Tình yêu lớn nhất

Tình yêu lớn nhất

(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)

Có rất nhiều giai thoại kể về những tượng thánh giá cổ xưa… Tại một nhà thờ bên Tây Ban Nha, có một tượng thánh giá cổ rất đặc biệt. Cánh tay trái của Chúa Giêsu vẫn còn đóng vào gỗ giá, nhưng cánh tay mặt thì rời ra và đưa lên phía trước trong tư thế ban phép lành.

Người Tây Ban Nha kể về nguồn gốc của tượng thánh giá này như sau: Một hôm có một hôm có một tội nhân đến xưng tội với vị linh mục chính xứ ngay dưới cây thánh giá này. Như thường lệ, mỗi khi giải tội cho một tội nhân có quá nhiều tội nặng, vị linh mục này thường tỏ ra rất nghiêm khắc. Ngài ra việc đền tội thật nặng cũng như ngăm đe nhiều điều. Tội nhân ra về lòng cảm thấy nhẹ nhàng. Nhưng tính nào tật nấy, không bao lâu, người đó lại sa ngã. Lần này, sau khi tội nhân xưng thú tội lỗi, vị linh mục lại đe doạ: “Đây là lần cuối cùng tôi giải tội cho anh!”

Nhiều tháng trôi qua, tội nhân lại đến quỳ dưới chân linh mục cũng bên cây thánh giá và lại xin ơn tha thứ một lần nữa. Nhưng lần này, vị linh mục đã dứt khoát. Ngài lên giọng: “Anh đừng có đùa với Chúa. Tôi không thể ban phép giải tội cho anh nữa!”. Nhưng lạ lùng thay, khi vị linh mục vừa khước từ tội nhân sám hối, thì Ngài bỗng nghe một tiếng thì thầm từ bên thánh giá. Bàn tay phải của Chúa Giêsu bỗng được rút ra khỏi thánh giá và ban phép lành cho hối nhân. Và vị linh mục nghe được tiếng thì thầm ấy nói: “Chính Ta là người đã đổ máu ra cho người này chứ không phải ngươi”.

Từ đó, bàn tay của Chúa Giêsu cứ ở mãi trong tư thế ban phép lành, như không ngừng mời gọi con người đến để ban ơn tha thứ. Du khách đến viếng, nhìn lên thánh giá đều có cảm tưởng như ánh mắt của Chúa Giêsu nhìn mình và nghe như có tiếng thì thầm: “Ta không hề kết án con”.

Anh chị em thân mến, Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta nhìn lên thập giá của Đức Kitô. Nhìn lên thập giá để thấy được tình yêu bao la của Chúa. Ngài luôn tha thứ chứ không kết án. “Ta không muốn tội nhân phải chết, nhưng muốn nó bỏ đường tội lỗi, quay trở lại để được sống” (Ed 33,11). “Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Ngài đến thế gian không phải để lên án thế gian, nhưng để thế gian nhờ Con của Ngài mà được cứu độ”. “Cũng như Môsê treo con rắn đồng trong sa mạc thế nào, thì Con Người cũng bị treo lên như vậy, để tất cả những ai tin ở Ngài sẽkhông phải chết, nhưng được sống đời đời”. Thập giá đã trở thành dấu chỉ ơn cứu độ cho những ai tin vào Ngài, tương tự như con rắn đồng đã được Môsê giương cao trong sa mạc thuở xưa, để những ai bị rắn lửa cắn, nhìn lên con rắn đồng ấy đều được cứu sống.

Thánh Gioan còn nói tiếp: “Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Ngài thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời”. Thiên Chúa một lần nữa lại biểu lộ tất cả tình thương của Ngài đối với chúng ta trong Con Một của Ngài là Đức Giêsu Kitô. Tất cả bắt nguồn từ Thiên Chúa Tình Yêu. Tình yêu của Ngài không ở trên mây trên gió, nhưng được thể hiện qua hành vi “trao ban”. Điều quí nhất của Người Cha là Người Con. Thế mà Thiên Chúa đã muốn trao ban cho nhân loại chính Con Một dâú yêu của Ngài. Ngài đã cho chúng ta tất cả. Đức Giêsu chính là quà tặng lớn nhất Thiên Chúa Cha đã trao ban cho nhân loại. Việc trao ban này trước tiên được biểu lộ qua việc Ngài sai Con Người và cuối cùng qua việc nộp Con Một cho loài người treo lên thập giá. Đó là lúc Thiên Chúa trao ban Con Một của Ngài cho loài người một cách trọn vẹn nhất, dứt khoát nhất. Bởi vậy, chính lúc đó là lúc Thiên Chúa đã đặt Con của Ngài làm Đấng ban sự sống cho loài người,đểai tin vào Người Con ấy thì được sống đời đời. Vì con của Ngài đến không phải để kết án luận phạt, nhưng để cứu loài người khỏi chết và cho thông phần vào cuộc Phục Sinh vinh quang của Ngài.

Thưa anh chị em, đứng trước thập giá Đức Kitô, chúng ta phải có thái độ nào? Tin vào tình yêu Thiên Chúa hay chối từ tình yêu của Ngài? Chính thái độ đó sẽ định đoạt số phận của chúng ta. Vì thế, tin hay không tin là một chọn lựa sống chết. Mỗi người có đủ tự do tiếp nhận hay từ chối ánh sáng. Ai tin là đón nhận ánh sáng, là bước vào cõi sống. Ai không tin là từ chối ánh sáng và tự đầy đọa mình trong tăm tối, trong cõi chết. Thiên Chúa không cần kết án luận phạt nữa.

“Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một của Ngài”, đó là chân lý cơ bản nhất của Kitô giáo. Tất cả cuộc đời cuả Chúa Giêsu, cái chết của Ngài trên thập giá, là ngôn ngữ Chúa muốn sử dụng để nói với chúng ta rằng Ngài yêu thương chúng ta, yêu thương đến nỗi sẵn sàng để cho Ngươì Con Một yêu quí của Ngài chết thay cho chúng ta.

Hãy nhìn lên thập giá để thấy được tình yêu bao la của Chúa. Phải, bên kia sự ác độc của tội lỗi, Chúa Giêsu chỉ muốn chúng ta nhìn thấy được tình yêu của Thiên Chúa: một tình yêu không ngừng tha thứ, một tình yêu vượt lên trên mọi tư tưởng, mọi tiêu chuẩn phán đoán, mọi khát vọng của chúng ta.

Nhìn lên thập giá Chúa Kitô không phải để thất vọng vì gánh nặng của tội lỗi, trái lại để cảm nghiệm được hồng ân bao la của Chúa, để cho tâm hồn được phấn khởi, tin yêu hơn.

Nhìn lên thập giá Chúa Kitô để cảm nghiệm được ơn tha thứ của Ngài, để chúng ta cũng biết cảm thông và tha thứ cho anh em chúng ta. Càng nhận ra được tình yêu tha thứ của Chúa, chúng ta càng được mời gọi yêu thương tha thứ cho anh em nhiều hơn. Thiên Chúa không kết án luận phạt chúng ta, sao ta lại kết án luận phạt anh em mình? “Hãy tha thứ để được Chúa tha thứ. Đừng xét đoán để khỏi bị Chúa xét đoán” (Lc 6, 36-37). Hãy yêu thương như Chúa đã yêu thương ta.

Một lần nữa, hãy ngước nhìn lên thập giá Chúa Kitô:

Hãy xem đó thì biết phép công thẳng của Chúa là thế nào! Hãy xem đó thì biết tội nặng nề gớm ghiếc là chừng nào! Hãy xem đó thì rõ biết lòng Chúa quá yêu thương ta là dường nào! (Đàng Thánh Giá, chặng 13).

Sứ mệnh và ơn gọi của người già

Sứ mệnh và ơn gọi của người già

Sứ mệnh và ơn gọi của người già là cầu nguyện, hát ca chúc tụng Thiên Chúa, khuyên nhủ, khích lệ, nâng đỡ các thế hệ trẻ.

Sứ mệnh và ơn gọi của người già là cầu nguyện cho Giáo Hội, cho toàn thế giới và khuyên nhủ, khích lệ và nâng đỡ các thế hệ trẻ. Các ông bà nội ngoại làm thành một “ca đoàn” thường xuyên của một đền thánh tinh thần vĩ đại, nơi lời cầu nguyện khẩn nài và tiếng hát chúc tụng nâng đỡ cộng đoàn làm việc và tranh đấu trong cánh đồng cuộc sống.

ĐTC Phanxicô đã nói như trên với hơn 18,000 tín hữu và du khách hành hương tham dự buổi tiếp kiến chung sáng thứ tư hôm qua tại quảng trường thánh Phêrô.

Trong bài huấn dụ ĐTC đã suy tư về giá trị và vai trò quan trọng của ngưởi già trong gia đình. ĐTC nói ngài làm điều này bằng cách tự đồng hóa mình với người già, vì ngài cũng thuộc lứa tuổi này. Nhắc lại kỷ niệm chuyến công du tại Philippines ĐTC cho biết dân chúng đã gọi ngài là “ông nội Phanxicô”.

Điều đầu tiên cần nhấn mạnh đó là có đúng là xã hội hướng tới chỗ gạt bỏ chúng ta thật, nhưng Chúa chắc chắn không gạt bỏ người già. ĐTC giải thích như sau:

Chúa mời gọi chúng ta theo Ngài trong mọi lứa tuổi cuộc sống và cả tuổi già cũng chứa đựng một ơn thánh và một sứ mệnh, một on gọi đích thật của Chúa. Chưa phải là lúc kéo chèo lên thuyền để nghỉ ngơi. Giai đoạn này của cuộc sống khác với các giai đoạn đi trước, chắc chắn rồi, nhưng chúng ta cũng phải “sáng tạo nó một chút”, bởi vì các xã hội của chúng ta không sẵn sàng trên bình diện tinh thần và luân lý để trao ban cho tuổi già giá trị tràn đầy của nó. Thật thế, xưa kia có thời giờ cho chính mình không là điều bình thường. Nhưng ngày nay nó lại càng không bình thường hơn nữa. Cả nền tu đức kitô cũng đã hơi ngạc nhiên, và đây là việc đề ra các đường nét của một nền tu đức người già. Nhưng cám ơn Chúa không thiếu các chứng tá của các thánh nam thánh nữ!

 ĐTC nói tiếp trong bài huấn dụ: Tôi đã rất  bị đánh động bởi “Ngày quốc tế người già” chúng ta đã cử hành tại quảng trường thánh Phêrô này hồi năm ngoái: tôi đã lắng nghe lịch sử của các người già tiêu hao cuộc sống vì người khác. Đây là một suy tư cần tiếp tục trong môi trường giáo hội cũng như dân sự. Phúc Âm cống hiến cho chúng ta một hình ảnh rất đẹp, cảm động và khích lệ. Đó là hình ảnh của ông Simeon và bà Anna, được nhắc tới trong Phúc Âm thời thơ ấu của Chúa Giêsu do thánh Luca biên soạn. Hai vị chắc chắn là người cao niên, cụ Simeon và bà Anna là người đã 84 tuổi. Phúc Âm nói rằng đã từ nhiều năm họ đợi chờ Chúa đến mỗi ngày, với lòng trung thành lớn lao. Họ đã muốn trông thấy Ngài ngày hôm đó, tiếp nhận các dấu chỉ, trực giác được lúc khởi đầu. Có lẽ họ cũng đã hơi cam chịu phải chết trước: tuy nhiên sự chờ đợi lâu dài tiếp tục chiếm hữu suốt cuộc đời họ, họ đã không có dấn thân nào khác quan trọng hơn. Và thế là khi Maria và Giuse đến Đền Thờ để chu toàn các đòi buộc của Luật Lệ, ông Simeon và bà Anna được Thánh Thần linh hứng, hăng hái tiến lên (x. Lc 2,27). Sức nặng của tuổi đời và sự chờ đợi biến mất trong chốc lát. Họ nhận ra Con Trẻ và khám phá ra một năng lực mới, cho một nhiệm vụ mới: là cảm tạ và làm chứng cho Dấu Chỉ đó của Thiên Chúa. Ông Simeon đã ứng khẩu một thánh thi rất hay đẹp diễn tả niềm vui (x. Lc 2,29-32) và bà Anna đã trở thành người đầu tiên rao giảng về Chúa Giêsu: “Bà nói về Con Trẻ với tất cả nhũng ai trông đọi ơn cứu rỗi của Giêrusalem” (Lc 2,38).

Các ông bà nội ngoại thân mến, các người già thân mến, chúng ta hãy bước theo hai cụ già ngoại thường này! Chúng ta cũng hãy trở thành các thi sĩ của lời cầu nguyện một chút: hãy ưa thích tìm các lời của chúng ta, chúng ta hãy lấy lại những gì mà Lời Chúa đạy chúng ta. Thật là một ơn trọng đại cho Giáo Hội lời cầu nguyện của các ông bà nội ngoại! Một tiêm chích lớn của sự khôn ngoan cả cho toàn xã hội loài người nữa; nhất là cho xã hội quá chộn rộn với công ăn việc làm, quá bận bịu, quá lo ra. Nhưng phải có ai đó hát ca chúc tụng các dấu chỉ của Thiên Chúa cho các xã hội ấy! Chúng ta hãy coi Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã lựa chọn sống quãng đời còn lại trong cầu nguyện và trong việc lắng nghe Thiên Chúa! Một tín hữu lớn thuộc truyền thống chính thống thế kỷ trước là Olivier Clément đã nói: “Một nền văn minh nơi người ta không cầu nguyện nữa là một nền văn minh nơi  tuổi già không còn ý nghĩa. Và đây là điều kinh khủng, trước hết chúng ta cần các người già cầu nguyện, bởi vì tuổi già được ban cho chúng ta là cho việc đó”.

