Các chứng nhân can đảm bảo vệ phẩm giá và quyền của người tỵ nạn tại Mexico

Các chứng nhân can đảm bảo vệ phẩm giá và quyền của người tỵ nạn tại Mexico

Từ nhiều thập niên qua Mexico là trạm dừng chân của dân nghèo các nước châu Mỹ Latinh tìm đường qua Hoa Kỳ. Số người này là cả một đạo binh ngày càng gia tăng, mà không ai biết chính xác là bao nhiêu, vì đã không bao giờ có các thống kê chính thức. Và người ta cũng chẳng bao giờ nghĩ đến chuyện làm thống kê. Rất thường khi những con người khốn khổ này không biết và không ý thức được các hiểm nguy luôn rình chờ họ trên con đường tìm thoát cảnh bần cùng đi tìm một chân trời sống tốt đẹp hơn.

Dọc con đường đi tìm cuộc sống mới này có các băng đảng tội phạm, buôn bán ma túy, buôn người, buôn cơ phận người, khai thác tình dục, buôn bán mại dân và khai thác lao động. Trên con đường đi tìm đất hứa Hoa Kỳ hàng ngàn người dân các nước Châu Mỹ La tinh, nam giới, phụ nữ, người trẻ và trẻ em đã trở thành nạn nhân của các tổ chức tội phạm này. Chúng bắt cóc để đòi tiền chuộc, hay đòi các số tiển khổng lồ để đưa họ từ đất nước quê hương họ sang Hoa Kỳ. Hàng năm số tiền làm ăn được trên mạng sống và da thịt của những người di cư này lên tới 50 triệu mỹ kim. Mọi thành phần tham dự đều kiếm chác được ít nhiều từ đám di cư béo bở đó, kể cả các giới chức chính quyền Mêhicô đồng lõa với các tổ chức tội phạm. Và con số các nạn nhân bị chết hay mất tích lên tới hàng ngàn hay hàng chục ngàn, không ai biết rõ được, và cũng không thể cung cấp con số chính xác.

Tuy nhiên, bên cạnh các anh chị em khốn khổ này cũng có những người can đảm đương đầu với các đe dọa, kể cả cái chết, để bênh vực phẩm giá cũng như các quyền lợi của họ và trợ giúp họ. Cách thức thông thường nhất là các nhà trọ và trung tâm tiếp đón. Các anh chị em này cũng biết các nguy hiểm chờ đón mình, nhưng không có gì có thể ngăn cản họ trợ giúp tha nhân.

Ngày mùng 1-4-2014, noi gương Đức Thánh Cha Phanxicô viếng thăm người tị nan tại đảo Lampedusa, các Giám Mục Hoa Kỳ đã hành hương tới Nogales trong bang Arizona giáp giới với Mexico, để dâng thánh lễ tưởng niệm tất cả các nạn nhân di cư bị chết từ năm 1998 đến nay, và để nhấn mạnh sự cần thiết cải tổ hệ thống di cư tại Hoa Kỳ.

Nogales là vùng bị cắt làm hai bởi bức tường biên giới giữa Hoa Kỳ và Mêhicô. Một phần của vùng này nằm bên Arizona, phần kia nằm trong vùng Sonora của Mêhicô. Chính từ đây mỗi ngày có hàng chục người Mêhicô tìm cách lén lút sang Hoa Kỳ. Thánh lễ nhằm tưởng niệm hơn 6,000 người di cư Honduras, El Salvador, Guatemala và Mêhicô đã chết trong sa mạc vì muốn vượt biên qua Hoa Kỳ để trốn chạy cuộc sống nghèo khó và bạo lực trên quê hương họ. Các Giám Mục Hoa Kỳ đã mạnh mẽ tố cáo sự thờ ơ đối với tệ nạn này. Các vị khẳng định rằng không biết tới nỗi khổ đau và các người di cư bị chết là một sự xấu hổ cho cả nước.

