Đừng thủ đoạn cũng đừng giả hình

Đừng thủ đoạn cũng đừng giả hình

Nguyện xin Chúa ban cho chúng ta ơn để nhận ra sự thật trong nội tâm mình. Đức Thánh Cha đã dâng lời cầu nguyện ấy trong thánh lễ sáng nay tại nhà nguyện Marta.

Tha thứ là ơn nhưng không

Bài đọc trích thư của thánh Phaolô tông đồ gửi giáo đoàn Roma (Rm 4,1-8) cho chúng ta biết ơn tha thứ của Thiên Chúa thực sự là gì. Đó là một ơn nhưng không, đó là ơn sủng Thiên Chúa ban, đó là ý muốn yêu thương của Thiên Chúa. Sự tha thứ không theo kiểu chúng ta nghĩ, và sự tha thứ không phải là do những việc chúng ta làm.

Những gì chúng ta làm là để đáp lại tình yêu nhưng không mà Thiên Chúa đã trao tặng chúng ta. Những việc ta làm là để minh chứng, để chứng thực về ơn tha thứ mà chúng ta được lãnh nhận và sinh hoa kết trái. Sự thánh thiện của chúng ta hoàn toàn là do chúng ta nhận được ơn tha thứ của Thiên Chúa. Như Thánh Vịnh có lời cầu nguyện: “Phúc cho kẻ tội lỗi được thứ tha. Phúc cho người không bị Chúa hạch tội.” Thiên Chúa là Đấng thứ tha. Ngài tha thứ cho ta tội nguyên tổ và biết bao tội ta đã phạm. Ngài tha thứ hoài tha thứ mãi. Chúng ta được tha thứ, không bao giờ là vì những việc tốt lành ta đã làm. Chúng ta được tha thứ, chỉ vì Thiên Chúa đã Đấng giàu lòng từ nhân đã tha thứ cho ta. Và chúng ta có thể đáp lại ơn tha thứ ấy bằng những việc làm tốt lành.

Cần thật thà

Trong bài Tin Mừng theo thánh Luca (Lc 12,1-7), Chúa Giêsu nói về những kẻ công chính theo vẻ bề ngoài. Bề ngoài họ ra vẻ công chính thánh thiện, nhưng kỳ thực họ sống giả hình. Bên ngoài là tốt đẹp, nhưng bên trong thì nhơ bẩn. Bên ngoài thì làm ra vẻ ăn chay cầu nguyện bố thí, nhưng bên trong thì trống rỗng và xấu xa.

Họ sống với những thủ đoạn trong tâm hồn, trong lối sống, và làm ra vẻ thánh thiện. Chúa Giêsu luôn muốn chúng ta phải trung thực trong tâm hồn. Và nếu có điều gì đó có vẻ bên ngoài là sự thật, thì trước tiên điều ấy phải là sự thật trong cõi lòng. Do đó, Chúa đã khuyên chúng ta, là khi cầu nguyện, nên cầu nguyện nơi kín đáo. Khi ăn chay, thì đừng tỏ ra là mình ăn chay. Khi bố thí giúp đỡ người khác, thì làm cách kín đáo, việc tay trái chớ cho tay phải biết.

Xin ơn nhận biết tội lỗi bản thân

Đối với những kẻ sống giả hình, cái mẽ bề ngoài của họ chỉ tựa “bong bóng xà phòng” nay còn mai mất. Chúa Giêsu mời gọi chúng ta có sự hội nhất trong cuộc sống, có sự thống nhất giữa lời nói và việc làm, giữa việc làm và đời sống. Những kẻ giả hình thì làm những điều xấu xa. Giả hình là một lối sống quá xấu xa. Như trong Thánh Vịnh, chúng ta hãy cầu xin Chúa ơn nhận biết sự thật. Lời cầu nguyện này rất đẹp: “Lạy Chúa, xin cho con biết tội con đã phạm. Con không che giấu tội con. Con không lừa dối linh hồn con. Con xin xưng thú với Chúa tội lỗi của con.” Sự thật ấy luôn ở trước mặt Chúa, luôn luôn là như thế. Khi chúng ta thân thưa sự thật ấy với Chúa, Chúa sẽ tha thứ cho chúng ta.

Khi đạo đức giả trở thành một loại thói quen, thì thói quen giả hình ấy dẫn tới chỗ việc đổ thừa đổ lỗi cho người khác. Chúng ta đừng sống như thế, đừng đổ lỗi cho người khác, nhưng hãy tìm hiểu sự khôn ngoan để biết tự trách bản thân, để biết thân thưa với Chúa tội lỗi của mình, để được Chúa thứ tha. 

Tứ Quyết SJ

Cuộc viếng thăm của Đức Thánh Cha là phúc lành Thiên Chúa cho Bangladesh

Cuộc viếng thăm của Đức Thánh Cha là phúc lành Thiên Chúa cho Bangladesh

Cuộc viếng thăm Bangladesh của Đức Thánh Cha Phanxicô vào cuối năm nay là phúc lành từ Thiên Chúa và là dấu chỉ đặc biệt về tình yêu thương của Đức Thánh Cha dành cho Bangladesh. Đó là lời khẳng định của Đức hồng y Patrick D'Rozario của giáo phận Dhaka, Bangladesh trong cuộc phơng vấn dành cho hãng tin Á châu.

Đức hồng y D'Rozario cho biết người dân Bangladesh và cộng đoàn Kitô tràn đầy vui mừng khi nghe tin Đức Phanxicô sẽ viếng thăm đất nước họ. Sau 31 năm, từ chuyến viếng thăm cuối cùng của Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II vào năm 1986, cuối cùng người dân có thể có Đức Thánh Cha Phanxicô hiện diện ở giữa họ và điều này mang lại niềm vui cho tất cả.

Đối với cộng đoàn Công giáo Bangladesh, chuyến viếng thăm của Đức Thánh Cha là cuộc hành hương của con người thánh thiện và thiêng liêng của Đức Thánh Cha đến với họ: họ sẽ thấy ngài, nghe ngài, ở gần ngài và đụng chạm đến ngài, đứng trên cùng mảnh đất với ngài khi cử hành Thánh Thể. Sự kiện này cũng cho thấy ưu tiên mà Đức Thánh Cha dành cho dân chúng ở vùng ngoại biên, như đoàn chiên nhỏ bé của các Kitô hữu ở đây và cũng là sự nhìn nhận đức tin và chứng tá Tin mừng của họ.

Qua cuộc viếng thăm, dân chúng  Bangladesh nhận thấy ưu tiên Đức Thánh Cha dành cho Bangladesh và tình yêu nồng ấm trong trái tim ngài. Chuyến viếng thăm Bangladesh của Đức Thánh Cha sẽ là cơ hội để cử hành sự hòa hợp về tôn giáo và văn hóa, di sản của các giá trị nhân văn và luân lý, tình yêu nhân loại được mở rộng cho tất cả, không có giới hạn và biên giới, các giá trị Tin mừng và nhân bản nơi những người nghèo trong xã hội. Họ cũng hy vọng rằng nhờ Đức Thánh Cha, các cộng đồng quốc tế sẽ nghe được các tiếng nói của những người “không có tiếng nói”.

Tuy Bangladesh là quốc gia có đa số dân theo Hồi giáo, nhưng tại quốc gia này, mọi lãnh đạo tinh thần đều được kính trọng và vinh danh bởi người dân thuộc các tôn giáo ở Bangladesh như: Hồi giáo, Ấn giáo, Phật giáo và Ki tô giáo. Trên căn bản này, Đức Thánh Cha Phanxicô được đón tiếp như lãnh đạo tinh thần của thế giới và sẽ được đón tiếp bởi người dân của mọi tôn giáo, bao gồm Hồi giáo. Người dân muốn nhìn thấy Đức Thánh Cha, lắng nghe ngài, đụng chạm ngài nếu có thể và ở gần ngài. Điều này được tất cả xem như là sự chúc phúc. Thứ hai, phần lớn các Giáo hoàng, kể cả Đức Phanxicô, được nhìn nhận như tiếng nói lương tâm cho thế giới. Cho nên tất cả dân Bangladesh, không phân biệt tôn giáo, sẽ vui lòng lắng nghe ngài. Thứ ba, Đức Thánh Cha Phanxicô được dân chúng yêu mến bởi vì nhiều lần ngài đã bảy tỏ tình thương và sự cảm thông của ngài đối với các nạn nhân của tai họa do con người gây nên cũng như các thảm họa do con người gây nên. Ngài đã nói nhân danh công lý và nhân loại mà những người được giáo dục vẫn còn nhắc nhớ cách sống động rõ ràng.

Theo Đức hồng y D'Rozario, nếu Đức Thánh Cha nói về vấn hòa hợp và hòa bình tại các khu vực khác nhau của Bangladesh thì cũng là điều tự nhiên, vì chủ đề chính của chuyến viếng thăm của ĐTC là hòa hợp và hòa bình. Đức hồng y khôngc hắc là Đức Thánh Cha có nói trực tiếp đến vấn đề nóng bỏng của những người tị nạn ở Myanmar hay không. Theo Đức hồng y, nếu Đức Thánh Cha phải nói về vấn đề này, ngài sẽ tôn trọng vai trò của Bangladesh bởi vì chính quyền Bangladesh đã cởi mở đón tiếp và đứng về phía nhân loại đau khổ. Giáo hội ở Bangladesh cũng thế, đang đáp lại các nhu cầu nhân đạo của người tị nạn. Vấn đề Đức Thánh Cha có gặp gỡ người tị nạn từ Myanmar hay không vẫn chưa được quyết định.

Đức hồng y D'Rozario hy vọng rằng chuyến viếng thăm của Đức Thánh Cha sẽ mang đến một sự thức tỉnh tinh thần và sẽ có ấn tượng tích cực trên đất nước Bangladesh. Người dân sẽ được khuyến khích để hoạt động hăng say hơn cho sự hòa hợp và hòa bình. Đức Hồng y kết luận: “Tóm lại, những chờ đợi của chúng tôi từ chuyến viếng thăm của Đức Thánh Cha là: xác định và nhìn nhận những điều tốt đẹp mà chúng tôi có; đánh giá cao điều chúng tôi là; lời mời gọi chăm sóc người nghèo và người trẻ – ước mơ và hy vọng của chúng tôi; khuyến khích hoạt động để phát triển con người toàn diện để đối mặt với những thử thách của thay đổi khí hậu và để đào sâu sự hòa hợp để xây dựng hòa bình trong xã hội.” (Asia News 05/10/2017)

Hồng Thủy

Đức Thánh Cha tôn phong 35 tân hiển thánh

Đức Thánh Cha tôn phong 35 tân hiển thánh

VATICAN. Từ chúa nhật 15-10-2017, Giáo Hội đã có thêm 35 vị hiển thánh: 33 thánh tử đạo và 2 thánh hiển tu.

Đó là 3 thiếu niên tử đạo đầu tiên tại Mêhicô vào năm 1526, tiếp đến là 2 LM: Cha Anrê de Soveral, Cha Ambrosio Francesco Ferro và 28 giáo dân tử đạo tại Brazil năm 1645. Rồi đến hai chân phước hiển tu: Cha Angelo D'Acri dòng Capuchino người Italia và Cha Cha Manuel Míguez González dòng Scolopi người Tây Ban Nha.

ĐTC Phanxicô đã chủ sự thánh lễ phong thánh từ lúc 10 giờ 15 tại Quảng trường Thánh Phêrô trước sự hiện diện của 30 chục ngàn tín hữu, trong đó có hơn 600 người đến từ bang Tlaxcala quê hương của 3 thiếu niên tử đạo người Mexico. Ngoài ra có các phái đoàn chính phủ 4 nước: Brazil, Mexico, Tây Ban Nha và Italia.

4 bức tranh lớn của 4 nhóm các vị được treo ở mặt tiền đền thờ Thánh Phêrô.

Đồng tế với ĐTC có hơn 60 HY, GM, đặc biệt từ các giáo phận và dòng tu liên hệ với các vị tử đạo. Ngoài ra có hơn 600 linh mục.

Đầu thánh lễ, ĐHY Angelo Amato, Tổng trưởng Bộ Phong Thánh, cùng với 4 vị thỉnh nguyện viên của 4 án phong thánh, tiến lên trước ĐTC để xin ngài phong thánh cho 35 vị chân phước. Rồi ngài tóm lược tiểu sử của các vị.

30 thánh tử đạo Brazil

Công cuộc truyền giáo tại Bang Rio Grande do Norte ở miền duyên hải đông bắc Brazil được khởi sự hồi năm 1597 do các thừa sai dòng Tên và các linh mục giáo phận, đến từ Bồ đào nha. Các vị bắt đầu bằng việc giảng dạy giáo lý cho các thổ dân bản xứ và thành lập các cộng đoàn Công Giáo đầu tiên.

Những năm sau đó, có những người Pháp và Hòa Lan đổ bộ lên vùng này với chủ ý chiếm đoạt những nơi mà người Bồ đào nha đến lập cư trước đó. Người Hòa Lan thành công trong ý định này vào năm 1630. Họ là những người theo Tin Lành Cải cách của Calvin và có các mục sư đi kèm. Họ giới hạn tự do tôn giáo tại một vùng trong đó cho đến bấy giờ, các tín hữu Công Giáo được tự do hành đạo. Vì thế, trong thực tế với sự chiếm đóng của người Hòa Lan, các tín hữu Công giáo tại bang Rio Grande do Norte bắt đầu bị bách hại.

Hồi đó tại bang này chỉ có hai giáo xứ: tại Cunháu, có Giáo xứ Đức Mẹ Thanh Tẩy do cha André Soveral coi sóc, nguyên thuộc dòng Tên; tiếp đến tại Natal có giáo xứ Đức Mẹ Dâng Mình do cha Ambrosio Francisco Ferro làm cha sở.

Cả hai xứ đạo đều là nạn nhân của cuộc bách hại cam go do người Tin Lành Calvin gây ra: các tín hữu tại xứ Cunhau bị giết hại ngày chúa nhật 16-7 năm 1645 cùng với cha sở André Soreval, 73 tuổi. Trong nhà thờ hôm đó có gần 70 giáo dân dự lễ. Phần lớn họ là nông dân, làm việc trong đồn điền trống mía. Vừa sau khi cha truyền phép, một toán lính Hòa Lan cùng với các thổ dân thuộc bộ lạc Tapuias võ trang tràn vào nhà thờ và tấn công dã man các tín hữu đang dự lễ. Cha Soreval buộc phải ngưng thánh lễ và cùng với các tín hữu hiện diện đọc kinh của những người hấp hối. Tất cả các thổ dân đều bị giết, ngoại trừ 5 tín hữu người Bồ đào nha bị bắt làm con tin. Trong số 60 người bị giết, người ta chỉ biết tên cha sở Soreval và một giáo dân Domingos Carvallo.

Tại giáo xứ Natal, cha sở Ambrosio và các giáo dân hay tin thảm sát, đã tìm cách chạy trốn, nhưng bị người tin lành bắt và đưa tới Uraxu, bị cắt chặt thân thể và để cho chết dần chết mòn. Lúc đó là tháng 10 cùng năm 1645. Thi thể họ bị bỏ mặc cho mưa gió và thú dữ. Số người bị giết ít nhất là 28 người.

3 thiếu niên tử đạo tại Mexico

Ba thánh thiếu niên Mexico tử đạo năm 1527 và 1529 ở Tlaxcala là Cristoforo, Antonio và Gioan. Hoa quả đầu mùa của công cuộc truyền giáo ở Mỹ châu. Hai vị đầu tiên thuộc dòng dõi quí tộc, thân phụ là hai tù trưởng, còn Gioan là đầy tớ của Antonio.