Đề cập đến những gì người già có thể làm ĐTC nói:

Chúng ta có thể cảm tạ Chúa vì các ơn lành đã nhận  lãnh và làm đầy sự trống rỗng của sự vô ơn bao quanh. Chúng ta có thể cầu bầu cho các chờ mong của các thế hệ mới và trao ban phẩm giá cho ký ức và các hy sinh của các thế hệ đã qua. Chúng ta có thể nhắc nhớ cho người trẻ tham vọng biết rằng một cuộc sống không tình yêu thương là một cuộc sống khô cằn. Chúng ta có thể nói với những người trẻ sợ hãi rằng có thể chiến thắng nỗi lo lắng cho tương lai. Chúng ta có thể dậy cho người trẻ quá si mê chính mình rằng có nhiều niềm vui trong việc cho đi hơn là nhận lãnh. Các ông bà nội ngoại làm thành một ca đoàn thường xuyên của một đền thánh tinh thần lớn lao, nơi lòi cầu nguyện khẩn nài và tiếng hát chúc tụng nâng đỡ cộng đoàn làm việc và chiến đấu trong cánh đồng cuộc sống.

Sau cùng lời cầu nguyện liên lỉ thanh tẩy con tim. Lời chúc tụng và khẩn nài lên Thiên Chúa ngăn ngừa sự chai cứng của con tim trong oán hận và ích kỷ. Thật xấu xa biết bao thái độ trơ trẽn của một người già đã đánh mất đi ý thức về chứng tá của mình, khinh rẻ giới trẻ và không thông truyền sự khôn ngoan của cuộc sống! Trái lại đẹp đẽ biết bao sự khích lệ mà người già thành công thông truyền cho người trẻ đang đi tìm ý nghĩa đức tin và cuộc sống! Đó thật là sứ mệnh của các ông bà nội ngoại, ơn gọi của người già. Các lời nói của ông bà nội ngoại có cái gì đặc biệt đối với người trẻ. Và họ biết điều ấy. Các lời mà bà nội tôi viết cho tôi trong ngày thụ phong linh mục của tôi, tôi vẫn còn luôn luôn đem theo trong sách thần vụ.

Tôi mong ước biết bao nhiêu một Giáo Hội thách đố nền văn hóa gạt bỏ với niềm  vui tràn bờ của một vòng tay ôm giữa người trẻ và người già.

ĐTC đã chào nhiều nhóm khác nhau. Chào các đoàn hành hương nói tiếng Pháp đặc biệt là các giáo chức giáo phận Nanterre, ĐTC mời gọi họ tiếp đón các người già đề nhận được từ họ chứng tá sự khôn ngoan cần thiết cho các thế hệ trẻ.

Ngài cũng chào các đoàn hành hương nói tiếng Anh đến từ các nước Đan Mạch, Na Uy, Thụy Điển, Indonesia, Hồng Kông, Canada và Hoa Kỳ, đặc biệt các Giám Mục Nam Hàn về Roma viếng mộ hai thánh Tông Đồ và thăm Tòa Thánh. ĐTC nói ngài vẫn còn nhớ chuyến viếng thăm Nam Hàn hồi tháng 8 năm ngoái.

Với các đoàn hành hương nói tiếng Đức ĐTC chào đặc biệt nhóm Thanh Sinh Công và khích lệ mọi người thắng vượt nền văn hóa gạt bỏ làm sao để cho người già và người trẻ tái gặp gỡ nhau trong niềm vui.

Chào các nhóm đến từ Tây Ban Nha, Puerto Rico, Argentina và Mêhicô ĐTC nói ngài rất ước ao Giáo Hội thắng vượt được nền văn hóa gạt bỏ và thăng tiến sự gặp gỡ giữa các thế hệ khác nhau.

Với các nhóm hành hương Ba Lan ngài đặc biệt chào các học sinh trường trung học Starachowic cùng cha mẹ hành hương Roma nhân kỷ niệm 10 năm Đức Gioan Phaolô II qua đời. ĐTC nhắn nhủ họ duy trì ký ức và các giáo huấn của thánh nhân, trung thành với Thiên Chúa và quê hương Ba Lan, cũng như truyền thống tôn trọng của cha ông quý mến người già.

Trong các nhóm Italia ngài chào các nữ tu dòng Chúa Thánh Thần, các Nữ tử Thánh Phaolô và người trẻ thuộc phong trào Tổ Ấm.

ĐTC cầu chúc Mùa Chay là thời gian thuận tiện giúp dấn thân xây dựng một xã hội có chiều kích nhân bản hơn, trong đó có chỗ cho mọi người nhất là người già, bệnh nhân, người nghèo và yếu đuối.

Chào các bạn trẻ, người đau yếu và các đôi tân hôn ĐTC nhắc cho mọi người nhớ trong tháng này Giáo Hội kỷ  niệm 500 ngày thánh nữ Terexa Avila sinh ra. Ngài cầu mong sức mạnh tinh thần của thánh nữ kích thích người trẻ tươi vui làm chứng cho đức tin; sự tin tưởng của thánh nữ nơi Chúa Cứu Thế trợ giúp người đau yếu trong những lúc khổ đau: và nhiệt huyết tông đồ của thánh nữ mời gọi các đôi tân hôn đặt để Chúa Kitô vào trung tâm gia đình.

Buổi tiếp kiến đã kết thúc với Kinh Lạy Cha và phép lành toà thánh ĐTC ban cho mọi người.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Đức Thánh Cha tiếp kiến các Giám Mục Hàn Quốc và Mông Cổ

Đức Thánh Cha tiếp kiến các Giám Mục Hàn Quốc và Mông Cổ

ĐTC tiếp kiến các GM Đại Hàn và Mông CổĐTC tiếp kiến các GM Đại Hàn và Mông Cổ

VATICAN. ĐTC Phanxicô mời gọi các GM Hàn Quốc giúp các tín hữu gặp gỡ và làm chứng cho Chúa Kitô, đồng thời tăng cường việc mục vụ giới trẻ.

 Trên đây là nội dung bài huấn dụ ngài trao cho 27 GM Hàn quốc và Đức GM Wenceslao Padilla của Mông Cổ, trong cuộc gặp gỡ sáng 12-3-2015, nhân dịp các vị về Roma hành hương, viếng mộ hai thánh Tông Đồ và thăm Tòa Thánh.

 Sau khi nhắc lại tấm gương của các Chân phước tử đạo Hàn quốc mà ngài tôn phong trong cuộc viếng thăm hồi tháng 8 năm 2014, ĐTC mời gọi các GM cùng với các LM, tu sĩ nam nữ và thủ lãnh giáo dân trong các giáo phận thuộc quyền, hãy ”làm sao để các giáo xứ, trường học và trung tâm tông đồ là những nơi gặp gỡ đích thực: gặp gỡ với Chúa, Đấng dạy chúng ta cách yêu thương và mở mắt để chúng ta nhìn nhận phẩm giá của mỗi người, và gặp gỡ nhau, nhất là những người nghèo, người già, người bị bỏ quên giữa chúng ta. Khi chúng ta gặp Chúa Giêsu và cảm nghiệm lòng từ bi của Chúa đối với chúng ta, thì chúng ta càng trở nên những chứng nhân có sức thuyết phục về quyền năng cứu độ của Chúa; chúng ta càng sẵn sàng chia sẻ tình yêu của chúng ta đối với Chúa và những hồng ân Chúa ban cho chúng ta..”

 Cũng trong bài huấn dụ, ĐTC nhìn nhận những cố gắng của các GM Hàn Quốc nhắm giúp người trẻ tham gia nhiều hơn vào cuộc sống và sinh hoạt của các giáo xứ, giáo phận. Ngài đặc biệt nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc làm gương cho người trẻ và khẳng định rằng ”Mặc dù chúng ta rao giảng chính Chúa Kitô chứ không phải chúng ta, chúng ta vẫn được kêu gọi trở nên mẫu gương cho Dân Chúa (Xc 1 Pr 5,3), để lôi kéo dân đến cùng Chúa. Người trẻ sẽ rất mau lẹ nhắc nhở chúng ta và Giáo Hội nếu cuộc sống của chúng ta không phản ánh niềm tin của chúng ta. Sự thẳng thắn của họ về vấn đề này có thể trợ giúp chúng ta, cũng như khi chúng ta tìm cách giúp các tín hữu biểu lộ niềm tin trong cuộc sống hằng ngày của họ”.

 Trong ý hướng trên đây, ĐTC kêu gọi các GM luôn nghĩ đến người trẻ khi suy tư về đời sống giáo phận và khi đề ra hoặc duyệt lại các chương trình mục vụ. Ngài viết: ”Anh em hãy coi giới trẻ như những người đối tác trong việc xây dựng một Giáo Hội thánh thiện, có tinh thần thừa sai và khiêm tốn hơn, một Giáo Hội yêu mến và phụng sự Chúa bằng cách phục vụ người nghèo, người cô đơn, người yếu đau và bị ở ngoài lề” (SD 12-3-2015)

 G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Đức Thánh Cha: biểu lộ Chúa từ bi qua Bí tích Giải Tội

Đức Thánh Cha: biểu lộ Chúa từ bi qua Bí tích Giải Tội

VATICAN. Sáng ngày 12-3-2015, ĐTC đã tiếp kiến 400 LM trẻ và các chủng sinh năm cuối vừa kết thúc khóa học thứ 26 về giải tội và những vấn đề lương tâm, do Tòa Ân giải tối cao tổ chức.

Lên tiếng trong dịp này, ĐTC nhắn nhủ các vị ban bí tích hòa giải hãy liên tục cụ thể hóa và biểu lộ tôn nhan từ bi của Thiên Chúa. ”Sống bí tích này có nghĩa là giúp anh chị em chúng ta cảm nghiệm an bình và cảm thông, về mặt nhân bản và Kitô. Không được biến Bí tích giải tội thành một thứ ”tra tấn”, cần làm sao để tất cả các hối nhân, khi ra khỏi tòa giải tội cảm thấy niềm hạnh phúc trong tâm hồn, với khuôn mặt rạng ngời hy vọng, và đôi khi đẫm lệ hoán cải, và niềm hy vọng từ đó mà ra.

ĐTC nhấn mạnh rằng ”Bí tích giải tội, với tất cả những hành vi của hối nhân, không có nghĩa là một cuộc khảo cung nặng nề, gây khó chịu và xen vào cuộc sống. Trái lại bí tích này phải là một cuộc gặp gỡ giải thoát và đầy tình người, qua đó có thể giáo dục hối nhân về lòng từ bi, lòng từ bi này không loại trừ, nhưng bao gồm đúng đắn sự quyết tâm đền bù, sửa chữa sự ác đã phạm.”

ĐTC không quên nhắn nhủ các cha giải tội hãy để cho mình được bí tích hòa giải giáo dục. Ngài viết: ”Bao nhiêu lần chúng ta được khích lệ khi nghe những lời xưng tội. Những anh chị em đang sống tình hiệp thông đích thực với Chúa về mặt bản thân và Giáo Hội, một tình yêu chân thành đối với tha nhân. Những tâm hồn đơn sơ, có tinh thần thanh bần, hoàn toàn phó thác cho Chúa, tín thác nơi Giáo Hội, và nơi vị giải tội. .. Chúng ta học hỏi được bao nhiêu điều nơi sự hoán cải và thống hối của các anh chị em chúng ta! Họ cũng thúc đẩy chúng ta hãy xét mình: Tôi là linh mục, tôi có yêu mến Chúa, Đấng đã cho tôi trở thành thừa tác viên lòng từ bi của Chúa hay không? Là linh mục, tôi có sẵn sàng thay đổi, hoán cải như hối nhân này hay không, người mà tôi đang phục vụ?” (SD 12-3-2015)

 G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

ĐHY Parolin: quốc tế ít chú ý đến Syria, Iraq, Ukraine

ĐHY Parolin: quốc tế ít chú ý đến Syria, Iraq, Ukraine

ROMA. ĐHY Pietro Parolin, Quốc vụ khanh Tòa Thánh, than phiền cộng đồng quốc tế có phần dửng dưng đối với các cuộc xung đột tại Syria, Iraq và Ukraine.

Trong cuộc phỏng vấn dành cho giới báo chí hôm 11-3-2015 ở Roma, ĐHY Parolin nói: ”Rất tiếc là người ta quen với những tình trạng xung đột ấy, đúng vậy, tôi tin là có sự dửng dưng phần nào, cả cuộc xung đột ở Siria tiếp tục tàn hại nhưng không còn thu hút sự chú ý như đã có thể lúc ban đầu. Và đó là nguy hiểm lớn nhất: người ta quên lãng các cuộc chiến tranh và những tình trạng xung đột ấy ngày càng trở nên khó chữa trị và chúng tiếp tục gây ra nhiều đau khổ lớn lao. Cần tiếp tục quan tâm và cảnh giác, đề ra những sáng kiến có thể giúp giải quyết, mặc dù nhiều sáng kiến không đạt tới những mục tiêu ta nhắm tới”.

ĐHY Quốc vụ khanh Tòa Thánh cũng phê bình tình trạng sa lầy trong việc cải tổ LHQ và nói rằng: ”Cho đến nay người ta chỉ ghi nhận bối cảnh thế giới đã thay đổi và không có những tác nhân như trước đây, nhưng người ta vẫn chưa tìm được giải pháp hoặc không quyết định và không chấp nhận các giải pháp cải tổ LHQ; chúng tôi tiếp tục nhấn mạnh về điểm này mỗi khi có thể. Nhưng dầu sao LHQ vẫn là một phương tiện có giá trị để đương đầu với các cuộc khủng hoảng, chúng tôi vẫn luôn nói và tin điều đó, nhưng cần có một LHQ được canh tân đối với thực tại mới chúng ta đang gặp phải”.

Trả lời câu hỏi về tương quan giữa Tòa Thánh và Trung Quốc, ĐHY Parolin nhìn nhận ”có những tiếp xúc đang tiến hành và có ý muốn đối thoại, một cuộc đối thoại có những nhịp độ và thời gian, và chúng tôi hy vọng nó có thể mang lại vài kết quả. Nhưng tôi muốn nói rằng về những điều mà báo chí đăng tải, không có gì mới mẻ đáng kể. Có ý muốn đối thoại và có vài tiếp xúc, và chúng tôi hy vọng nó có thể được cụ thể hóa một cách rõ ràng và có tổ chức hơn”.