Buổi lễ tưởng niệm này nhắm mục đích lôi kéo sự chú ý của mọi người đối với các hậu qủa nhân bản của một hệ thống di cư suy sụp như hệ thống hiện nay của Hoa Kỳ, cũng như nhấn mạnh sự kiện cần phải thông qua dự luật cải tổ về di cư của tổng thống Obama, cho phép hợp thức hóa khoảng 11 triệu người di cư bất hợp pháp hiện đang sống trên đất Hoa Kỳ. Luật này vẫn bị ngăn chặn bởi phe chống đối thuộc đảng Cộng hòa trong Quốc hội, và Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ đã hơn một lần bầy tỏ lập trường.

Làn sóng di cư vẫn tiếp tục, vì các anh chị em đến từ Châu Mỹ Latinh trốn chạy các tình trạng bạo lực tột độ, và đối với họ các bạo lực mà họ gặp phải tại Mêhicô cũng như các nguy hiểm tìm thấy trong việc vượt qua bức tường biên giới không là gì cả. Họ không có lý do nào để trở lại đàng sau. Trong rất nhiều trường hợp, bên cạnh tình trạng bạo lực là cảnh nghèo nàn tuyệt đối, nhất là đối với những người đến từ Honduras, là nước có một tình trạng kinh tế ngày càng tồi tệ đặc biệt sau vụ đảo chánh.

Tại Nogales cũng như tại nhiều nơi khác mỗi ngày người ta đều tìm thấy tử thi của các người di cư, và càng ngày càng có nhiều trẻ em vị thành niên. Con số các trẻ em vị thành niên di cư không có người lớn đi kèm cũng ngày càng gia tăng trong vùng biên giới. Con số này đang gia tăng tại miền bắc Mêhicô và các em đến từ các nước Trung Mỹ Latinh. Nghiêm trọng hơn nữa là sự kiện các em đến một mình không có các tay buôn người dẫn dắt. Các em đi từng nhóm ba bốn em và mới chỉ có 9-10 tuổi cho tới 16-17 tuổi. Và đương nhiên là trên đường đi các em tìm thấy các hiểm nguy y như các hiểm nguy của người lớn vậy, nghĩa là bị bắt cóc, bị tra tấn, đối với các bé gái thì có nguy cơ bị lọt vào trong mạng lưới khai thác tình dục. Thế rồi còn các có trẻ em bị bắt ở lại trong các trại được thành lập cho mục đích này, trong khi cha mẹ các em bị gửi trả về nước. Và thế là các em bị tách rời khỏi gia đình, và gia đình các em không biết các em ở đâu và những gì xảy ra cho các em.

Bà Valentina Valfrè, thuộc tổ chức phi chính quyền ”Soleterre”, là tổ chức đi tiên phong trong việc bênh vực các quyền của người di cư bên Mêhicô cho biết, hằng năm có 400,000 người thuộc nhiều nước châu Mỹ Latinh vượt biên giới Mêhicô để sang Hoa Kỳ. Thêm vào đó là hàng chục ngàn người Mêhicô đi tìm một cuộc sống tốt đẹp hơn bên Mỹ. Có nhiều yếu tố khiến cho các chuyên viên lo ngại cho an ninh của họ: trước hết là hoạt động của các tổ chức tội phạm. Càng ngày chúng càng bắt cóc người di cư một cách chớp nhoáng, trong một ngày hoặc nhiều ngày, có khi là từ 50 tới 70 người.

Trong các lần bị bắt cóc như thế, họ phải chịu mọi vi phạm: các phụ nữ bị hãm hiếp, nam giới bị tra tấn và chúng tìm cách làm tiền, bằng cách bắt buộc họ gọi điện thoại cho thân nhân gửi tiền chuộc để được trả tự do. Điều tệ hại nhất là có sự đồng lõa của chính quyền địa phương, bắt đầu từ chính những nhân viên của văn phòng di cư, cho tới các cảnh sát và các binh sĩ có trách nhiệm trong các vụ bắt cóc, vì họ đồng ý và ăn chia với các tổ chức tội phạm. Các nhân viên này báo cho các nhóm tội phạm biết sự hiện diện của người di cư để chúng có thể bắt cóc họ.