Các thừa sai dòng Phanxicô và Đa Minh đến truyền giáo tại miền Tlaxcala. Các thổ dân ở đó thờ các thần minh và thường có những vụ sát tế người cho cac thần. Các thừa sai dùng cả các phương pháp quyết liệt như phá hủy các đền thờ và thần tượng ngoại giáo. Việc làm này đưa tới phản ứng của phần lớn thổ dân địa phương, và họ trút bỏ sự thịnh nộ trên 3 thiếu niên Cristoforo, Antonio và Gioan.

Cristoforo sinh năm 1514, và con trai cưng và cũng là người sẽ nối nghiệp tù trưởng Axcotecatl. Chẳng bao lâu, Cristoforo cũng theo gương của ba người anh em khác, đến học trường của các thừa sai Phanxicô từ năm 1524. Cristoforo theo học giáo lý và tự nguyện xin chịu phép rửa tội, và nhận tên thánh là Cristoforo. Và trong thời gian ngắn sau đó cậu trở thành tông đồ truyền bá Tin Mừng cho những người thân trong gia đình và những người quen biết.

Cristoforo đề nghị với thân phụ và xin ông theo đạo, từ bỏ những tật xấu, nhất là tật say rượu. Nhưng ông không quan tâm gì đến những lời khuyên của con, và thế là Cristoforo đập vỡ các thần tượng trong nhà. Cậu bị cha cảnh cáo và tha thứ nhiều lần. Nhưng khi thấy con tái diễn nhiều lần những hành động như thế, người cha quyết định giết con.

Ông lập kế gọi các con từ trường của các cha Phanxicô về nhà. Trong khi các anh em của Cristoforo vào nhà thì ông nắm lấy tóc của cậu bé và vật cậu xuống đất, rồi lấy chân đá và dùng gậy để đánh con, làm cho chân tay của cậu bị gẫy. Khi thấy Cristoforo, tuy đau đớn, nhưng vẫn tiếp tục cầu nguyện, ông quăng con vào đống lửa đang cháy. Vài ngày sau, cả mẹ của Cristoforo cũng bị giết vì đã toan tính bảo vệ cậu con.

Người cha âm thầm chôn xác Cristoforo trong một gian phòng trong nhà. Một nhân chứng cho biết sau đó ông ta bị kết án tử hình vì tội ác đó, có lẽ là do những người Tây Ban Nha trừng phạt. Vụ này xảy ra hồi năm 1527 và bấy giờ Cristoforo mới được 13 tuổi.

Hai vị tử đạo Antonio và Gioan; sinh khoảng năm 1516. Antonio là cháu và là người thừa kế của tù trưởng địa phương, còn Gioan là đầy tớ của Antonio. Cả hai đều theo học tại trường của các cha dòng Phanxicô. Theo lời thỉnh cầu của một thừa sai dòng Đa Minh, Antonio và Gioan xung phong đi làm thông ngôn giúp các thừa sai thu thập các thần tượng.

Một hôm, Antonio vào nhà và Gioan đứng ngoài cửa, một số thổ dân giận dữ, võ trang gậy gộc, tiến đến gần. Họ đánh Gioan mạnh đến độ cậu chết ngay tại chỗ. Antonio chạy lại bênh đỡ và nói với những kẻ hành hung: ”Tại sao các ông lại đánh bạn của tôi, cậu ta đâu có tội gì? Chính tôi mới là người thu thập các tượng, vì đó là ma quỉ chứ chẳng phải là thần minh”. Các thổ dân cũng dùng gậy đánh Antonio cho đến chết.

Thi hài của Antonio và Gioan bị họ vứt xuống một rãnh gần Dacalco. Cha Bernardino dòng Đa Minh thu lượm hai thi hài và đưa về Tepeaca để an táng trong một nhà nguyện.

Thánh linh mục Angelo D'Acri

Thánh Angelo sinh năm 1669 trong một gia đình nghèo ở Acri, gia nhập dòng Capuchino và thụ phong Linh mục năm 1700 khi được 31 tuổi. Cha hăng say thi hành công tác giảng thuyết, đảm nhận các tuần đại phúc, ở miền Calabria và các nơi khác ở miền nam Italia.

Bất cứ nơi nào có cha giảng thuyết, người dân tuốn đến đông đảo lắng nghe rồi xếp hàng chờ được xưng tội với cha. Cha sẵn sàng ngồi tòa giải tội, kiên nhẫn nghe lời thú tội của từng tội nhân thuộc mọi lứa tuổi và mọi đẳng cấp xã hội để giải hòa họ với Thiên Chúa.

Mặc dù tính tình rất khiêm tốn, không hề muốn những chức vụ cao trọng, cha Angelo cũng từng phải đảm nhận nhiều chức vụ quan trọng trong dòng như bề trên tỉnh dòng, cha giám tập, tổng kinh lược của dòng trong nhiều năm.

Sau gần 40 năm nhiệt thành hoạt động tông đồ, cha Angelo D'Acri kiệt lực qua đời ngày 30.10.1739 tại Acri, hưởng thọ 70 tuổi.

Ngay sau khi qua đời, từ nhiều nơi ở vùng Calabria và miền Nam Italia, người dân đã bắt đầu tôn kính cha như một vị thánh.

Thánh Manuel Míguel González

Cha Manuel Míguez González sinh cách đây 186 năm, tại tỉnh Orense bên Tây Ban Nha, năm 1831.

Khi được 19 tuổi, Manuel Míguez gia nhập dòng các cha Scolopi và nhận tên dòng là Faustino Nhập Thể và thụ phong linh mục năm 1857.

Cha Faustino được cử đi dạy học tại các trường của dòng, trước tiên tại Tây Ban Nha, rồi sang Cuba. Cha cũng nghiên cứu về dược thảo và chữa bệnh cho dân chúng và nổi tiếng trong lãnh vực này.

Năm 1872, cha được yêu cầu phân tích nước uống ở thành phố Sanlúcar và cha nhận lời. Cha nghĩ đó là phương thức để thoa dịu đau khổ của dân chúng, và cha cảm thấy mình là người của dân chúng và cho dân chúng.

Trong gần 50 năm trời dạy học, cha Faustino vẫn luôn tìm cách sống và hoạt động âm thầm, không tìm kiếm sự chú ý của người khác, và tận tụy giáo dục giúp đỡ các học sinh và người trẻ với một sự nhạy cảm đặc biệt, tôn trọng và quí mến. Cha biết rõ mỗi học sinh và cảm thấy được kêu gọi trở thành người đồng hành và người bạn, người thầy và là người hướng đạo của các em trên con đường giúp các em thành đạt.

Trong thời gian ấy, cha Faustino Míguez nhận thấy tình trạng dốt nát và bị gạt ra ngoài lề của các phụ nữ ở Sanlúcar. Họ không được theo học ở các trường tiểu học. Từ đó cha thấy rằng cần phải hướng dẫn họ từ tuổi thơ ấu để có thể thực sự thăng tiến nhân bản cho họ. Cha bắt đầu săn sóc một số trẻ nữ, dạy giáo lý cho các em với sự cộng tác của một vài phụ nữ. Nhóm này về sau trở thành dòng các nữ tu Chúa Mục Tử, với mục đích giáo dục các trẻ nữ nghèo, theo tinh thần và phương pháp của thánh Giuse Calasanzio.

Dòng được bản quyền giáo phận phê chuẩn và sau cùng được ĐGH Piô 11 phê chuẩn hiến pháp chung kết vào năm 1922. Năm sau đó các nữ tu đầu tiên được gửi đi truyền giáo ở Phi châu và Mỹ châu.

Ngoài các hoạt động giáo dục và y tế, cha Faustino còn viết nhiều sách, với ngôn từ đơn sơ, góp phần phổ biến khoa học. Cha không quên nghĩa vụ linh mục, dành nhiều thời giờ cho việc giải tội và linh hướng cho nhiều người. Cha qua đời tại Getafe ngày 8-3 năm 1925, thọ 94 tuổi.

Tôn phong hiển thánh

Tiếp lời ĐHY Tổng Trưởng Bộ Phong Thánh, ĐTC mời gọi mọi người cầu xin ơn phù trợ của Mẹ Maria và các Thánh.

Sau đó ĐTC đã đọc công thức lấy quyền Tông Đồ truyền ghi tên 35 vị chân phước vào sổ bộ các thánh của Giáo Hội truyền tôn kính các vị như những vị thánh.

Cộng đoàn hát mừng chúc tụng Chúa, cùng với kinh Vinh Danh, trong khi thánh tích của các vị tử đạo được rước lên bàn thờ.

Bài giảng của Đức Thánh Cha  

Trong bài giảng Thánh Lễ, ĐTC đã quảng diễn bài Tin Mừng về dụ ngôn Nước Thiên Chúa như Tiệc Cưới (xc Mt 22,1-14). Ngài nhận xét rằng: ”Nhân vật chính là hoàng tử, là vị hôn phu, qua đó ta dễ nhận thấy đó là Chúa Giêsu. Nhưng trong dụ ngôn không hề nói đến hôn thê, mà nói đến nhiều khách mời, được mong muốn và chờ đợi. Chính họ là người mặc áo cưới. Những khách mời ấy là tất cả chúng ta, vì Chúa muốn ”cử hành hôn lễ” với mỗi người chúng ta. Các hôn lễ khai mào cuộc hiệp thông trọn cuộc sống: đó là điều chính Thiên Chúa muốn với mỗi ngừơi chúng ta. Vì thế, tương quan của chúng ta với Chúa, không thể chỉ là tương quan của những thần dân sùng kính nhà vua, những người đầy tớ trung tín với chủ, hoặc tương quan của các học sinh chuyên cần đối với Thầy, nhưng trước hết là tương quan của hôn thê được yêu mến với hôn phu của mình. Nói khác đi, Chúa muốn chúng ta, tìm kiếm và mời chúng ta, và Ngài không chỉ hài lòng nếu chúng ta chu toàn các bổn phận tốt và tuân giữ các giới luật của Ngài, nhưng Chúa muốn có một cuộc hiệp thông cuộc sống thực sự với Ngài, một tương quan đối thoại, tín thác và tha thứ”.

Sau khi khai triển một số khía cạnh của tương quan phu phụ của tín hữu với Thiên Chúa, đặc biệt là sự kiện nhiều người từ khước lời mời của Thiên Chúa và chỉ quan tâm tới những lợi ích riêng tư của họ, ĐTC nhấn mạnh rằng:

”Có một khía cạnh chót mà Tin Mừng nhấn mạnh, đó là áo của các khách mời, là điều không thể thiếu được. Thực vậy, không phải chỉ thưa nhận lời mời là đủ, nhưng còn cần phải mặc áo, cần có ”tập quán” sống tình yêu mỗi ngày. Vì không thể nói ”Lạy Chúa, Lạy Chúa” mà không sống và thực thi ý Chúa (Xc Mt 7,21). Chúng ta cần mặc lấy tình thương của Chúa mỗi ngày, canh tân mỗi ngày sự chọn lựa theo Chúa. Các Thánh được tôn phong hôm nay, nhất là bao nhiêu vị Tử Đạo, chỉ cho thấy con đường ấy. Các vị không phải chỉ thưa bằng lời nói ”xin vâng” với tính yêu, và trong một thời gian ngắn, nhưng bằng cuộc sống và cho đến cùng. Áo hằng ngày của các ngài là tình yêu của Chúa Giêsu, tình yêu điên rồ khiến Chúa yêu thương chúng ta đến cùng, để lại tha thứ và áo của Ngài cho kẻ đã đóng đinh Ngài. Cả chúng ta cũng đã nhận lãnh áo trắng khi rửa tội, áo cưới với Thiên Chúa. Chúng ta hãy cầu xin Chúa, nhờ lời chuyển cầu của các thánh anh chị chúng ta, ơn chọn lựa và mặc áo ấy hằng ngày và giữ cho áo này thanh sạch. Bằng cách nào? Trước tiên bằng cách đi lãnh nhận ơn tha thứ của Chúa mà không sợ hãi: đó là bước quyết liệt để đi vào phòng hôn lễ, để cử hành lễ tình yêu với Chúa”.

G. Trần Đức Anh OP

 

Đức Thánh Cha thông báo Thượng HĐGM Amazzonia vào năm 2019

Đức Thánh Cha thông báo Thượng HĐGM Amazzonia vào năm 2019

VATICAN. Cuối thánh lễ tôn phong 35 hiển thánh mới, trưa chúa nhật 15-10-2017, ĐTC Phanxicô thông báo quyết định triệu tập một Thượng HĐGM Đặc Biệt về miền Liên Amazzonia ở Mỹ châu la tinh vào tháng 10 năm 2019 nhóm tại Roma.

Ngài cho biết đã đi đến quyết định trên đây là để đáp lại mong ước của một số HĐGM Mỹ châu la tinh và tiếng nói của các vị Chủ Chăn và tín hữu ở các nơi khác trên thế giới. ”Mục đích chính việc triệu tập này là để tìm ra những con đường mới để loan báo Tin Mừng cho phần Dân Chúa, nhất là cho các thổ dân, thường bị quên lãng và không có viễn tượng một tương lai thanh thản, cũng vì cuộc khủng hoảng rừng cây Amazzonia, là buồng phổi có tầm quan trọng chủ yếu đối với trái đất chúng ta. Xin Các Thánh mới cầu bầu cho biến cố này của Giáo Hội, để trong niềm tôn trọng vẻ đẹp thiên nhiên, mọi dân tộc trên trái đất chúc tụng Thiên Chúa, là Chúa Tể Vũ Trụ và được Chúa soi sáng, họ sẽ tiến bước trên các con đường công lý và hòa bình.”

Miền Amazzonia rộng khoảng 6,5 triệu cây số vuông, nằm trên lãnh thổ 9 nước ở Mỹ châu la tinh, chiếm khoảng 5% diện tích trái đất. Vùng này có khoảng 60 ngàn loại cây cỏ, 1 ngàn loại chim và hơn 300 loại động vật có vú. Amazzonia đang bị đặc biệt đe dọa vì vấn đề nuôi bò.

Trong khoảng thời gian từ 2000 đến 2007, Amazzonia ở Brazil bị nạn phá rừng, bình quân mỗi năm 19,368 cây số vuông, từ là trong 7 năm vừa nói có hơn 154,212 cây số vuông rừng bị phá hủy, một diện tích tương đương với nước Hy Lạp.

Brazil đứng thứ 4 trên thế giới vì lượng thán khí phát ra. Nạn phá rừng và thay đổi việc sử dụng đất rừng là nguyên nhân gây ra 75% số thán khí từ Brazil phát ra, trong số này 59% là do nạn phá và cháy rừng.

Nguyên nhân chính là vì Brazil nuôi nhiều bò để gia tăng xuất khẩu thịt.

Cùng với nạn phá rừng, nhiều bộ lạc thổ dân tại Amazzonia bị đe dọa môi trường sinh sống và tại nhiều nơi các thổ dân bị giết trong các cuộc đụng độ với những thành phần muốn chiếm đất thổ dân để khai thác quặng mỏ. Giáo hội Công Giáo Brazil, qua Ủy ban mục vụ thổ dân, đã rất nhiều lần lên tiếng tố giác tệ nạn này (Rei 15-10-2017)

G. Trần Đức Anh OP

 

Tôi Đi Học và Ngày Mãn Khóa

Tôi đi học. Truyện ngắn của nhà văn Thanh-Tịnh viết lên những cảm giác nhẹ nhàng của một buổi sáng mùa thu theo mẹ đi đến trường đã để lại trong ký ức thời thơ ấu của biết bao nhiêu cô, cậu học sinh. Cảm giác đó đã theo tôi trong những lần tôi đưa con, đưa cháu đi học  nên tôi thường lẩm bẩm đọc những câu thơ bình dị đơn sơ dễ hiểu của tôi như đang chuyện trò với cháu.