ĐHY Parolin đã trả lời câu hỏi của giới báo chí bên lề buổi thuyết trình của ngài tại Đại học Giáo Hoàng Gregoriana ở Roma về đề tài ”Hòa bình: hồng ân của Thiên Chúa, trách nhiệm của con người, sự dấn thân của các tín hữu Kitô”.

Trong bài thuyết trình, ĐHY nói đến vai trò của các vị Tòa Sứ Thần Tòa Thánh và hoạt động ngoại giao của các vị Giáo Hoàng, đặc biệt trong thời đại tân thời. Ngài cũng nhấn mạnh đến sự dấn thân của Tòa Thánh trong việc bảo vệ các tín hữu Kitô, tuy rằng ”sự bảo vệ này phải được thi hành đối với những nạn nhân của các cuộc xung đột, trước khi để ý đến họ thuộc một cộng đồng tôn giáo nào”. Tòa Thánh dấn thân 'củng cố công pháp quốc tế về nhân đạo' trong những tình trạng xung đột.

ĐHY Parolin minh xác rằng việc sử dụng võ lực phải được coi như giải pháp cuối cùng, và càng ngày càng cần phải hoạt động để ”phòng ngừa chiến tranh” qua những phương thế như thương thuyết, đối thoại, điều đình. Trong bối cảnh này, ĐHY cầu mong trong tiến trình cải tổ giáo triều Roma, cần thiết lập một văn phòng về sự trung gian của Đức Giáo Hoàng, như một phương tiện có thể đặc biệt hữu ích trong các cuộc thương thảo quốc tế” (Vat. Ins. 11-3-2015)

 G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Phúc trình chi thu lạc quyên giúp Thánh Địa

Phúc trình chi thu lạc quyên giúp Thánh Địa

VATICAN. Trong năm 2014, hơn 7 triệu rưỡi Mỹ kim đã được dùng để trợ giúp các hoạt động của Giáo Hội Công Giáo tại Thánh Địa và giúp người tị nạn Siria và Irak.

 Theo thông cáo do Bộ các Giáo Hội Công Giáo Đông Phương, công bố hôm 10-3-2015, trong số ngân khoản do các giáo phận trên thế giới lạc quyên trong Ngày Thứ Sáu Tuần Thánh năm 2014, có 2,5 triệu mỹ kim được dùng để cứu trợ cấp thời cho dân chúng tại Irak và Siria, hơn 2 triệu 600 ngàn mỹ kim được dành để hỗ trợ nền giáo dục Công Giáo các cấp và 2 triệu 400 ngàn mỹ kim khác được dùng để tài trợ các dự án nhỏ, kể cả việc hỗ trợ Hội đồng các vị Bản quyền Công Giáo tại Thánh Địa.

 Bộ các Giáo Hội Công Giáo Đông phương đã công bố danh sách các dự án được tài trợ nhân dịp phổ biến thư gửi các GM giáo phận trên thế giới mời gọi các vị cho tổ chức các cuộc lạc quyên theo ý ĐTC để giúp Thánh Địa.

 65% ngân khoản quyên góp được Bộ trao cho Dòng Phanxicô tại Thánh Địa là đơn vị của dòng đặc trách hầu hết các nơi thánh liên hệ tới cuộc đời Chúa Giêsu và săn sóc mục vụ cho các tín hữu trong vùng, đảm trách các trường Công Giáo, các tổ chức bác ái, đào tạo LM và tu sĩ. 35% ngân khoản còn lại được sử dụng để tài trợ các dự án được Bộ Đông phương chọn tại các nơi khác ở Thánh Địa, đạo Cipro, Siria, Liban, Ai Cập, Ethiopia, Eritrea, Thổ Nhĩ Kỳ, Iran và Irak.

 Không đồng nào được dùng để giúp Trung ương dòng Phanxicô đang bị thiếu hụt ngân sách. Một tu sĩ Phanxicô ở Thánh Địa cho biết sau khi nhận được số tiền lạc quyên từ các giáo phận, Bộ các Giáo Hội Công Giáo Đông phương gửi thẳng tiền cho Dòng Phanxicô tại Thánh Địa để chi cho các dự án được chấp thuận. Trung ương dòng Phanxicô không liên hệ gì tới tiến trình này.

 Trong số các dự án được chấp thuận cho Thánh Địa có việc trợ giúp các tín hữu Kitô thiểu số trong vùng, bảo trì các địa điểm khảo cổ và Đền thánh Kitô, cũng như tạo cơ hội cho các tín hữu hành hương kính viếng các nơi này như Vườn Giệtsimani, Đền thờ Mộ Thánh, nhà Tiệc Ly, Vương cung thánh đường Truyền Tin ở Nazareth, khu khảo cổ ở Magdala, Capharnaum, Núi Tabor, Cana, Núi Nebo bên Giordani, trợ giúp học bổng cho 295 sinh viên đại học, mua dụng cụ cho 10 xưởng tiểu thủ công, tu bổ một số nhà ở của các gia đình nghèo nhất ở cổ thành Jerusalem, Beit Hanina, Bethlehem.. (CNS 10-3-2015)

 G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Tòa Thánh kêu gọi lạc quyên Thứ Sáu Tuần Thánh giúp Thánh Địa

Tòa Thánh kêu gọi lạc quyên Thứ Sáu Tuần Thánh giúp Thánh Địa

VATICAN. ĐHY Leonardo Sandri, Tổng trưởng Bộ các Giáo Hội Công Giáo Đông Phương, đã gửi thư đến các Giám mục giáo phận trên toàn thế giới, kêu gọi tổ chức lạc quyên vào ngày Thứ Sáu Tuần Thánh tới đây (3-4-2015), để giúp đỡ các tín hữu Kitô tại Thánh Địa.

 ĐHY Sandri nhắc lại truyền thống lạc quyên này, theo lời mời gọi của các vị Giáo Hoàng, để hỗ trợ cộng đồng các tín hữu và các nơi của Thánh Địa. Sự hỗ trợ này càng cần thiết trong thời điểm bi thảm hiện nay của toàn vùng Trung Đông.

 Sau khi nhắc đến lời nhắn nhủ nồng nhiệt của Thánh Phaolô Tông Đồ về việc lạc quyên nơi các cộng đồng Kitô tiên khởi để giúp đỡ người nghèo ở Thánh Địa (Xc Rm 15,25-26; Gl 2,10, 1 Cr 16, 2 Cr 8-9), ĐHY Sandri viết:

 ”Như thánh Tông Đồ, cả ĐGH Phanxicô cũng đặc biệt quan tâm đến những đau khổ của bao nhiêu anh chị em ở phần đất ấy của thế giới, đã trở nên thánh thiêng nhờ Máu của Con Chiên, và ”tình hình trong những tháng gần đây trở nên trầm trọng vì các cuộc xung đột xâu xé vùng này […]. Nỗi đau khổ ấy kêu thấu tới Thiên Chúa và kêu gọi sự dấn thân của tất cả chúng ta, trong kinh nguyện và mọi loại sáng kiến” (ĐTC Phanxicô, thư gửi các tín hữu Kitô Trung Đông, 21-12-2014).

 ĐHY Tổng trưởng Bộ các Giáo hội Công Giáo Đông phương nhắc đến thảm trạng hiện nay hàng triệu người phải trốn chạy từ Siria và Irak, nơi tiếng súng đạn vẫn chưa yên và con đường đối thoại và hòa hợp dường như hoàn toàn bị sa lầy, trong khi đó có sự trổi vượt oán thù điên rồ của những kẻ giết người và sự tuyệt vọng vô phương tự vệ của những bị mất tất cả sản nghiệp và bị bứng khỏi phần đất của cha ông họ”. Ngài nhận xét rằng ”nếu các tín hữu Kitô ở Thánh Địa được khuyên nhủ hãy hết sức chống lại mọi cám dỗ bỏ chạy, thì các tín hữu trên thế giới cũng được yêu cầu quan tâm đến số phận của các tín hữu tại Thánh Địa..”

 Và ĐHY Sandri kết luận rằng ”Tôi cầu mong cuộc lạc quyên này được sự đón nhận của tất cả các Giáo phận, để gia tăng sự tham gia trong tình liên đới. Bộ các Giáo Hội Công Giáo Đông phương phối hợp sự tham gia này để bảo đảm cho Thánh Địa sự nâng đỡ cần thiết đố với những nhu cầu của đời sống bình thường của Giáo Hội và mọi nhu cầu cần thiết khác” (SD 10-3-2015)

 G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Hồng Y Nhiếp Chính, Jean Louis Tauran, tuyên thệ nhậm chức

Hồng Y Nhiếp Chính, Jean Louis Tauran, tuyên thệ nhậm chức

ĐHY Jean Louis tuyên thệ nhậm chứcĐHY Jean Louis tuyên thệ nhậm chức (Courtesy pic. from Reuter)

VATICAN. Sáng ngày 9-3-2015, trước mặt ĐTC tại nhà nguyện Urbano VIII, ĐHY Jean Louis Tauran đã tuyên thệ nhậm chức Hồng Y Nhiếp chính trong trường hợp trống ngôi Giáo Hoàng.

 ĐTC đã chủ sự nghi thức, đọc các đoạn sách phụng vụ, nhưng không có diễn văn nào. Còn ĐHY Tauran sau đó đã nói ít lời cám ơn ĐTC.

 ĐHY Tauran người Pháp, 72 tuổi (1943) hiện nay cũng là Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh đối thoại liên tôn và ngày 20-12-2014, ngài được ĐTC bổ nhiệm thay thế ĐHY Tarcisio Bertone SDB trong nhiệm vụ nhiếp chính. Vị phó nhiếp chính là Đức TGM Giampiero Gloder, Giám đốc trường ngoại giao Tòa Thánh.

 Hồng Y nhiếp chính là vị chủ tịch của Tông Phòng (Camera Apostolica) và chăm sóc, quản lý tài sản cũng như các quyền lợi vật chất, tài sản của Tòa Thánh trong khi Tòa Thánh trống vị. Trong thời kỳ trống tòa như vậy, ngài không bị ngưng chức như các vị thủ lãnh các cơ quan trung ương khác của Tòa Thánh. Ngài thi hành các công việc bình thường và đệ trình lên Hồng y đoàn những gì quan trọng cần được phê chuẩn.

 ĐHY nhiếp chính có nhiệm vụ niêm phong phòng làm việc và phòng của ĐGH quá cố, cho phép hững người thường ở trong căn hộ của ĐGH được tiếp tục ở đó cho đến khi an táng ĐGH, sau đó toàn thể căn hộ sẽ bị niêm phong.

 Ngài cũng là người thông báo chính thức tin ĐGH qua đời cho ĐHY giám quản Roma và toàn thể dân thành này, cũng như cho ĐHY Giám quản Đền thờ Thánh Phêrô.

 ĐHY nhiếp chính, sau khi nghe ý kiến của 3 Hồng y trưởng của 3 đẳng GM, LM và Phó tế, sẽ ấn định tất cả những gì liên hệ tới việc an táng ĐGH quá cố. Ngài ấn định ngày bắt đầu các phiên họp của Hồng y đoàn để chuẩn bị bầu giáo hoàng mới. ĐHY cũng lo liệu những gì cần thiết để chuẩn bị việc bầu Giáo Hoàng. Ngài cho phép chụp hình vị Giáo Hoàng quá cố để làm tài liệu..

 ĐHY nhiếp chính nhận lời tuyên thệ của các Hồng Y về việc giữ bí mật liên quan tới cuộc bỏ phiếu..

 Những qui định trên đây được trình bày trong Tông hiến ”Universi Dominici Gregis” ([Mục tử] của toàn thể đoàn chiên Chúa” do Đức Gioan Phaolô 2 ban hành năm 1992 về những gì phải tuân giữ trong thời kỳ Tòa Thánh trống vị.

 G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Thanh tẩy Đền Thờ

Thanh tẩy Đền Thờ

Một trong những vấn đề lớn của thế giới hiện nay là nạn ô nhiễm môi sinh. Các giòng sông đang bị ô nhiễm vì biết bao chất thải dơ bẩn, độc hại. Không khí ta hít thở đang bị đe dọa vì bụi bặm, vì khói xe, khói nhà máy. Nước biển bị ô nhiễm vì nạn dầu nhớt rò rỉ, vì chất thải của những lò phản ứng nguyên tử. Tầng khí quyển bị những chất khí độc chọc thủng đang làm thay đổi khí hậu và gây ra những căn bệnh nguy hiểm. Để con người có thể sống và phát triển được, thế giới cần phải được thanh tẩy khỏi các nguồn ô nhiễm.

Sự ô nhiễm không chỉ trong môi trường vật lý. Nhiều môi trường khác như môi trường văn hóa, môi trường đạo đức cũng đang bị ô nhiễm trầm trọng. Tôn giáo không tránh khỏi nạn ô nhiễm. Muốn cho bầu khí đạo đức được trong sạch, muốn cho đời sống tâm linh tồn tại và phát triển, tôn giáo cũng cần được thanh tẩy. Hôm nay Đức Giêsu vào Đền thờ và đã thanh tẩy Đền thờ. Người đã làm 3 cuộc thanh tẩy

1) Người đã thanh tẩy Đền thờ khỏi ô nhiễm vì súc vật. Trong nghi lễ của đạo Do Thái, cần có súc vật để dâng cho Thiên Chúa. Khi dâng lễ hy sinh, người ta mổ một con thú, đặt trên bàn thờ rồi đốt lửa thiêu con vật. Mùi mỡ cháy quyện khói xông lên nghi ngút. Người giầu thì dâng một con bò hay một con chiên. Người nghèo có thể dâng một cặp chim bồ câu hoặc một đôi chim gáy. Để đáp ứng nhu cầu của tín đồ,dịch vụ cung cấp lễ vật mau chóng thành hình ngay trong khuôn viên Đền thờ. Ta hãy tưởng tượng một chợ trâu bò ngay trong Đền thờ. Thật là dơ bẩn, ồn ào và chướng tai gai mắt. Nhưng nhu cầu đã biện minh cho sự ô nhiễm. Và dân Do Thái mặc nhiên chấp nhận để cho súc vật nghễu nghện ngự trị ngay trong khuôn viên Đền thờ rất nguy nga, rất lộng lẫy, rất cao sang mà họ từng ca tụng là “đền vàng”, là “nơi thánh”. Thấy nhà Chúa bị xúc phạm, Đức Giêsu không kiềm chế được cơn giận, đã lấy roi xua đuổi hết súc vật và cả đám con buôn ra khỏi Đền thờ.