Trong số những người liều mình bênh vực và trợ giúp người di cư có tu huynh Tomàs Gonzàles Castillo, dòng Phanxicô. Thầy hoạt động trong vùng Tenosique gần biến giới Guatemala và được gọi là ”Thầy Bão tố”. Đây là một trong những vùng nguy hiểm nhất và là trạm dừng chân đầu tiên tại Mêhicô đối với các anh chị em thuộc các nước nam và trung châu Mỹ Latinh hướng tới Hoa Kỳ. Đây là một lộ trình do tổ chức ”Zetas” kiểm soát. Từ nhiều năm nay thầy Tomàs đã mạnh mẽ tố cáo các vụ bắt cóc, tống tiền, buôn người và đã bị dọa giết nhiếu lần, nhưng thầy vẫn tiếp tục trợ giúp các anh chị em di cư.

Thầy cho biết con số người di cư không giảm bớt, trái lại còn gia tăng trong toàn vùng. Hiện nay có nhiều người tới từ các nước vùng Trung châu Mỹ Latinh như Honduras và El Salvador. Họ xin tỵ nạn bên Mexico, vì tình hình bạo lực rất mạnh trên quê hương của họ. Có các trẻ em trai gái và người trẻ ra đi một mình, và con số trẻ vị thành niên gia tăng rất nhiều. Có cả các phụ nữ nữa. Và đương nhiên họ là các nạn nhân dễ bị thương tích nhất của bạo lực tại Mêhicô. Một phu nữ có thể bị hãm hiếp nhiều lần trong suốt lộ trình di cư. Nếu là trẻ em vị thành niên nhất là bé gái, thì có thể trở thành nạn nhân của nạn buôn người và bị bắt làm việc, hay trở thành nô lệ tình dục hay bị khai thác cho bất cứ công việc nào khác.

Nữ tu Leticia Gutierrez, dòng Scalabrini, cũng đã trở thành điểm tham chiếu cho các người di cư và là người bênh vực các quyền của họ. Chị đã dấn thân xây được 66 nơi trú ẩn mới cho họ. Mỗi cố gắng của chị đều nhằm tạo ra và củng cố một mạng lưới của những người bênh vực các quyền con người, của người di cư bên Mêhicô. Theo chị có giải pháp cho vấn đề này. Trước hết các chính quyền phải đương đầu với vấn đề của người di cư trong cách thế khác nhau. Nếu có một sự di chuyển hàng hóa tự do trong thương mại, thì cũng có một sự di chuyển tự do đối với con người. Điều này có thể được vì các người di cư phải bỏ quê hương do nghèo đói, bần cùng và ít cơ may phát triển đối với tương lai. Các chính quyền phải lo lắng cho vấn đề di cư một cách khác nhau. Không thể tiếp tục giết người di cư được và mang trên vai gánh nặng lương tâm liên quan tới cái chết của họ ngày càng nhiều hơn. Mỗi ngày đều có người chết vì chính sách hạn chế nhận người di cư.

Hiện nay có sự đàn áp trong các đường lối chính trị liên quan tới di cư trên bình diện toàn cầu. Chúng ta trông thấy điều này bên Âu châu, tại Hoa Kỳ. Chẳng hạn có hai điều kiện của việc cải tổ di cư bên Hoa Kỳ: thứ nhất là nới rộng bừc tường an ninh do chính phủ Hoa Kỳ xây dọc biên giới giữa Mêhicô và Hoa Kỳ; thứ hai gia tăng hàng ngàn cảnh sát biên phòng. Nhưng đây là một sự thụt lùi. Cần có một giải pháp toàn diện rõ ràng. Chị Leticia cho biết đã bị các tổ chức tội phạm đe dọa giết nhiều lần, giống như thầy Tomàs. Những người bảo vệ quyền của các anh chị em di cư không phải là các anh hùng hay siêu nhân, mà chỉ là người bình thường thực tế đã quyết định hiến dâng đời mình cho việc bênh vực những nạn nhân yếu đuối cần được trợ giúp, vì trông thấy nơi họ Chúa Giêsu đau khổ và để không phản bội nhân loại. Do đó họ tiến tới và muốn hiến mạng sống cho các anh chị em di cư. Chị nói: dĩ nhiên đó là việc khó khăn và chúng tôi cũng sợ hãi, vì là người. Có mệt nhọc, khóc than, nước mắt và máu, nhưng chúng tôi phải tiến tới vì Chúa Kitô và vì tình bác ái. Chúng tôi tiến tới vì muốn sự công bằng. Chúng tôi muốn truy nã những kẻ đang gây ra thiệt hại trong chính quyền và những kẻ cho phép các bất công và khổ đau này xảy ra.

