Luật trọng đại nhất

Luật trọng đại nhất

Hôm nay Chúa Nhật 30 Thường Niên, Chúa Giêsu và Mẹ Giáo Hội muốn nhắn gửi chúng ta một giới luật quan trọng nhất của người tín hữu Kitô, đó là giới răn "Mến Chúa và Yêu Người". Đây là một giới răn được gồm tóm tất cả các giới răn trong đạo. Vì thế, khi đến trần gian, Chúa Giêsu không chỉ đến để giải thoát con người khỏi mọi tội lỗi mà thôi, nhưng Ngài muốn giải thoát con người một cách toàn diện, tức là khỏi mọi áp bức bất công, khỏi mọi độc tài kìm kẹp, cốt để đem lại cho con người được tự do, hầu sống đúng với phẩm giá của mình là người Kitô hữu. Vào thời Chúa Giêsu, trong xã hội Do Thái bấy giờ, con người lúc nào cũng bị trói buộc bởi những lề luật. Bởi thế, người ta đếm được 248 điều dạy phải làm và 365 điều buộc phải tránh. ‘Nhất cử nhất động’ con người đều nằm trong mạng lưới chằng chịt của lề luật. Đó là điều làm cho con người lúc nào cũng mang tâm trạng lo âu, sợ sệt. Không biết tôi làm điều kia việc nọ có đúng luật không? Và nếu tôi sai luật thì tôi không phải là người công chính.

Thật vậy, nếu con người chỉ căn cứ vào những luật lệ bó buộc như vậy thì đó là một sai lầm, vì lấy lề luật làm nền tảng cho đời sống luân lý để đo mức độ công chính của đời sống con người. Bởi vậy, chúng ta không lạ gì thế giới có học của thời đại Do Thái bấy giờ, như các luật sĩ và biệt phái nhờ học biết luật và giữ luật nên họ cho là công chính, là thánh thiện, là hoàn hảo hơn người, đến độ trở nên kiêu căng, hách dịch với đại đa số dân chúng là những người không am tường lề luật để tuân giữ.

Nhưng Chúa Giêsu đến, Ngài đã đặt lại nền tảng sự công chính, đem đến sự sống đời đời trên tình yêu thương. Ngài đã phản đối những lề luật chẻ cọng tóc ra làm tư đó. Lề luật đặt ra để giúp cho con người, chứ không phải con người sinh ra để giữ lề luật. Vì thế, Chúa Giêsu đã đưa ra một giới luật yêu thương hết sức quan trọng: "Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi". Đó là điều răn thứ nhất, và điều răn thứ hai cũng giống như điều răn thứ nhất là "ngươi hãy yêu thương anh em như chính mình ngươi". Thật ra, Chúa Giêsu không dạy làm điều chi mới lạ, vì hai điều răn đó đã có trong Cựu ước, trong sách Đệ Nhị Luật và Lêvi. Ngài chỉ lấy hai điều đó nhập lại làm một và đặt nó làm nền tảng cho đời sống con người chúng ta.

Chúa Giêsu đã dạy cho con người biết Thiên Chúa là người Cha nhân từ. Trong lịch sử nhân loại, đây là lần đầu tiên qua lời dạy của Chúa Giêsu, con người gọi Thiên Chúa là Cha: "Lạy Cha chúng con ở trên trời". Một người con ngoan biết thương cha mến mẹ, khi làm một việc gì không cần phải coi cha mẹ tôi có cấm cái này không? Có cho phép cái kia không?

Nếu có cấm thì cố tìm xem trong các lời cấm đó có câu nào, tiếng nào để có thể tìm ra một kẽ hở để lánh qua không? Nhưng một người con ngoan bao giờ cũng tự hỏi: "Tôi làm cái này, cha mẹ tôi có vui không? Và tôi chỉ thích làm cho cha mẹ tôi hài lòng mà thôi ".

Thánh Augustinô sau khi hiểu rõ lời dạy của Chúa Giêsu, ngài đã đưa ra một định luật táo bạo: "Hãy yêu đi rồi làm gì thì làm". Khi chúng ta yêu mến Thiên Chúa thì chúng ta đâu dám cả lòng cố tình làm mất lòng Thiên Chúa được. Khi chúng ta yêu mến anh chị em mình thật lòng, thì làm sao chúng ta dám nói xấu người khác được, làm sao chúng ta thấy người hoạn nạn mà mình vui được, làm sao chúng ta cố tình làm hại người khác được.

Để dễ thấy tầm quan trọng của hai điều răn "Mến Chúa và Yêu Người" trong đời sống, chúng ta hãy hình dung đó là hai chiều kích trong cuộc sống của người Kitô hữu chúng ta: Chiều dọc nối liên hệ với Thiên Chúa và chiều ngang nối liên hệ với tha nhân. Hai chiều kích đó hợp lại thành cây Thánh giá, đó là dấu hiệu của người Công giáo chúng ta. Hằng ngày chúng ta thấy hình ảnh của cây Thánh giá khắp nơi, trong nhà thờ, nơi nhà ở và chúng ta còn có những người luôn mang Thánh giá trong mình, bởi thế không ai có thể hình dung cây Thánh giá mà chỉ có một chiều hoặc dọc hoặc ngang mà thôi.

Tôi còn nhớ trong những năm chiến tranh ở Việt Nam, một đêm nọ họ đạo tôi bị pháo kích, sáng ra tôi đi thăm hỏi và an ủi kẻ đau khổ và thăm những người lớn tuổi để củng cố tinh thần của họ trong cảnh lo âu sợ hãi. Tôi ghé thăm một bà đạo đức nọ, bà đi lễ hằng ngày không bỏ sót một ngày nào hết; Chúa Nhật có hai lễ bà cũng đi dự cả hai Thánh lễ luôn. Nhưng khi tôi ghé vào thăm bà, bà nói với tôi rằng: "Thưa cha, thật Chúa thương con vô cùng, vì đêm rồi khi họ pháo kích vào làng, con cầu xin Chúa hết lòng hết sức và Chúa đã nhận lời con rõ ràng cha ơi. Bằng chứng là bao nhiêu bom đạn, pháo kích đều rơi ở xóm trên hết". Bấy giờ tôi nghĩ thầm trong lòng: "Chúa mà nhận lời bà kiểu đó, thì chết mẹ người ta hết rồi".

Vậy khi chúng ta chỉ mến Chúa mà quên yêu người thì cũng lố bịch và buồn cười như câu chuyện của bà già trên vậy thôi. Tình yêu đối với tha nhân phải là sự biểu lộ ra bên ngoài của tình yêu đối với Thiên Chúa. Tình yêu đối với Thiên Chúa hoàn thiện hoá đối với tha nhân, không thể tách rời hai tình yêu đó ra khỏi đời sống đạo của mình được.

Khi chúng ta yêu mến Thiên Chúa thật sự, tự nhiên chúng ta cảm thấy yêu mến tất cả anh em đồng loại của mình, và khi chúng ta yêu mến anh em đồng loại của mình đến nơi, đến chốn với tất cả lòng bác ái vị tha, tự nhiên tâm hồn chúng ta hướng về Thiên Chúa. Chúng ta nên nhớ kỹ hai điều này: "Ai bảo mình mến Chúa mà không yêu thương anh em thì là kẻ nói dối. Còn ai bảo mình yêu người mà không mến Chúa thì là sai lầm".

Xin Chúa cho tất cả chúng ta được mến Chúa hết tâm hồn, biết yêu thương anh em mình như chính mình vậy, để cho danh Chúa được cả sáng, nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời.

Sưu tầm

Đức Thánh Cha tiếp kiến chung: kêu gọi chống chia rẽ, ghen tương

Đức Thánh Cha tiếp kiến chung: kêu gọi chống chia rẽ, ghen tương

VATICAN. Trong buổi tiếp kiến chung 60 ngàn tín hữu hành hương sáng ngày 22-10-2014, ĐTC Phanxicô nhắn nhủ các tín hữu tránh chia rẽ, ghen tương trong cộng đoàn Giáo Hội.
Trong số các đoàn tín hữu hành hương, đông nhất vẫn là các đoàn nói tiếng Ý rồi đến tiếng Đức, đặc biệt là 3,500 tín hữu thuộc các giáo phận miền Romana bắc Italia; phái đoàn 1 ngàn người từ giáo xứ Đức Mẹ Núi Cát Minh ở Gela, dưới sự hướng dẫn của Đức GM giáo phận Piazza Amerina. Từ Việt Nam có một nhóm hành hương gồm 16 người thuộc Tổng giáo phận Sàigòn. Từ Nhật Bản có 160 tín hữu thuộc tổng giáo phận Tokyo về đây hành hương dưới sự hướng dẫn của Đức TGM Takeo Okada.
Sau phần tôn vinh lời Chúa với bài đọc ngắn trích từ thư thứ I của Thánh Phaolô nói về Giáo Hội như thân mình của Chúa Kitô. Đó cũng là đề tài được ĐTC khai triển trong loạt bài về Giáo Hội.
Bài huấn giáo của ĐTC
Anh chị em thân mến, chào anh chị em,
Khi muốn cho thấy rõ các yếu tố họp thành một thực tại liên kết chặt chẽ với nhau như thế nào và họp thành một thực thể duy nhất, người ta thường dùng hình ảnh một thân thể. Từ thánh Phaolô Tông đồ, thành ngữ này đã được áp dụng cho Giáo Hội và được coi là nét đặc trưng sâu xa nhất và đẹp nhất của Giáo Hội. Vì vậy hôm nay chúng ta hãy tự hỏi: theo nghĩa nào Giáo Hội họp thành một thân thể? Và tại sao Giáo Hội được định nghĩa là ”thân mình Chúa Kitô?”
Trong sách ngôn sứ Ezechiel có mô tả một thị kiến khá đặc biệt, gây rùng mình, nhưng có khả năng mang lại niềm tín thác và hy vọng cho tâm hồn chúng ta. Thiên Chúa tỏ cho ngôn sứ thấy một bãi xương, tách biệt nhau và khô cằn. Một cảnh tượng tiêu điều.. Rồi Thiên Chúa bảo ngôn sứ hãy khẩn cầu Thần Khí trên chúng. Thế là các xương ấy bắt đầu xích lại gần nhau và liên kết với nhau, trên các xương đó trước tiên các dây thần kinh tăng trưởng rồi đến các lớp thịt và họp thành một thân mình trọn vẹn và đầy sức sống (Xc Ez 37,1-14). Đó chính là Giáo Hội! là một kiệt tác của Thần Khí, Người phú vào mỗi người sự sống mới của Đấng Phục Sinh và đặt chúng ta cạnh nhau, phần tử này phục vụ và nâng đỡ nhau, và qua đó Chúa biến tất cả chúng ta thành một thân mình duy nhất, được kiến tạo trong tình hiệp thông và tình yêu.
Nhưng Giáo Hội không phải chỉ là một thân mình được kiến tạo trong Thần Khí: Giáo Hội là thân mình của Chúa Kitô! Đây không phải chỉ là một kiểu nói: chúng ta thực sự là như vậy! đó là một hồng ân lớn chúng ta nhận lãnh trong ngày chúng ta chịu phép rửa! Thực vậy, trong bí tích rửa tội, Chúa Kitô đã làm cho chúng ta thuộc về Chúa, đón nhận chúng ta trong trọng tâm mầu nhiệm thập giá, mầu nhiệm tột đỉnh tình thương của Ngài đối với chúng ta, để cho chúng ta được sống lại với Ngài, như những thụ tạo mới. Giáo Hội được khai sinh như thế, và Giáo Hội được nhìn nhận là Thân Mình Chúa Kitô! Phép rửa tội tạo nên một sự tái sinh đích thực, tái sinh chúng ta trong Chúa Kitô, làm cho chúng ta trở nên chi thể của Chúa, liên kết chúng ta với nhau chặt chẽ, như những chi thể của cùng một thân mình, có Chúa là đầu (Xc Rm 12,5; 1 Cr 12,12-13).
ĐTC nhận xét rằng:
”Điều nảy sinh từ đó chính là một sự hiệp thông sâu xa trong tình thương. Theo nghĩa này, lời khuyên nhủ của thánh Phaolô soi sáng, khi Thánh Nhân nhắn nhủ những người chồng ”hãy yêu thương vợ như chính thân thể của mình như Chúa Kitô vẫn yêu thương Giáo Hội, vì chúng ta là chi thể của Chúa” (Ep 5,28-30). Thật là đẹp nếu chúng ta năng nhớ lại mình là gì, Chúa Giêsu đã biến chúng ta thành gì: chúng ta là thân mình của Chúa, thân thể mà không gì và không ai có thể tách rời khỏi Chúa và Ngài bảo bọc thân mình ấy với tất cả lòng say mê và yêu thương của Ngài, như người chồng yêu thương vợ mình. Nhưng tư tưởng này phải làm nổi lên trong chúng ta ước muốn đáp lại tình yêu của Chúa Kitô, chia sẻ tình thương của Ngài giữa chúng ta, như các chi thể sinh động của cùng một thân thể. Thời thánh Phaolô, cộng đoàn Corinto gặp nhiều khó khăn theo chiều hướng này, như thường xảy ra giữa chúng ta, họ sống kinh nghiệm chia rẽ, ghen tương, thiếu thông cảm và gạt ra ngoài lề. Tất cả những điều đó không tốt, vì thay vì xây dựng và làm cho Giáo Hội được tăng trưởng như thân mình của Chúa Kitô, thì lại phân tán Giáo Hội thành bao nhiêu mảnh, cắt chặt Giáo Hội. Điều này cũng xảy ra ngày nay. Chúng ta hãy nghĩ đến các cộng đoàn Kitô, trong một vài giáo xứ, chúng ta hãy nghĩ đến những khu phố với bao nhiêu chia rẽ, ghen tương, bao nhiêu hiểu lầm và tình trạng bị gạt ra ngoài. Sự kiện đó làm cho chúng ta tách biệt nhau. Đó là khởi đầu của chiến tranh. Chiến tranh không bắt đầu nơi chiến trường: chiến tranh bắt đầu trong tâm hồn, với những sự thiếu cảm thông, chia rẽ, ghen tương, tranh giành nhau.
Cộng đoàn Corinto xưa kia cũng như thế, họ vô địch trong lãnh vực này. Vì vậy, thánh Tông Đồ đã gửi đến người dân thành Corinto vài lời khuyên cụ thể, và những lời này cũng có giá trị đối với chúng ta: đừng ghen tương, nhưng trong cộng đoàn chúng ta, hãy quí chuộng những năng khiếu và đức tính của các anh chị em chúng ta… Tất cả những gì gây phân rẽ thì cần phải tránh, chẳng vậy sự ghen tương sẽ lớn mạnh và làm đầy tâm hồn. Một con tim ghen tương là một con tim át-xít, một con tim thay vì có máu thì dường như chỉ có dấm; đó là một con tim không bao giờ hạnh phúc, một con tim phân hóa cộng đoàn. Vậy ta phải làm gì đây? Thưa hãy quí chuộng những năng khiếu và đức tính của những người khác trong cộng đoàn, của các anh chị em chúng ta. Khi ý tưởng ghen tương lẻn vào tâm trí chúng ta – vì tất cả chúng ta đều là người tội lỗi – thì ta phải thưa với Chúa: ”Cám ơn Chúa, vì Chúa đã ban năng khiếu đó cho người ấy”. Hãy quí chuộng đức tính của họ, gần gũi và chia sẻ những đau khổ của những ngừơi rốt cùng và túng thiếu; biểu lộ lòng biết ơn đối với tất cả mọi người và đặc biệt đối với những người thi hành những công tác phục vụ khiêm tốn và âm thầm nhất, và sau cùng là lời khuyên của thánh Phaolô cho dân Corinto: đừng nghĩ mình cao trọng hơn người khác. Bao nhiêu người nghĩ mình cao trọng hơn người khác. Cả chúng ta nữa, bao nhiêu lần chúng ta nói như người Biệt Phái trong dụ ngôn: ”Lạy Chúa con cảm tạ Chúa vì con không như người kia, con cao trọng hơn họ”. Nhưng như thế là xấu, không bao giờ được làm như vây. Khi định làm như thế, thì hãy nhớ đến các tội lỗi của mình, những tội mà chẳng ai biết, và xấu hổ trước mặt Chúa, và nói: ”Lạy Chúa, Chúa biết ai cao trọng hơn. Con im miệng bây giờ”. Và làm như thế là tốt. Trong tình bác ái hãy coi nhau như chi thể của nay, sống và hiến thân mưu ích cho tất cả mọi người (Xc 1 Cr 12,14).
Và ĐTC kết luận rằng: Anh chị em thân mến, như ngôn sứ Ezechiele và như thánh Phaolô Tông đồ, chúng ta cũng hãy khẩn cầu Chúa Thánh Linh, cho ân thánh và những hồng ân dồi dào của Ngài giúp chúng ta thực sự sống như thân mình của Chúa Kitô và như dấu chỉ hữu hình và đẹp đẽ nói lên tình thương của Chúa.
Chào thăm và nhắn nhủ
Sau bài giáo lý bằng tiếng Ý, các LM và các giám chức của Tòa Thánh đã tóm tắt bài này bằng các sinh ngữ khác nhau cũng như dịch những lời ĐTC chào các tín hữu hành hương cùng với những lời nhắn nhủ của ngài.
Với các tín hữu nói tiếng Pháp, ĐTC đặc biệt chào thăm các bạn trẻ thuộc giáo phận Bayeux-Lisieux mới chịu phép thêm sức, cũng như những người thuộc giáo phận Lyon đang ở trong tình trạng bấp bênh. Ngài cho biết sẽ đặc biệt cầu nguyện cho họ.
Khi chào thăm các tín hữu Ba Lan, ĐTC nói:
”Hôm nay, chúng ta cử hành lễ kính nhớ Thánh Gioan Phaolô 2 Giáo Hoàng theo phụng vụ, Thánh nhân đã mời tất cả chúng ta hãy rộng cửa cho Chúa Kitô; trong cuộc viếng thăm đầu tiên tại quê hương anh chị em, Người đã khẩn cầu Chúa Thánh Linh ngự xuống, canh tân đất nước Ba Lan; Người cũng nhắc nhớ cho mọi người mầu nhiệm lòng từ bi của Chúa. Ước gì gia sản tinh thần của Người không bị lãng quên, nhưng thúc đẩy chúng ta suy tư và hành động cụ thể để mưu ích cho Giáo Hội, cho gia đình và xã hội.
Sau cùng, bằng tiếng Ý, ĐTC chào các tín hữu thuộc các giáo phận ở miền Romagna, bắc Italia, cùng với các GM của mình, Ngài khuyến khích họ hãy tìm trong Phúc Âm những tiêu chuẩn soi sáng cho cuộc sống bản thân và cộng đoàn.
Hiện diện tại Quảng trường có đông đảo các nhân viên hãng hàng không Meridiana ở Italia đang bị đe dọa mất việc vì họ thuộc vào số nhân viên thặng dư. ĐTC nói: ”Tôi muốn hiệp với Cộng đoàn giáo phận Tempio-Ampurias bày tỏ sự gần gũi và liên đới sâu xa với các nhân viên hãng hàng không Meridiana, đang sống những giờ lo âu cho tương lai công ăn việc làm của mình. Tôi nồng nhiệt cầu mong các vị hữu trách có thể tìm được một giải pháp công bình, để ý trước tiên tới phẩm giá con ngừời và nhu cầu không thể loại bỏ của bao nhiêu gia đình.”
Hãng này xác nhận sẽ thải 1,366 nhân viên. Chính phủ Italia đang cố gắng làm trung gian giải quyết vụ này.
Với các bạn trẻ, các bệnh nhân và các đôi tân hôn, ĐTC nhắc nhớ rằng ”tháng 10 mời gọi chúng ta hãy canh tân sự cộng tác vào sứ mạng truyền giáo của Giáo Hội. Với năng lực tươi mát của tuổi trẻ, với sức mạnh của lời cầu nguyện và hy sinh, và với tiềm năng của đời sống vợ chồng, anh chị em hãy biết trở thành những nhà thừa sai của Tin Mừng, nâng đỡ cụ thể cho những người đang vất vả mang Tin Mừng đến cho những người chưa được nghe biết.
ĐTC cũng ứng khẩu nhắc nhở các tín hữu ngày hôm nay hãy lấy sách ngôn sứ Ezechiel và đọc đoạn thứ 37 kể lại thị kiến Thần Khí Chúa biến những xương khô thành một thành một thân mình sống động.