2) Khi xua đuổi các con buôn ra khỏi Đền thờ, Đức Giêsu đã thanh tẩy thói tôn thờ ngẫu tượng. Theo Đức Giêsu, ngẫu tượng nguy hiểm nhất là tiền bạc, tức là thần “Mammon”. Đã có lần Người lên tiếng cảnh báo: “Các con không thể làm tôi Thiên Chúa lẫn tiền của”, và “Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giầu có vào nước Thiên đàng”. Những con buôn đưa súc vật vào Đền thờ không do lòng yêu mến Thiên Chúa, nhưng vì lợi nhuận. Đưa súc vật vào nơi tôn nghiêm, họ đã coi trọng tiền bạc hơn Chúa. Để cho súc vật làm ô uế Đền thờ cao trọng, họ đã dùng Đền thờ làm phương tiện phục vụ túi tiền của họ. Các tư tế coi sóc Đền thờ có lẽ cũng được chia phần nên đã cho phép con buôn được tự do họp chợ trong Đền thờ. Họ cũng như con buôn, coi tiền bạc trọng hơn Thiên Chúa. Họ đã rơi vào thói tôn thờ ngẫu tượng: thờ tiền bạc, dùng Chúa và Đền thờ để phục vụ tư lợi.

3) Khi đuổi súc vật ra khỏi Đền thờ, Đức Giêsu muốn thanh tẩy cung cách thờ phượng của ta. Trước kia người ta dâng súc vật làm của lễ. Lòng đạo đức được đo lường bằng sức nặng của con vật. Dâng con vật to sẽ được nhiều ơn phúc. Nay, Đức Giêsu cho thấy Chúa đã chán thịt bò, mỡ dê. Chúa đã ghê sợ mùi khói mùi khét lẹt, mùi máu tanh tưởi (cf. Is 1,11). Thánh vương Đavít đã hiểu: “Chúa chẳng ưa thích gì tế phẩm, con có thượng tiến lễ toàn thiêu, Ngài cũng không chấp nhận” (Tv 50,16). Chúa muốn ta đến với Người bằng chính bản thân ta. Lễ dâng đẹp lòng Chúa là thái độ khiêm nhường thống hối như lời Thánh vịnh: “Lễ dâng Chúa là tâm hồn thống hối. Một tấm lòng tan nát dày vò, Chúa sẽ chẳng khinh chê” (Tv 50). Lễ dâng đẹp lòng Chúa là phó thác trót cả tâm hồn thân xác trong tay Chúa như Đức Giêsu đã làm trên Thánh giá: “Lạy Cha, con dâng phó hồn con trong tay Cha”. Lễ dâng được Chúa vui lòng chấp nhận là sát tế chính bản thân mình để làm theo ý Chúa: “Máu chiên bò Chúa không ưng. Của lễ toàn thiêu Chúa không nhận. Thì này con đến để làm theo ý Chúa (Tv). Ta sát tế chính bản thân mỗi khi ta từ bỏ ý riêng, chiến đấu chống lại những cơn cám dỗ của dục vọng, tiền bạc, thói gian tham, tính tự ái kiêu căng, sự chia rẽ bất hòa.

Đức Giêsu đã thanh tẩy Đền thờ. Người muốn ta hãy tiếp tục công việc của Người. Giữ gìn cho nhà thờ luôn sạch đẹp, có bầu khí tôn nghiêm là điều cần thiết. Nhưng cần hơn vẫn là giữ gìn ngôi Đền thờ thiêng liêng là chính bản thân ta. Tâm hồn chính là cung thánh nơi Chúa ngự. Ta phải luôn luôn thanh tẩy tâm hồn để xứng đáng với Chúa. Hãy thanh tẩy tâm hồn khỏi thói tôn thờ tiền bạc, coi trọng tiền bạc hơn Chúa. hãy thanh tẩy tâm hồn khỏi những dục vọng đam mê làm ô uế cung thánh của Chúa. Hãy thanh tẩy tâm hồn khỏi thói gian tham, bất công. Hãy thanh tẩy tâm hồn ta khỏi những kiêu căng đố kỵ. Thân xác ta là Đền thờ của Chúa. Hãy kính trọng thân xác của mình và của người khác. Hãy tu bổ những Đền thờ thân xác đã xuống cấp, suy tàn, bị xúc phạm, bị bán rẻ. Hãy sửa chữa những Đền thờ thân xác đang bị bào mòn vì bệnh tật, vì đói khát, vì thương tích. Hãy kính trọng thân xác của người khác vì đó là Đền thờ của Chúa.

Trong mùa Chay này, ta hãy cố gắng thanh tẩy bản thân, để tâm hồn và thân xác ta trở thành một Đền thờ xứng đáng cho Chúa ngự.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1) Khi tham dự thánh lễ, bạn có giữ cho nhà thờ có bầu khí trang nghiêm, lắng đọng không?

2) Đền thờ tâm hồn và thân xác bạn có những gì cần phải thanh tẩy không?

3) Mùa Chay này, bạn sẽ làm gì để trở nên một Đền thờ xứng đáng cho Chúa ngự?

ĐTGM Ngô Quang Kiệt

Giữ trong sạch nhà Cha

Giữ trong sạch nhà Cha

“Đừng biến nhà Cha Tôi, thành nơi chợ búa”

Trong tác phẩm “Chim hót trong bụi gai” tác giả kể chuyện một linh mục, cha Rap (Ralph). Cha Rap là một linh mục trẻ, có khả năng nhưng lại đầy tham vọng. Cha mong muốn thành công, muốn nổi danh và cũng ham tiền. Một giáo dân đã nhận ra chân tướng của vị linh mục. Bà phú hộ thương thầm cha nhưng không được đáp lại. Bà liền trả thù bằng cách hiến toàn bộ tài sản của bà cho Giáo Hội, với điều kiện phải cử cha Rap làm quản lý tài sản đó. Cách trả thù của bà phú hộ đã thành công.

Câu chuyện cốt phê bình chỉ trích Giáo Hội, nhưng cũng nói lên một thực tại, Giáo Hội của Đức Kitô bản chất tinh tuyền, nhưng lại gồm những con người bằng xương bằng thịt và có thể bị ảnh hưởng xấu do tiền của. Là con người, thì ai cũng phải cẩn thận lắm, khi sử dụng tiền của. Tiền của cần thiết cho mọi người, cho mọi tổ chức và cho cả Giáo Hội. Nhưng nó dễ chiếm địa vị độc tôn, khi ấy nó trở thành chủ nhân như Chúa cảnh giác ta về tình trạng đó: “Các con không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi tiền của” (Mt 6,24).

Tục ngữ có nói, đồng tiền liền khúc ruột. Còn Chúa Giêsu bảo ta: “Kho tàng con nơi đâu thì lòng dạ con ở đó” (Mt 6,21). Cũng như khi ta đặt một đồng tiền trước mắt, thì nó che chắn hết mọi cảnh vật, và trong thực tế nó có thể che chắn cả việc đạo đức, cả mọi ý hướng tốt lành.

Và nhiều khi có tiền bạc xen vào các việc thờ tự thì người ta dễ hiểu lầm. Phụng vụ xưa cũng như nay, cần có những lễ vật. Lễ vật trong phụng vụ xưa là chiên bò, chim câu cũng như bây giờ có hương hoa, đèn nến. Những thứ đó là tùy phụ, giúp con người biểu lộ tâm tình thờ phượng. Nhưng một khi những thứ tùy phụ đó lại trở thành chính cốt thì con người quên cả tâm tình bên trong. Và Chúa Giêsu đã phải tuyên bố: “Đừng biến nhà Cha Ta thành nơi buôn bán” (Ga 2,16). Chúa không ưa kiểu tính toán của dân buôn, không thích nghe tiếng sột soạt, leng keng của tiền bạc bên cạnh bàn thờ.

Chúa Giêsu nói tới Nhà Cha với một cảm tình quen thuộc, thân thương. Chúng ta tới với Chúa như người con về nhà Cha mình. Đó là cốt lõi của phụng tự, của nghi lễ của cầu nguyện, của cuộc đời Kitô hữu. Vậy điều cần thiết là phải lo sao cho tinh thần mình xứng hợp với ý Chúa, lo cho cuộc sống Kitô hữu của mình được trong sạch, hơn mọi mối lo khác, hơn mọi dáng vẻ vật chất, và đẹp đẽ trong phụng vụ, trong tổ chức, trong việc tô điểm Giáo đường, và mọi sinh hoạt tôn giáo khác.

Giá trị chính yếu của con người, và việc giúp con người phụng sự Thiên Chúa.

Lạy Chúa, xin giúp chúng con biết dâng hiến chính bản thân mình chúng con làm lễ tế sống thánh thiện để tôn thờ Chúa!

Noel Quesson

Đức Thánh Cha gửi 200 gia đình đi truyền giáo

Đức Thánh Cha gửi 200 gia đình đi truyền giáo

VATICAN. Sáng ngày 6-3-2015, ĐTC Phanxicô đã tiếp kiến 7 ngàn thành viên Con đường Tân Dự tòng và gửi thêm 31 đoàn truyền giáo cho dân ngoại, tổng cộng là 200 gia đình với 600 người con.

Hiện diện tại buổi tiếp kiến tại Đại thính đường Phaolô 6 có hơn 20 HY và GM thuộc các giáo phận nơi có các thành viên Con đường Tân Dự Tòng, cùng với 2 người sáng lập là Ông Kiko Arguello, bà Carmen Hernández và Cha linh hướng, Mario Pezzi.

Trong bài huấn dụ, ĐTC nhìn nhận Con đường Tân Dự Tòng là một thiện ích lớn lao trong Giáo Hội. Ngài cám ơn và đề cao tinh thần truyền giáo của các thành viên Con đường này. Nhiều gia đình sẵn sàng từ bỏ mọi sự, cùng với con cái ra đi truyền giáo, theo lời mời gọi của các GM. Mỗi đoàn truyền giáo gồm có 1 LM và 4 hoặc 5 gia đình. Họ đến sống tại những vùng đã xa rời đức tin Kitô hoặc chưa được nghe loan báo Tin Mừng: Thiên Chúa đã yêu thương nhân loại đến độ đã hiến Con của Ngài để ban cho chúng ta ơn được hiến mạng cho tha nhân.

ĐTC nói: ”Thế giới ngày nay rất cần sứ điệp cao cả này. Bao nhiêu cô đơn, bao nhiêu đau khổ, bao nhiêu xa cách Thiên Chúa tại bao nhiêu khu vực ngoại ô của Âu Châu và Mỹ châu, cũng như tại bao nhiêu thành thị ở Á châu! Con người ngày nay ở mọi góc trời, rất cần được nghe biết Thiên Chúa yêu thương họ và tình yêu là điều có thể! Nhờ các gia đình thừa sai của anh chị em, các cộng đồng Kitô có nghĩa vụ thiết yếu là làm cho sứ điệp ấy trở nên cụ thể, hữu hình”.

Sau bài huấn dụ, ĐTC đã làm phép các thánh giá mà các gia đình thừa sai cầm trong tay, rồi ngài trao các thánh giá cho 33 LM quì gối để lãnh nhận. Các vị tháp tùng các gia đình trong các đoàn thừa sai mới.

Con đường Tân Dự Tòng được thành lập năm 1967 do Ông Kiko Arguello và Bà Carmen Hernández tại Madrid, Tây Ban Nha. Trong năm 2015 này có 21 ngàn cộng đoàn tại 124 quốc gia 5 châu, thuộc gần 1,500 giáo phận trong hơn 6,300 giáo xứ.

Con đường này cũng có 103 đại chủng viện giáo phận thừa sai Mẹ Đấng Cứu Chuộc với hơn 2,300 đại chủng sinh giáo phận đang chuẩn bị tiến lên chức linh mục; hơn 2,200 linh mục giáo phận đã xuất thân từ các đại chủng viện đó, hơn 1,100 gia đình với 4,600 con cái đang hiện diện ở 5 châu.

Ngoài ra có 96 đoàn truyền giáo cho dân ngoại với 487 gia đình và 2087 người con, đông nhất là 58 đoàn tại Âu Châu, 9 tại Mỹ châu, 25 tại Á châu, 1 tại Phi châu và 3 tại Úc châu.

Trong buổi tiếp kiến 8 ngàn thành viên Con đường Tân Dự Tòng ngày 1-2 năm 2014, có 414 gia đình được ĐTC Phanxicô sai đi hoạt động trong đó có 174 gia đình shuộc 40 đoàn truyền giáo cho dân ngoại, thêm vào số 52 cứ điểm đã hiện hữu. (SD 6-3-2015)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

 

Đức Thánh Cha tiếp kiến Hàn Lâm Viện Tòa Thánh về sự sống

Đức Thánh Cha tiếp kiến Hàn Lâm Viện Tòa Thánh về sự sống

VATICAN. ĐTC chống lại nạn bỏ rơi người già và kêu gọi các nhân viên y tế đảm bảo sự chăm sóc chống đau dành cho các bệnh nhân ở giai đoạn cuối đời.

Ngài đưa ra lời kêu gọi trên đây trong buổi tiếp kiến sáng ngày 5-3-2015 dành cho 100 chuyên gia đang tham dự khóa họp toàn thể của Hàn lâm viện Tòa Thánh bảo vệ sự sống nhóm tại Vatican từ ngày 5 đến 7-3 tới đây về việc tăng cường trợ giúp người già và phát triển ngành y khoa chống đau.