Khi nhìn thấy người khác bị ám sát chúng tôi không để bạn khoanh tay làm ngơ. Tất cả nhừng người dấn thân bênh vực và che chở các người di cư hành động vì đức tin và tình huynh đệ. Chúng tôi không thể để cho các anh chị em di cư bị giết và để cho mình bị bịt miệng. Chúng tôi không thể tiếp tục chịu đựng họ giết nhân loại nơi các anh chị em di cư này.

(RG 23-3-2014)

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Phỏng vấn ông Marco Roncalli, chắt của Đức Gioan XXIII

Phỏng vấn ông Marco Roncalli, chắt của Đức Gioan XXIII

Chúa Nhật 27-4-2014, Đức Thánh Cha Phanxicô sẽ chủ sự thánh lễ tôn phong Hiển Thánh cho Đức Gioan XXIII và Đức Gioan Phaolô II. Giữa những người tham dự có bà con thân nhân của Đức Gioan XXIII, trong đó có ông Marco Roncalli, chắt của thánh Giáo Hoàng.

Sau đây chúng tôi xin gửi đến qúy vị và các bạn bài phỏng vấn ông. Marco Roncalli là nhà báo kiêm văn sĩ và là tác giả cuốn sách tựa đề ”Thánh Giáo Hoàng Gioan XXIII”, liên quan tới cuộc sống và tương quan của Đức Gioan XXIII với châu Mỹ Latinh.

Hỏi: Thưa ông Marco, đâu là nét nổi bật trong gương mặt của Đức Gioan XXIII, ”Vị Giáo Hoàng tốt lành”?

Đáp: Trước hết là sợi chỉ dẫn đường xuyên suốt lộ trình cuộc sống nhân bản và tinh thần của Đức Roncalli, là ngưỡng vọng liên tục sự thánh thiện mà chúng tôi đã chứng minh với các tài liệu. Có thể nói rằng nó lộ hiện từ năm này sang năm khác, tháng này qua tháng khác, mùa này sang mùa khác trong một bức thư, một trang nhật ký, một văn bản hay một ghi chú…

Nhưng chúng tôi cũng tìm ra ý thức rằng sự thánh thiện giả thiết thái độ ngoan ngoãn đối với Chúa Thánh Thần, để cho Thiên Chúa uốn nắn. Thế rồi chắc chắn là nó đã được tóm tắt trong các đề nghị thiên thần tỏa thoát ra từ cuốn ”Nhật ký tâm hồn” của ngài. Trong đó đã có dấu ấn đầu tiên là khẩu hiệu ngài chọn khi làm Giám Mục: đó là ”Obedientia et Pax Vâng lời và hòa bình”. Tôi tin rằng chính tại đây cần nhấn mạnh rằng đoạn này đã là tột đỉnh ý nghĩa toàn vẹn của cuộc tôn phong hiển thánh này: đó là sự gắn bó hoàn toàn với Tin Mừng, ý muốn sống trong sự thánh thiện, tìm kiếm nó như mục đích có thể đạt được, mà không coi nó là điều qúa xa vời. Phó thác cho ý muốn của Thiên Chúa cũng có nghĩa là rồi Thiên Chúa cho phép đạt các mục tiêu ấy, mà tự chúng trong quan niệm của Đức Roncalli, không phải là điều gì siêu phàm, nhưng ở tầm tay của tất cả mọi người, khi một người dấn thân hoàn toàn, nhưng cũng để cho Thiên Chúa uốn nắn.

Hỏi: Đức Thánh Cha Phanxicô đã muốn tôn phong hiển thánh cho Đức Roncalli và Đức Wojtila cùng một trật. Đây có phải là một sự lựa chọn chính xác không?

Đáp: Đây là điều đã xảy ra với chính Đức Gioan Phaolô II hồi năm 2.000. Ngài đã tôn phong Chân phước Đức Pio IX và Đức Gioan XXIII cùng một lần. Lần này Đức Thánh Cha Phanxicô tôn phong hiển thánh Đức Gioan XXIII và Đức Gioan Phaolô II. Có vài nhà bình luận lịch sử nói tới một loại cân bằng. Nhưng mà cân bằng trong nghĩa nào? Ý niệm về sự thánh thiện cũng có thể tới với chúng ta qua các nhậy cảm rất khác nhau. Bởi vì thật là vô ích chối cãi rằng hai vị Giáo Hoàng có hai kiểu sống, hai nhậy cảm và có lẽ cả hai cung cách sống sự thánh thiện khác nhau. Nơi Đức Gioan Phaolô II chiều kích thần bí xem ra được nhấn nạnh hơn, có lẽ được vun trồng trong tương quan của ngài với Thiên Chúa. Nơi Đức Roncalli có lẽ hiển nhiên hơn sự chồng lên nhau giữa chiều kích riêng tư và chiều kích công cộng. Dầu sao đi nữa trong cả hai trường hợp chắc chắn có cùng sự trung thành với Tin Mừng.

Hỏi: Ngay trong các ngày đầu tiên triều đại của Đức Gioan XXIII đã có các dấu chỉ khác nhau của sự mới mẻ, khiến cho nhiều quan sát viên kinh ngạc, có đúng thế không, thưa ông?

Đáp: Vâng, đã có các dấu chỉ rất mạnh mẽ: chẳng hạn như từ sự bình thường hóa giáo triều cho tới việc nới rộng con số các Hồng Y với Công Nghị tấn phong Hồng Y mới, là điều đã không được làm từ lâu. Và cả điều này nữa cũng lập tức trao ban một dấu chỉ mới rất mạnh, từ gương mặt của Đức Giovanni Battista Montini. Nhưng rồi tôi nghĩ tới các hình ảnh rất mạnh mẽ in sâu trong tâm trí của những người đã trông thấy chúng hồi đó, hay của những người đọc lại chúng ngày nay. Chẳng hạn như sự kiện Đức Gioan XXIII đến thăm các trẻ em trong nhà thương nhi đồng Chúa Hài Đồng Giêsu và các bệnh nhân trong các nhà thương ở Roma. Tôi nghĩ tới cuộc viếng thăm các tù nhân nhà tù Regina Coeli ngày lễ thánh Stefano, cũng như buổi lễ nhận nhà thờ chính tòa Gioan Laterano. Đức Gioan XXIII đã trở lại đây vào cuối tháng 11 năm 1958, khi ngài đến thăm đại chủng viện nơi ngài đã theo học.

Những gì ngài nói buông với các trẻ em giúp lễ cũng rất hay. Ngài không chỉ nhắc tới các năm đào tạo mà cũng nhắc tới các chủng sinh, và nói rằng ngài bối rối khi nghe người ta gọi ngài là ”Đức Thánh Cha”. Rồi ngài kết luận: ”Các con hãy cầu xin Chúa cho cha để Người ban cho cha ơn thánh thiện mà người ta gán cho cha. Bởi vì nói tới hay tin vào sự thánh thiện là một chuyện, còn có sống thánh không lại là chuyện khác”.

Hỏi: Thưa ông Marco, chúng ta cũng nhớ là ngày 25 tháng giêng năm 1959 khi Đức Gioan XXIII loan báo tại đền thờ thánh Phaolô ngoại thành rằng ngài muốn triệu tập Công Đồng Chung, chúng ta đang ở trong một thời đại lịch sử, trong đó các thần học gia tin rằng thời đại của Công Đồng phải được coi như là khép lại hoàn toàn, có đúng thế không?