 

 

TÔI ĐI HỌC


Hôm nay em đi học
Lần  đầu tiên đi học
Mẹ nắm bàn tay em
Dắt em đi đến trường
Trên đường em  nhìn thấy
Nhiều  bạn giống như em
Cũng theo  mẹ đến trường
Và khi vào lớp

 

Lần đầu tiên vào lớp
Nhìn thấy Cô  giáo em
Dáng xinh xinh dịu dàng
Mĩm cười Cô hỏi em
Tên con là gì đó ?
Thưa Cô ! Con tên là:
…………………………….
Kaelle Phạm, Hoài -An
Gật đầu Cô khen ngoan
Con về chổ ngồi đi
Chúng ta bắt đầu học
A,B,C,D,Đ………………
Em là người Việt,
Em học tiếng Việt.
Chữ Việt nước Nam

 

Để rồi 9 tháng qua mau…


NGÀY MÃN KHOÁ
 

Hôm nay ngày mãn khoá
Lòng em thấy rộn ràng
Buâng khuâng niềm hối tiếc
Bịn rịn phải chia tay
Thầy Cô và bạn học
Chiều thứ bảy bên nhau
Chín tháng học trôi mau
Đến lúc phải chia tay
Nhớ ngày đầu vào lớp
Còn ngượng ngịu đánh vần
Lần đầu tập làm văn
Cô giáo đọc bật cười
Chính tả, sai nhiều lỗi
Sắc, huyền, hỏi, ngã, nặng
Ôi, khó quá làm sao!
Bỏ dấu không đúng chữ
Nghĩa đổi làm cô cười
Qua một năm học ngắn
Giờ bài văn em viết
Cô đọc, cười mĩm chi
Xoa đầu khen em giỏi
Em cám ơn Cô giáo
Đã bỏ bao công sức
Để em có ngày nay
Ơn thầy, cô dạy dỗ
Em ghi nhớ suốt đời.

 

Chào tạm biệt quí Thầy Cô. Hẹn gặp lại niên học mới.
Tống Hoa

Đan Lồng Đèn

Đan Lồng Đèn

Vót tre ngồi đan chiếc lồng đèn.
Dù cho vất vã với tay ngang.
Cũng ráng ra công làm cho đẹp.
Cháu có đèn,dự hội trăng rằm.
Ông ơi! Sao không mua cho cháu.
Khỏi nhọc công Ông, mệt mỏi tay.
Ông cười, vuốt tóc, nói nghe nè.
Ông muốn tự tay làm cho cháu .
Đa dạng hàng bán hiệu của Tàu.
Kể cháu nghe,tre Ông vót làm đèn.
Còn là vũ khí chống xâm lăng.
Tre già thân lớn làm cọc nhọn.
Đâm thủng tàu địch, thắng vẻ vang.
Vào năm chín trăm ba mươi tám.
Ngô Quyền Tướng dẫn binh vào trận.
Bạch Đằng Giang, cọc nhọn dự phần.
Mưu lược, dùng binh, lòng dũng cảm.
Đuổi giặc Tàu, sử sách ghi ơn.
Tuổi thơ của cháu đẹp như trăng.
Hồn nhiên cứ giữ, nhưng ghi nhớ.
Công ơn của những bậc tiền nhân.
Dựng nước, bây giờ mình giữ nước.
Thế hệ này, và nối tiếp mai sau.
Giữ gìn bờ cỏi, Cha Ông dựng.
Mới xứng danh con cháu Lạc-Hồng.

HOA TÔN (Tháng 9 Mùa Trung-Thu)

 

Lòng yêu mến Đức Mẹ Mân Côi của chân phước Bartolo Longo – Tông đồ Mân Côi

Lòng yêu mến Đức Mẹ Mân Côi của chân phước Bartolo Longo – Tông đồ Mân Côi

Cách đây gần 2000 năm, ngọn núi lửa Vesuvius ở miền nam Italia đã phun trào và chôn vùi toàn bộ thành phố Pompei dưới lớp tro tàn. Thành phố Pompei hiện đại ngày nay được thành lập năm 1891 và chân phước Bartolo Longo được xem là vị sáng lập của thành phố sau khi ngài ra lệnh xây dựng đền thành Đức Trinh nữ Mân côi của thành phố. Trong đền thánh Đức Mẹ Pompei có bức tranh phép lạ Đức Mẹ Mân côi mà cha Alberto Radente – cha giải tội của chân phước Longo – đã cho ngài.

Chân phước Bartolo Longo sinh ngày 10 tháng 2 năm 1841, trong một gia đình Công giáo sùng đạo ở tỉnh Brindisi, Italia. Năm 1863, Longo đến Napoli để hoàn tất chương trình luật. Tại đây, qua các bạn học và giáo sư, Longo đến với thế giới quỷ thần và hoàn toàn xa lìa đức tin. Đây cũng chính là thời gian Giáo hội Công giáo gặp phải sự chống đối của những người theo chủ nghĩa quốc gia, đấu tranh cho sự hiệp nhất của Italia và xem Đức giáo hoàng là thù nghịch với mục đích của họ. Longo đã tham gia vào một phong trào thờ Satan và cuối cùng tuyên bố mình được thụ phong để làm một linh mục của Satan. Tuy thế, sau thời gian chiến đấu với những lo lắng, dằn vặt, thất vọng và ngay cả việc nhiều lần có ý định tự tử, một giáo sư đại học cùng thành phố với Longo đã khuyên anh rời bỏ phái Satan và giới thiệu Longo đến với cha giải tội Radente, một linh mục dòng Đaminh. Dưới sự hướng dẫn của cha Radente, Longo bắt đầu cầu nguyện đọc kinh Mân côi và trở lại với Kitô giáo.

Longo đã dành cả tâm hồn và thân xác cho tôn giáo và việc bác ái. Longo có lòng yêu mến đặc biệt kinh Mân côi, đã gia nhập dòng Ba Đaminh vào năm 1871 và hoạt động cổ võ lòng sùng kính Đức Mẹ, đặc biệt là việc đọc kinh Mân Côi nhắm phục hồi đức tin cho dân thành Pompei. Một ngày kia, cảm thấy nghi ngờ trong lòng, Longo tự hỏi phải làm gì để được cứu độ. Longo đã nghe một tiếng nói: “Nếu con truyền bá Kinh Mân côi, con sẽ được cứu độ.” Longo hiểu được ơn gọi của mình. Longo đã xây một nhà nguyện nhỏ kính Đức Mẹ.

Ngày 13 tháng 11 năm 1875, Longo nhân được bức tranh phép lạ Đức Mẹ Mân côi mà cha giải tội Radente tặng. Longo được treo trong đền thánh Đức Mẹ Mân côi ở Pompei được trường phái Luca Giordano thực hiện vào thế kỷ 17. Bức tranh vẽ Đức Maria ngồi trên một ngai, đang bế trẻ Giêsu và trao chuỗi Mân côi cho hai thánh Đaminh và Catarina thành Siena, đang ở trước ngai của Đức Mẹ. Một vài tháng sau khi Longo nhận được bức tranh cha Radente gửi tặng thì các phép lạ bắt đầu xảy ra. Ban đầu nó là một bức tranh cũ, bị sờn rách. Sau khi tìm được tài trợ để phục hồi bức tranh, Longo đã trưng bày cho công chúng xem. Phép lạ đầu tiên đã xảy ra cùng ngày này. Một bé gái 12 tuổi tên Clorinda Lucarelli, bị động kinh, đã được bình phục hoàn toàn, dù các bác sĩ danh tiếng lúc bấy giờ nghĩ là không thể chữa lành được.

Longo đã nhiệt thành cỗ võ việc sùng kính Đức Trinh nữ Maria, mời gọi các tín hữu cầu nguyện với Mẹ để Mẹ đổ tràn lòng thương xót của Mẹ cho các con cái. Nhiều người trên toàn thế giới đã nhận được ơn từ lòng thương xót của Mẹ Maria và đã dâng tặng các phẩm vật để xây dựng đền thánh mới. Longo qua đời năm 1926 tại Pompei và được Thánh Giáo hoàng phong chân phước vào năm 1980. Longo được biết đến với danh hiệu “Tông đồ Kinh Mân côi.” Những lời cuối cùng của chân phước Longo là ao ước nhìn thấy Mẹ Maria – Đấng đã cứu ngài và cứu ngài khỏi nanh vuốt của Satan.

Ngày nay hàng ngày, nhiều tín hữu hành hương đến Pompei cảm nghiệm tình yêu của Đức Trinh nữ như chân phước Longo đã cảm nghiệm. Đức Mẹ cũng nói với chúng ta: “Nếu muốn được cứu độ, hãy loan truyền Kinh Mân Côi. (CNA 03/03/2015) 

Hồng Thủy

Tài khoản Twitter của Đức Thánh Cha đạt 40 triêụ người theo dõi

Tài khoản Twitter của Đức Thánh Cha đạt 40 triêụ người theo dõi

Tài khoản Twitter của Đức Thánh Cha Phanxicô @Pontifex bằng 9 ngôn ngữ đã vượt quá 40 triệu người theo dõi (follower) sau 5 năm đăng ký. Ngày 12/12/2012, Đức nguyên giáo hoàng Biển đức đã muốn mở một tài khoản của Giáo hoàng trên mạng xã hội Twitter.

Mỗi ngày, qua các “tweet” của mình, Đức Thánh Cha Phanxicô đến gần với dân chúng trong thế giới truyền thông xã hội. Thỉnh thoảng ngài đăng một suy tư thiêng liêng, hay nhắc nhớ đến vị thánh đước kính nhớ trong ngày, hoặc chia sẻ với những người theo dõi các suy tư về các biến cố quan trọng trên thế giới.

Trong 12 tháng qua, số follower đã tăng thêm hơn 9 triệu; điều này cho thấy sự quan tâm liên tục của dân chúng đến các “tweet” của Đức Thánh Cha, trong đó có người bình dân, các Kitô hữu và người ngoài Kitô giáo, các lãnh đạo chính trị, những nhân vật nổi tiếng về văn hóa.

Bên cạnh số đông follower trên tài khoản Twitter, tài khoản Instagram của Đức Thánh Cha @Franciscus cũng gần đạt 5 triệu follower. Tài khoản Instagram được bắt đầu từ ngày 19/03/2015 với tin: “Tôi bắt đầu một hành trình mới để đồng hành với anh chị em trên con đường của lòng thương xót và dịu dàng của Thiên Chúa.”

Một điều thật ý nghĩa là phần lớn những người theo dõi tài khoản Instagram của Đức Thánh Cha nằm trong độ tuổi 25-34 và Braxin và Hoa kỳ là nơi có nhiều follower nhất.

Theo Đức ông Dario Edoardo Viganò, Bộ trưởng Bộ Truyền thông của Vatican, con số 40 triệu không chỉ có ý nghĩa về con số thống kê, nhưng quan trọng hơn hết là Đức Thánh Cha Phanxicô, cũng như vị tiền nhiệm của ngài, cho thấy sự hiện diện của các chứng tá Kitô giáo trong “thế giới kỹ thuật số” và đặc biệt là trong các phương tiện truyền thông xã hội. 40 triệu người theo dõi là 40 triệu người, 40 triệu trái tim, trí tuệ và tình cảm. Đó là một thế giới, một mối liên hệ, một cộng đồng.

Đức ông Viganò cũng nhận định rằng Đức Thánh Cha rất quan tâm đến các tài khoản xã hôi của ngài; ngài kiểm tra kỹ lưỡng các tweet được đăng trên tài khoản. Điều này chứng tỏ sự quan tâm của ngài với mối liên hệ với các follower và bất kỳ mối liên hệ nào cũng cần được chăm sóc, sưởi ấm trái tim, ngay cả chỉ bằng một ít từ ngữ. Đối với Đức Thánh Cha, "Internet là một là một nơi đầy nhân tính, là  mạng lưới của con người chứ không phải của các dây dợ." (REI 11/10/2017)

Hồng Thủy

 

Kính Kính Mừng của một cậu bé Tin Lành

Kính Kính Mừng của một cậu bé Tin Lành

Một cậu bé 6 tuổi đọa Tin lành thường nghe các bạn Công giáo của cậu đọc kinh Kính mừng. Cậu bé rất thích Kinh này đến nỗi cậu đã chép nó, học thuộc và đọc mỗi ngày. Một ngày kia, cậu bé nói với mẹ của mình: “Mẹ à! Đây là một kinh thật là hay!”

Nghe đứa con nói thế, bà mẹ liền trả lời: “Đó là những lời cầu nguyện mê tín của người Công giáo. Họ cầu nguyện với các ngẫu tượng và nghĩ rằng bà Maria là một nữ thần.Nhưng mà bà ta cũng chỉ là một phụ nữ như các phụ nữ khác thôi. Nào, con hãy cầm lấy sách Kinh Thánh mà đọc đi. Trong sách Kinh Thánh chứa đựng mọi điều mà chúng ta buộc phải làm.” Từ hôm đó, cậu bé không còn đọc kinh Kính mừng nữa, nhưng trái lại, cậu bé danh thời gian để đọc Kinh Thánh.

Một ngày nọ, trong khi đang đọc Tin mừng, cậu bé đọc đến đoạn Thiên thần truyền tin cho Đức Mẹ. Lòng tràn đầy vui mừng, cậu bé chạy đến với mẹ của mình và nói: “Mẹ a! Con đã tìm thấy kinh Kính mừng trong sách Kinh Thánh. Sách Thánh viêt: “Kính mừng bà đầy ơn phúc, Thiên Chúa ở cùng bà, bà được chúc phúc giữa các phụ nữ.” Tại sao mẹ lại nói đây là một lời cầu nguyện mê tín?”

Một dịp khác, cậu bé tìm thấy lời chào tuyệt vời của bà Elizabeth dành cho Đức Mẹ và cả kinh Magnificat (Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa) mà Đức Maria đã nói tiên tri là “mọi đời sẽ khen Mẹ có phúc.” Cậu bé không nói thêm gì với mẹ của mình nhưng bắt đầu lại đọc kinh Kính mừng mỗi ngày như trước đây cậu vẫn làm. Cậu bé cảm thấy thích thú khi dâng những lời đầy yêu thương dịu dàng đó cho Mẹ của Chúa Giêsu, Đấng Cứu thế.

Một ngày khi cậu bé lên 14 tuổi, cậu nghe các thành viên trong gia đình thảo luận về Đức Mẹ. Mọi người nói là Đức Maria là một người bình thường như mọi phụ nữ khác. Sau khi nghe những lý luận sai lầm của họ, không thể chịu đựng thêm, cậu bé bực tức và cắt ngang cuộc tranh luận của họ. Cậu nói: “Đức Maria không giống như mọi con cái của Adam, bị mang tội tổ tông. Không! Thiên thần đã gọi mẹ là đầy ơn phúc và được chúc phúc giữa các người nữ. Đức Maria là Mẹ của Chúa Giêsu Kitô và là Mẹ Thiên Chúa. Không còn phẩm giá nào cao hơn nữa mà một thụ tạo có thể được tôn phong. Tin mừng nói rằng các thế hệ sẽ khen Mẹ được chúc phúc và mọi người ở đây đang khinh chê Mẹ và dìm Mẹ Xuống. Thần khí của mọi người không phải là Thần khí của Tin mừng hay của Kinh Thánh mà mọi người tuyên xưng là nền tảng của Kitô giáo.”

Quá bị ấn tượng bởi những gì cậu bé nói, bà mẹ của cậu đã nhiều lần kêu lên cách đau khổ “Lạy Chúa con! Con sợ rằng thằng con này ngày nào đó sẽ theo đạo Công giáo, đạo của các Giáo Hoàng!” Và thật vậy, không lâu sau đó, sau khi đã học hành nghiêm túc về đạo Tin lành và Công giáo, cậu trai đã tìm thấy Công giáo là tôn giáo thật duy nhất, cậu đã yêu mến và trở thành một trong những tông đồ nhiệt thành nhất của Công giáo.

Một thời gian sau khi cậu trở lại Công giáo, người chị đã lập gia đình của cậu đã quở trách cậu thậm tệ. Cô chị nói: “Thằng nhỏ này có biết chị thương con của chị thế nào không. Nếu mà bất cứ đứa nào theo đọa Công giáo, chị thà đâm nó một nhát dao còn hơn để nó theo đạo của các giáo hoàng!” Chị ta cũng giận dữ và ghét đạo như thánh Phaolô trước khi hoán cải. Nhưng khi một đứa con của chị bị ốm nặng và các bác sĩ bó tay, không còn hy vọng, thì cậu em đã đến với chị và nói với chị cách thân thương: “Chị yêu quý của em, cách tự nhiên, chị muốn cho con của chị được lành bệnh. Tốt lắm! vậy hãy làm những gì em yêu cầu chị làm. Hãy theo em! Chúng ta hẫy đọc một kinh Kính mừng và hứa với Chúa rằng, nếu con của chị khỏe lại, chị sẽ nghiêm túc học hỏi đạo Công giáo và chị sẽ kết luận rằng Công giáo là đạo thật duy nhất, chị sẽ yêu đạo cho dù phải hy sinh điều gì. Ban đầu người chị hơi lưỡng lự, nhưng vì muốn con mình được bình phục, đã chấp nhận đề nghị của cậu em và đã đọc Kinh Kính mừng với em mình, Ngày hôm sau, đứa con của chị được khỏi bệnh hoàn toàn. Người mẹ giữ lời hứa, đã học giáo lý Công giáo. Sau thời gian dài chuẩn bị, người chị và cả gia đình đã lãnh nhận bí tích rửa tội và cám ơn cậu em đã là tông đồ Kinh Kính mừng.

Câu chuyện đã được cha Tuckwell kể trong một bài giảng. Cha chính là cậu bé đó. Cha nói: “Tôi là linh mục ngày hôm nay là nhờ Đức Mẹ. Anh chị em cũng vậy, hãy dâng hiến hoàn toàn cho Đức Mẹ và đừng để một ngày qua đi mà không đọc lời kinh Kính mừng tốt đẹp và chuỗi Mân Côi.” (ST)

Hồng Thủy

Thiên Chúa không báo thù nhưng xót thương

Thiên Chúa không báo thù nhưng xót thương

VATICAN. Trưa Chúa nhật 08.10.2017 trước khi đọc kinh Truyền Tin, Đức Thánh Cha quảng diễn bài Tin Mừng Chúa nhật nói về lòng trung tín và xót thương của Thiên Chúa, cho dù con người tội lỗi và phản bội. Đức Thánh Cha nói:

Con người phản bội

Anh chị em thân mến! Phụng vụ Chúa nhật hôm nay kể cho chúng ta nghe dụ ngôn về những người làm thuê vườn nho cho ông chủ (Mt 21,33-43). Để kiểm chứng lòng trung thành của các tá điền, ông chủ đã trao cho họ vườn nho, để họ chăm sóc, bảo vệ và làm sinh lợi hoa màu. Khi vụ mùa đến, ông chủ sai các đầy tớ đến thu hoạch. Nhưng các tá điền muốn chiếm lấy vườn nho và hoa màu. Họ đánh người này, giết người nọ. Ông chủ tỏ ra kiên nhẫn và tiếp tục sai các người khác đến với những kẻ thuê vườn nho, và kết cục vẫn tệ hại như thế. Cuối cùng, ông chủ quyết định sai chính con trai của mình đến, nhưng bọn tá điền đã giết đứa con thừa tự ấy để mong chiếm lấy gia tài.

Thiên Chúa không báo thù

Dụ ngôn này trách cứ cách đối xử mà dân đã làm với các ngôn sứ trong lịch sử của Israel. Đây cũng là câu chuyện của chúng ta trong giao ước Thiên Chúa muốn thiết lập với loài người. Thiên Chúa mời gọi tất cả chúng ta tham gia giao ước ấy. Dụ ngôn này cũng là câu chuyện tình yêu, có khoảnh khắc tích cực diễn tả cách phản ứng khi đứng trước sự phản bội. Để hiểu cách hành xử của Thiên Chúa Cha trước những kẻ từ chối tình yêu của Ngài, chúng ta hãy nghe câu hỏi được đặt ra: “Khi ông chủ vườn nho đến, ông sẽ làm gì với bọn tá điền?” (c.40). Câu hỏi này nhấn mạnh rằng, dù Thiên Chúa thất vọng trước tội ác của con người, nhưng đó vẫn chưa phải là câu trả lời cuối cùng. Đây là sự vĩ đại của Thiên Chúa: cho dù con người phản bội, cho dù con người sai lầm, cho dù con người tội lỗi, nhưng Thiên Chúa vẫn một lòng giữ giao ước, Thiên Chúa không tìm cách báo thù!

Anh chị em thân mến, Thiên Chúa không trả thù! Thiên Chúa là Đấng yêu thương, Ngài không trả thù, nhưng chờ đợi chúng ta để tha thứ, để cứu vớt chúng ta. Nhờ tảng đá bị loại bỏ, nhờ Chúa Kitô, Thiên Chúa cứu chúng ta, cho dù chúng ta yếu đuối và tội lỗi. Thiên Chúa tiếp tục sản xuất ra rượu mới từ vườn nho của Ngài. Rượu mới ấy là lòng thương xót. Rượu mới của Thiên Chúa là lòng từ bi xót thương. Đứng trước sức mạnh và lòng từ nhân của Chúa, chỉ có một điều ngăn trở chúng ta, đó là lòng ngạo mạn và hay xét đoán, ngay cả đôi khi biến thành bạo lực! Khi đối diện với sự cứng lòng của những kẻ đang nghe, Chúa Giêsu đã nói cách mạnh mẽ rằng: “Nước Thiên Chúa, Thiên Chúa sẽ lấy đi không cho các ông nữa, mà ban cho một dân biết làm cho Nước ấy sinh hoa lợi” (c. 43).

Ra đi sinh nhiều hoa trái

Trước lời mời gọi của Chúa, mời gọi chúng ta trở thành vườn nho của Chúa, chúng ta cần đáp lại bằng đời sống sinh nhiều hoa trái. Tính khẩn thiết của hành vi đáp lại ấy giúp chúng ta hiểu được đức tin Kitô cách mới mẻ và tinh tuyền. Đức tin ấy không phải là một bộ những quy luật luân lý, nhưng trên hết, đó là tình yêu của Thiên Chúa tỏ hiện nơi Chúa Giêsu, diễn tả nơi những gì Chúa đã làm và tiếp tục làm cho con người. Đó là lời mời gọi đi vào câu chuyện tình yêu, trở thành trái nho tươi đẹp tốt lành cởi mở, sinh ích lợi và hy vọng cho mọi người. Một trái nho khép kín có thể bị biến thành trái nho hoang dại và cũng có thể nảy sinh những trái nho dại khác. Chúng ta cũng được mời gọi ra khỏi vườn nho của mình, để đặt mình vào việc phục vụ những anh chị em không giống chúng ta, để chúng ta có thể giúp đỡ lẫn nhau, khuyến khích nhau trở thành vườn nho của Chúa trong mọi hoàn cảnh, cho dù có những hoàn cảnh xa xôi và khó khăn nhất.

Anh chị em thân mến! Xin Đức Maria rất thánh cầu thay nguyện giúp chúng ta, xin Mẹ nâng đỡ chúng ta trong mọi hoàn cảnh, đặc biệt tại các vùng ngoại biên của xã hội, tại những vườn nho mà Chúa đã trồng, để sinh ích lợi cho mọi người, và để mang lại “rượu mới” là lòng Chúa xót thương.

Tứ Quyết SJ

Đức Thánh Cha tiếp tân Hàn Lâm Viện Tòa Thánh về sự sống

Đức Thánh Cha tiếp tân Hàn Lâm Viện Tòa Thánh về sự sống

VATICAN. ĐTC mời gọi Hàn lâm viện Tòa Thánh đương đầu với những thách đố mới do các kỹ thuật mới về sinh học đề ra cho cuộc sống con người.

Ngài đưa ra lời kêu gọi trên đây trong buổi tiếp kiến sáng 5-10-2017 dành cho các thành viên Hàn lâm viện Tòa Thánh về sự sống nhóm khóa họp toàn thể đầu tiên từ ngày 5 đến 8-10-2017 tại Vatican. Theo qui chế mới, Hàn lâm viện này có 45 thành viên thực thụ, 4 thành viên danh dự và 87 thành viên thông tín, 13 nhà nghiên cứu trẻ, tất cả đến từ nhiều quốc gia.

Chủ đề khóa họp là ”Đồng hành với sự sống. Những trách nhiệm mới trong thời đại kỹ thuật”. ĐTC nhận xét rằng tiềm năng của các kỹ thuật sinh học ngày nay để cho người ta thực hiện những lèo lái sự sống trước đây không thể tưởng tượng được và nó cũng đề ra những câu hỏi kinh khủng.

Trong diễn văn, ĐTC khẳng định rằng ”Điều cấp thiết là tăng cường việc nghiên cứu và đối chiếu về những hậu quả của sự tiến hóa trên đây trong xã hội theo nghĩa chuyên môn, để đưa ra một tổng hợp nhân loại học tương ứng với thách đố lớn lao của thời đại này”.

Trong số nhiều lãnh vực thách đố được ĐTC đề cập tới mà Hàn lâm viện Tòa Thánh về sự sống được kêu gọi đương đầu, có những giải thích tiêu vực về sự khác biệt phái tính nam nữ, làm thương tổn đến phẩm giá con người. Nhưng thực tế hiện nay người ta muốn xóa bỏ sự khác biệt phái tính nam nữ, bằng cách đề ra những kỹ thuật và phương pháp thực hành để làm cho sự khác biệt phái tính không còn là điều quan trọng đối với sự phát triển con người và đối với những tương quan giữa con người với nhau. ĐTC cảnh giác rằng ”ảo tưởng 'trung tính' (neutro) sẽ loại bỏ phẩm giá con người có những cơ cấu phái tính khác nhau, và loại trừ phẩm chất truyền sinh của con người. Sự lèo lái sinh học và tâm lý về sự khác biệt phái tính có nguy cơ loại trừ nguồn nghị lực nuôi dưỡng sự liên minh giữa người nam và người nữ, và làm cho liên minh ấy có đặc tính sáng tạo và phong phú” (Rei 5-10-2017)

G. Trần Đức Anh OP

Đức Thánh Cha dâng thánh lễ với 40 ngàn tín hữu tại Bologna

Đức Thánh Cha dâng thánh lễ với 40 ngàn tín hữu tại Bologna

BOLOGNA. Trong bài giảng thánh lễ chiều ngày 1-10-2017, ĐTC phê bình lối sống giả hình, và nhắn nhủ các tín hữu đừng quên 3 yếu tố quan trọng của đời sống Kitô: Lời Chúa, Thánh Thể và người nghèo.

Hoạt động sau cùng của ĐTC ngày 1-10 tại Bologna là thánh lễ ngài cử hành lúc 5 giờ chiều tại sân vận động Dall'Ara, ở khu ngoại ô, cách trung tâm thành này hơn 2 cây số. 40 ngàn tín hữu đã ngồi chật thao trường này để tham dự thánh lễ với ĐTC.

Đồng tế với ĐTC có 24 GM thuộc 15 giáo phận ở miền Emilia Romagna và hàng trăm LM.

Bài giảng thánh lễ

Trong bài giảng thánh lễ, ĐTC đã diễn giải ý nghĩa bài Tin Mừng của Chúa nhật thứ 26 thường niên năm A, kể lại dụ ngôn 2 người con được cha yêu cầu đi làm việc trong vườn nho của ông: người thứ I từ chối, nhưng rồi đã nghĩ lại và đi làm; người con thứ hai nhận lời, nhưng rồi lại không đi làm. ĐTC nhận xét:

”Qua dụ ngôn này, Chúa Giêsu đặt trước chúng ta hai con đường mà chúng ta cảm nghiệm, nhưng không luôn sẵn sàng xin vâng bằng lời nói và việc làm, vì chúng ta là người tội lỗi. Nhưng chúng ta có thể chọn lựa giữa một bên là người tội lỗi đang tiến bước, tiếp tục lắng nghe Chúa, và khi sa ngã, thì thống hối và trỗi dậy, như người con thứ I; hoặc chúng ta là những ngừơi tội lỗi ngồi lỳ, luôn sẵn sàng biện minh cho mình và chỉ có những lời nói xu thời.

Chúa Giêsu dạy dụ ngôn này và áp dụng cho một số lãnh tụ tôn giáo thời ấy, họ giống như người con có đời sống hai mặt, trong khi dân thường thì cư xử như người con thứ I. Các thủ lãnh tôn giáo ấy biết và giải thích mọi sự, không chê được, như những nhà trí thực tôn giáo đích thực. Nhưng họ không khiêm tốn lắng nghe, không có can đảm tự hỏi mình, không có sức để thống hối. Và Chúa Giêsu rất nghiêm khắc: ngài nói cả những người thu thuế cũng đi trước họ vào Nước Chúa. Đó là một lời trách cứ nặng nề, vì những người thu thế thời ấy là những người thối nát, phản bội tổ quốc. Vậy đâu là vấn đề của các thủ lãnh tôn giáo ấy? Họ không sai lầm về điều gì, nhưng sai lầm trong lối sống và suy tư trước mặt Chúa: qua lời nói và với những người khác, họ là những người quyết liệt gìn giữ các truyền thống của con người, nhưng không có khả năng hiểu rằng cuộc sống theo Thiên Chúa là một hành trình và đòi phải có sự khiêm tốn cởi mở, thống hối và bắt đầu lại.

ĐTC đặt câu hỏi:

”Vậy điều ấy nói gì với chúng ta? Thưa rằng không có một đời sống Kitô ở bàn giấy, ở bàn học, được kiến tạo một cách khoa học, trong đó chỉ cần chu toàn vài giới luật là được an tâm: đời sống Kitô là một hành trình khiêm tốn của một lương tâm không bao giờ cứng nhắc và tín thác nơi Chúa trong sự thanh bần, không bao giờ tự phụ, tự mãn cho bản thân. Nhờ đó, chúng ta vượt thắng những điều đã xảy ra và tái diễn sự ác xưa kia, như Chúa Giêsu tố giác trong dụ ngôn: đó là sự giả hình, lối sống hai mặt, óc duy giáo sĩ, có kèm theo thái độ vụ luật, xa cách dân chúng. Chìa khóa chủ yếu ở đây là thống hối: sự thống hối giúp ta không cứng nhắc, biến thái độ từ khước Thiên Chúa thành vâng phục, và biến sự chấp nhận thành sự phủ nhận tội lỗi vì tình yêu đối với Chúa. Thánh ý Chúa Cha, Đấng hằng ngày nói với lương tâm chúng ta, chỉ được thể hiện trong hình thức thống hối và hoán cải liên tục. Xét cho cùng, trong hành trình của mỗi người có hai con đường: một là người tội lỗi thống hối hay là những người tội lỗi giả hình. Nhưng điều đáng kể không phải là những lý luận biện minh và toan tính cứu vãn thanh danh, cái vẻ bề ngoài của mình, nhưng là một con tim hằng ngày tiến bước với Chúa, chiến đấu mỗi ngày, thống hối và trở về cùng Ngài. Vì Chúa tìm kiếm những con tim thanh khiết, chứ không tìm những kẻ thanh sạch ”bề ngoài”.

Tiếp tục bài giảng thánh lễ chiều chúa nhật vừa qua ở Bologna, ĐTC nói:

”Anh chị em thân mến, chúng ta thấy rằng Lời Chúa đào sâu, ”phân định những tâm tình và tư tưởng của tâm hồn” (Dt 4,12). Nhưng Lời Chúa cũng thời sự: dụ ngôn này cũng nhắc nhở chúng ta về những tương quan không luôn dễ dàng giữa những người cha và người con. Ngày nay, giữa những thay đổi nhanh chóng giữa các thế hệ, chúng ta nhận thấy rõ hơn nhu cầu độc lập với quá khứ, nhiều khi đến độ nổi loạn. Nhưng sau những khép kín và im lặng dài của phía này đối với phía kia, nên phục hồi cuộc gặp gỡ, cho dù còn những xung đột, có thể kích thích một sự quân bình mới. Giống như trong gia đình, trong Giáo Hội và xã hội cũng vậy: đừng bao giờ từ chối gặp gỡ, đối thoại, tìm những con đường mới để đồng hành với nhau.

Và ĐTC để lại cho các tín hữu 3 điểm tham chiếu, bắt đầu bằng 3 chữ P theo tiếng Ý:

– Trước tiên là Parola, Lời Chúa, là địa bàn để tiến bước trong khiêm tốn, để không bị lạc mất con đường của Thiên Chúa và rơi vào thái độ trần trục.

– Thứ hai là Pane, Bánh, Bánh Thánh Thể, vì từ Thánh Thể mọi sự bắt đầu. Chính trong Thánh Thể chúng ta gặp Giáo Hội, chứ không phải trong những chuyện tầm phào hoặc trong những tin tức thời sự, nhưng là tại đây, trong Mình Chúa Kitô được những người tội lỗi và túng thiếu chia sẻ, nhưng họ cảm thấy được yêu thương và ước muốn yêu mến.

– Thứ ba là Poveri, những người nghèo. Ngày nay vẫn còn bao nhiêu người thiếu những điều cần thiết. Nhưng cũng có bao nhiêu người nghèo tình thương, những người neo đơn, và nghèo Thiên Chúa. Nơi tất cả những người ấy chúng ta tìm thấy Chúa Giêsu, vì Chúa Giêsu trong thế giới đã đi theo con đường nghèo khó, tự hạ, như thánh Phaolô đã nói trong bài đọc thứ hai ngày lễ hôm nay… Từ Thánh Thể đến người nghèo, chúng ta đi gặp Chúa Giêsu. Anh chị em đã ghi lại câu nói mà ĐHY Lecaro thích thấy được khắc trên bàn thờ: ”Nếu chúng ta chia sẻ bánh thiên quốc, làm sao chúng ta không chia sẻ bánh trần thế?”. Chúng ta luôn nhớ đến điều ấy. Lời Chúa, Thánh Thể và người nghèo. Chúng ta hãy xin ơn không bao giờ quên những yếu tố cơ bản này, những yếu tố nâng đỡ hành trình của chúng ta”.

Kết thúc thánh lễ vào lúc gần 7 giờ chiều, ĐTC đã đáp trực thăng trở về Vatican.

G. Trần Đức Anh OP 

 

Đức Thánh Cha kêu gọi liên đới với những người thất nghiệp

Đức Thánh Cha kêu gọi liên đới với những người thất nghiệp

 

BOLOGNA. Trong cuộc gặp gỡ hàng ngàn người tại thành Bologna, trưa chúa nhật 1-10-2017, ĐTC đề cao tinh thần liên đới của dân chúng địa phương và ngài dùng bữa trưa với 1 ngàn người nghèo.

Lúc gần 1 giờ trưa, tại Quảng trường lớn ở trung tâm Bologna, ĐTC đã gặp gỡ đại diện giới lao động.

Ngỏ lời với hàng ngàn người trong dịp này sau lời chào mừng của Đức TGM sở tại Matteo Zuppi , ĐTC ca ngợi tinh thần đối thoại giữa các thực tại xã hội ở Bologna để ra khỏi những cuộc khủng hoảng và xây dựng tương lai. Và từ lâu tại đây đã có một kinh nghiệm cộng tác, các hợp tác xã, nảy sinh từ kinh nghiệm về tình liên đới. Ngài nói:

”Chúng ta đừng bao giờ đặt tình liên đới phải tùng phục tiêu chuẩn lợi lộc tài chánh, vì nếu làm như thế, tôi có thể nói là chúng ta cướp mất tình liên đới với những người yếu thế đang rất cần nó. Tìm kiếm một xã hội công bằng hơn không phải là một giấc mơ quá khứ nhưng là một sự dấn thân, một công việc mà tất cả mọi người đều cần.

”Tình trạng người trẻ thất nghiệp và của bao nhiêu người khác bị mất công ăn việc làm và không hội nhập được vào thị trường lao động là điều mà không bao giờ chúng ta được trở nên quen thuộc, coi chúng như thể chỉ là những con số thống kê mà thôi.”

ĐTC cũng nhận xét rằng: ”Cuộc khủng hoảng kinh tế có một chiều kích Âu Châu và hoàn cầu, và như chúng ta biết, nó cũng là một cuộc khủng hoảng luân lý đạo đức, khủng hoảng tinh thần và nhân bản. Nơi căn cội cuộc khủng hoảng này có một sự phản bội công ích từ phía cá nhân cũng như từ phía các nhóm quyền lực. Vì thế, cần phải loại bỏ thái độ coi luật lệ lợi lộc là trọng tâm và đặt con người và công ích ở vị trí trung tâm. Nhưng để cho vị trí trung tâm ấy được thực sự và hữu hiệu, thì không phải chỉ tuyên bố xuông, nhưng còn phải gia tăng những cơ hội kiến tạo công ăn việc làm xứng đáng. Đây chính là một công tác của toàn thể xã hội: đặc biệt trong giai đoạn này, toàn thể xã hội, với những thành phần khác nhau, đều được kêu gọi hết sức cố gắng để công ăn việc làm, vốn là yếu tố đầu tiên của phẩm giá, trở thành một quan tâm chủ yếu.

Sau bài huấn dụ ngắn trên đây, ĐTC đã mời mọi người cùng đọc kinh Truyền Tin và ngài ban phép lành cho mọi người. Rồi ngài tiến vào Vương cung thánh đường thánh Petronio ở ngay quảng trường, để dùng bữa trưa với 1 ngàn người nghèo tại đây. Thánh đường hùng vĩ này có 5 ngàn chỗ ngồi.

Đầu bữa ăn, ĐTC nói với các thực khách nghèo rằng:

”Anh chị em ở trung tâm của ngôi nhà này. Giáo Hội muốn anh chị em ở giữa. Giáo Hội là của tất cả mọi người, đặc biệt là của những người nghèo. Tất cả chúng ta đều là những người được mời, và chỉ nhờ ơn thánh của Chúa. Đó là một mầu nhiệm tình thương nhưng không của Thiên Chúa, Đấng muốn cho chúng ta trở thành con cái của Ngài ở đây, không phải do công trạng, nhưng là do tình thương của Chúa.”

Chiều hôm qua, ĐTC gặp các LM, tu sĩ và chủng sinh, các phó tế vĩnh viễn tại Nhà thờ chính tòa thánh Phêrô của Tổng giáo phận Bologna, trước khi gặp các sinh viên và giới đại học tại Quảng trường Thánh Đa Minh, rồi cử hành thánh lễ lúc 5 giờ chiều cho các tín hữu, trước khi trở về Roma.

G. Trần Đức Anh OP

 

Kinh nghiệm thiêng liêng của Jeannie Gaffigan sau khi mổ khối u trong đầu

Kinh nghiệm thiêng liêng của Jeannie Gaffigan sau khi mổ khối u trong đầu

Jeannie Gaffigan là một nữ kịch sĩ, nhà sản xuất và viết kich bản nổi tiếng người Mỹ, và cũng là vợ của kịch sĩ Jim Gaffigan. Năm 2016, bà được nhận giải thưởng Christopher, là giải thưởng dành cho các nhà sản xuất, đạo diễn và tác giả các sách, hình ảnh, và chương trình truyền hình đặc biệt, khẳng định giá trị cao nhất của tinh thần con người. Hồi đầu năm nay (2017), trong một lần đưa 5 đứa con đi gặp bác sĩ nhi khoa, bà Jeannie đã khám phá ra mình có một khối u to bằng quả táo, bao quanh các tế bào não. Thay vì suy sụp hoàn toàn, bà Jeannie đã lập tức chạy đến với Chúa và thưa với Ngài: “Con đang cần Chúa giúp đỡ. Chúa phải hướng dẫn con qua khó khăn này vì con không biết mình phải làm gì … và con còn nhiều việc phải làm cho Chúa.” Từ lúc đó, bà tiếp tục sống với đức tin và niềm tín thác.

Bà Jeannie kể lại trong cuộc một phỏng vấn; bà đã chịu đựng những cơn đau đầu và chóng mặt, bị mất cân bằng và thậm chí mất thính giác. Bà tưởng đó là những triệu chứng dị ứng khi giao mùa. Khi biết một bên tai của bà Jeannie không thể nghe được, một bác sĩ nhi khoa đã khám cho bà, nhưng không thể tìm thấy cái gì rõ ràng. Bác sĩ này đã gửi Jeannie đến gặp chuyên gia Tai Mũi Họng, nhưng bác sĩ này cũng không tìm ra nguyên nhân khiến Jeannie bị điếc một bên tai. Bà Jeanni được khuyên đi chụp cắt lớp và cuối cùng họ khám phá ra bà có một khối u lớn trong đầu, có thể đã phát triển từ cả năm rồi. Dù khối u lớn, nhưng may mắn đó là khối u lành tính, nếu không, ung thư với cỡ lớn như thế có thể giết chết bà Jeannie ngay lập tức. Nhưng khối u đó vẫn cần được giải quyết, nếu không nó có thể khiến bà bị liệt vì đè chèn lên não của bà. Đó là lúc bà Jeannie xin Chúa hướng dẫn và bà đã tìm được hướng đi đúng đắn. Vào Tuần Thánh, tháng 4 năm nay (2017), bà Jeannie đã xin một người bà con, một chiến binh cầu nguyện thật sự, bắt đầu làm những tuần cầu nguyện cho mình.

Lúc đó, các bác sĩ giải phẫu thần kinh mà bà Jeannie liên hệ đều kín lịch hẹn cho mãi đến tháng 5. Bà Jeannie gọi cho một chuyên gia thần kinh, là người bạn thời thơ ấu của bà, để xin ý kiến. Sau khi nhận được các bản sao chụp não của bà, ông cho biết là bà cần đến phòng phẫu thuật sớm bao nhiêu có thể. Bà Jeannie và chồng đã đến khoa phẫu thuật thần kinh bệnh viện Mount Sinai và được bác sĩ nổi tiếng Joshua Bederson khám. Vào thứ sáu Tuần Thánh, Jeannie đã được chụp não; các bác sĩ đã có bản đồ não của bà và họ đã làm một cuộc giải phẫu ảo về cách xử lý khối u và các dây thần kinh xung quanh nó. Sau đó họ nói với bà Jeannie: “Bà có thứ bảy và Chúa nhật phục sinh với gia đình. Ngày thứ hai, bà sẽ được phẫu thuật.”

Cuộc phẫu thuật 9 tiếng đã kết thúc tốt đẹp, nhưng thời gian hồi phục xảy ra các khó khăn. Cổ họng của bà Jeannie bị liệt tạm thời và cần có ống ôxy để thở, cũng như ống nối đưa thức ăn vào bao tử. Bà phải hút nước bọt của chính mình vì cơ quan chức năng thở và nuốt không làm việc, vì vậy bà bị viêm phổi cấp đe dọa đến mạng sống. Sau đoạn đường hồi phục dài 4 tháng, bà Jeannie cảm nghiệm không gì khác hơn là một phép lạ. Bà chia sẻ: “Tôi đã có những người đạo đức mạnh mẽ nhất trên thế giới cầu nguyện cho tôi… Tôi đã thấy phần tích cực của nhân loại vào lúc mà tôi cảm thấy môi trường của đất nước chúng ta là thứ đang bị chia cắt. Tôi thấy những con ngươi có niềm tin khác nhau và ý hướng chính trị khác nhau là những người tốt và tôi đã có lại ý thức về sức mạnh của cầu nguyện chuyển cầu và ý thức lại mục đích của tôi sống trên trái đất này và cho các con của tôi. Tôi đã có nhiều cuộc gặp gỡ thiêng liêng với Chúa trong những ngày thực sự đen tối ở trong bệnh viện. Không có gì để nghi ngờ là bàn tay của Chúa ở với tôi trên mỗi bước đường.”

Jeannie cũng nhìn thấy sự hiện diện của Chúa qua những sự việc khác. Đức hồng y Dolan đã điện thoại thăm Jeanni khi ngài đang ở Lộ đức; Đức hồng y nói với Jeannie là ngài đã cầu nguyện cho bà, và điều này rất có ý nghĩa với bà vì bà. Vào ngày Jeanni dự định xuất việc, bác sĩ yêu cầu cần có một y tá đi cùng về nhà và sắp đặt các dụng cụ y khoa mà bà cần ở nhà. Các bác sĩ lo lắng hơn khi Jeanni bị một cơn họ vào ngày hôm trước và làm cho ống thở tụt ra khỏi cuống họng. Và thật may, sơ Mary Doolittle, một ý tá và cũng là một người bạn thân của Jeannie đến thăm bà và đã đồng ý làm các việc bác sĩ yêu cầu.

“Thắp lên một ngọn nến thì tốt hơn là nguyền rủa bóng đêm”, đó là những lời khắc trên huân chương Christopher bà Jeannie đã nhận được. Giờ đây những lời đó có một ý nghĩa mới với bà. Bà kết luận: “Tôi luôn biết là người được cho nhiều thì được chờ đợi phải sinh lợi nhiều hơn và nếu tôi được Chúa ban cho bất cứ món quà nào, tôi cần sử dụng nó. Tôi luôn biết điều đó trong công việc của tôi, nhưng bây giờ, cần phải thực hành những điều dường như nhỏ bé hơn, giống như là đốt lên một ngọn nến, tốt hơn là những mục đích tham vọng to lớn là làm để thay đổi thế giới. Ngay lúc này, tôi đang thấy rõ rằng các con của tôi, các công việc của tôi ngay trước mặt tôi. Việc nhìn thấy điều Chúa đặt trước mặt chúng ta và chọn lựa Ngài ban cho chúng ta là điều quan trọng. Mọi người cần nhận ra điều này bởi vì sẽ không cần có một khối u não thì mới nhận ra điều này. Chúng ta tất cả cần được chữa lành. Hãy tìm kiếm những cơ hội để đốt lên những ngọn nến đó, ngày cả khi nó không phải là điều to lớn đầy tham vọng. Tất cả chúng ta đều muốn đốt lên 1000 ngọn nến, nhưng có một ngọn nến ngay trước mặt bạn mà Chúa đưa cho bạn. Hãy mở mắt bạn, nhìn vào nó và thắp nó sáng lên.” (Aleteia 12/09/2017)

Hồng Thủy

Các thiên thần được sai đến đồng hành với chúng ta trong cuộc đời

Các thiên thần được sai đến đồng hành với chúng ta trong cuộc đời

Chúng ta và các thiên thần có cùng ơn gọi. Đó là cùng nhau cộng tác vào kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa. Đức Thánh Cha chia sẻ như thế trong thánh lễ sáng nay tại nhà nguyện Marta, lễ kính ba Tổng lãnh thiên thần: Micae, Raphael, và Gabriel.

Phụng sự Thiên Chúa và giúp đỡ con người

Các thiên thần luôn ở trước mặt Chúa, để phụng sự và ca khen Chúa. Các ngài luôn ngắm nhìn vinh quang Thiên Chúa. Các ngài là những bậc chiêm niệm vĩ đại. Các ngài ngắm nhìn Thiên Chúa. Các ngài sống trong phục vụ và chiêm niệm. Và Chúa cũng sai các ngài ra đi, để đồng hành với chúng ta trên mỏi nẻo đường đời.

Ba Tổng lãnh thiên thần: Micae, Gabriel, và Raphael có vai trò đặc biệt trong công trình Thiên Chúa cứu độ chúng ta. Tổng lãnh thiên thần Micae đã chiến thắng trong cuộc chiến với ma quỷ, đã chiến thắng con mãng xà, chiến thắng con rắn xưa. Ngài chiến thắng những tên cám dỗ trong cuộc sống. Có tên cám dỗ ví như con rắn xưa: một mặt nó cám dỗ bà Evà, mặt khác nó tố cáo và buộc tội.

Chiến đấu – truyền tin – dẫn lối

Con rắn nói với bà Evà: Hãy ăn trái cây ấy, điều đó tốt mà, bà sẽ biết rất nhiều điều… Con rắn đã bắt đầu như thế. Nó dụ dỗ, quyến rũ chúng ta. Và khi chúng ta rơi vào cạm bẫy của nó, nó sẽ đi tố cáo và buộc tội chúng ta trước tòa Thiên Chúa. Nó sẽ nói về bạn trước mặt Chúa rằng: Đây là một kẻ tội lỗi, và kẻ ấy thuộc về tôi. Như thế, ma quỷ muốn dành quyền sở hữu trên bạn. Nó muốn cám dỗ bạn, muốn làm chủ bạn, muốn tước đoạt bạn, muốn tố cáo bạn. Trong hoàn cảnh ấy, thiên thần Micae bước vào cuộc chiến. Ngài giúp chúng ta chiến thắng tên cám dỗ. Ngài giúp chúng ta đi từ cuộc sống này lên thiên đàng. Ngài giúp chúng ta thoát khỏi cơn cám dỗ.

Như thế, Tổng lãnh thiên thần Micae có vai trò bảo vệ Giáo hội và bảo vệ từng người chúng ta. Còn với Tổng lãnh thiên thần Gabriel, ngài là vị đưa tin tốt lành. Ngài truyền tin cho Trinh nữ Maria, truyền tin cho ông Dacaria, truyền tin cho thánh Giuse. Sứ thần Gabriel đưa tin về ơn cứu độ mà Thiên Chúa muốn ban tặng cho con người. Thậm chí, sứ thần Gapriel luôn đồng hành và ở bên chúng ta trên từng bước đường đời. Ngài nhắc chúng ta, mỗi khi chúng ta quên Tin Mừng của Chúa Giêsu. Ngài nhắc chúng ta nhớ rằng: Chúa Giêsu đã đến ở cùng chúng ta để cứu độ chúng ta.

Vị thứ ba là sứ thần Raphael. Ngài cùng nhịp bước với chúng ta, giúp chúng ta trong hành trình cuộc sống, để nâng đỡ chúng ta. Chúng ta cần bàn hỏi với ngài, cần nhờ ngài trợ giúp, để chúng ta không bị quyến rũ mà đi sai đường lạc lối.

Cầu nguyện với các thiên thần

Như thế, ba thiên thần ấy là bạn đồng hành của chúng ta trong cuộc sống này. Hãy cầu nguyện với các vị bằng những lời nguyện đơn sơ. Lạy các tổng lãnh thiên thần, xin các ngài luôn đi cùng con và nâng đỡ con.

Lạy sứ thần Micae, xin hãy giúp con trong cuộc chiến đấu thiêng liêng. Để con biết nhận ra những vấn đề trong cuộc chiến thường ngày. Để con biết phân biệt đâu là vấn đề chính. Để con biết nhận ra dấu chỉ của ơn cứu độ. Để cùng với sự trợ giúp của ngài, con có thể chiến thắng. Lạy sứ thần Gabriel, xin mang đến cho chúng con tin vui, Tin Mừng của ơn cứu độ, rằng Chúa Giêsu ở cùng chúng con, rằng Chúa Giêsu cứu độ chúng con và ban cho chúng con niềm hy vọng. Lạy sứ thần Raphael, xin cầm tay dẫn lối con đi, xin giúp con trên từng bước đường đời, để con không lầm đường lạc lối, xin giữ gìn con.

Tứ Quyết SJ

Cha Airton Freire, vị linh mục sống ở bãi rác để cứu vớt “những người rác”

Cha Airton Freire, vị linh mục sống ở bãi rác để cứu vớt “những người rác”

“Chúng ta ở trên trái đất là để phục vụ”, đây là khẩu hiệu của Hiệp hội Trái đất do Cha Airton Freire de Lima thành lập. Bên cạnh hiệp hội Trái đất, cha Airton còn thành lập tu hội các Tôi tớ Chúa. Mọi hoạt động của hiệp hội và tu hội này là để phục vụ những người nghèo nhất trong các người nghèo.

Sau khi được lãnh nhận thiên chức linh mục vào ngày 13 tháng 2 năm 1982, cha Airton nhận bài sai đến làm cha sở của một giáo xứ ở thành phố Arcoverde, một vùng quê của bang Pernambuco. Chỉ vài tháng sau đó, một nhóm trẻ đã mời cha đi thăm một khu vực đặc biệt trong thành phố, và cha đã được biết có một nơi có những người rất đặc biệt của thành phố, đó là nơi chứa rác. Chính quyền thành phố đưa rác ra khu vực ngoại ô, xa thành phố, để giữa đồng trống, không bận tâm về các vấn đề môi trường hay xã hội. Bãi rác này như hình ảnh đau khổ thu nhỏ của thành phố Arcoverde. Tại đây, nhiều gia đình sống nhờ vào rác, ăn những thực phẩm còn dư mà họ tìm thấy trong thùng rác. Họ không chỉ thu nhặt các rác thải để sống qua ngày, nhưng họ sinh sống ngay tại đó, giống như chính họ cũng là những thứ “rác người”. Họ sống trong các khu ổ chuột được làm bằng giấy hay bằng thiếc, không có điện nước và các dịch vụ vệ sinh, không có những con đường trải nhựa, không có trường học và dịch vụ y tế. Họ sống bên lề xã hội, ngay cả khi đó là một xã hội được gọi là Kitô giáo.

Những điều nhìn thấy ở bãi rác đã gây sốc cho cha Airton và làm cho cha Airton suy nghĩ trăn trở. Cha đã dâng Thánh lễ ngay cạnh bãi rác. Trong Thánh lễ đó, một em bé bị đói khát, đã xin ăn “bánh lễ”, vì em nghĩ đó là bánh bích quy. Sự việc này giúp cha Airton thấy rõ mối liên hệ giữa Mình Chúa Kitô và bánh ăn làm giảm cơn đói khát của cả linh hồn và thể xác và cha đã quyết định thay đổi cách sống: chính cha đã đến sống ở con đường mang tên bãi rác, sống nghèo khó giữa những người nghèo khổ, làm việc để thăng tiến những con người nghèo khổ nhất. Cũng chính ở đây cha Airton đã thành lập Hiệp hội Trái đất, sau đó đổi thành hội Trái đất của các tôi tớ Chúa. Hội được sinh ra trong cộng đồng này để giải cứu “những con người rác” sống ở đây. Hội Trái đất được chính thức thành lập vào ngày lễ sinh nhật Đức Mẹ, ngày 8 tháng 9 năm 1984.

Ngày 29 tháng 4 năm 1999, sau những ngày ăn chay và cầu nguyện, cha Airton đã thành lập cộng đoàn Cuộc sống của các Tôi tớ Chúa. Ngày 31 tháng 5 cùng năm đó, cha Airton đã chọn địa điểm để xây một ngôi nhà nguyện kính cha thánh Piô làng Pietrelcina và Đức Mẹ Vô nhiễm. Chính tại đây, tu hội các Tôi tớ Chúa đã ra đời cùng với nhà tĩnh tâm Thánh gia và các nhóm cầu nguyện được gọi là các Nhóm Trái đất do tu hội các Tôi tớ Chúa của cha Airton điều hành. Cha Airton đã phát hành 180 CD thu các bản nhạc và các bài giảng của cha, xuất bản 90 cuốn sách và còn tổ chức các buổi tĩnh tâm ở Brasil và ở nước ngoài.

Ngày nay, tổ chức Trái đất, qua các dự án, và nhờ sự đóng góp của các cá nhân, các doanh nghiệp và chính quyền, chuyên lo hoạt động trong các lãnh vực xã hội, sức khỏe, giáo dục, nhà ở, giúp đỡ cho hơn 2000 người mỗi năm, đặc biệt là tại các bang Pernambuco và Ceará. Các chương trình này khá quan trọng và có quy mô tương đối lớn, vì nó bao gồm từ các nhà trẻ cho đến bệnh viện, các trường học, các trường nghề, các trợ giúp y tế và tâm lý, cung cấp lương thực, dạy chữ cho người lớn, phục hồi các thanh thiếu niên nhờ các chương trình thể thao văn hóa, đào tạo các nhà kinh doanh, cung cấp tín dụng nhỏ và hỗ trợ cho việc tổ chức các hoạt động sản xuất. (Aleteia 18/03/2017)

Hồng Thủy

Có cái nhìn theo luận lý tình yêu thương xót của Thiên Chúa là Cha

Có cái nhìn theo luận lý tình yêu thương xót của Thiên Chúa là Cha

Thiên Chúa muốn mời gọi tất cả mọi người làm việc cho Nước Ngài và sau cùng Ngài muốn ban cho tất cả mọi người cùng phần thưởng như nhau, nghĩa là ơn cứu rỗi, cuộc sống vĩnh cửu. Ngài muốn chúng ta cũng có được cái nhìn thương xót quảng đại và con tim nhân lành như con tim của Ngài.

ĐTC Phanxicô đã nói như trên với hàng ngàn tín hữu và du khách hành hương tham dự buổi đọc Kinh Truyền Tin trưa Chúa Nhật 24-9-2017.

Trong bài huấn dụ ĐTC quảng diễn ý nghĩa Phúc Âm kể lại đụ ngôn ông chủ vườn nho ra thuê thợ công nhật làm việc trong vuờn nho của ông. Dụ ngôn vườn nho diễn tả Thiên Chúa ban sáng ra thuê một nhóm thợ công nhật, và thoả thuận với họ giá cả là một đồng mỗi ngày. Đó là giá cả công bằng. Thế rồi ông cũng ra vào các giờ tiếp theo – 5 lần trong ngày đó ông ra ngoài cho tới chiều, để thuê thợ công nhật và thấy họ thất nghiệp.

Vào cuối ngày ông truyền trả lương một đồng cho tất cả mọi người, kể cả những người chỉ làm việc ít giờ. Đương nhiên là các người thợ được thuê đầu tiên than phiền, bởi vì họ nhận thấy họ cũng chỉ được trả có một đồng như những người đã làm việc ít hơn. Tuy nhiên, ông chủ nhắc cho họ biết rằng họ đã nhận tiền công như đã thoả thuận, thế rồi nếu ông muốn quảng đại đối với các người khác, thì họ không được ghen tương.

Thật ra, sự “bất công” ấy của ông có dụng ý khơi dậy nơi người nghe  dụ ngôn một bước nhảy về phẩm, bởi vì ở đây Chúa Giêsu không muốn đề cập tới công  việc làm và tiền công đúng đắn, nhưng là Nước Thiên Chúa. ĐTC giải thích sứ điệp dụ ngôn như sau:

Và sứ điệp là thế này: trong Nước Thiên Chúa không có người thất nghiệp, tất cả mọi người đều được mời gọi làm phần của mình; và sau cùng sẽ có phần thưởng đến từ sự công bằng của Thiên Chúa cho tất cả mọi người,  chứ không phải sự công bằng của con người – thật là may mắn cho chúng ta! – nghĩa là ơn cứu rỗi mà Chúa Giêsu Kitô đã chiếm được cho chúng ta bằng cái chết và sự sống lại của Ngài. Một sự cứu rỗi không phải vì đáng công, nhưng được trao ban: ơn cứu rỗi nhưng không. vì thế “những người sau cùng sẽ là những người đầu tiên, và những người đầu tiên sẽ là những người sau cùng” (Mt 20,16).

Tiếp tục bài huấn dụ ĐTC nói: với dụ ngôn này Chúa Giêsu muốn mở rộng con tim của chúng ta cho cái luận lý tình yêu thương của Thiên Chúa Cha, là Đấng nhưng không và quảng đại. Đây là việc để cho mình bị kinh ngạc và hấp dẫn bởi các “tư tưởng” của Thiên Chúa và các “đường lối” của ngài, như ngôn sứ Isaia đã nhắc nhở, chúng không phải là các tư tưởng của chúng ta và không phải là các đường lối của chúng ta (x. Is 55,8). Các tư tưởng của con người thường bi ghi dấu bởi các ích kỷ và các lợi lộc cá nhân, và các đường lốí chật hẹp xấu xa và quanh co của chúng ta không thể so sánh với các con đường rộng rãi thẳng tắp của Chúa. Ngài dùng lòng thương xót – đừng quên điều đó: Chúa dùng lòng thương xót, Ngài  tha thứ một cách rộng rãi, Ngài tràn đầy quảng đại nhân lành và  đổ chúng đầy tràn trên từng người trong chúng ta, Ngài mở ra cho tất cả mọi người các vùng đất mênh mông của tình yêu và của ơn thánh của Ngài; chỉ có chúng là có thể trao ban cho trái tim con người sự đầy tràn của niềm vui.

Chúa Giêsu muốn chúng ta chiêm ngưỡng cái nhìn của ông chủ đó, cái nhìn mà với nó ông nhìn từng ngưởi trong đám thợ chờ đợi việc làm, và mời gọi họ đi làm vườn nho của ông. ĐTC giải thích cái nhìn của Thiên Chúa như sau:

Đó là một cái nhìn tràn đầy chú ý, tốt lành, một cái nhìn kêu gọi, mời mọc đứng lên, bắt đầu bước đi, bởi vì muốn sự sống cho từng người trong chúng ta, muốn một sự sống tràn đầy, dấn thân, được cứu rỗi khỏi sự trống rỗng và bất động. Thiên Chúa không loại trừ ai hết, và Ngài muốn rằng từng người đạt tới sự viên mãn. Đó là tình yêu của Thiên Chúa chúng ta, của Thiên Chúa là Cha chúng ta.

Xin Mẹ Maria Rất Thánh giúp chúng ta đón nhận trong cuộc sống của mình cái luận lý tình yêu thương, giải thoát chúng ta khỏi yêu sách đáng được phần thưởng của Thiên Chúa và khỏi sự phán xét tiêu cực trên những người khác.

Tiếp đến ĐTC đã đọc Kinh Truyền Tin và ban phép lành toà thánh cho mọi người.

Sau Kinh Truyền Tin ĐTC nhắc tới lễ phong chân phước cho cha Stanley Francis Rother, linh mục thừa sai, bị giết bởi thù ghét tôn giáo vì công việc rao truyền Tin Mừng và thăng tiến nhân bản cho dân nghèo của cha bên Guatemala. ĐTC nói: ước chi gương sáng anh hùng của ngài giúp chúng ta là những chứng nhân can đảm của Tin Mừng, bằng cách dấn thân cho phẩm giá con người.

ĐTC đã chào tín hữu Roma và các đoàn hành hương đến từ nhiều nước khác nhau, đặc biệt ca đoàn Cứ điểm truyền giáo Italia tại Berne bên Thụy Sĩ, cộng đoàn phong trào Hiệp thông và giải phóng Roma   cũng như các tín hữu Villadossola, Offanengo và Nola. Sau cũng ngài chúc mọi người một ngày Chúa Nhật an lành và xin tín hữu đừng quên cầu nguyện cho ngài.

Linh Tiến Khải

 

Đồng cảm và giúp đỡ những ai đang khổ đau

Đồng cảm và giúp đỡ những ai đang khổ đau

Đồng cảm, tiến đến, trở lại: Xin Chúa ban ơn sủng, để chúng ta có thể đồng cảm trước khổ đau của biết bao người, để chúng ta có thể tiến đến gần họ, và với đôi tay của mình, chúng ta đưa những anh chị em ấy trở lại với phẩm giá mà Thiên Chúa muốn ban cho họ. Đức Thánh Cha chia sẻ như thế trong thánh lễ sáng nay tại nhà nguyện Marta.

Lòng trắc ẩn

Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu động lòng thương, tiến lại gần và làm cho con trai duy nhất của bà góa thành Naim được sống lại. Trong Cựu Ước, những người bé nhỏ nhất là các cô nhi, quả phụ, những khách ngoại kiều, những người xa lạ. Chúng ta được mời gọi quan tâm chăm sóc những con người ấy, để giúp họ có thể hòa nhập vào xã hội. Chúa Giêsu là người có khả năng nhìn vào từng chi tiết của cuộc sống với trái tim từ bi thương xót. Chúa nhìn thấu trái tim con người.

Chạnh lòng thương, đồng cảm là sự rung cảm của con tim và không hề có chút gì mang tính loại trừ. Trong sự đồng cảm, trong lòng trắc ẩn, không có chỗ cho những thứ tựa như sự trừng phạt, cũng không có sự phân biệt kiểu như: Đúng là đồ tội lỗi nghèo hèn! Sự đồng cảm, lòng trắc ẩn thì bao gồm mọi người. Động lòng thương có nghĩa là cùng đau khổ, cùng sẻ chia nỗi đau với người khác.

Trong câu chuyện của bài Tin Mừng, Chúa nhìn đến, Chúa động lòng trắc ẩn, Chúa hướng tới bà góa ấy đang đau khổ vì mất đứa con duy nhất. Tại sao có cả một đám đông vây quanh mà Chúa không để tâm để ý? Bởi vì Chúa là Đấng từ bi thương xót. Bởi vì với Chúa, những con người bé nhỏ thì vô cùng quan trọng. Những con người bé nhỏ ấy luôn hiện diện trong trái tim Chúa. Bởi vì luôn luôn có mối dây liên kết giữa trái tim Chúa với những con người ấy.

Không nhìn từ xa

Từ lòng trắc ẩn, từ cái chạnh lòng thương ấy, Chúa tiến đến, Chúa tiếp cận những con người khổ đau. Bạn có thể thấy nhiều điều, nhưng bạn không đi tới. Còn Chúa thì khác, Người không nhìn từ xa nhưng Người đi tới và chạm vào thực tế của cuộc sống, thực tế của kiếp nhân sinh. Khi đến nơi, Chúa không nói: “Chào tạm biệt nhé, tôi sẽ tiếp tục hành trình của tôi”. Không. Chúa không nói thế. Chúa an ủi bà góa: Đừng khóc nữa! Chúa làm cho anh thanh niên sống lại. Chúa trao anh thanh niên cho bà mẹ. Như thế, việc của Chúa là chạnh lòng thương, là cứu chuộc con người, là đưa con người trở lại phẩm giá cao quý. Chúa đã tái sinh tất cả chúng ta.

Hãy làm như thế theo gương Chúa Kitô. Hãy đến với những ai đang cần, đừng giúp họ bằng cách đứng nhìn từ xa vì chê họ dơ bẩn. Đừng quên họ dơ bẩn vì họ thiếu nước, vì họ không được tắm. Chúng ta thường xem tin tức, đọc báo, nhưng hãy nhìn coi: các trẻ em ấy không có gì để ăn, các trẻ em phải trở thành chiến binh, các phụ nữ phải trở thành nô lệ. Chúng ta có thể nói: Ôi, thật là tệ hại! Ôi thật đáng thương những con người nghèo khổ! Sau đó chúng ta chuyển sang các trang khác, ví dụ các cuốn tiểu thuyết. Nếu chỉ như thế, thì không phải là một Kitô hữu.

Xin ơn biết cảm thương

Ngay bây giờ, tôi cần tự hỏi chính mình rằng: Tôi có lòng trắc ẩn hay không? Tôi có cầu nguyện về điều ấy không? Khi tôi thấy những con người khổ đau trên các phương tiện truyền thông, tôi có bị đụng chạm hay không, tâm hồn tôi có động lòng thương hay không? Nếu bạn không hề cảm thấy gì, nếu bạn không động lòng trắc ẩn, thì hãy xin Chúa tha thứ cho bạn với lời nguyện: “Lạy Chúa, xin ban cho con ơn biết chạnh lòng thương!”.

Với lời cầu nguyện, với những công việc phục vụ, là các Kitô hữu, chúng ta phải có khả năng giúp đỡ những ai đang đau khổ, để trả lại cho họ cuộc sống xã hội, trả lại cho họ cuộc sống gia đình, trả lại cho họ công ăn việc làm; nói ngắn gọn đó là cuộc sống thường ngày.

Tứ Quyết SJ

Phần hai bài phỏng vấn ĐTC Phanxicô trên máy bay từ Colombia về Roma

Phần hai bài phỏng vấn ĐTC Phanxicô trên máy bay từ Colombia về Roma

Ngày 11 tháng 9 vừa qua trên chuyến bay từ Cartagena bên Colombia về Roma ĐTC Phanxicô đã dành cho các nhà báo quốc tế một cuộc phỏng vấn dài về nhiều vấn đề của Colombia cũng như các vấn đề quốc tế. Sau đây chúng tôi xin gửi tới quý vị nội dung phần hai bài phỏng vấn này.

Sau các câu hỏi của các nhà báo Cesar Moreno, José Mujica, Hernan Reyes, và Elena Pinardi, tới phiên anh Enzo Romeo.

Hỏi: Con xin chào ĐTC, con tiếp câu hỏi của chị Elena. Tại sao trong các bài diễn văn tại Colombia ĐTC đã lại nhiều lần nói đến việc cần phải làm hoà với Thụ tạo, tôn trọng môi sinh như điều kiện cần thiết để có thể tạo ra một nền hoà bình xã hội ổn định. Và chúng ta trông thấy các hậu quả cuả sự kiện khí hậu thay đổi cả tại Italia nữa. Con không biết ĐTC có biết tin không đã có nhiều người chết tại tỉnh Livorno vì nước lũ và bùn.

Đáp: Có… sau ba tháng rưỡi không có mưa…

Hỏi: Vâng đúng thế. Tại Roma thì có biết bao nhiêu là thiệt hại… vì thế chúng ta tất cả đều bị liên lụy trong tình trạng này. Nhưng mà tại sao lại có sự chậm trễ trong việc ý thức như vậy, nhất là từ phía các chính quyền, mà xem ra họ lại nhanh chóng đến thế trong các lãnh vực khác – luôn luôn liên quan tói vấn đề vũ trang: chúng ta đang trông thấy thí dụ như cuộc khủng hoảng của Đại Hàn, cả liên quan tới vấn đề này con cũng thích có được ý kiến của ĐTC…

Đáp: Tại sao? Tôi nhớ tới một câu trong Thánh Kinh Cựu Ước, tôi tin là của Thánh Vịnh: “Con người là một đứa ngu dại, là một tên cứng đầu không trông thấy”. Con con vật duy nhất của Thụ Tạo đặt chân vào cùng một cái lỗ là con người. Con ngựa và các con vật khác thì không làm điều đó. Có sự kiêu căng, sự tự đủ… “Không, nó không biết như vậy…” và rồi có ông thần Túi. Không phải chỉ liên quan tới Thụ Tạo mà thôi đâu, nhưng đối với biết bao nhiêu điều, biết bao nhiêu quyết định, biết bao nhiêu mâu thuẫn và vài mâu thuẫn này tuỳ thuộc tiền bạc. Hôm nay tại Cartagena tôi đã bắt đầu một đàng gọi nó là phần Cartagena nghèo nàn đáng thương. Nghèo nàn đáng thương. Đàng khác là phần du lịch, sang trọng và sang trọng vô chừng mực luân lý, chúng ta hãy nói thế. Mà những người đi tới đó họ không nhận ra điều này sao? Hay các chuyên viên phân tích, các nhà xã hội chính trị không nhận ra sao? “Con người là một kẻ ngu si” Thánh Kinh đã nói thế. Và như vậy khi người ta không muốn trông thấy, thì họ không trông thấy. Người ta chỉ nhìn từ một phía thôi. Tôi không biết, và liên quan tới Bắc Hàn tôi xin nói thật, tôi không hiểu, tôi thật sự không hiểu. Nhưng tôi tin là đối với điều tôi thấy thì có sự tranh giành lợi lộc vượt thoát khỏi tôi, tôi thực sự không giải thích được. Nhưng có điều khác quan trọng mà người ta không ý thức được. Tôi nghĩ tới Cartagena hôm nay. Nhưng đây là điều bất công và người ta có thể ý thức không? Đó là điều đến trong trí tôi. Xin cám ơn anh.

** Ông Burke nói: bây giờ tới phiên chị Valentina Alazraki.

ĐTC nói: A, chị trưởng nhóm…

Chị Valentina hỏi ĐTC ra sao, có đau không?

Đáp: Không, không đau, nó chỉ làm tôi bầm mắt thôi.

Hỏi: Nhưng chúng con lấy làm tiếc cả khi nó không làm ĐTC đau. Thưa ĐTC mỗi lần gặp giới trẻ tại bất cứ phần đất nào trên trái đất này ĐTC luôn luôn nói với họ: “Các bạn đừng để cho niềm hy vọng bị ăn trộm, đừng để mình bị lấy trộm đi niềm vui và tương lai”. Rất tiếc bên Hoa Kỳ luật của “những người mơ mộng” đã bị huỷ bỏ: chúng ta đang nói tới 800,000 người trẻ Mexico, Colombia, và của biết bao nhiều quốc gia khác. ĐTC không tin rằng với luật này, với việc huỷ bỏ này các bạn trẻ này mất đi niềm vui, niềm hy vọng và tương lại hay sao? Thề rồi lợi dụng lòng tử tế của ĐTC và của các đồng nghiệp, con không biết ĐTC có thể đọc một lời cầu nguyện nhỏ, có một tư tưởng nhỏ cho tất cả các nạn nhân động đất tại Mexico và của cuồng phong Irma không? Con xin cám ơn ĐTC.

Đáp:  Thật không…. vâng tôi hỏi không biết chị nói về luật nào thế. Tôi đã nghe nói tới luật này, nhưng tôi đã không thể đọc các bài viết và người ta đã quyết định như thế nào. Tôi không biết rõ luật này, nhưng mà trước hết tách rời người trẻ khỏi gia đình không phải là một điều cho kết quả tốt: không tốt cho người trẻ, cũng không tốt cho gia đình, Tôi nghĩ rằng  luật này không đến từ Quốc hội nhưng từ Ban hành pháp và nếu là như thế – nhưng mà tôi không chắc – thì có hy vọng là người ta nghĩ lại một chút. Bởi vì tôi đã nghe tông thống Mỹ nói chuyện: ông ta trình diện như một người bênh vực sự sống, và nếu ông là một người phò sự sống giỏi, thì ông hiểu rằng gia đình là chiếc nôi của sự sống, và phải bênh vực sự hiệp nhất của nó. Vì thế tôi muốn nghiên cứu kỹ lưỡng luật này. Nhưng đúng thật là khi người trẻ cảm thấy – nói chung trong trường hợp này hay trong các trường hợp khác – khi người trẻ cảm thấy họ bị khai thác, như trong biết bao nhiêu trường hợp, thì sau cùng họ cảm thấy không có hy vọng. Và ai ăn cắp niềm hy vọng ? Đó là ma tuý, các tuỳ thuộc khác, tự tử… Người trẻ tự tử là sự kiện rất mạnh, và nó xảy ra, khi họ bị giật khỏi các gốc rễ. Thật rất quan trọng tương quan của một người trẻ với các gốc rễ của họ. Ngày nay các người trẻ bị bứng gốc kêu cứu: họ muốn tìm trở lại gốc rễ của họ. Chính vì thế tôi nhấn mạnh rất nhiều trên cuộc đối thoại giữa các người trẻ và người già… bởi vì ở đó có các gốc rễ, và chúng ở xa hơn một chút, để tránh các xung khắc có thể có với các gốc rễ gần hơn như gốc rễ của cha mẹ. Nhưng giới trẻ ngày nay cần tìm lại được các gốc rễ. Bất cứ điều gì đi ngược lại các gốc rễ, thì ăn cắp niềm hy vọng. Tôi không biết tôi đã trả lời ít nhiều cho câu hỏi của chị chưa.

Hỏi: Họ có thể bị đầy khỏi Hoa Kỳ thưa ĐTC…

Đáp: Vâng, vâng: họ mất đi một gốc rễ… Đây là một vấn đề. Nhưng thật thế tôi không muốn có ý kiến liên quan tới luật này, bởi vì tôi đã không đọc nó và tôi không thích nói về điều mà tôi đã không nghiên cứu trước. Thế rồi chị Valentina là người Mexico và đất nước Mexico đã đau khổ biết bao nhiêu,  và với chuyện cuối cùng này tôi xin tất cả mọi người vì tình liên đới với chị trưởng nhóm – và có một anh trưởng nhóm khác nữa ở đầu kia – tôn xin một lời cầu nguyện cho quê hương của chị. Xin cám ơn.

** Ông Burke nói : Xin cám ơn ĐTC. Bây giờ tới phiên anh Fausto Gasparroni của hãng thông tấn ANSA

Hỏi : Thưa ĐTC, nhân danh nhóm các nhà báo nói tiếng Ý con muốn hỏi một câu liên quan tới vấn đề của người di cư, cách riêng sự kiện mà Giáo Hội Italia mới đây đã nói lên – chúng ta hãy nói như thế – một loại cảm thông đối với chính sách mới của chính quyền là thắt chặt vấn đề các cuộc khởi hành từ Libia và như vậy thắt chặt các vụ đổ bổ vào Italia. Người ta cũng viết rằng đã có một cuộc gặp gỡ của ĐTC với ngoại trưởng Gentiloni. Chúng con muốn biết đề tài này đã có thực sự được đề cập tới trong cuộc gặp gỡ này hay không, đã có cuộc gặp gỡ hay không và đề tài có được nói tới hay không, và nhất là ĐTC nghĩ gì về đường lối chính trị đóng các cuộc khởi hành này, cũng để ý đến sự kiện các người di cư ở trên đất Libia – như đã được các cuộc điều tra chứng minh – họ phải sống trong các điều kiện vô nhân, trong các điều kiện vô cùng bấp bênh. Con xin cám ơn ĐTC.

Đáp : Trước hết cuộc gặp gỡ với Bộ trưởng Gentiloni đã là một cuộc gặp gỡ cá nhân và không liên quan tới đề tài này. Cuộc gặp gỡ đã xảy ra trước vấn đề. Vấn đề đã nảy sinh sau vài tuần, hầu như một tháng sau. Nghĩa là truớc khi có vấn đề.

Thứ hai, tôi cảm thấy có bổn phận biết ơn hai nước Italia và Hy Lạp, vì họ đã mở rộng con tim cho người di cư. Nhưng mở rộng con tim thôi không đủ. Vấn đề của người di cư là trước hết rộng mở con tim, luôn luôn rộng mở con tim. Vì đó cũng là một điều răn của Chúa dậy tiếp đón họ, « vì ngươi đã là nô lệ, di cư bên Ai Cập », Thánh Kinh nói thế. Nhưng một chính quyền phải diều hành vấn đề này với nhân đức riêng của người cai trị, nghĩa là với sự thận trọng. Nó có nghĩa là gì ? Trước hết : tôi có bao nhiêu chỗ ? Thứ hai : không chỉ tiếp nhận họ, nhưng phải sát nhập họ vào cuộc sống. Sát nhập họ. Tôi đã trông thấy biết bao nhiêu thí dụ – ở Italia này – các thí dụ hội nhập rất tốt đẹp ; Khi tôi đến thăm đại học Roma III, đã có 4 sinh viên hỏi tôi ; chị sinh viên cuối cùng đưa ra câu hỏi. Tôi nhìn chị, và gương mặt này tôi biết mà. Và chị là bạn trẻ gần một năm trước đến từ đảo Lesbo với tôi trong cùng chuyến bay. Chị đã học tiếng, và vì chị đã học môn sinh học tại nước của chị, nên chị đã xin được công nhận ngang hàng với chương trình tại Italia và đã tiếp tục học. Chị đã học tiếng Ý… điều này gọi là hội nhập. Trong một chuyến bay khác khi tôi từ Thụy Điển trở về,  tôi tin thế, tôi đã nói về chính sách hội nhập của Thụy Điển như một mô thức, và cả chính quyền Thụy Điển cũng đã nói : « Con số là thế này. Nhiều hơn thì tôi không thể nhận », bởi vì có nguy cơ không hội nhập. Thứ ba, có một vấn đề nhân đạo, là vấn đề mà anh đề cập tới. Nhân loại ý thức được các trại tập trung này, về các điều kiện mà anh nói tới trong sa mạc. Tôi đã trông thấy các hình chụp… Trước hết là các người khai thác bóc lột… Tôi tin rằng anh đã nói tới chính quyền Italia, chính quyền cho tôi cảm tưởng là đang làm tất cả cho các công tác nhân đạo là cũng giải quyết vấn đề mà họ không thể đảm trách. Nhưng con tim luôn rộng mở, thận trọng, hội nhập và gần gũi nhân đạo. Và có một điều cuối cùng, đây là điều tôi muốn nói và điều này có giá trị nhất là đối với Phi châu. Có trong tiềm thức tập thể của chúng ta một khẩu hiệu, một nguyên tắc : « Phải khai thác bóc lột Phi châu ». Hôm nay tại Cartegena  chúng ta đã trông thấy một thí dụ của việc khai thác bóc lột con người. Và một thủ tướng chính phủ đã làm và đã nói lên một sự thật rất đẹp : « Những người chạy trốn chiến tranh là một vấn đề. Nhưng có biết bao nhiêu người chạy trốn đói khát : chúng ta hãy đầu tư tại đó để cho họ lớn lên ». Nhưng trong tiềm thức tập thể có sự kiện là biết bao quốc gia phát triển sang Phi châu là để khai thác bóc lột. Và chúng ta phải lật ngược tình thế : Phi châu là bạn và cần được trợ giúp để lớn lên. Thế rồi có các vấn đề khác của chiến tranh đi theo các phe khác. Không biết với điều này tôi đã minh giải vấn đề chưa…

** Ông Burke nói còn một câu hỏi cuối cùng nữa của anh Xavier Le Normand.

Hỏi : Thưa ĐTC, hôm nay sau Kinh Truyền Tin ĐTC đã nhắc tới Venezuela. ĐTC đã nói rằng phải đẩy lui mọi loại bạo lực trong cuộc sống chính trị. Ngày thứ năm sau Thánh Lễ tại Bogota ĐTC đã chào 5 Giám Mục Venezuela. Chúng ta đều biết Toà Thánh đã và còn dấn thân rất nhiều cho một cuộc đối thoại tại nước này. Từ nhiều tháng qua ĐTC đã kêu gọi chấm dứt mọi bạo lực. Nhưng tổng thống Maduro một đàng đã có những lời lẽ rất bạo lực chống lại các Giám Mục, đàng khác ông cũng nói rằng ông đứng về phía ĐGH Phanxicô. Có thể có các lời lẽ mạnh mẽ hơn nữa và có lẽ rõ ràng hơn nũa không thưa ĐTC. Con xin cám ơn.

Đáp : Tôi tin rằng Toà Thánh đã nói rất mạnh và một cách rõ ràng. Điều mà tổng thống Maduro nói thì chính ông phải giải thích : tôi không biết tổng thống có gì trong trí ông. Nhưng Toà Thánh đã làm biết bao, đã gửi tới đó, trong nhóm làm việc của bốn nguyên tổng thống, đã gửi một Sứ Thần hàng đầu, rồi đã nói, đã nói với nhiều người, đã nói một cách công khai. Biết bao nhiêu lần trong Kinh Truyền Tin tôi đã nói về tình hình bằng cách luôn luôn tìm một lối thoát cho Venzuela và trợ giúp, bằng cách cống hiến trợ giúp để ra khỏi tình trạng này. Tôi không biết… nhưng xem ra rất khó, và điều đau lòng nhất là vấn đề nhân đạo : biết bao nhiêu người trốn chạy và khổ đau ; cũng có một vấn đề nhân đạo mà dầu sao đi nữa chúng ta cũng phải giúp giải quyết. Tôi tin rằng Liên Hiệp Quốc cũng phải lên tiếng để trợ giúp.

** Ông Burke nói : Thưa ĐTC con tin là chúng ta phải kết thúc. ĐTC hỏi : vì các dằn sóc của máy bay phải không ? Ông thưa : vâng.

ĐTC nói :

Người ta nói là có vài dằn sóc  và chúng ta phải đi về chỗ ngồi. Tôi cám ơn anh chị em, tôi cám ơn anh chị em rất nhiều vì công việc của anh chị em. Và một lần nữa tôi muốn cảm ơn gương sáng của nhân dân Colombia. Và tôi muốn kết thúc với một hình ảnh, hình ảnh đã đánh động tôi nhất nơi người Colombia, trong bốn thành phố tôi thăm viếng đã có đông dân chúng đứng hai bên đường chào đón. Điều đã đánh động tôi nhất là thấy các người cha, các bà mẹ giơ con lên cao cho chúng trông thấy Giáo Hoàng và để Giáo Hoàng chúc lành cho chúng. Như thể nói : « Đây là kho tàng của con, đây là niềm hy vọng của con, đây là tương lai của con. Con tin vào đó ». Điều đó đã đánh động tôi. Sự hiền dịu. Các đôi mắt của các người cha, các đôi mắt của các bà  mẹ. Rất đẹp. Rất đẹp ! Đây là một biểu tượng, biểu tượng của niềm hy vọng của tương lai. Một dân tộc có khả năng sinh con cái, rồi cho thấy chúng, làm cho chúng trông thấy như vậy, như thể để nói rằng : « Đây là kho tàng của tôi ». Đó là một dân tộc có niềm hy vọng và có tương lai. Xin cám ơn anh chị em rất nhiều.

** Ông Burke đại diện các nhà báo cám ơn ĐTC và chúc ngài nghỉ ngơi tốt.

Linh Tiến Khải

 

Phải luôn luôn tha thứ cho nhau

Phải luôn luôn tha thứ cho nhau

Với lòng thương xót vô bờ Thiên Chúa tha thứ cho chúng ta mọi tội lỗi vừa khi chúng ta chỉ tỏ lộ một dấu chỉ sám hối dù nhỏ bé đi nữa. Chính vì thế chúng ta cũng phải luôn luôn tha thứ cho nhau. Con người được tạo dựng nên giống hình ảnh của Thiên Chúa luôn luôn lớn hơn sự dữ nó phạm.

ĐTC Phanxicô đã nói như trên với hàng ngàn tín trong buổi đọc kinh Truyền Tin  trưa Chúa Nhật hôm qua.

Quảng diễn bài Phúc Âm kể lại dụ ngôn ông chủ quảng đại tha nợ cho người đầy tớ  van nài ông (Mt 18,21-35) ĐTC nói qua đó Chúa Giêsu không chỉ dậy chúng ta tha thứ, mà cũng thừa nhận rằng con người vì được tạo dựng nên giống hình ảnh của Thiên Chúa nên dù có phạm tội gây ra bất công, vẫn luôn luôn lớn lao hơn tội nó phạm. Thánh Phêrô hỏi: “Nếu người anh em phạm lỗi chống lại con, con phải tha cho họ bao nhiêu lần? Có phải  bẩy lần không?” (c. 21) Đối với thánh Phêrô thật đã là tột đỉnh tha cho cùng một người tới 7 lần; và đối với chúng ta có lẽ đã nhiều lắm, khi làm hai lần như thế. Nhưng Chúa Giêsu trả lời: “Thầy không bảo con bảy lần nhưng bẩy mươi lần bẩy” (.22) nghĩa là luôn luôn. Con phải tha thứ luôn luôn. Và Ngài xác nhận điều đó bằng cách kể lại dụ ngôn ông vua thương xót và người đầy tớ tàn ác, trong đó Ngài cho thấy sự không trung thực của người trước đó đã được tha nợ nhưng rồi lại khước từ tha thứ.

Ông vua của dụ ngôn là một người quảng đại, vì cảm thương nên tha một món nợ khổng lồ “mười ngàn nén bạc”- khổng lồ,  cho một đầy tớ van nài ông. Nhưng chính người đầy tớ ấy , vừa gặp một đầy tớ khác như anh nợ anh một trăm đồng – nghĩa là rất ít hơn nhiều – lại hành xử một cách không thương xót, bằng cách ném người đó vào tù. ĐTC nói:

Thái độ không trung thực của người đầy tớ này cũng là thái độ của chúng ta, khi chúng ta từ chối tha cho các người anh em của chúng ta. Trong khi ông vua của dụ ngôn là hình ảnh của Thiên Chúa là Đấng yêu thương chúng ta với một tình yêu giầu lòng thương xót như thế, đến độ tiếp đón, yêu thương và liên tục tha thứ cho chúng ta.

Ngay khi chúng ta được rửa tội Thiên Chúa đã tha thứ cho chúng ta, tha cho chúng ta một món nợ không thể trả được là tội nguyên tổ. Nhưng đây là lần đầu tiên. Rồi với một lòng thương xót vô bờ Ngài tha thứ cho chúng ta tất cả mọi lỗi lầm, vừa khi chúng ta cho thấy một dấu chỉ nhỏ của sự hối hận. Thiên Chúa là như thế: thương xót. Khi chúng ta bị cám dỗ khép kín con tim của mình với người đã xúc phạm đến chúng ta và xin lỗi chúng ta, chúng ta hãy nhớ tới các lời Thiên Chúa Cha trên trời nói với người đầy tớ không thương xót: “Ta đã tha tất cả món nợ cho ngươi vì ngươi van xin Ta. Ngươi lại không phải thương xót anh bạn của ngươi, như Ta đã thương xót ngươi hay sao?” (cc.32.33). Bất cứ ai đã sống kinh nghiệm niềm vui, sự an bình và tự do nội tâm, đến từ việc được tha thứ, thì tới lượt mình có thể rộng mở cho khả năng tha thứ.

Trong Kinh Lậy Cha Chúa Giêsu đã muốn đưa chính giáo huấn của dụ ngôn này vào. Ngài đã đặt trong tương quan trực tiếp sự tha thứ mà chúng ta xin với Thiên Chúa với sự tha thứ mà chúng ta phải trao ban cho các người anh em khác của chúng ta. “Xin tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con” (Mt 6,12). ĐTC giải thích điểm này như sau:

Sự tha thứ của Thiên Chúa là dấu chỉ tình yêu tràn bờ của Ngài đối với từng người trong chúng ta; đó là tình yêu để cho chúng ta tự do xa rời, như người con hoang đàng, nhưng chờ đợi chúng ta trở về mỗi ngày; đó là tình yêu hoạt động của người mục tử đối với con chiên lạc; đó là sự hiền dịu tiếp dón mọi người tội lỗi gõ cửa nhà Ngài.

 Thiên Chúa Cha trên trời, Cha chúng ta, tràn đầy tình yêu thương, tràn đầy tình yêu thương và muốn cống hiến nó cho chúng ta, nhưng Ngài không thể làm điều đó nếu chúng ta khép kín con tim cho tình yêu đối với các người khác.

Xin Đức Trinh Nữ Maria giúp chúng ta luôn luôn ý thức được sự nhưng không và vĩ đại của ơn tha thứ nhận được từ Thiên Chúa, để trở nên thương xót như Ngài, là Cha nhân từ, chậm giận và lớn lao trong tình yêu.

Tiếp đến ĐTC đã đọc Kinh Truyền Tin và ban phép lành toà thánh cho mọi người.

Sau Kinh Truyền Tin ĐTC đã chào tín hữu đến từ nhiều nơi trên thế giới, trong đó có đoàn hành hương La Plata của Argentina, các sĩ quan trường quân đội Colombia và các giáo lý viên vùng Rho.

Ngài cũng chào các tham dự viên cuộc chạy Con đường hoà bình qua nhiều nơi phụng tự của các Giáo Hội hiện diện tại Roma. Ngài cầu chúc sáng kiến văn hoá và thể thao này có thể tạo thuận tiện cho cuộc đối thoại, sự chung sống và hoà bình.

ĐTC cũng chào nhiều bạn trẻ đến từ đền thánh Đức Bà Loreto trung Italia, do các cha dòng Capucini tháp tùng. Họ bắt đầu với một ngày suy tư nguyện gẫm. Ngài nói: “các bạn đem hương thơm của Đền thánh Nhà Đức Mẹ đến cho chúng tôi, xin cám ơn”. Ngài cũng chào các thiện nguyện viên “Pro Loco” và những người đi bộ bắt đầu cuộc thi hôm qua tại Assisi và chúc họ đi bộ giỏi. Sau cùng ĐTC xin mọi người đừng quên cầu nguyện cho ngài.

Linh Tiến Khải