ĐTC nói đến hiện tượng nhiều người già ngày càng ít được sự quan tâm của ngành y khoa chống đau và thường bị bỏ rơi. Ngài nói: ”Bỏ rơi chính là 'căn bệnh' trầm trọng nhất mà người già phải chịu và cũng là một bất công lớn nhất đối với họ: không thể bỏ rơi những người đã giúp chúng ta tăng trưởng khi họ cần đến sự giúp đỡ của chúng ta”.

ĐTC ca ngợi sự dấn thân về mặt khoa học và văn hóa của các thành viên Hàn lâm việc Tòa Thánh bảo vệ sự sống, để đảm bảo sao cho sự chăm sóc chống đau được dành cho tất cả những người đang cần. Ngài nói: ”Tôi khuyến khích những người chuyên nghiệp và các sinh viên hãy đi vào ngành chuyên môn trợ giúp này, nó không kém phần giá trị, nó đề cao giá trị của con người”.

ĐTC cũng nhận xét rằng ”người già cần được sự săn sóc trước tiên của những người thân trong gia đình – lòng yêu thương của họ đối với người già không thể thay thế bằng những cơ cấu dù là hiệu năng nhất hoặc bằng những nhân viên y tế tài ba và bác ái nhất”.

Trong ngày họp đầu tiên hôm 5-3-2015, sau diễn văn khai mạc của Đức Cha Chủ tịch Ignacio Carrasco de Paula, khóa họp của Hàm lân viện bảo vệ sự sống bàn về chữa trị các bệnh suy thoái kinh niên, săn sóc y khoa và sử dụng các thuốc chống đau. Thứ sáu 6-3-2015, khóa họp bàn về các viễn tượng đạo đức đối với người già ở giai đoạn cuối đời và tháp tùng họ một cách xứng với nhân phẩm, cũng như phủ nhận mọi hình thức bỏ rơi hoặc làm cho chết êm dịu.

Sau cùng, thứ bẩy 7-3-2015, được dành cho các khía cạnh văn hóa xã hội và tinh thần, tình liên đới được áp dụng trong những hoàn cảnh cuối đời của ngừơi bệnh, cũng như các vấn đề pháp lý trong giai đoạn chót của cuộc đời. (SD 5-3-2015)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Song thân thánh nữ Têrêsa Hài Đồng sắp được phong thánh

Song thân thánh nữ Têrêsa Hài Đồng sắp được phong thánh

VATICAN. Song thân thánh nữ Têrêsa Hài Đòng Giêsu, Chân phước Louis và Zélie Martin, sẽ được phong Hiển thánh trong dịp Thượng HĐGM thế giới về gia đình vào tháng 10 năm nay.

Trên đây là lời tuyên bố của ĐHY Angelo Amato, Tổng trưởng Bộ Phong thánh, trong buổi thuyết trình hôm 27-2-2015 ở Roma về vai trò của các thánh trong đời sống Giáo Hội. Ngài nói: ”Tạ ơn Chúa, vào tháng 10 năm nay, Ông Bà song thân của thánh nữ Têrêsa thành Lisieux sẽ được phong thánh”.

Chân phước Louis và Marie Zélie Guérin Martin thành hôn năm 1858 và có 9 người con, trong đó có 4 người chết sớm. 5 người con còn lại đều đi tu, trong đó có thánh nữ Têrêsa Hài Đồng. Bà Zélie Martin qua đời lúc 45 tuổi, tức là năm 1877 vì ung thư, còn Ông Louis Martin qua đời năm 1894 thọ 70 tuổi. Ông Bà được phong chân phước hồi năm 2008.

Theo thủ tục thông thường, trước khi được phong thánh, còn cần phải có một phép lạ được nhìn nhận và sắc lệnh nhìn nhận phép lạ này sẽ được ĐTC cho công bố trước lễ Phục Sinh tới đây. Giai đoạn kế tiếp, ngài sẽ nhóm công nghị Hồng Y về vấn đề này đã tuyên bố ngày phong hiển thánh cho ông bà chân phước.

Theo trang thông tin điện tử của Đền thánh Lisieux bên Pháp, một cuộc khỏi bệnh đang được bộ phong thánh cứu xét, liên quan đến một bé gái Carmen thuộc giáo phận Valencia, Tây Ban Nha. Hài nhi sinh thiếu tháng và có nhiều biến chứng phức tạp đe dọa sinh mạng, nhất là bị xuất huyết não. Cha mẹ em đã cầu xin Ông Bà chân phước Louis Zélie Martin cứu giúp, sau đó em đã được sống sót và hiện vẫn khỏe mạnh.

ĐTC Phanxicô có lòng sùng kính đặc biệt đối với thánh nữ Têrêsa Hài Đồng. Ngài quen đặt ảnh thánh nữ trên kệ sách thư viện trong văn phòng của ngài khi còn là TGM giáo phận Buenos Aires.

Trong sắc tay màu đen, ngài thường đích thân cầm trong các chuyến viếng thăm ở nước ngoài, ngoài những vật dụng tùy thân còn có cuốn sách tự thuật của thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu (CNS 4-3-2015)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Giáo Hội luôn trân quý, yêu thương và biết ơn người già là kho tàng khôn ngoan của xã hội

Giáo Hội luôn trân quý, yêu thương và biết ơn người già là kho tàng khôn ngoan của xã hội

Bỏ rơi không săn sóc thăm viếng cha mẹ già là một tội trọng. Vô tâm, thờ ơ, khinh rẻ và gạt bỏ người già là một tội. Một xã hội không sự gần gũi, trong đó sự nhưng không và lòng yêu thương trìu mến không cần đáp trả đang biến mất, là một xã hội đồi bại.

Kính thưa quý vị thính giả, ĐTC Phanxicô đã khẳng định như trên với gần 20,000 tín hữu và du khách hành hương tham dự buổi tiếp kiến chung tại quảng trường thánh Phêrô sáng thứ tư hôm qua.

Mở đầu bài huấn dụ ĐTC nói ngài dành hai bài giáo lý để nói về điều kiện hiện nay của người già, trong gia đình là các ông bà nội ngoại, và ơn gọi của tuổi già trong xã hội ngày nay.

Dựa trên kinh nghiệm đã có khi là Tổng Giám Mục Buenos Aires ĐTC nói về các vấn đề của người già như sau:

Các người già bị bỏ rơi, và không phải chỉ bị bỏ rơi trong sự bấp bênh vật chất. Họ bị bỏ rơi trong sự bất lực ích kỷ chấp nhận các hạn hẹp của họ phản ánh các hạn hẹp của chúng ta, trong nhiều khó khăn mà ngày nay họ phải vượt thắng để sống còn trong một nền văn minh không cho phép họ tham gia, nói lên suy tư của họ, cũng không là những người được quy chiếu theo mô hình tiêu thụ của chủ trương chỉ có người trẻ là ích lợi và có thể hưởng thụ. Trái lại đối với toàn xã hội, các người già này đáng lý ra phải là kho dự trữ khôn ngoan của dân tộc chúng ta. Người già là kho dự trữ khôn ngoan của dân tộc chúng ta. Chúng ta để cho lương tâm ngủ một cách dễ dàng biết bao khi không có tình yêu!

Và xảy ra như vậy. Tôi còn nhớ khi viếng thăm các nhà dưỡng lão, tôi đã nói chuyện với ai đó và biết bao lần tôi đã nghe điều này: “Bác khỏe không? Con cái ra sao rồi?” “Tôi khỏe, tôi khỏe” “Bác có mấy con?” “Nhiều lắm”. “Chúng có tới thăm bác không?” “Có, có, luôn luôn, vâng chúng có đến, chúng có đến”. “Lần cuối cùng các con đến thăm bác là khi nào?” Và bà cụ già, tôi đặc biệt nhớ một bà cụ đã nói: “Ôi, vào lễ Giáng Sinh”. Lúc đó chúng tôi đang ở trong tháng 8! Tám tháng không được con cái thăm viếng, bị bỏ rơi tám tháng! Điều này gọi là tội trọng, anh chị em hiểu không? Hồi còn bé bà nội tôi kể cho chúng tôi câu chuyện của một ông cụ già khi ăn làm bẩn tùm lum vì ông không thể đưa muỗng súp lên miệng một cách đúng đắn được. Người con, hay người cha gia đình, đã quyết định dời chỗ của cụ từ bàn ăn chung xuống cái bàn nhỏ trong nhà bếp, nơi không ai trông thấy vì ông ăn một mình. Và như thế ông khỏi bị mất mặt, khi có bạn bè tới dùng bữa trưa hay bữa tối. Ít ngày sau đó, ông về nhà và thấy đứa con nhỏ nhất của mình chơi với gỗ, cái búa và đinh. Nó đang làm cái gì đó. Ông hỏi: “Con đang làm gì đấy?” Nó trả lời: “Thưa cha con làm một cái bàn nhỏ”. “Một cái bàn nhỏ, tại sao?” “Để có nó khi ba trở thành già yếu, ba có thể ăn ở đấy”. Trẻ em có ý thức hơn chúng ta!

Nhờ các tiến bộ của y khoa sự sống con người “được kéo dài ra”, nhưng xã hội đã không “rộng mở ra” đối với sự sống. Số người già gia tăng, nhưng các xã hội chúng ta không được tổ chức đủ để dành chỗ cho họ, với lòng kính trọng đúng đắn và sự chú ý cụ thể đối với sự giòn mỏng và phẩm giá của họ. Cho tới khi nào chúng ta còn trẻ , chúng ta bị thúc đầy không biết tới tuổi già, làm như thể nó là một bệnh cần tránh xa. Nhưng rồi khi chúng ta già nua, đặc biệt khi chúng ta nghèo túng, đau yếu và cô đơn, chúng ta sống kinh nghiệm các thiếu sót của một xã hội được dự phóng trên sự hữu hiệu, và kết qủa là nó không biết tới người già. Nhưng người già là một sự giầu có, không thể không biết tới.

Khi thăm viếng một nhà dưỡng lão ĐTC Biển Đức XVI đã dùng các từ chìa khóa có tính cách ngôn sứ. Ngài nói: “Phẩm chất của một xã hội, tôi muốn nói của một nền văn minh, cũng được xét xử theo cách nó đối xử với người già và chỗ nó dành cho họ trong cuộc sống chung” (12-11-2012). Thật thế, sự chú ý tớí người già làm thành điểm khác biệt của một nền văn minh. Trong một nền văn minh có sự chú ý tới người cao niên không? Có chỗ cho người già không? Nền văn minh này sẽ tiến tới, nếu biết tôn trọng sự khôn ngoan, sự khôn ngoan của người già. Trong một nền văn minh mà không có chỗ cho người già, họ bị gạt bỏ, bởi vì họ tạo ra các vấn đề, thì xã hội đó đem theo trong mình vi rút của sự chết chóc. Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã tuyên bố như vậy.

ĐTC nói thêm trong bài huấn dụ: Bên Tây phương các nhà nghiên cứu trình bầy thế kỷ này như là thế kỷ của sự già nua: con cái giảm xuống, người già gia tăng. Sự mất quân bình này gọi hỏi chúng ta, còn hơn thế nữa nó là một thách đố lớn đối với xã hội hiện đại. Thế nhưng có một nền văn hóa lợi nhuận nào đó cố nhấn mạnh việc coi người già như một gánh nặng, một khối nặng vô ích. Chẳng những họ không sản xuất, mà còn là gánh nặng; và đâu là kết qủa của suy nghĩ như thế? họ bị gạt bỏ. Thật là xấu, khi thấy người già bị gạt bỏ, nó là điều xấu, nó là tội. Người ta không dám công khai nói lên điều ấy, nhưng người ta làm. Có một cái gì hèn hạ trong thái độ này của nền văn hóa gạt bỏ. Nhưng chúng ta quen gạt bỏ con người rồi. Chúng ta muốn lấy đi nỗi sợ hãi gia tăng của sự yếu đuối và dễ bị tổn thương; nhưng khi làm như vậy là chúng ta khiến gia tăng nơi người già nỗi âu lo bị chịu đựng và bị bỏ rơi. Trong truyền thống của Giáo Hội có một hành trang của sự khôn ngoan đã luôn luôn nâng đỡ một nền văn hóa gần gũi người già, một sự sẵn sàng tiếp đón yêu thương trìu mến và liên đới trong phần cuối của cuộc đời này. Truyền thống đó đâm rễ sâu trong Thánh Kinh, như các kiểu nói của sách Huấn Ca làm chứng: “Đừng bỏ qua chuyện các vị cao niên kể lại, vì chính các ngài đã học hỏi nơi tổ tiên mình; nhờ học với các ngài mà con có được sự hiểu biết, và khi cần, con biết đưa ra câu trả lời thích hợp” (Hc 8,9). ĐTC khẳng định lập trường của Giáo Hội đối với người già như sau:

Giáo Hội không thể và không muốn thuận theo một tâm thức không chịu đựng, lại càng không thờ ơ và khinh rẻ đối với người già. Chúng ta phải thức tỉnh ý thức tập thể biết ơn, qúy trọng, hiếu khách khiến cho người già cảm thấy họ là thành phần sống dộng của cộng đoàn.

Các người già là những người nam nữ, là cha mẹ đã đi trước chúng ta trên cùng con đường của chúng ta, trong nhà của chúng ta, trong cuộc chiến đấu thường ngày của chúng ta cho một đời sống xứng đáng hơn. Họ là những người nam nữ từ đó chúng ta đã nhận được rất nhiều, Người già không phải là một người xa lạ. Người già là chính chúng ta: trong ít lâu nữa, hay lâu sau này, nhưng không thể tránh được, cả khi chúng ta không nghĩ tới nó. Và nếu chúng ta không học đối xử tốt với ngưòi già, thì người ta cũng sẽ đối xử với chúng ta như vậy.

Tất cả người già chúng ta đều ít nhiều giòn mỏng. Tuy nhiên, một vài người đặc biệt yếu đuối, nhiều người cô đơn và bị ghi dấu bởi tật bệnh. Vài người tùy thuộc các chữa trị không thể thiếu và sự chú ý của người khác.Vì thế mà chúng ta sẽ lui bước, bỏ rơi họ cho số phận của họ hay sao? Một xã hội không sự gần gũi, trong đó sự nhưng không và lòng yêu thương trìu mến không cần đáp trả, đang biến mất, là một xã hội đồi bại.

Trung thành với Lời Chúa Giáo Hội không thể nhân nhượng với các suy đồi này. Một cộng đoàn kitô trong đó sự gần gũi và nhưng không không còn được coi là không thể thiếu, sẽ đánh mất đi linh hồn của nó. Nơi đâu không có lòng tôn kính người già, thì không có tương lại cho người trẻ.

ĐTC đã chào nhiều đoàn hành hương như các linh mục Canđê toàn Âu châu được Đức Cha Ramsi Garmou hướng dẫn và nhiều nhóm trẻ. Ngài khích lệ họ gần gũi, quý trọng, yêu thương trìu mến, biết ơn người già và tận dụng học hỏi kinh nghiệm và sự khôn khoan của họ.

Ngài cũng chào các đoàn hành hương Anh quốc, Đức, Áo, Đan Mạch, Thụy Điển, Nhật Bản, Nam Hàn và Hoa Kỳ và cầu chúc chuyến hành hương Roma củng cố đức tin và giúp họ sống kinh nghiệm sự hiệp thông với Giáo Hội hoàn vũ.

Chào các tín hữu Tây Ban Nha, Mexico, Á Căn Đình ngài khuyên mọi người sống dễ thương và tế nhị đối với người già, đặc biệt những người già nghèo túng, bệnh tật và cô đơn.

Với các tín hữu Ba Lan ĐTC nhắc lại các lời nhắn nhủ của thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II: Tuổi thứ ba hay thứ bốn thường bị đánh giá thấp, và chính người già cũng tự hỏi cuộc sống của họ có còn ích lợi không. Trong khi cộng đoàn kitô có thể nhận được rất nhiều từ sự hiện diện thanh thản của người cao niên. Người già có khả năng trao ban can đảm qua lời cố vấn yêu thương, lời cầu nguyện thinh lặng, chứng tá của khổ đau được đón nhận với sự tín thác kiên nhẫn, và họ trở thành qúy báu trong chương trình của Thiên Chúa Quan Phòng. Chúng ta hãy nhớ tới các ông bà nội ngoại của chúng ta và xin Chúa chúc lành đặc biệt cho các ngài.

Trong số các nhóm Italia ĐTC đặc biệt chào các giáo sư và sinh viên Đại học giáo hoàng Salesien đang kỷ niệm 200 năm thánh Bosco sinh ra; các Phó tế tổng giáo phận Milano; nhiều thành viên hiệp hội Rotary; tín hữu giáo phận Anzio cử hành năm Đức Giáo Hoàng Innocenzo XII; và hàng trăm người tàn tật giáo phận Mondovi do ĐC Luciano Pacomio GM sở tại hướng dẫn. Ngài nói: Ước chi thời đại chúng ta bị ghi dấu bởi biết bao bóng tối, được soi sáng bởi mặt trời hy vọng là Chúa Kitô. Ngài đã hứa sẽ luôn luôn ở với chúng ta và tỏ hiện sự hiện diện của Ngài trong nhiều cách thức. Chúng ta có bổn phận loan báo và làm chứng cho Ngài. Anh chị em đừng mệt mỏi tín thác nơi Chúa Kitô và phổ biến Tin Mừng của ngài trong mọi môi trường.

Chào các bạn trẻ, người đau yếu và các đôi tân hôn ĐTC cầu mong Mùa Chay là dịp giúp mọi người hoán cải đích thực và trưởng thành trong lòng tin.

Buổi tiếp kiến đã kết thúc với Kinh Lạy Cha và phép lành toà thánh ĐTC ban cho mọi người.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio
 

Đức Thánh Cha tiếp kiến 60 Giám Mục bạn Phong Trào Tổ Ấm

Đức Thánh Cha tiếp kiến 60 Giám Mục bạn Phong Trào Tổ Ấm

VATICAN. ĐTC đề cao vai trò của các GM trong việc tăng cường tình hiệp nhất của các tín hữu Kitô quanh bàn tiệc Thánh Thể.

Ngài nhắc lại đạo lý trên đây trong buổi tiếp kiến sáng thứ tư 4-3-2015, dành cho 60 GM bạn của Phong trào Focolare (Tổ Ấm), tham dự khóa hội thảo thứ 38 từ 3 đến 6-3-2015 tại Castel Gandolfo về đề tài: ”Thánh Thể, mầu nhiệm hiệp thông”.

Hiện diện tại buổi tiếp kiến, cũng có chị Maria Voce, Chủ tịch Phong trào Tổ Ấm và vị đồng chủ tịch là LM Jesús Morán Cepedano người Tây Ban Nha.

Lên tiếng tại buổi tiếp kiến, ĐTC nhận xét rằng ”đoàn sủng hiệp nhất là một đặc điểm của Phong trào Tổ Ấm, ăn rễ sâu nơi Thánh Thể.. Nếu không có Thánh Thể thì sự hiệp nhất sẽ mất đi một nguồn thu hút thần thiêng và bị thu hẹp thành một thứ tình cảm và một năng động nhân bản, tâm lý và xã hội học mà thôi. Trái lại, Thánh Thể đảm bảo cho sự hiệp nhất có trung tâm là Chúa Kitô và chính Thánh Linh của Chúa thúc đẩy những bước đường và sáng kiến gặp gỡ và hiệp thông của chúng ta”.

ĐTC cũng nhắc lại chân lý: GM chính là nguyên lý hiệp nhất của Giáo Hội, nhưng điều này sẽ không xảy ra nếu không có Thánh Thể. GM tụ họp Dân Chúa không phải quanh bản thân và những tư tưởng của GM, nhưng là quanh Chúa Kitô hiện diện trong Lời Chúa và trong bí tích Mình và Máu Chúa… Như thế Giám mục, được Chúa Kitô củng cố, trở thành Tin Mừng sinh động, trở thành Bánh được bẻ ra để nuôi sống nhiều người, cùng với lời giảng và chứng tá của GM.”

ĐTC tái bày tỏ tình liên đới đặc biệt với một số GM hiện diện đến từ những vùng đất đẫm máu là Syria và Iraq, cũng như từ Ucraina. Ngài nói: ”Trong đau khổ mà anh em đang sống cùng với dân của mình, anh em cảm nghiệm sức mạnh đến từ Chúa Giêsu Thánh Thể, sức mạnh để tiến bước hiệp nhất trong đức tin và hy vọng”.

Trong số 60 GM bạn của Phong trào Tổ Ấm tại cuộc Hội thảo có các vị đến từ 4 nước Á châu là Hàn quốc, Thái Lan, Myanmar và Ấn độ. Điều hợp viên khóa hội thảo là Đức Tân Hồng Y Phanxicô Xavie Kiengsak Kovithananij, TGM giáo phận Bangkok, Thái Lan.

Các GM đã nghe chứng từ của các GM đến từ các nước đang có chiến tranh như Syria, Iraq, Liban và cả Ukraine. (SD 4-3-2015)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Giáo Hội luôn trân quý, yêu thương và biết ơn người già là kho tàng khôn ngoan của xã hội

Giáo Hội luôn trân quý, yêu thương và biết ơn người già là kho tàng khôn ngoan của xã hội

Bỏ rơi không săn sóc thăm viếng cha mẹ già là một tội trọng. Vô tâm, thờ ơ, khinh rẻ và gạt bỏ người già là một tội. Một xã hội không sự gần gũi, trong đó sự nhưng không và lòng yêu thương trìu mến không cần đáp trả đang biến mất, là một xã hội đồi bại.

Kính thưa quý vị thính giả, ĐTC Phanxicô đã khẳng định như trên với gần 20,000 tín hữu và du khách hành hương tham dự buổi tiếp kiến chung tại quảng trường thánh Phêrô sáng thứ tư hôm qua.

Mở đầu bài huấn dụ ĐTC nói ngài dành hai bài giáo lý để nói về điều kiện hiện nay của người già, trong gia đình là các ông bà nội ngoại, và ơn gọi của tuổi già trong xã hội ngày nay.

Dựa trên kinh nghiệm đã có khi là Tổng Giám Mục Buenos Aires ĐTC nói về các vấn đề của người già như sau:

Các người già bị bỏ rơi, và không phải chỉ bị bỏ rơi trong sự bấp bênh vật chất. Họ bị bỏ rơi trong sự bất lực ích kỷ chấp nhận các hạn hẹp của họ phản ánh các hạn hẹp của chúng ta, trong nhiều khó khăn mà ngày nay họ phải vượt thắng để sống còn trong một nền văn minh không cho phép họ tham gia, nói lên suy tư của họ, cũng không là những người được quy chiếu theo mô hình tiêu thụ của chủ trương chỉ có người trẻ là ích lợi và có thể hưởng thụ. Trái lại đối với toàn xã hội, các người già này đáng lý ra phải là kho dự trữ khôn ngoan của dân tộc chúng ta. Người già là kho dự trữ khôn ngoan của dân tộc chúng ta. Chúng ta để cho lương tâm ngủ một cách dễ dàng biết bao khi không có tình yêu!

Và xảy ra như vậy. Tôi còn nhớ khi viếng thăm các nhà dưỡng lão, tôi đã nói chuyện với ai đó và biết bao lần tôi đã nghe điều này: “Bác khỏe không? Con cái ra sao rồi?” “Tôi khỏe, tôi khỏe” “Bác có mấy con?” “Nhiều lắm”. “Chúng có tới thăm bác không?” “Có, có, luôn luôn, vâng chúng có đến, chúng có đến”. “Lần cuối cùng các con đến thăm bác là khi nào?” Và bà cụ già, tôi đặc biệt nhớ một bà cụ đã nói: “Ôi, vào lễ Giáng Sinh”. Lúc đó chúng tôi đang ở trong tháng 8! Tám tháng không được con cái thăm viếng, bị bỏ rơi tám tháng! Điều này gọi là tội trọng, anh chị em hiểu không? Hồi còn bé bà nội tôi kể cho chúng tôi câu chuyện của một ông cụ già khi ăn làm bẩn tùm lum vì ông không thể đưa muỗng súp lên miệng một cách đúng đắn được. Người con, hay người cha gia đình, đã quyết định dời chỗ của cụ từ bàn ăn chung xuống cái bàn nhỏ trong nhà bếp, nơi không ai trông thấy vì ông ăn một mình. Và như thế ông khỏi bị mất mặt, khi có bạn bè tới dùng bữa trưa hay bữa tối. Ít ngày sau đó, ông về nhà và thấy đứa con nhỏ nhất của mình chơi với gỗ, cái búa và đinh. Nó đang làm cái gì đó. Ông hỏi: “Con đang làm gì đấy?” Nó trả lời: “Thưa cha con làm một cái bàn nhỏ”. “Một cái bàn nhỏ, tại sao?” “Để có nó khi ba trở thành già yếu, ba có thể ăn ở đấy”. Trẻ em có ý thức hơn chúng ta!

Nhờ các tiến bộ của y khoa sự sống con người “được kéo dài ra”, nhưng xã hội đã không “rộng mở ra” đối với sự sống. Số người già gia tăng, nhưng các xã hội chúng ta không được tổ chức đủ để dành chỗ cho họ, với lòng kính trọng đúng đắn và sự chú ý cụ thể đối với sự giòn mỏng và phẩm giá của họ. Cho tới khi nào chúng ta còn trẻ , chúng ta bị thúc đầy không biết tới tuổi già, làm như thể nó là một bệnh cần tránh xa. Nhưng rồi khi chúng ta già nua, đặc biệt khi chúng ta nghèo túng, đau yếu và cô đơn, chúng ta sống kinh nghiệm các thiếu sót của một xã hội được dự phóng trên sự hữu hiệu, và kết qủa là nó không biết tới người già. Nhưng người già là một sự giầu có, không thể không biết tới.

Khi thăm viếng một nhà dưỡng lão ĐTC Biển Đức XVI đã dùng các từ chìa khóa có tính cách ngôn sứ. Ngài nói: “Phẩm chất của một xã hội, tôi muốn nói của một nền văn minh, cũng được xét xử theo cách nó đối xử với người già và chỗ nó dành cho họ trong cuộc sống chung” (12-11-2012). Thật thế, sự chú ý tớí người già làm thành điểm khác biệt của một nền văn minh. Trong một nền văn minh có sự chú ý tới người cao niên không? Có chỗ cho người già không? Nền văn minh này sẽ tiến tới, nếu biết tôn trọng sự khôn ngoan, sự khôn ngoan của người già. Trong một nền văn minh mà không có chỗ cho người già, họ bị gạt bỏ, bởi vì họ tạo ra các vấn đề, thì xã hội đó đem theo trong mình vi rút của sự chết chóc. Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã tuyên bố như vậy.

ĐTC nói thêm trong bài huấn dụ: Bên Tây phương các nhà nghiên cứu trình bầy thế kỷ này như là thế kỷ của sự già nua: con cái giảm xuống, người già gia tăng. Sự mất quân bình này gọi hỏi chúng ta, còn hơn thế nữa nó là một thách đố lớn đối với xã hội hiện đại. Thế nhưng có một nền văn hóa lợi nhuận nào đó cố nhấn mạnh việc coi người già như một gánh nặng, một khối nặng vô ích. Chẳng những họ không sản xuất, mà còn là gánh nặng; và đâu là kết qủa của suy nghĩ như thế? họ bị gạt bỏ. Thật là xấu, khi thấy người già bị gạt bỏ, nó là điều xấu, nó là tội. Người ta không dám công khai nói lên điều ấy, nhưng người ta làm. Có một cái gì hèn hạ trong thái độ này của nền văn hóa gạt bỏ. Nhưng chúng ta quen gạt bỏ con người rồi. Chúng ta muốn lấy đi nỗi sợ hãi gia tăng của sự yếu đuối và dễ bị tổn thương; nhưng khi làm như vậy là chúng ta khiến gia tăng nơi người già nỗi âu lo bị chịu đựng và bị bỏ rơi. Trong truyền thống của Giáo Hội có một hành trang của sự khôn ngoan đã luôn luôn nâng đỡ một nền văn hóa gần gũi người già, một sự sẵn sàng tiếp đón yêu thương trìu mến và liên đới trong phần cuối của cuộc đời này. Truyền thống đó đâm rễ sâu trong Thánh Kinh, như các kiểu nói của sách Huấn Ca làm chứng: “Đừng bỏ qua chuyện các vị cao niên kể lại, vì chính các ngài đã học hỏi nơi tổ tiên mình; nhờ học với các ngài mà con có được sự hiểu biết, và khi cần, con biết đưa ra câu trả lời thích hợp” (Hc 8,9). ĐTC khẳng định lập trường của Giáo Hội đối với người già như sau:

Giáo Hội không thể và không muốn thuận theo một tâm thức không chịu đựng, lại càng không thờ ơ và khinh rẻ đối với người già. Chúng ta phải thức tỉnh ý thức tập thể biết ơn, qúy trọng, hiếu khách khiến cho người già cảm thấy họ là thành phần sống dộng của cộng đoàn.

Các người già là những người nam nữ, là cha mẹ đã đi trước chúng ta trên cùng con đường của chúng ta, trong nhà của chúng ta, trong cuộc chiến đấu thường ngày của chúng ta cho một đời sống xứng đáng hơn. Họ là những người nam nữ từ đó chúng ta đã nhận được rất nhiều, Người già không phải là một người xa lạ. Người già là chính chúng ta: trong ít lâu nữa, hay lâu sau này, nhưng không thể tránh được, cả khi chúng ta không nghĩ tới nó. Và nếu chúng ta không học đối xử tốt với ngưòi già, thì người ta cũng sẽ đối xử với chúng ta như vậy.

Tất cả người già chúng ta đều ít nhiều giòn mỏng. Tuy nhiên, một vài người đặc biệt yếu đuối, nhiều người cô đơn và bị ghi dấu bởi tật bệnh. Vài người tùy thuộc các chữa trị không thể thiếu và sự chú ý của người khác.Vì thế mà chúng ta sẽ lui bước, bỏ rơi họ cho số phận của họ hay sao? Một xã hội không sự gần gũi, trong đó sự nhưng không và lòng yêu thương trìu mến không cần đáp trả, đang biến mất, là một xã hội đồi bại.

Trung thành với Lời Chúa Giáo Hội không thể nhân nhượng với các suy đồi này. Một cộng đoàn kitô trong đó sự gần gũi và nhưng không không còn được coi là không thể thiếu, sẽ đánh mất đi linh hồn của nó. Nơi đâu không có lòng tôn kính người già, thì không có tương lại cho người trẻ.

ĐTC đã chào nhiều đoàn hành hương như các linh mục Canđê toàn Âu châu được Đức Cha Ramsi Garmou hướng dẫn và nhiều nhóm trẻ. Ngài khích lệ họ gần gũi, quý trọng, yêu thương trìu mến, biết ơn người già và tận dụng học hỏi kinh nghiệm và sự khôn khoan của họ.

Ngài cũng chào các đoàn hành hương Anh quốc, Đức, Áo, Đan Mạch, Thụy Điển, Nhật Bản, Nam Hàn và Hoa Kỳ và cầu chúc chuyến hành hương Roma củng cố đức tin và giúp họ sống kinh nghiệm sự hiệp thông với Giáo Hội hoàn vũ.

Chào các tín hữu Tây Ban Nha, Mêhicô, Argentina ngài khuyên mọi người sống dễ thương và tế nhị đối với người già, đặc biệt những người già nghèo túng, bệnh tật và cô đơn.

Với các tín hữu Ba Lan ĐTC nhắc lại các lời nhắn nhủ của thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II: Tuổi thứ ba hay thứ bốn thường bị đánh giá thấp, và chính người già cũng tự hỏi cuộc sống của họ có còn ích lợi không. Trong khi cộng đoàn kitô có thể nhận được rất nhiều từ sự hiện diện thanh thản của người cao niên. Người già có khả năng trao ban can đảm qua lời cố vấn yêu thương, lời cầu nguyện thinh lặng, chứng tá của khổ đau được đón nhận với sự tín thác kiên nhẫn, và họ trở thành qúy báu trong chương trình của Thiên Chúa Quan Phòng. Chúng ta hãy nhớ tới các ông bà nội ngoại của chúng ta và xin Chúa chúc lành đặc biệt cho các ngài.

Trong số các nhóm Italia ĐTC đặc biệt chào các giáo sư và sinh viên Đại học giáo hoàng Salesien đang kỷ niệm 200 năm thánh Bosco sinh ra; các Phó tế tổng giáo phận Milano; nhiều thành viên hiệp hội Rotary; tín hữu giáo phận Anzio cử hành năm Đức Giáo Hoàng Innocenzo XII; và hàng trăm người tàn tật giáo phận Mondovi do ĐC Luciano Pacomio GM sở tại hướng dẫn. Ngài nói: Ước chi thời đại chúng ta bị ghi dấu bởi biết bao bóng tối, được soi sáng bởi mặt trời hy vọng là Chúa Kitô. Ngài đã hứa sẽ luôn luôn ở với chúng ta và tỏ hiện sự hiện diện của Ngài trong nhiều cách thức. Chúng ta có bổn phận loan báo và làm chứng cho Ngài. Anh chị em đừng mệt mỏi tín thác nơi Chúa Kitô và phổ biến Tin Mừng của ngài trong mọi môi trường.

Chào các bạn trẻ, người đau yếu và các đôi tân hôn ĐTC cầu mong Mùa Chay là dịp giúp mọi người hoán cải đích thực và trưởng thành trong lòng tin.

Buổi tiếp kiến đã kết thúc với Kinh Lạy Cha và phép lành toà thánh ĐTC ban cho mọi người.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

 

Đức Thánh Cha tiếp kiến 60 Giám Mục bạn Phong Trào Tổ Ấm

Đức Thánh Cha tiếp kiến 60 Giám Mục bạn Phong Trào Tổ Ấm

VATICAN. ĐTC đề cao vai trò của các GM trong việc tăng cường tình hiệp nhất của các tín hữu Kitô quanh bàn tiệc Thánh Thể.

Ngài nhắc lại đạo lý trên đây trong buổi tiếp kiến sáng thứ tư 4-3-2015, dành cho 60 GM bạn của Phong trào Focolare (Tổ Ấm), tham dự khóa hội thảo thứ 38 từ 3 đến 6-3-2015 tại Castel Gandolfo về đề tài: ”Thánh Thể, mầu nhiệm hiệp thông”.

Hiện diện tại buổi tiếp kiến, cũng có chị Maria Voce, Chủ tịch Phong trào Tổ Ấm và vị đồng chủ tịch là LM Jesús Morán Cepedano người Tây Ban Nha.

Lên tiếng tại buổi tiếp kiến, ĐTC nhận xét rằng ”đoàn sủng hiệp nhất là một đặc điểm của Phong trào Tổ Ấm, ăn rễ sâu nơi Thánh Thể.. Nếu không có Thánh Thể thì sự hiệp nhất sẽ mất đi một nguồn thu hút thần thiêng và bị thu hẹp thành một thứ tình cảm và một năng động nhân bản, tâm lý và xã hội học mà thôi. Trái lại, Thánh Thể đảm bảo cho sự hiệp nhất có trung tâm là Chúa Kitô và chính Thánh Linh của Chúa thúc đẩy những bước đường và sáng kiến gặp gỡ và hiệp thông của chúng ta”.

ĐTC cũng nhắc lại chân lý: GM chính là nguyên lý hiệp nhất của Giáo Hội, nhưng điều này sẽ không xảy ra nếu không có Thánh Thể. GM tụ họp Dân Chúa không phải quanh bản thân và những tư tưởng của GM, nhưng là quanh Chúa Kitô hiện diện trong Lời Chúa và trong bí tích Mình và Máu Chúa… Như thế Giám mục, được Chúa Kitô củng cố, trở thành Tin Mừng sinh động, trở thành Bánh được bẻ ra để nuôi sống nhiều người, cùng với lời giảng và chứng tá của GM.”

ĐTC tái bày tỏ tình liên đới đặc biệt với một số GM hiện diện đến từ những vùng đất đẫm máu là Siria và Irak, cũng như từ Ucraina. Ngài nói: ”Trong đau khổ mà anh em đang sống cùng với dân của mình, anh em cảm nghiệm sức mạnh đến từ Chúa Giêsu Thánh Thể, sức mạnh để tiến bước hiệp nhất trong đức tin và hy vọng”.

Trong số 60 GM bạn của Phong trào Tổ Ấm tại cuộc Hội thảo có các vị đến từ 4 nước Á châu là Hàn quốc, Thái Lan, Myanmar và Ấn độ. Điều hợp viên khóa hội thảo là Đức Tân Hồng Y Phanxicô Xavie Kiengsak Kovithananij, TGM giáo phận Bangkok, Thái Lan.

Các GM đã nghe chứng từ của các GM đến từ các nước đang có chiến tranh như Siria, Irak, Liban và cả Ucraina. (SD 4-3-2015)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Các phôi thai đông lạnh

Các phôi thai đông lạnh

Phỏng vấn Đức Ông Renzo Pegoraro, chưởng ấn Hàn lâm viện giáo hoàng Cho sự sống

Trong những ngày đầu tháng hai vừa qua dư luận Italia đã bàn tán về phán quyết của các thẩm phán tỉnh Bologna, trung bắc Italia, cho phép cấy một phôi thai đã được cho thụ thai cách đây 19 năm vào tử cung của một bà góa 50 tuổi muốn có con.

Từ nhiều thập niên qua tại Âu châu việc thụ thai trong ống nghiệm đã trở thành một thực tại kỹ nghệ hay ít nhất đó là giấc mộng của những người có tham vọng làm giầu với nó. Các phôi thai này được tạo thành bởi tinh trùng của một người nam và trứng của một phụ nữ, rất thường khi vô danh, nhằm đáp ứng nhu cầu có con của một số cặp vợ chồng muốn có con, nhưng vì nhiều lý do không thể thụ thai. Trứng tạo thành phôi thai có thể là của phụ nữ muốn có con, và tinh trùng của một người cho không phải là chồng bà. Nó cũng có thể là tinh trùng của người chồng muốn có con và trứng của một phụ nữ nào đó mà không phải là của vợ ông. Rất thường khi phôi thai thành hình trong ống nghiệm là trẻ mồ côi, vì không biết ai là cha mẹ mình. Lý do là vì những người sẵn sàng hiến trứng và tinh trùng không cho biết danh tánh của họ.

Ban đầu xem ra việc cho thụ thai trong ống nghiệm nhằm đáp ứng các nhu cầu cấp thiết của các cặp vợ chồng muốn có con mà không hội đủ điều kiện tâm sinh vật thể lý. Nhưng dần dà nó đi xa hơn và trở thành cuộc chạy đua thử nghiệm “chế tạo người” để lấy các tế bào gốc nhằm chữa trị một số bệnh.

Sau khi lấy các tế bào gốc của phôi thai, người ta hủy hoại các phôi thai ấy. Và để có số dự trữ sẵn người ta cho thụ thai trong ống nghiệm hàng trăm ngàn hay hàng triệu các phôi thai, và đông lạnh chúng để sử dụng khi cần. Nhưng việc đông lạnh các phôi thai người có thể khiến cho phôi thai bị hư hại, nên cứ sau một thời gian người ta lại hủy các phôi thai đông lạnh đi, và thay thế bằng các phôi thai mới. Sự kiện giết các phôi thai người này đã khiến cho các tín hữu công giáo và các phong trào bảo vệ sự sống đó đây trên thế giới phản đối bằng cách tổ chức các cuộc tuần hành, biểu tình, canh thức cầu nguyện, đọc kinh Mân Côi hay dâng thánh lễ phạt tạ tại Hoa Kỳ, bên Anh quốc vv…

Tuy đã phải giết bao nhiêu triệu phôi thai nhưng thật ra kỹ nghệ chế tạo phôi thai và dùng các tế bào gốc lấy từ phôi thai người đã không đem lại nhiều kết qủa như mong muốn của các người chủ trương hy vọng có thể làm giầu với nó. Trong khi đó việc sử dụng các tế bào gốc lấy từ các cuống rốn và các tế bào gốc trưởng thành của chính các bệnh nhân đã đem lại nhiều thành quả rất đáng khích lệ, và đã chữa lành hay chỉnh sửa được các cơ phận bị bệnh.

Với các kỹ thuật tối tân ngày nay người ta còn có thể chế tạo các phôi thai người theo các chi tiết phù hợp với ước muốn của “người đặt hàng” liên quan tới mầu mắt, mầu da, mầu tóc và nhiều đặc tính khác. Và người ta vẫn có tham vọng đi tới chỗ sản xuất người hàng loạt như mong muốn.

Sau đây chúng tôi xin gửi tởi quý vị một số nhận định của Đức Ông Renzo Pegoraro, chưởng ấn Hàn lâm viện giáo hoàng Cho sự sống về vấn đề nêu trên.

Đức Ông Perogaro là chuyên viên luân lý sinh học, chủ tịch tổ chức Lanza, thành viên của Ủy ban luân lý sinh học các nhà thương Italia và là giáo sư tại phân khoa thần học vùng Triveneto đông bắc Italia. Ngày 12 tháng 9 năm 2013 Đức Ông đã được ĐTC Biển Đức XVI chỉ định làm chưởng ấn Hàn lâm viện giáo hoàng bảo vệ sự sống. Hàn lâm viện giáo hoàng bảo vệ sự sống đã do Đức Gioan Phaolô II thành lập năm 1994. Ủy ban gồm 37 chuyên viên có nhiệm vụ thăng tiến và bảo vệ sự sống cũng như phổ biến các giáo huấn luân lý đạo đức của Giáo Hội liên quan tới lãnh vực này.