Đáp: Vâng, đúng vậy. Bề ngoài cùng với ý nghĩ đó còn có định nghĩa về sự không thể sai lầm của Giáo Hoàng nữa. Có cần phải khiến cho 2.800 nghị phụ khắp nơi trên thế giới quy tụ về Roma không? Trái lại, đây chính là sức mạnh và lòng can đảm của Đức Gioan XXIII, khi đưa ra quyết định ngoại thường có tính cách cá nhân này, bởi vì ngài đã hỏi ý kiến của một vài cộng sự viên lập tức, chứ không đưa ra chương trình nghiên cứu dự án Công Đồng cách sâu rộng như bao Giáo Hoàng trước ngài đã làm. Ngài cũng đã cảm thấy được linh hứng và được củng cố bởi Đức Hồng Y Tardini và những vị khác. Việc Ngài loan báo triệu tập Công Đồng gây kinh ngạc và khiến cho nhiều Hồng Y câm nín khi nghe loan báo ngày 25 tháng Giêng năm 1959. Rồi từ đó trở đi, như qúy vị đã rõ, đó là con đường chuẩn bị, dài hơn thời gian họp Công Đồng, với các thời điểm quan trọng, với các sứ điệp qua đài phát thanh, qua đó Đức Gioan XXIII thực sự mời gọi toàn thể Giáo Hội suy tư về chính mình và trách nhiệm của mình đối với con người, và có thái độ sống mới. Chỉ cần nhớ tới vài câu của bài diễn văn nổi tiếng ”Gaudet Mater Ecclesia”, khi Công Đồng khai mở sau thời gian chuẩn bị. Tôi chỉ xin trích một câu thôi, điều này nhấn mạnh rằng Giáo Hội ưa thích dùng phương thuốc của lòng thương xót, là một từ khác nữa trong các từ rất thường được dùng trở lại trong các ngày đó.

Hỏi: Liên quan tới châu Mỹ Latinh đâu đã là âu lo đầu tiên của Đức Gioan XXIII đối với vai trò của Giáo Hội tại châu Mỹ Latinh?

Đáp: Âu lo của ngài cũng là những âu lo đối với các vùng khác của đại lục này: đó là nền hòa bình, hạnh phúc tinh thần và vật chất. Đương nhiên là trong ý thức Châu Mỹ Latinh là một vùng đất có nhiều nguy cơ vì chính sách cai trị của các chính quyền địa phương, và cũng vì sợ rằng với Cuba các nước này có thể chịu cùng số phận như thế. Tuy nhiên, cũng nên nhớ rằng Đức Cha Antonio Samorè, hồi đó là Thư ký phân bộ ngoại vụ Phủ Quốc Vụ Khanh, đã tham dự nhiều phiên họp của các đại diện các Hội Đồng Giám Mục Bắc và Nam Mỹ, và đã nghĩ ra các hình thức cộng tác mới trong công tác tông đồ. Và không phải là bí mật gì việc đôi khi ngài đã phải vất vả ”dung hòa” lập trường chiến thuật liên quan tới Châu Mỹ Latinh đối với các vị khác của Phủ Quốc Vụ KHanh Tòa Thánh. Và công việc phải làm bên Châu Mỹ Latinh thì bao la: ngày 24 tháng Giêng Đức Gioan XXIII viết trong nhật ký: ”Buổi tiếp kiến Đức Cha Samorè sáng nay đã cảm hóa và đưa tôi vào trong công việc rộng rãi đối với Châu Mỹ Latinh mà Phủ Quốc Vụ Khanh chú ý”. Ngày 13 tháng 8 năm 1962 Đức Thánh Cha Gioan XXIII cũng còn ghi: ”Đã tiếp: Đức Hồng Y Giám Quản xác nhận với tôi sự hài lòng của người đối với dự án tòa giám quản Laterrano. Đức Cha Samorè là người thường có cái nhìn về các điều kiện chính trị tôn giáo trong các nước khác trên thế giới, cách riêng Châu Mỹ Latinh. Đức Cha Luigi Centoz, Sứ Thần Tòa Thánh tại Cuba, đã rất là hay, giờ đây được nâng lên hàng Phó nhiếp chính của Giáo Hội công giáo Roma, khi trống ngôi Giáo Hoàng. Tôi đã cám ơn người rất nhiều về công việc phục vụ quý báu tại Cuba, nơi người đã vượt quá mọi chờ mong”.

