày lễ truyền thống kính Đức Mẹ vào các ngày 9-10 tháng 5 hàng năm.

Việc làm tượng có sự cộng tác của Cammini Lauretani, tổ chức nhắm nối kết các đền thành Đức Mẹ ở châu Âu.

Thị trưởng của thành phố Primošten đã gặp gỡ các lãnh đạo của Cammini Lauretani với cố gắng liên kết các đền thánh Đức Mẹ ở Italia và Croatia, nhắm tạo nên các hoạt động du lịch và phát triển tôn giáo.

Chính quyền Croatia chưa cho biết khi nào địa điểm kính Đức Mẹ sẽ hoàn thành dù họ cho biết là pho tượng đang ở giai đoạn cuối của tiến trình làm việc. (CAN 07/03/2017)

Hồng Thủy

 

Kinh Truyền Tin với Đức Thánh Cha, Chúa nhật I Mùa Chay: Dựa vào Lời Thiên Chúa

Kinh Truyền Tin với Đức Thánh Cha, Chúa nhật I Mùa Chay: Dựa vào Lời Thiên Chúa

VATICAN. Trong buổi đọc Kinh Truyền Tin với các tín hữu và du khách hành hương trưa Chúa Nhật thứ nhất Mùa Chay 05.03.2017 tại quảng trường thánh Phêrô, Đức Thánh Cha quảng diễn về cách thế Chúa Giêsu dựa vào Lời Thiên Chúa để chiến thắng ma quỷ trong ba cơn cám dỗ nơi sa mạc. Đức Thánh Cha mời gọi mọi người hãy thường xuyên sử dụng Kinh Thánh giống như thường xuyên sử dụng điện thoại di động. Đức Thánh Cha cũng xin mọi người cầu nguyện cho tuần Linh Thao của Ngài và Giáo triều Roma.

Trong bài huấn dụ trước khi đọc kinh Truyền Tin, Đức Thánh Cha nói:

Anh chị em thân mến!

Trong ngày Chúa nhật đầu tiên của Mùa Chay, bài Tin Mừng giới thiệu cho chúng ta con đường hướng tới Phục Sinh. Đó là bốn mươi đêm ngày Chúa Giêsu chịu cám dỗ trong sa mạc (x. Mt 4:1-11). Đó là lúc Chúa Giêsu vừa mới chịu phép rửa tại sông Giođan. Tại sông Giođan, Thần Khí Thiên Chúa ngự xuống trên Người và có tiếng Chúa Cha từ trời công bố: “Này là con Ta yêu dấu” (Mt 3:17). Thế là, Chúa Giêsu đã sẵn sàng bắt đầu thực thi sứ mạng, và cùng lúc ấy Người tuyên chiến với kẻ thù là Satan. Đó là cuộc cận chiến trong sa mạc. Tên cám dỗ lặp đi lặp lại: “Nếu ông là Con Thiên Chúa…”. Ma quỷ gây nghi hoặc về danh hiệu Con Thiên Chúa với mục đích cản trở ngăn trở Chúa thực thi sứ mạng. Không chỉ làm như thế, mà nó còn đưa ra cụ thể ba cơn cám dỗ. Một là biến hóa đá thành bánh để thỏa mãn cơn đói. Hai là nhảy từ trên nóc Đền Thờ xuống và sẽ được các thiên thần nâng đỡ. Ba là thờ lạy ma quỷ để được cai trị thế giới.

Ba cuộc cám dỗ này có nghĩa là Satan muốn lôi kéo Chúa Giêsu ra khỏi con đường vâng phục và khiêm nhường. Bởi vì nó biết rằng, với con đường vâng phục và khiêm hạ, nó sẽ bị đánh bại. Và vì thế, nó cố tình đưa đẩy vào cái vòng hư ảo của thành công và vinh quang. Nhưng những mũi tên tẩm thuốc độc của ma quỷ đều được Chúa Giêsu ngăn chặn bởi chiếc khiên che là Lời Thiên Chúa. Lời Thiên Chúa chính là ý muốn của Chúa Cha. Chúa Giêsu không tự mình nói điều gì, nhưng luôn luôn vâng theo Lời Thiên Chúa. Thế nên, Người chính là Con Thiên Chúa với đầy tràn Thánh Thần, và Người đã chiến thắng trong sa mạc.

Trong suốt bốn mươi ngày Mùa Chay, các Kitô hữu chúng ta được mời gọi bước theo những dấu chân của Chúa Giêsu và vững mạnh trong cuộc chiến đấu thiêng liêng, để với sức mạnh của Lời Chúa mà chống lại thần dữ. Không phải với những lời của chính chúng ta, nhưng là với Lời Thiên Chúa, vì Lời ấy có sức đánh bại Satan. Để làm được điều đó, chúng ta cần thường xuyên đọc Kinh Thánh, suy niệm Lời Chúa và sống Lời Chúa. Kinh Thánh chứa đựng Lời Thiên Chúa, do đó những Lời ấy luôn sống động và hữu hiệu.

Có người nói: Điều gì sẽ xảy ra, nếu chúng ta sử dụng Kinh Thánh giống như chúng ta sử dụng điện thoại di động? Nếu chúng ta thường xuyên mang theo một cuốn Kinh Thánh nhỏ bỏ túi, điều gì sẽ xảy ra? Nếu có lỡ quên, chúng ta quay lại để lấy, giống như chúng ta làm với chiếc điện thoại vậy? Giống như khi quên chiếc điện thoại, chúng ta nói: Ồ, quên mất, tôi không mang theo, đợi chút, tôi quay lại lấy. Nếu chúng ta mở Kinh Thánh để đọc nhiều lần trong ngày, giống như nhiều lần trong ngày chúng ta đọc tin nhắn trên điện thoại, điều gì sẽ xảy ra? Rõ ràng việc so sánh này có vẻ nghịch lý, có vẻ khập khiễng, nhưng là rất nghiêm túc.

Thực tế, nếu Lời Thiên Chúa luôn ở trong tâm hồn chúng ta, thì không có cám dỗ nào và không trở ngại nào có thể làm chúng ta lệch hướng khỏi con đường lành, và khi ấy chúng ta sẽ đánh bại những lời mời mọc của cái ác hàng ngày bủa vây chúng ta, chúng ta sẽ sống cuộc phục sinh trong Chúa, chúng ta sẽ biết đón nhận và yêu thương anh chị em của mình hơn, nhất là những người dễ bị tổn thương và những ai thiếu thốn, ngay cả chúng ta có thể yêu thương kẻ thù của mình.

Lạy Mẹ Maria, Mẹ là mẫu gương hoàn hảo trong việc vâng phục Thiên Chúa và tin tưởng hoàn toàn vào ý Thiên Chúa muốn, xin Mẹ giúp chúng con kiên trì trên hành trình Mùa Chay, để chúng con biết ngoan ngoãn lắng nghe Lời Thiên Chúa để chúng con thực sự được biến đổi tận căn.

Tiếp đến, Đức Thánh Cha đọc kinh Truyền Tin và ban Phép Lành Toà Thánh cho mọi người.

Sau khi đọc kinh Truyền Tin, Đức Thánh Cha chào thăm mọi người:

Anh chị em thân mến,

Cha gửi lời chào thân ái đến các gia đình, các nhóm từ các giáo xứ, các hiệp hội và tất cả những người hành hương đến từ Ý và từ các quốc gia khác.

Vài ngày trước, chúng ta đã bắt đầu Mùa Chay, đó là con đường dẫn chúng ta tới Phục Sinh, đó là con đường của sám hối của hoán cải, trong cuộc đấu tranh chống lại cái ác, với vũ khí của lời cầu nguyện, của việc ăn chay, của việc bác ái. Cha hy vọng tất cả chúng ta đều có một Mùa Chay mang nhiều ơn ích. Xin anh chị em cầu nguyện cho Cha và cho các thành viên của Giáo triều Roma, vì tối nay chúng tôi sẽ bắt đầu tuần Linh Thao. Chân thành cám ơn vì anh chị em sẽ cầu nguyện cho chúng tôi.

Xin vui lòng đừng quên, đừng quên sử dụng Kinh Thánh thường xuyên giống như chúng ta sử dụng điện thoại! Anh chị em hãy nghĩ về điều ấy. Để Kinh Thánh luôn đồng hành cùng chúng và gần gũi với chúng ta.

Tứ Quyết SJ

Đức Thánh Cha tiếp kiến Hội nghị quốc tế về thánh nhạc

Đức Thánh Cha tiếp kiến Hội nghị quốc tế về thánh nhạc

VATICAN. ĐTC khuyến khích các chuyên gia về thánh nhạc giúp cộng đoàn phụng vụ và dân Chúa tích cực tham dự vào mầu nhiệm Thiên Chúa.

Ngài đưa ra lời kêu gọi trên đây trong buổi tiếp kiến sáng 4-3-2017 dành cho 400 tham dự viên Hội nghị quốc tế về chủ đề: ”Âm nhạc và Giáo Hội: việc phụng tự và văn hóa 50 năm từ sau Huấn Thị về Thánh Nhạc”. Hội nghị do Hội đồng Tòa Thánh về Văn hóa, Bộ giáo dục Công Giáo, Giáo Hoàng Học viện về Thánh Nhạc và Giáo Hoàng Học viện về phụng vụ thuộc trường thánh Anselmo ở Roma cùng tổ chức.

Huấn thị ”Musicam sacram” đề ra những đường hướng cụ thể để áp dụng Hiến chế của Công đồng chung Vatican 2 về Phụng Vụ Thánh (Sacrosanctum Concilium).

Trong bài huấn dụ, ĐTC đề cao tính chất thời sự của Huấn Thị này, trong đó có nêu bật tầm quan trọng sự tham gia của toàn thể cộng đoàn tín hữu, một cách tích cực, ý thức và trọn vẹn, vào hoạt động phụng vụ. Trong ý hướng đó, ngài nhiệt liệt khuyến khích các chuyên gia về thánh nhạc, các vị ca trưởng các ca đoàn, ”hãy giúp cộng đoàn phụng vụ và Dân Chúa nhận thức và tham gia, với tất cả giác quan thể lý và tinh thần, vào mầu nhiệm Thiên Chúa. Thánh Nhạc và thánh ca phụng vụ có nghĩa vụ mang lại cho chúng ta ý nghĩa vinh danh Thiên Chúa, vẻ đẹp, sự thánh thiện bao trùm chúng ta như đám mây sáng ngời” (SD 4-3-2017)

G. Trần Đức Anh OP

 

Dân chúng hết hy vọng cha Tom Uzhunnalil được trả tự do

Dân chúng hết hy vọng cha Tom Uzhunnalil được trả tự do

New Delhi – Một năm sau khi cha Tom Uzhunnalil, dòng Salêdiêng,  bị dân quân Hồi giáo ở Yemen bắt cóc, những người cầu nguyện cho cha Tom Uzhunnalil cảm thấy buồn bực và thất vọng.

Cha Uzhunnalil bị bắt cóc tại nhà dưỡng lão do các nữ tu dòng Thừa sai bác ái của Mẹ Têrêsa chăm sóc ở Aden, miền nam Yemen, vào ngày 04/03/2016. Những kẻ bắt cóc đã giết 16 nhân viên, trong đó có 4 nữ tu.

Giáo hội Ấn độ đã cầu nguyện cũng như yêu cầu chính quyền can thiệp để cha Uzhunnalil được trả tự do. Tại Ramapuram, bang Kerala, quê nhà của cha, các biểu ngữ và hình ảnh được giăng lên, nhắc nhở dân chúng rằng cha đã bị bắt cóc một năm rồi. Những buổi cầu nguyện đặc biệt được tổ chức vào ngày 04/03 ở giáo xứ quê nhà để cầu nguyện cho cha.

Cha George Njarakunnel, cha sở giáo xứ thánh Augustin ở Ramapuram phê bình và phủ nhận tin tức từ các bộ trưởng liên bang là cha Uzhunnalil cứ đi Yemen dù bị cấm đến đó. Cha tin là cha Uzhunnalil vẫn còn sống, theo nguồn tin đáng tin, và bị canh giữ để đòi tiền chuộc.

Hôm 02/03, chính quyền bang Kerala yêu cầu chính quyền liên bang gia tăng nỗ lực để giải cứu cha Uzhunnalil. Nhiều người đề nghi chính quyền liên bang cầu cứu sự giúp đỡ của Liên hiệp quốc để cứu cha Uzhunnalil.

Cha Uzhunnalil thuộc tỉnh dòng Salêdiêng Bangalore và tỉnh dòng đã tổ chức cầu nguyện cho cha vào chiều ngày 04/03. Chương trình bao gồm cầu nguyện và một cuộc hội họp. Các vị lãnh đạo Giáo hội và chính trị có tiếng được hy vọng sẽ tham gia. Cha giám tỉnh cho biết là tỉnh dòng rất lo lắng về sự chậm trễ trong việc bảo đảm cho cha Uzhunnalil được thả tự do.

Về phần mình, một nữ tu Công giáo cho biết sơ hết hy vọng là cha được thả tự do. Sơ cho biết dân chúng trở nên nghi ngờ về điều này. (Matters India Reporter 04/03/2017)

Hồng Thủy

Năm 2015 của Tòa Thánh năm bị thiếu hụt 12.4 triệu Euro

Năm 2015 của Tòa Thánh năm bị thiếu hụt 12.4 triệu Euro

VATICAN. Kết toán chi thu của Tòa Thánh trong năm 2015 bị thiếu hụt 12,4 triệu Euro, tức là giảm được hơn 1 nửa so với số thiếu hụt 25,8 triệu Euro trong năm 2014 trước đó.

Năm 2013, Tòa Thánh bị thiếu hụt 24,4 triệu Euro.

Thông cáo do Bộ Kinh tế của Tòa Thánh công bố hôm 4-3-2017 cho biết số thu của Tòa thánh đến từ việc đầu tư và có 24 triệu Euro do các giáo phận và dòng tu đóng góp theo khoản giáo luật số 1271. Ngoài ra có 50 triệu Euro do Viện Giáo Vụ, quen gọi là Ngân hàng Vatican đóng góp.

Giống như những năm trước đây, phần lớn số chi của Tòa Thánh là để trả lương cho các nhân viên.

Ngoài ra, trong năm 2015, kết toán chi thu của Phủ Thống đốc Quốc gia thành Vatican dư được gần 60 triệu Euro (59,9), phần lớn từ Bảo tàng viện Vatican.

Kết toán chi thu của Tòa Thánh nay bắt đầu được thực hiện theo các nguyên tắc kế toán quốc tế, và cần vài năm nữa để hoàn thành tiến trình, với điểm lợi là chất lượng được cải tiến và minh bạch hơn trong việc thông tin tài chánh và gia tăng sự nghiêm túc trong thủ tục phúc trình và kiểm soát tài chánh. (SD 4-3-2017)

G.Trần Đức Anh OP

Đức Hồng Y Mueller bác bỏ lời trách cứ của bà Marie Collins

Đức Hồng Y Mueller bác bỏ lời trách cứ của bà Marie Collins

VATICAN. ĐHY Gerhard Mueller, Tổng trưởng Bộ giáo lý đức tin, bác bỏ lời trách cứ của bà Marie Collins, và một số người khác cho rằng các cơ quan Tòa Thánh không hỗ trợ công việc của Ủy ban Tòa Thánh bảo vệ trẻ em.

Hôm 1-3-2017, bà Marie Collins, người Ai Len, từng là nạn nhân bị 1 LM lạm dụng hồi năm 1960, đã từ chức thành viên Ủy ban Tòa Thánh bảo vệ trẻ em. Trong nhiều cuộc phỏng vấn sau đó, bà cho biết lý do khiến bà từ chức vì sự thiếu cộng tác của nhiều cơ quan Tòa Thánh với Ủy ban này, trong đó có Bộ giáo lý đức tin. Tòa Thánh thiếu quyết liệt trong việc xử lý những kẻ lạm dụng tính dục trẻ em.

Ví dụ trong cuộc phỏng vấn dành cho báo trực tuyến ”Phóng viên Công Giáo toàn quốc” (National Catholic Reporter) ở Mỹ, truyền đi cùng ngày 1-3-2017, bà Collins kể lại những khó khăn của Ủy ban này: ví dụ khi mới được thành lập, Ủy ban không có văn phòng cũng chẳng có nhân viên, tiếp đến là khó đối thoại và không được sự cộng tác của các cơ quan khác của Tòa Thánh, ngoài ra Ủy ban không có ngân sách đủ để hoạt động.. Bà cũng than phiền rằng mặc dù có sự chấp thuận của ĐTC hồi tháng 6 năm 2016 về việc thành lập một tòa án để cứu xét những chểnh mảng của các GM không xử lý đúng đắn những vụ LM bị tố cáo lạm dụng tính dục trẻ vị thành niên, nhưng đề nghị này không được thi hành. Bà cũng yêu cầu làm sao để cho Ủy ban có phương tiện tài chánh thích hợp và tùy nghi sử dụng mà không phải chịu sự kiểm soát và đồng ý của Bộ Kinh tế của Tòa Thánh.

ĐHY Mueller

Trong cuộc phỏng vấn dành cho tờ Frankfurt toàn báo (Frankfuter Allgemeine Zeitung) số ra ngày 3-3-2017, ĐHY Mueller nói:

”Cần phải hiểu rằng Tòa Thánh không đưa ra những bản án như tòa đời. Trong Giáo Hội, hình phạt là giới hạn các chức vụ thiêng liêng và án phạt nặng nhất là sa thải khỏi hàng giáo sĩ. Ngoài ra, hình luật của mỗi nước đều có thể áp dụng cho các giáo sĩ. Tòa án đời có thể phạt tù tội nhân. Biện pháp trừng phạt của Giáo Hội có thể được coi là bổ túc, như một biện pháp kỷ luật. Ví dụ việc trừng phạt một giáo sư không những thuộc thẩm quyền tòa án, nhưng cũng thuộc bộ văn hóa”.

ĐHY Mueller nhắc lại rằng ĐTC đã thiết lập Ủy ban Tòa Thánh bảo vệ trẻ em để chứng tỏ sự lạm dụng tính dục trẻ em là một tội nặng cần phải bài trừ. Qua đó ngài muốn gây ý thức trên thế giới. Tuy nhiên nhiệm vụ của Ủy ban Tòa Thánh không phải là hỗ trợ Bộ giáo lý đức tin trong việc xử lý những vụ lạm dụng”.

Trong cuộc phỏng vấn, ĐHY cũng trả lời câu hỏi về tin báo chí cho rằng ĐTC đã không theo đề nghị của Bộ giáo lý đức tin sa thải 1 LM bị cáo lạm dụng tính dục, và giảm án cho đương sự. ĐHY nói: Vụ này chưa kết thúc, có thêm những yếu tố mới mà hiện thời chưa thể tiết lộ được.

ĐHY Mueller nhìn nhận rằng đối với Giáo Hội không dễ phân tích những sự kinh khủng và không thể tưởng tượng được như nạn lạm dụng tính dục. ”Các GM chúng tôi có khi là những người thơ ngây, tin tưởng nơi sự tốt lành. Chúng tôi không học về tội phạm học. Về vấn đề này Giáo Hội còn đang ở trong một tiến trình học hỏi. Ngoài ra mỗi nước có tâm thức, văn hóa và luật lệ khác nhau, không thể mong đợi khắp mọi nơi đề có mức độ nhạy cảm cao độ như chúng ta thực sự mong muốn”.

ĐHY O'Malley và Cha Hans Zollner

Trước đó, trong thông cáo công bố ngày 1-3-2017, ĐHY O'Malley, TGM Boston Hoa Kỳ, Chủ tịch Ủy ban bảo vệ trẻ vị thành niên, cho biết đơn xin từ chức của bà Marie Collins đã được ĐTC chấp thuận. ĐHY đánh giá cao sự cộng tác của bà và chân thành cám ơn bà, đồng thời cho biết sẽ mời bà cộng tác như một chuyên gia ngoài Ủy ban, ví dụ thuyết trình trong các khóa bồi dưỡng cho các GM mới về vấn đề bảo vệ trẻ em.

Cha Hans Zollner, dòng Tên, thành viên Ủy ban Tòa Thánh bảo vệ trẻ em, và cũng là Giám đốc Trung Tâm bảo vệ trẻ em thuộc Đại học Giáo Hoàng Gregoriana ở Roma, bày tỏ đau buồn vì bà Marie Collins rời bỏ Ủy ban Tòa Thánh.

Cha cho biết Bà Collins cũng đã cộng tác với cha từ 5 năm nay từ sau khi bà được mời nói chuyện với các đại diện các HĐGM thế giới hồi năm 2012 về việc bảo vệ em chống nạn lạm dụng tính dục trẻ em.

Cha Zollner nói rằng bà Collins đã để lại cho Trung Tâm bảo vệ trẻ em một băng ”video – phỏng vấn” và băng này sắp được phổ biến trên mạng cho những người đối tác để đề cao tầm quan trọng của việc dành tiếng nói cho các nạn nhân bị lạm dụng.

Cách đây 2 năm, Ủy ban Tòa Thánh bảo vệ trẻ em cũng đã có một thành viên khác từng là nạn nhân bị giáo sĩ lạm dụng tính dục, đó là ông Peter Saunders 70 tuổi người Anh. Ông phản đối vì không hài lòng với sự cộng tác mà ông mong đợi từ phía các cơ quan khác của Tòa Thánh. Ngoài ra Ông đã đưa ra những lời tuyên bố và bị coi là có những hành động không thích hợp với đường hướng của Ủy ban như mạnh mẽ phê bình và lên án ĐHY George Pell, Bộ trưởng kinh tế của Tòa Thánh.

Tuy không từ chức nhưng nay ông không là thành viên tích cực hoạt động và không tham gia các hoạt động của Ủy ban Tòa Thánh bảo vệ trẻ em (Tổng hợp 1.3-3-2017)

G. Trần Đức Anh OP

 

“Mẹ Têrêsa của Myanmar” chăm sóc các bệnh nhân bệnh Aids

“Mẹ Têrêsa của Myanmar” chăm sóc các bệnh nhân bệnh Aids

Yangon, Myanmar – Mọi người gọi sơ Marta Mya Thwe, dòng thánh Giuse là “Mẹ Têrêsa của Myanmar”, vì sơ đã dấn thân không mệt mỏi phục vụ các bệnh nhân bị sida hay dương tính với virus Hiv, những người không được chữa trị đúng mức, bị xã hội loại bỏ và gia đình xua đuổi và các cơ sở y tế của Myanmar không quan tâm.

Sơ Marta kể về công việc của minh: “Nhiều người không dám dụng đến những người bị sida. Tôi nhận thấy nhiều người bị đuỏi khỏi nhà vì bệnh này. Nhiều người bịnh giai đoạn cuối nằm trên đường phố cho đến chết. Trong những năm gần đây, có một thảm kịch gia tăng về số người chết vì bịnh này, bị chính phủ và các tổ chức bỏ rơi.”

Năm 2001, được thúc đẩy làm điều gì đó, sơ Marta đã yêu cầu ngay cả một tu sĩ Phật giáo và nhờ sự giúp đỡ của một số ân nhân và sinh viên, sơ đã thành lập trung tâm chữa trị “Tấm Gương Bác Ái”, nơi cung cấp chỗ trú ngụ, thực phẩm, thuốc men và các phương tiện giáo dục cho các trẻ mồ côi và những người bịnh sida.

Trung tâm đầu tiên ở Kyeikkami, một thành phố nhỏ miền quê của bang Mon, và sơ và một đội ngũ 2 nữ tu và 10 giáo dân, đã bắt đầu đón tiếp và điều trị các bịnh nhân sida từ các bang Kachin, Shan và Karen.

Sơ Marta cho biết sơ chứng kiến hàng ngày nhiều người chết, cả vì không thể mua các loại thuốc kháng virus. Đội ngũ của sơ chỉ có thể đồng hành với nhiều bịnh nhân vào giây phút cuối đời.

Sau nhiều nỗ lực, sơ Marta đã có thuốc và bắt đầu điều trị cho 20 bệnh nhân, rồi cho khoảng 103 bịnh nhân người lớn và trẻ em. Trung tâm của sơ, từ một ngôi nhà đơn giản bằng gỗ vào năm 2002, giờ đã được mở rộng với nhiều tòa nhà, nhờ tài trợ của tòa đại sứ Áo, Nhật và Đức. Ngày nay còn có một trạm xá nhỏ cung cấp các trợ giúp y tế, nơi có thể làm các xét nghiệm bịnh sốt rét hay viêm gan.

Năm 2014, một trung tâm mới được xây dựng ở Kawthaungnel, miền nam Myanmar, nơi mà bịnh sida lan tràn. Các trung tâm chăm sóc  và đồng hành khác cũng có ở các thành phố Kyaikkami và Thanbyuzayat, trợ giúp 104 bịnh nhân. Sơ Marta cho biết: “chúng tôi đang tìm cách đối phó với vấn đề các bịnh nhân trẻ em với sự trợ giúp toàn diện cho sự tăng trưởng của các em, điều trị và cả giáo dục” vì thường phụ huynh và gia đình không sẵn sàng chấp nhận rằng các em có thể trở về lại với gia đình của các em. (Agenzia Fides 4/3/2017)

Hồng Thủy

Đức Thánh Cha gặp gỡ các cha sở Roma

Đức Thánh Cha gặp gỡ các cha sở Roma

ROMA. Trong cuộc gặp gỡ khoảng 800 cha sở Roma sáng ngày 2-3-2017 tại Đền thờ Thánh Gioan Laterno, ĐTC khích lệ các vị vượt thắng những khó khăn và cám dỗ để tăng trưởng trong đức tin.

ĐTC Phanxicô tiếp tục truyền thống của các vị tiền nhiệm, gặp gỡ các cha sở trong giáo phận Roma vào thứ 5 sau lễ tro. Hiện diện tại buổi gặp gỡ cũng có ĐHY Giám quản Agostino Vallini và các Giám Mục Phụ tá.

Đến nơi vào lúc 11 giờ, ĐTC đã giải tội cho khoảng 12 linh mục, trước khi bắt đầu bài suy niệm từ lúc 11 giờ 50 về đề tài: ”Sự tăng trưởng đức tin trong đời sống linh mục”. Ngài cho biết đã soạn bài suy niệm thành một tập nhỏ và sẽ tặng cho các linh mục để suy niệm riêng và chỉ trình bày một số phần trong tập này.

ĐTC nhận xét rằng cám dỗ là điều vẫn luôn hiện diện trong đời sống của Simon Phêrô. Thánh nhân đích thân tỏ cho chúng ta thấy cách thức tiến triển trong đức tin qua việc tuyên xưng và để cho mình bị thử thách, và qua đó cả tội lỗi cũng đi vào sự tiến bộ của đức tin.

ĐTC nói: ”Phêrô đã phạm tội nặng nề là chối Chúa – vậy mà Chúa chọn Phêrô làm Giáo Hoàng. Điều quan trọng đối với một linh mục là biết đưa những cám dỗ và tội lỗi của mình vào trong khuôn khổ kinh nguyện của Chúa Giêsu để đức tin của chúng ta không bị suy yếu, nhưng trưởng thành và giúp củng cố đức tin của những người được ủy thác cho sự chăm sóc của linh mục”.

Theo chiều hướng trên đây, ĐTC mời gọi các linh mục hãy tránh thái độ chủ bại: ”Cảm thức thất bại làm cho chúng ta trở thành những người bi quan, bất mãn, và không hăng say phấn khởi, thành những người có bộ mặt rầu rĩ. Đó là một trong những cám dỗ nghiêm trọng nhất, bóp nghẹt lòng nhiệt thành và sự táo bạo.. Không ai có thể khởi sự một trận chiến nếu trước đó không tín thác hoàn toàn nơi chiến thắng. Ai bắt đầu mà thiếu tin tưởng, thì đã thất bại trước một nửa trong trận chiến và chôn vùi những tài n-ăng của mình”.

ĐTC nói thêm rằng: ”Cho dù ý thức đau thương về sự mong manh của mình, cần phải tiếp tục tiến bước, không coi mình là đã thất bại, và hãy nhớ điều Chúa nói với thánh Phaolô: 'Ơn Cha đủ cho con; thực vậy, sức mạnh được biểu lộ hoàn toàn trong sự yếu đuối'.

Theo ĐTC Phanxicô, ”chiến thắng của Kitô hữu luôn luôn là một thập giá, nhưng thập giá ấy đồng thời là lá cờ chiến thắng, ta mang ngọn cờ ấy với một trận chiến dịu dàng chống lại những cuộc tấn công của sự ác. Tinh thần xấu xa của sự thất bại là anh em chiều theo cám dỗ muốn tách rời trước thời hạn lúa tốt ra khỏi cỏ dại, cỏ này vốn là sản phẩm của thái độ lo lắng thiếu tin tưởng và coi mình là trung tâm điểm”.

ĐTC cũng nói: ”Tôi thích lập lại rằng một linh mục hoặc một giám mục không cảm thấy mình là người tội lỗi, không xưng thú, mà chỉ khép kín co cụm vào mình, thí không tiến triển trong đức tin. Nhưng cần chú ý làm sao để sự xưng tội và phân định những cám dỗ của mình bao gồm và để ý tới ý hướng mục vụ mà Chúa muốn mang cho các vị”.

Bài suy niệm của ĐTC dài 50 phút, sau cùng, ngài cũng tặng cho mỗi linh mục cuốn sách phỏng vấn vị linh mục 90 tuổi dòng Capuchino ở Buenos Aires chuyên giải tội và luôn sẵn sàng ban ơn tha thứ. Cuốn sách mang tựa đề ”Đừng sợ tha thứ”! (SD 2-3-2017)

G. Trần Đức Anh OP

Thiên Chúa mang lấy những thương tích của chúng ta

Thiên Chúa mang lấy những thương tích của chúng ta

Chiếc la bàn định hướng của người Kitô hữu chính là việc bước theo Đức Kitô chịu đóng đinh. Ngài là Thiên Chúa đã trở nên người phàm và mang lấy những thương tích của chúng ta. Đức Thánh Cha chia sẻ như thế trong thánh lễ sáng nay tại nhà nguyện Marta.

Mở đầu mùa chay với tiếng vang gọi mời sám hối, chúng ta được mời gọi nhìn vào thực tại với ba nét: thứ nhất là con người, thứ hai là Thiên Chúa, thứ ba là con đường.

Thực tại về con người

Thực tại là con người phải lựa chọn giữa thiện và ác. Thiên Chúa đã ban cho chúng ta tự do, và chúng ta phải thực hiện việc chọn lựa. Thế nhưng, Chúa không bỏ mặc chúng ta một mình, Ngài ban cho chúng ta các điều răn để dẫn đường chỉ lối. Tiếp đến, thực tại về Thiên Chúa là điều rất khó hiểu đối với các môn đệ. Các ông không hiểu được con đường thập giá của Chúa Giêsu. Bởi lẽ Chúa Giêsu là Thiên Chúa đã mang lấy trọn vẹn thân phận phàm nhân chỉ trừ tội lỗi. Nếu không có Thiên Chúa thì đã không có Chúa Kitô. Nếu tin vào Thiên Chúa mà không tin vào Đức Kitô, thì vị Chúa ấy không thực.

Thực tại về Thiên Chúa

Thực tại về Thiên Chúa, chính là Thiên Chúa làm người, Thiên Chúa nơi Đức Kitô, vì chúng ta và để cứu độ chúng ta. Khi chúng ta quay lưng lại với thực tại này, chúng ta cũng quay lưng lại Thập giá Chúa Kitô, và khi đó chúng ta đi ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa, đi ra khỏi con đường cứu độ của Thiên Chúa. Con đường của Thiên Chúa là thế này: Ngài đã đến với chúng ta, đến bên chúng ta để cứu chúng ta, và chết vì chúng ta. Đó là thực tại về Thiên Chúa.

Có một cuộc đối thoại giữa một người theo thuyết bất khả tri và một tín hữu. Người theo thuyết bất khả tri với thiện ý, đã hỏi người tín hữu rằng: “Đối với tôi, bằng cách nào mà có thể… Vấn đề là bằng cách nào mà Đức Kitô là Thiên Chúa, điều này tôi không hiểu. Đức Kitô là Thiên Chúa hay sao?”. Người tín hữu đáp lại: “Vâng, với tôi, đây không phải là vấn đề. Vấn đề là làm sao Thiên Chúa lại không là Đức Kitô”.

Thực tại về Thiên Chúa là: Đức Kitô chính là Thiên Chúa, Thiên Chúa đã trở nên người phàm, và đây là nền tảng để thực thi lòng thương xót. Các thương tích của anh chị em chúng ta cũng là những thương tích của Chúa Kitô. Chúng ta đều biết rằng, không thể sống mùa chay mà không sống thực tại này. Tất cả chúng ta cần thay đổi bản thân, không phải với một Đức Kitô kiểu trừu tượng mông lung, nhưng là với một Đức Kitô cụ thể bằng xương bằng thịt, Đấng là Thiên Chúa làm người.

Thực tại về con đường

Thực tại thứ ba là con đường. Chúa Giêsu nói: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo”.

Con đường ấy chính là con đường của Chúa Kitô, là bước theo Đức Kitô để thực thi ý muốn của Chúa Cha như Đức Kitô đã làm, là từ bỏ chính mình và vác thập giá mình hằng ngày mà theo Chúa Kitô. Không làm những gì mình muốn, nhưng là làm những gì Đức Kitô muốn, đó là theo Đức Kitô. Ngài đã nói về con đường từ bỏ, con đường liều mất mạng sống để rồi được lại sự sống. Đó là con đường hy sinh mạng sống, hy sinh những gì mình muốn, hy sinh những tiện nghi, để phục vụ tha nhân, để phụng thờ Thiên Chúa. Đó là con đường của Chúa Giêsu. Đó là con đường phải lẽ.

Như thế, chỉ có một con đường chắc chắn, là bước theo Chúa Giêsu chịu đóng đinh, con đường thập giá. Đó là thực tại với ba nét đặc thù: thực tại về con người, thực tại về Thiên Chúa, thực tại về con đường. Đó là chiếc la bàn giúp người Kitô hữu không bị lạc lối.

Tứ Quyết SJ

Nhà nguyện kính thánh Têrêsa Hài đồng Giêsu ở Campuchia

Nhà nguyện kính thánh Têrêsa Hài đồng Giêsu ở Campuchia

Nông pênh – Có một sức sống mãnh liệt trong cộng đoàn Công giáo Capuchia.  Hôm 18/02, sau khi nhà thờ thánh Phêrô ở Pot hon được thánh hiến, Đức cha Olivier Schmitthaeusler, giám quản tông tòa Nông Pênh đã thông báo việc làm phép nhà nguyện dâng kính Thánh Têrêsa Hài đồng và trung tâm mục vụ ở Preykbas, vùng Takeo. Nhà nguyện được thánh hiến và khánh thành ngày 25/02.

Đức cha Schmitthaeusler cho hãng tin Fides biết, cộng đoàn Preykbas là một cộng đoàn Kitô trẻ của phủ doãn Nông pênh, được thành lập năm 2012 với 14 tín hữu đầu tiên. Đức tin Công giáo phát triển ở Takeo cách đây nhiều năm, bắt đầu với sự hiện diện của một tín hữu duy nhất, Paul Chaeng, ở giáo xứ Đức Mẹ cười. Vào năm 2002, cộng đoàn có cha xứ địa phương là Đức cha Schmitthaeusler bây giờ. Qua 15 năm, cộng đoàn đã lớn mạnh và phát triển nhiều: có 8 cộng đoàn mới ở tỉnh Takeo mà Preykbas là một trong số này. Cộng đoàn ở Takeo cũng vui mừng đón nhận 70 tân tòng vào dịp lễ Phục sinh. Trong toàn phủ doãn Tông tòa Nông pênh có tất cả 144 dự tòng, đến từ 9 vùng mục vụ của phủ doãn, sẽ được rửa tội vào lễ Phục sinh.

Đức cha kể lại, cộng đoàn được sinh ra sau khi gặp Paul Cheang ở làng Preykbas. Từ năm 2009, mỗi Chúa nhật, Paul Chaeng dạy giáo lý cho vài người trẻ. Năm 2010, Đức cha Olivier đã mua một khu đất để xây dựng trung tâm mục vụ của giáo phận. Nhờ sự giúp đỡ từ Thái lan, trên mảnh đất 3 mẫu tây này có 3 nhà nhỏ, một trường mẫu giáo và một nhà nguyện nhỏ kính thánh Têrêsa. Ngôi nhà nguyện đầu tiên được xây bằng bùn và tranh. Đức cha nói: “Nó là dấu chỉ sống động của sự hiện diện của Thiên Chúa ở cạnh núi Chisor, được gọi là ánh sáng cho những người đói khát hòa bình và công lý.

Nhà nguyện cũng có thánh tích của Mẹ Têrêsa Calcutta, được dặt ở bàn thờ để giúp các tín hữu có lòng thương xót như Cha trên trời.

Trung tâm mục vụ có thể chứa 50 người và được dùng như nhà tĩnh tâm, huấn luyện và nghỉ ngơi. (Agenzia Fides 02/03/2017)

Hồng Thủy

 

Phỏng vấn cha Giulio Michelini về việc giảng tĩnh tâm cho giáo triều Roma

Phỏng vấn cha Giulio Michelini về việc giảng tĩnh tâm cho giáo triều Roma

Trong các ngày từ mùng 5 tới mùng 10 tháng 3 tới này cha Giulio Michelini, dòng Anh em hèn mọn Phanxicô, sẽ giảng tĩnh tâm mùa Chay cho ĐTC và các nhân viên Trung Ương Toà Thánh tại nhà tĩnh tâm Divino Maestro tỉnh Ariccia cách Roma 37 cây số. Đề tài cho cuộc tĩnh tâm là “Cuộc khổ nạn, cái chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu theo Phúc Âm thánh Mátthêu”.

Cha Michelini sinh năm 1963 tại Milano bắc Italia, gia nhập Dòng Anh em hèn mọn Phanxicô năm 1986. Năm 1987 thầy Michelini mặc áo dòng và làm nhà tập tại đan viện  San Damiano ở Assisi, khấn trọng năm 1992, và thụ phong linh mục năm 1994. Trong thời gian học tại Học viện thần học Assisi cha đã có linh mục Giuseppe Betori như giáo sư kinh thánh. Năm 1997 cha lấy bằng tiến sĩ ngữ học và văn chương ngoại quốc tại đại học Perugia. Tiếp đến năm 2008 cha lấy bằng tiến sĩ thần học kinh thánh tại đại học giáo hoàng Gregoriana ở Roma. Cha cũng đã sống 3 năm tại Giêrusalem cho tới năm 2007.

Từ năm 1993 tới năm 1996 cha Michelini đã là giám đốc cư xá sinh viên Monteripido ở Perugia và cộng tác tích cực với các TGM Ennio Antonelli và Giuseppe Chiaretti. Cha cũng đã là giáo sư các môn dẫn nhập và chú giải Thánh Kinh Tân Ước tại Học viện thần học Assisi, và là giám đốc nguyệt san Convivium Assisiense. Năm 2014 cha được chỉ định là giáo sư kinh thánh thực thụ của học viện thần học Assisi. Trong các năm 1997-2001 cha cũng trợ giúp văn phòng tổng thư ký của HĐGM Italia. Từ năm 2011 tới 2017 cha là bề trên tu viện Farneto. Cha cũng là giám đốc văn phòng tông đồ kinh thánh của giáo phận Perugia – Città della Pieve.

Cha Michelini là tác giả của vài cuốn sách và bài khảo luận như : « Máu của giao ước và sự cứu rỗi người tội lỗi. Một đọc hiểu mới hai chương 26-27 Phúc Âm thánh Mátthêu »  (2010);  « Nicola da Lira và việc chú giải do thái (2013); Mátthêu ». « Chú giải. Dẫn nhập, bản dịch và chú giải” 2013); “Một ngày với Chúa Giêsu. Một ngày tại Capharnaum theo thánh sử Marcô” (2015); « Bài thánh thi của mọi thánh thi. Niềm vui của tương quan nam nữ” (2016).

Cha Giulio Michelini là giáo sư chú giải kinh thánh tân ước tại Học viện thần học Assisi và là tuyên uý Phong trào Giáo Hội dấn thân thăng tiến văn hóa. Cha cũng hoạt động mục vụ trong lãnh vực kinh thánh, hướng dẫn các cặp vợ chồng kitô, và đặc trách việc huấn luyện các ứng viên Phó tế  vĩnh viễn trong giáo phận Perugia-Città della Pieva. Cha là chuyên viên nghiên cứu Phúc Âm thánh Mátthêu và đặc biệt nghiên cứu về cuộc Khổ Nạn của Chúa Giêsu.

Sau đây chúng tôi xin gửi tới quý vị bài phỏng vấn cha về đề tài cuộc thuyết giảng tĩnh tâm mùa Chay này cho giáo triều Roma.

Hỏi: Thưa cha, cha đã tiếp nhận lời ĐTC Phanxicô mời giảng tĩnh tâm cho giáo triều Roma như thế nào?

Đáp: Tôi đã tiếp nhận lời mời của ĐTC với ý thức trách nhiệm, niềm vui và một chút lo lắng. Tôi nhận ra ngay đây là một việc quan trọng, và tôi xin thú thật là trước khi nhận lời mời của ĐTC tôi đã hỏi ý kiến cha linh hướng của tôi.

Hỏi: Tại sao cha lại đã chọn đề tài “Cuộc Khổ nạn, cái chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu theo Phúc Âm thánh Mátthêu” cho cuộc giảng tĩnh tâm này cho ĐTC và các nhân viên làm việc trong giáo triều Roma?

Đáp: Việc bắt đầu Mùa Chay đã hướng chúng ta tới Tuần Thánh, trong đó chúng ta cử hành trung tâm điểm của mầu nhiệm kitô, là cuộc Khổ nạn, cái chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu. Đó là một lý do. Đàng khác, tôi đã được đào tạo, tôi đã làm việc và đào sâu các nghiên cứu về cuộc Khổ nan của Chúa Giêsu theo Phúc Âm thánh Mátthêu. Vì thế tôi cho rằng mình có thể đo lường với văn bản trong đó tôi đã rất tập trung sự chú ý của mình vào đề tài này, và tôi tin rằng mình có thể nói điều gì đó có ích lợi liên quan tới đề tài ấy.

Hỏi: Sự kiện cha yêu thích Phúc Âm thánh Mátthêu phát xuất từ đâu?

Đáp: Lý do  thứ nhất là vì luận án tiến sĩ của tôi dành cho Phúc Âm của thánh sử. Thế rồi phụng vụ năm nay đề nghị các bài đọc trích từ Phúc Âm của thánh Mátthêu, cũng là Phúc Âm của thánh Phêrô và của Giáo Hội. Phúc Âm thánh Mátthêu cũng là Phúc Âm duy nhất biết tới từ “Ecclesia” Giáo Hội. Ngoài ra khi tôi nói, tôi sẽ có trước mặt các mục tử của Giáo Hội, vì vậy tôi đã nghĩ chọn một bối cảnh cho phép lắng nghe chính thánh Phêrô. Ngoài ra việc dẫn nhập vào cuộc tĩnh tâm sẽ bắt đầu ngày Chúa Nhật và sẽ chú ý tới hai điểm: ở với Chúa Giêsu và ở với thánh Phêrô.

Hỏi: Sẽ có gì thời sự trong các bài suy niệm của cha hay không?

Đáp: Có chứ, rất là thời  sự. Tôi nghĩ tới bài suy niệm sẽ nói về bà vợ của quan Philatô. Tôi đã được một cặp vợ chồng giúp đỡ. Đây là cặp vợ chồng mà tôi đã cộng tác từ nhiều năm nay: đó là anh chị Gillini-Zattoni. Điều này để nói rằng trong các suy tư cũng có đề tài gia đình. Rồi cũng bước vào trong các suy tư người nghèo, bởi vì khởi đầu cuộc Khổ Nạn, trong trang kể lại việc bà Maria Madalena xức dầu thơm trên chân Chúa ở Betania, Chúa Giêsu nói: “Người nghèo chúng con sẽ luôn luôn có họ với chúng con”. Rồi cũng bước vào suy tư các người khổ đau, như Chúa Giêsu đau khổ trong vườn Giệtsêmani: chúng ta có thể nói rằng tại nơi này có tất cả những người giờ đây đang phải sống trong thử thách, và như Chúa Giêsu, đôi khi họ phải vất vả đi theo ý muốn của Thiên Chúa. Cả các văn bản được chọn cho các suy niệm cũng đại diện cho nhiều tác phẩm khác nhau, chứ không phải chỉ hạn hẹp trong các văn bản phúc âm: tôi sẽ quy chiếu các tác phẩm như: “Vương quốc” của Emmanuel Carrière, “Giuđa” của Amos Oz và “Biến đổi hình dạng” của Franz Kafka, mà tôi sẽ sử dụng cho bài suy niệm cuối cùng về sự phục sinh, trong đó tôi sẽ nói về sự thức dậy của Chúa Giêsu, “Sự lựa chọn của Sophie” của William Styron, từ đó đạo diễn Alan Pakula đã đóng cuốn phim với Meryl Streep. Nó là một cuốn sách rất quan trọng sẽ giúp tôi nói về Chúa Giêsu và Barabba.

Hỏi: Sự kiện là tu sĩ Phanxicô ảnh hưởng trên các bài suy niệm của cha tới mức nào?

Đáp: Tôi tin là nó ảnh hưởng nhiều lắm, bởi vì tôi đã được chuẩn bị ở Capharnaum. Các anh em Phanxicô đã tiếp đón tôi trong thành phố của Chúa Giêsu, như chúng ta đọc trong Phúc Âm thánh Mátthêu. Trong các suy niệm này tôi sẽ liên tục quy chiếu cuộc sống của Chúa Giêsu tại Galilea, các biến cố mà cho tới nay chúng ta vẫn còn trông thấy các ký ức lịch sử và khảo cổ của Thánh Địa, mà các tu sĩ Phanxicô chúng tôi là những người giữ gìn quản thủ. Vì thế tôi hy vọng là sẽ đem lại một chút gì đơn sơ. Tôi sống trong tỉnh dòng Perugia, trong một tu viện mà ĐTC Phanxicô sẽ gọi là ở vùng ngoại biên. Cách tu sĩ Phanxicô chúng tôi cũng có chiều kích này của việc tiếp xúc với dân chúng và dân Thiên Chúa. Tôi muốn tạo dễ dàng cho việc tiếp xúc này qua các suy niệm của tôi.

Hỏi: Sự kiện một Giáo Hoàng lần đầu tiên trong lịch sử Giáo Hội chọn tên là Phanxicô đã tạo ra nơi cha hiệu qủa nào?

Đáp: Tôi đã lập tức trực giác rằng đây là một dấu chỉ để bước theo thánh Phêrô, ngài đã không chỉ chọn loan báo Chúa Kitô với sứ vụ giáo huấn, mà cũng chọn loan báo Chúa qua các cử chỉ và cả với một kiểu sống gần gũi  với kiểu sống của thánh Phanxicô thành Assisi. Các tu sĩ Phanxicô chúng tôi tất cả rất vinh dự vì sự lựa chọn này, và chúng tôi đã hiểu rằng đây là một cơ may  cho Giáo Hội ngày nay. Nghĩa là đây là việc loan báo Tin Mừng như Chúa Giêsu đã làm và như thánh Phanxicô đã làm giữa dân chúng.

(Oss. Rom. 24-2-2017)

Linh Tiến Khải

Sơ Lizzy Chakkalakal xây dựng 54 cơ sở cho những người nghèo ở Kochi, Ấn độ

Sơ Lizzy Chakkalakal xây dựng 54 cơ sở cho những người nghèo ở Kochi, Ấn độ

“Tình yêu đam mê Chúa Giêsu đã thúc đẩy tôi lập các nhà để đón nhận người nghèo,” sơ Lizzy Chakkalakal, một nữ tu dòng Phan sinh Thừa sai Đức Maria, hội dòng đã hiện diện ở Ấn độ từ đầu những năm 1900, chia sẻ về động lực đã thúc đẩy sơ thành lập các cơ sở đón tiếp người nghèo ở thành phố Kochi, bang Kerala, Ấn độ. Sơ Lizzy, 47 tuổi, phụ trách một tu viện của dòng, nơi có trường nữ trung học Đức Mẹ. Vào năm 2012, sơ Lizzy đã bắt đầu xây dựng cơ sở đầu tiên, được gọi là “House Challenge”, để làm nơi cư ngụ cho những người nghèo của thành phố Kochi. Đến hôm nay, nhờ sự dấn thân với lòng thương xót dành cho người nghèo, sơ đã xây dựng được 54 cơ sở.

Qua chương trình “House Challenge” – xây dựng nhà cho người nghèo – sơ Lizzy có thể làm được điều gì đó cụ thể cho gia đình các học sinh của sơ, những người sống trong những điều kiện khốn khổ. Ước mơ của sơ Lizzy là được làm việc toàn thời gian cho các hoạt động xã hội, nhưng sơ lại được chọn làm giáo viên dạy học. Một trong những thói quen của sơ sau giờ giảng dạy là đi thăm viếng các gia đình của các học sinh. Trong những lần thăm viếng gặp gỡ này, sơ nhận thấy rằng nhiều gia đình sống trong những nơi cư trú không an toàn và không xứng hợp với con người, còn phần lớn phụ huynh của các học sinh bị ảnh hưởng bởi việc nghiện ma túy và nghiện rượu. Những người bị thương tổn nhất chính là các trẻ em và phụ nữ. Khi chứng kiến những cảnh đời khốn khó này, sơ Lizzy đã nảy ra sáng kiến thành lập cơ sở đầu tiên làm nơi cư trú cho họ. Ban đầu cơ sở này chỉ đơn giản là sự chia sẻ các vật dụng và công cụ chung giữa các người nghèo với nhau. Dần dần các ngôi nhà này được xây dựng thành những nơi cư trú thật sự. Những người nghèo cần được giúp đỡ chỗ ở là do chính quyền bang đề nghị; họ chọn các gia đình khó khăn nghèo khổ nhất.

Tại thành phố Kochi, sơ Lizzy trở thành tên được nhắc đến nhiều. Nhờ sự cộng tác của các học sinh, giáo viên, các giáo dân Công giáo, và ngay cả những người bình thường nhưng có lòng tốt, sơ có thể cung cấp nơi trú ngụ cho tất cả những ai cần có chỗ ở. Các cơ sở sơ thành lập đón tiếp mọi người, không phân biệt là họ thuộc tôn giáo nào hay họ đang sống theo truyền thống văn hóa nào.

Chính Chúa Giêsu là linh hồn của các công việc của sơ Lizzy. Sơ chia sẻ: “Nguồn động lực của cuộc sống và công việc của tôi chính là Chúa Giêsu. Xây dựng cơ sở đón tiếp người nghèo là cách thức tôi tỏ cho họ thấy tình yêu, sự quan tâm và tương trợ. Giáo hội ở đây để đem lại niềm hy vọng và bảo đảm một cuộc sống tốt đẹp hơn cho những người nghèo khổ vất vả. Chúng tôi đang làm hết sức, hết khả năng của mình vì tình yêu dành cho họ.” Sơ Lizzy nhấn mạnh đến các ưu tiên trong sứ vụ của các tu sĩ Phan sinh là hoạt động cho công bằng xã hội, nhân quyền, sự phát triển tinh thần. Vì lý do này, hội dòng của sơ đã hoạt động để phát triển công bằng, phẩm giá con người, sự hòa hợp và hiệp thông giữa dân chúng và các cộng đoàn  – nguyên tắc căn bản của việc mục vụ xã hội. Sơ khẳng định: “Các giá trị Tin mừng và các việc làm của Chúa Giêsu không phải là những điều trừu tượng, nhưng là những diễn tả sống động và là cuộc sống được trao ban. Do đó, những điều này phải được sống và diễn tả bằng hành động cụ thể. Công việc xây dựng nhà cửa cho người nghèo của chúng tôi và các hoạt động truyền giáo khác đều đi theo đường hướng này. Như thế chúng tôi loan truyền tình yêu, hòa bình, sự chăm sóc, nỗi lo âu và lòng thương xót cho tha nhân.”

Ngày nay, nhờ sự dâng cúng giúp đỡ của các cá nhân, các nhân vật nổi tiếng và các giáo xứ, nhiều nơi cư trú được xây dựng cho những người nghèo. Nhưng theo sơ Lizzy, điều quan trọng nhất là “đã phát sinh một nền văn hóa chia sẻ và sự chăm sóc qua lại giữa những cư dân địa phương.” (Asia News 21/02/2017)

Hồng Thủy

 

Đức Thánh Cha chủ sự lễ Tro

Đức Thánh Cha chủ sự lễ Tro

ROMA. Chiều thứ tư lễ tro 1-3-2017, ĐTC đã chủ sự thánh lễ khai mạc mùa chay thánh, với nghi thức xức tro tại Đền thờ Thánh nữ Sabina ở Roma.

Từ Vatican ĐTC đã đến Nhà thờ Thánh Anselmo của dòng Biển Đức, và từ đây lúc 4 giờ rưỡi ngài chủ sự cuộc rước thống hối tới đền thờ Thánh nữ Sabina của dòng Đa Minh trên đồi Aventino ở Roma.

Đi trong đoàn rước với ĐTC, có hàng chục HY, GM, đông đảo tu sĩ dòng Biển Đức và Đa Minh, trong đó có 2 vị Bề trên Tổng quyền của 2 dòng liên hệ. Trên quãng đường dài 500 mét, các vị vừa đi vừa hát kinh cầu các thánh, và thánh ca thống hối.

Tại Vương cung Thánh Đường thánh nữ Sabina, có từ thế kỷ thứ 5, ĐTC đã chủ sự thánh lễ đồng tế với nghi thức xức tro, cùng với các Hồng Y và Giám Mục, trước sự tham dự của linh mục tu sĩ nam nữ và giáo dân, đặc biệt là các vị lãnh đạo Hội Hiệp sĩ Malta.

Bài giảng của Đức Thánh Cha

Trong bài giảng Thánh lễ, ĐTC nhắc nhở về ý nghĩa đích thực của Mùa Chay và mời gọi mọi người trở về cùng tâm hồn thương xót của Chúa Cha. Ngài nói:

”Mùa chay là một con đường dẫn chúng ta đến chiến thắng của lòng thương xót trên tất cả những gì không phù hợp với phẩm giá làm con cái Thiên Chúa. Mùa chay là con đường đi từ tình trạng nô lệ đến tự do, từ đau khổ đến vui mừng, từ sự chết đến sự sống. Cử chỉ xức tro qua đó chúng ta bắt đầu hành trình, nhắc nhớ chúng ta về thân phận nguyên thủy của mình: chúng ta đã được rút từ đất, chúng ta đã được hình thành bằng bụi đất. Đúng vậy, nhưng bụi đất trong bàn tay yêu thương của Thiên Chúa, Đấng thổi thần khí sự sống của ngài trên mỗi người chúng ta và muốn tiếp tục làm như vậy. Chúa muốn tiếp tục ban cho chúng ta hơi thở sự sống, cứu chúng ta khỏi những thứ hơi thở khác là sự nghẹt thở vì sự ích kỷ của chúng ta, nghẹt thở vì những tham vọng nhỏ nhoi và âm thầm dửng dưng lãnh đạm; sự nghẹt thở bóp nghẹt tinh thần, thu hẹp chân trời và làm cho nhịp tim đập bị gây mê.

”Đối ngược với tình trạng đó là hơi thở sự sống của Thiên Chúa, Đấng giải thoát chúng ta khỏi sự nghẹt thở mà nhiều khi chúng ta không ý thức, và thậm chí chúng ta còn coi nó là tình trạng bình thường, cho dù ta cảm thấy hậu quả của nó…

ĐTC nói thêm rằng ”Mùa chay là mùa để từ khước. Từ khước sự nghẹt thở vì ô nhiễm do thái độ gây ra do sự dửng dưng, không nghĩ đến cuộc sống của người khác; nghẹt thở vì mỗi toan tính coi rẻ sự sống, nhất là sự sống của những người mang trong thân thể mình gánh nặng của bao nhiêu sự hời hợt. Mùa chay muốn từ khước sự ô nhiễm do những lời nói trống rỗng, vô nghĩa, những thứ phê bình thô sơ và mau lẹ, những phân tích giản lược vấn đề không có khả năng ý thực về sự phức tạp của các vấn đề con người, nhất là những vấn đề của những người chịu đau khổ nhiều nhất.

Cũng trong bài giảng, ĐTC khẳng định rằng ”Mùa chay là mùa nhớ lại, là thời kỳ suy nghĩ và tự hỏi: Giả sử Thiên Chúa khép cửa đối với chúng ta chúng ta sẽ ra sao? Giả sử Thiên Chúa không thương xót chúng ta, mệt mỏi trong việc tha thứ cho chúng ta, không luôn cho chúng ta cơ hội để bắt đầu lại thì chúng ta sẽ ra sao?

”Mùa chay là mùa tái hô hấp, là mùa mở rộng con tim cho hơi thở của Đấng Duy nhất có khả năng biến đổi chúng ta là bụi đất thành con người. Đây không phải là mùa xé áo trước sự ác quanh chúng ta, nhưng đúng hôn là mùa dành không gian trong cuộc sống chúng ta cho tất cả những điều thiện mà chúng ta có thể thực hiện được”.

Trong nghi thức sau bài giảng, ĐHY Jozef Tomko, 93 tuổi người Slovak, nguyên Tổng trưởng Bộ truyền giáo, có nhà thờ hiệu tòa là Đền thờ thánh nữ Sabina, đã bỏ tro trên đầu ĐTC, trước khi ngài bỏ tro cho các Hồng y và một số tín hữu, trong khi 12 LM Đa Minh và Biển Đức bỏ tro trên đầu các tín hữu hiện diện. (SD 1-3-2017)

G. Trần Đức Anh OP 

Giới trẻ Nepal: Cộng sản đã thất bại. Chúng ta hãy trở về với tình yêu Chúa

Giới trẻ Nepal: Cộng sản đã thất bại. Chúng ta hãy trở về với tình yêu Chúa

Kathmandu, Nepal – Tại Nepal, “nhiều lãnh đạo áp đặt đạo lý cộng sản, đưa con người rời xa Thiên Chúa. Nhưng sự sai lệch này không đưa đến việc thành lập của cộng sản cũng không đưa đến ân sủng của Thiên Chúa. Đã đến thời điểm chúng ta trở lại với đức tin, như Đức giáo hoàng Phanxicô nói”. Đó là lời của Dipen Poudel, lãnh đạo sinh viên của đảng cộng sản Nepal, nhận định về sứ điệp Mùa Chay của Đức giáo hoàng Phanxicô.

Nhiều người trẻ Nepal đã đọc được sứ điệp được phổ biến tuần trước. Nhiều lãnh đạo giới trẻ, Công giáo cũng như các tôn giáo khác, bày tỏ sự phấn khởi của họ bởi những lời của Đức giáo hoàng, mời gọi mọi người đổi mới tinh thần và hướng đến hành trình hoán cải thật sự.

Đức Giáo hoàng Phanxicô đã viết: “Mùa Chay là thời gian thuận tiện để đào sâu đời sống tinh thần qua những phương thế thánh thiện mà Giáo hội ban cho chúng ta: chay tịnh, cầu nguyện và bố thí.” Ngài cũng khẳng đình rằng “thời gian chuẩn bị lễ Phục sinh là “thời gian thuận tiện để biến đổi trong cuộc gặp gỡ với Chúa Kitô sống động trong lời của Người, trong cac bí tích và nơi người lân cận.” Nhắc đến dụ ngôn người phú hộ giàu có và người hành khất Lazzaro, ngài nhấn mạnh rằng: “mỗi sự sống mà chúng ta gập gỡ là một hồng ân và đáng được đón tiếp, kính trọng và yêu thương.”

Kishor Shrestha, chủ tịch của phong trào sinh viên Công giáo quốc tế nhận đinh: “Sự gia tăng nỗi thất vọng tinh thần và khoảng cách giữa giàu và nghèo giải thích cho lý do nhiều người trẻ thất vọng và tham gia vào các hoạt động tội pham.” Theo Shrestha, mội người trẻ phải có trách nhiệm với quốc gia và chịu trách nhiệm về sự chia rẽ của dân tộc bởi sự bất ổn chính trị, sự nghèo khổ, thất nghiệp, bất công trong việc sở hữu tài nguyên.”

Khi các sinh viên thảo luận cách thế giúp cho giới trẻ lãnh trách nhiệm, vài công viên không Công giáo đã đề cập đến sứ điệp Mùa Chay của Đức Giáo hoàng. Theo họ, sứ điệp có thể áp dụng hoàn hảo trong bối cảnh của Nepal. Lãnh đạo sinh viên đảng cộng sản đồng ý và nói: “Sứ điệp thật sự soi sáng và tất cả chúng ta phải đem ra thực hành. Sự phân cách tinh thần là một trong những nguyên nhân căn bản của các vấn đề giữa giới trẻ và người lớn.”

Urmila Basyal, nữ sinh viên liên kết với đảng quốc hội Nepal tin rằng “hàng ngàn người trẻ sai lầm nhân danh cộng sản. Khi chúng ta thăm viếng các nhà thờ và đọc Tin mừng, chúng ta khám phá ra ân sủng của Thiên Chúa là điều cần thiết để xây dựng một xã hội tốt hơn. Cùng với vài người bạn, tôi thăm một nhà thờ Công giáo, biết được ý nghĩa của lời Chúa đối với cuộc sống của một người. Tôi và các bạn của tôi muốn đón nhận ân sủng của Chúa và hoán cải. Cô kết luận: “Bình an và một cuộc sống tốt đẹp hơn bắt đầu khi người ta nhận ra tầm quan trọng của Thiên Chúa với việc giữ các giới răn của Người.” Asia News 01/03/2017)

Hồng Thủy 

Mùa Chay là con đường của niềm hy vọng

Mùa Chay là con đường của niềm hy vọng

Mùa Chay là thời gian ăn chay hãm mình để sống lại với Chúa Kitô, để canh tân căn tính được rửa tội của chúng ta, nghĩa là tái sinh từ “bên trên”, từ tình yêu của Thiên Chúa. Mùa chay là  lộ trình của hy vọng, là dấu chỉ bí tích của sự hoán cải, đòi hỏi nhiều dấn thân.

ĐTC Phanxicô đã nói như trên với hơn 30,000 tín hữu và du khách hành hương năm châu tham dự buổi tiếp kiến chung sáng 1-3-2017.

Trong bài huấn dụ ĐTC đã dựa trên trình thuật ơn gọi của ông Môshê như kể trong chương 3 sách Xuất Hành để khai triển đề tài “mùa Chay như con đường của niềm hy vọng”.

Ngài nói: Thật thế viễn tượng này trở thành hiển nhiên, nếu chúng ta nghĩ rằng mùa Chay đã được Giáo Hội thành lập như thời gian chuẩn bị cho lễ Phục Sinh, và vì vậy tất cả ý nghĩa của thời gian 40 ngày này nhận lấy ánh sáng từ mầu nhiệm vượt qua mà nó hướng tới. Chúng ta có thể tưởng tượng Chúa Phục Sinh mời gọi chúng ta ra khỏi các tối tăm của mình, và tiến bước tới với Ngài là Ánh Sáng. ĐTC định nghĩa mùa Chay như sau:

Mùa Chay là một con đường hướng về Chúa Giêsu Phục Sinh, một giai đoạn của sám hối, hãm mình nhưng không phải là mục đích cho chính nó, nhưng là nhắm làm cho chúng ta chỗi dậy với Chúa Kitô, canh tân căn cước là tín hữu được rửa tội của chúng ta, nghĩa là tái sinh từ “trên cao”, từ tình yêu của Thiên Chúa ( Ga 3,3). Đó chính là tại sao muà Chay, tự bản chất của nó, lại là thời gian của niềm hy vọng.

** Để hiểu rõ hơn nó là gì chúng ta phải quy chiếu kinh nghiệm nền tảng cuộc xuất hành của dân Israel ra khỏi Ai Cập, như được Thánh Kinh kể trong sách Xuất Hành. Điểm khởi hành là điều kiện nô lệ bên Ai Cập, sự áp bức, các lao động cưỡng bách. Nhưng Chúa đã không bỏ rơi dân Ngài và lời hứa của Ngài: Ngài kêu gọi ông Môshê, và với canh tay uy quyền mạnh mẽ, Ngài cho dân Israel ra khỏi Ai Cập và hướng dẫn họ đi qua sa mạc tiến về miền Đất của tự do. Trên con đường từ nô lệ sang tự do đó, Chúa ban cho dân Israel luật lệ để giáo dục họ yêu Ngài là Chúa duy nhất, và yêu thương nhau như anh em.

Thánh Kinh cho thấy rằng cuộc xuất hành dài và vất vả, nó kéo dài một cách biểu tượng 40 năm, nghĩa là thời gian cuộc sống của một thế hệ. Một thế hệ mà trước các thử thách của lộ trình, đã luôn luôn bị cám dỗ tiếc nuối Ai Cập và trở lại đàng sau. Cả chúng ta tất cả cũng biết cái cám dỗ trở lại đàng sau. Nhưng Chúa luôn trung thành, và dân đáng thương ấy được hướng dẫn bởi ông Môshê đi tới Đất hứa. Tất cả con đường này đã thành toàn trong hy vọng: hy vọng đạt tới Đất hứa và chính trong nghĩa này nó là một cuộc “xuất hành”, một cuộc đi ra khỏi nô lệ tới tự do. Và đối với tất cả chúng ta 40 ngày này cũng là một đi ra khỏi nô lệ, khỏi tội lỗi để đến với tự do, để gặp gỡ Chúa Giêsu Phục sinh.

Mỗi bước đi, mỗi mệt nhọc, mỗi thử thách, mỗi té ngã, và mỗi đứng dậy, tất cả chỉ có nghĩa bên trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa, là Đấng muốn sự sống cho dân Ngài chứ không phải cái chết, niềm vui chứ không phải khổ đau.

Tiếp tục bài huấn dụ ĐTC nói:

** Lễ Vượt Qua của Chúa Giêsu là cuộc xuất hành của Ngài, qua đó Ngài đã mở ra cho chúng ta con đường để đạt tới cuộc sống tràn đầy, vĩnh cửu và hạnh phúc. Để mở ra con đường này, việc vượt qua này, Chúa Giêsu đã phải tự lột bỏ vinh quanh của Ngài, hạ mình, vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá. Việc mở đường cho chúng ta đã khiến cho Ngài phải đổ tất cả máu mình ra, và nhờ Ngài chúng ta được cứu thoát khỏi nô lệ tội lỗi. Nhưng điều này không có nghĩa là  Ngài đã làm tất cả, và chúng ta không phải làm gì hết, rằng Ngài đã đi qua thập giá và chúng ta “đi vào thiên đàng bằng xe”. Không phải thế đâu. Sự cứu rỗi của chúng ta chắc chắn là ơn của Ngài, bởi vì là một lịch sử của tình yêu, nó đòi hỏi tiếng “có” của chúng ta và sự tham dự của chúng ta vào tình yêu của Ngài , như Mẹ Maria chứng minh cho chúng ta thấy, và sau Mẹ là tất cả các Thánh.

ĐTC nói thêm trong bài huấn dụ: mùa Chay sống cái năng động đó: Chúa Kitô đi trước chúng ta với cuộc xuất hành của Ngài, và chúng ta đi qua sa mạc nhờ Ngài và theo sau Ngài. Ngài bị cám dỗ vì chúng ta và đã chiến thắng Tên Cám Dỗ cho chúng ta, nhưng cả chúng ta nữa cũng phải cùng Ngài đương đầu với các cám dỗ  và thắng vượt chúng.  Ngài cho chúng ta nước của Thần Khí Ngài, và chúng ta phải kín múc lấy từ suối nguồn của Ngài và uống, trong các Bí Tích, trong lời cầu nguyện, trong sự thờ lậy. Ngài là ánh sáng chiến thắng bóng tối, và chúng ta được đòi hỏi dưỡng nuôi ngọn lửa nhỏ đã được tín thác cho chúng ta trong ngày chúng ta lãnh bí tích Rửa Tội.

Trong nghĩa đó, mùa Chay là “dấu chỉ bí tích sự hoán cải của chúng ta” (Sách lễ Roma, Lời nguyện Chúa Nhật I mùa Chay); ai đi trên con đường mùa Chay, thì luôn luôn ở trên con đường con của sự hoán cải, của con đường từ nô lệ sang tự do, cần canh tân luôn luôn. Một con đường chắc chắn dấn thân, như đúng đắn phải là như thế, bởi vì tình yêu luôn luôn đòi hỏi dấn thân, nhưng là một con đường tràn đầy hy vọng. Tôi còn nói hơn thế nữa: sự xuất hành mùa chay là con đường trên đó chính niềm hy vọng được thành hình. Sự mệt nhọc đi qua sa mạc – mọi thử thách, các cám dỗ, các vỡ mông, các ảo tưởng – tất cả có giá trị rèn luyện một niềm hy vọng mạnh mẽ, vững vàng, theo mô thức niềm hy vọng của Đức Trinh Nữ Maria, là Đấng giữa các tối tăm của cuộc khổ nạn và cái chết của Con Mẹ vẫn tiếp tục tin và hy vọng vào sự phục sinh của Ngài, vào chiến thắng của  tình yêu Thiên Chúa . Với con tim rộng mở cho chân trời này, hôm nay chúng ta hãy bước vào trong mùa Chay. Cảm thấy mình là thành phần của dân Thiên Chúa chúng ta hãy tươi vui bắt đầu con đường hy vọng này.

. ** ĐTC đã chào các đoàn hành hương nói tiếng Pháp, đặc biệt các bạn trẻ đến từ Paris, Pignan, Saint Cloud, cũng như các tín hữu đến từ Thụy Sĩ và Bỉ. Ngài cũng chào các nhóm đến từ Nam Hàn, Hoa Kỳ và các nước nói tiếng Anh khác, cũng như các đoàn hành hương Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha và các nước châu Mỹ Latinh. ĐTC khích lệ mọi người sống Mùa Chay tươi vui trong tình bác ái đối với các anh chị em túng thiếu nghèo khổ. Chỉ như thế tín hữu mới thực sự cảm thấy mình là thành phần dân Chúa và anh chị em trong cùng một nhiệm thể Chúa Kitô là Giáo Hội. Ngài cũng cầu chúc chuyến hành hương Roma củng cố họ trong niềm hy vọng vào tình yêu thương của Thiên Chúa là mối dây nối kết tất cả trong đại gia đình của Thiên  Chúa là Giáo Hội, cũng như trong gia đình của từng người và trong toàn xã hội.

Chào các tín hữu Ba Lan ngài nói lễ Tro nhắc cho mọi người nhớ tới sự mỏng giòn của cuộc sống con người và của thế giới. Nó thôi thúc chúng ta nhìn vào giáo huấn của Chúa Giêsu, hoán cải tin vào Tin Mừng và hoà giải với Thiên  Chúa và với nhau.

Trong các nhóm nói tiếng Ý ĐTC đặc biệt chào hội « Bạn của con tim » tỉnh Altamura, các học sinh các tỉnh Civitavecchia, Legnano, Cislago, Thiene và Cefalù, cũng như sinh viên học viện du lịch Livia Bottardi Roma, và trường kitô hoà lan Meppel. Ngài cầu mong cuộc gặp gỡ đầu mùa Chay khơi dậy nơi họ nỗ lực canh tân tinh thần bằng cách tham dự vào các buổi cử hành mùa chay và các chiến dịch quyên góp bác ái để trợ giứp các anh chị em nghèo túng đó đây trên thế giới.

Chào các bạn trẻ, người đau yếu và các đôi tân hôn, ngài xin Chúa chỉ cho họ con đường hy vọng và xin Chúa Thánh Thần hướng dẫn họ trong việc hoán cải đích thực, thanh tẩy tội lỗi và phục vụ Chúa Kitô hiện diện nơi tha nhân.

Buổi tiếp kiến đã kết thúc với kinh Lạy Cha và phép lành toà thánh ĐTC ban cho mọi người.

Linh Tiến Khải

Đức Giáo hoàng trả lời phỏng vấn của tạp chí Sneaker của “người vô gia cư”

Đức Giáo hoàng trả lời phỏng vấn của tạp chí Sneaker của “người vô gia cư”

Tạp chí “Scarp de’ tenis” (Sneaker) số ra ngày 28/02 hôm nay, có đăng cuộc phỏng vấn Đức Giáo hoàng về nhiều vấn đề. “Scarp de’ tenis” là tạp chí tiếng Ý do những người vô gia cư điều hành.

Tạp chí “Scarp de’ tenis” cũng hoạt động như một dự án xã hội, với phần lớn ban điều hành là người vô gia cư, bị đau khổ bởi những hoàn cảnh khó khăn cá nhân hay những hình thức kỳ thị loại trừ của xã hội. Tạp chí cũng là nguồn thu nhập chính của phần lớn cộng tác viên.

Trong cuộc phỏng vấn, Đức Giáo hoàng Phanxicô giải thích những sáng kiến mới đây để giúp người tị nạn, như là cung cấp nơi trú ngụ trong Vatican. Ngài đã giải thích cho thấy sáng kiến đón tiếp người vô gia cư đã được các giáo xứ ở Roma tham gia nhiệt tình thế nào. Ngài cho biết có hai giáo xứ ở Vatican đều nhận người Syria và nhiều giáo xứ ở roma cũng đã trả tiền nhà cho các gia đình nghèo khổ suốt một năm.

Trong cuộc phỏng vấn, Đức Giáo hoàng thường nói đến ý tưởng đi bằng chiếc giày của người khác. Theo ngài, đi bằng giày người khác là cách để mình thoát ra khỏi sự ích kỷ, vì chúng ta học hiểu biết những tình cảnh khó khăn. Ngài khẳng định rằng lời nói không thì chưa đủ, nhưng sự vĩ đại là đi bằng đôi giày của người khác. Ngài chia sẻ: “Tôi thường gặp một người, sau khi đã tìm sự an ủi nơi các Kitô hữu, có thể là một giáo dân, một Linh mục, một nữ tu hay Giám mục, họ nói với tôi là ‘họ lắng nghe tôi nhưng họ không hiểu tôi.’”

Đức Giáo hoàng cũng nói đùa về thái độ của dân chúng về việc cho tiền những người sống trên đường phố. Ngài kể là nhiều người quyết định không cho tiền, vì họ chỉ dùng nó để uống rượu. Nhưng Đức Giáo hoàng nói đùa: “Ly rượu là điều hạnh phúc duy nhất của họ trong cuộc sống!”

Nói về lòng quảng đại, Đức Giáo hoàng kể một câu chuyện thời ngài còn ở Buenos Aires, về bà mẹ có 5 đứa con. Khi người cha đang đi làm, còn cả nhà đang ăn trưa, thì một người vô gia cư đến xin ăn. Thay vì dạy các con lấy phần ăn để dành cho người cha để cho người hành khất, bà mẹ dạy các con cho một ít phần ăn của chúng. Và Đức Giáo hoàng khẳng định: “Nếu chúng ta muốn cho, chúng ta phải cho những gì là của chúng ta!”

Nói về vấn đề giới hạn số người tị nạn và di cư, đầu tiên Đức Giáo hoàng nhắc các độc giả của ngài rằng nhiều người trong số những người đang đến đất nước chúng ta là những người chạy trốn khỏi chiến tranh và đói kém. Tất cả chúng ta ở trên thế giới này là một phần của tình cảnh này và cần tìm cách giúp những người xung quanh chúng ta.

Ngài nói đến 13 người tị nạn đến từ đảo Lesbos và đã hòa nhập tốt vào xã hội, các trẻ em được đi học và các phụ huynh tìm được việc làm. Theo ngài, đó là gương mẫu cho người nhập cư muốn hòa nhập vào và đóng góp cho quốc gia mới và đạt được ước mơ.

Đức Giáo hoàng nhắc đến Thụy điển, quốc gia có gần 10% dân số là người nhập cư, để minh chứng cho vấn đề nhập cư. Trong những năm dưới chế độ độc tài ở Argentina, ngài đã thường nhìn đến Thụy điển như là ví dụ tích cực cho sự hội nhập. (RV 28/02/2017)

Hồng Thủy

Buổi cử hành đại kết dịp hoàn thành việc trùng tu Mộ Thánh

Buổi cử hành đại kết dịp hoàn thành việc trùng tu Mộ Thánh

Ngày 22/03 tới đây, một buổi phụng vụ đại kết sẽ được cử hành tại nhà thờ Mộ Thánh ở Giêrusalem, nhân dịp hoàn thành việc trùng tu Mộ Chúa Giêsu.

Ngay chính giữa nhà thờ Mộ Thánh là Edicule (tiếng Anh và tiếng Pháp gọi giống nhau). Đây là một cấu trúc được xây, bao phủ quanh Mộ Chúa Giêsu.

Sau 9 tháng thực hiện việc trùng tu, các Giáo hội Công giáo, Chính thống Hy lạp và Armeni Tông truyền – coi sóc  đền thờ thánh Anatasio – đã cùng nhau quyết định rằng các khách hành hương và du khách sẽ có thể thăm viếng Mộ Chúa Giêsu, sau khi các giàn giáo bao quanh được tháo gỡ.

Antonia Mariopoulou, kỹ sư của Học viện bách nghệ của Athen và điều hợp viên khoa học của công trình chia sẻ: “9 tháng trùng tu đã được đánh dấu bởi những thời khắc lịch sử. Đầu tiên là việc mở Mộ Chúa Giêsu vào tháng 10 – lần đầu tiên sau 200 năm – và là lần thứ 3 trong lịch sử.”  Bà nói tiếp: “Chúng tôi đã thấy một lớp đá cẩm thạch và dưới đó, một lớp đá cẩm thạch khác màu xám, bị phủ bởi bị đất. Với sự cho phép của 3 cộng đoàn Kitô giám quản, chúng tôi đã đào lớp đất này lên. Chúng tôi đã tìm thấy, chứ không phải là khám phá ra, một phiến đá được chạm khắc và chúng tôi đã hiểu chính ở đây, một ai đó được chôn cất, ở đây, xác của Chúa Giêsu được đặt ở đây.”

Cấu trúc Edicule bằng đá cẩm thạch, được xây dựng từ năm 1809-1810, là công trình xây dựng cuối cùng sau công trinh thế kỷ thứ IV, trên ngôi mộ chứa xác Chúa Giêsu, sau khi được hạ xuống khỏi thập giá. Kiến trúc nhanh chóng có những dấu hiệu không chắc chắn; sự thay đổi của vữa, thời tiết, khói nến hay hơi thở của số đông du khách và khách hành hương đã làm cho công trình thêm suy yếu.

Trong 9 tháng, các chuyên gia và nhân công đã làm việc hết mình, ngày cũng như đêm, làm một công việc tỉ mỉ và phục hồi tinh tế. Edicule đã bị tháo dỡ hoàn toàn; tẩy sạch, gia cố, được xây dựng lại như ban đầu. Chỉ những mảnh không thể phục hồi mới bị thay thế. (RV 27/02/2017)

Hồng Thủy