Hỏi: Thưa Đức Ông, như là chuyên viên luân lý sinh học Đức Ông nghĩ gì về trường hợp nói trên?

Đáp: Trong trường hợp chuyên biệt này, các phôi thai đã hiện hữu, chúng đã được tạo thành cách đây 19 năm, rồi được đông lạnh. Vấn đề đặt ra cũng là vấn đề cống hiến một khả thể có thể sinh con. Như thế, một đàng có khả thể này là một giai pháp tích cực, và đàng khác, sau 19 năm đông lạnh, kể cả trên bình diện y khoa và kỹ thuật sít sao, thật khó mà thành công. Hơn thế nữa còn có sự kiện tuổi của người đàn bà đã cao, hầu như 50 rồi, và sự kiện ở góa: một trật tự lứa đôi và gia đình đã thay đổi so với 19 năm trước đây.

Hỏi: Chúng ta nhấn mạnh điều này: đó là tình trạng này đã nảy sinh trước khi luật 40 liên quan tới lãnh vực này bắt đầu có hiệu lực, thưa Đức Ông?

Đáp: Thật ra đạo luật 40 thấy trước rằng mỗi một chu kỳ kết thúc trong chính nó và tất cả các phôi thai có được phải cấy ngay lập tức, tránh bị đông lạnh, chính là để tránh các tình trạng như thế này, trong đó mọi chuyện trở thành phức tạp.

Hỏi: Nhưng trong thời gian đó thì đạo luật 40 đã bị tháo gỡ bởi các phán quyết, vậy có cần một sự tái tổ chức mới hay không?

Đáp: Tôi đồng ý với việc tổ chức trở lại và hệ thống hóa vấn đề với một việc đưa ra luật lệ chú ý hơn, chính xác hơn và bảo vệ các đương sự có liên hệ một cách tốt đẹp hơn, đặc biệt là bảo vệ sự sống đang sinh ra, sự sống của các bào thai, nhưng cũng bảo vệ sự sống người đàn bà của cặp vợ chồng và của gia đình trong tổng thể của nó. Luật 40 đã đưa ra các hạn chế để có các bảo vệ chính xác hơn. Hiện nay người ta đang đứng trước tình trạng tháo gỡ khung tổng quát của luật này, và sự kiện mỗi tòa án có thể quyết định từng trường hợp riêng rẽ, mà không có một tiêu chuẩn chung chính xác hơn.

Hỏi: Thế là chúng ta lại đang đứng trước một thực tạ,i trong đó người ta đông lạnh một sự sống, người ta để nó trong một tình trạng treo lơ lửng, và người ta không biết điều gì sẽ xảy ra… có phải thế không thưa Đức Ông?

Đáp: Luật 40 đã muốn tránh có quá nhiều phôi thai để chúng không bị đông lạnh như đã xảy ra. Trong trường hợp của người đàn bà nói trên vấn đề là phôi thai đã được tạo thành cách đây 19 năm. Bây giờ làm thế nào để ra khỏi tình trạng này, và ít nhất thử cống hiến khả thể này cho các phôi thai đã hiện hữu và bà mẹ là mẹ chúng?

Hỏi: Thưa Đức Ông, Giáo Hội luôn luôn tôn trọng và bảo vệ sự sống, và như thế Giáo Hội chống lại mọi lèo lái, trái lại Giáo Hội ủng hộ việc chống lại sự hiếm muộn. Thế mà nhiều người tiếp tục con đường được định nghĩa như là “có con bằng bất cứ giá nào”. Đức Ông nghĩ sao?

Đáp: Tôi tin rằng có biết bao nhiêu lần các kỹ thuật đã thúc đẩy theo một hướng cho nhanh hơn và hữu hiệu hơn, và đánh mất đi tất cả những gì có thể là nhiệm vụ của chính y khoa biết chú ý tới một môi sinh nhân bản và một việc tôn trọng nhân bản trong việc phòng ngừa sự hiếm muộn hay chữa trị các hạch nội tiết, hoặc giải phẫu để có thể đem lại các hiệu qủa trong sự tôn trọng việc truyền sinh, tôn trọng phẩm giá của con người.

Hỏi: Như vậy theo Đức Ông, cần phải có một suy tư sâu xa về vấn đề này?

Đáp: Dầu sao đi nữa một suy tư là điều cần thiết từ quan điểm luân lý đạo đức và từ quan điểm của điều lệ và lập pháp: một nền luân lý đạo đức yểm trợ một việc tiếp cận việc truyền sinh trong các phạm trù của tinh thần trách nhiệm, bảo vệ những người yếu đuối nhất, đặc biệt là bào thai, chính phụ nữ, tính cách xác thể của họ và cả một luật chính xác hơn, bởi vì việc tháo gỡ luật 40 đã mở ra tất cả một loạt các tình huống trở thành khó điều khiển.

(RG 11-2-2015)

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Công bố qui chế 3 cơ quan kinh tế, tài chánh và kiểm toán của Tòa Thánh

Công bố qui chế 3 cơ quan kinh tế, tài chánh và kiểm toán của Tòa Thánh

VATICAN. Hôm 3-3-2015, qui chế của 3 cơ quan về kinh tế và tài chánh của Tòa Thánh đã được công bố, gồm Hội đồng kinh tế, Văn phòng kinh tế và viện kiểm toán.

Ba qui chế được ĐTC Phanxicô ký ngày 22-2-2015 tức là trước khi đi tĩnh tâm mùa chay, có giá trị thử nghiệm, được yết thị trong những ngày qua tại Sân Damaso trong Nội thành Vatican và bắt đầu có hiệu lực từ ngày 1-3-2015.

1. Hội đồng kinh tế là cơ quan giám sát và đề ra hướng đi về các hoạt động kinh tế của Tòa Thánh và gồm có 15 thành viên, trong đó có 8 vị Hồng Y, GM và 7 vị còn lại là giáo dân chuyên gia. Hội đồng do 1 HY làm điều hợp viên (hiện là ĐHY Reinhard Marx, TGM Munich, Chủ tịch HĐGM Đức) và có 1 giáo dân là phó điều hợp viên. Hội đồng này nhóm họp 4 lần một năm. Trước đây, phần lớn công việc này do hội đồng về các vấn đề kinh tế và quản trị của Tòa Thánh đảm trách và gồm 15 HY, nhóm họp một năm 2 lần.

2. Văn phòng kinh tế là cơ quan kiểm soát và canh chừng về vấn đề quản trị và tài chánh trên các cơ quan trung ương Tòa Thánh, và các cơ quan phụ thuộc, cũng như việc quản trị Quốc gia thành Vatican.

Văn phòng này có 2 phân bộ: a. phân bộ kiểm soát và canh chừng, b. phân bộ quản trị, cả hai ở dưới sự điều hành của một Hồng Y chủ tịch (hiện là ĐHY George Pell người Úc), và có 2 vị Giám Chức Tổng thư ký và thư ký.

– Phân bộ kiểm soát và canh chừng có chức năng giống như Sở kinh tế trước đây của Tòa Thánh với nhiệm vụ kế hoạch hóa, làm ngân sách dự chi và kết toán, quản lý nhân sự, tài chánh.

– Phân bộ quản trị có nhiệm vụ đề ra đường hướng, kiểu mẫu đấu thầu, xác định lương bổng, và thu nhận các nhân viên mới. Tuy nhiên Phủ quốc vụ khanh Tòa Thánh vẫn giữ nguyên thẩm quyền kiểm chứng xem các ứng viên có đầy đủ năng khiếu và điều kiện cần thiết hay không để được thu nhận.

3. Viện kiểm toán gồm có vị Tổng kiểm toán và hai kiểm toán viên. Việc gia tăng từ 1 lên 3 kiểm toán viên so với đề nghị ban đầu là để bảo đảm sự độc lập của các chuyên gia này, kiểm soát lẫn nhau. Viện có mục đích kiểm soát kế toán tất cả các cơ quan Tòa Thánh và các cơ quan phụ thuộc.

Hội đồng Tòa Thánh về các văn bản luật đã đề nghị gia tăng số kiểm toán viên lên 3 người và đề nghị này đã được ĐTC chấp thuận. (SD 3-3-2015)

G. Trần Đức Anh OP  – Vatican Radio

Đức Thánh Cha tiếp kiến các Giám Mục Bắc Phi về Roma thăm Tòa Thánh

Đức Thánh Cha tiếp kiến các Giám Mục Bắc Phi về Roma thăm Tòa Thánh

VATICAN. Trong buổi tiếp kiến 10 GM thuộc các nước Bắc Phi sáng hôm qua, 2-3, ĐTC nhiệt liệt khích lệ các Giáo Hội địa phương tăng cường đối thoại liên tôn và các hoạt động bác ái.

Các GM thuộc HĐGM Bắc Phi, gọi tắt là Cerna, về Roma hành hương, viếng mộ hai thánh Tông Đồ Phêrô Phaolô và thăm Tòa Thánh. Giáo Hội Công Giáo tại 4 nước ở miền bắc Phi châu chỉ là một đoàn chiên rất bé nhỏ, toàn là người nước ngoài, giữa đại đa số dân theo Hồi giáo.

Trong bài huấn dụ trao cho các GM tại buổi tiếp kiến, ĐTC nhận xét rằng: ”Đối thoại liên tôn là một phần quan trọng trong đời sống các giáo phận của anh em. Cả trong lãnh vực này, đức bác ái với tinh thần sáng tạo biết mở ra vô số những con đường để mang tinh thần của Tin Mừng vào trong các nền văn hóa và cac môi trường xã hội rất khác nhau. Anh em biết rõ sự ngộ nhận nhau là nguồn mạch gây ra bao nhiêu hiểu làm và nhiều khi đưa đến xung đột.”

ĐTC Phanxicô nhắc lại lời ĐGH Biển Đức 16 trong Tông huấn ”Africae Munus”, các nghĩa vụ của Phi Châu, rằng ”Nếu tất cả chúng ta, những người tin nơi Thiên Chúa, ước muốn phục vụ hòa giải, công lý và hòa bình, chúng ta phải cùng nhau hoạt động để bài trừ mọi hình thức kỳ thị, bất bao dung, tôn giáo cực đoan” (n.94). Liều thuốc hữu hiệu nhất chốn glại mọi hình thức bạo lực chính là giáo dục về sự khám phá và chấp nhận sự khác biệt như một sự phong phú và mang lại nhiều thành quả. Vì thế, điều quan trọng là trong các giáo phận của anh em, các LM, nữ tu và giáo dân được huấn luyện về lãnh vực này.”

ĐTC ca ngợi Giáo Hội tại các nước Bắc Phi, mặc dù nghèo về nhân sự và phương tiện nhưng vẫn muốn phục vụ tất cả mọi người không phân biệt ai. ”Với những phương tiện nhiều khi ít ỏi, anh em biểu lộ tình thương của Chúa Kitô và Giáo Hội cho những người nghèo khổ nhất, các bệnh nhân, người già, phụ nữ trong hoàn cảnh khó khăn, túng thiếu, hoặc các tù nhân. Tôi nồng nhiệt cám ơn anh em vì đã giúp đỡ nhiều người di dân, gốc Phi châu, tìm kiếm nơi các đất nước anh em một nơi chuyển tiếp hoặc sự tiếp đón”

Tình hình Giáo Hội tại 4 nước Bắc Phi

Đứng đầu danh sách Giáo Hội tại 4 nước Bắc Phi là Algéri rộng gần 2 triệu 400 ngàn cây số vuông với 37 triệu 500 ngàn dân, trong số này chỉ có 9 ngàn tín hữu Công Giáo gồm 4 giáo phận, họp thành một giáo tỉnh Algéri.

Tiếp đến là Libia, rộng 1 triệu 700 ngàn cây số vuông, nhưng chỉ có 6 triệu 500 ngàn dân cư, trong số này hiện nay chỉ còn lại từ 2 đến 3 ngàn tín hữu Công Giáo, họp thành 2 giáo phận đại diện Tông Tòa Tripoli và Bengasi. Dưới thời nhà độc tài Ghedafi, tại đây có 150 ngàn tín hữu, hầu hết là các công nhân di dân. Trong buổi gặp gỡ hôm qua (2-3), ĐTC đặc biệt cám ơn hai vị GM và một vài LM nhất quyết ở lại nước này, mặc dù tình hình khó khăn và đầy nguy hiểm.

Thứ ba là Vương quốc Maroc, rộng 460 ngàn cây số vuông với 32 triệu rưỡi dân cư, trong số này có khoảng 30 ngàn tín hữu Công Giáo, tất cả là người ngoại quốc, họp thành 2 tổng giáo phận Rabat và Tangeri.

Sau cùng là nước Tunisi rộng 163 ngàn cây số vuông với 9 triệu dân cư, trong đó có 25 ngàn tín hữu Công Giáo họp thành 1 giáo phận là Tunis.

Trong cuộc phỏng vấn dành cho đài Vatican, Đức Cha Vencent Landel, TGM giáo phận Rabat, Maroc, Chủ tịch HĐGM Bắc Phi, cho biết thách đố chính của Giáo Hội Công Giáo tại miền này là đối thoại với Hồi giáo. Ngài nói: ”Chúng tôi sống yên hàn và thanh thản với người Hồi giáo tại Maroc, Algéri và Tunisi… Tuy nhiên tình hình tại Libia thật là bi thảm sau những biến cố gần đây, hầu hết các tín hữu Kitô, như người Philippines hoặc Trung Đông đã phải ra đi. Tại thủ đô Tripoli chỉ còn lại Đức Cha Martinelli và một nhóm nhỏ người Philippines. Toàn nước Libia chỉ còn lại 4, 5 Linh mục. (SD 28-2-2015)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio