ĐỨC HỒNG Y CHỦ TỊCH CARITAS QUỐC TẾ CẦU MONG HÒA BÌNH VÀ HÒA GIẢI GIỮA HAI DÂN TỘC DO THÁI VÀ PALESTINE

ĐỨC HỒNG Y CHỦ TỊCH CARITAS QUỐC TẾ CẦU MONG HÒA BÌNH VÀ HÒA GIẢI GIỮA HAI DÂN TỘC DO THÁI VÀ PALESTINE

ROMA: Đức Hồng Y Rodriguez Maradiaga, Chủ tịch Caritas Quốc Tế, cầu mong hai dân tộc Do thái và Palestine can đảm chấm dứt chiến tranh thù hận, hòa giải với nhau để chung sống hòa bình và thăng tiến công ích.

Trích lại Thông điệp ”Hòa bình dưới thế” của Thánh Giáo Hoàng Gioan XXIII, Đức Hồng Y viết trong thông cáo công bố hôm 31-7-2014 như sau: ”Xin Chúa Kitô đốt lên các ước mong của mọi người bẻ gẫy các hàng rào ngăn cách họ với nhau, củng cố các mối dây yêu thương nhau, học hiểu biết nhau và tha thứ cho những ai gây ra sai lầm cho họ”.

Từ đầu tháng 7 tới nay 2 triệu người Palestine sống trong dải Gaza và dân Israel đã bị cuốn hút vào một cuộc chiến tàn hại. Dân chúng không có chỗ an ninh để trú ẩn, khi bom đạn rơi trên các vùng đông dân cư ở Gaza. Ho trông thấy con cái của họ bị tàn sát, nhà cửa của hàng xóm láng giềng bị san bình địa, và mọi hy vọng nơi tương lai bị tan vỡ. Chiến trường là hàng xóm đầy trẻ em, phụ nữ và nam giới. Các nhà thương đầy người bị thương và người chết, và cả trường học là nơi trú ẩn của người dân cũng bị bỏ bom. Caritas chúng tôi đã kêu gọi ngưng chiến, nhưng đây chỉ là bước đầu dẫn đến hòa bình công bằng, dựa trên các cuộc thương thuyết trong toàn vùng. Con đường hòa giải còn dài, nhưng nó bắt đầu với chính chúng ta. Israel và Hamas tại sao enh em vẫn muốn lấy cọng rơm khỏi mắt người anh em, mà lại không thấy cài xà trong mắt mình? Hãy bỏ khí giới xuống, và lấy ống nhòm để nhìn đa số các nạn nhân của anh em là thường dân vô tội.

Đức Hồng Y Maradiaga cũng ghi nhận rằng đây là chiến cuộc thứ ba trong năm năm qua giữa người Do thái và lực lượng Hamas tại Gaza. Trong các năm qua người dân Gaza đã phải sống trong cảnh thiếu nước uống, đa số thực phẩm đến từ các tổ chức trợ giúp nhân đạo, và phẩm giá con người bị hạ nhục vì không tìm ra công ăn việc làm. Tổ chức Caritas đã trợ giúp vật chất và tinh thần cho người dân tại đây trong các thời điểm kkó khăn. Đức Hồng Y kêu gọi thôi cấm vận Gaza và che chở cuộc sống và các phương kế sinh nhai của người dân. Lời Đức Thánh Cha Phanxicô mời gọi hai tổng thống Perez và Abbas vẫn còn văng vẳng trong tai mọi người: phải có can đảm để kiến tạo hòa bình, và hành động ngược lạơi nhừng gì đã làm cho tới nay. Caritas chúng tôi cầu nguyện cho hòa bình tại Thánh Địa, cho các gia đình Palestine và Israel đã mất con cái và người thân, cho các trẻ em phải sống trong kinh hoàng và bị chấn thương tinh thần. Chúng tôi cũng cầu nguyện cho các nhân viên Caritas Giêrusalem và công tác cứu trợ của họ. Chúng tôi cầu xin cho các anh chị em Israel và Palestine được tự do tin vào một tương lai công bằng và hòa bình, trong thời điểm chiến tranh và đàn áp kinh khủng này.

Tin cuối cùng cho biết hai bên Israel và Hamas đã chấp thuận ngưng chiến 72 giờ đồng hồ để cho các tổ chức nhân đạo có thể cứu trợ các nạn nhân tại Gaza (SD 31-7-2014).

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

ĐỨC HỒNG Y VINCENT NICHOLS KÊU GỌI NGƯNG CHIẾN TẠI GAZA

ĐỨC HỒNG Y VINCENT NICHOLS KÊU GỌI NGƯNG CHIẾN TẠI GAZA

LUÂN ĐÔN: Đức Hồng Y Vincent Nichols, Giáo chủ Anh quốc và vùng Galles, đã kêu gọi ngưng chiến ngay tức khắc để kết thúc cảnh tàn sát tại Gaza, và tìm ra giải pháp cho hòa bình giữa hai dân tộc Israel và Palestine.

Đức Hồng Y đã đưa ra lời kêu gọi trên đây trong thông cáo công bố ngày 31-7-2014 tại Luân Đôn. Trước nạn bạo lực gia tăng đang nuốt trửng người dân sống trong vùng Gaza, Đức Hồng Y nghĩ tới và cầu nguyện cho tất cả những ai đã mất người thân, và cuộc sống bị phá hủy bởi cuộc xung khắc. Các khổ đau lo âu và tuyệt vọng của những người nam nữ và trẻ em kêu lên rằng chiến tranh không phải là câu trả lời cho các vấn đề. Như xung khắc cho thấy bạo lực sinh ra bạo lực. Cùng với bao nhiêu người khác, tôi nài xin qúy vị ngưng cuộc tàn sát tại Gaza, và tìm ra giải pháp cho các vấn đề nòng cốt của cuộc xung đột giữa Israel và Palestin đã tàn phá cuộc sống của mọi dân tộc tại Thánh Địa (SD 31-7-2014)

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Chiến tranh: lò sa thải và thử nghiệm khí giới

Chiến tranh: lò sa thải và thử nghiệm khí giới

Như chúng tôi đã liên tục đưa tin, trong ba tuần qua chiến cuộc giữa quân đội Israel và lực lựơng Hamas của người Palestine đã khiến cho 1,500 người chết, hơn 5,000 người bị thương và mấy trăm ngàn người phải bỏ nhà cửa di tản. Từ hơn mười ngày qua quân đội Israel đã cảnh báo người dân Palestine sống tại miền bắc dải Gaza phải mau chóng rời bỏ nhà cừa ruộng vườn, vì họ sẽ bỏ bom và bắn đại bác vào các vùng này, để tiêu diệt các căn cứ của lực lượng Hamas, rải rác trà trộn giữa nhà người dân.

Cho tới nay phía Israel đã phá hủy 50 hầm bí mật, mà lực lượng Hamas đã đào sang đất Israel để mở các cuộc tấn công hay bắn các hỏa tiễn vào làng mạc và thành phố của người do thái, kể cả Tel Aviv, Haipha và Giêrusalem. Đa số các hỏa tiễn này đã bị lực lượng phòng không của Israel phá hủy trên không trung. Tuy không chính xác, nhưng hàng ngàn hỏa tiễn này có tiếng rú rất mạnh khiến cho dân chúng kinh hoàng sợ hãi, vì phải liên tục nghe tiếng còi báo động và sống trong bất an.

Mấy cuộc ngưng bắn do Ai cập đề nghị và làm trung gian, cũng như qua trung gian của ngoại trường Hoa Kỳ John Kerry và ông Ban Ki Moon, Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc, đã chỉ kéo dài vài giờ, vì không được phe Hamas tôn trọng. Phe Hamas đòi chính quyền Israel hủy bỏ lệnh cấm vận Gaza đã kéo dài từ 12 năm qua, khiến cho vùng Gaza hoàn toàn bị cô lập với thế giới bên ngoài. Nhưng đó là điều Israel không muốn. Do đó, chiến tranh vẫn tiếp diễn nên các tổ chức cứu trợ nhân đạo đã không thể trợ giúp các nạn nhân, đa số là người Palestine sống trong dải Gaza.

Tin cuối cùng cho biết hôm 1 tháng 8-2014 Israel và lực lượng Hamas đã chấp thuận ngưng bắn 72 giờ đồng hồ, để các tổ chức nhận đạo có thể đem các phẫm vật cứu trợ tới cho người Palestine dang phải chịu cảnh đói khát, không có nước uống và thiếu thực phẩm cũng như mọi thứ cấn thiết. Các nhà thương trong dải Gaza đầy ắp người bị thương và người chết. Từ 5 năm qua đây là lần thứ ba xảy ra xung khắc giữa người Israel và lực lượng Hamas.

Mặc dù các lời kêu gọi liên tục và sáng kiến cầu nguyện cho hòa bình của Đức Thánh Cha Phanxicô, cũng như của nhiều Hội Đồng Giám Mục quốc gia và các giới chức lãnh đạo tôn giáo trên thế giới, cả hai bên đều ”giả điếc làm ngơ”, không bên nào chịu nhượng bộ bên nào. Và thế là cứ ”hòn đất ném qua, hòn chì ném lại”. Chỉ tội nghiệp cho các thường dân vô tội phải gánh hết mọi hậu quả tiêu cực của chiến tranh: chết chóc, thương đau và tàn phá. Chỉ một quả bom hay một trái đại bác, cả gia tài cơ nghiệp mà họ cố gắng gầy dựng với biết bao nhiêu hy sinh chắt bóp và mồ hôi nước mắt bỗng thành mây khói.

Thật ra, chúng ta đều biết rằng tất cả mọi cuộc chiến trên thế giới hiện nay đều là cách sa thải các vũ khí cũ, và thử nghiệm các vũ khí mới tối tân và tàn sát hữu hiệu và nặng nề hơn. Trong trường hợp tại Thánh Địa các nước A rập trong đó có A rập Sauđi, Iran, Ai Cập và các nước khác trong khối A rập thù nghịch với Israel cung cấp vũ khí cho lực lượng Hamas và người Palestine. Trong khi Hoa Kỳ yểm trợ khí giới cho Israel. Các quốc gia có kỹ nghệ sản suất chế tạo và buôn bán khí giới mạnh nhất vẫn là các cường quốc Hoa Kỳ, Nga, các nước Âu châu như Đức, Anh quốc, Pháp, Italia. Và các nước kỹ nghệ đang lên như Trung Quốc, Ấn Độ, Pakistan, Brasil, Nam Phi, Camerun, cũng sản xuất và buôn bán khí giới.

Để có thể tiêu thụ mọi thứ vũ khí ngày càng tối tân, cần phải tạo ra chiến tranh, với tất cả các lý do chính đáng và thường khi là không chính đáng. Và không cần phải tìm tòi và lý luận dài dòng ai cũng biết ngay rằng các quốc gia có kỹ nghệ chế tạo và buôn bán khí giới thường tìm cớ gây ra chiến tranh, xúi dục cho các lực lượng và phe phái khác nhau thù hằn bắn giết nhau, rồi rêu rao là trợ giúp các quốc gia hay các phe lâm chiến ấy, vì muốn bảo vệ các nền dân chủ, hay du nhập nền dân chủ kiểu tây âu vào các xã hội Phi châu, châu Mỹ Latinh và Á châu. Các kho chứa vũ khí đã đầy ứ, vì thế cần phải thải bớt và bán các vũ khí cũ đi, để lấy chỗ cho các khí giới mới tối tân và có sức tàn phá mạnh hơn. Chiến tranh trở thành dịp sa thải các khí giới cũ, đồng thời cũng là dip thử các vũ khí mới tinh vi hơn.

Đó là các lý do ngoại tại của chiến tranh. Các lý do nội tại của chiến tranh thường là các bất công, đàn áp, trong các đường lối chính trị, kinh tế tài chánh và xã hội của một nước, trong đó hàng lãnh đạo có khuynh hướng cai trị độc tài, bưng bít và ngu dân.

Dầu sao đi nữa, trong cái luận lý của kỹ nghệ chế tạo buôn bán vũ khí, chiến tranh cần thiết, vì nó là chợ trời sa thải vũ khí, cũ và là lò thử nghiệm các vũ khí mới tối tân, có khả năng giết người và tàn phá môi sinh mạnh mẽ hữu hiệu hơn. Qua đó chúng ta hiểu tại sao thế giới này lại không có hòa bình.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio
 

GIÁO HỘI CHILE PHÊ BÌNH DỰ LUẬT CẢI TỔ GIÁO DỤC CỦA CHÍNH QUYỀN

GIÁO HỘI CHILE PHÊ BÌNH DỰ LUẬT CẢI TỔ GIÁO DỤC CỦA CHÍNH QUYỀN

SANTIAGO OF CHILE: Đức Cha Ricardo Ezzati Andrello, Tổng Giám Mục Santiago de Chile, đã mạnh mẽ phê bình dự luật cải tổ giáo dục của chính quyền là thiếu nền tảng vững chắc.

Trong một bài viết đăng trên nhật báo El Mercurio, Đức Cha Andrello nhận định răng các thay đổi mà chính quyền Chile muốn đề ra cho nền giáo dục khiến cho ngài nhận ra nỗ lực khổng lồ trong việc làm các cửa chính và cửa sổ, mà không biết dùng chúng cho ngôi nhà nào cần xây. Có vài khía cạnh được coi là nền tảng và được ưu tiên, nhưng không có sự chú ý đúng đắn tới hệ thống giáo dục cho sự trưởng thành của tất cả mọi người và là phần của một cộng đoàn công bằng, liên đới và huynh đệ. Một trong những mục tiêu chính trong chương trình cải tổ giáo dục của chính quyền Chile là gia tăng phẩm chất và rộng mở cho mọi mức độ. Nhưng các dự án được gửi tới chỉ đáp ứng một phần của mục tiêu này nhằm đưa vào đó ý niệm lợi lộc trong các cơ cấu giáo dục phải trả tiền, và việc tuyển lựa các sinh viên học sinh trong các trường nhận trợ cấp của chính phủ.

Cho tới nay chính quyền không đưa ra các câu hỏi muốn làm gì với việc giáo dục người trẻ Chile, muốn xây dựng loại người và xã hội nào. Các đảng phái đã trình bầy ý kiến, nhưng thiếu liên kết. Đức Tổng Giám Mục còn tỏ ra lo âu đối với những gì không được chính quyền nêu lên như: quan niệm về con người và về xã hội, vai trò của nhà nước, và vai trò không thể khước từ của gia đình trong việc giáo dục con cái họ.

Giáo Hội Chile, cũng như tại đa số các nước châu Mỹ Latinh, rất hiện diện trong lãnh vực giáo dục qua hàng loạt các trường tư cấp tiểu, trung và đại học, do Giáo Hội điều khiển hay do các tổ chức điều hành không có mục đích lợi nhuận. Chính quyền nói việc cải cách sẽ thiết định các nội dung giáo dục cần thông truyền trong các trường học, nhưng không can thiệp vào các chương trình chuyên biệt gợi ý, trong đó có việc đào tạo tôn giáo.

Đức Cha Andrello cảnh cáo hệ thống giáo dục bị tiền bạc điều khiển, và nhà nước có thể rơi vào cám dỗ áp đặt các tiểu chuẩn ý thức hệ hạn chế hay kiểm soát sự độc lập của các chương trình giáo dục. Không thể chấp nhận một nền giáo dục lèo lái bản vị con người và biến nó thành một con số vô danh (SD 30-7-2014)

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Buổi nói chuyện của Đức Thánh Cha Phanxicô với các linh mục giáo phận Caserta nam Italia

Buổi nói chuyện của Đức Thánh Cha Phanxicô với các linh mục giáo phận Caserta nam Italia

Chiều Chúa Nhật 27-7-2014 Đức Thánh Cha Phanxicô đã viếng thăm giáo phận Caserta nam Italia, nhân lễ thánh Anna bổn mạng giáo phận. Trước khi chủ sự thánh lễ cho 200,000 người tại quảng trường trước lâu đài hoàng gia, Đức Thánh Cha đã gặp gỡ các linh mục trong nhà nguyện Palatina của lâu đài.

Ngỏ lời chào mừng Đức Thánh Cha Đức Cha D'Alise Giám Mục Caserta nói: ”Thưa Đức Thánh Cha, con đã không dọn bài viết nào hết, bởi vì con hiểu ngay rằng Đức Thánh Cha muốn có tương quan thân tình và sâu đậm với các linh mục. Vì thế con xin chào mừng Đức Thánh Cha. Đây là Giáo Hội của chúng con, các linh mục, rồi sau đó chúng ta sẽ thấy phần còn lại của Giáo Hội, trong khi cử hành bí tích Thánh Thể. Đối với con giây phút này thật quan trọng, bởi vì con có mặt ở đây mới từ hai tháng nay thôi, và con bắt đầu sứ vụ giám mục với sự hiện diện và phép lành của Đức thánh Cha, và đối với con đó là một ơn trong một ơn lớn. Giờ đây chúng con chờ đợi lời của Đức Thánh Cha. Biết rằng Đức Thánh Cha ước mong có một cuộc đối thoại, các linh mục cũng đã chuẩn bị các câu hỏi.

Ngỏ lời với mọi người Đức Thánh Cha nói: ”Tôi đã chuẩn bị một bài diễn văn, nhưng tôi sẽ trao cho Đức Giám Mục. Xin cám ơn rất nhiều về sự tiếp đón này. Tôi hài lòng và tôi cảm thấy mình hơi có lỗi, vì đã tạo ra bao nhiêu vấn đề trong ngày lễ thánh bổn mạng của giáo phận. Nhưng tôi đã không biết điều này. Khi tôi điện thoại cho Đức Giám Mục để nói với ngài là tôi muốn đến thăm với tư cách cá nhân một người bạn là mục sư Traettino, Đức Cha đã nói với tôi: ”A, chính trong ngày lễ bổn mạng”. Và tôi nghĩ ngay: ”Ngày hôm sau báo chí sẽ nói: ”Trong ngày lễ bổn mạng giáo phận Caserta Đức Giáo Hoàng đã đến thăm các anh em tin lành.” Tựa đề hay qúa có phải không? Và như thế chúng tôi đã sắp xếp câu chuyện hơi vội vã một chút, nhưng Đức Giám Mục đã giúp tôi và cả các nhân viên Phủ Quồc Vụ Khanh nữa. Tôi đã nói với vị phụ tá Quốc Vụ Khanh khi tôi gọi cho ngài: ”Xin làm ơn lấy cái dây ra khỏi cổ cho tội”. Và vị ấy đã làm tốt. Xin cám ơn các cha về những câu hỏi các cha sẽ đưa ra, chúng ta có thể bắt đầu được rồi. Các cha cứ hỏi rồi tôi sẽ xem, nếu chúng ta có thể dồn hai ba
cầu vào một, nếu không thì tôi sẽ trả lời từng câu hỏi một.

Hỏi: Thưa Đức Thánh Cha, con xin cám ơn. Con là linh mục Pasquariello, cha chính giáo phận Caserta. Xin hết lòng cám ơn Đức Thánh Cha đã đến thăm Caserta. Con muốn hỏi thiện ích mà Đức Thánh Cha đang đem lại cho Giáo Hội với các bài giảng thường ngày, các tài liệu chính thức, đặc biệt là Thông điệp ”Niềm Vui Phúc Âm” đều mang dấu ấn sự hoán cải tinh thần, thân tình, cá nhân. Theo thiển ý con đó là một cuộc cải cách chỉ liên quan tới lãnh vực thần học, chú giải Thánh Kinh và triết lý. Nhưng bên cạnh đó cũng cần phải lôi cuốn dân Chúa vào cuộc nữa. Vấn đề là trong giáo phận của chúng con, là giáo phận đã có từ 900 năm nay, các ranh giới thật vô lý. Vài phần đất của tỉnh bị chia một nửa với giáo phận Capua và với giáo phận Acerra. Nhà ga xe lửa thành phố Caserta, cách tòa thị sảnh gần một cây số, lại thuộc Capua. Con xin Đức Thánh Cha một can thiệp với giải pháp để các cộng đoàn của chúng con khỏi phải đau khổ vì các di chuyển vô ích và để cho sự hiệp nhất mục vụ của cộng đoàn khỏi phải khó khăn. Rõ ràng là trong số 10 Thông điệp ”Niềm vui Phúc Âm” Đức Thánh Cha khẳng định rằng đây là các chuyện thuộc tòa Giám Mục. Nhưng con còn nhớ cách đây 47 năm khi con còn là linh mục trẻ, chúng con đã cùng Đức ông Roberti, xuất thân từ Phủ Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh, lên trình bầy vấn đề ở Phủ Quốc Vụ Khanh, thì được trả lời là: ”Các cha sắp xếp với các Giám Mục đi, rồi chúng tôi sẽ ký”. Thật là hay, nhưng mà khi nào các Giám Mục mới đồng ý với nhau, thưa Đức Thánh Cha?

Đáp: Có vài sử gia của Giáo Hội nói rằng trong vài Công Đồng các Giám Mục cũng còn đánh nhau nữa, nhưng rồi lại đồng ý với nhau. Và đây là môt dấu chỉ xấu. Thật là xấu, khi các Giám Mục nói xấu nhau, hay vào hùa với nhau. Tôi không nói là phải có sự hiệp nhất tư tưởng hay tu đức, bởi vì đây là điều tốt, nhưng tôi nói ”theo đuôi nhau” trong nghĩa tiêu cực của từ này. Điều này xấu, vì nó bẻ gẫy sự hiệp nhất trong Giáo Hội. Điều này không phải là của Thiên Chúa. Là Giám Mục chúng tôi phải nêu gương hiệp nhất, mà Chúa Giêsu đã xin Thiên Chúa Cha ban cho Giáo Hôi. Không thể đi nói xấu nhau được: ”Ông này làm thế này, ông kia ở đó làm thế nọ”. Hãy đi nói thẳng vào mặt nhau. Các cha ông của chúng ta trong các Công Đồng đánh nhau, và tôi thích họ la hét nhau, rồi ôm nhau làm hòa hơn là đi nói xấu, nói chùng nói lén nhau. Đó là nguyên tắc chung.

Trong sự hiệp nhất của Giáo Hội sự hiệp nhất giữa các Giám Mục là điều quan trọng. Thế rồi, cha cũng nhấn mạnh một con đường mà Chúa đã muốn cho Giáo Hội. Sự hiệp nhất này giữa các Giám Mục là sự hiệp nhất tạo thuận tiện cho việc thỏa thuận với nhau trên các điều này điều nọ. Trong một nước kia, không phải tại Italia đâu, nhưng ở một phần khác của thế giới, có một giáo phận có ranh giới được vạch lại, nhưng vì lý do đặt kho tàng của nhà thờ chính tòa, thế là xảy ra tranh chấp kiện tụng nhau lên tới các tòa án kéo dài hơn 40 năm trời. Chỉ vì tiền thôi: thật là không hiểu nổi! Và điểm này là nơi ma qủy mừng lễ! Chính nó được lợi. Thật là đẹp, khi cha nói rằng các Giám Mục phải luôn luôn đồng ý với nhau: nhưng đồng ý trong sự hiệp nhất, không phải trong sự đồng nhất. Mỗi người có đặc sủng của mình, mỗi người có kiểu suy tư, nhìn các sự vật: sự khác biệt đó đôi khi là kết qủa của sai lầm, nhưng biết bao lần nó là hoa trái của chính Thần Khí. Chúa Thánh Thần đã muốn rằng trong Giáo Hội có các đặc sủng khác nhau. Chính Thần Khí làm ra sự khác biệt, rồi lại thành công làm ra sự hiệp nhất: một sự hiệp nhất trong sự khác biệt của từng người, mà không ai phải mất đi bản vị của mính. Tôi cầu mong rằng điều cha nói đó tiến tới. Thế rồi chúng ta tất cả đều tốt lành, bởi vì chúng ta đều có nước Thánh Tẩy, chúng ta có Chúa Thánh Thần trợ giúp chúng ta tiến tới.

Hỏi: Thưa Đức Thánh Cha, con là linh mục Angelo Piscopo, cha sở giáo xứ Thánh Phêrô Tông Đồ và giáo xứ Ngai tòa thánh Phêrô. Câu hỏi của con là: trong Thông điệp ”Niềm vui Phúc Âm” Đức Thánh Cha đã mời gọi khích lệ và củng cố lòng đạo đức bình dân, là kho tàng của Giáo Hội công giáo. Đồng thời Đức Thánh Cha cũng cho thấy nguy cơ có thật của việc phổ biến một thứ kitô giáo cá nhân chủ nghĩa và tình cảm, chú ý nhiều hơn tới các hình thức truyền thống và mạc khải, mà lại thiếu các khía cạnh nền tảng của đức tin và thiếu ăn sâu vào cuộc sống xã hội. Đức Thánh Cha có thể gợi lên cho chúng con một kiểu mục vụ, thế nào để đừng gây thiệt hại cho lòng đạo đức bình dân, mà lại có thể tái trao ban quyền tối thượng cho Tin Mừng hay không? Con xin cám ơn Đức Thánh Cha.

Đáp: Người ta nghe nói rằng đây là thời điểm, trong đó lòng đạo hạnh đã xuống dốc, nhưng tôi không tin lắm. Bởi vì có các trào lưu, các trường đạo hạnh duy tâm tình, kiểu ngộ đạo thực thi một loại mục vục giống một lời cầu nguyện tiền kitô, một lời cầu tiền kinh thánh, và thuyết ngộ đạo đã bước vào trong Giáo Hội qua các nhóm đạo đức duy tâm tình ấy: tôi gọi điều này là chủ thuyết duy tâm tình. Chủ thuyết duy tâm tình không tốt, nó là một điều cho tôi, tôi an tâm, tôi cảm thấy mình tràn đầy Thiên Chúa. Nó cũng giống phong trào Thời Mới. Có lòng đạo hạnh, đúng, nhưng là một thứ đạo hạnh ngoại giáo, hay cả lạc giáo nữa. Chúng ta không được sợ hãi nói lên từ này, bởi vì thuyết ngộ đạo là một lac giáo, nó đã là lạc giáo thứ nhất trong Giáo Hội. Khi tôi nói tới lòng đạo hạnh, tôi nói về kho tàng đạo đức, với biết bao nhiêu giá trị, mà Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã miêu tả trong Tông huấn ”Loan báo Tin Mừng”. Các cha hãy nghĩ tới tài liệu Aparecida của Hội nghị lần thứ V của Liên Hội Đồng Giám Mục châu Mỹ Latinh, trong đó ở đoạn cuối cùng, phải lui lại đàng sau 40 năm để lấy lại một đoạn của Tông huấn, là tài liệu mục vụ thời hậu công đồng vẫn còn rất thời sự. Trong tài liệu này, Đức Phaolô VI miêu tả lòng đạo đức bình dân bằng cách khẳng định rằng đôi khi cần phải phúc âm hóa nó. Vâng, bởi vì cũng như mọi lòng đạo đức, nó có nguy cơ sai lạc, và không diễn tả đức tin mạnh mẽ.

Nhưng lòng đạo đức mà người dân có, lòng đạo đức đi sâu vào trong con tim với bí tích Rửa Tội là một sức mạnh khổng lồ, tới độ dân Chúa có lòng đạo đức này, nói chung, không thể sai lầm, nó chắc chắn, như khẳng định trong số 12 của Hiến chế về Giáo Hội. Lòng đạo đức bình dân nảy sinh từ ý thức của đức tin, mà tài liệu công đồng nói tới và hướng dẫn trong việc sùng kính các Thánh, Đức Mẹ, cả qua các kiểu diễn tả dân ca vũ, trong nghĩa tốt của từ này. Vì thế lòng đạo đức bình dân một cách nền tảng được hội nhập văn hóa, không thể là một lòng đạo đức được làm trong phòng thí nghiệm, nhưng luôn luôn nảy sinh từ cuộc sống. Người ta có thể phạm các lỗi nhỏ, vì thế cần phải tỉnh thức, nhưng lòng đạo hạnh bình dân là một dụng cụ rao truyền Tin Mừng.

Chúng ta hãy nghĩ tới các người trẻ ngày nay. Người trẻ, ít nhất là trong kinh nghiệm tôi đã có trong giáo phận, giới trẻ, các phong trào giới trẻ tại Buenos Aires đã không hoạt động. Tại sao vậy? Người ta đã nói với họ rằng chúng ta hãy họp nhau để nói chuyện… và sau cùng thì giới trẻ buồn chán. Nhưng khi các cha xứ tìm ra con đường lôi cuốn giới trẻ trong các cuộc truyền giáo nhỏ, đi truyền giáo trong kỳ hè, dậy giáo lý cho những người cần, trong các vùng hẻo lánh xa xôi không có linh mục, khi đó giới trẻ tham gia. Người trẻ muốn kiểu tác nhân truyền giáo này và từ đó họ học sống một hình thức đạo có thể gọi là đạo đức đức bình dân: việc tông đồ truyền giáo của người trẻ cũng có thể nói là đạo đức bình dân. Đức Phaolô VI nói: lòng đạo đức bình dân tích cực nó là một ý thức của đức tin sâu đậm, mà chỉ những người đơn sơ và khiêm tốn mới có khả năng có. Và điều này thật là lớn lao! Chẳng hạn trong các đền thánh người ta thấy xảy ra các phép lạ.

Ngày 27 tháng 7 hằng năm tôi đều đến Đền thánh Pantaleone ở Buenos Aires và giải tội từ sáng. Nhưng khi trở về nhà tôi được đổi mới nhờ kinh nghiệm này, tÔi trở về nhà xấu hổ vì sự thánh thiện mà tôi đã tìm thấy nơi các tín hữu sơn đơn sơ này, có tội nhưng thánh thiện, bởi vì họ nói lên các tội của họ và kể lại họ sống ra sao, con trai con gái họ có vấn đề gì, hay người này người kia có khó khăn nào, họ đi thăm các bệnh nhân làm sao. Tỏa sáng ra một ý thức tin mừng. Người ta tìm thấy các điều này trong các Đền thánh. Các tòa giải tội tại các Đền thánh là một nơi canh tân cho chúng ta là các linh mục giám mục: nó là một khóa học canh tân tinh thần vì tiếp xúc với lòng đạo đức bình dân. Khi họ đến xưng tội, các tín hữu kể cho bạn nghe các bần cùng của họ, nhưng bạn thấy đàng sau các bần cùng ấy ơn thánh Chúa hướng dẫn họ tới thời điểm này. Việc tiếp xúc này với dân Chúa cầu nguyện, hành hương biểu lộ đức tin của họ trong hình thức đạo đức này, giúp chúng ta biết bao nhiêu trong cuộc sống linh mục của chúng ta.

Hỏi: Thưa Đức Thánh Cha, con đã là học sinh được các cha dòng Tên đào tạo văn hóa và linh mục. Căn tính của linh mục trong thiên niên kỷ thứ ba là quân bình nhân bản và tinh thần, ý thức truyền giáo, rộng mở đối thoại với các tôn giáo khác cũng như đối với những người không có tôn giáo. Đức Thánh Cha đã làm một cuộc cách mạng về ngôn ngữ, kiểu sống, thái độ hành xử và chứng tá liên quan tới các đề tài quan trọng nhất trên bình diện quốc tế, cả đối với những người vô thần và những người sống xa Giáo Hội công giáo. Con xin phép hỏi Đức Thánh Cha: trong xã hội tiến triển sinh động và xung khắc và thường xa cách các giá trị tin mừng này, làm sao Giáo Hội cầu mong lớn lên và phát triển lại thường chậm chạp như vậy? Cuộc cách mạng ngôn từ, ý nghĩa, văn hóa và chứng tá tin mừng của Đức Thánh CHa đang khơi dậy trong các lương tâm một cuộc khủng hoảng hiện sinh đối với các linh mục chúng con. Xin Đức Thánh Cha gợi lên cho chúng con các con đường sáng tạo giúp thắng vươt hay ít ra làm giảm thiểu cuộc khủng hoảng mà chúng con cảm thấy này.

Đáp: Làm sao Giáo Hội đang lớn lên và phát triển có thể tiến tới? Cha đã đưa ra vài điều rồi: sự quân bình, thái độ rộng mở đối thoại. Cha đã nói một điều tôi rất thích: đó là óc sáng tạo: một từ thiên linh và nếu nó là nhân bản thì đó là một ơn của Thiên Chúa. Thiên Chúa đã ra lệnh cho Adam ”Hãy đi và làm cho trái đất lớn lên. Hãy có óc sáng tạo. Đó cũng là giới răn mà Chúa Giêsu đã ban cho các môn đệ trong các tương quan với Do thái giáo: thánh Phaolô đã là một người có óc sáng tạo; thánh Phêrô đã làm một điều mới mẻ, sáng tạo. Lời nói là sự sáng tạo. Làm sao tìm được sự sáng tạo này? Đây là điều kiện nếu chúng ta muốn sáng tạo trong Thần Khí, nghĩa là trong Thần Khí của Chúa Giêsu. Không có con đường nào khác ngoài con đường cầu nguyện.

Một Giám Mục mà không cầu nguyện, một linh mục mà không cầu nguyện thì đã đóng cửa, thì đã đóng con đường của óc sáng tạo. Chính trong lời cầu nguyện khi Chúa Thánh Thần làm cho bạn nghe được một điều, thì ma qủy tới làm cho bạn nghe thấy một điều khác. Nhưng cầu nguyện là điều kiện để tiến tới. Cả khi nhiều lúc xem ra lời cầu có buồn chán đi nữa. Lời cầu quan trọng biết bao. Không phải chỉ là lời cầu nguyện của kinh thần vụ và phụng vụ Thánh Lễ, thanh thản, sốt mến, lời cầu cá nhân với Chúa. Nếu chúng ta không cầu nguyện có lẽ chúng ta sẽ là các doanh nhân mục vụ và tinh thần, nhưng Giáo Hội mà không có lời cầu nguyện thì trở thánh một tổ chức phi chính quyền, mà không được xức dầu của Thần Khí. Lời cầu nguyện là bước đầu tiên bởi vì đó là rộng mở cho Thiên Chúa để có thể rộng mở cho tha nhân. Chính Chúa nói cho bạn phải đi đây đi kia, làm cái này cái nọ và dấy lên óc sáng tạo, khiến cho nhiều vị Thánh phải trả giá mắc mỏ. Hãy nghĩ tới chân pưhớc Antonio Rosmini, người đã viết tác phẫm ”Năm vết thương của Giáo Hội”. Ngài đã là một người có óc phê bình sáng tạo, bởi vì đã cầu nguyện và đã viết những gì Chúa Thánh Thần đã cho cảm thấy. Nhưng chính vì thế mà ngài đã phải vào tù tinh thần, nghĩa là nhà của ngài: không thể nói, không thể dậy dỗ, không thể viết, các sách của ngài bị xếp vào danh sách các sách cấm đọc. Nhưng ngày nay ngài là chân phước.

Biết bao nhiêu lần sự sáng tạo đem theo thập giá, nhưng khi phát xuất từ lời cầu nguyện, nó đem lại hoa trái. Đây không phải sự sáng tạo kiểu ”cách mạng” thời thượng ngày nay không phải là của Thần Khí, nhưng là óc sáng tạo đến từ Thần Khí và nảy sinh từ lời cầu nguyện. Nó có thể tạo ra các vấn đề cho bạn. Sự sáng tạo đến từ lời cầu nguyện có một chiều kích nhân chủng của sự siêu việt, bởi vì qua lời cầu nguyện bạn rộng mở cho sự siêu việt, cho Thiên Chúa. Nhưng cũng có sự siêu việt rộng mở cho tha nhân. Không cần phải là một Giáo Hội đóng kín trong chính mình, chỉ nhìn lỗ rốn của mình, một Giáo Hội tự quy chiếu về mình, nhìn chính mình và không có khả năng siêu việt. Sự siêu việt hai chiều rất quan trọng: hướng tới Thiên Chúa và hướng tới tha nhân. Ra khỏi chính mình không phải là một cuộc phiêu lưu mạo hiểm, nhưng là một lộ trình mà Thiên Chúa đã chỉ cho con người ngay từ đầu khi Thiên Chúa nói với tổ phụ Abraham: ”Hãy rời bỏ đất của ngươi”. Ra khỏi mình. Khi tôi ra khỏi mình, tôi gặp gỡ Thiên Chúa và tha nhân. Nhưng phải gặp tha nhân làm sao từ xa hay từ gần. Cần phải gặp họ từ gần. Sự sáng tạo, sự siêu việt và sự gần gũi. Sự gần gũi là một từ chìa khóa. Gần gũi không hoảng sợ. Khi thấy các ngẫu tượng tại Athènes thánh Phaolô đã không hoảng sợ, nhưng đến gần và trích cả các thi sĩ Hy lạp nữa. Mgài tới gần một nền văn hóa, gần con người gần kiểu suy tư, các khổ đau và các thù hận của họ. Biết bao lần sự gần gũi là một việc hãm mình, bởi vì chúng ta phải nghe các điều nhàm chán, các điều xúc phạm.

Cách đây hai năm có một linh mục thuộc tổng giáo phận Buenos Aires đi truyền giáo tại một giáo phận miền nam trong vùng từ nhiều năm nay không có linh mục công giáo, nhưng có các người tin lành. Cha ấy kể cho tôi nghe rằng cha đến thăm một phụ nữ, hiệu trưởng trường học vùng đó. Bà mời cha ngồi rồi bắt đầu chửi cha rất dữ: ”Các cha đã bỏ rơi chúng tôi một mình, tôi cần Lời Chúa nên tôi đã phải tham dự phụng tự tin lành và tôi đã theo tin lành”. Vị linh mục này trẻ tuổi, cầu nguyện nhiều và rất hiền dịu. Khi bà nọ đã ngưng chửi bới cha liến nói: ”Thưa bà tôi chỉ xin nói một lời thôi: ”Xin lỗi. Xin bà tha lỗi cho chúng tôi. Chúng tôi đã bỏ đàn chiên”. Và bà nọ đổi giọng ngay. Bà mời cha uống cà phê. Vị linh mục cũng không đề cập tởi vấn đề tôn giáo thật. Và khi ngài chuẩn bị ra về bà ta nói: ”Xin cha dừng lại và đến đây”. Bà đưa cha vào phòng ngủ và kéo hộc tủ ra, bên trong có hình Đức Mẹ và nói: ”Tôi đã không bao giớ bỏ Mẹ. Tôi đã dấu vào đây vì ông mục sư, nhưng trong nhà có Đức Mẹ”. Câu chuyện dậy cho chúng ta biết rằng sự gần gũi sự dịu hiền đã khiến cho phụ nữ đó giao hòa với Giáo Hội. Nhưng tôi đã hỏi cha ấy câu chuyện kết thúc ra sao, mà đáng lý ra không bao giờ được hỏi. Cha cho biết ngài đã không hỏi gì cả cũng không mời bà trở lại vớ Giáo Hội công giáo. Bà ta tiếp tục tham dự các buổi phụng tự tin lành. Nhưng cha nói: ”Bà là một người cầu nguyện, xin Chúa Giêsu làm”.

Gần gũi cũng có nghĩa là đối thoại. Cần đọc Thông điệp ”Giáo Hội Người” của Đức Phaolô VI nói về đối thoại. Đối thoại thật là quan trọng. Nhưng để đối thoại cần phải có hai điều: khởi hành từ căn tính của mình và hiểu người khác, không lên án tiên thiên. Nếu tôi không chắc chắn về căn tính của mình mà đi đối thoại, tôi sẽ lẫn lộn niềm tin của tôi. Mỗi một người đều có cái gì đó để cho chúng ta, lich sử, hoàn cảnh sống của họ, chúng ta phải lắng nghe nó. Rồi sự thận trọng cảu Chúa Thánh Thần sẽ cho chúng ta biết phải trả lời thế nào. Đối thoại không phải là hộ giáo. Đối thoại là nhân bản, các con tim và các linh hồn nói chuyện với nhau. Đừng sợ hãi đối thoại với bất cứ ai. Có người nói chơi rằng thánh Philippo Neri, tôi không nhó rõ vị thánh nào, có khả năng đối thoại với cả ma qủy. Tại sao vậy? Bởi vì người có sự tự do lắng nghe tất cả mọi người, nhưng khởi hành từ căn tính riêng. Ngài rất chắc chắn. Nhưng chăc chắn về căn tính của mình không có nghĩa là chiêu dụ tín đồ. Chiêu dụ tín đồ là một cái bẫy mà Chúa Giêsu cũng lên án. Giáo Hôi không lớn lên vì chiêu dụ tín đồ, nhưng vì lôi kéo. Lôi cuốn là sự thấu hiểu được Chúa Thánh Thần hướng dẫn.

Như thế gương mặt của linh mục trong thế kỷ tục hóa này là một người có óc sáng tạo thực thi lệnh truyền của Thiên Chúa là ”tạo dựng các sự vật” một người của sự siêu việt với Thiên Chúa qua lời cầu nguyện và với tha nhân, một con người của sự gần gũi dân chúng. Một linh mục không làm cho người ta xa lánh.

Hỏi: Thưa Đức Thánh Cha, câu hỏi của con liên quan tới nơi sống là giáo phận, với các Giám Mục và trong tương quan với các anh em linh mục. Ngày nay dân chúng chờ đợi nơi các linh mục một chứng tá rõ ràng, cởi mở và tươi vui. Như vậy theo Đức Thánh Cha đâu là nét chuyên biệt và nền tảng của một nền tu đức của linh mục giáo phận? Xem ra con nhớ đã đọc ở đâu lời Đức Thánh Cha nói rằng: ”linh mục không phải là người chiêm niệm”. Đức Thánh Cha đã mời gọi cho ”các sự mới mẻ của Chúa Thánh Thần”. Con không biết Đức Thánh Cha có thể cho chúng con một hình ảnh cần chú ý cho sự tái sinh và sự gia tăng hiệp thông của giáo phận chúng con không. Điều con chú ý là làm sao các linh mục chúng con có thể trung thành với con người ngày nay, chứ không cho lắm với Thiên Chúa?

Đáp: Cha đã nói ”các sự mới mẻ của Chúa Thánh Thần”. Đúng thế. Nhưng Thiên Chúa là Thiên Chúa của các ngạc nhiên, Ngài luôn luôn khiến cho chúng ta ngạc nhiên. Khi đọc Phúc Âm chúng ta đi từ ngạc nhiên này sang ngạc nhiên khác. Chúa Giêsu luôn đi trước, tìm kiếm và chờ đợi chúng ta. Tôi không nhớ tiên tri Isaia hay tiên tri Giêrêmia nói Thiên Chúa giống như hoa hạnh nhân, là cây đầu tiên nở hoa vào mùa xuân. Thiên Chúa luôn luôn là Đấng đầu tiên.

Liên quan tới tu đức của linh mục giáo phận, Linh mục chiêm niệm, nhưng không phải như một đan sĩ chiêm niệm tại đan viện Certosa. Vị linh mục phải có một sự chiêm niệm, một khả năng chiêm niệm đối với Thiên Chúa cũng như đối với con người. Linh mục là một người nhìn, làm đầy đôi mắt và con tim của mình với sự chiêm niệm này: với Tin Mừng trước mặt Thiên Chúa, và với các vấn đề của con người trước con người. Linh mục chiêm niệm trong nghĩa đó. Nhưng không nên lẫn lộn với đan sĩ chiê mniệm.

Thế thì trung tâm nền tu đức của linh mục giáo phận ở đâu? Theo tôi đó là nơi tính cách giáo phận. Nghĩa là có khả năng rộng mở cho tính cách giáo phận. Tu đức của một tu sĩ là rộng mở cho Thiên Cháu và cho tha nhân trong cộng đoàn cho dù có nhỏ mấy đi nữa. Trái lại tu đức của linh mục giáo phận là rộng mở cho giáo phận tính. Còn các tu sĩ làm việc trong các giáo xứ thì phải có cả hai sự tùy thuộc, vì thế Bộ các dòng tu đang duyệt xét lại tài liệu ”Mutuae relationes”.

Giáo phận tính có nghĩa là có một tương quan với Giám Mục bản quyền và các anh em linh mục khác trong giáo phận. Linh mục giáo phận không thể tách rời khỏi Giám Mục. Vị Giám Mục dù có tính xấu đi nữa cũng là Giám Mục, và bạn phải tìm cách duy trì tương quan với ngài, cả trong thái độ không tích cực. Nhưng đây là luật trừ. Là linh mục giáo phận tôi có tương quan với Giám Mục, một tương quan cần thiết. Thật là rất ý nghĩa trong lễ truyền chức vị linh mục hứa vâng lời Đức Giám Mục và các người kế vị. Giáo phận tính có nghĩa là có một tương quan với Giám Mục cần phải thực thi và làm cho nó lớn lên. Trong đa số các trường hợp, nó không phải là một vấn đề tai họa mà là chuyện bình thường.

Thứ hai là tương quan với các linh mục khác với toàn linh mục đoàn. Không có tu đức linh mục giáo phân nào mà không có hai tương quan này. Chúng cần thiết. Có cha nói: ”với Giám Mục thì tôi không có vấn đề, nhưng tôi không đi họp với các linh mục vì họ nói các chuyện tầm phào”. Nhưng với thái độ này là bạn thiếu tinh thần tu đức thực sự của linh mục giáo phận. Tất cả là ở đó: đơn sơ nhưng không dễ dàng. Bởi vi mỗi người có một kiểu suy nghĩ riêng nhưng có thể thảo luận với nhau. Nếu cần to tiếng thì cứ to tiếng. Nhưng khi ngoại giao bước vào trong hai tương quan này thì không có Thần Khí Chúa, bởi vì thiếu tinh thần tự do. Cần phải có can đảm nói: ”Tôi không nghĩ như thế, tôi nghĩ khác” và cũng cần phải có sự khiêm tốn nhận một sửa lỗi. Đây là điều rất quan trọng. Và Ai là kẻ thù lớn nhất của hai tương quan này? Các bép xép. Biết bao nhiêu lần chúng ta có cám dỗ này trong mình, và ma qủy biết là hạt giống đó đem lại bộng hạt và nó gieo tốt. Và tôi nghĩ không biết nó có phải là một hậu qủa của một cuộc sống độc thân cằn cỗi, không phong phú không. Một người cay đắng không phong phú và bép xép, nói xấu nói hành người khác. Đó là một không khí không tốt. Chính nó ngăn cản tương quan với Giám Mục và với linh mục đoàn. Các bép xép là kẻ thủ mạnh nhất của giáo phận tính, nghĩa là nền tu đức linh mục giáo phận. Nếu bạn là người trưởng thành và thấy nơi người anh em linh mục điều bạn không thích hay tin rằng sai, hãy đi nói với anh ấy, hay nều thấy anh ấy không chịu được sự sửa lỗi thì trình với Giám Mục hay một người bạn thân ơn của linh mục đó để họ có thể giúp cha ấy sửa mình. Nhưng đừng nói với các người khác: bởi vì điều đó làm hại nhau. Ma qủy hạnh phúc với ”bữa tiệc đó”, vì chính như thế mà nó tấn công trung tâm tu đức của hàng giáo sĩ giáo phận. Đối với tôi các bép đép gây ra biết bao nhiệu là thiệt hai. Chúng đã là một thực tại hiện diện trong thời Giáo Hội khai sinh, chứ không phải là điều mới lạ sau Công Đồng, bởi vì ma qủy không muốn rằng Giáo Hội là một người mẹ phong phú, hiệp nhất và tươi vui. Khi các tương quan giữa linh mục và Giám Mục, giữa linh mục và linh mục đoàn tốt đẹp, thì hoa trái là niềm vui, là dấu chỉ mọi sự hoạt động tốt đẹp. Trong khi sự cay đắng là đấu chỉ không có tinh thần tu đức giáo phận đích thực. Có một lần nọ một linh mục nói với tôi: ”Con thấy biết bao lần chúng ta là một Giáo Hội của những người giận dữ, luôn luôn giận dữ người này chống lại người kia. Chúng ta luôn có chuyện để giận dữ”.

Điều này đem lại buồn sầu và cay đắng: không có niềm vui. Khi trong giáo phận chúng ta thấy một linh mục sống giận dữ căng thẳng như thế chúng ta nghĩ: vị này ăn sáng với giấm chua, buổi trưa ăn rau với giấm chua và ban chiều uống chanh chua”. Linh mục đó là hình ảnh Giáo Hội của những người giận dữ. Người ta có thể giận dữ và cũng cần giận dữ một lần. Nhưng tình trạng giận dữ không phải là của Chúa và nó đem lại sự buốn sầu và không hiệp nhất.

Sau cùng là trung thành với Thiên Chúa và với con người đó là hai chiều kích cửa sự siêu việt mà chúng ta đã đề cập tới trên kia. Trung thành với Thiên Chúa, tìm kiếm Người, rộng mở cho Người trong lời cầu nguyện, để rồi rộng mở cho con người với sự tôn trọng, phục vụ con người và kiên nhẫn có lời nói đúng đắn với con người.

(SD 27-7-2014)

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

CHƯƠNG TRÌNH CHUYẾN VIẾNG THĂM ALBANIA CỦA ĐỨC THÁNH CHA PHANXICÔ

CHƯƠNG TRÌNH CHUYẾN VIẾNG THĂM ALBANIA CỦA ĐỨC THÁNH CHA PHANXICÔ

VATICAN: Sáng 31-7-2014 Phòng báo chí Tòa Thánh đã công bố chương trình chuyến Đức Thánh Cha Phanxicô viếng thăm mục vụ Albania vào ngày 21-9-2014.

Sáng Chúa Nhật 21-9-2014 lúc 7 giớ rưỡi Đức Thánh Cha sẽ rời phi trường Fiumicino để bay sang Tirana, và sẽ tới phi trường ”Mẹ Têrêxa” lúc 9 giờ. Lúc 9 giờ 30 lễ nghi chào đón sẽ diễn ra tại Dinh tổng thổng trong thủ đô Tirana. Sau khi chào thăm và hội kiến với tổng thống tại Thư phòng Xanh, lúc 10 giờ Đức Thánh Cha gặp gỡ hàng lãnh đạo Albania. Sau đó lúc 11 giớ Đức Thánh Cha cử hành Thánh Lễ và đọc kinh Truyền Tin với tín hữu tại quảng trường Mẹ Têrexa. Lúc 13 giờ 30 ngài dùng bữa trưa với các Giám Mục Albania và đoàn tùy tùng tại Tòa Sứ Thần Tòa Thánh.

Ban chiều lúc 16 giờ Đức Thánh Cha gặp gỡ các vị lãnh đạo các Giáo Hội Kitô và các tôn giáo khác trong đại học công giáo ”Đức Bà Cố vấn”. Lúc 17 giờ ngài chủ sự buổi hát kinh chiều với các linh mục tu sĩ nam nữ, chủng sinh và thành viên các phong trào giáo dân trong nhà thờ chính tòa Tirana.

Lúc 18 giờ 30 Đức Thánh Cha gặp gỡ các trẻ em và phái đoàn đại diện các thành viên của các trung tâm bác ái khác trong nhà nguyện trung tâm Betania.

Lúc 19 giờ 45 lễ nghi tiễn biệt sẽ diễn ra tại phi trường quốc tế Mẹ Têrêxa. Máy bay chở Đức Thánh Cha sẽ rời phi trường lúc 20 giờ và về tới phi trường Ciampino của Roma lúc 21:30 (SD 31-7-2014)

Linh Tiến Khải  – Vatican Radio

CÁC GIÁM MỤC NAM PHI TỎ TÌNH LIÊN ĐỚI VỚI CÁC TÍN HỮU KITÔ TẠI GAZA

CÁC GIÁM MỤC NAM PHI TỎ TÌNH LIÊN ĐỚI VỚI CÁC TÍN HỮU KITÔ TẠI GAZA

THÀNH PHỐ CAPE: Trong các ngày vừa qua Hội Đồng Giám Mục Nam Phi đã viết thư cho Đức Thượng Phụ Latinh Giêrusalem Fouad Twal, để bầy tỏ tình liên đới với các Kitô hữu Gaza.

Thư mang chữ ký của Đức Cha Stephen Brislin, Tổng Giám Mục giáo phận thành phố Cape, Chủ tịch Hội Đồng Giám Mục Nam Phi. Đức Cha đã nhắc tới chuyến viếng thăm Tòa Thượng Phụ Giêrusalem và giáo xứ công giáo tại Gaza hồi tháng giêng năm nay nhân cuộc họp của Ủy ban phối hợp Thánh Địa.

Đức Cha Brislin viết: ”Chúng tôi đã nhớ tới các câu chuyện kể lại nổi khổ đau, sự nhục nhã và áp bức gia tăng mà anh chị em phải gánh chịu, trong khi các đường lối chính trị toàn vùng khiến cho cuộc sống của anh chị em ngày càng không thể chịu đựng nổi. Hằng ngày chứng kiến tình hình bạo lực gia tăng, chúng tôi muốn bầy tỏ tình liên đới sâu xa, các lời cầu nguyện và dấn thân hợp tiếng kêu gọi cộng đồng quốc tế gây áp lực trên các giới hữu trách để giúp đạt tới một nền hòa bình công bằng và lâu bền.

Với kinh nghiệm chấm dứt chính sách kỳ thị chủng tộc tại Nam Phi chúng tôi biết rằng tình liên đới quốc tế và các cuộc biểu tình lớn là sức mạnh có khả năng thay đổi các tình trạng bất công. Chúng tôi hy vọng rằng sự ủng hộ của chúng tôi trao ban cho anh chị em và toàn Giáo Hội tại Thánh Địa sức mạnh tìm ra niềm hy vọng của sự Phục Sinh trong những lúc khó khăn này. Chúng tôi xin Đức Thượng Phụ chuyển thư này tới tín hữu giáo xứ Thánh Gia tại Gaza, đã tiếp đón chúng tôi rất nồng hậu trong chuyến viếng thăm hồi tháng giêng năm nay. Chúng tôi xin bảo đảm với anh em lời cầu nguyện của toàn dân Nam Phi, cách riêng của toàn tổng giáo phận thành phố Cape (SD 30-7-2014)

Linh Tiến Khải  – Vatican Radio

CÁC GIÁM MỤC THỤY SĨ KÊU GỌI ÁP DỤNG CÁC GIÁ TRỊ KITÔ VÀO CUỘC SỐNG XÃ HỘI

CÁC GIÁM MỤC THỤY SĨ KÊU GỌI ÁP DỤNG CÁC GIÁ TRỊ KITÔ VÀO CUỘC SỐNG XÃ HỘI

LUGANO: Ngày 28-7-2014 các Giám Mục Thụy sĩ yêu cầu chính quyền liên bang giải thích và áp dụng các giá trị Kitô vào cuộc sống cụ thể của xã hội.