G. Trần Đức Anh OP

Đức Thánh Cha nhóm Công nghị Hồng Y

Đức Thánh Cha nhóm Công nghị Hồng Y

VATICAN. Sáng 20-10-2014, ĐTC đã chủ tọa công nghị Hồng Y về tình hình các tín hữu Kitô tại Trung Đông và quyết định về việc phong Hiển thánh.

Tham dự công nghị bắt đầu lúc 9 giờ sáng tại Hội trường Thượng HĐGM cũng có các vị Thượng Phụ và một số Giám Mục.

Ngỏ lời trong dịp này, ĐTC nói: ”Chúng ta có cùng ước muốn hòa bình và ổn định tại Trung Đông và ý chí cổ võ giải pháp cho các cuộc xung đột bằng cách đối thoại, hòa giải và dấn thân chính trị. Đồng thời chúng ta muốn gia tăng sự trợ giúp có thế cho các cộng đồng Kitô để hỗ trợ họ ở lại vùng miền ấy.

”Như tôi đã có dịp lập lại nhiều lần, chúng ta không thể có thái độ cam chịu khi nghĩ đến miền Trung Đông không còn Kitô hữu nữa, những người từ 2 ngàn năm nay đã tuyên xưng danh Chúa Giêsu tại đó. Những biến cố gần đây, nhất là tại Irak và Siria, gây lo âu rất nhiều. Chúng ta chứng kiến một hiện tượng khủng bố có chiều kích không thể tưởng tượng được trước đây. Bao nhiêu anh chị em chúng ta bị bách hại và đã phải rời bỏ gia cư, cả trong tình thế tàn bạo. Dường như người ta đánh mất ý thức về giá trị sự sống con người, con người dường như không đáng kể gì nữa, và người ta có thể hy sinh con người cho những lợi lộc khác. Rất tiếng là tất cả những điều đó xảy ra trong sự dửng dưng của bao nhiêu người.

Và ĐTC nhấn mạnh rằng: ”Tình trạng bất công này, không những đòi lời cầu nguyện của chúng ta, nhưng còn cần phải có câu trả lời thích hợp từ phía cộng đồng quốc tế. Tôi chắc chắn rằng với sự phù trợ của Chúa, từ cuộc gặp gỡ hôm nay, sẽ có những suy tư giá trị và những đề nghị để có thể giúp anh chị em chúng ta đang chịu đau khổ và đáp ứng cả thảm trạng suy giảm sự hiện diện của Kitô giáo tại miền đất nơi Kitô giáo được khai sinh và phổ biến.

Đức Hồng Y Parolin
Tiếp lời ĐTC, ĐHY Pietro Parolin, Quốc vụ khanh Tòa Thánh, đã tường trình trước công nghị về khóa họp mới đây tại Vatican, từ ngày 2 đến 4-10 vừa qua của các vị Sứ thần Tòa Thánh ở Trung Đông, các đại diện Tòa Thánh tại LHQ ở Genève và New York cùng với các vị lãnh đạo tại Tòa Thánh về sự hiện diện của các tín hữu Kitô tại Trung Đông.

Trước tiên các vị bàn về tình trạng không thể chấp nhận được tại Trung Đông do cái gọi Nhà Nước Hồi giáo, một thực tài chà đạp công pháp và dùng những phương pháp khủng bố để mưu toan mở rộng quyền bính: giết người hằng loạt, chém đầu những kẻ nghĩ khác họ, bán phụ nữ ở chợ, xung các trẻ em vào các cuộc chiến đấu, tàn phá các nơi thờ phượng.. Tình trạng đó khiến hàng trăm ngàn người phải bỏ gia cư đi lánh nạn nơi khác, trong những điều kiện bấp bênh, chịu bao đau khổ về thể lý và tinh thần. Khi lên án rõ ràng những vi phạm đó, không những đối với công pháp quốc tế về nhân đạo, nhưng cả về các nhân quyền sơ đẳng nhất, người ta cũng tái khẳng định quyền của người tị nạn được trở về đất nước của mình và sống trong phẩm giá, trong an ninh. Đó là quyền phải được cộng đồng quốc tế và các quốc gia hỗ trợ và bảo đảm. Điều có liên hệ ở đây là những nguyên tắc căn bản như giá trị sinh mạng và phẩm giá con người, tự do tôn giáo, sự sống chung hòa bình và hòa giữa các cá nhân và giữa các dân tộc.

ĐHY Parolin cũng nhấn mạnh rằng các cuộc xung đột ở Trung Đông là một trong những đe dọa nghiêm trọng nhất đối với sự ổn định quốc tế. Hòa bình ở Trung Đông không thể tìm kiếm bằng những chọn lựa đơn phương áp đặt bằng võ lực.

ĐHY nhắc đến lời ĐTC lên án nạn buôn bán võ khí là một trong những nguyên nhân tạo nên nhiều nạn nhân ở Trung Đông và cộng đồng quốc tế không thể nhắm mắt làm ngơ trước vấn đề này.

ĐHY Quốc vụ khanh nói đến nạn xuất cư của các tín hữu Kitô ra khỏi Trung Đông, vai trò của Giáo Hội và của cộng đồng quốc tế. Ngài kêu gọi đi tới và giải quyết tận căn những nguyên nhân gây ra các vấn đề hiện nay và cổ võ con đường đối thoại và thương thuyết vì con đường bạo lực chỉ đưa tới tàn phá, đồng thời ĐHY xác quyết rằng việc bảo vệ các tín hữu Kitô và tất cả các nhóm tôn giáo và chủng tộc thiểu số cần phải đặt trong bối cảnh bảo vệ con người và tôn trọng nhân quyền, đặc biệt là tự do tôn giáo và tự do lương tâm.

Đề cập đến thảm trạng của bao nhiêu người tị nạn, như một nửa dân số Siria đang cần được cứu trợ về nhân đạo, ĐHY Parolin nói: Giáo hội khuyến khích cộng đồng quốc tế quảng đại đáp ứng thảm trạng này, và về phần mình, Giáo hội cũng đóng góp, đặc biệt qua các Caritas địa phương và các cơ quan cứu trợ Công Giáo, giúp đỡ các nạn nhân, không những các tín hữu Kitô, nhưng tất cả những người đang chịu đau khổ.

Trong công nghị, ĐTC đã ấn định ngày phong hiển thánh cho chân phước LM Joseph Vaz là 14-1-2015, trong chuyến viếng thăm của ngài tại Sri Lanka từ 13 đến 15-1 năm tới. Thánh nhân từ Ấn Độ đến truyền giáo tại Sri Lanka trong thời kỳ người Hòa Lan bách hại các tín hữu Kitô tại đảo này. (SD 20-10-2014)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio
 

Kết thúc Thượng Hội Đồng Giám Mục đặc biệt về gia đình

Kết thúc Thượng Hội Đồng Giám Mục đặc biệt về gia đình

VATICAN. Bản tường trình chung kết của Thượng Hội Đồng Giám Mục đặc biệt về gia đình đã được thông qua và công bố chiều tối thứ bẩy, 18-10-2014.

Trong phiên khoáng đại thứ 15 và là phiên cuối cùng, trước sự hiện diện của ĐTC, các nghị phụ đã thông qua Bản tường trình gồm 62 đoạn được đánh số theo thứ tự và được các nghị phụ bỏ phiếu từng đoạn.

Có một số đoạn gây nhiều tranh luận, tuy được thông qua, nhưng không đạt tới mức 2 phần 3 số phiếu. Ví dụ đoạn số 41 nói về việc nhận cho những người ly dị tái hôn dân sự được rước lễ còn bị tranh luận nhiều nhất với 104 phiếu thuận và 74 phiếu chống. Còn đoạn số 55 nói về việc đón nhận những người có xu hướng đồng tính luyến ái, tuy có thay đổi văn bản, và trích dẫn Sách Giáo Lý chung của Hội Thánh Công Giáo nhưng chỉ được 118 phiếu thuận và 62 phiếu chống.

Đoạn số 51 về tình trạng những người ly dị tái hôn cần được săn sóc mục vụ, được thông qua với 155 phiếu thuận và 19 phiếu chống.

Trước tình trạng một số đoạn không có sự đồng thuận của Thượng HĐGM, tuy được đa số phiếu quá bán, nhưng không được đa số 2 phần 3 như thế, ĐTC Phanxicô quyết định vẫn để cho toàn bộ bản tường trình thuộc văn kiện tạm thời và gửi đến các Giáo Hội địa phương để chuẩn bị cho Thượng HĐGM thế giới khóa thường lệ thứ 14 vào tháng 10 năm tới. Ngài cũng cho phép để công chúng, qua các ký giả, được biết mỗi đoạn được bao nhiêu phiếu, để hiểu mức độ đồng thuận của các nghị phụ về từng điểm.

Diễn văn bế mạc

Trong diễn văn bế mạc, sau khi cám ơn các vị trong Văn phòng Tổng thư ký và các vị điều hành khóa họp này cũng như tất cả các nghị phụ, dự thính viên, chuyên viên và cộng tác viên, ĐTC nói:

”Tôi có thể nói một cách thanh thản rằng – với một tinh thần toàn thể tính và công nghị tính – chúng ta đã thực sự sống kinh nghiệm ”Sinodo”, một hành trình liên đới, đồng hành.

Vì là một hành trình – và cũng như mọi cuộc hành trình, đã có những lúc chạy nhanh, hầu như một thắng thời gian và đạt tới đích sớm nhất có thể; có những lúc khác mệt mõi, hầu như muốn nói 'đủ rồi'; có những lúc hăng say phấn khởi. Có những lúc an ủi sâu xa khi nghe chứng tử của các vị mục tử đích thực (Xc Ga 10 và GL 375, 386,387) mang trong con tim một cách khôn ngoan những vui mừng và nước mắt của các tín hữu. Những lúc an ủi và ân phúc, được khích lệ khi nghe những chứng từ của cac gia đình đã tham gia Thượng HĐGM và đã chia sẻ với chúng ta vẻ đẹp và niềm vui đời sống hôn nhân của họ. Một hành trình trong đó người mạnh nhất cảm thấy nghĩa vụ phải giúp đỡ những người yếu nhất, trong đó người giải nhất sẵn sàng giúp đỡ những người khác, kể cả qua những lúc đụng độ với nhau. Và vì là một hành trình của con người, có những an ủi nhưng cũng có những lúc buồn chán, căng thẳng và cám dỗ.

ĐTC đã kể ra một số cám dỗ có thể có:

– Thứ I là cám dỗ cứng nhắc đố kỵ, nghĩa là muốn khép kín trong chữa viết chứ không để cho mình được Thiên Chúa làm ngạc nhiên, Thiên Chúa của những ngạc nhiên, là tinh thần; khép kín trong luật lệ, trong sự chắc chắn về những gì chúng ta biết chứ không phải về những điều mà chúng ta còn phải học và đạt tới. Từ thời Chúa Giêsu, đó là cám dỗ của những người nhiệt thành, những người bối rối, những người ân cần và của những người ngày nay gọi là duy truyền thống (traditionalisti) và cả những người duy trí thức.

– Cám dỗ của những người xuề xòa hủy hoại, nhân danh lòng từ bi đánh lừa, băng bó các vết thương trước khi chữa trị, xức thuốc cho nó; họ chữa trị các triệu chứng mà không chữa nguyên nhân và căn cội. Đó là cám dỗ của những người dễ dãi, những người nhát sợ và cả những người gọi là ”cấp tiến và duy tự do”.

– Cám dỗ muốn biến đá thành bánh, để chấm dứt cuộc ăn chay lâu dài, nặng nề và đau thương (Xc Lc 4,1-4) và biến bánh thành đá, để ném vào những ngừơi tội lỗi, những người yếu đuối và bệnh nhân (Xc Ga 8,7) nghĩa là biến nó thành ”những gánh nặng không thể vác nổi” (Lc 10,27).

– Cám dỗ xuống khỏi thập giá, để làm hài lòng dân, chứ không ở lại trên thập gia để thi hành thánh ý Chúa Cha; khuất phục tinh thần trần thế thay vì thanh tẩy nó và làm cho nó tùng phục Thánh Linh của Thiên cHúa.
– Cám dỗ lơ là đối với kho tàng đức tin, coi mình không phải là người bảo quản nhưng là sở hữu chủ và là chủ nhân, hoặc đàng khác, là cám dỗ lơ là thực tại, dùng một ngôn ngữ tỷ mỉ, và một ngôn ngữ chà nhám để nói bao nhiêu sự mà chẳng nói gì cả! Những thứ đó, người ta gọi là bizantinismi..