Hỏi: Thưa ông, vào năm 1960 Đức Gioan XXIII đã gửi một sứ điệp lịch sử đọc bằng tiếng Bồ Đào Nha cho Brasil nhân dịp lễ khánh thành thủ đô Brasilia. Đức Gioan XXIII đã học ngôn ngữ của ông Camões là nhà thơ lớn nhất người Bồ Đào Nha, và ngài đã có các chú ý đặc biệt nào đối với Brasil?

Đáp: Brasil quốc gia mênh mông có thủ đô đã được Đức Gioan XXIII chào mừng. Nhưng trước đó ngày mùng 5 tháng Giêng năm 1959 vài nhà ngoại giao Brasil đã được ngài tiếp kiến. Ghi chú đầu tiên liên quan tới Brasil là ngày 21 tháng 7 năm 1959, khi Đức Gioan XXIII tiếp thủ tướng Nhật Nobosuke Kishi và ngài đã viết: ”Nhật Bản là quốc gia lớn đối với các lợi lộc của Nước Chúa Kitô: siêu dân số gây ấn tượng và di cư không lay chuyển. Brasil hầu như là quốc gia mênh mông duy nhất có khả năng nhận điều mà Nhật Bản không thể chứa đựng”… Rồi ngày 31 tháng 7 năm 1959 Đức Gioan XXIII tiếp Bộ trưởng Hải quân Brasil, Đô đốc Jorge Do Passo Mattoso Maia, phu nhân và đoàn tùy tùng. Ngày 7 tháng 9 Đức Cha Armando Lombardi Sứ Thần Tòa Thánh tại Brasil được Đức Gioan XXIII tiếp kiến. Ngày mùng 2 tháng Giêng năm 1960 đại sứ các nước Bolivia, Haiti, Venezuela cùng đại sứ Brasil đến gặp Đức Gioan XXIII, Và Đức Thánh Cha ghi trong nhật ký: ”Đại sứ Bolivia xin một Hồng Y cho nước mình”. Đây là điều sẽ được thực hiện dưới thời Đức Phaolô VI.

Ngài cũng dành mấy hàng cho Brasil trong nhật ký ngày 21 tháng 4 năm 1960: ”Hôm nay lễ Giáng Sinh tại Roma và là ngày khánh thành thủ đô Brasilia, thủ đô thứ ba của quốc gia mênh mông này, nơi có hơn 60 triệu tín hữu công giáo. Tối vừa qua tôi đã gửi một sứ điệp chúc mừng và phép lành bằng tiếng Bồ Đào Nha. Đại sứ Ribeiro Briggs Moacyr, trưa hôm nay sẽ đến đọc cho tôi nghe một sứ điệp đặc biệt của tổng thống, bầy tỏ lòng kính trọng Giáo Hoàng và Giáo Hội công giáo nhân danh quốc gia này. Tôi đã mời ông đại sứ cùng tôi đọc kinh Truyền Tin trong sự hiệp thông và cầu phúc lành của trời cao cho toàn nước Brasil”. Còn có một ghi chú khác ngày 1 tháng 8 năm 1960: ”Ôi, bầu trời tại một vài phần trên thế giới đen tối chừng nào! Và có biết bao bất an cho Hội Thánh! Chủ thuyết cộng sản tiếp tục sự len lỏi tai hại của nó: từ Brasil có các tin tức đớn đau liên quan tới vài Giám Mục hoạt động cho sự ly giáo”. Đó là vụ Đức Cha Carlos Duarte Costa, Giám Mục giáo phận Botacatù, bị vạ tuyệt thông năm 1964 vì đã thành lập ”Giáo Hội công giáo tông truyền Brasil”, bằng cách truyền chức bất hợp pháp 15 Giám Mục và một số linh mục. Mục sư tin lành Salomon Ferraz cũng đi theo và được phong Giám Mục, nhưng sau này sẽ thành lập một giáo phái riêng rẽ. Nhưng cuộc ly giáo thứ hai này được giải quyết êm thắm, khi Đức Cha Ferraz trở về với Giáo Hội công giáo tháng 12 năm 1959 và chức giám mục được thừa nhận. Tiếp theo đó nhật ký của Đức Gioan XXIII nhắc tới các cuộc gặp gỡ với các Giám Mục và giới chức ngoại giao đến từ Brasil.

(SD 18-4-2014; RG 21-4-2014)

Linh Tiến Khải – Vatican Radio
 

LỄ PHỤC SINH TẠI GIÊRUSALEM: LỜI MỜI GỌI VUI LÊN

LỄ PHỤC SINH TẠI GIÊRUSALEM: LỜI MỜI GỌI VUI LÊN

GIÊRUSALEM: Lễ Phục Sinh tại Giêrusalem đã do Đức Thượng Phụ Latinh Fouad Twal cử hành lúc 6 giờ 30 sáng thứ bẩy vừa qua tại vương cung thánh đường Phục Sinh ở Giêrusalem. Năm nay ngày lễ trùng với lễ Phục Sinh của Giáo Hội chính thống.

Linh mục Frédéric Manns, giáo sư Thánh Kinh tại Học viện kinh thánh Phanxicô ở Giêrusalem, cho biết khi vừa vào vương cung thánh đường, người ta đã ngửi thấy mùi dầu thơm xức trên phiến đá liệm xác Chúa Giêsu. Nó nhắc nhớ ơn gọi của kitô hữu là đem theo mình mùi thơm của Chúa Kitô. Chúng ta gọi là nhà thờ Thánh Mộ, nhưng anh em kitô hy lạp đông phương gọi là nhà thờ Chúa Sống Lại. Từ Mồ Chúa nảy sinh ra ánh sáng và từ đó vị Giám Mục công bố Tin Mừng của Chúa, chỗi dậy từ sự chết. Rồi Giáo Hội suy niệm tất cả các việc kỳ diệu của Chúa bằng cách đọc lại Thánh Kinh, với bẩy bài đọc. Tiếp đến các thành phần được tái sinh được mời gọi tiến tới Bàn Tiệc Thánh của Chúa. Chúa phục sinh trao ban sự sống và ơn Thánh Thần. Chúng ta đã hiện thực mầu nhiệm này trong việc cử hành bí tích Thánh Thể. Và như thế chúng ta có tất cả ba yếu tố của giáo lý kitô: Chúa Kitô đã chết cho chúng ta; Chúa Kitô sống lại cho ơn công chính hóa của chúng ta; Chúa Kitô tha các tội lỗi chúng ta trong bí tích Rửa Rội.

Điều đẹp nhất trong phụng vụ cử hành tại Giêrusalem đó là từ Mộ Thánh nảy sinh ra ánh sáng mới. Theo truyền thống có từ thời bà Eugenia hành hương Thánh Địa hồi thế kỷ thứ IV, chính Đức Giám Mục chứ không phải Phó tế, công bố Tin Mừng của Chúa trước nhà nguyện Sống Lại. Biểu tượng ánh sáng rất quan trọng: nó nhắc nhớ chúng ta rằng Thiên Chúa đã dựng nên ánh sáng, con người được mặc lấy ánh sáng và chúng ta tất cả phải là con cái sự sáng.

Sứ điệp được trình bầy rõ ràng trong bài Thánh Thi ”Exultet Hãy vui lên” ôn lại các chặng chính của lịch sử cứu độ. Sứ điệp nền tảng là các phụ nữ đã nhận được sứ điệp đem tin vui phục sinh cho các Tông Đồ. Truyền thống giáo phụ gọi họ là các ”nữ tông đồ của các Tông Đồ”. Như thế ơn gọi của các phụ nữ là những người mang hương thơm của Chúa Kitô. Sứ điệp của Tin Mừng: đó là Chúa sẽ đi trước đến Galilea, là vùng đất của dân ngoại, vùng đất của thế giới tục hóa, nơi chúng ta sống và nhận sứ điệp sự sống mạnh hơn cái chết. Tại Giêrusalem cũng như trong toàn vùng Trung Đông còn có biết bao nhiêu khổ đau, nhưng dưới ánh sáng của lễ Phục Sinh các đau khổ đó của con người được biến đổi. Sứ điệp phục sinh: đó là Thiên Chúa tạo dựng một trời mới, một đất mới và một con người mới (RG 19-4-2014)

Linh Tiến Khải – Vatican Radio