Thông cáo mang chữ ký của Đức Cha Giacomo Grampa, nguyên Giám Mục Lugano, đại diện các Giám Mục Thụy sĩ, được công bố 5 tháng sau khi chính quyền Liên bang chấp nhận sáng kiến ”chống nạn di cư ồ ạt” do vài đảng phái chính trị đề ra yêu cầu chính quyền hạn chế số người di cư vào Thụy Sĩ ở mức 0.2%, và dành 10% trợ giúp phát triển cho việc kiểm soát sinh sản tại các nước nghèo. Đức Cha Grampa đặc biệt nêu bật sự kiện Thụy Sĩ đã luôn luôn là quốc gia đa ngôn ngữ, đa tôn giáo, đa văn hóa và có nhiều truyền thống khác nhau. Tại Thụy Sĩ các nền văn hóa tự do và duy xã hội, cải cách và công giáo, thành thị và nông thôn chung sống với nhau. Các giá tri Kitô cho tới nay đã được tháp nhập vào cuộc sống của dân chúng. Nhưng ngày nay chúng bị lèo lái để chống lại kẻ thù, là người khác, người ngoại quốc, người hồi. Nếu từ phía các Giáo Hội, từ phía cộng đoàn Kitô các giá trị này bị hạn hẹp, lập lại và không được giải thích, thì có nguy cơ tạo ra việc đồng hòa tín hữu và nơi những người sử dụng các giá trị đó dể ”bảo vệ các truyền thống kitô” mà không hiểu và không sống chúng. Với hậu qủa là cuối cùng có nhiều Kitô hữu xác tín rằng để bảo vệ Kitô giáo cần phải hạn chế số người nước ngoài vào Thụy Sĩ, hạn chế một số quyền của họ và xây tường ngăn cách… Nạn bài người nước ngoài đã đi tới chỗ lấy việc của các công nhân Thụy sĩ cho người nước ngoài làm với đồng lương rẻ mạt. Sự sợ hãi là một thực tại, nhưng cách thức thắng vượt nó là sự găp gỡ. Nguyên tắc nhìn vào mắt người ăn xin khi bố thí cho họ, cũng có giá trị đối với việc gặp gỡ người nước ngoài, vì như thế là mở rộng cho một viễn tượng khác.

Đức Cha Grampa mời gọi mọi ngưởi chú ý tới ”các người nước ngoài vô hình” không có gương mặt, không thể gặp được, nhưng họ điều kiện hóa cuộc sống chúng ta: đó là các tổ chức tài chánh quốc tế làm sụp đổ các hệ thống kinh tế, bằng cách chuyển vận đi nơi khắc các của cải không do họ làm ra. Đó là các băng đảng tội phạm mua các hàng quán, rửa tiền bẩn thỉu, qua các hiệp hội quốc tế hay điều hành các trung tâm sức khỏe nhưng che dấu dịch vụ mại dâm. ”Loại người nước ngoài đó” chinh phục chúng ta một cách lấn lướt ngấm ngầm: bằng cách ăn trộm lương tâm và văn hóa của chúng ta” (SD 28-7-2014).

Linh Tiến Khải  – Vatican Radio

KHỦNG BỐ VÀ BẤT KHOAN NHƯỢNG LÀ HAI TỆ NẠN TẠI PAKISTAN

KHỦNG BỐ VÀ BẤT KHOAN NHƯỢNG LÀ HAI TỆ NẠN TẠI PAKISTAN

LAHORE: Khủng bố và bất khoan nhượng tôn giáo là các tệ nạn trầm trọng nhất đang gây đau buồn cho dân nước Pakistan. Linh Mục Ynayat Bernard, giám đốc đại chủng viện Thánh Maria tại Lahore đã khẳng định như trên.

Cha cho biết Giáo Hội tại Pakistan đang trả lời cho các thách đố này qua Caritas Isalamabad-Rawalpindi tại miền Bắc trong việc trợ giúp làn sóng người ty nạn trong vùng Bắc Waziristan, nơi xảy ra các vụ giao tranh giữa quân đội chính phủ và các lực lượng khủng bố. Chúng tôi muốn hòa bình và Hồi giáo cũng là một tôn giáo hòa bình. Toàn dân Pakistan ủng hộ cố gắng của quân đội nhằm nhổ tận gốc rễ nạn khủng bố. Tuy nhiên, trong xã hội vẫn có một tâm thức hồi taleban, bất khoan nhượng và đầy thành kiến, cần phải thay đổi. Cha Ynayat cũng cho biết trong nhiều trường học Coran và trong các hội đường hồi giáo người ta dậy tín hữu rằng những người không theo hồi giáo là các kẻ bất trung, và người ta nuôi dưỡng sự bất khoan nhượng và bạo lực.

Theo cha, để có thể thay đổi não trạng này cần phải cố gắng củng cố cuộc đối thoại liên tôn. Nhờ sự yểm trợ của nhiều vị lãnh đạo tôn giáo cuộc đối thoại cuộc sống với tín hữu hồi đã được bắt đầu. Cha nói chúng tôi tổ chức các cuộc găp gỡ và các biến cố để cho thấy những gì là chung cho mọi người. Các lời nói và cử chỉ này có ảnh hưởng trên xã hội. Chúng tôi sẽ tiếp tục xây cầu và gieo vãi hạt giống để chúng có thể nẫy mầm giúp thay đổi não trạng. Trong các trường học, sách giáo khoa và chương trình học người ta cũng thường có thành kiến đối với các nhóm thiểu số. Nhưng điều quan trọng là phải luôn luôn đối thoại với các giới lãnh đạo dân sự và tôn giáo (FIDES 28-7-2014).

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Thánh Inhaxiô, Tổ Phụ Dòng Tên

 Thánh Inhaxiô, Tổ Phụ Dòng Tên

Từ Lộ Đức (Pháp) đến Burgos (Tây Ban Nha) hơn 400km. Tại Burgos có Đền Thánh Loyola nổi tiếng. Từ xa, nhìn Nhà thờ với dáng vẻ cổ kính và khuôn viên rộng lớn. Bên trong Nhà thờ có nhiều Nhà nguyện ở chung quanh với những cột đá cẩm thạch nhiều màu sắc khác nhau thật lộng lẫy, có nhiều tác phẩm nghệ thuật trên cung thánh, trên trần và trên các bức tường.

 

dongten1
 

Chúng tôi viếng thăm những nơi liên hệ đến cuộc hoán cải của Thánh Inhaxiô. Hướng dẫn chương trình tham quan đã được thu âm bằng nhiều ngôn ngữ. Chọn phần tiếng Việt, chúng tôi lắng nghe về hành trình hoán cải và nên thánh của Inhaxiô, đi đến những căn phòng giới thiệu về cuộc đời của thánh nhân và đến Nhà nguyện “hoán cải” dâng thánh lễ.

1. Đôi dòng tiểu sử Thánh Inhaxiô

Thánh Inhaxiô sinh tại Loyola vào năm 1491, trong một gia đình quí tộc xứ Basque của Tây Ban Nha. Inhaxiô là người em út trong số 13 người con. Thời niên thiếu, Ignatiô được nhà vua chọn làm người hầu cận, tiếp đến là chiến sĩ trong quân đội hoàng gia.
 

http://www.righteousnessislove.org/wp-content/uploads/2013/06/Ignatius_von_Loyola-IHS.jpg
 

Năm 1509, Inhatiô tòng quân Antonio Manrique de Lara, Duke thành Najera và Viceroy thành Navarre với mục đích là được thăng tiến thành một công tước. Dưới sự lãnh đạo của Duke, Inhaxiô đã tham gia nhiều trận đánh mà không bị thương tích gì.

Ý Chúa thật nhiệm mầu. Sức mạnh lại bày tỏ qua sự yếu đuối như lời thánh Phaolô: “…vì quyền năng của Thầy được biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối” (2 Cr 12,9). Ngày 20 tháng 5 năm 1521, cột mốc ghi dấu đặc biệt. Quân Pháp đánh chiếm thành Pamplona. Inhaxiô bị một viên đạn đại bác bắn gảy chân và bị thương nặng. Bức tượng bằng đồng phía ngoài hành lang kể lại sự kiện này.Trở về sống dưỡng bệnh trong lâu đài của gia đình, Inhaxiô giết thời giờ bằng cách đọc những sách kể lại những hành động phi thường và lãng mạng của các hiệp sĩ. Các Nữ tu đã đem đến cho ngài cuốn “Cuộc đời Chúa Kitô” và cuốn “Hạnh các thánh”. Dần dần, những quyển sách này đã thu hút ngài. Khi đọc về cuộc đời của thánh Phanxicô Assisi, thánh Đaminh và nhiều tu sĩ nổi tiếng khác, Inhaxio quyết tâm noi gương các bậc thánh nhân hiến mình để đi chinh phục Đất Thánh cho Giáo Hội.

Sau khi phục hồi, Inhaxio đến thăm tu viện Santa Maria de Montserrat của dòng Biển Đức. Tại đây, ngài treo bộ quân phục của mình trước một bức hình Đức Mẹ Maria. Sau đó, ngài đến thị trấn Manresa, Catalonia và đã dành nhiều tháng sống trong một hang động để thực hành khổ hạnh khắt khe. Tại Manresa, Inhaxio bắt đầu thay đổi lối sống và cảm nghiệm sự thay đổi trong tâm hồn xen lẫn niềm vui và nỗi khổ đau.Lương tâm bị đánh động, từ đó ngài khởi đầu một hành trình lâu dài và đau khổ khi trở về với Ðức Kitô. Có một lời cầu nguyện cho các hối nhân mà Inhaxiô rất tâm đắc: "Lạy Chúa, xin hãy chấp nhận mọi đặc quyền, mọi ký ức, mọi hiểu biết và toàn thể ý chí của con. Ngài đã ban cho con tất cả những gì con có, tất cả con người của con, và con xin phó thác chúng cho thánh ý của Ngài, để Ngài tùy ý sử dụng. Con chỉ xin Chúa ban cho con tình yêu và ơn sủng. Ðược như thế, con đã giàu sang đủ và không dám đòi hỏi gì nữa".

dongten2
 

Vào năm 1522, được thấy Mẹ Thiên Chúa trong một thị kiến, ngài thực hiện cuộc hành hương đến đan viện dòng Biển Ðức ở Monserrat. Ở đây, ngài xưng thú tội lỗi, mặc áo nhặm và đặt thanh gươm trên bàn thờ Ðức Maria, thề hứa sẽ trở nên một hiệp sĩ cho Ðức Mẹ.

Trong khoảng thời gian một năm, ngài sống gần Manresa, có khi thì ở với các tu sĩ Ða Minh, có khi thì ở nhà tế bần, nhưng lâu nhất là sống trong một cái hang ở trên đồi để cầu nguyện. Chính trong thời gian hoán cải này, Linh Thao là con đường thiêng liêng đặc biệt và ngài bắt đầu một công trình mà sau đó rất nổi tiếng, đó là cuốn “Những Thao Luyện Tâm Linh”.

Vào năm 1523, ngài rời Manresa đến Rôma và Giêrusalem, là nơi ngài sống nhờ việc khất thực và hăng say hoán cải người Hồi Giáo ở đây. Vì lo sợ cho tính mạng của ngài, các tu sĩ Phanxicô khuyên ngài trở về Barcelona. Tin tưởng rằng, kiến thức uyên bác sẽ giúp đỡ tha nhân cách thiết thực hơn, ngài dành 11 năm tiếp đó trong việc học ở Alcalá, Salamanca và Paris.

Sau khi đi hành hương ở Đất Thánh về, Inhaxiô quyết định trở thành một linh mục. Việc này đòi hỏi ngài phải bắt đầu lại việc học hành. Inhaxiô đã cố gắng học tiếng La tinh và ghi tên vào học ở Đại học Paris.Trong lúc theo học ở Paris, ngài đã thu phục được một nhóm nhỏ sinh viên thành lập một hội đoàn trong đó có Phanxicô Xaviê và Pierre Fabre.

2. Sáng lập Dòng Tên

https://news4themasses.files.wordpress.com/2012/02/ignatios-loyola.jpg
 

Vào ngày lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời, 15-8-1534, bảy sinh viên Đại Học Paris cùng nhau đến nhà nguyện Các Thánh Tử Đạo ở Montmatre (Crypte du Martyrium de Montmartre) để tuyên khấn. Chân phước Phêrô Favre, linh mục duy nhất của nhóm, dâng lễ, một lễ dành riêng cho họ. Trước khi rước Mình Thánh Chúa, mỗi người lần lượt đọc lời khấn đã viết sẵn. Trong tinh thần này, bảy anh em đã ý thức được một tâm tình: Tất cả là những người Bạn của Chúa Kitô. Trong số bảy người đó, ngoài Thánh Inhaxiô ra còn có Thánh Phanxicô Xaviê. Khi viếng thăm nhà nguyện Các Thánh Tử Đạo ở Montmatre, chúng tôi đọc được một bảng bằng đồng viết bằng tiếng La tinh: “Societas Jesu Quae Sanctum Ignatium Loyolam Patrem agnoscit, Lutetiam matrem Hic nata est. – Dòng Tên sinh tại nơi đây. Cha: Thánh Inhaxiô, Mẹ: Paris”.

Sau thời gian sống ở Paris, Inhaxiô và nhóm bạn bảy người đã nuôi mộng sẽ đi Giêrusalem và dấn thân ở đó. Tuy nhiên, họ cũng có một ý tưởng thứ hai, là nếu điều kiện không cho phép họ đi Giêrusalem, thì tất cả sẽ xin tự nguyện tùng phục Đức Thánh Cha, và sẽ đi bất cứ nơi đâu và làm bất cứ việc gì để phục vụ Giáo Hội.

Khi từng người lần lượt đã đến Roma, họ nhận được sự chúc lành của Đức Thánh Cha, Ngài cũng cho phép họ đi Đất Thánh và Ngài còn cho phép tất cả được chịu chức Linh Mục.

Trong năm đó, năm 1537, vì điều kiện không cho phép, nên việc đi Giêrusalem phải hoãn lại, và với thời gian, Chúa đã muốn hướng đi khác cho những người trẻ này. Đặc biệt trong thời gian này Inhaxiô đã có được một thị kiến tại La Storta: “Một hôm khi còn cách xa Roma mấy dặm, đang khi cầu nguyện trong một nhà thờ, Inhaxiô nhận thấy một sự thay đổi lớn lao trong tâm hồn, và thấy rõ ràng Chúa Cha đặt ông cùng Chúa Kitô, con của Ngài. Inhaxiô không thể nào nghi ngờ điều đó chỉ biết rằng Chúa Cha đặt mình cùng Chúa Con” (Hồi ký I-nhã số 96). Đó chính là một trong những kinh nghiệm giúp Inhaxiô và các anh em nhận ra được ơn gọi để trở nên những người kết thân với Chúa Kitô, trở nên những môn đệ của Ngài và cùng Ngài lên đường phục vụ Thiên Chúa và các linh hồn.

Trong thời gian này, các anh em tiếp tục sống tinh thần tông đồ, giúp các các linh hồn, và đưa mọi người về với Đức Kitô đúng theo tinh thần của Linh Thao. Đây cũng là một trong những trọng tâm sống của họ. Các anh em đều tiếp tục xây dựng cuộc sống của mình trên đặc sủng Linh Thao. Họ cũng nhận định và suy nghĩ về tương lai của mình. Một trong những điều họ suy nghĩ là: “Nên đặt tên cho nhóm bạn mình là gì đây?”. Với tâm tình “là những người bạn trong Chúa Kitô”, tất cả đều đồng tâm chọn chính tên của Đấng đã làm cho mọi người yêu mến và ao ước phục vụ. Vì thế, họ đã chọn tên cho nhóm là: “Societatis Jesus – Cộng đoàn Giêsu hữu”.

Sau đó, vào mùa Chay năm 1539 tại Rôma, Inhaxiô và các bạn đã nhất trí xin lập một dòng tu mới. Đức Thánh Cha Phaolô III đã chính thức phê chuẩn Dòng Chúa Giêsu vào năm 1540, với tên gọi “Cộng đoàn Giêsu hữu”. Thánh Inhaxiô được bầu làm bề trên đầu tiên. Ở đây xin mở ngoặc để phần nào trả lời cho câu hỏi: “Tại sao ở Việt Nam lại kêu Dòng Chúa Giêsu là Dòng Tên?“ Vì khi Dòng Chúa Giêsu vào Việt Nam, thì trong bối cảnh xã hội thời đó, ai kêu tên của Ông Bà Cha Mẹ, đặc biệt tên của Chúa, thì rất phạm thượng, nên “Dòng Chúa Giêsu” đã được kêu là “Dòng Tên”, để không phạm húy, để mọi người dễ chấp nhận, và cũng dễ dàng cho anh em Giêsu Hữu thời đó trong việc truyền giáo.

Khi Dòng Tên được phê chuẩn và hình thành, Inhaxiô và các anh em đã quyết định một vài điều liên quan đến đời sống thiêng liêng và phục vụ. Cộng đoàn Dòng Tên sẽ không có giờ kinh phụng vụ chung, tu sĩ dòng không có áo dòng như các tu viện và dòng Tu thời đó, và Dòng Tên cũng không là một tu viện với một “chỗ gối đầu” êm ấm, được bao quanh bởi bốn bức tường kiên cố. Nhưng tại sao lại có những quyết định như thế? Đơn giản là các tu sĩ Dòng Tên cần phải sống ơn gọi tông đồ mà Thiên Chúa đã mời gọi. Vì thế, họ đã chọn lựa một số cách thức giúp họ dễ dàng thi hành sứ mạng tông đồ hơn. Vì thế, tu viện của Dòng Tên sẽ là phố phường và thế giới, nơi các tu sĩ Dòng Tên đặt chân tới để giúp các linh hồn và phục vụ anh chị em. Đó chính là tinh thần sống của Inhaxiô, một người lữ hành, và của những anh em Dòng Tên từ xưa cũng như hôm nay.

Từ đó trở đi, theo gương của Chúa Giêsu, các tu sĩ Dòng Tên đã đi đến từng phố phường, làng mạc…, để đem Tin Mừng của Chúa đến khắp mọi nơi, cùng chia sẻ và giúp đỡ từng tâm hồn nhận ra được tình yêu của Chúa, tin vào Tin Mừng của Ngài, và tập sống theo mẫu gương của Đức Kitô. Đặc biệt, ở đâu cần giúp đỡ hơn, ở đâu khó khăn hơn, ở đâu Tin Mừng Chúa cần “nở hoa” hơn thì các anh em Dòng Tên quyết tâm lên đường dấn thân nơi đó. Vì vậy mà Phanxicô Xaviê đã phải xa lánh nhóm bạn, đáp tàu đến một vùng đất xa xôi và lạ lẫm ở Ấn Độ và Nhật Bản, Mattheo Ricci và Adam Schall ở Trung Quốc, Alexandre de Rhode (cha Đắc Lộ) ở Việt Nam, và còn bao tu sĩ Dòng Tên khác đã đặt chân lên Nam Mỹ, Châu Phi.

Ngoài ra, môi trường phục vụ của dòng Tên ngày xưa, cũng như hiện nay với trên 20 ngàn tu sĩ tại 127 quốc gia, không giới hạn ở một chân trời nào cả. Không chỉ có chân trong triều đình nhà Vua thời xưa, mà còn ở những góc phố dơ bẩn tại Manila thời nay. Không chỉ ở tại những đại học danh tiếng như Georgetown University – Hoa Kỳ, mà còn tại những vùng hoang vu đất đỏ ở Việt Nam. Thực vậy, nơi nào Vinh Danh Thiên Chúa hơn, thì các tu sĩ Dòng Tên có mặt ở đó. (Lm Nguyễn Ngọc Thế, SJ).

3. Inhaxiô một vị thánh lớn của Giáo hội

Trong khi các bạn đồng hành được Đức giáo hoàng sai đi truyền giáo thì Inhaxiô vẫn ở Rôma, chăm sóc tổ chức mới của ngài nhưng vẫn dành thời giờ để thành lập các nhà cho cô nhi cho người tân tòng. Ngài thành lập Trường Rôma (sau này là Ðại Học Grêgôriô), với mục đích là trường này sẽ trở nên khuôn mẫu cho các trường của Tu Hội.
 

dongten3
 

Trong thị kiến ở La Storta, Inhaxiô xin và đã được “Chúa Cha xin Đức Giêsu vác thập giá nhận Inhaxiô làm người phục vụ”, và Đức Giêsu vác thập giá đã nói với Inhaxiô: “Ta muốn con phục vụ chúng ta”.

Thánh Inhaxiô qua đời ngày 31-7-1556, hưởng thọ 90 tuổi. Đức giáo hoàng Phaolô V tuyên Chân phước cho ngài vào ngày 27-7-1609. Đức giáo hoàng Grêgôriô XV tuyên hiển thánh ngày 13-3-1622. Lễ kính thánh Inhaxiô vào ngày 31-7 hàng năm.

Thánh Inhaxiô đích thực là một nhà thần bí. Ngài tập trung vào đời sống tâm linh dựa trên các nền tảng thiết yếu của Kitô Giáo như Thiên Chúa Ba Ngôi, Ðức Kitô, Bí Tích Thánh Thể. Linh đạo của ngài được tỏ lộ trong châm ngôn của Dòng Tên “ad majorem Dei gloriam” nghĩa là "để Thiên Chúa được vinh danh hơn". Trong quan niệm của ngài, sự tuân phục là một đức tính nổi bật nhằm đảm bảo cho thành quả và sự năng động của tu hội. Mọi hoạt động phải được hướng dẫn bởi lòng yêu mến Giáo Hội thực sự và tuân phục Ðức Thánh Cha vô điều kiện. Vì lý do đó, mọi thành viên của dòng phải khấn lời thề thứ tư, đó là phải đến bất cứ đâu mà Đức giáo hoàng đã sai đi để cứu rỗi các linh hồn.

Các linh mục Dòng Tên gồm những nhà bác học, thần học, giáo dục, khoa học cho đến những nhà truyền giáo danh tiếng và nhiều đấng tử đạo. Những thần học gia vĩ đại, con cái của thánh Inhaxiô như: Pierre Teilhard de Chardin (1881-1955) và Henri de Lubac (1896-1991) của Pháp, Karl Rahner (1904-84) của Đức, Bernard Lonergan (1904-84) của Canađa và John Courtney Murray (1904-67) của Hoa Kỳ, Hans Urs von Balthasar (1905-88), người Thụy Sĩ… Đức giáo hoàng Phanxicô cũng là tu sĩ Dòng Tên.

Đến ngày 1 tháng 1 năm 2012, tổng số tu sĩ Dòng Tên là 17.637 tu sĩ, trong đó có 12.526 linh mục, 1.470 tu huynh, 2.896 học viên và 745 tập sinh, phục vụ tại 133 quốc gia và lãnh thổ trên thế giới trong 84 tỉnh dòng, 5 miền độc lập và 10 miền phụ thuộc. Các tu sĩ của Dòng có mặt trong hầu hết các hoạt động của Giáo Hội (suy tư thần học, giảng thuyết, mục vụ giới trẻ, giúp Linh thao, truyền giáo…) cũng như của xã hội (giáo dục, truyền thông, phục vụ người tị nạn và di dân,…) nhằm phục vụ và thăng tiến con người. Họ là các thần học gia, các vị linh hướng, giáo sư, kỹ sư, nhạc sĩ, nhân viên xã hội, tâm lý gia, bác sĩ, luật sư, nhà báo, nhà truyền giáo…(x. dongten.net).

Khi dâng lễ ở Nhà nguyện “hoán cải”, tôi suy gẫm về ơn trở lại của thánh nhân. Nhờ đọc sách thiêng liêng mà Inhaxiô được biến đổi.Thiên Chúa đã dùng sách thiêng liêng như một khí cụ để hoán cải Inhaxiô. Việc đọc sách thiêng liêng đã tạo nên nhiều vị thánh. Nhờ việc đọc sách thiêng liêng, con người trau dồi tri thức về giáo lý Kitô Giáo, đồng thời tìm được những kiến thức cho cuộc thưa chuyện mỗi ngày với Thiên Chúa. Một cuốn sách thiêng liêng hay có thể được coi như một người bạn tốt.

Thời đại kỹ thuật số hôm nay, các phương tiện truyền thông hằng ngày luôn tấn công con người bằng những âm thanh và hình ảnh thế tục, nó muốn tách lìa từng người ra khỏi Thiên Chúa. Một quyển sách tốt có thể trở thành một người bạn tuyệt vời, một nhà tư vấn khôn ngoan. Một quyển sách tốt là một kho tàng tâm linh. Một vài phút suy niệm về một bài đọc thiêng liêng sẽ giúp chúng ta gần Chúa hơn.

Inhaxiô là một vị đại thánh cho Giáo Hội và một nhân cách lớn cho xã hội. Ngài là một thiên tài trong lịch sử loài người. Nơi ngài, ân sủng và tự nhiên hòa hợp cách mỹ mãn để biến đổi một hiệp sĩ đầy tham vọng thế tục thành một vị thánh lớn để bước theo Chúa Kitô xây dựng Vương Quốc Thiên Chúa và phục vụ mọi người.Thật khó mà mô tả đầy đủ những đức tính phong phú và có phần đối nghịch của Inhaxiô: hăng hái nhưng biết kềm chế; dũng cảm, quyết tâm, nhưng đơn sơ, cẩn trọng; mạnh mẽ, cương nghị nhưng dịu dàng, yêu thương. Một con người của những khát vọng lớn lao. Cả những tham vọng, đam mê thế tục. Trước khi hoán cải, phục vụ vua chúa trần gian, tìm kiếm danh vọng cho bản thân. Sau khi hoán cải, cũng với khát vọng và hoài bão lớn lao cố hữu, nhưng được thanh luyện, để không còn tìm kiếm chính mình mà tìm vinh danh Thiên Chúa và cứu rỗi các linh hồn.

Mừng lễ kính thánh Inhaxiô, xin Chúa cho mỗi người chúng ta được noi gương ngài luôn sống và làm việc "Để Thiên Chúa được vinh hiển hơn".

Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

PHỦ QUỐC VỤ KHANH TÒA THÁNH YÊU CẦU CÁC VỊ ĐẠI SỨ CẠNH TÒA THÁNH CHÚ Ý TỚI THẢM CẢNH CỦA CÁC KITÔ HỮU VÙNG TRUNG ĐÔNG

PHỦ QUỐC VỤ KHANH TÒA THÁNH YÊU CẦU CÁC VỊ ĐẠI SỨ CẠNH TÒA THÁNH CHÚ Ý TỚI THẢM CẢNH CỦA CÁC KITÔ HỮU VÙNG TRUNG ĐÔNG

VATICAN: Trong hai ngày 28-29 tháng 7 năm 2014 Phủ Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh đã gửi văn thư cho các vị đại sứ cạnh Tòa Thánh, yêu cầu chú ý tới thảm cảnh của các kitô hữu vùng Trung Đông và tích cực dấn thân tìm giải pháp hóa bình cho các dân tộc vùng này.

Trong cuộc phỏng vấn dành cho chương trình Ý ngữ hôm 29-7-2014 Đức Tổng Giám Mục Dominique Mamberti, ngoại trưởng Tòa Thánh, đã cho biết như trên.

Văn bản của Phủ Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh bao gồm các lời kêu gọi của Đức Thánh Cha Phanxicô cho hòa bình tại vùng Trung Đông. Phủ Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh rất lo âu theo dõi tình hình của các cộng đoàn kitô Trung Đông. Họ đang đau khổ một cách bất công, lo sợ và bị bắt buộc phải di cư. Chỉ trong thành phố Mosul đã có 30 nhà thờ và đan viện bị các lực lượng hồi cuồng tín chiếm đóng, phá hoại và tháo gỡ thánh giá. Trong biết bao năm nay đây là lần đầu tiên đã không có thánh lễ Chúa Nhật. Cần phải nhớ rằng tại Irak cũng như trong các nước vùng Trung Đông, các kitô hữu đã hiện diện ngay từ đầu lịch sử Giáo Hội, và đã có một vai trò ý nghĩa trong sự phát triển xã hội; và họ muốn tiếp tục hiện diện như các tác nhân hòa bình và hòa giải.

Tòa Thánh đã hoạt động trên nhiều bình diện khác nhau. Đức Thánh Cha Phanxicô đã nhiều lần bầy tỏ sự gần gũi với các cộng đoàn kitô, đặc biệt với các gia đình kitô tại Mosul, bằng cách mời gọi mọi người cầu nguyện cho họ. Ngài đã bầy tỏ sự gần gũi của ngài qua Đức Thượng Phụ Can đê Babilonia và Đức Thượng Phụ Siri Antiokia, khích lệ tín hữu mạnh mẽ trong hy vọng. Ngài cũng đã gửi trợ giúp kinh tế cho các gia đình qua Hội Đồng Tòa Thánh Cor Unum Đồng Tâm.

Về phía mình Phủ Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh đã hoạt động qua các ngã ngoại giao, khích lệ các chính quyền quốc gia và hàng lãnh đạo quốc tế chú ý tới số phận của các kitô hữu vùng Trung Đông, trong thông tư gửi cho mọi tòa đại sứ cạnh Tòa Thánh. Phủ Quốc Vụ Khanh hy vọng cộng đoàn quốc tế lưu tâm tới vấn đề này, vì nó liên quan tới nhân phẩm và các quyền căn bản của con người, sự sống chung hòa bình và hòa hợp giữa các cá nhân và các dân tộc. Irak và các quốc gia khác của vùng Trung Đông được mời gọi là một mô thức sống chung giữa các cộng đoàn khác nhau, nếu không sẽ là một mất mát rất lớn và là một dấu hiệu rất xấu cho toàn thế giới.

Liên quan tới thảm cảnh của người Palestine sống trong dải Gaza thật là đáng tiếc sự kiện người ta coi nó như điều không thể tránh được, nhưng không đúng như vậy. Đức Thánh Cha đã đưa ra nhiều lời kêu gọi mọi người cầu nguyện nài xin ơn hòa bình, và tiếp nhận lời Thiên Chúa mời gọi bẻ gẫy vòng luẩn quẩn của thù hận và bạo lực đẩy xa hòa bình.

Đức Tổng Giám Mục Mamberti nhấn mạnh rằng Đức Thánh Cha đã yêu cầu các giới chức trách nhiệm chính trị địa phương cũng như thế giới làm tất cả những gì có thể để ngưng thù nghịch và đạt tới hòa bình mong mỏi cho thiện ích của tất cả mọi người. Cần có nhiều can đảm để tạo dựng hòa bình hơn là để gây chiến tranh. Ngoài ra, phải đặt để công ích và việc tôn trọng mọi người vào trung tâm, chứ không phải các lợi lộc riêng tư (SD 29-7-2014)

Linh Tiến Khải – Vatican  Radio

CARITAS ROMA PHÁT ĐỘNG CHIẾN DỊCH QUYÊN GÓP CỨU TRỢ NGƯỜI DÂN GAZA

CARITAS ROMA PHÁT ĐỘNG CHIẾN DỊCH QUYÊN GÓP CỨU TRỢ NGƯỜI DÂN GAZA

ROMA: Đáp lời kêu gọi của Caritas quốc tế, Caritas Roma đã phát động chiến dich quyên góp trong mọi giáo xứ thủ đô để trợ giúp người dân Palestine sống tại Gaza.

Ba tuần chiến tranh giữa người Israel và người Palestine đã khiến cho gần 1,200 người của cả hai bên thiệt mạng, hàng ngàn người bị thương và mấy trăm ngàn người phải tản cư tránh bom đạn. Đa số các nạn nhân là phụ nữ và trẻ em Palestine. Ngày 15-7-2014 Caritas Roma đã tổ chức buổi canh thức cầu nguyện cho hòa bình tại Thánh Địa, quy tụ các tín hữu kitô, do thái và hồi giáo.

Thầy Raed Abusahlia, giám đốc Caritas Giêrusalem nói: Chúng tôi tin rằng Giáo Hội không thể im lặng trước các sự kiện như thế này. Chúng ta không thể đứng yên nhìn mà không làm gì. Gaza đã ở trong tình trang thê thảm, bị bó buộc sống trong cảnh cấm vận và bị bao vây từ 12 năm qua và với 3 cuộc xung đột tiếp theo nhau trong 8 năm qua, một cuộc chiến khác sẽ chỉ khiến cho các điều kiện sống tồi tệ hơn. Trong các giờ ngưng bắn, Caritas đã phân phát những gì còn lại, vì các cuộc hành quân tiếp tục và số người bị thương, các bệnh nhân, các trẻ em mồ côi hay bị chấn thương gia tăng. Dân chúng đau khổ vì đói khát và cái nóng của mùa hè, thiếu nước uống và điện thường xuyên bị cắt.

Chương trình trợ giúp cấp thời do Caritas đưa ra bao gồm thuốc men, thực phẩm và dụng cụ y khoa cho các nhà thương. Caritas đã bắt đầu phân phát các gói thực phẩm cho hơn 2,000 gia đình, các hộp thuốc cho hơn 3,000 gia đình và khăn trải giường cùng chăn mền cho cho hơn 500 gia đình.

Đợt hai của công tàc cứu trợ dự trù việc yểm trợ tài chánh cho hơn 2,000 gia đình để họ có thể mua những vật dụng cần thiết. Đồng thời sự trợ giúp cũng bao gồm việc săn sóc cho các trẻ em bị chấn thương tâm thần và phân phát thuốc men cho mọi người đã phải bỏ nhà cửa chạy nạn (SD 28-7-2014)

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

ĐỨC THÁNH CHA PHANXICÔ XIN LỖI CỘNG ĐOÀN TIN LÀNH CASERTA

ĐỨC THÁNH CHA PHANXICÔ XIN LỖI CỘNG ĐOÀN TIN LÀNH CASERTA

CASERTA: Ngày 28-7-2014 Đức Thánh Cha Phanxicô đã trở lại Caserta để viếng thăm bạn ngài là mục sư Giovanni Traettino và cộng đoàn tin lành tại đây. Ngài đã xin lỗi các anh chị em tin lành về các thái độ khép kín ghen tương của các tín hữu công giáo gây chia rẽ giữa các kitô hữu.

Ngỏ lời với mấy ngàn người hiện diện Đức Thánh Cha nói: một tín hữu kitô phải là người luôn bước đi, nếu không sẽ giống nước tù và sẽ hư thối. Nhưng có các tín hữu kitô không tiến bước mà ”quay vòng vòng” và lạc lối. Họ thiếu can đảm tiến bước và thiếu hy vọng. Chúng ta chỉ chắc chắn, khi bước đi trong sự hiện diện của Chúa Giêsu, là Đấng soi sáng chúng ta và ban Thánh Thần cho chúng ta để tiến bước tốt… Chuyện ông Giacóp kể lại vụ mười người con của ông phản bội và phạm tội bán em. Vì ghen tương họ muốn giết Giuse, nhưng sau đó Ruben cứu em và bán em cho người Madian. Khi lâm cảnh đói kém, ông Giacóp sai các con sang Ai Cập mua lúa. Thay vì tìm thấy lương thực họ tìm thấy người em. Khi bước đi trong sự hiện diện của Thiên Chúa, người ta nhận được tình huynh đệ. Khi chúng ta dừng lại, chúng ta nhìn nhau, và đi theo một con đường khác xấu xa, con đường của các bép xép và chia rẽ….

Chúa Kitô và Chúa Thánh Thần không gây chia rẽ. Kẻ gây chia rẽ chính là Satan, Kẻ ghen tương, vua và cha của sự ghen tương, kẻ gieo cỏ lùng… Chúa Thánh Thần tạo ra sự khác biệt trong Giáo Hội, nhưng cũng tạo ra sự hiệp nhất giữa các khác biệt; vì thế Giáo Hội là hiệp nhất trong sự khác biệt. Ngài trao ban các đặc sủng, nhưng cũng tạo ra sự hài hòa của các đặc sủng. Giáo Hội không phải là một qủa cầu, trong đó mọi điểm đều bằng nhau đối với trung tâm. Đó là sự đồng nhất. Chúa Thánh Thần không tạo ra sự đồng nhất, nhưng sự hiệp nhất trong khác biệt. Đó là con đường của phong trào đại kết. Mầu nhiệm nhập thể của Chúa Kitô là nền tảng của Kitô giáo. Chúng ta không thể hiểu được tình yêu đối với tha nhân, đối với người anh em, nếu không hiểu mầu nhiệm nhập thể. Tôi yêu người anh em bởi vì họ cũng là Chúa Kitô, như Chúa Kitô, là thịt xác Chúa Kitô.

Lịch sử cho thấy cám dỗ chia rẽ dấu ẩn sau các thái độ chủ trương tinh tuyền và ra luật khai trừ người anh em, tố cáo các anh em pentecostal là ”điên loạn”, làm hư hoại giống, vài người đã là các tín hữu công giáo. Tôi là mục tử của các tín hữu công giáo, tôi xin lỗi anh chị em về điều đó. Tôi xin lỗi anh chị em vì các anh chị em công giáo không hiểu biết và bị ma qủy cám dỗ đã làm cùng điều các anh em của Giuse đã làm là ghen tương và gây ra chia rẽ. Tôi xin Chúa ban cho chúng ta ơn nhận biết và tha thứ.

Sự thật là một cuộc gặp gỡ giữa các con người với nhau. Sư thật không được chế tạo trong phòng thí nghiệm, nhưng được làm trong cuộc sống khi kiếm tìm Chúa Giêsu để gặp gỡ Người. Nhưng thật ra chính Chúa kiếm tìm chúng ta trước, và tìm ra chúng ta…

Sẽ có người kinh ngạc nói rằng: Đức Giáo Hoàng đã đến với các anh em tin lành. Ngài đã đi tìm các người anh em. Đúng. Bởi vì chính họ đã đến tìm tôi trước tại Buenos Aires, và tình bạn đã bắt đầu như thế. Xin anh chị em cầu nguyện cho tôi.. Tôi cần lắm để tôi đừng có xấu qúa. Xin cám ơn anh chị em”.

Trước đó mục sư Traettino đã cám ơn Đức Thánh Cha không quản ngại nhọc mệt đến thăm cộng đoàn. Các tín hữu tin lành rất yêu mến ngài, và liên lỉ cầu nguyện cho ngài. Cung cách sống đơn sơ, chân thành, không lễ nghi kiểu cách của ngài đã chinh phục mọi con tim. Chỉ với một cử chỉ Đức Thánh Cha đã mở toang cánh cứa và làm cho giấc mơ của Thiên Chúa hiện thực nhanh hơn …. Các anh em tin lành cũng sống một kiểu mới không được nuôi dưỡng bằng thái độ chống công giáo nữa, nhưng nhận biết nguồn cội và gốc rễ của mình trong cây Kitô giáo lịch sử, công giáo và tin lành, và đã học có các tương quan xây dựng hơn. Khi lấy Chúa Kitô nhập thể làm nền tảng, xây dựng trên Chúa, tụ tập chung quanh Ngài, lớn lên trong Ngài, trở về với Ngài, có tương quan thân tình với Ngài và noi gương Ngài, chúng ta sẽ ít gặp nguy cơ khinh rẻ phần đóng góp của các anh em khác, và không dập tắt Thần Khí hay gán điều đến từ Chúa cho các nguồn gốc khác… Chính sự hiệp nhất với Chúa Kitô khiến cho sự hiệp thông giữa con người với nhau trong Ngài có thể thành tựu. (SD 28-7-2014).


Linh Tiến Khải – Vatican Radio
 

SỨ ĐIỆP KẾT THÚC ĐẠI HỘI CỦA LIÊN HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC PHI CHÂU VÀ MADAGASCAR

SỨ ĐIỆP KẾT THÚC ĐẠI HỘI CỦA LIÊN HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC PHI CHÂU VÀ MADAGASCAR

LILONGWE: Trong sứ điệp kết thúc Hội nghị nhóm tại Lilongwe bên Malawi, các Giám Mục Phi châu và Madagascar mời gọi tìn hữu toàn đại lục cộng tác vào việc rao giảng Tin Mừng qua chứng tá và các phương tiện truyền thông xã hội, củng cố các giá trị gia đình, tích cực tham gia các sinh hoạt trong cộng đoàn.

Các Giám Mục Phi châu và Magadascar cũng bầy tỏ đau buồn vì các xung khắc tại Sudan, Nam Sudan và Somalia, cũng như tại nhiều vùng khác trên thế giới gây chết chóc, tàn phá, thương đau cho các dân tộc liên hệ. Các vị mời gọi các dân tộc các nước lâm chiến kiếm tìm hòa bình, hòa giải và cùng nhau chung xây đất nước. Ngoài ra, các Giám Mục cũng khích lệ tín hữu toàn đại lục tỏ tình liên đới với các nạn nhân của chiến tranh đang cần được trợ giúp.

Liên quan tới gia đình các Giám Mục Phi châu ghi nhận cuộc khủng hoảng trầm trọng phát xuất bởi nạn cá nhân chủ nghĩa, luân lý suy đồi, nghèo túng và thất nghiệp. Giáo Hội cần củng cố mục vụ gia đình, thăng tiến sự tôn trọng và bảo vệ sự sống. Sứ điệp của các Giám Mục cũng thỉnh cầu các chính quyến toàn đại lục Phi châu tôn trọng các quyền con người, trong đó có quyền tự do tôn giáo và tự do lương tâm. Các Giám Muc cũng mạnh mẽ lên án mọi hình thức bạo lực của các phong trào tôn giáo cuồng tín, và xin các vị lãnh đạo tôn giáo theo đuổi con đường đối thoại và tôn trọng nhau. Các Giám Mục đặc biệt tỏ tình liên đới với các nạn nhân tai nạn máy bay hàng hàng không Malaysia bên Ukraine, các nạn nhân chiến tranh bên Palestina và Syria hay bên Irak và Syria.

Hội nghị Liên Hội Đồng Giám Mục Phi châu và Madagascar lần thứ 18 đã diễn ra tại Lilongwe bên Malawi trong các ngày 16-26 tháng 7 năm 2014 về đề tài: ”Tái truyền giảng Tin Mừng qua sự hoán cải và chứng tá cho đức tin kitô”. Tham dự hội nghị đã có các Giám Mục đến từ các nước Eritrea, Etiopia, Malawi, Kenya, Tanzania, Sudan, Nam Sudan, Uganda Zambia và Somalia (SD 27-7-2014)

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

GIÁO HỘI PERÙ PHÁT ĐỘNG CHIẾN DỊCH CHỐNG ÍCH KỶ, THÁO THỨ TÍNH DỤC VÀ TƯƠNG ĐỐI HÓA LUÂN LÝ

GIÁO HỘI PERÙ PHÁT ĐỘNG CHIẾN DỊCH CHỐNG ÍCH KỶ, THÁO THỨ TÍNH DỤC VÀ TƯƠNG ĐỐI HÓA LUÂN LÝ

LIMA: Trong những ngày vừa qua Hội Đồng Giám Mục Perù đã phát động trong toàn nước chiến dịch chống lại chủ trương ích kỷ, tháo thứ tính dục và tương đối hóa luân lý.

Trong sứ điệp gửi tín hữu toàn nước Đức Cha Salvador Pigneiro, Chủ tịch Hội Đồng Giám Mục Perù, khẳng định rằng các tệ nạn này giảm thiếu căn tính công dân Perù, phá phá vỡ hình ảnh tự nhiên và kinh thánh của gia đình, là tế bào nòng cốt của xã hội và là hoa trái của hôn nhân giữa một người nam và một người nữ, và chúng cũng chống lại sự sống của những người vô tội không được bênh đỡ là các trẻ em còn trong lòng mẹ.

Các vị anh hùng vĩ đại của chúng ta không phải là những người chỉ anh hùng trong một lúc, nhưng anh hùng mỗi ngày bằng cách trung thành đáp trả lại lương tâm của mình, bênh vực các giá trị bất khả nhượng của con người, ủng hộ cơ cấu xã hội, bắt đầu là gia đình, là điều kiện cần thiết, nếu không xã hội sẽ giòn mỏng và nghèo nàn đi.

Nhắc tới nhiều thách đố mà chính quyền và đất nước Perù đang phải đương đầu hiện nay, Đức Cha Chủ tịch Hội Đồng Giám Mục Perù minh xác rằng dân nước Perù có thể thắng vượt được chúng nếu biết đoàn kết, tránh mọi kỳ thị, trân trọng các truyền thống lành mạnh, và cố dấn thân sống liêm chính, trong sáng, thăng tiến công lý và hòa bình. Sau cùng ngài cầu xin Chúa qua lời bầu cử của Đức Bà Mercede, các thánh Perù, thánh Rosa thành Lima và thánh Martino de Porres, chúc lành cho quốc gia và toàn dân Perù sống ở trong cũng như ngoài nước (ACI 27-7-2014)

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

THÁNH LỄ CẦU NGUYỆN CHO CÁC NẠN NHÂN TAI NẠN MÁY BAY TẠI MALI

THÁNH LỄ CẦU NGUYỆN CHO CÁC NẠN NHÂN TAI NẠN MÁY BAY TẠI MALI

OUAGADOUGOU: Ngày 27-7-2014 rất đông tín hữu đã tham dự thánh lễ cầu hồn cho các nạn nhân tai nạn máy bay bên Mali và gia đình họ, trong nhà thờ chính tòa Đức Mẹ Vộ Nhiễm Nguyên Tội tại Ouagadougou, thủ đô Burkina Faso.

Thánh lễ đã do Đức Cha Raphael Dabiré, Giám Mục Diébougou, là giáo phận gốc của một linh mục bị chết trong tai nạn máy bay, chủ sự. Chiếc máy bay thuộc hãng hàng không Algeria đã cất cánh rời phi trường Ouagadougoou lúc không giờ 45 phút để đi Alger, nhưng gần một giờ sau đó đã bị rơi bên Mali khiến cho 116 người thiệt mạng. Tham dự thánh lễ có nhiều Giám Mục và ông đại sử Pháp tại Burkina Faso. Chính Đức Hồng Y Philippe Ouedraogo, Tổng Giám Mục Ouagadougou đã muốn có thánh lễ cầu hồn này và kêu gọi mọi người cầu nguyện cho gia đình của các nạn nhân nữa. Giảng trong thánh lễ Đức Cha Dabiré đã nhắc tới gương mặt của ông Gióp, là người đã không tìm ra các câu trả lời cho các rủi ro và khổ đau khốn khó xảy ra cho ông, cũng như chúng ta trước các đau khổ không thể giải thích nổi. Chúng là phản ánh của Thiên Chúa mà chúng ta tưởng tượng ra, mà chúng ta ước mong mà quên rằng vì ”Thiên Chúa đã được mạc khải cho chúng ta là sự điên dại và gương mù gương xấu”. Đức Cha mời gọi mọi người sống thời điểm này trong đức tin và xin Chúa ơn khôn ngoan tín thác nơi Chúa (SD 28-7-2014)

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

ĐỨC HỒNG Y FRANCESCO MARCHISANO QUA ĐỜI

ĐỨC HỒNG Y FRANCESCO MARCHISANO QUA ĐỜI

Cardinal FRANCESCO MARCHISANO

VATICAN: Sáng ngày 27-7-2014 Đức Hồng Y Francesco Marchisano, nguyên Linh Mục trưởng đền thờ thánh Phêrô đã qua đời, thọ 85 tuổi.

Đức Hồng Y Marchisano đã được thăng Hồng Y ngày 21 tháng 10 năm 2003 và đã từng là Chủ tịch Hội Đồng Tòa Thánh đặc trách các Gia tài văn hóa của Giáo Hội và Hội Đồng Tòa Thánh Khảo cổ thánh. Ngài cũng từng là Tổng Giám quản Quốc gia thành Vaticăng, chủ tịch Xưởng thánh Phêrô và Chủ tịch Văn phòng lao động của Tòa Thánh.

Thánh lễ an táng Đức Hồng Y Marchisano sẽ diễn ra trong Đền Thờ thánh Phêrô sáng ngày 30-7-2014. Đức Thánh Cha Phanxicô sẽ chủ sự lễ nghi tiễn biệt. Với sự qua đi của Đức Hồng Y Marchisano Hồng Y Đoàn còn 212 vị, trong đó có 118 vị còn quyền bầu Giáo Hoàng (SD 27-7-2014)

Trong điện tín gửi Đức Cha Cesare Nosiglia, Tổng Giám Mục Torino, Đức Thánh Cha Phanxicô đã chia buồn với Đức Tổng Giám Mục, linh mục đoàn giáo phận và thân nhân bạn bè của Đức cố Hồng Y. Ngài thân ái nghĩ tới gương mặt của vị chủ chăn đã cộng tác rất nhiều với Tòa Thánh trong Bộ giáo dục và nhiều chức vụ khác nhau, với chứng tá quảng đại trung thành với ơn gọi linh mục và giám mục, và cuộc đời xả thân cho tín hữu, nhậy cảm với nghệ thuật và văn hóa. Đức Thánh Cha cầu xin Chúa đón nhận người tôi trung vào trong niềm vui và an bình vĩnh cửu và ban phép lành tòa thánh cho những ai đang khóc thương Đức Cố Hồng Y (SD 28-7-2014)

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

TÍN HỮU CÔNG GIÁO TẠI THÁNH ĐỊA ĐAU BUỒN VÌ TÌNH HÌNH CHIẾN SỰ

TÍN HỮU CÔNG GIÁO TẠI THÁNH ĐỊA ĐAU BUỒN VÌ TÌNH HÌNH CHIẾN SỰ

GIÊRUSALEM: Tín hữu công giáo tại Thánh Địa rất đau buồn vì tình hình chiến sự tại đây khiến cho bao nhiêu người của cả hai bên phải chết. Trong thánh lễ họ đã cầu nguyện cho mọi người đang phải đau khổ.

Linh Mục Gioele Salvaterra, cha sở giáo xứ Beer Sheva, nam Israel gần dải Gaza, đã cho biết như trên. Cha nói: Điều chúng tôi có thể làm là cầu nguyện để cho bạo lực chấm dứt và các binh sĩ trở về nhà bằng yên. Các vụ bỏ bom, pháo kích và oanh tạc trong hai tuần qua đã khiến cho hơn 800 người chết, 5,000 người bị thương và hơn 200,000 người Palestine phải bỏ nhà cửa ruộng vườn chạy trốn chiến tranh. Phía Isarael cũng đã có hàng chục người chết.

Tại Haifa tín hữu công giáo đã thực hiện một video với một bài hát xin hòa bình. Trong khi tại Beer Sheva là nơi bị pháo kích nhiều nhất tín hữu công giáo gốc Do thái đã cùng với dân chúng chia sẻ nỗi khổ đau của những người đã mất thân nhân. Nhiều gia đình là các kitô hữu A rập đến từ Galilea. Sau tuần đầu tiên của chiến cuộc phụ nữ và trẻ em đã bỏ về quê sinh, chỉ còn nam giới ở lại trong thành phố để làm việc.

Cha Gioele cho biết nói chung giới trẻ cần kể lại những gì các em sống với các xúc cảm, sự sợ hãi, hồi hộp phải chạy trốn bom đạn. Cả các trẻ em cũng cảm thấy sự kinh hoàng và khóc thét lên khi nghe tiếng còi báo động. Tại Beer Sheva cũng có các tín hữu gốc Ấn Độ và Philipines làm việc như những người coi giữ người già và các bệnh nhân. Từ nhiều ngày nay tín hữu tụ tập nhau cầu nguyện trong nhà tư, chứ không đến nhà thờ nữa. Họ cầu nguyện cho hòa bình và thiện ích của mọi người dân sống tại Thánh Địa, và mời gọi mọi người tin tưởng nơi hạt giống hòa bình, mà Đức Thánh Cha đã cùng các vị lãnh đạo của hai dân tộc Israel và Palestine đã gieo, đem lại hoa trái (SD 24-7-2014)

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

GIÁO HỘI TRUNG PHI KÊU GỌI TÌM GIẢI PHÁP CHO CUỘC XUNG ĐÔT TẠI ĐÂY

GIÁO HỘI TRUNG PHI KÊU GỌI TÌM GIẢI PHÁP CHO CUỘC XUNG ĐÔT TẠI ĐÂY

BANGUI: Đức Cha Dieudonné Nzapalainga, Tổng Giám Mục Bangui, thủ đô Trung Phi, khẩn thiết kêu gọi tìm các giải pháp cho cuộc xung đột đã kéo dài hơn một năm qua tại Cộng hoa Trung phi.

Đức Cha Nzapalainga đã đưa ra lời kêu gọi trên đây trong cuộc phỏng vấn dành cho nguyệt san Phi châu. Từ hơn một năm qua cuộc nội chiến đẫm máu đã khiến cho gần 2000 người thiệt mạng, và hàng chục ngàn ngưởi phải tản cư tỵ nạn. Hai phe lâm chiến là các phiến quân Seleka và các binh sĩ trung thành với tổng thống Bozizé bị truất phế hồi tháng 3 năm 2013. Đức Cha tự hỏi: ”Cho tới bao giờ người ta cho phép những người có vũ trang tiếp tục tàn sát những người dân vô tội khát khao hòa bình? Nhắc tới vụ 17 người tỵ nạn ẩn trú trong nhà thờ chính tòa thánh Giuse ở Bambari bị giết chết, Đức Cha nói: ”Ai ở trong nhà thờ là ở dưới sự bảo trợ của Thiên Chúa, phải để cho họ yên”. Đức Cha gọi những người sát hại dân lành là những kẻ ”không đức tin, vô luật lệ, không tôn trọng cái gì hết”. Ngài cực lực lên án các tội phạm ấy của những kẻ có vũ trang. Đã đến lúc cộng đồng quốc tế nghiêm chỉnh dấn thân trong việc trợ giúp Trung Phi tái lập hòa bình và an ninh.

Liên quan tới Diễn đàn quốc tế kết thúc ngày 23-7-2014 tại Brazzaville Đức Cha nói: ”Tôi đau lòng thấy rằng người ta phải luôn luôn ra nước ngoài để thảo luận về các vấn đề nội bộ. Vì điều này có nghĩa là trong nước thiếu đối thoại chính trị”. Dầu sao đi nữa Đức Cha cũng cầu mong Diễn đàn đã cống hiến cơ may cho người Trung Phi nói lên sự thật với nhau để thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng một lần cho luôn mãi, bởi vì cầm vũ khí giết nhau để chiếm quyền không ích lợi gì hết. Điều quan trọng là biết đối thoại trên bình diện chính trị, xã hội để góp phần xây dựng đất nước” (SD 24-7-2014).

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG NAM HÀN ĐÚC ĐỒNG BẠC KỶ NIỆM CHUYẾN VIẾNG THĂM CỦA ĐỨC THÁNH CHA PHANXICÔ

NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG NAM HÀN ĐÚC ĐỒNG BẠC KỶ NIỆM CHUYẾN VIẾNG THĂM CỦA ĐỨC THÁNH CHA PHANXICÔ

SEOUL: Ngân hàng trung ương Nam Hàn cho đúc hai đồng bạc kỷ niệm chuyến viếng thăm mục vụ của Đức Thánh Cha Phanxicô trong các ngày 13-18 tháng 8 tới đây.

Trong thông cáo công bố ngày 24-7-2014 ngân hàng trung ương Nam Hàn cho biết sẽ đúc 90,000 đồng bạc gồm hai loại: 30,000 bằng bạc và 60,000 bằng đồng. Giá mỗi đồng bằng bạc là 50,000 won, tức 48 mỹ kim, có hình chim bồ câu ngậm cành ô liu, cùng một vòng tròn thánh giá làm thành ”taegeuk” biểu tượng như trên quốc kỳ của Nam Hàn. Đồng bằng đồng ottone giá 10,000 won, tức 10 mỹ kim, có một thánh giá hình hoa huệ, chim bồ câu và hoa hồng Sharon, biểu tượng cho Nam Hàn. 81.000 đẽ được bán cho công chúng, trong khi 9,000 sẽ được bán cho các nhà sưu tâm nước ngoài (SD 24-7-2014).

Linh Tiến Khải – Vatican Radio