Anh chị em thân mến, những cám dỗ đó không được làm cho chúng ta kinh hãi hay ngỡ ngàng và càng không được làm cho chúng ta nản chí, vì không môn đệ nào lớn hơn thầy mình; vì thế nếu Chúa Giêsu đã bị cám dỗ – thậm chí Ngài bị gọi là tướng quỉ Beelzebul (Xc Mt 12,24) – thì các môn đệ của Chúa không thể mong đợi được đối xử tốt đẹp hơn.

Bản thân tôi, tôi sẽ rất lo lắng và buồn nếu không có những cám dỗ ấy và những cuộc tranh luận sôi nổi; nếu không sự chuyển động tinh thần như vậy, như thánh Ignatio (EE, 6) đã gọi, nếu tất cả đều đồng ý và im lặng trong một thứ an bình giả tạo. Trái lại tôi đã thấy và đã nghe – với niềm vui và biết ơn – những diễn văn và những phát biểu đầy niềm tin, lòng nhiệt thành mục vụ và đạo lý, khôn ngoan, thẳng thắn, can đảm và tự do ngôn luận. Và tôi đã cảm thấy rằng thiện ích của Giáo Hội, của các gia đình và quy luật tối hậu là phần rỗi các linh hồn (Xc GL 1752) được đặt trước mắt mình. Và điều này – như chúng ta đã nói ở Hội trường này – không bao giờ đặt lại vấn đề các chân lý nền tảng của bí tích Hôn phối là tính chất bất khả phân ly, một vợ một chồng, chung thủy, sinh sản con cái hay là cởi mở đối với sự sống (Xc GL 1055, 1056 và GS 48).

”Giáo Hội là như thế, là vườn nho của Chúa, là Mẹ đông đảo con cái và là Thày dạy ân cần, không sợ phải xắn tay áo lên để đổ dầu và rượu vào vết thương của con người (Xc Lc 10, 25-37); Giáo hội không nhìn nhân loại từ một lâu đài bằng kiếng để phán xét và xếp loại con người….

Và ĐTC kết luận rằng: ”Anh chị em thân mến, giờ đây chúng ta còn một năm để làm cho những ý tưởng đề nghị được chín mùi, với sự phân định tinh thần đích thực, để tìm ra những giải pháp cụ thể cho bao nhiêu khó khăn và vô số các thách đố mà các gia đình phải đương đầu, mang lại câu trả lời cho bao nhiêu nản chí vây bủa và bóp nghẹt các gia đình.

Một năm để làm việc về bản Tường trình của Thượng HĐGM là bản tóm lược trung thành và rõ ràng về tất cả những gì đã được nói và thảo luận tại Hội trường này và trong các nhóm nhỏ và bản này được trình bày cho các HĐGM như tài liệu chuẩn bị (Lineamenta).

Xin Chúa tháp tùng, hướng dẫn chúng ta trong hành trình này để làm vinh danh Chúa nhờ lời chuyển cầu của Mẹ Maria, Thánh Giuse! Xin anh chị em vui lòng cầu nguyện cho tôi!

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio
 

Nên nộp thuế chăng?

Nên nộp thuế chăng?

(Trích trong ‘Sống Tin Mừng’ – R. Veritas)

Đi hỏi xem Đức Giáo Hoàng có bao nhiêu sư đoàn? Stalin đã có lần thốt lên như thế khi nhắc đến người có vai trò trung gian của Tòa thánh trong chiến trường quốc tế. Không đầy một thế kỷ sau, một vị Giáo hoàng đến từ Đông Au đã làm lung lay tận gốc rễ chế độ của Liên xô. Quả thật, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II tỏ ra là một con người đáng sợ đối với rất nhiều nhà lãnh đạo chính trị và người cuối cùng hẳn phải là chủ tịch Phidel Castro, người đã đặt tất cả nhân loại dưới bờ vực của chiến tranh nguyên tử từ đầu thập niên 60. Dưới mắt giới truyền thông, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II chỉ là một con người bảo thủ, bênh vực giá trị truyền thống. Thế nhưng, nếu ta cần chứng kiến khi những giá trị truyền thống ấy bảo đảm cho phẩm giá con người thì không ai tỏ ra thẳng thắn, can đảm cho bằng ngài.
 
Người ta vẫn còn nhớ khi đến Pháp lần đầu tiên từ năm 1981, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã không ngần ngại hỏi từng người dân Pháp, kể cả vị nguyên thủ quốc gia của nước này như sau: “Hỡi nước Pháp, tôi đã làm gì với phép rửa của ngươi?”. Câu hỏi ấy ngài đi thẳng vào lương tâm mỗi người dân Pháp: “Đâu là chỗ đứng của niềm tin tôn giáo trong cuộc sống của mỗi người?”.
 
Một câu hỏi như thế cũng có thể được nêu lên cho mỗi một người Kitô hữu chúng ta. Người có tôn giáo dễ có khuynh hướng phân chia cuộc sống thành nhiều ô độc lập với nhau, ô ở Công giáo, ô ở phố chợ với nhau, ô ở nhà thờ v.v. Sự phân chia ấy dễ tạo nên hai bộ mặt tương phản nơi người tín hữu. Một bộ mặt rất đạo đức ở nhà thờ hay khi cầu kinh và một bộ mặt phi đạo đức bên ngoài nhà thờ.
 
Khi tuyên bố: “Của Xêda hãy trả lại cho Xêda, của Thiên Chúa hãy trả lại cho Thiên Chúa”, Chúa Giêsu không những đã thoát được cái bẫy thâm độc của những người Biệt phái và phe Hêrôđê. Ngài còn khẳng định về chỗ đứng trong cuộc sống con người: “Của Thiên Chúa hãy trả cho Thiên Chúa”.
 
Thiên Chúa không phải là một vị thần, hay vị thần của thế giới thần linh. Thiên Chúa không phải là món đồ trang sức cho con người, nhưng Thiên Chúa là Chủ tể, là gia nghiệp, là tất cả của con người. Ngài không chiếm chỗ nhất trong cuộc sống con người, mà con người phải tìm kiếm Ngài trong tất cả mọi sự. Ngài không chỉ ngự một góc nào đó trong nhà thờ, Ngài không chỉ hiện diện trong một buổi cầu kinh nào đó. Ngài gặp gỡ con người ở khắp mọi nơi, trong mọi sinh hoạt của cuộc sống con người. “Của Thiên Chúa hãy trả lại cho Thiên Chúa”, có nghĩa là hãy dành chỗ nhất cho Ngài trong cuộc sống, tìm kiếm Ngài, gặp gỡ Ngài, yêu mến Ngài trong tất cả mọi sự.
 
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta tự vấn lương tâm và xác định lại sự chọn lựa căn bản của chúng ta. Niềm tin tôn giáo không phải là một sinh hoạt xa xỉ tùy tiện, được giản lược trong bốn bức tường của nhà thờ, hay chỉ trong bài diễn văn đặc biệt trong năm hay trong suốt một đời người. Niềm tin ấy phải thấm nhập vào toàn bộ cuộc sống và hướng dẫn mọi chọn lựa, suy nghĩ và hành động của người Kitô hữu.
 
Khi niềm tin được sống một cách triệt để như thế, thì Giáo Hội không chỉ có một vài sư đoàn, mà sẽ là một đạo binh có sức cải tạo và thay đổi bộ mặt của xã hội. Khi người tín hữu Kitô sống cho đến cùng những đòi hỏi của niềm tin, họ sẽ tìm được bình an và hạnh phúc đích thực cho cuộc sống, bởi vì họ có Chúa làm gia nghiệp cho cuộc đời.
 
Veritas Radio

CỦA THIÊN CHÚA TRẢ CHO THIÊN CHÚA

CỦA THIÊN CHÚA TRẢ CHO THIÊN CHÚA

Người Do Thái muốn gài bẫy Chúa nên đưa ra câu hỏi hóc búa. Không ngờ Chúa trả lời thật khôn ngoan: “Của César trả cho César, của Thiên Chúa trả cho Thiên Chúa”. Với câu trả lời này, Chúa Giêsu minh định hai điều:

Thứ nhất: Tôn giáo và chính trị tách biệt nhau. Chính trị không thể trở thành tôn giáo hoặc bắt tôn giáo làm nô lệ. Tôn giáo cũng không thể đi vào chính trị, đánh mất bản chất của mình.
 
Thứ hai: Mỗi người phải chu toàn hai nhiệm vụ. Nhiệm vụ đối với xã hội là “trả cho César” những gì của César. Nhiệm vụ đối với Thiên Chúa: “trả cho Thiên Chúa” những gì thuộc về Thiên Chúa.
 
Hình và huy hiệu khắc trên đồng tiền là của hoàng đế César vì thế phải trả lại cho ông. Nhưng linh hồn con người được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa nên linh hồn phải được trả về cho Thiên Chúa.
 
Để có được đồng tiền mang hình ảnh César, người dân phải làm việc vất vả. Cũng thế, để linh mang hình ảnh Thiên Chúa, con người cũng phải ra sức làm việc.
 
Nhưng hai cách làm việc thật khác xa nhau. Để chia sẻ phần nào quyền lực của vua chúa trần gian, người ta phải làm việc theo cách vua chúa đó là tìm chiếm hữu của cải. Để trở nên giống hình ảnh Thiên Chúa, con người phải suy nghĩ và hành động như Thiên Chúa đó là yêu thương và cho đi.
 
Bí tích Thánh Thể là minh họa rõ nét nhất về tính cách yêu thương và cho đi của Thiên Chúa. Nói về bí tích Thánh Thể, lòng trí ta tự nhiên hướng về bữa Tiệc Ly, cuộc Khổ Nạn và cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá. Qua đó ta thấy một vài khía cạnh trong tình yêu của Chúa.
 
Đó là tình yêu phục vụ. Tin Mừng thánh Gioan thuật lại. Chúa Giêsu yêu thương những kẻ thuộc về mình thì yêu thương cho đến cùng. Nên trong bữa ăn tối, Người cầm lấy chậu nước và khăn rồi đi rửa chân cho từng môn đệ.
 
Đó là tình yêu tự hiến. Khi lập phép Thánh Thể. Chúa Giêsu đã nói: “Đây là Mình Thày bị nộp vì anh em; Đây là Máu Thày đổ ra cho anh em và mọi người được tha tội” (Lc 22,19).
 
Đó là tình yêu hiền lành khiêm nhường. Chúa Giêsu cam lòng chịu kết án oan ức, chịu sỉ nhục, chịu hành hạ chịu chết mà chẳng một lời oán thán.
 

Đó tình yêu tha thứ. Không chỉ tha thứ mà còn cầu xin Chúa Cha tha cho những kẻ làm hại mình: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ lầm không biết” (Lc 23,34). Người cũng tha thứ cho kẻ trộm lành: “Thật Ta bảo thật, hôm nay con sẽ ở với Ta trên thiên đàng” (Lc 23,43).

Đó là tình yêu muốn tiếp diễn mãi mãi. Nên Người truyền cho ta: “Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thày” (Lc 22,19). Cử hành thánh lễ, chầu Mình Thánh, kiệu Thánh Thể để Chúa ở mãi với ta, tiếp tục bày tỏ tình yêu thương với ta.

Người mong muốn kéo dài tình yêu của Người cho đến tận cùng không gian và đến tận cùng thời gian nơi cuộc đời chúng ta. Vì thế khi ta chịu lễ, ta phải kết hiệp mật thiết với Người, nên một với Người. Nên một với Người là biến đổi để ta suy nghĩ, nói năng và hành động như Người, nghĩa là sống như Người.

Sống như Chúa là hãy có tình yêu thương phục vụ. Vì Chúa đã dạy: “Như Thày đã rửa chân cho các con, các con cũng hãy rửa chân cho nhau” (Ga 13,14). Sống như Chúa là hãy có tình yêu tự hiến. Quên mình vì hạnh phúc của người khác. Dám hy sinh thời giờ, sức khỏe, tiền bạc vì anh em. Sống như Chúa là hãy có lòng hiền lành khiêm nhường. Vì Chúa đã dạy: “Hãy học cùng Thày, vì Thày hiền lành và khiêm nhường trong lòng” (Mt 11,29). Sống như Chúa là hãy tha thứ, không phải chỉ tha thứ 7 lần mà đến 70 lần 7 (x. Mt 18,21-22).

Sống như thế, ta trở nên hình ảnh sống động của Thiên Chúa giữa trần gian. Sống như thế, ta trả cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa. Sống như thế ta tôn sùng bí tích Thánh Thể một cách thiết thực và hữu hiệu nhất. Sống như thế là sống nhờ Thánh Thể. Không còn sống cho những giá trị trần gian mau qua, nhưng sống cho những giá trị vĩnh cửu của Nước Trời.

Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, xin dạy con biết sống bí tích Thánh Thể để con được kết hiệp với Chúa và càng ngày càng nên giống Chúa hơn. Amen.

GỢI Ý CHIA SẺ

1- Ban đã phải trả cho César những gì thuộc về César. Nhưng bạn có thực sự trả cho Chúa những gì thuộc về Người không?

2- Bạn làm gì để nên giống Chúa?

3- Qua bí tích Thánh Thể, bạn có thể hiểu được gì về tình yêu Chúa đối với bạn?

ĐTGM Ngô Quang Kiệt

Bài giảng của Đức TGM Phaolô Bùi Văn Đọc tại Thượng Hội Đồng Giám Mục

Bài giảng của Đức TGM Phaolô Bùi Văn Đọc tại Thượng Hội Đồng Giám Mục

VATICAN. Sáng ngày 18-10-2014, Đức TGM Phaolô Bùi Văn Đọc đã trình bày bài suy niệm ngắn tại Thượng HĐGM thế giới.

Đầu phiên khoáng đại thứ 14 lúc 9 giờ sáng, đến lượt Đức Cha Phaolô Bùi Văn Đọc, TGM giáo phận Sàigòn, Chủ tịch Hội đồng GM Việt Nam, được mời trình bày bài suy niệm ngắn trong kinh Giờ Ba lúc 9 giờ, trước sự hiện diện của ĐTC và các nghị phụ. Ngài mời gọi các tín hữu tin nơi sức mạnh của Tin Mừng là nguồn mạch an vui và hạnh phúc.

Dưới đây là toàn văn bài suy niệm của Đức TGM Bùi Văn Đọc được Văn phòng Tổng thư ký Thượng HĐGM phổ biến:

”Quả thế, tôi không hổ thẹn vì Tin Mừng, vì Tin Mừng là sức mạnh Thiên Chúa dùng để cứu độ bất cứ ai có lòng tin” (Rm 1,16). Thánh Phaolô không hổ thẹn vì Tin Mừng, vì Người rao giảng Chúa Kitô chịu đóng đanh, là cớ vấp phạm đối với người Do thái, là sự điên rồ đối với dân ngoại. Chính cớ vấp phạm và sự điên rồ của tình yêu vô biên của Thiên Chúa được biểu lộ trong Chúa Kitô chịu đóng đanh, khiến ta không thể tự vệ, để cho mình bị giết.

”Nhưng đối với những người được kêu gọi, dù là Do thái hay Hy lạp, Đức Kitô là quyền năng của Thiên Chúa và là sự khôn ngoan của Thiên Chúa” (1 Cr 1,24). Vì "sự điên rồ của Thiên Chúa thì lớn hơn cái khôn ngoan của con người và sự yếu đuối của Thiên Chúa thì mạnh mẽ hơn sức mạnh của con người” (v. 25)

Vấn đề ở đây là đức tin. Chúng ta có tin hay không? Nếu chúng ta tin, thì Tin Mừng là ơn cứu độ chúng ta. Đức Kitô là niềm hy vọng của chúng ta, và Hy vọng cho tất cả mọi người. Chính Ngài là Đấng Cứu Độ duy nhất của chúng ta, chịu đóng đanh, bị giết, nhưng đã Sống Lại để làm cho chúng ta trở nên công chính; Ngài đang hiện diện giữa chúng ta, đồng hành với chúng ta hướng về tận cùng lịch sử. Chúa Kitô là niềm Hy vọng duy nhất cho đời sống gia đình của con người ngày nay và ngày mai”.

Tin Mừng là ơn cứu độ cho bất kỳ ai tin. Vì sự Công chính của Thiên Chúa được biểu lộ qua đó, nhất là Tình Thương, lòng Từ Bi và Tha Thứ. Tín hữu tham phần sự Công chính của Thiên Chúa, Tình Thương, lòng Từ Bi của Thiên Chúa; họ sống bằng Sự Sống của Thiên Chúa, nhờ đức tin. Đời sống đức tin là một hành trình từ đức tin tới đức tin, từ ơn thánh tới ơn thánh dồi dào hơn của Thiên Chúa, nhờ Đức Kitô.

Ơn Thánh này chính là Thần Trí của Thiên Chúa, là Gió thổi, và Hơi Thở sự sống. Tin là ”lắng nghe”, lắng nghe Tin Mừng, tin vui về Tình Yêu Cứu Độ của Thiên Chúa. Tin Mừng là một tin tức, một trình thuật về lịch sự Tình Yêu của Thiên Chúa. Chính Chúa Giêsu Kitô kể cho chúng ta; Chúa Giêsu Kitô là Thánh Sử Tin Mừng của chúng ta là những người nghèo. Vấn đề là chúng ta có tin nơi Đức Kitô một cách chân thành hay không.

Nếu chúng ta tin, chúng ta đón nhận điều được kể về Tình Yêu Thiên Chúa. Thiên Chúa từ bi vì Ngài toàn năng. Quyền năng của Thiên Chúa không phải là quyền lực tàn phá, nhưng làm cho sống. Với quyền năng này Thiên Chúa đã làm cho Đức Giêsu Kitô sống lại từ cõi chết. Và Sự Sống Lại của Đức Kitô là niềm Hy vọng của chúng ta, vì là Tình Yêu chiến thắng sự chết, tha thứ mọi tội lỗi cho những người đang cần. Chúng ta có tin nơi sức mạnh của Thiên Chúa, hoặc nơi sức mạnh của thế gian? Sức mạnh của thế gian đang tàn phá mọi sự, sự sống, tình yêu, gia đình nhân loại. Trái lại đời sống đức tin được diễn tả qua một cuộc sống yêu thương, là nguồn mạch vui mừng, hạnh phúc”.

Trong phiên khoáng đại thứ 14, từ 9 đến 12.30, các nghị phụ đã nghe trình bày bản dự thảo Tường trình chung kết của khóa họp, và bỏ phiếu thông qua Sứ điệp của Thượng HĐGM gửi Dân Chúa.

G. Trần Đức Anh OP chuyển ý

 

Dụ ngôn tiệc cưới

Dụ ngôn tiệc cưới

(Trích trong ‘Sống Tin Mừng’)

Được một ông vua đích thân mời đến dự tiệc cưới của hoàng tử, nhưng các thần dân không những khước từ lời mời mà còn nhục mạ giết các sứ giả, đây quả là tột cùng của sự khiếm nhã. Qua dụ ngôn, chúng ta thấy rõ Chúa Giêsu nhắm vào dân Do Thái. Câu truyện gợi lên một sự đau thương của cả một dân tộc mà Thiên Chúa đã chọn họ làm dân riêng để thực hiện công cuộc cứu rỗi, nhưng họ đã khước từ ơn cứu rỗi ấy. Nhưng có lẽ trọng tâm của bài Tin Mừng được Giáo Hội cho chúng ta lắng nghe hôm nay không hẳn là mời dự tiệc cưới cho bằng chiếc áo cưới.

Hai câu truyện xem ra bất thường, được Vua mời đến dự tiệc cưới, thần dân lại khước từ. Đây quả là một hành động nhục mạ đối với nhà Vua. Nhưng thách thức không kém là khi vào phòng cưới mà không chịu mặc y phục lễ cưới do nhà Vua qui định, thái độ này khiêu khích đến nhà Vua phải truyền lệnh cho gia nhân trói tay chân người đó lại và ném ra ngoài.

Hình ảnh người thực khách vào dự tiệc cưới mà không chịu mặc y phục lễ cưới của nhà Vua qui định, gợi lại cho chúng ta lời khẳng định của Chúa Giêsu: "Không phải những ai nói "Lạy Chúa, Lạy Chúa" mà được vào Nước Trời đâu, mà chỉ có những ai thực thi ý Chúa muốn, mới được vào mà thôi" (Mt 7,21).

Anh chị em thân mến,

Mang danh hiệu Kitô nhưng sống hoàn toàn ngược lại với Tin Mừng, đây vốn là điều thường xảy ra trong cuộc sống của mỗi người chúng ta cũng như trong lịch sử của Giáo Hội. Trong Tông Thư Ngàn Năm Thứ Ba Đang Đến, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II kêu gọi con cái Giáo Hội sám hối và thanh luyện ký ức lịch sử. Trong suốt 2,000 năm lịch sử của Giáo Hội, con cái Giáo Hội không biết bao nhiêu lần hành động hoàn toàn ngược lại với Tin Mừng. Những cuộc thập tự viễn chinh để sát hại người Hồi Giáo, các tòa điều tra thời Trung Cổ để kết án, ngay cả thiêu sống những người lạc giáo, các cuộc chém giết giữa các tín hữu Công Giáo và Tin Lành.

Đó là những vết nhơ trong lịch sử của Giáo Hội, nhưng gần đây là chủ nghĩa bài trừ Do Thái thời đệ nhị thế chiến, trong cuộc sát tế 6 triệu người Do Thái, dĩ nhiên do Đức Quốc Xã chủ xướng, nhưng nó lại diễn ra ngay trong lục địa tự xưng là Kitô giáo. Không ai tự mình có thể trở thành độc tài và đồ tể. Hitler chắc chắn không có đủ ba đầu sáu tay mà hiện diện khắp cả Âu Châu để truy lùng và sát hại người Do Thái. Đức Quốc Xã không chỉ là một mình Hitler tích cực hay tiêu cực, do xác tín hay do hèn nhát, do ác ý hay vì dửng dưng, biết bao người tín hữu trên khắp lục địa Âu Châu đã nhúng tay vào tội ác của Đức Quốc Xã, tự xưng là người tín hữu Kitô nhưng hành động hoàn toàn ngược lại với Tin Mừng.

Đây là cách cư xử mà Chúa Giêsu muốn ám chỉ qua người thực khách không chịu mặc y phục lễ cưới do nhà Vua qui định, một cách cư xử thiếu nhất quáng như thế vẫn xảy ra trong Giáo Hội ngày nay. Tại những nước vẫn tự xưng là Kitô giáo, đa số là những người tín hữu hữu danh vô thực, phép Rửa Tội chỉ còn là một nghi thức xã hội, ai sinh ra cũng phải đem đến nhà thờ để được rửa tội, nhưng suốt một đời nhiều người chỉ đến nhà thờ để được rửa tội, để được cưới hỏi và cuối cùng để gọi là được chết trong Giáo Hội.

Biết bao nhiêu đảng phái tự xưng là Kitô giáo nhưng đường hướng hoàn toàn ngược lại với Tin Mừng. Không ngược lại với Tin Mừng là gì khi những người mang danh hiệu Kitô lại cổ võ cho ly dị, phá thai, sinh hoạt đồng tính luyến ái v.v… Còn những nước trong đó Kitô giáo là thiểu số thì người ta thường tự hào về việc giữ đạo của các tín hữu Kitô, nhà thờ lúc nào cũng chật ních người, các cuộc biểu dương và rước sách lúc nào cũng đông người tham dự. Thế nhưng, chúng ta nghĩ gì về các tệ nạn xã hội đầy dẫy trong các giáo xứ, những người ngoài Công Giáo thấy gì về các tín hữu đến nhà thờ mỗi ngày Chúa Nhật, tối sớm đọc kinh làu làu, tích cực trong các buổi rước sách, nhưng sống ích kỷ, lường gạt, mánh mung như mọi người. Một cách sống như thế quả thực làm ố danh sự đạo. Không thể mang danh hiệu Kitô mà hoàn toàn xa lạ với Tin Mừng Kitô, không thể là người Công Giáo mà chủ trương sống ngược lại với giáo huấn của Giáo Hội, bỉ ổi hơn cả là khi người ta dùng danh hiệu Công Giáo để phục vụ cho một chế độ chủ trương bách hại Giáo Hội.

Lời Chúa hôm nay nhắc nhở cho chúng ta về những lời cam kết khi chịu Phép Rửa Tội, một trong những ý tưởng đầy ý nghĩa của Bí Tích này là chiếc áo trắng mà Giáo Hội phủ lên người chúng ta. Chiếc áo trắng ấy là căn cước Kitô của chúng ta, chúng ta không chỉ mang nó mỗi năm một lần, mỗi tuần một lần hay thậm chí chờ cho đến khi ta nhắm mắt lìa đời. Chiếc áo trắng ấy là từng hơi thở của chúng ta, chiếc áo trắng ấy là Tin Mừng Chúa Kitô mà chúng ta phải sống từng giây phút trong cuộc sống. Có sống như thế chúng ta mới thật sự cảm nhận được niềm vui khi tham dự vào bàn tiệc Thánh Thể mà Chúa dọn ra cho chúng ta mỗi ngày, nhất là ngày Chúa Nhật. Có sống như thế những người xung quanh mới nhìn vào chúng ta mà ngợi khen Cha chúng ta ở trên trời. Amen.

Veritas Radio

Phiên khoáng đại thứ 3 của Thượng Hội Đồng Giám Mục về gia đình

Phiên khoáng đại thứ 3 của Thượng Hội Đồng Giám Mục về gia đình

VATICAN. Trong phiên khoáng đại thứ 3, sáng 7-10-2014, các nghị phụ Thượng HĐGM thế giới đã bàn về vấn đề những người ly dị.

ĐTC hiện diện tại phiên họp do ĐHY Antonio Luis Tagle, TGM Manila, chủ tọa và bàn về ”Tin Mừng gia đình và luật tự nhiên” (I,3) và ”gia đình và ơn gọi của con người trong Chúa Kitô' (I, 4) như đã được trình bày trong chương 3 và 4 thuộc phần thứ I của tài liệu làm việc.

Sau lời giới thiệu của ĐHY Tagle, đôi vợ chồng dự thính viên George và Cynthia Campos người Philippines đã trình bày chứng từ. Ông George là Giám đốc tổ chức ”Các đôi vợ chồng vì Chúa Kitô” và bà Cynthia là thành viên của tổ chức này. Cả hai đều thuộc tổng giáo phận Manila.

Trong phần phát biểu về chủ đề được xác định, một số nghị phụ đã kêu gọi tăng cường việc chuẩn bị hôn nhân, để không những bí tích này được thành sự nhưng còn được những kết quả phong phú. Các nghị phụ cũng đề nghị không nên chỉ tìm kiếm những phương dược cho những cuộc hôn nhân bị thất bại, nhưng còn phải để ý đến những điều kiện làm cho hôn phối được thành sự và phong phú. Điều này cần phải thông truyền một quan niệm về hôn nhân không phải như một điểm tới, nhưng là một hành trình hướng về một mục tiêu cao cả hơn, một con đường tăng trưởng bản thân và cho đôi vợ chồng, một sức mạnh và là nguồn năng lực.

Cần luôn tháp tùng các đôi vợ chồng trong hành trình cuộc sống, qua một nền mục vụ gia đình khẩn trương và nghiêm túc. Hành trình chuẩn bị lãnh nhận bí tích hôn phối phải lâu dài, theo nhân cách của mỗi người và nghiêm ngặt, đừng sợ thấy con số các hôn phối cử hành tại nhà thờ bị giảm sút. Chẳng vậy người ta sẽ gặp nguy cơ làm cho các tòa án hôn phối bị tràn ngập công việc.

– Một điểm khác được các nghị phụ trình bày tại Thượng HĐGM là ảnh hưởng của các phương tiện truyền thông. Các phương tiện này nhiều khi xâm nhập đời sống và trình bày những ý thức hệ trái ngược với đạo lý của Hội Thánh về gia đình và hôn nhânm. Trong viễn tượng này, người ta nói các tín hữu Công Giáo cần được bảo vệ, nhưng cũng cần được chuẩn bị kỹ lưỡng hơn. Giáo Hội phải cung cấp giáo huấn một cách chính xác và quyết liệt hơn, trình bày đạo lý không phải như một danh sách những điều cấm đoán, nhưng gần gũi với các tín hữu, như Chúa Giêsu đã làm. Theo cách thức ấy, khi hành động trong sự đồng cảm và dịu dàng, Giáo Hội có thể thu hẹp khoảng cách giữa đạo lý và thực hành, giữa giáo huấn của Giáo Hội và đời sống thường nhật của các gia đình. Vì điều cần thiết không phải là chọn lựa giữa đạo lý và lòng từ bi, nhưng là khởi sự một nền mục vụ sáng suốt, nhất là để khích lệ các gia đình đang gặp khó khăn, thường cảm thấy mình không thuộc về Giáo Hội.

– Trong phiên họp thứ ba, các nghị phụ đã nói nhiều về những cặp vợ chồng gặp khó khăn, những người ly dị tái hôn. Một số nghị phụ khẳng định rằng Giáo Hội đừng đưa ra một sự phán xét đối với những cặp ấy nhưng trình bày chân lý, với cái nhìn cảm thông, vì dân chúng đi theo sự thật và theo Giáo Hội nếu Giáo Hội nói lên chân lý. Liều thuốc từ bi mang lại sự đón tiếp, chăm sóc và nâng đỡ. Lý do cũng vì các gia đình đau khổ không tìm kiếm những giải pháp mục vụ mau lẹ, họ không muốn chỉ là những con số thống kê, nhưng cảm thấy nhu cầu được soi sáng, cảm thấy được đón nhận và yêu mến. Giáo Hội phải dành nhiều chỗ hơn cho tiêu chuẩn bí tích, hơn là tiêu chuẩn luật pháp.

Về vấn đề những người ly dị tái hôn có được rước lễ hay không, một số nghị phụ khẳng định rằng bí tích Thánh Thể không phải là bí tích của những người hoàn hảo, nhưng là của những người đang trên đường lữ hành.

Tại Thượng HĐGM có trình bày 3 chiều kích đặc thù của gia đình, đó là: ơn gọi sự sống, đặc tính truyền giáo, được hiểu như làm chứng về Chúa Kitô qua sự hiệp nhất gia đình; sau cùng là đón tiếp tha nhân, vì gia đình là trường học đầu viên về tha nhân, là nơi người ta có thể học sự kiên nhẫn và chậm rãi, đối nghịch với với nhịp sống ồ đạt của thế giới ngày nay. Một chiều kích khác của tế bào gia đình được nêu bật trong sự thánh thiện, vì gia đình giáo dục về sự tháanh thiện, là hình ảnh của Chúa Ba Ngôi, là Giáo Hội tại gia, phục vụ công trình loan báo Tin Mừng, là tương lai của nhân loại.

Trong phiên họp thứ ba, các nghị phụ cũng nói đến tầm quan trọng của việc huấn giáo về gia đình, nhất là cho các trẻ em, và việc cầu nguyện trong gia đình, vì việc cầu nguyện này tới tới một sự sinh ra đức tin, giúp cha mẹ thông truyền đức tin cho con cái.

G. Trần Đức Anh OP
– Vatican Radio

Phiên họp thứ 2 của Thượng Hội đồng Giám Mục thế giới về gia đình

Phiên họp thứ 2 của Thượng Hội đồng Giám Mục thế giới về gia đình

VATICAN. Lúc 9 giờ sáng thứ ba, 7-10-2014, Thượng HĐGM thế giới khóa ngoại thường thứ III về ”những thách đố mục vụ gia đình trong bối cảnh loan báo Tin Mừng” đã nhóm phiên khoáng đại thứ 3 trước sự hiện diện của ĐTC và 180 nghị phụ. ĐHY Antonio Luis Tagle, TGM Manila, chủ tọa phiên họp theo lượt.

ĐHY loan báo chủ đề của phiên họp là ”Tin Mừng gia đình và luật tự nhiên” (I,3) và ”gia đình và ơn gọi của con người trong Chúa Kitô' (I, 4) như đã được trình bày trong chương 3 và 4 thuộc phần thứ I của tài liệu làm việc.

Sau lời giới thiệu của ĐHY Tagle, đôi vợ chồng dự thính viên George và Cynthia Campos người Philippines đã trình bày chứng từ. Ông George là Giám đốc tổ chức ”Các đôi vợ chồng vì Chúa Kitô” và bà Cynthia là thành viên của tổ chức này. Cả hai đều thuộc tổng giáo phận Manila.

Chúng tôi sẽ tường thuật nội dung phiên họp này trong bản tin tới.

Họp báo của Cha Lombardi

Khác với các công nghị GM thế giới trước đây, lần này Văn phòng Tổng thư ký Thượng HĐGM không phổ biến các bản tóm tắt bài phát biểu do chính nghị phụ thực hiện. Trái lại, mỗi ngày đều có một cuộc họp báo ngắn để tường trình tổng quát cho giới báo chí những gì đã được trình bày trong phiên họp.

Trưa thứ hai 6-10-2014, sau phiên khoáng đại thứ I, cha Lombardi Giám đốc Phòng báo chí Tòa Thánh, đã chủ tọa cuộc họp báo này với sự tham dự của ĐHY Peter Erdoe, người Hungari, Tổng trường trình của Thượng HĐGM, ĐHY André Vingt-Trois, TGM Paris là người đã chủ tọa phiên họp thứ I, và ĐHY Bruno Forte, Tổng thư ký đặc biệt của Thượng HĐGM đang tiến hành.

ĐHY Peter Erdoe

Ngỏ lời với giới báo chí, ĐHY Peter Erdoe nói đến một vài thay đổi trong phương pháp của Thượng HĐGM, vì ĐTC đã thay đổi qui luật của Công nghị GM, chẳng hạn ngài qui định rằng từ nay ngôn ngữ chính thức của Thượng HĐGM là tiếng Ý, thay vì tiếng la tinh như từ trước đến nay, dĩ nhiên là có phần thông dịch. Sự thay đổi này cũng làm cho công việc của Tổng tường trình viên dễ dàng hơn. Trong những Công nghị GM trước đây, các nghị phụ phải nghe bài tường trình cả tiếng đồng hồ bằng tiếng la tinh, và đó là điều không dễ dàng đối với mọi người.

Những thay đổi đáng kể khác trong phương pháp liên quan đến nội dung và cách thức soạn bản tường trình trước khi thảo luận, nhất là vì sau khi nhận được Tài liệu làm việc, các Nghị Phụ được yêu cầu gửi trước bài phát biểu của mình về Văn phòng Tổng thư ký trước cuối tháng 9 vừa qua. Vì thế, nhiều bài phát biểu đã được gửi về, và dựa trên các văn bản đó, chúng tôi dang soạn bài tường trình sau cuộc thảo luận. Dĩ nhiên cũng cần theo dõi các bài phát biểu của các nghị phụ trong những ngày tại tại Hội trường THĐGM, vì không phải tất cả các nghị phụ đều trình bày giống như đã viết trên giấy và gửi về trước, ngoài ra cũng có những bài phát biểu tự do. Tóm lại là phải thu thập tất cả để soạn bản tường trình sau cuộc thảo luận. Khi soạn bản tường trình trước cuộc thảo luận, chúng tôi cũng có thể để ý đến nội dung của một số bài phát biểu trên giấy đã được gửi về. Chúng tôi nghĩ, như thế có thể nhắc đến vắn tắt một số lập trường quan trọng từ những câu trả lời, và dĩ nhiên chúng tôi cũng dựa trên Tài liệu làm việc. Văn kiện này thực ra đã là kết quả của cuộc đúc kết các bản trả lời từ các nơi gửi về. Vì thế có thể nói là toàn Giáo Hội được tham khảo ý kiến hai lần. Tóm lại công việc của chúng tôi như tường trình viên là tổng hợp những gì được trình bày, và nói một cách thơ phú hơn, công việc đó hệ tại ”lắng nghe tiếng nói của Giáo Hội hoàn vũ”.

ĐHY Vingt-Trois

Tiếp lời ĐHY Erdoe, ĐHY André Vingt-Trois, TGM Paris, một trong 3 vị Chủ tịch thừa ủy, là người đã chủ tọa phiên khoáng đại đầu tiên của Thượng HĐGM sáng thứ hai 6-10, vừa qua, đã lên tiếng lưu ý các ký giả về cám dỗ muốn diễn tả kinh nghiệm của Thượng HĐGM theo kinh nghiệm mình đã có về các cuộc thảo luận tại quốc hội.

ĐHY nói: ”Trong cuộc thảo luận tại quốc hội, người ta cố gắng đạt tới một mục đích là đi tới một đa số và một thiểu số. Các chế độ dân chủ, hay ít là các chế độ ”mặc bộ áo dân chủ”, nói là đa số thắng thiểu số và thiểu số phải phục tùng đa số. Nhưng công việc tại Thượng HĐGM không phải như vậy. Các nghị phụ ở đây không phải để đạt được đa số từ những lập trường được trình bày. Các vị ở đó là để làm việc, làm sao phát triển được một ý chí chung trong Giáo Hội. Ý chí này là động viên về những mục tiêu rõ ràng và chính xác bao nhiêu có thể, và phần còn lại thì để cho các Giáo Hội địa phương thi hành.

Phiên họp khoáng đại thứ 2

Lúc 5 giờ chiều thứ hai 6-10-2014, Thượng HĐGM đã nhóm phiên khoáng đại thứ 2 với sự hiện diện của ĐTC và 180 nghị phụ và bàn về chủ đề: 'Ý định của Thiên Chúa về hôn nhân và gia đình” (I,1), và ”Việc hiểu biết và đón nhận Kinh Thánh và các văn kiện của Giáo Hội về hôn nhân và gia đình” (I,2). Hai đề tài này thuộc chương thứ I và thứ II trong phần thứ I của Tài liệu làm việc.

Chứng từ của ông bà Ron và Mavis Pirola

Mở đầu mọi người đã nghe chứng từ của ông bà Ron và Mavis Pirola người Australia, dự thính viên tại Thượng HĐGM này. Ông bà là đồng giám đốc Hội đồng Công Giáo Australia về hôn nhân và gia đình. Họ kể lại kinh nghiệm trong gia đình về việc sống căng thẳng giữa một bên là khẳng định chân lý, và bên kia là sự cảm thông và từ bi. Cụ thể là người con trai của Ông bà Pirola là một người đồng tính luyến ái. Một hôm, nggười con ấy nói là muốn đưa người bạn trai của anh ta về nhà. Ông bà là người hoàn toàn tin tưởng và chấp nhận giáo huấn của Giáo Hội, nhưng phải làm sao trước yêu cầu của người con? Ông bà bị giằng co giữa một bên là tôn trọng và chấp nhận chân lý và giáo huấn của Hội Thánh, và bên kia là từ bi yêu thương người con. Ông bà biết rằng các cháu muốn ông bà đón nhận đứa con và bạn trai của anh ta trong gia đình. Vì thế câu trả lời của ông bà có thể được tóm tắt trong câu: ”Đó là con chúng tôi!”.

Theo ông bà Ron và Mavis Pirola, điều này có thể là ”kiểu mẫu loan báo Tin Mừng cho các giáo xứ khi gặp những hoàn cảnh tương tự”. Vai trò của Giáo Hội là làm cho thế giới nhận biết tình thương của Thiên Chúa.

Ông bà dự thính viên còn kể thêm rằng: ”Một người bạn gái của chúng tôi ly dị và cho biết là nhiều khi không cảm thấy hoàn toàn được đón nhận trong giáo xứ của bà. Nhưng bà vẫn đi dự lễ thường xuyên và không than thở gì với các con của bà. Đối với giáo xứ, bà là một gương mẫu về sự can đảm dấn thân đương đầu với những nghịch cảnh. Từ những người như bà chúng ta học cách nhận ra rằng tất cả chúng ta mang những thương tích nội tâm trong cuộc sống của mình. Ý thức về những vết thương nội tâm của mình, giúp chúng ta rất nhiều trong việc giảm bớt xu hướng xét đoán người khác, một thái độ cản trở việc loan báo Tin Mừng”.

Nội dung phát biểu của các nghị phụ

Sau chứng từ của ông bà Pirola, một số nghị phụ đã phát biểu ý kiến, mỗi vị tối đa là 4 phút. Nội dung các bài phát biểu của các nghị phụ có thể tóm tắt như sau:

Đi từ tiền đề gia đình là tế bào cơ bản của xã hội loài người, là chiếc nôi của tình yêu nhưng không, và việc nói về hôn nhân và gia đình bao hàm một sự giáo dục về lòng chung thủy, nhiều nghị phụ nhấn mạnh rằng cần phải bảo vệ gia đình vì tương lai của nhân loại tùy thuộc gia đình.

Ngoài ra, từ nhiều phía, người ta thấy cần phải thích ứng ngôn ngữ của Giáo Hội, để đạo lý của Hội thánh về gia đình, về sự sống, tính dục, được hiểu đúng đắn: cần đối thoại với thế giới, noi gương Công đồng chung Vatican 2, nghĩa là có thái độ cởi mở phê bình, nhưng chân thành. Lý do vì nếu Giáo Hội không lắng nghe thế giới, thì thế giới cũng chẳng nghe Giáo Hội. Và cuộc đối thoại có thể dựa trên những đề tài quan trọng như phẩm giá bình đẳng giữa người nam và người nữ, sự phủ nhận bạo lực.

Có nghị phụ nói: chúng ta không phải giải thích Tin Mừng, nhưng là chứng tỏ Tin Mừng và nhất là cần có sự can dự của giáo dân trong việc loan báo Tin Mừng, nêu rõ đoàn sủng truyền giáo của giáo dân. Việc loan báo Tin Mừng không thể là một lý thuyết xuông, nhưng phải làm sao để chính các gia đình làm chứng tá cụ thể về vẻ đẹp và về chân lý Phúc Âm, Thách đố ở đây là đi từ một thế tự vệ tới một thái độ đề nghị và tích cực, nghĩa là tái đẩy mạnh khả năng đề nghị gia sản đức tin với một ngôn ngữ mới, hy vọng, nhiệt thành, hăng say, trình bày chứng tá có sức thuyết phục, bắc những nhịp cầu giữa ngôn ngữ của Giáo Hội và ngôn ngữ của xã hội. Theo nghĩa đó có nghị phụ đề nghị sử dụng viêc huấn giáo Kinh Thánh hơn là thần học suy lý, vì nói đúng ra, con người không còn thỏa mãn vì sự ích kỷ và tìm kiếm những lý tưởng. Cũng vì con người muốn hạnh phúc và Kitô hữu biết rằng hạnh phúc là chính Chúa Kitô, nhưng họ không tìm được ngôn ngữ thích hợp để nói điều đó cho thế giới. Trái lại Giáo Hội phải có sức thu hút, làm việc để thu hút, với thái độ thân thiện đối với thế giới.

– Về những đôi vợ chồng gặp khó khăn, có nghị phụ nhấn mạnh rằng Giáo Hội phải gần gũi họ trong sự cảm thông, tha thứ và từ bi: lòng từ bi là phẩm tính đầu tiên của Thiên Chúa, nhưng cần nhìn sự từ bi trong bối cảnh công lý, chỉ như thế ta mới tôn trọng thực sự toàn bộ kế hoạch của Thiên Chúa.

Hộn nhân đang và vẫn còn là bí tích bất khả phân ly, nhưng vì chân lý là Chúa Kitô, một ngôi vị, chứ không phải là một toàn bộ các qui luật, nên điều quan trọng là duy trì những nguyên tắc, tuy thay đổi những hình thức cụ thể trong việc áp dụng. Tóm lại như ĐGH Biển Đức 16 đã nói, đó là ”sự mới mẻ trong sự liên tục”: Thượng HĐGM này không đặt lại vấn đề đạo lý, nhưng suy tư về Mục Vụ, tức là về sự phân định tinh thần để áp dụng đạo lý ấy trước những thách đố của gia đình ngày nay. Theo nghĩa đó lòng từ bi không loại bỏ các giới răn, nhưng là chìa khóa để giải thích các giới răn.

Ngoài ra, trong Công nghị cũng nhấn mạnh rằng cần phải cứu xét những tình trạng bất toàn với lòng tôn trọng: ví dụ những cặp nam nữ sống chung không kết hôn, nhưng họ sống trong sự chung thủy và với tình yêu thương, trình bày những yếu tố thánh hóa và sự thật. Vì thế điều thiết yếu là trước tiên cần nhìn những yếu tố tích cực, để Thượng HĐGM mang lại can đảm và hy vọng cho cả những hình thức bất toàn của gia đình, những hình thức có thể đề cao giá trị theo nguyên tắc tiệm tiến. Cần thực sự yêu mến các gia đình gặp khó khăn.

Trong bối cảnh một xã hội mà người ta tôn thờ cái tôi của mình, đưa tới sự giải trừ gia đình, cần nêu rõ sự đánh mất ý nghĩa Giao Ước giữa con người với Thiên Chúa. Do đó việc loan báo vẻ đẹp của gia đình, không thể là một khoa thẩm mỹ, trình bày một lý tưởng thuần túy phải bắt chước, nhưng phải trình bày tầm quan trọng sự sự dấn thân chung kết dựa trên Giao Ước của đôi vợ chồng với Thiên Chúa.

– Một điểm thiết yếu khác là sự phủ nhận thái độ giáo sĩ trị, nhiều khi Giáo Hội dường như quan tâm tới quyền bính hơn là phục vụ và vì thế không soi sáng cho tâm hồn con người. Do đó cần tái noi gương Chúa Kitô, tìm lại sự khiêm tốn: việc cải tổ Giáo Hội phải bắt đầu bằng việc cải tổ giáo sĩ, vì nếu các tín hữu thấy các vị mục tử noi gương Chúa Kitô, thì họ sẽ tái gần gũi với Giáo Hội, và như thế Giáo Hội có thể đi từ tình trạng chỉ loan báo Tin Mừng để trở thành người loan báo Tin Mừng.

Và các nghị phụ cũng bàn về đề tài giá trị thiết yếu cảu tính dục trong hôn nhân: thực vậy người ta nói rất nhiều để phê bình tính dục ngoài hôn nhân, đến độ tính dục trong hôn nhân dường như là một sự nhân nhượng đối với một sự bất toàn. Thượng HĐGM nhấn mạnh tới sự cần thiết phải huấn luyện kỹ lưỡng hơn cho các LM, các chính sách bênh vực gia đình và đẩy mạnh việc thông truyền đức tin giữa lòng gia đình.

Trong giờ thảo luận tự do từ 6 đến 7 giờ chiều, có 2 đề nghị được đưa ra: xin Thượng HĐGM gửi một sứ điệp khích lệ và quí mến đối với các gia đình ở Irak, đang bị đe dọa vì cuộc tàn sát do trào lưu Hồi giáo cuồng tín gây ra và phải chạy trốn để không từ bỏ đức tin. Đề nghị này được đa số các nghị phụ bỏ phiếu chấp thuận.

Đề nghị thứ hai là cần suy tư về hàng giáo sĩ có gia đình trong các Giáo Hội Đông phương, họ cũng thường sống những cuộc khủng hoảng gia đình, và có thể đi tới chỗ yêu cầu được ly dị.

G. Trần Đức Anh OP– Vatican Radio

 

CÂU CHUYỆN VƯỜN NHO – CÂU CHUYỆN ĐỜI TA

 CÂU CHUYỆN VƯỜN NHO – CÂU CHUYỆN ĐỜI TA

Vườn nho là một hình ảnh quen thuộc đối với người Do Thái. Chúa đã dùng hình ảnh quen thuộc này để thính giả dễ hiểu điều Chúa nói về Nước Trời. Ý nghĩa dụ ngôn này như sau. Thiên Chúa là chủ vườn nho. Vườn nho thoạt tiên được dùng để chỉ dân Do Thái. Dân Do Thái được Chúa chọn là dân riêng. Lịch sử dân Do Thái là lịch sử tình yêu thương của Chúa. Vì yêu thương Chúa đã giải thoát họ khỏi ách nô lệ Ai Cập. Vì yêu thương Chúa đã dành sẵn cho họ một đất nước. Vì yêu thương Chúa bảo vệ họ khỏi sự quấy phá của các nước lân bang. Vì yêu thương Chúa đã sai khiến các tiên tri đến dạy dỗ họ. Quả thật dân Do Thái là một vườn nho được Chúa trồng, chăm sóc từng li từng tí. Từ rào dậu chung quanh đến xây tháp canh giữ. Từ xây bồn ép nho đến tưới bón cắt tỉa. Nhưng sự thương yêu của Chúa được đáp lại bằng sự phản bội. Người Do Thái không công nhận quyền làm chủ của Chúa. Họ giết các tiên tri được sai đến dạy dỗ họ. Họ còn giết cả Chúa Giêsu là Con Một Thiên Chúa để chiếm lấy vườn nho làm của riêng họ. Nhưng họ có biết đâu rằng nếu để Chúa là chủ thì vườn nho còn được bảo vệ, được chăm sóc và họ còn được hưởng hoa lợi. Nhưng từ chối quyền làm chủ của Chúa, vườn nho rơi vào cảnh hoang tàn, đổ nát, không còn hoa trái. Và vì thế cuộc đời họ cũng bị diệt vong.

Câu chuyện vườn nho không chỉ nói với người Do Thái mà còn nói với tất cả chúng ta, đặc biệt các sinh viên học sinh nhân dịp đầu năm học mới. Sinh viên học sinh là những cây nho được Chúa ưu ái trồng trong vườn nho của Chúa. Vườn nho đó là Nước Chúa, là Giáo Hội, là gia đình, là trường học. Các cháu thiếu nhi, các bạn thanh niên, học sinh, sinh viên trẻ trung là những cây nho non mơn mởn được Chúa chăm sóc tưới bón trong tình thương bao la của cha mẹ, trong sự tận tâm của thày cô giáo, trong sự nhiệt thành quên mình của các linh mục, tu sĩ nam nữ. Chúa đặt lương tâm như tháp canh để cảnh báo những nguy cơ đe dọa tàn phá vườn nho. Để ngăn chặn thú dữ tàn phá, trẻ con nghịch ngơm, kẻ thù quấy phá, Chúa cẩn thận rào dậu vườn nho. Rào dậu là đặt ra những quy tắc luật lệ. Kỷ luật là phên dậu vững chắc bảo vệ những cây nho còn non yếu, bảo vệ hoa lợi khỏi kẻ thù đến phá hoại. Kỷ luật giúp bảo vệ cuộc đời của các con. Không chỉ bảo vệ sự sống mà còn tất cả những hoa trái tốt đẹp của sự sống. Bảo vệ tương lai của các con. Chúa xây bồn ép nho. Bồn ép nho là nơi làm việc. Quả nho phải trải qua quá trình ép, lọc, ủ mới lên men thành thứ rượu nho thơm lừng làm đẹp cho xã hội. Cũng vậy các con phải lao động vất vả qua nhiều công đoạn mới trở nên hữu ích cho Giáo Hội và cho xã hội. Có thể nói cuộc đời của mỗi người các con là một kỳ quan về tình yêu thương của Chúa. Chúa tạo dựng nên các con để các con được hạnh phúc. Chúa đã định sẵn cho các con một định mệnh tốt đẹp cao quý trong thánh ý Chúa.

Tiếc là có nhiều người không hiểu được điều đó, nên đã chối bỏ quyền Chúa làm chủ đời mình. Vì xua đuổi Chúa nên ma quỷ đã xâm nhập cuộc đời họ. Có nhiều người đã bỏ tháp canh lương tâm nên không còn tỉnh thức trước những nguy cơ đe dọa tàn phá sự sống. Có nhiều người đã phá đổ những phên dậu kỷ luật, biến vườn nho tâm hồn thành bãi đất hoang mặc cho mọi người chà đạp, tàn phá. Có nhiều người đã bỏ quên bồn ép nho, không chịu làm việc, chỉ rong chơi ngày tháng nên cả cuộc đời tiêu tốn biết bao sự thương yêu, tiền bạc, công sức của cha mẹ, thày cô giáo, các bề trên trong Giáo Hội mà không sinh được hoa trái gì cho cuộc đời.

Các con, sinh viên học sinh thân mến,

Đầu năm học mới là dịp các con chỉnh đốn lại vườn nho tâm hồn các con. Hãy để Chúa làm chủ cuộc đời các con. Hãy tin tưởng định mệnh Chúa dành cho các con là định mệnh tốt đẹp nhất. Tương lai Chúa dọn sẵn cho các con là tương lai tươi sáng không gì có thể so sánh được. Hãy đón nhận tình yêu thương của cha mẹ, thày cô giáo, và các bề trên trong Giáo Hội. Tình yêu thương chăm sóc của các ngài là nước mát tưới cho cây đời các con xanh tươi. Hãy tuân theo sự hướng dẫn của tháp canh lương tâm để các con biết phân biệt thật giả, trắng đen, thiện ác giữa lúc vàng thau lẫn lộn, biết chọn lựa con đường tốt đẹp cho tương lai. Hãy sống theo sự hướng dẫn của luật lệ, luật xã hội, luật học đường, luật sự sống, luật Giáo Hội. Đó chính là cách tự bảo vệ trước những lực lượng xấu, trước những cơn cám dỗ ngọt ngào đang rình chờ trói chặt những cuộc đời ẻo lả, mềm yếu, buông tuồng. Hãy làm việc trong bồn ép nho. Sự siêng năng chăm chỉ, lòng say mê học tập chính là chìa khóa của sự thành công.

Năm học mới là một ân huệ nhưng cũng là một trách nhiệm. Các con được ban nhiều, các con sẽ bị đòi hỏi nhiều. Năm học mới được ban tặng để các con sinh lợi. Sinh lợi để xứng đáng với tình thương của Chúa. Sinh lợi để xứng đáng với xã hội, quê hương đất nước. Sinh lợi chính là thăng tiến bản thân, làm lợi cho chính các con trước hết.

Xin Chúa ban phúc lành cho năm học mới để các thày cô giáo, các học sinh sinh viên thu lượm được nhiều kết quả tốt đẹp, góp phần thăng tiến bản thân, gia đình, Giáo Hội và xã hội. Amen.

GỢI Ý CHIA SẺ

1) Chúa đã ban cho bạn sự sống và còn đặt biết bao người, biết bao phương tiện, hoàn cảnh để nuôi dưỡng và phát triển sự sống đó. Bạn có nhận biết điều này không?

2) Bạn có nhìn nhận Chúa làm chủ đời mình và có thái độ xứng hợp không?

3) Phát triển là một trách nhiệm. Bạn có chu toàn trách nhiệm đó không?

ĐTGM Ngô Quang Kiệt

Đức Hồng Y Parolin khuyến khích các vị Sứ Thần Tòa Thánh

Đức Hồng Y Parolin khuyến khích các vị Sứ Thần Tòa Thánh

VATICAN. ĐHY Pietro Parolin, Quốc vụ khanh Tòa Thánh, cám ơn và khuyến khích các vị Sứ Thần Tòa Thánh thực thi những sáng kiến cụ thể giúp các chính quyền và dư luận ý thức về thảm trạng các tín hữu Kitô tại Trung Đông.

Trong bài giảng thánh lễ đồng tế sáng 4-10-2014, với các vị Sứ thần Tòa Thánh ở Trung Đông, Liên hiệp Âu Châu và LHQ, ĐHY Parolin nhắc đến thảm trạng đau thương mà các tín hữu Kitô và nhiều người khác đã và đang phải chịu ở Trung Đông: bao nhiêu cộng đoàn Kitô có từ thời các Tông Đồ đang phải đương đầu với những nguy hiểm trầm trọng và bách hại công khai. ĐHY nói:

”Thật là đau buồn khi nhận thấy các quyền lực sự ác tồn tại và tích cực hoạt động, nơi một số tâm trí băng hoại có sự xác tín rằng bạo lực và kinh hoàng là phương pháp người ta có thể dùng để áp đặt ý chí quyền lực cho người khác, thậm chí họ còn nấp sau chủ trương ngụy tạo gọi là để củng một một quan niệm tôin giáo nào đó! Đó thực là một sự sa đọa cảmthức tôn giáo chân chính, gây nên những hậu quả bi thảm và cần phản ứng lại. Giáo Hội không thể im lặng trước sự bách hại mà bao nhiêu con cái mình phải chịu và cộng đồng quốc tế không thể giữ thái độ trung lập giữa những người bị gây hấn và kẻ gây hấn”.

ĐHY Parolin nhấn mạnh rằng: ”Không được bỏ qua những gì có thể làm để thoa dịu thân thận của các anh chị em chúng ta đang bị thử thách và để ngăn chặn kẻ hung bạo. Chúa Quan Phòng cũng muốn dùng chúng ta, tự do và hoạt động, óc sáng tạo của chúng ta, sáng kiến và sự dấn thân hằng ngày của chúng ta”.

ĐHY Quốc vụ khanh Tòa Thánh xác quyết rằng ”Những Kitô hữu bị bách hại và tất cả những người phải chịu đau khổ bất công phải có thể nhận thấy Giáo hội là tổ chức đang bênh vực họ, cầu nguyện và hành động cho họ, và Giáo Hội không sợ khẳng định sự thật, trở thành lời nói của những kẻ không có tiếng nói, bênh vực và bảo vệ những người bị bỏ rơi, người tị nạn và người bị kỳ thị”. (SD 4-10-2014)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Đức Thánh Cha gặp gỡ và cử hành thánh lễ với người cao niên

Đức Thánh Cha gặp gỡ và cử hành thánh lễ với người cao niên

VATICAN. Sáng chúa nhật 28-9-2014, ĐTC Phanxicô đã gặp gỡ 40 ngàn người cao niên và dâng thánh lễ với hơn 80 ngàn tín hữu sau đó.

Từ 8.30 sáng, đã có khoảng 40 ngàn người cao niên đến từ 20 quốc gia, tụ tập tại quảng trường thánh Phêrô, để tham dự cuộc gặp gỡ do Hội đồng Tòa Thánh về gia đình tổ chức với chủ đề ”Phúc lành sống lâu”.

Họ sinh hoạt với những bài đọc Kinh Thánh, trong đó có trình thuật về bà Sarah, người vợ son sẻ của tổ phụ Abraham, chuyện bà Ruth được con dâu Noemi săn sóc và tháp tùng, bà Elisabeth và chồng là Zacharia, rồi chứng từ, suy tư, chuyện kể, xen lẫn những bản nhạc.

Sinh hoạt

Lúc 9 giờ 22 phút, Đức nguyên Giáo Hoàng Biển Đức 16 tiến vào quảng trường. Năm nay đã 87 tuổi và nhận lời mời của ĐTC và tham dự phần gặp gỡ. Đây là lần thứ 3 ngài xuất hiện trước công chúng kể từ khi từ nhiệm. Lần đầu tiên ngày 22-2 năm nay tại Đền thờ Thánh Phêrô trong buổi lễ tấn phong các Hồng y mới. Lần thứ hai ngày 27-4 trong lễ tôn phong hiển thánh cho hai ĐGH Gioan 23 và Gioan Phaolô 2.

Gần 9 giờ rưỡi, ĐTC Phanxicô đến và được một số ông bà nội với các cháu đón tiếp. Ngài ngồi trước bàn thờ cạnh Đức TGM Vincenzo Paglia, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh về gia đình.

Trong lời chào mừng, Đức TGM gọi Đức Biển Đức 16 là ”ông nội đầu tiên” trong các ông bà nội ngoại hiện diện tại quảng trường, và nhắc đến tuổi già thường bị sống như một cuộc đắm tàu và mong manh, như một án phạt. Nhưng Đức TGM cũng gợi lại lời bà Anna Magnani hãnh diện vì những vết nhăn trên mặt mà bà đạt được từng nét một”.

Chứng từ đầu tiên được trình bày trước ĐTC và mọi người sau lời chào mừng của Đức TGM Paglia là ông bà Mubarak 74 tuổi và Anneesa Hano, người Irak, thành hôn từ 51 năm nay và có 10 người con, 12 người cháu. Họ đến từ thành phố Qaraqosh, gần Mossul ở miền bắc Irak. Họ đại diện cho rất nhiều gia đình Kitô bị trục xuất và tị nạn trước sự tấn công của lực lượng thánh chiến Nhà Nước Hồi giáo. Đức TGM Vincenzo Paglia, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh về gia đình giải thích rằng: ”Chứng từ của đôi vợ chồng già người Irak này nhắc nhớ cho tất cả mọi người rằng chiến tranh thực là điều điên rồ; chúng tôi hy vọng thế giới học bài học này, như ĐGH Phanxicô đã nhắc nhở”.

Cùng với những lời kể của Ông bà Mubarak và Anneesa Hano, có một băng Video được Elisa Grevo và Federico Fazzuoli thực hiện, kể lại những địa điểm và các tiếng chuông nhà thờ ở thành Alqosh như từ 2 ngàn năm nay ở vùng bình nguyên Ninive. Tiếng chuông này cùng với chuông của tất cả các nhà thờ Kitô khác tại đây đã im bặt từ ngày 6-8 năm nay sau khi bị dân quân của Nhà Nước Hồi giáo chiếm. Thay thế thánh giá trên tháp chuông thánh đường là lá cờ đen.

Một chứng từ khác là của cha Sebastiano, dòng Capuchino, cha gọi mình là một ông nội tinh thần của những người già, 120 người ở trong trung tâm tiếp đón ”Phanxicô và Clara”, cạnh đó có một hang đá Lộ Đức ở trong vườn. Trong số những người già ở trung tâm có những người bị bệnh suy thoái não bộ.

Huấn từ của Đức Thánh Cha

Sau phần chứng từ, ĐTC Phanxicô đã ngỏ lời với mọi người. Ngài đặc biệt cám ơn sự hiện diện của Đức nguyên Giáo Hoàng Biển Đức 16 và nhắc lại là ngài rất hài lòng vì sự hiện diện của Người ở Vatican, như một ông nội khôn ngoan. ĐTC cám ơn Ông bà Mubarak từ Qarakos đã đến đây với các con cháu, đại diện cho bao nhiêu tín hữu Kitô tại Irak bị bách hại dữ dội. Ngài nói: ”Bạo hành đối với người già là điều vô nhân đạo, cũng như bạo hành đối với trẻ em. Nhưng Thiên Chúa không bỏ rơi anh chị em! Ngài ở với anh chị em! Các anh chị em này chứng tỏ cho chúng ta thấy trong những thử thách khó khăn nhất, những người già có đức tin như những cây tiếp tục mang lại hoa trái. Và điều này cũng giá trị đối với những tình trạng bình thương hơn, nhưng trong đó có thể có những cám dỗ khác, và những hình thức kỳ thị, như chúng ta đã nghe trong một số chứng từ.

ĐTC cũng tái khẳng định tuổi già là một thời kỳ hồng ân, trong đó Chúa lập lại lời kêu gọi hãy bảo tồn và thông truyền đức tin, Chúa mời gọi chúng ta cầu nguyện, và nhất là chuyển cầu cho người khác: Chúa mời gọi chúng ta hãy gần gũi những người đang cần. Những người già, những ông bà nội ngoại có khả năng hiểu những hoàn cảnh khó khăn và lời cầu nguyện của họ thật mạnh mẽ.

ĐTC nhắc đến tình trạng những nước bị bách hại tôn giáo, như ở Albani, chính các ông bà đã giúp rửa tội bí mật cho các cháu, mang lại đức tin cho các cháu. Họ can đảm trong cơn bách hại và đã cứu vãn đức tin tại các nước ấy.
Ngài tái lên án nạn gạt bỏ người già, bỏ rơi họ. Đó là hậu quả của nền văn hóa gạt bỏ gây hại lớn cho thế giới chúng ta. Trẻ em bị gạt bỏ, người trẻ cũng vậy, họ không có công ăn việc làm. Người già cũng bị gạt bỏ viện cớ là để duy trì một hệ thống kinh tế quân bình, nơi trung tâm của nền kinh tế ấy không có con người, nhưng chỉ có tiền bạc. Tất cả chúng ta được mời gọi chống lại thứ văn hóa gạt bỏ, bị nhiễm độc như thế.

Cuộc gặp gỡ kết thúc lúc 10 giờ 20. ĐTC Phanxicô tiến đến chào và cám ơn vị tiền nhiệm của ngài, rồi chào thăm một số nhân vật trước khi chuẩn bị bắt đầu thánh lễ cũng tại quảng trường.

Thánh lễ

Đồng tế với ngài có một số GM và 100 LM cao niên. Phần thánh ca, ngoài ca đoàn Sistina của Tòa Thánh còn có ca đoàn Mẹ Giáo Hội gồm 80 ca viên. Quảng trường thánh Phêrô tăng thêm số người tham dự, họ đứng tràn ra tới đường Hòa Giải.

Trong bài giảng Thánh lễ, ĐTC đã diễn giải cuộc gặp gỡ giữa Mẹ Maria và bà chị họ Elisabeth và rút ra những bài học cho tương quan giữa các thế hệ già trẻ. Ngài nói:

”Bài Tin Mừng mà chúng ta vừa nghe, ngày hôm nay chúng ta đón nhận như Tin Mừng cuộc gặp gỡ giữa người trẻ và ngườ già: một cuộc gặp gỡ đầy vui mừng, đầy đức tin và hy vọng.

Maria là một người trẻ. Elisabeth là một người già, nhưng nơi bà có biểu lộ lòng từ bi của Thiên Chúa và từ 6 tháng nay, cùng với chồng là ông Zacaria, bà đang chờ đợi một người con.

Maria, trong hoàn cảnh ấy, tỏ cho chúng ta sự sống: đi gặp một người họ hàng già, ở với bà, chắc chắn là để giúp đỡ bà, nhưng nhất là cũng để học hỏi nơi bà, là người già, một sự khôn ngoan trong cuộc sống.

Bài đọc thứ I, với những kiểu diễn tả khác nhau, vang vọng giới răn thứ tư: ”Hãy thảo kính cha mẹ, để ngươi được sống lâu tại đất nước mà Chúa là Thiên Chúa ngươi, ban cho ngươi” (Xh 20,12). Không có tương lai đối với dân tộc nào không có cuộc gặp gỡ giữa các thế hệ, không có những người con với lòng biết ơn đón nhận chứng nhân của cuộc sống từ tay cha mẹ. Và trong sự biết ơn đối với người đã thông truyền cho bạn sự sống, cũng có lòng biết ơn đối với Chúa Cha ở trên trời.

Đôi khi có những thế hệ người trẻ, vì những lý do phức tạp về lịch sử và văn hóa, sống và cảm thấy một nhu cầu mạnh mẽ tự lập với cha mẹ, hầu như thể ”giải thoát mình” khỏi tàn tích của thế hệ trước đó. Thái độ đó như thể là thời kỳ niên thiếu nổi loạn. Nhưng nếu sau đó không phục hồi cuộc gặp gỡ, nếu không tìm lại một sự quân bình mới mẻ, phong phú giữa các thế hệ, thì hậu quả là một sự nghèo nàn đối với dân tộc và tự do thống trị trong xã hội là một thứ tự do giả tạo, hầu như luôn biến thành một chế độ độc đoán.

Cùng sứ điệp ấy cũng được thánh Phaolô gửi đến Timôthê, và qua thánh nhân, gửi đến cộng đoàn Kitô. Chúa Giêsu không bãi bỏ luật gia đình và sự chuyển tiếp giữa các thế hệ, nhưng đã kiện toàn luật ấy. Chúa đã hình thành một gia đình mới, trong đó liên hệ với Chúa và việc thi hành thánh ý Chúa Cha trổi vượt hơn các mối liên hệ máu mủ. Nhưng tình yêu đối với Chúa Giêsu và Chúa Cha đưa tới mức độ viên mãn tình yêu đối với cha mẹ, anh chị em, đối với các ông bà nội ngoại, đổi mới các quan hệ gia đình nhờ nhựa sống của Tin Mừng và Thánh Linh. Và như thánh Phaolô đã nhắn nhủ Timôthê, là một Chủ Chăn và vì thế cũng là cha của cộng đoàn, hãy có lòng kính trọng đối với những ngườ già và các thân nhân, và Ngài khuyên ông thi hành điều đó với thái độ con thảo: các ông cụ già ”như cha của mình”, ”bà cụ già như mẹ của mình” (Xc 1 Tm 5,1). Thủ lãnh cộng đoàn không được chuẩn chước khỏi thánh ý Chúa, trái lại, tình yêu Chúa Kitô thúc đẩy thủ lãnh thi hành điều ấy với một tình yêu lớn lao hơn nữa. Như Đức Trinh Nữ Maria, tuy là Mẹ của Đấng Messia, nhưng cảm thấy được tình yêu Chúa thúc đẩy, Đấng đang nhập thể trong lòng Mẹ, và chạy đến bà chị họ già.

Và chúng ta hãy trở lại ”hình ảnh' đầy vui mừng và hy vọng, đầy đức tin và đức ái. Chúng ta có thể nghĩ rằng Đức Trinh Nữ Maria, ở nhà bà Elisabeth, cũng như bà và Zacaria chồng bà cầu nguyện với những lời của thánh vịnh đáp ca hôm nay: ”Lạy Chúa, Chúa là niềm hy vọng của con, là niềm tín thác của con ngay từ thời trẻ trung của con.. Xin đừng để con lâm vào tuổi già, đừng bỏ rơi con khi sức lực con tàn tạ.. Khi tuổi già đến và tóc bạc, lạy Chúa, xin đừng bỏ rơi con, cho đến khi con loan báo quyền năng Chúa, những công trình của Chúa cho mọi thế hệ” (Tv 71,5.9.18). Mẹ Maria trẻ trung lắng nghe và cẩn giữ mọi sự trong lòng. Sự khôn ngoan của bà Elisabeth và Zacharia đã làm cho tâm hồn trẻ được phong phú; họ không phải là chuyên gia về việc làm cha làm mẹ, vì đối với họ đó cũng là lần mang thai đầu tiên, nhưng là chuyên gia về đức tin, niềm tin nơi Thiên Chúa, về niềm hy vọng đến từ Chúa: đó là điều mà thế giới đang cần, trong mọi thời đại. Mẹ Maria đã biết lắng nghe các cha mẹ già và đầy kinh ngạc, đã cẩn giữ như kho tằng sự khôn ngoan của họ, và đó là điều quí giá đối với Mẹ, trong hành trình như một phụ nữ, một người vợ, người mẹ.

Như thế, Mẹ Maria chỉ cho chúng ta con đường: con đường gặp gỡ giữa những người trẻ và người già. Tương lai của một dân tộc nhất thiết đòi phải có cuộc gặp gỡ ấy: những người trẻ mang lại sức mạnh để dân tiến bước và người già củng cố sức mạnh ấy với ký ức và sự khôn ngoan bình dân.

Trong phần lời nguyện phổ quát bằng các ngôn ngữ Anh, Hoa, Đức, Ba Lan và Pháp, cộng đoàn đã cầu cho Giáo Hội, cho những người bị bách hại vì đức tin, xin Chúa ban cho họ sức mạnh trong con thử thách và bách hại, trong những tủi nhục và ngỡ ngàng; cầu cho những người già cô độc và bệnh tật, xin Chúa an ủi tâm hồn họ trong đau khổ và bỏ rơi, trong thử thách và sầu muộn; cầu cho các ông bà nội ngoại, xin Chúa tháp tùng công việc của họ trong quảng đại và khôn ngoan, trong sự mong manh và âm thầm.

Cuối thánh lễ, như thường lệ, ĐTC đã chủ sự buổi đọc kinh Truyền tin. Trong bài huấn dụ ngắn, ngài mời gọi các tín hữu, các cộng đoàn, cầu nguyện cho Thượng HĐGM thế giới sẽ khai diễn chúa nhật tới 5-10-2014 về việc mục vụ gia đình. Ngài không quên phó thác biến cố quan trọng này cho sự chuyển cầu của Mẹ Maria là Phần rỗi của dân Roma và xin Mẹ phù hộ những người già trên toàn thế giới.

ĐTC cũng trao cho một số người cao niên đại diện cho mọi người khác sách Phúc Âm theo thánh Marco, ấn bản chữ to.

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

SÁM HỐI LÀ KHỞI ĐIỂM

SÁM HỐI LÀ KHỞI ĐIỂM

Nói và làm đó là hai thái độ khác nhau. Có người nói mà không làm. Có người không nói nhưng lại làm. Đó chính là hai thái độ mà Chúa đề cập đến trong bài dụ ngôn hôm nay. Hạng người nói mà không làm đó là những người biệt phái và luật sĩ. Họ tự cho là mình đạo đức, nhưng khi Chúa Giêsu rao giảng, họ không những không tin mà còn phê phán chỉ trích những người tin Chúa, chỉ trích chính Chúa đã đón tiếp người tội lỗi. Hạng người không nói mà làm đó là những người thu thuế và những người tội lỗi. Tuy sống tội lỗi, nhưng khi nghe Chúa rao giảng, họ đã ăn năn sám hối và tin vào Chúa. Qua dụ ngôn này Chúa muốn dạy ta những bài học sau.

Bài học thứ nhất: Việc làm trọng hơn lời nói. Trong đời sống, chúng ta gặp không ít những người nói hay, nói nhiều, nhưng làm chẳng bao nhiêu. Tục ngữ Việt Nam có câu “Mười voi không được bát nước sáo” là thế. Nhưng trái lại có những người không nói giỏi, có khi không nói gì cả, nhưng lại làm rất nhiều. Nhất thời ta có thể thích những người nói hay. Nhưng sống càng lâu, ta càng mến những người nói ít làm nhiều. Trong đời sống thiêng liêng cũng thế. Chúa yêu chuộng những người làm việc hơn là những người chỉ biết nói suông. Có lần Chúa đã vạch rõ những giả dối này: “Không phải những ai nói rằng: Lạy Chúa, lạy Chúa mà được vào Nước Trời, nhưng là những kẻ làm theo ý Cha Ta trên trời” (Mt 7,21). Đức tin phải biểu lộ bằng việc làm mới là đức tin sống động. Như thánh Giacôbê dạy: “Đức tin không có việc làm là đức tin chết” (Gc 2,17). Tình yêu cũng phải có việc làm. Việc làm minh chứng tình yêu đích thực. Tin yêu Chúa phải được biểu lộ bằng việc làm.

Bài học thứ hai: Con người có thể thay đổi. Con người còn sống ở trần gian là còn thay đổi. Đó là một điều ta phải cảnh giác. Biết đâu ta đang tốt bỗng trở nên xấu. Cũng như các biệt phái và luật sĩ tự hào mình tốt, nhưng khi Chúa Giêsu đến, họ đã trở nên xấu vì không tin vào Chúa, không hoán cải đời sống. Con người có thể thay đổi. Đó là điều làm cho chúng ta hy vọng. Vì nếu ta tội lỗi yếu hèn, ta vẫn có cơ hội ăn năn trở lại. Ta không bị kết án trong tội lỗi của ta. Chúa còn cho ta có thời giờ trở lại với Chúa. Miễn là ta nhận biết mình và quyết tâm đổi mới cuộc đời.

Bài học thứ ba: Sám hối là việc cần thiết của mọi người. Đã là người ai cũng có sai lầm. Vì con người yếu đuối bất toàn. Chúa không đòi ta phải hoàn hảo không bao giờ sai lỗi. Nhưng Chúa đòi ta mỗi khi sai lỗi phải biết sám hối ăn năn. Sám hối thật cần thiết vì có sám hối ta mới được Chúa thứ tha. Chúa yêu thương và sẵn sàng tha thứ cho những tâm hồn sám hối như lời Thánh Vịnh: “Một tấm lòng tan nát dày vò, Chúa sẽ chẳng khinh chê” (Tv 50). Ta hãy xem Chúa đã tha thứ cho bà Mađalena. Nhất là Chúa đã tha thứ cho người trộm lành, để thấy Chúa nhân từ thương xót biết bao. Nhưng Chúa lại chê ghét những tâm hồn kiêu căng cứng cỏi không chịu ăn năn sám hối. Trong Phúc Âm ta thấy Chúa chỉ mắng nhiếc những người tự xưng mình đạo đức nên kiêu căng khinh miệt người khác và không nghe lời Chúa. Nhưng Chúa luôn nhân từ, khoan dung, tha thứ cho những tội lỗi thật lòng ăn năn. Sám hối thật cần thiết vì tất cả chúng ta ai cũng có lầm lỗi trước mặt Chúa, cần được Chúa khoan hồng thứ tha. Sám hối thật cần thiết vì đó là khởi điểm để nên tốt, nên thánh thiện. Có sám hối ta mới biết từ bỏ nếp sống cũ. Có sám hối ta mới bắt đầu một nếp sống mới đẹp lòng Chúa.

Như thế, ta đừng chỉ nói suông mà không làm, nhưng hãy biết thực hành điều Chúa dạy. Ta đừng tự hào vì mình tốt lành mà phê bình chỉ trích người khác. Hãy tự xét mình để thấy mình tội lỗi. Và khi biết mình tội lỗi, hãy ăn năn sám hối ngay. Có sám hối ta sẽ được Chúa tha thứ. Có sám hối sẽ được anh chị em yêu thương. Nhất là có sám hối ta mới khởi sự tiến lên trên con đường thánh thiện.

Lạy Chúa xin tha thứ tội con đã phạm đến Chúa và đến anh em. Amen.

GỢI Ý CHIA SẺ

1) Nói và làm, việc nào cần hơn và tốt hơn?

2) Có nhiều chương trình tốt đẹp nhưng không thực hiện, có ích gì không?

3) Biết nhận lỗi, xin lỗi và sửa lỗi. Điều này đáng trọng hay đáng chê trách?

ĐTGM Ngô Quang Kiệt

Lời nói đi đôi với việc làm

Lời nói đi đôi với việc làm

(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)

Hôm nay, Thánh sử Matthêu kể cho chúng ta nghe một câu chuyện khá thú vị:

Một người cha có hai người con. Một hôm ông nói với hai con: “Hôm nay, hai con đi làm vườn nho cho cha nghe!”Hai người con đã đáp lại bằng hai thái độ khác nhau: Người con thứ nhất đã dùng tiếng “không”để đáp lại lời mời gọi của cha. “không, con không đi”. Nhưng sau đó, anh ta nghĩ lại, rồi quyết định đi làm vườn nho như ý cha muốn.

Ngược lại, người con thứ hai, ngay từ đầu đã tỏ ra lễ phép và vâng phục. Anh ta đáp lại: “Thưa cha, vâng ạ!”, nhưng đó chỉ là câu nói lừa bịp đối với cha, vì anh ta không đi làm vườn nho như ý cha muốn. Anh chỉ nói mà không làm.

Thưa anh chị em,

Ai cũng hiểu Chúa Giêsu muốn nói gì qua câu chuyện người cha và hai đứa con này. Chúa muốn nói với chúng ta: Muốn vào Nước Trời, vấn đề không phải chỉ nói “có”ngoài môi miệng mà phải làm theo ý của Chúa Cha. Hai người con, không có người nào đem lại niềm vui trọn vẹn cho cha. Cả hai đều không làm cha mình hài lòng. Nhưng người con thứ nhất rõ ràng là tốt hơn người con thứ hai. Bởi vì, tuy lúc đầu anh đã nói “không”, rồi sau đó anh đã đi làm ngay, thì thật là tốt biết mấy!

Trong cuộc sống thường ngày, chúng ta thường gặp hai hạng người này: Thứ nhất là hàng người nói nhiều hơn làm, họ hứa hẹn đủ điều, nhưng rồi không làm gì cả. Thứ hai là hạng người làm nhiều hơn nói, họ không hứa hẹn, ba hoa khoác lác, nhưng người ta thấy họ làm những việc đạo đức, nhân hậu, tốt lành, có khi làm một cách kín đáo. Chúng ta thích hạng người này hơn, vì họ chân thành, lấy việc làm chứng minh lời nói.

Lời hứa không bao giờ có thể thay thế được việc làm, và lời nói hoa mỹ không bao giờ thay thế được nghĩa cử. Người con thứ hai tỏ ra lịch sự bên ngoài, khi lễ phép trả lời; “Thưa cha, vâng ạ”. Nhưng rồi lại không đi làm. Lễ phép suông là một việc giả dối, hảo huyền. Lễ phép thật là vâng lời, thực hiện một cách sẵn lòng, vui vẻ. Đạo Kitô dạy các tín hữu thực hành chứ không phải hứa hẹn. Người Kitô hữu đích thực là người đón nhận mệnh lệnh của Cha với thái độ vâng phục và kính trọng, là người chấp hành mệnh lệnh trọn vẹn: nói làm là làm ngay.

Thưa anh chị em,

Ngày nay, người ta thường nói: “Con đường dài nhất là con đường từ đầu đến tay”. Người Kitô hữu chúng ta vẫn có nguy cơ rơi vào một thứ “duy tâm”nào đó. Chúng ta cần để cho Lời Chúa “đi từ lỗ tai đến tim óc và cuối cùng đến đôi tay”. Nhiều người chỉ nghe Lời Chúa bằng tai thôi- tai này lọt qua tai kia là hết- Nhiều người khác đã để cho Lời Chúa đánh động quả tim và trí tuệ, nhưng rồi họ ngừng lại tại đó, không dám đi xa hơn, vì sợ phải hy sinh, từ bỏ… Rốt cuộc Lời Chúa vẫn là cái gì mông lung, không thực tế, không liên hệ gì đến đời thường: đời sống làm ăn, đời sống gia đình, đời sống tình cảm… Lời Chúa vẫn bị nhốt trong nhà thờ, trong các cuộc tĩnh tâm, các buổi cầu nguyện chia sẻ. Làm sao để Lời Chúa được “đến đôi tay”, nghĩa là được người kitô hữu đem ra thực hành ở giữa chợ, ở trường học, ở cơ quan, và cả ở những nơi giải trí… Chỉ như thế, men Lời Chúa mới có thể được trộn đều vào khối bột loài người và làm bột dậy men Tin Mừng.

Quả thực, con đường đi từ quả tim đến đôi tay là một con đường dài và gian khổ. Để đi trên con đường này, người kitô hữu phải được giải phóng khỏi cái tôi nặng nề, với những lo toan và sợ hãi, những tính toán và vun quén cho mình. Rung động trước nỗi khổ của người khác là một chuyện, chia sẻ cho người khác cái áo còn tốt của mình lại là chuyện khác. Thánh Gioan đã cảnh giác chúng ta: “Hỡi anh em, đừng yêu mến bằng lời nói suông, nhưng bằng việc làm thực sự” (1Ga 3,18).

Thời Chúa Giêsu, những người Luật Sĩ và Biệt Phái Pharisêu bị lên án dữ dội vì họ giả hình- nói mà không làm, đặt gánh nặng lên vai người khác nhưng tránh né cho chính mình. Ngày nay cũng vậy: có Pharisiêu thời xưa thì cũng có Pharisiêu ngày nay: dạy con cái phải giữ đạo, phải cầu nguyện, dự lễ, nhưng chính mình lại biếng nhác, tự chước chuẩn cho mình.

Kitô giáo là một tôn giáo của lòng tin. Nhưng lòng tin bên trong của chúng ta phải được thể hiện ra việc làm bên ngoài: “Đức tin không có việc làm là đức tin chết” (Gc 2,17). Chúa Giêsu đã định nghĩa Kitô hữu là “ánh sáng cho thế giới”. Thế giới hôm nay cần thấy việc tốt của chúng ta trước khi họ tin nhận giáo lý của Chúa Kitô. Họ tin vào Đạo vì thấy những người dám sống đạo, dù phải chịu thiệt thòi và nguy hiểm. “Ánh sáng của anh em cũng phải chiếu giải trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời” (Mt 5,16).

Chỉ có Chúa Giêsu là Người Con lý tưởng, Người Con đã thưa VÂNG ngay từ đầu và thưa VÂNG mãi mãi suốt cả đời. Nơi Ngài luôn là CÓ chứ không phải khi CÓ khi KHÔNG. Ngài đã thưa với Chúa Cha: “Này con xin đến để thi hành ý Cha” (Dt 10,9), và Ngài đã thi hành cho đến lúc hoàn tất trên Thập Giá. Như thế, Chúa Giêsu đã thi hành ý Chúa Cha một cách hoàn hảo để nêu gương cho chúng ta. Chúng ta hãy noi gương Ngài để trở nên những người con đích thực của Cha chúng ta trên trời.

Hối hận nên lại đi

Hối hận nên lại đi

(Trích trong ‘Manna’)

Suy Niệm

"Người thu thuế và gái điếm vào Nước Trời trước các ông."

Lời nói của Đức Giêsu như một trái bom nổ trước mặt các thượng tế, kinh sư, pharisêu, những người đáng kính vì đạo đức và học thức, những người đáng trọng vì chức vụ.

Làm sao những người hư hỏng và tội lỗi lại có thể qua mặt các bậc đáng kính như vậy?

Đức Giêsu đã soi sáng trước bằng một dụ ngôn.

Người cha sai hai đứa con đi làm vườn nho. Đứa con thứ nhận lời, nhưng sau lại không đi làm. Đứa con cả từ chối, sau hối hận nên lại đi.

Con thứ tượng trưng cho các nhà lãnh đạo Do Thái Giáo. Họ tuyên bố mình sống nghiêm chỉnh theo Lề Luật. Tiếc thay chính sự đạo đức của họ lại làm cho họ tự mãn và khép kín đến nỗi không thể tin vào Đức Giêsu và đón lấy Ngài như quà tặng bất ngờ của Thiên Chúa.

Đứa con cả tượng trưng cho những người tội lỗi, những người bị đặt bên lề xã hội và tôn giáo. Đời sống của họ là một sự nhơ nhuốc đáng buồn. Nhưng chính tội lỗi đã làm cho họ khiêm tốn và dễ dàng hoán cải trước lời mời của Gioan. Rốt cuộc, họ lại là những người tin vào Đức Giêsu và gặp được ơn cứu độ trước nhiều người khác.

Đi làm hay không đi làm vườn nho đồng nghĩa với tin hay không tin vào Đức Giêsu.

Niềm tin có khả năng biến đổi cuộc sống.

Niềm tin thực sự luôn chuyển thành hành động.

"Chúng tôi phải làm gì, dân chúng hỏi Đức Giêsu, để được gọi là làm việc của Thiên Chúa?"

"Làm việc của Thiên Chúa là tin vào Đấng Ngài sai đến"

Đó là câu trả lời của Đức Giêsu (Ga 6,28-29).

Tin là một việc làm, một dấn thân nghiêm túc.

Niềm tin vào Đức Giêsu đòi hỏi một sự hoán cải và từ bỏ.

Giới lãnh đạo Do Thái Giáo sợ tin vào Đức Giêsu. Họ sợ mất chỗ đứng và quyền lợi, sợ phải thay đổi quan niệm của họ về Thiên Chúa.

Kitô giáo là tôn giáo của lòng tin.

Lòng tin bên trong phải được biểu lộ ra bên ngoài: "Đức tin không có việc làm là đức tin chết" (Gc 2,17).

Lòng tin không phải chỉ là một tuyên xưng ngoài miệng nhưng là một tuyên xưng bằng cuộc sống: "Không phải mọi kẻ nói với Thầy: Lạy Chúa, lạy Chúa, là sẽ được vào Nước Trời, nhưng là kẻ làm ý Cha Thầy" (Mt 7,21).

Tôi phải tránh lối giữ đạo hình thức: có tiếng là Kitô hữu, nhưng lại không thuộc về Đức Kitô, bởi có một khoảng cách rất xa giữa điều tôi tuyên xưng và điều tôi sống.

Gợi Ý Chia Sẻ

Đọc Lời Chúa, chia sẻ Lời Chúa là điều tốt, nhưng chưa đủ nếu không sống Lời Chúa. Bạn lượng giá thế nào về việc sống Lời Chúa của bạn trong đời thường đầy bon chen?

Bạn nghĩ gì về việc anh Giuse Nguyễn Đức Minh xin hiến thân xác anh cho y học? Bạn có coi đó là một hành vi đức tin cụ thể không?

Cầu Nguyện

Lạy Chúa Giêsu,

Sám hối không phải là điều dễ dàng, bởi lẽ chúng con không đủ khiêm tốn để nhận mình lầm lỗi.

Chúng con ngỡ ngàng khi thấy Chúa là Đấng vô tội mà lại đứng chung với các tội nhân, chờ Gioan ban phép rửa.

Chúa đã muốn nên bạn đồng hành với phận người mỏng dòn yếu đuối chúng con.

Xin cho chúng con biết thường xuyên điều chỉnh lối nghĩ và lối sống của mình, tỉnh táo để khỏi rơi vào ảo tưởng, thành thật để khỏi tự dối mình.

Ước gì Chúa ban cho chúng con ơn hoán cải, dám đi đến những hành động cụ thể, và chấp nhận những cắt tỉa đớn đau.

Nhưng xin đừng quên ban cho chúng con niềm vui của Giakêu, hạnh phúc vì được tự do và được yêu mến.

Đức Thánh Cha tiếp kiến Đại Hội Phong Trào Focolari

Đức Thánh Cha tiếp kiến Đại Hội Phong Trào Focolari

VATICAN. ĐTC Phanxicô mời gọi các thành viên Phong trào Focolari (Tổ Ấm), hăng say cộng tác vào công cuộc loan báo Tin Mừng của Giáo Hội cho con người thời này.

Ngài đưa ra lời mời gọi trên đây trong buổi tiếp kiến sáng 26-9-2014 tại Vatican dành cho 500 đại biểu sắp kết thúc Tổng Đại hội của Phong trào ở Castel Gandolfo từ ngày 1 đến 28-9-2014 và đã tái cử chị Maria Voce trong nhiệm vụ chủ tịch với nhiệm kỳ 6 năm. ĐTC nói: ”Trung thành với đoàn sủng từ đó phong trào được khai sinh và được nuôi dưỡng, Phong trào Tổ Ấm ngày nay đang đứng trước cùng một nghĩa vụ chờ đợi toàn thể Giáo Hội, đó là với tinh thần trách nhiệm và óc sáng tạo, đóng góp phần đặc thù của mình cho vận hội mới loan báo Tin Mừng”.

ĐTC gửi đến các thành viên của phong trào 3 lời sau đây, đó là: chiêm ngắm, đi ra ngoài, và huấn luyện.

Trước tiên là chiêm ngắm Thiên Chúa và các kỳ công tình thương của Chúa, ở lại trong Thiên Chúa, trong Chúa Giêsu Đấng đã đến cắm lều giữa chúng ta (Xc Ga 1,14).. Chiêm ngắm là điều kiện không thể thiếu được để hiện diện liên đới và hoạt động hiệu năng, thực sự hữu hiệu và tinh tuyền. ĐTC nhấn mạnh rằng: ”Tôi khích lệ anh chị em trung thành với lý tưởng chiêm ngắm này, kiên trì trong việc tìm kiếm sự kết hiệp với Thiên Chúa, trong tình yêu thương anh chị em mình, kín múc những phong phú từ Lời Chúa và Truyền thống của Giáo Hội”.

Thứ hai là đi ra ngoài. .. Ra ngoài như Chúa Giêsu xuất phát từ lòng Chúa Cha để loan báo lời tình thương cho tất cả mọi người, đến độ hy sinh bản thân trên thập gia.. Chúng ta hãy học nơi Chúa Giêsu động thái ra khỏi chính mình, tiến bước và luôn tái gieo vãi, đi xa hơn, để quảng đại thông truyền cho tất cả mọi người Tình Thương của Thiên Chúa, trong niềm tôn trọng và như Tin Mừng dạy chúng ta ”Các con đã lãnh nhận nhưng không, thì cũng hãy cho nhưng không” (Mt 10,8).

Sau cùng là ”lên lớp”, là huấn luyện. ĐTC mời gọi Phong trào Tổ Ấm quan tâm huấn luyện các thế hệ trẻ và nói rằng “Nếu không có công tác huấn luyện này thì thật là một ảo tưởng khi nghĩ mình có thể thực hiện một dự phóng nghiêm túc và lâu dài để phục vụ nhân loại mới”.

Ngài nhắc lại lập trường của Chị Chiara Lubich, vị sáng lập Phong trào Tổ Ấm, cổ võ các thành viên ”huấn luyện con người thế giới, nghĩa là những người nam nữ có tâm hồn của Chúa Giêsu để có thể nhận ra và giải thích những nhu cầu, những lo âu và hy vọng nơi tâm hồn mọi người”. (SD 26-9-2014).

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio
 

Lần đầu tiên Đức Thánh Cha Phanxicô khóc công khai

Lần đầu tiên Đức Thánh Cha Phanxicô khóc công khai

TIRANA. Đức Thánh Cha Phanxicô đã cảm động đến rơi lệ khi nghe chứng từ của 1 LM Albani đã bị kết án tử hình và của một nữ tu tại nước này.

Chiều chúa nhật 22-9-2014, trong chuyến viếng thăm mục vụ ”chớp nhoáng” từ sáng tới chiều ở Albani, ĐTC đã chủ sự buổi hát kinh chiều tại Nhà thờ chính tòa thủ đô Tirana với 7 GM Albani, cùng với khoảng 150 LM, 400 tu sĩ nam nữ và các chủng sinh, các thành viên phong trào giáo dân.

Sau lời chào của Đức TGM sở tại, Rrok Mirdita, một linh mục và một nữ tu đã kể lại những gian khổ đã chịu trong thời kỳ bị bách hại.

Trước tiên là Cha Ernest Simoni, 84 tuổi, từng bị kết án tử hình, nhưng rồi được biến cải thành 27 năm lao động khổ sai trong các trại khác nhau. Cha bị nhà nước cộng sản bắt giam từ lễ giáng sinh năm 1963, kết án tử hình vì đã cử hành 3 lễ cầu nguyện cho Tổng thống Kennedy của Mỹ bị ám sát chết 1 tháng trước đó. Cha bị tra tấn và đối xử vô nhân đạo. Sau đó, án tử hình được biến cải thành 18 năm tù, trong đó có nhiều năm lao động khổ sai, và sau khi được trả tự do một thời gian, cha bị bắt trở lại, tổng cộng là 27 năm tù đày.

Trong thời gian đó, cha vẫn cử hành thánh lễ thuộc lòng bằng tiếng la tinh, cũng vậy con đã giải tội và bí mật phân phát Mình Thánh Chúa cho các tín hữu.

Khi cha Simoni dứt lời, ĐTC đã tiến đến ôm vị linh mục thật lâu và khóc vì cảm động.

Chứng từ thứ hai được nữ tu Marije Kaleta, 85 tuổi, thuộc dòng Dấu Thánh Chúa Kitô, có chú là Cha Ndoc Suma, một linh mục đã chịu đau khổ nhiều năm trời trong cảnh tù ngục và lao động khổ sai. Ngày nay đang được giáo hội tiến hành án phong chân phước.
Sau 7 năm tu dòng, chị Kaleta phải hồi tục vì tu viện bị nhà nước đóng cửa. Nhưng chị vẫn âm thầm rửa tội cho các trẻ em, mang Mình Thánh Chúa cho các bệnh nhân. Chị kể:

”Hôm ấy con đi làm từ hợp tác xã trở về nhà. Dọc đường con nghe có tiếng người gọi con. Một phụ nữ chạy đến và xin con rửa tội rửa tội cho đứa con bà đang bồng trên tay. Con sợ vì biết đó là vợ một cán bộ cộng sản, con nói với bà ta là ”tôi không có gì để rửa tội”, vì bấy giờ chúng con đang ở trên đường. Nhưng bà rất tha thiết và nói với con rằng ở kênh gần đó có nước. Nhưng con nói với bà ấy là ”tôi không có gì để kín nước”. Nhưng bà ta cứ nài nỉ xin con rửa tội cho đứa con gái của bà. Sau khi thấy niềm tin của bà như thế, con cởi một cái dầy bằng plastic của con, để kín nước từ con kênh và rửa tội con đứa bé gái. Ngoài ra, nhờ quen biết các linh mục, con được may mắn giữ Mình Thánh Chúa trong tủ nhỏ ở nhà con, và con mang Mình Thánh cho các bệnh nhân và những người sắp qua đời.”

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Đức Thánh Cha tiếp kiến 2 ngàn tham dự viên cuộc gặp gỡ về dự án Mục Vụ ”Niềm vui Phúc Âm”

Đức Thánh Cha tiếp kiến 2 ngàn tham dự viên cuộc gặp gỡ về dự án Mục Vụ ”Niềm vui Phúc Âm”

VATICAN. Chiều ngày 19-9-2014, ĐTC đã tiếp kiến 2 ngàn tham dự viên cuộc gặp gỡ quốc tế về ”dự án mục vụ 'Niềm vui Phúc Âm”. Ngài mời gọi các nhân viên của Giáo Hội quan tâm đến con người và cuộc gặp gỡ của họ với Thiên Chúa.

Cuộc gặp gỡ do Hội đồng Tòa Thánh tái truyền giảng Tin Mừng tổ chức dưới sự hướng dẫn của Đức TGM chủ tịch Rino Fisichella tổ chức từ ngày 18 đến 20-9-2014.

Lên tiếng tại buổi tiếp kiến, trong đó có khoảng 25 HY, GM và nhiều nữ tu, ĐTC nhận xét rằng “đứng trước bao nhiêu đòi hỏi mục vụ, trước bao nhiêu yêu cầu của con người, chúng ta có nguy cơ kinh hãi và co cụm vào mình trong thái độ sợ hãi và tự vệ. Từ đó nảy sinh cám dỗ tự mãn và duy giáo sĩ, đóng khung đức tin trong những luật lệ và chỉ thị, như những người biệt phái, kinh sư và tiến sĩ Luật thời Chúa Giêsu đã làm. Chúng ta có mọi sự rõ ràng, ngăn nắp, nhưng dân chúng vẫn phải tìm kiếm và tiếp tục đói khát Thiên Chúa”.

ĐTC cũng cảnh giác các nhân viên mục vụ đừng chạy theo sự chiêu dụ mê hoặc, thúc đẩy ta biến việc mục vụ thành một loạt những sáng kiến liên tiếp, mà không lãnh hội được điều thiết yếu trong việc dấn thân loan báo Tin Mừng. Nhiều khi chúng ta quan tâm gia tăng các hoạt động hơn là chú ý đến con người và cuộc gặp gỡ của họ với Thiên Chúa. Một nền mục vụ không có sự chú ý như thế thì dần dần sẽ trở nên vô ích… Một nền mục vụ không có kinh nguyện và chiêm niệm thì không bao giờ đi vào tâm hồn con người. Nó chỉ dừng lại ở bề mặt mà không để cho hạt giống Lời Chúa có thể nảy mầm, tăng trưởng và sinh nhiều hoa trái (Xc Mt 13,1-23). (SD 19-9-2014).

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio