Đức Thánh Cha kêu gọi cảm thông các gia đình gặp khó khăn

Đức Thánh Cha kêu gọi cảm thông các gia đình gặp khó khăn

Đức Thánh Cha kêu gọi cảm thông các gia đình gặp khó khăn

ROMA. ĐTC kêu gọi cảm thông với các gia đình gặp khó khăn và ngài cho rằng nhiều cặp hôn phôn kết ước bất thành.

Ngài đưa ra lời kêu gọi và nhận định trên đây trong buổi khai mạc Hội nghị của giáo phận Roma lúc 7 giờ chiều thứ năm 16-62016 về việc mục vụ gia đình, với chủ đề ”Niềm vui yêu thương: con đường của các gia đình ở Roma dưới ánh sáng Tông huấn ”Amoris laetitia””.

Hiện diện trong Đền thờ thánh Gioan Laterano là nhà thờ chính tòa của Giáo phận Roma, có ĐHY Giám quản Agostino Valini và các GM phụ tá, và hàng ngàn LM, tu sĩ và giáo dân.

Sau lời chào mừng của ĐHY, ĐTC đã thuyết trình khai mạc Hội nghị và kêu gọi làm sao để việc mục vụ gia đình đi tới mỗi gia đình trong giáo phận, chứ không phải chỉ tới các gia đình lui tới giáo xứ, tiếp đến là cần có thái độ cảm thông và sau cùng là cần nêu cao giá trị chứng tá của người già.

Về thái độ cảm thông, ĐTC cảnh giác chống lại cám dỗ tưởng mình là người giữ đúng luật như người biệt phái lên đền thờ cầu nguyện cùng với người thu thuế. Ngài nói: ”Tất cả chúng ta cần hoán cải và kêu lên như người thu thuế: Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi”… Cần có tinh thần thực tiễn của Tin Mừng, tinh thần này làm ta dấn thân với người khác, và không coi những lý tưởng và ”nghĩa vụ” là một chướng ngại cản trở việc gặp gỡ người khác trong những hoàn cảnh của họ.

ĐTC giải thích rằng: ”Điều này không có nghĩa là không minh bạch về đạo lý, nhưng là ”tránh rơi vào những phán đoán không để ý đến tính chất phức tạp của cuộc sống. Tinh thần thực tiễn của Tin Mừng làm ta bẩn tay vì biết rằng lúa tốt và cỏ dại cùng tăng trưởng”.

ĐTC trích dẫn Tông huấn ”Niềm vui yêu thương” và cho biết ngài hiểu những người thích một nền mục vụ cứng nhắc hơn là tạo nên một sự hoang mang, xáo trộn. Nhưng ngài nói: ”Tôi thành thực tin rằng Chúa Giêsu muốn một Giáo Hội trong lúc ngài biểu lộ rõ ràng giáo huấn khách quan, Chúa không từ bỏ sự thiện có thể, mặc dù có nguy cơ bị lấm bùn trên đường phố. Tóm lại là Giáo Hội có khả năng chấp nhận tiêu chuẩn cảm thông đối với những người yếu đuổi.”

Trả lời thắc mắc

Trong phần trả lời 3 thắc mắc do các LM và một số tham dự viên nêu lên, ĐTC phê bình thứ luân lý cứng nhắc, và những cha giải tội đặt nhiều câu hỏi về đời tư của hối nhân. Ngài nhận xét rằng phần lớn các bí tích hôn phối kết ước bất thành vì ảnh hưởng của nền văn hóa loại bỏ, những người kết hôn không biết thế nào là sự dấn thân trọn đời; họ cử hành hôn phố như một buổi lễ làm đẹp lòng hôn thê, hôn phu hoặc gia đình hai bên. ĐTC cho biết ở Buenos Aires, ngài cấm các cặp nam nữ kết hôn vì để bảo toàn danh dự, vì lỡ có thai.. Làm như thế, các cặp ấy không kết hôn tự do..”

Hội nghị của giáo phận Roma còn tiến hành trong ngày 17-6-2016, với các cuộc thảo luận nhóm xoay quanh 5 tiểu đề tại 36 giáo hạt ở Roma. Đó là ”Giáo dục về tình yêu trong thời thiếu niên”, ”sự thu hút của tình yêu chân thực để tiến tới hôn nhân”, ”nâng đỡ sự chung thủy của các đôi vợ chồng”, ”niềm vui trao ban sự sống và làm cho sự sống tăng trưởng”, sau cùng là ”Gia đình, trường dạy xã hội tính và lối sống huynh đệ”.

Các kết luận của hội nghị, với bài tường trình của ĐHY Vallini và trình bày các hướng đi mục vụ gia đình cho giáo phận, sẽ diễn ra vào chúa nhật 19-6-2016 tại Đền thờ Thánh Gioan Laterano: trước tiên vào lúc 9 giờ rưỡi với các cha sở và các LM; tiếp đến vào lúc 7 giờ rưỡi chiều cùng ngày với các nhân viên mục vụ giáo dân. Trong dịp này có nghi thức trao bài sai cho các giáo lý viên trong năm mục vụ mới nơi các gia đình (SD 17-6-2016)

G. Trần Đức Anh OP

 

Đức Thánh Cha tiếp Hội đồng Tòa Thánh về giáo dân lần chót

Đức Thánh Cha tiếp Hội đồng Tòa Thánh về giáo dân lần chót

Đức Thánh Cha tiếp Hội đồng Tòa Thánh về giáo dân lần chót

VATICAN. Trong buổi tiếp kiến Hội đồng Tòa Thánh về giáo dân sáng 17-6-2016, ĐTC khuyến khích tiến bước theo đường hướng ”Giáo Hội ra ngoài, giáo dân ra ngoài”.

 Đây là khóa họp toàn thể cuối cùng của Hội đồng Tòa Thánh về giáo dân sau gần 50 năm hoạt động. Nay Hội đồng này họp với Hội đồng về gia đình và sự sống thành một cơ quan mới của Tòa Thánh trong chương trình cải tổ giáo triều Roma.

 Lên tiếng trong buổi tiếp kiến, sau khi nhắc đến thành quả hoạt động của Hội đồng Tòa Thánh về giáo dân trong gần nửa thế kỷ vừa qua, ĐTC đề nghị một chân trời tham chiếu trong hoạt động của Hội đồng mới đó là ”Giáo Hội đi ra ngoài, giáo dân đi ra ngoài”. Vì thế, cả anh chị em cũng hãy nâng cao cái nhìn và hãy nhìn ra ngoài tới những người ở xa xôi trên thế giới này, bao nhiêu gia đình gặp khó khăn và đang cần lòng thương xót, nhìn tới các cánh đồng tông đồ chưa khai phá, với nhiều giáo dân thiện tâm và quảng đại sẵn sàng dành nghị lực, thời giờ, khả năng của họ để phục vụ Tin Mừng, nếu họ được tháp nhập, đề cao giá trị và tháp tùng với lòng quí mến của các mục tử và các tổ chức của Giáo Hội.

 ĐTC nhấn mạnh rằng ”Chúng ta cần những giáo dân được huấn luyện tốt, được đức tin ngay chính và trong sáng linh hoạt, và cuộc sống của họ được chính cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu từ bi đánh động với lòng yêu thương”. (SD 17-6-2016)  

G. Trần Đức Anh OP

Lòng thương xót – chủ đề chính của đại hội giới trẻ tỉnh Sabah, Malaysia

Lòng thương xót – chủ đề chính của đại hội giới trẻ tỉnh Sabah, Malaysia

2000 Young catholics at Sabah Malaysia 2016 1

Kota Kinabalu, Malaysia – Hơn 2000 bạn trẻ Công giáo Malaysia đã họp nhau tại tỉnh Sabah nhân ngày Giới trẻ giáo tỉnh Sabah, từ ngày 6-10 tháng 6.  Đây là một cuộc hành hương và kinh nghiệm về chủ đề Lòng Thương xót.

Các bạn trẻ đến từ 34 giáo xứ của 3 giáo phận Sandakan, Keningau và Kota Kinabalu. Trước đó, các bạn trẻ đã trải qua giai đoạn chuẩn bị ở địa phương trước khi về Tawau thuộc giáo phận Kota Kinabalu để họp nhau với chủ đề từ câu Phúc âm: “Phúc cho những ai là kẻ thương xót, vì họ sẽ được xót thương”.

Trong thông tin từ giáo hội địa phương gửi cho hãng tin Fides có viết: Trong Năm Thánh Lòng Thương xót, “các bạn trẻ đã được chạm vào bởi lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa, để đến lượt họ có thể trở thành các tông đồ của lòng thương xót bằng hành động, lời nói và lời cầu nguyện trong một thế giới bị tổn thương bởi ích kỷ, thù ghét và thất vọng”.

Các bạn trẻ đã rước Thánh giá và hình ảnh Đức Mẹ thương xót, tham dự các nghi thức phụng vụ, các buổi giáo lý và các việc bác ái theo cách thức của ngày Giới trẻ Thế giới. Phần lớn các bạn trẻ này không thể tham dự sự kiện thế giới này được tổ chức tại Balan vì lý do kinh tế.

Trong số các người hiện diện có Đức Tổng giám mục Joseph Marino, Sứ thần Tòa Thánh tại Malaysia, vị đã chủ sự Thánh lễ khai mạc. Nói với lòng thương xót, ngài mời các bạn trẻ làm chứng cho Chúa Ki-tô, sống đức tin, lòng thương xót và tình yêu. Các bạn trẻ có thể lãnh Bí tích hòa giải và các Linh mục cũng sẵn sàng trò chuyện thiêng liêng.

Được biết đại hội giới trẻ tỉnh Sabah được tổ chức 4 năm một lần và các giáo phận trong tỉnh sẽ thay phiên nhau đăng cai tổ chức. (Agenzia Fides 16/06/2016)

Hồng Thủy OP

Kinh Lạy Cha là nền tảng của đời sống cầu nguyện

Kinh Lạy Cha là nền tảng của đời sống cầu nguyện

Thánh lễ sáng thứ Năm, 16.06, tại nguyện đường thuộc Nhà Thánh Marta

VATICAN. Đức Thánh Cha Phanxicô chia sẻ rằng cầu nguyện không phải là những lời nói ma thuật của những Kitô hữu. Khi cầu nguyện bằng Kinh Lạy Cha, chúng ta cảm nghiệm Thiên Chúa đang dõi mắt nhìm xem chúng ta. Lời cầu nguyện này phải là nền tảng trong đời sống thiêng liêng. Đây là nội dung bài giảng của Đức Thánh Cha Phanxicô trong thánh lễ sáng thứ Năm, 16-06, tại nguyện đường thuộc Nhà Thánh Marta.

Đức Giêsu luôn quy hướng về Cha trong những giây phút thách đố nhất

Được gợi hứng từ bài Tin Mừng, thuật lại việc Đức Giêsu dạy các môn đệ cầu nguyện bằng Kinh Lạy Cha, Đức Thánh Cha đã chia sẻ những suy tư của mình về giá trị và ý nghĩa của cầu nguyện trong đời sống của một Kitô hữu. “Đức Giêsu luôn gọi ‘Cha’ trong những giây phút quan trọng hay thách đố nhất của cuộc đời. Chúa Cha biết rõ chúng ta cần gì, trước khi chúng ta cầu xin. Ngài là một người Cha luôn biết lắng nghe những điều kín ẩn nơi tâm hồn. Và chính Đức Giêsu đã khuyên chúng ta hãy biết cầu nguyện nơi kín ẩn chứ đừng lải nhải như dân ngoại.

Chính nhờ Cha mà chúng ta nhận lãnh được căn tính của mình là người con. Và khi thân thưa ‘Cha ơi’, thì điều ấy chạm đến cội rễ của căn tính nơi chúng ta: Căn tính Kitô hữu là trở nên con cái Chúa và đây là ân sủng của Thần Khí. Không ai có thể nói ‘Lạy Cha’ mà không nhờ ân sủng của Thánh Thần. ‘Lạy Cha’ cũng là từ mà Đức Giêsu đã dùng trong những thời khắc quan trọng: Khi Ngài tràn đầy niềm vui hay dạt dào cảm xúc: ‘Lạy Cha, con tạ ơn Cha, vì Cha đã mặc khải cho những người bé mọn.’ Hay khi Ngài khóc thương trước phần mộ của bạn Ngài là Lazaro: ‘Lạy Cha, con cảm tạ Cha vì Cha đã nhận lời con.’ Hoặc là trong những giây phút cuối cùng của cuộc đời trên thánh giá.

Như vậy, ‘Lạy Cha’ là từ được Đức Giêsu sử dụng nhiều nhất trong những giờ phút quan trọng hay những thời khắc thách đố nhất của cuộc đời. Nếu chúng ta không cảm thấy mình là con cái Chúa, không muốn xem mình là con của Ngài, không muốn thân thưa ‘Lạy Cha’; lời cầu nguyện của chúng ta cũng giống như dân ngoại, chỉ là lải nhải những lời vô nghĩa.

Kinh Lạy Cha là nền tảng cầu nguyện

Nếu chúng ta không thể bắt đầu cầu nguyện với những lời của Kinh Lạy Cha, lời cầu nguyện của chúng ta sẽ chẳng đi đến đâu.

‘Lạy Cha’. Đó là một tâm tình khi cảm nhận được Cha đang nhìn xem chúng ta, cảm nhận được cầu nguyện không phải là chuyện mất thời gian. Nhưng đó là một lời mời đến cùng Thiên Chúa để Ngài ban tặng cho chúng ta căn tính được làm con. ‘Lạy Cha’ chính là chiều kích quan trọng trong lời cầu nguyện Kitô giáo. Chúng ta có thể cầu nguyện với các thánh, các thiên thần khi chúng ta đi đường hoặc hành hương… Tất cả những lời cầu nguyện này đều rất tuyệt vời nhưng chúng ta phải bắt đầu với ‘Lạy Cha’ và ý thức rằng chúng ta là con cái Chúa. Chúng ta có một người Cha yêu thương chúng ta và biết rất rõ chúng ta cần gì.

Trong kinh Lạy Cha, có một điều rất quan trọng là: ‘Xin tha tội cho chúng con như chúng con cũng tha cho những người có lỗi với chúng con’. Điều này có nghĩa là lời cầu nguyện phải chuyển tải được cảm thức của chúng ta muốn trở nên anh chị em, là những thành viên của một gia đình. Không giống như Cain đã thù ghét em mình, chúng ta được mời gọi để tha thứ, tha thứ cho những ai xúc phạm chúng ta. Chúng ta hãy có tâm tình tha thứ, không giữ trong lòng những chuyện thù hằn, oán giận hay muốn trả thù.

Lời cầu nguyện đẹp nhất mà chúng ta có thể thân thưa với Thiên Chúa là lời cầu nguyện xin Chúa tha thứ cho tất cả mọi người cùng những tội lỗi mà họ đã phạm. Thật tốt nếu chúng ta biết xét mình về điều này: Thiên Chúa có là Cha của ta không? Ta có cảm nhận được Ngài là Cha không? Nếu ta không cảm nhận được, ta hãy nài xin Thánh Thần dạy chúng ta điều đó. Chúng ta có thể tha thứ, quên đi hận thù không? Nếu không, ta hay thân thưa với Cha: ‘Những người này cũng là con cái của Cha đấy, nhưng họ xúc phạm và làm tổn thương con… Xin Cha giúp con tha thứ cho họ, được không Cha?’ Chúng ta hãy thực hành việc xét mình và điều ấy sẽ mang lại cho chúng ta nhiều ích lợi. ‘Lạy Cha’ và ‘của chúng con’ đó là hai điều đem đến cho chúng ta căn tính là con cái Chúa và trao cho chúng ta một mái ấm gia đình trong cuộc lữ thứ hành hương về quê trời.”

Vũ Đức Anh Phương SJ

 

Đức Thánh Cha tiếp tham dự viên Ngày Năm Thánh của dân xiệc

Đức Thánh Cha tiếp tham dự viên Ngày Năm Thánh của dân xiệc

Pope Francis receives in audience representatives of the circus and world of travelling and folk shows on their Jubilee during the Year of Mercy

VATICAN. Sáng ngày 16-6-2016, ĐTC đã tiếp kiến hàng ngàn người thuộc các gánh xiệc, cũng như những người trình diễn văn nghệ lưu động, về Roma tham dự Ngày Năm Thánh dành cho họ.

Hiện diện tại Đại thính đường Phaolô 6 trong buổi tiếp kiến và đại diện mọi người chào mừng ĐTC có ĐHY Antonio Maria Viganò, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh mục vụ du lịch là người lưu động. Có một số đoàn xiếc từ các nước ngoài và đại diện các giới thuộc ngành này. Một số nghệ sĩ đã trình diễn các màn xiệc và có người dẫn mộn con beo nhỏ đến gần ĐTC.

Lên tiếng trong dịp này, ĐTC ca ngợi hoạt động của những người trình diễn văn nghệ lưu động, đặc biệt trong Năm Thánh Lòng Thương Xót, được mở rộng cho những người túng thiếu nhất, những người vô gia cư, các tù nhân, các trẻ em bụi đời và nghèo đó. Đó là lòng từ bi thương xót, gieo vãi vẻ đẹp và niềm vui trong một thế giới nhiều đi u tối và sầu thảm.

ĐTC cũng nhận xét rằng ”Ngành văn nghệ lưu động và bình dân là hình thức giải trí cổ kính nhất, vừa tầm tay mọi người, và hướng đến mọi người, nhỏ cũng như lớn, đặc biệt là cho các gia đình; phổ biến nền văn hóa gặp gỡ và xã hội tính trong việc giải trí. Môi trường làm việc của anh chị em có thể trở thành nơi tập họp và huynh đệ. Vì thế tôi khuyến khích anh chị em hãy luôn có tinh thần đón tiếp đối với những người bé nhỏ và túng thiếu; trao tặng những lời nói và cử chỉ an ủi cho những người co cụm vào mình, nhớ lại lời thánh Phaolô: ”Ai làm những công việc từ bi thương xót, thì hãy thi hành những việc ấy trong niềm vui tươi” (Rm 12,8).

ĐTC không quên nhắc nhở những người làm nghề giải trí lưu động quan tâm chăm sóc đời sống đức tin của mình, tuy rằng sự liên tục di chuyển như vậy làm cho họ khó hội nhập vào đời sống của một giáo xứ một cách ổn định. Ngài nói: ”Anh chị em hãy lợi dụng mọi cơ hội để lãnh nhận các bí tích, hãy thông truyền cho con cái tình yêu đối với Thiên Chúa và tha nhân. Tôi cũng kêu gọi các Giáo Hội địa phương và các giáo xứ quan tâm đến các nhu cầu của anh chị em và của tất cả những người lưu động” (SD 16-6-2016)

 G. Trần Đức Anh OP

Đức Thánh Cha khuyến khích trợ giúp các Giáo Hội Đông Phương

Đức Thánh Cha khuyến khích trợ giúp các Giáo Hội Đông Phương

Đức Thánh Cha khuyến khích trợ giúp các Giáo Hội Đông Phương

VATICAN. ĐTC cám ơn và khuyến khích các nỗ lực trợ giúp các Giáo Hội Công Giáo Đông phương, để các Giáo Hội này có thể chiếu tỏa rạng ngời khuôn mặt của Chúa Kitô.

Ngài đưa ra lời kêu gọi trên đây trong buổi tiếp kiến sáng ngày 16-6-2016, dành cho 90 tham dự viên Hội nghị thường niên của tổ chức Roaco là liên minh các cơ quan bác ái trợ giúp các Giáo Hội Công Giáo Đông phương. Hội nghị này tiến hành dưới quyền chủ tọa của ĐHY Leonardo Sandri, Tổng trưởng Bộ các Giáo Hội Công Giáo Đông phương, và nhiều đại diện của các tổ chức bác ái và các vị sứ thần Tòa Thánh.

ĐTC đi từ sự kiện gần đây trong tiến trình tu bổ ở Bethlehem, trên trần một gian giữa của một đền thờ, người ta khám phá ra bức tranh khảm một thiên thần thứ 7, cùng với 6 thiên thần khác đang đi rước tiến về nơi Chúa sinh ra. Ngài nói:

”Sự kiện này làm cho chúng ta nghĩ rằng khuôn mặt của các cộng đoàn Giáo Hội cũng có thể bị che phủ vì những bụi bặm và những lớp vôi khác do những vấn đề khác nhau và tội lỗi. Trong chiều hướng đó, công việc của anh chị em phải luôn luôn được hướng dẫn do niềm xác tín rằng dưới những lớp bụi bặm và những gì che phủ về vật chất và luân lý, dưới những nước mắt và máu đổ do chiến tranh, bạo lực và bách hại gây ra, dưới những lớp phủ dường như không thể xuyên qua như thế, có một khuôn mặt sáng ngời như khuôn mặt thiên thần trong bức tranh khảm.”

ĐTC nhấn mạnh rằng: ”Tất cả anh chị em, qua những dự án và hành động, đang cộng tác vào việc tu bổ ấy, để khuôn mặt của Giáo Hội phản chiếu rõ rệt ánh sáng của Chúa Kitô, Ngôi Lời nhập thể. Ngài là niềm an bình của chúng ta, và đang gõ cửa tâm hồn chúng ta ở Trung Đông, cũng như tại Ấn độ và Ucraina, quốc gia mà tôi đã muốn dành số tiền lạc quyên đặc biệt mới đây trong các nhà thờ ở Âu Châu hồi tháng tư vừa qua để cứu trợ.

Sau cùng, ĐTC đặc biệt nhắc đến sự hiện diện của Giáo Hội Siro Malabar và Siro Malankara ở ngoài bang Kerala bên Ấn Độ, một chủ đề được bàn tới trong khóa họp hiện nay của tổ chức Roaco. Ngài tái khẳng định lập trường và các chỉ thị của các vị Giáo Hoàng tiền nhiệm về quyền của các Giáo Hội này và các Giáo Hội Công Giáo la tinh, tránh tinh thần chia rẽ, và phải cổ võ tinh thần hiệp thông trong việc làm chứng tá về Chúa Giêsu Kitô Đấng Cứu Thế duy nhất.

Nhiều tín hữu Công Giáo đông phương thuộc hai Giáo Hội Syro Malabar và Syro Malankara ra ngoài lãnh thổ bang Kerala và sống rải rác tại các giáo phận Công Giáo la tinh. Từ đó thỉnh thoảng xảy ra những ”cọ xát” về thẩm quyền mục vụ giữa các GM la tinh và Đông phương. Các vị Giáo Hoàng trước đây đã đề ra các qui tắc cần thiết để việc mục vụ cho các tín hữu Đông phương được tiến hành hài hòa (SD 16-6-2016)

 

Linh đạo phu thê và gia đình theo Tông huấn Niềm Vui Yêu Thương

Linh đạo phu thê và gia đình theo Tông huấn Niềm Vui Yêu Thương

Joy of love 2

Trong chương IX, là chương cuối cùng của Tông huấn “Niềm Vui Yêu Thương”, ĐTC Phanxicô khai triển đề tài “Linh đạo  hay nền tu đức phu thê và gia đình”, các số từ 313 tới 325.

Mở đầu ĐTC viết: Tình bác ái có nhiều sắc thái khác nhau, tuỳ theo tình trạng cuộc sống mỗi người đã được mời gọi. Liên quan tới việc tông đồ của giáo dân, cách đây vài thập niên Công Đồng Chung Vatican II  đã nêu bật nền tu đức hay linh đạo phát xuất từ gia đình. Công Đồng khẳng định rằng “linh đạo của giáo dân phải có một diện mạo đặc biệt”, cả từ “tình trạng của hôn nhân và của gia đình” nữa và các lo lắng của gia đình không được là một cái gì  xa lạ với kiểu sống thiêng liêng của chúng. Vì thế, thật đáng công dừng lại một chút để miêu tả vài đặc thái nền tảng của linh đạo chuyên biệt này được phát triển trong năng động  các tương quan của cuộc sống gia đình (s. 313).

Linh đạo của sự hiệp thông siêu nhiên  

Chúng ta đã luôn luôn nói tới việc Thiên Chúa ở trong trái tim người sống trong ơn thánh Ngài. Ngày nay chúng ta cũng có thể nói rằng Thiên Chúa Ba Ngôi hiện diện trong đền thờ của sự hiệp thông hôn nhân. Cũng như Ngài ở trong các lời chúc tụng của dân Ngài (x. Tv 22,4), Thiên Chúa sống một cách thân tình trong tình yêu phu thê làm vinh danh Ngài (s. 314).

Sự hiện diện của Chúa sống trong gia đình là sự hiện diện thực sự và cụ thể, với tất cả các khổ đau, chiến đấu, niềm vui và các dự tính thường ngày. Khi người ta sống trong gia đình, nơi khó mà có thể giả bộ và nói dối, chúng ta không thể cho thấy một mặt nạ. Nếu tình yêu linh hoạt sự chân thành ấy, Chúa ngự ở đó với niềm vui và sự bình an của Ngài. Linh đạo của tình yêu gia đình đuợc làm thành bởi hàng ngàn cử chỉ thực sự và cụ thể. Trong sự khác biệt của các ơn và các cuộc gặp gỡ khiến cho sự hiệp thông chín mùi ấy, Thiên Chúa có chỗ riêng của Ngài. Sự tận hiến này hiệp nhất các giá trị nhân bản và các gia trị thiên linh, bởi vì nó tràn đầy tình yêu của Thiên Chúa. Một cách vĩnh viễn linh đạo hôn nhân là một nền tu đức  của mối dây được tình yêu của Thiên Chúa ở trong đó (s. 315).

Một sự hiệp thông gia đình được sống tốt đẹp là một lộ trình thánh hóa trong cuộc sống thường ngày và của sự trưởng thành thần bí, một phương thế  giúp kết hiệp thân tình với Thiên Chúa. Thật vậy, các nhu cầu huynh đệ và cộng đoàn của đời sống gia đình là một dịp để luôn luôn mở rộng con tim, và điều này khiến cho cuộc gặp gỡ với Chúa luôn luôn tràn đầy hơn. Lời Chúa nói với chúng ta rằng “ai ghét anh em mình thì bước đi trong tối tăm” (1 Ga 2,11), “ở trong sự chết” (1 Ga 3,14), và “đã không biết Thiên Chúa” (1 Ga 4,8). Vị tiền nhiệm của tôi, Đức Biển Đức XVI đã nói rằng “nhắm mắt trước người lân cận cũng là nhắm mắt trước Thiên Chúa”, và rằng tình yêu nói cho cùng là ánh sáng duy nhất luôn luôn chiếu soi trở lại một thế giới tối tăm. Chỉ nếu chúng ta yêu nhau, Thiên Chúa mới ở trong chúng ta và tình yêu của Ngài toàn hảo nơi chúng ta” (1 Ga 4,12). Vì bản vị con người có một chiều kích cấu trúc xã hội bẩm sinh, và vì kiểu diễn tả đầu tiên và nguyên thuỷ của chiều kích xã hội của con người là cặp vợ chồng và gia đình, linh đạo được nhập thể trong sự hiệp thông gia đình. Vì thế, những người có các ước mong thiêng liêng sâu thẳm không được cảm thấy rằng gia đình làm cho họ xa rời việc lớn lên trong cuộc sống của Thần Khí, nhưng nó là một lộ trình, mà Chúa dùng để đem họ tới các đỉnh cao của sự kết hiệp thần bí (s. 316).

Hiệp nhất trong lời cầu dưới ánh sáng của lễ Phục Sinh 

Nếu gia đình thành công trong việc tập trung nơi Chúa Kitô, thì Chúa hiệp nhất và soi sáng toàn cuộc sống gia đình. Các khổ đau được kinh nghiệm trong hiệp thông với Thập Giá của Chúa, và việc ôm lấy Ngài cho phép chịu đựng những lúc tệ hại hơn. Trong các ngày cay đắng của gia đình có một sự hiệp nhất với Chúa Giêsu bị bỏ rơi có thể giúp tránh được một sự đổ vỡ. Các gia đình đạt tới sự thánh thiện của chúng qua cuộc sống hôn nhân từ từ với ơn của Chúa Thánh Thần, cả bằng cách tham dự vào mầu nhiệm thập giá Chúa Kitô, là mầu nhiệm biến đổi các khó khăn và khổ đau thành của lễ tình yêu. Đàng khác, các lúc tươi vui, nghỉ ngơi hay mừng lễ, và cả tính dục được sống như một tham dự vào cuộc sống tràn đầy của sự Phục Sinh. Với các cử chỉ khác nhau thường ngày các cặp vợ chồng trao ban hình thái cho không gian đối thần, trong đó có thể sống kinh nghiệm sự hiện diện thần bí của Chúa phục sinh (s. 317).

Cầu nguyện trong gia đình là một phương thế ưu tiên giúp diễn tả và củng cố niềm tin phục sinh này. Mỗi ngày có thể tìm ra vài phút để hiệp nhất trước mặt Chúa hằng sống, nói với Ngài các điều khiến cho chúng ta âu lo, cầu nguyện cho các nhu cầu gia đình, cầu nguyện cho ai đó đang phải trải qua một lúc khó khăn, xin Ngài trợ giúp để yêu thương, cảm tạ Ngài vì sự sống và những điều tốt lành, xin Đức Trinh Nữ che chở chúng ta với áo choàng của Mẹ. Với các lời đơn sơ, lúc cầu nguyện này có thể đem lại rất nhiều thiện ích cho gia đình. Các diễn tả lòng đạo đức bình dân khác nhau là một kho tàng tu đức đối với nhiều gia đình.

Con đường cộng đoàn của lời cầu nguyện đạt tột đỉnh trong việc cùng tham dự bí tích Thánh Thể, đặc biệt trong bối cảnh của ngày nghỉ Chúa Nhật. Chúa Giêsu gõ cửa gia đình để chia sẻ với nó Bữa Tiệc Chiều. Ở đó các cặp vợ chồng luôn luôn có thể đóng ấn giao ước phục sinh đã kết hiệp họ với nhau và phản ánh Giao Ước, mà Thiên Chúa đã đóng ấn với nhân loại trên Thập Giá. Thánh Thể là bí tích của Giao Ước Mới, trong đó hiện thực hành động cứu độ của Chúa Kitô. Như vậy được ghi nhận các mối dây ràng buộc sâu đậm hiện hữu giữa cuộc sống hôn nhân và Thánh Thể. Lương thực Thánh Thể là sức mạnh và kích thích giúp sống giao ước hôn nhân mỗi ngày như “Giáo hội tại gia” (s. 318).

Linh đạo của tình yêu triệt để và tự do – Trong hôn nhân người ta cũng sống ý thức hoàn toàn tùy thuộc một người duy nhất. Các cặp vợ chồng chấp nhận thách đố và ngưỡng vọng cùng nhau già đi và tự tiêu hao, và như thế họ phản ánh lòng trung thành của Thiên Chúa. Quyết định vững vàng này ghi dấu một kiểu sống, là một đòi buộc nội tâm của khế ước tình yêu phu  thê, bởi vì người không quyết định yêu thương luôn mãi, thì cũng khó mà có thể yêu thương một cách chân thành dù chỉ một ngày. Nhưng điều này không có ý nghĩa thiêng liêng, nếu đó chỉ là một luật được sống với sự chịu trận. Nó là một sự tuỳ thuộc của con tim, ở nơi chỉ Thiên Chúa trông thấy (x. Mt 5,28).

Mỗi sáng khi thức dậy, chúng ta canh tân trước Thiên Chúa quyết định này của lòng trung thành, cho dù có gì xảy ra trong cuộc sống đi nữa. Và mỗi người khi đi ngủ, chờ đợi thức dậy để tiếp tục cuộc phiêu lưu này, bằng cách tín thác nơi sự trợ giúp của Chúa. Như thế, mỗi một người phối ngẫu là dấu chỉ và dụng cụ sự gần gũi của Chúa cho người khác. Chúa là Đấng không bao giờ bỏ chúng ta cô đơn: “Thầy ở cùng chúng con mọi ngày cho tới tận thế” (Mt 28,20) (s. 319).

Có một điểm, trong đó tình yêu lứa đôi đạt sự giải thoát tột đỉnh và trở thành một không gian  của sự tự lập lành mạnh: đó là khi mỗi người khám phá ra rằng người kia không phải là của mình, nhưng có một chủ nhân quan trọng hơn rất nhiều, là Chúa duy nhất của họ. Không ai có thể yêu sách chiếm hữu sự thân tình cá nhân nhất và bí ẩn nhất của người được yêu, và chỉ có Ngài có thể chiếm chỗ trung tâm cuộc sống của họ. Đồng thời nguyên lý của sự thực tế tinh thần khiến cho người phối ngẫu không yêu sách người khác phải thoả mãn các đòi hỏi của mình một cách hoàn toàn. Con đường thiêng liêng của từng người – như Dietrich Bonhoeffer đã chỉ cho thấy – cần phải giúp họ tháo gỡ ảo tưởng của người khác, thôi chờ đợi từ người đó điều chỉ là riêng tư của tình yêu Thiên Chúa. Điều này đòi hỏi một sự lột bỏ nội tâm. Khoảng không gian triệt để, mà mỗi người phối ngẫu dành cho tương quan cá nhân của mình với Thiên Chúa, không chỉ cho phép chữa lành các vết thương của cuộc chung sống, mà cũng cho phép tìm ra trong tình yêu của Thiên Chúa ý nghĩa cuộc đời mình nữa. Chúng ta cần khẩn nài hoạt động của Chúa Thánh Thần mỗi ngày để sự có thể có được sự tự do nội tâm này. (s. 320).

Sau khi khai triển các tiểu đề: linh đạo của sự hiệp thông siêu nhiên, hiệp nhất trong lời cầu nguyện dưới ánh sáng phục sinh và linh đạo của tình yêu triệt để và tự do, ĐTC Phanxicô đề cập tới linh đạo của việc săn sóc, ủi an và kích thích trong cuộc sống hôn nhân và gia đình.

Ngài viết: Các đôi vợ chồng kitô là những cộng sự viên của ơn thánh và là các chứng nhân của đức tin đối với nhau, đối với con cái và tất cả các thành phần khác trong gia đình. Chính vì thế mà gia đình luôn luôn là “nhà thương gần nhất”. Chúng ta hãy săn sóc nhau, nâng đỡ nhau, khích lệ nhau và hãy sống tất cả những điều đó như là phần của linh đạo gia đình. Cuộc sống lứa đôi là một sự tham dự vào công trình phong phú của Thiên Chúa, và mỗi một người là một khiêu khích của Thần Khí đối với người khác. Tình yêu của Thiên Chúa được diễn tả qua các lời nói sống động và cụ thể, qua đó người nam và người nữ nói lên tình yêu phu thê của họ với nhau. Như vậy, với nhau cả hai là các phản ánh tình yêu của Thiên Chúa, củng cố với lời nói, cái nhìn, sự trợ giúp, vuốt ve và vòng tay ôm. Do đó, muốn thành lập một gia đình là có can đảm làm thành phần giấc mơ của Thiên Chúa, can đảm mơ tưởng với Ngài, can đảm xây dựng với Ngài, can đảm cùng Ngài bước vào lịch sử này, xây dựng một thế giới, trong đó không có ai cảm thấy cô đơn (s. 321).

Tuy nhiên, cuộc sống gia đình là một “đồng cỏ” nhân từ. Mỗi người cẩn thận vẽ và viết trong cuộc sống của người khác: “Thư của chúng tôi là chính anh em. Thư ấy viết trong tâm hồn chúng tôi… không phải với mực, mà với Thần Khí của Thiên Chúa.” (2 Cr 3,2-3). Mỗi một người là một “kẻ chài lưới người” (Lc 5,10), thả lưới nhân danh Chúa Giêsu (x, Lc 5,5) đối với các người khác, hay một nông phu làm việc trong thửa đất tươi mát là những người thân của mình, bằng cách khích lệ điều tốt nhất của họ.

Sự phong phú hôn nhân bao gồm việc thăng tiến, vì yêu một người là chờ đợi từ họ một cái gì đó không thể định nghĩa được, không thể thấy trước được; đồng thời cống hiến cho họ, trong một cách thế nào đó,  phương tiện giúp đáp trả lại sự chờ đợi ấy. Điều này là một việc phụng tự đối với Thiên Chúa, bởi vì Ngài là Đấng đã gieo vãi nhiều điều tốt lành nơi các người khác trong niềm hy vọng rằng chúng ta làm cho chúng lớn lên (s. 322).

Thật là một kinh nghiệm thiêng liêng chiêm ngắm một người thân với đôi mắt của Thiên Chúa, và nhận ra Chúa Kitô nơi họ. Điều này đòi hỏi một sự sẵn sàng nhưng không, cho phép đánh giá cao phẩm giá của họ. Ta có thể hiện diện một cách tràn đầy trước người khác, nếu ta tự trao ban chính mình mà không hỏi tại sao, bằng cách quên đi tất cả mọi sự chung quanh. Như thế người được yêu xứng đáng với tất cả sự chú ý. Chúa Giêsu đã là một mẫu gương, bởi vì khi có ai đó đến gần nói chuyện với Ngài, Ngài nhìn họ với tình yêu mến (x. Mc 10,21). Trước sự hiện diện của Ngài không có ai cảm thấy mình bị lơ là, bởi vì các lời nói và cử chỉ của Chúa diễn tả câu hỏi này: “Ngươi muốn Ta làm gì cho ngươi?” (Mc 10,51). Đây là điều ta sống trong cuộc sống thường ngày của gia đình. Trong đó chúng ta nhớ rằng người sống với chúng ta đáng được tất cả, vì họ có một phẩm giá vô tận, vì họ là đối tượng tình yêu vô biên của Thiên Chúa Cha. Như thế nở hoa sự dịu hiền, đến độ khơi dậy nơi người khác niềm vui cảm thấy mình được yêu. Nó đặc biệt biểu lộ trong việc êm dịu chú ý tới các hạn hẹp của người khác, đặc biệt khi chúng nổi lên một cách hiển nhiên (s. 323).

Dưới sự thúc đẩy của Thần Khí, hạt nhân gia đình không chỉ đón nhận sự sống bằng cách sinh ra nó trong lòng mình, nhưng rộng mở, ra khỏi chính mình để đổ trên thiện ích của các người khác, để săn sóc họ và kiếm tìm hạnh phúc của họ. Sự rộng mở này được diễn tả một cách đặc biệt trong việc hiếu khách, được Lời Chúa khích lệ một cách gợi cảm như sau: “Anh em đừng quên tỏ lòng hiếu khách, vì nhờ vậy, có những người đã được tiếp đón các thiên thần mà không biết.” (Dt 13,2). Khi gia đình tiếp đón và gặp gỡ các người khác, đặc biệt là các người nghèo và bị bỏ rơi, nó là biểu tượng, chứng tá, sự tham dự vào chức làm mẹ của Giáo Hội.

Tình yêu xã hội, phản ánh của Thiên Chúa Ba Ngôi, thực ra là  điều kết hiệp ý nghĩa thiêng liêng của gia đình và sứ mệnh của nó bên ngoài chính nó, vì nó khiến cho lời rao giảng hiện diện với tất cả các đòi buộc cộng đồng của nó. Gia đình sống linh đạo đặc biệt của nó đồng thời bằng cách là một Giáo Hội tại gia và một tế bào sinh động hầu biến đổi thế giới (s. 324).

Các lời của Thầy (x, Mat 22,30) và các lời của thánh Phaolô (x. 1 Cr 7,29-31) liên quan tới hôn nhân, không phải vô tình mà được lồng vào trong chiều kích cuối cùng vĩnh viễn của cuộc sống chúng ta, mà chúng ta cần tái chiếm. Trong cách thế đó các cặp vợ chồng sẽ có thể nhận biết ý nghĩa con đường họ đang đi. Thật thế, như chúng ta đã nhắc tới nhiều lần trong Tông huấn, không có gia đình nào là một thực tại toàn thiện, và được chế tạo một lần cho luôn mãi, nhưng nó đòi hỏi một sự phát triển từ từ của khả năng yêu thương. Có một tiếng gọi liên lỉ đến từ sự hiệp thông tràn đầy của Thiên Chúa Ba Ngôi, từ sự hiệp nhất tuyệt vời giữa Chúa Kitô và Giáo Hội Ngài, từ cộng đoàn xinh đẹp là gia đình Nagiarét  và từ tình huynh đệ không tì ố hiện diện giữa các thánh trên trời. Tuy nhiên, chiêm ngắm sự tràn đầy mà chúng ta chưa đạt tới cũng cho phép chúng ta thôi đòi hỏi từ các tương quan liên bản vị một sự hoàn thiện, một sự trong sáng của các ý hướng  và một sự trung thực, mà chúng ta chỉ có thể tìm thấy trong Nước vĩnh cửu. Ngoài ra, nó ngăn cản chúng ta phán đoán với sự nghiêm ngặt những người sống trong các điều kiện của sự giòn mỏng lớn. Chúng ta tất cả được mời gọi duy trì sống động việc hướng tới một cái gì vượt quá chính mình và các hạn hẹp của mình, và mỗi một gia đình phải sống trong kích thích liên lỉ đó. Hỡi các gia đình, chúng ta hãy bước đi, chúng ta hãy tiếp tục bước đi! Điều được hứa cho chúng ta luôn luôn hơn thế. Chúng ta đừng mất đi niềm hy vọng vì các hạn hẹp của chúng ta, nhưng cũng đừng khước từ kiếm tìm tình yêu và hiệp thông tràn đầy đã được hứa ban cho chúng ta.

Lời cầu nguyện với Thánh Gia 

Lạy Chúa Giêsu, Mẹ Maria và Cha Thánh Giuse, nơi Chúa, Mẹ và Cha Thánh chúng con chiêm ngưỡng ánh quang rạng ngời của tình yêu chân chính, chúng con xin tín thác mình cho Ba Đấng.

Lạy Thánh Gia Nagiarét, xin cũng làm cho các gia đình của chúng con trở thành nơi của sự hiệp thông và các nhà tiệc ly cầu nguyện, các trường học đích thật của Tin Mừng và các Giáo Hội nhỏ tại gia.

Lạy Thánh Gia Nagiarét, xin cho trong các gia đình đừng bao giờ có các vụ bạo lực, khép kín và chia rẽ nữa; xin cho bất cứ ai bị thương tích hay bị gương mù gương xấu được mau ủi an và chữa lành.

Lạy Thánh Gia Nagiarét, xin làm cho tất cả chúng con ý thức về tính cách thánh thiêng và bất khả xâm phạm của gia đình, của vẻ đẹp của nó trong chương trình của Thiên Chúa.

Lạy Giêsu Maria Giuse, xin lắng nghe chúng con và khấng nhận lời van nài của chúng con. Amen

Linh Tiến Khải

 

Sau 8 thế kỷ, lần đầu Thánh giá thánh Damiano được mang về lại nhà thờ thánh Damiano

Sau 8 thế kỷ, lần đầu Thánh giá thánh Damiano được mang về lại nhà thờ thánh Damiano

Thánh giá thánh Damiano

Assisi – Sau gần 8 thế kỷ, Thánh giá thánh Damiano sẽ được mang về lại nơi nguyên thủy, nhà thờ thánh Damiano, là chính nơi mà Thánh giá đã “nói chuyện” với Thánh Phanxicô thành Assisi, hay còn gọi là Phanxicô khó khăn.

Thánh giá thánh Damiano là Thánh giá theo kiểu Byzantin có biểu tượng nổi tiếng, đã lan rộng trên khắp thế giới, được làm tại Umbria nước Italia vào thế kỷ thứ 12. Đây là Thánh giá đã “nói chuyện” với Thánh Phanxicô thành Assisi và thay đổi cuộc đời của thánh nhân và cuộc sống của Giáo hội. Thánh giá đã yêu cầu thánh Phanxicô: “Đi và sửa chữa lại nhà của ta” (tức là Giáo hội), thánh nhân đã vâng lời. Thánh giá được giữ tại đền thờ Thánh Clara ở Assisi từ khi các nữ tu dòng thánh Clara di chuyển về đây sau khi thánh nữ Clara qua đời.

Trong một thông báo của các tu sĩ Phanxicô viết: cộng đoàn thánh Damiano, được sự đồng ý của các nữ tu dòng thánh Clara tại đan viện đầu tiên của dòng ở Assisi và Ủy ban giám sát thành phố Perugia, thông báo một sự kiện ngoại thường, đã được cộng đoàn nghĩ đến trong dịp Năm Thánh Lòng Thương xót, đó là từ ngày 15-19 tháng 6 năm 2016, Thánh giá thánh Damiano sẽ được đưa về nhà thờ thánh Damiano. Đây là một cuộc di chuyển lịch sử vì là lần đầu tiên Thánh giá được đưa về lại nhà thờ thánh Damiano sau 8 thế kỷ. Nghi thức khai mạc sẽ được vị bề trên tỉnh dòng Phanxicô tỉnh Umbria chủ sự vào lức 12 giờ trưa.

Nhà thờ thánh Damiano sẽ mở cửa từ 6.30 đến 23 giờ trong các ngày 15-19 tháng 6 cho các tín hữu vào kính viếng Thánh giá. (ACI 15/6/2016)

Hồng Thủy OP

 

Vị Linh mục cuối cùng, tù nhân của trại tập trung Dachau, đã qua đời

Vị Linh mục cuối cùng, tù nhân của trại tập trung Dachau, đã qua đời

Trại tập trung

Bonn, Đức quốc – Cha Hermann Scheipers, Linh mục cuối cùng trong số các Linh mục tù nhân còn sống sót của Đức quốc xã tại trại tập trung Dachau đã qua đời hôm ngày 2/6 tại Ochtrup, Đức quốc, hưởng thọ 102 tuổi.

Cha Scheipers cảm thông với các người Balan bị cưỡng bức lao động; cha dâng Thánh lễ và giải tội cho họ trước khi bị bắt giam. Việc làm của cha bị Đức quốc xã xem là gây rối loạn giữa dân chúng. Cha bị chính quyền Đức bắt vào tháng 10 năm 1940 và 5 tháng sau bị đưa đến Dachau gần Munich. Trong trại này cũng có nhiều Linh mục bị giam giữ.

Khi cha bị đưa đến trại, viên giám đốc đã chào đón cha bằng câu nói: Ông không có sự kính trọng, không có sự giúp đỡ, và không có quyền. Ở đây, hoặc là ông làm việc  hoặc là chết”. Điều này thấy rõ qua hàng chữ lớn trên cổng sắt ở lối vào: “Lao động giải phóng”. Như các Linh mục khác, cha cũng làm nô lệ như các công nhân chỉ được ăn nước súp. Những người làm việc không nhanh thì bị đánh đòn, bị treo lên hay dìm trong nước đá, và nhiều người đã chết.

Cha Scheipers đã nói: điều duy nhất người ta có thể làm là trốn thoát hay cầu nguyện. Cha không bị đưa đến phòng ngạt khí vì người chi em song sinh với cha cảnh báo chính quyền Berlin là nếu cha chết thì những người Công giáo ở Ochtrup sẽ nổi dậy.

Sau khi chiến tranh kết thúc, cha trở về phục vụ trong Giáo phận Dresden-Meissen và một lần nữa phải chống lại một chế độ hà khắc của các nhà cầm quyền cộng sản ở Đông Đức. (CNS 15/6/2016)

Hồng Thủy Op

 

Chúa Giêsu đi qua đâu ở đó luôn luôn có sự giải thoát

Chúa Giêsu đi qua đâu ở đó luôn luôn có sự giải thoát

Phái đoàn Việt Nam tại Quận Cam California tham dự buổi tiếp kiến chúng của ĐTC Phanxicô sáng thứ tư 15-6-2016

Khi cho người mù thành Giêricô được sáng mắt Chúa, Giêsu cũng khiến cho dân chúng trông thấy. Cùng ánh sáng đó soi chiếu cho tất cả mọi người, và làm cho họ cùng chung lời chúc tụng. Như thế, Chúa Giêsu đổ lòng thương xót của Ngài xuống trên tất cả những người gặp gỡ Ngài: Ngài kêu mời họ, tụ tập họ, chữa lành họ và soi sáng cho họ, bằng cách tạo dựng một dân tộc mới cử hành các việc diệu kỳ của tình yêu thương xót của Ngài.

 ĐTC Phanxicô đã nói như trên với hơn 60.000 tín hữu và du khách hành huơng năm châu tham dự buổi tiếp kiến chung sáng thứ tư hôm qua.

Trong số hằng trăm đoàn hành hương cũng có 4 đoàn hành hương gồm các tín hữu Việt Nam: 3 đoàn đến từ Hoa Kỳ và một đoàn từ Đức.

Trong bài huấn dụ ĐTC đã giải thích ý nghĩa phép lạ Chúa Giêsu cho người mù thành Giêricô ăn mày bên vệ đường được sáng mắt (Lc 18,35-43). Ngài nói: Hôm nay chúng ta muốn lãnh nhận ý nghĩa của dấu chỉ này, bởi vì nó cũng trực tiếp đụng chạm tới chúng ta. Thánh sử Luca nói rằng người mù ấy ngồi bên vệ đường ăn xin (c. 35). Vào thời bấy giờ – nhưng cho tới các thời gian gần đây cũng thế – họ chỉ có thể sống nhờ của bố thí. ĐTC nói:

Gương mặt của người mù này đại diện cho biết bao nhiêu người , kể cả ngày nay nữa, bị sống bên lề vì một thiệt thòi thể lý hay thuộc loại khác. Họ bị tách rời khỏi đám đông, họ ngồi đó, trong khi người ta qua lại bận bịu công chuyện, trong tư tưởng và biết bao nhiêu chuyện. Đó là con đường có thể trở thành nơi gặp gỡ, nhưng đối với anh ta thì nó là con đường của sự cô đơn. Biết bao người đi qua… Nhưng anh ta cô đơn.

Thật là buồn hình ảnh của một ngưòi bị bạt bỏ ngoài lề, nhất là trong bối cảnh của thành phổ Giêricô, là ốc đảo phì nhiêu phong phú trong sa mạc. Chúng ta biết rằng chính tại Giêricô  dân Israel đã tới sau cuộc xuất hành dài từ Ai Cập: thành phố đó trở thành  cửa ngõ dẫn vào đất hứa. Chúng ta nhớ tới các lời ông Môshê nói trong dịp ấy. Ông nói: “Nếu giữa anh (em), trong một thành nào của anh (em), trên đất mà Giavê, Thiên Chúa của anh (em), ban cho anh (em), có một người anh em nghèo, thì anh (em) đừng có lòng chai dạ đá, cũng đừng bo bo giữ của không giúp người anh em nghèo túng. Vì trong đất của anh (em) sẽ không thiếu người nghèo, nên tôi truyền cho anh (em): hãy mở rộng tay giúp người anh em khốn khổ, nghèo khó của anh (em), trong miền đất của anh (em).” (Đnl 15,7.11).

Thật là trái nghịch giữa lời nhắn nhủ trên đây của Lề Luật Chúa và tình trạng được kể trong Tin Mừng: trong khi người mù kêu van Chúa Giêsu – anh ta đã có giọng tốt phải không ? – trong khi anh lớn tiếng khẩn nài Chúa Giêsu, thì dân chúng lại la mắng cho anh ta im đi, làm như thể anh ta không có quyền nói. Họ không cảm thương anh ta, trái lại còn cảm thấy khó chịu vì tiếng kêu của anh. Biết bao nhiêu lần khi  trông thấy biết bao người trên đường – những người túng thiếu, đau yếu, không có gì ăn – chúng ta cảm thấy khó chịu. Biết bao lần khi chúng ta đứng trước bao người di cư tỵ nạn, chúng ta cảm thấy khó chịu. Đó là một cám dỗ: chúng ta tất cả đều có điều đó đúng không? Tất cả, kể cả tôi nữa, tất cả mọi người. Và chính vì vậy mà Lời Chúa dậy dỗ chúng ta. Sự dửng dưng và thù nghịch khiến cho họ mù và điếc, ngăn cản họ trông thấy các anh em khác và không cho phép họ nhận ra Chúa nơi các người ấy – dửng dưng và thù nghịch. Và khi sự dửng dưng và thù nghịch này trở thành sự hiếu chiến và cả nguyền rủa nữa – “Xin làm ơn đuổi tất cả họ đi đi” – “Hãy để họ ở một nơi khác” – sự tấn kích này là điều dân chúng đã làm đối với anh mù, khi anh kêu lên. “Này anh hãy cút đi, cút đi, đừng có nói, đừng có kêu!”

ĐTC nói tiếp trong bài huấn dụ: Chúng ta ghi nhận một đặc điểm hay khác. Thánh sử nói rằng một người nào đó trong đám đông giải thích cho anh mù biết lý do của đám đông người khi nói: “Có Đức Giêsu người Nagiarét đi qua” (c. 37). Biến cố Chúa Giêsu đi qua được diễn tả với cùng động từ trong sách Xuất Hành khi kể lại biến cố vượt qua của thiên thần tàn sát cứu dân Israel bên đất Ai Cập (x. Xh 12,23).

Đó là sự vượt qua của lễ phục sinh, việc khởi đầu của cuộc giải phóng: khi Chúa Giêsu đi qua, thì luôn luôn có sự giải thoát, luôn luôn có ơn cứu rỗi. Như vậy đối với anh mù, nó như thể là việc loan báo sự vượt qua giải phóng của anh. Khi Chúa Giêsu đi qua, thì luôn luôn có sự giải thoát, luôn luôn có ơn cứu độ.

Không để cho mình sợ hãi anh mù kêu to lên nhiều lần hướng tới Chúa Giêsu, bằng cách nhận ra nơi Người Con vua Đavít, Đấng Cứu Thế được trông đợi, mà  theo ngôn sứ Isaia, sẽ mở mắt cho người mù (x. Is 35,5). Khác với đám đông, anh mù này trông thấy với đôi mắt đức tin. Nhờ nó lời khẩn cầu của anh có một sự hữu hiệu quyền năng.

Thật thế, khi nghe thấy anh, “Chúa Giêsu dừng lại và truyền dẫn anh đến cho Ngài” (c. 40). Khi làm như thế, Chúa Giêsu cất anh mù khỏi vệ đường và đặt anh vào trung tâm sự chú ý của các môn đệ và của dân chúng. Cả chúng ta cũng hãy nghĩ, khi chúng ta ở trong các tình trạng xấu, kể cả các tình trạng tội lỗi, đã có Chúa Giêsu cầm tay chúng ta và cất chúng ta khỏi lề đường của ơn cứu độ. Như vậy Ngài thực hiện hai cuộc vượt qua. Thứ nhất: dân chúng đã loan báo một tin vui cho anh mù, nhưng không muốn liên lụy gì tới anh cả; Giờ đây Chúa Giêsu bắt buộc mọi người ý thức rằng việc loan báo tin vui tốt bao gồm việc đặt để vào giữa con đường người đã bị loại trừ. Thứ hai, đến lần anh, người mù đã không thấy nhưng đức tin của anh mở ra cho anh con đường của ơn cứu rỗi và anh ta ở giữa những người tuốn đến trên đường để trông thấy Chúa Giêsu. ĐTC giải thích:

Anh chị em thân mến việc đi qua của Chúa là một cuộc gặp gỡ của lòng thương xót hiệp nhất tất cả chung quanh Ngài để cho phép nhận ra ai cần sự trợ giúp và an ủi. Cả trong cuộc sống chúng ta Chúa Giêsu cũng đi qua: và khi Chúa Giêsu đi qua và tôi nhận ra điều đó, nó là một lời mời gọi tôi đến gần Ngài, để trở nên tốt lành hơn, là kitô hữu tốt hơn, theo Chúa Giêsu.

Chúa Giêsu hướng tới anh mù và hỏi anh: “Anh muốn ta làm gì cho anh?” (c. 41). Các lời này của Chúa Giêsu gây ấn tượng: Con Thiên Chúa giờ đây đứng trước người mù như một đầy tớ khiêm hạ. Thiên Chúa trở thành tôi tớ của người tội lỗi. Ngài, Chúa Giêsu, Thiên Chúa, nói: “Mà con muốn Ta làm gì cho con? Con muốn Ta phục vụ con như thế nào? Thiên Chúa trở thành tôi tớ của người tội lỗi. Và anh mù thưa với Chúa Giêsu,  không bằng cách gọi Ngài là “Con vua Đavít”, mà bằng “Chúa”, là tước hiệu Giáo Hội áp dụng cho Chúa Giêsu phục sinh ngay từ đầu. Anh mù xin được thấy trở lại  và ước mong của anh được chấp nhận. “Hãy được sáng mắt. Lòng tin của con đã cứu con” (c. 42). Anh đã cho thấy đức tin của anh, khi kêu cầu Chúa Giêsu và khi tuyệt đối muốn gặp Chúa, anh được ơn cứu độ. Nhờ đức tin giờ đây anh có thể trông thấy và nhất là anh ta cảm thấy mình được Chúa Giêsu yêu thương. Vì thế, trình thuật kết thúc bằng cách kể rằng anh mù bắt đầu đi theo  Người và chúc tụng Thiên Chúa” (c. 43): anh trở thành môn đệ bằng cách bước đi theo Chúa và bước vào làm thành phần cộng đoàn của Ngài. Từ người ăn mày trở thành môn đệ, đây cũng là con đường của chúng ta: chúng ta tất cả là những người ăn xin, tất cả. Chúng ta luôn cần đến ơn cứu độ. Và tất cả chúng ta, mọi ngày phải làm bước đi này: từ ăn mày trở thành môn đệ. Và đúng như thế, người mù bước đi theo Chúa và là thành phần của của cộng đoàn.

Người mà dân chúng muốn làm cho im đi, giờ đây lớn tiếng làm chứng cho cuộc gặp gỡ của anh với Chúa Giêsu thành Nagiarét , và toàn dân, khi trông thấy đã chúc tụng Thiên Chúa” (c. 43). Xảy ra một phép lạ thứ hai: điều đã xảy ra cho anh mù cũng khiến cho dân chúng sau cùng trông thấy. Cùng ánh sáng đó soi chiếu cho tất cả mọi người, và làm cho họ cùng chung lời chúc tụng. Như thế, Chúa Giêsu đổ lòng thương xót của Ngài xuống trên tất cả những người gặp gỡ Ngài: Ngài kêu mời họ, tụ tập họ, chữa lành họ và soi sáng cho họ, bằng cách tạo dựng một dân tộc mới cử hành các việc diệu kỳ của tình yêu thương xót của Ngài. Nhưng chúng ta cũng hãy để cho Chúa Giêsu mời gọi chúng ta và chúng ta hãy để cho Chúa Giêsu chữa lành, và chúng ta đi theo Chúa Giêsu bằng cách chúc tụng Thiên Chúa. Và ước gì được như vậy!

ĐTC đã chào các đoàn hành hương đến từ Anh quốc, Êcốt, Ai len, Malta, Thụy Điển, Siria, Israel, Zambia, Trung quốc, Philippes, Nhật Bản, Canada Hoà Kỳ, Đức, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nhà và các nước châu Mỹ Latinh.

Trong các nhóm Đức ĐTC chào đoàn hành hương giáo phận Trier do ĐGM sở tại hướng dẫn. Chào các nhóm hành hương Ý đến từ nhiều giáo phận khác nhau ĐTC cầu chúc Năm Thánh Lòng Thương Xót đem lại nhiều ơn lành hồn xác cho họ và cộng đoàn của họ.

Với người trẻ, các anh chị em đau yếu và các đôi tân hôn ĐTC xin Chúa Giêsu là Thầy hướng dẫn họ. Ngài khích lệ người đau yếu dâng mọi khổ đau cho Chúa  để cộng tác vào ơn cứu độ của thế giới. Ngài nhắn nhủ các đôi tân hôn ý thức về sứ mệnh tình yêu không thể thay thế được mà họ đã cùng nhau lãnh nhận trong đời hôn nhân.

Buổi tiếp kiến đã kết thúc với Kinh Lạy Cha và phép lành toà thánh ĐTC ban cho mọi người.

Linh Tiến Khải

Văn kiện mới của Bộ Giáo Lý đức tin: Iuvenescit Ecclesia

Văn kiện mới của Bộ Giáo Lý đức tin: Iuvenescit Ecclesia

Văn kiện mới của Bộ Giáo Lý đức tin  Iuvenescit Ecclesia

VATICAN. Sáng ngày 14-6-2016, Bộ giáo lý đức tin đã công bố văn kiện xác định quan hệ thiết yếu giữa giáo quyền và các cộng đoàn, phong trào mới trong Giáo Hội.

Văn kiện này là thư của Bộ gửi các GM trong Giáo Hội với tựa đề ”Iuvenescit Ecclesia” (Giáo Hội trở nên trẻ trung), về tương quan giữa các hồng ân phẩm trật và đoàn sủng cho đời sống và sứ mạng của Giáo Hội.

Hiện diện trên bàn chủ tọa trong cuộc họp báo giới thiệu văn kiện của Bộ cũng có ĐHY Marc Ouellet, Tổng trưởng Bộ GM, Đức Ông Piero Coda, thành viên Ủy ban thần học quốc tế, và nữ giáo sư María Carmen Aparicio Valls, thuộc phân khoa thần học Đại học Giáo Hoàng Gregoriana ở Roma.

Thư dài 18 trang, được ấn hành bằng các ngôn ngữ chính, và mang chữ ký ngày 15-5-2016 của ĐHY Gerhard Mueller, Tổng trưởng Bộ giáo lý đức tin, và vị Tổng thư ký của Bộ là Đức TGM Luis Ladaria. ĐTC đã phê chuẩn và truyền công bố thư này trong buổi tiếp kiến ngày 14-3 năm nay dành cho ĐHY Tổng trưởng.

Văn kiện nhấn mạnh đến tương quan hòa hợp và bổ túc cho nhau giữa định chế của Giáo Hội và các phong trào, cộng đoàn mới: trong sự tham gia phong phú và có trật tự của các đoàn sủng vào cộng đoàn hiệp thông của Giáo Hội, các thực thể mới này không được tránh né không vâng phục hàng giáo phẩm của Hội Thánh, và cũng không được tự ban cho mình quyền được thi hành một sứ vụ tự trị. Vì thế, các đoàn sủng có một tầm quan trọng không thể thiếu được đối với đời sống và sứ mạng của

Giáo Hội; các đoàn sủng chân chính chính có đặc tính cởi mở truyền giáo, vâng phục cần thiết đối với các mục tử, và ở trong Giáo Hội.

Thư của Bộ giáo lý đức tin cảnh giác chống lại chủ trương coi Giáo Hội cơ chế và Giáo Hội bác ái như hai thực thể đối nghịch nhau hoặc chỉ ở cạnh nhau, bởi vì trong Giáo Hội cả các cơ chế thiết yếu cũng có đặc tính đoàn sủng, và các đoàn sủng phải được cơ chế hóa để có một sự thống nhất, trước sau như một, và liên tục. Vì thế, cả hai chiều kích đều cùng nhau góp phần hiện diện hóa mầu nhiệm và hoạt động cứu độ của Chúa Kitô trong thế giới.

Bộ giáo lý đức tin cũng trình bày những tiêu chuẩn để phẩm trật Giáo Hội phân định những đoàn sủng chân chính, theo đó các đoàn sủng phải là dụng cụ nên thánh trong Giáo Hội; dấn thân trong việc truyền bá Tin Mừng; tuyên xưng trọn vẹn đức tin Công Giáo, chứng tỏ tình hiệp thông thực sự với toàn thể Giáo Hội, chân thành đón nhận các giáo huấn đạo lý và mục vụ của Giáo Hội, nhìn nhận và quí chuộng các yếu tố đoàn sủng khác trong Giáo Hội; khiêm tốn chấp nhận những lúc thử thách trong cuộc phân định; có những thành quả thiêng liêng như bác ái, vui mừng, hòa bình, nhân bản; để ý đến chiều kích xã hội trong việc loan báo Tin Mừng, ý thức sự kiện: mối quan tâm đến sự phát triển toàn diện cho những người bị xã hội bỏ rơi nhiều nhất là điều không thể thiếu trong một thực tại Giáo Hội chân chính”.

Thư của Bộ giáo lý đức tin đã trình bày 2 tiêu chuẩn cơ bản để cứu xét hầu nhìn nhận các thực tại mới của Giáo Hội về phương diện pháp lý, theo các hình thức đã được Bộ giáo luật thiết định.

– Tiêu chuẩn thứ I là ”tôn trọng đặc tính đoàn sủng của mỗi phong trào hoặc cộng đoàn ới của Giáo Hội”, vì thế cần tránh những những ”bó buộc hoặc lèo lái về pháp lý, làm giảm bớt sự mới mẻ của các thực tại ấy”.

– Tiêu chuẩn thứ hai liên quan đến sự tôn trọng đường lối cơ bản trong việc cai quản Giáo Hội, tạo điều kiện dễ dàng cho sự hội nhập các hồng ân đoàn sủng trong đời sống Giáo Hội, nhưng cần làm sao để tránh cho các thực thể ấy bị coi như một thực tại song song, không tham chiếu các phẩm trật của Hội Thánh”. (SD 14-6-2016)

G. Trần Đức Anh OP

 

Đức Thánh Cha thăm Tổ chức Chương trình lương thực thế giới

Đức Thánh Cha thăm Tổ chức Chương trình lương thực thế giới

Đức Thánh Cha viếng thăm Tổ chức Chương trình lương thực thế giới

ROMA. Trong cuộc viếng thăm sáng ngày 13-6-2016 tại trụ sở tổ chức Chương trình Lương thực thế giới, ĐTC kêu gọi bài trừ quan niệm coi nạn đói là chuyện ”thường tình, tự nhiên”.

Chương trình Lương thực thế giới (PAM, Wfp) là cơ quan từ thiện lớn nhất của LHQ dấn thân chống nạn đói trên thế giới. Cơ quan này được thành lập năm 1962 và hiện có 11 ngàn nhân viên hoạt động, phần lớn tại những vùng có nạn đói hoặc nạn suy dinh dưỡng. Trong năm 2014, Chương trình PAM đã trợ giúp lương thưc cho 80 triệu người tại 82 quốc gia trên thế giới.

Khi đến trụ sở lúc 9 giờ 20 phút, ĐTC đã được Bà Ertharin Cousin, giám đốc điều hành, Đức Ông Fernando Chica Arellano, Quan sát viên thường trực của Tòa Thánh tại cơ quan này, và bà Stephanie Hochstetter Skinner-Klée tiếp đón tại khuôn viên, và hướng dẫn vào bên trong. Hai em bé đã trao hai giỏ hoa cho ĐTC rồi đặt trước bức tường tưởng niệm có ghi tên hàng trăm nhân viên của Chương trình lương thưc thế giới đã tự nạn trong khi thi hành sứ mạng. ĐTC đã đến gần bức tường này và mặc niệm trong thinh lặng.

Sau khi chào thăm các quan chức cấp cao khác của tổ chức PAM, Đức Thánh Cha đã hội kiến riêng với 3 vị lãnh đạo củq tổ chức này, rồi chào thăm các vị quốc trưởng cũng như các bộ trưởng đến tham dự phiên họp khai mạc của Hội đồng chấp hành tổ chức PAM.

Khi ĐTC tiến vào thính đường, mọi người đã nồng nhiệt vỗ tay chào mừng. Rồi hai bà chủ tịch và giám đốc điều hành tổ chức PAM đã lần lượt chào ĐTC.

 

Diễn văn của ĐTC

Trong diễn văn bằng tiếng Tây Ban Nha nhân dịp này, ngài đặc biệt kêu gọi mọi người đừng coi lầm than là chuyện bình thường, để rồi không còn nhạy cảm đối với những thảm trạng của người khác; ngoài ra cần giải trừ sự ”bàn giấy hóa nạn đói”, cụ thể là nạn buôn bán võ khí, chiến tranh và xung đột võ trang cản trở các nỗ lực bài trừ nạn đói. ĐTC nói:

 ”Trong thế giới được liên kết với nhau và siêu thông tin như chúng ta đang sống, những khoảng cách địa lý dường như được thu ngắn lại. Chúng ta có thể có những tiếp xúc hoặc chứng kiến hầu như đồng thời với những gì đang xảy ra ở nơi khác trên trái đất.. Nhưng có một điều nghịch lý là dường như sự gần gũi do thông tin tạo nên như thế ngày càng bị thu hẹp lại. Thông tin thái quá mà chúng ta có được dần dần tạo nên sự bình thường hóa lầm than. Nghĩa là dần dần chúng ta không còn nhạy cảm đối với những thảm trạng của người khác và coi chúng như những điều ”tự nhiên”, bình thường. Vì thế bao nhiêu hình ảnh được truyền tới chúng ta và chúng ta nhìn thấy đau khổ, nhưng chúng chẳng đánh động chúng ta nữa, chúng ta nghe thấy tiếng khóc, nhưng chúng ta không an ủi, chúng ta thấy đói khát, nhưng chúng ta không đáp ứng nó…

ĐTC nhấn mạnh rằng: ”Cần chấm dứt tình trạng coi lầm thay như điều bình thường, tự nhiên, và ngưng coi nó như một sự kiện của thực tại như bao nhiêu điều khác, bởi vì lầm than có một khuôn mặt. Nó có khuôn mặt của một trẻ thơ, một gia đình, người trẻ và người già. Nó có khuôn mặt của sự thiếu cơ may và công ăn việc làm của bao nhiêu người, khuôn mặt của những vụ cưỡng bách di cư, những căn nhà bị bỏ rơi hoặc bị phá hủy. Chúng ta không thể coi nạn đói của bao nhiêu người là điều tự nhiên, không được nói rằng tình trạng của họ là kết quả của một định mệnh mù quáng, mà chúng ta không thể làm gì được. Khi lầm than không còn có một khuôn mặt nữa, thì chúng ta có thể rơi vào cám dỗ bắt đầu nói và thảo luận về nạn đói, về sự dinh dưỡng, bạo lực, và bỏ quan một bên chủ thể cụ thể, thự tế, đang gõ cửa nhà chúng ta..

Cũng trong chiều hướng ấy, ĐTC nhắc lại cuộc viếng thăm của ngài tại trụ sở Lương nông quốc tế, FAO, ngày 20-11-2014, trong dịp đó ngài khẳng định rằng thế giới có đủ lương thực cho mọi người, tất cả mọi người, ”nhưng không phải tất cả đều có thể được ăn, trong khi nạn phí phạm, loại bỏ, tiêu thụ lương thực thái quá hay dùng lương thực vào những mục tiêu khác đang xảy ra trước mặt chúng ta”. Ngài áp dụng vào cuộc viếng thăm này và khẳng định rằng:

 

 ”Chúng ta hãy ý thức rõ: sự thiếu lương thực không phải là một cái gì tự nhiên, không phải là một sự kiện hiển nhiên. Ngày nay, giữa thế kỷ 21, nhiều người vẫn còn đau khổ vì thiếu lương thực, và tai ương ấy là do sự phân phối các tài nguyên một cách ích kỷ và sai trái, biến thực phẩm thành hàng hóa. Đất đai bị ngược đãi và bóc lột tại nhiều nơi trên thế giới, tiếp tục mang mang lại chúng ta hoa mầu, tiếp tục cung cấp cho chúng ta những gì tốt đẹp nhất; những khuôn mặt của những người đói nhắc nhớ cho chúng ta rằng chúng ta đã đảo lộn những mục tiêu của trái đất. Một món quà, có mục đích mưu ích cho tất cả mọi người, nhưng chúng ta lại biến nó thành một đặc ân của một ít người.

”Trào lưu duy tiêu thụ tràn lan trong các xã hội chúng ta, làm cho chúng ta quen với sự thừa thãi và hằng ngày phung phí lương thực, lương thực mà nhiều khi chúng ta không có khả năng mang lại cho nó giá trị đúng đắn, vượt lên trên những tiêu chuẩn kinh tế.. Nhưng chúng ta cần nhớ rằng phí phạm lương thực là điều giống như ăn trộm từ bàn ăn của người nghèo, của người đói. Điều này đòi chúng ta phải suy tư về vấn đề thất thoát và phí phạm lương thực, để tìm ra những phương thế nghiêm túc đối phó với vấn đề, để thực thi tình liên đới và chia sẻ với những người túng thiếu nhất”.

Chống ”bàn giấy hóa” nạn đói

Tiếp tục diễn văn, ĐTC đề cập đến vấn đề bàn giấy hóa. Ngài nói: ”Có những hành động như thể bị kẹt, bị chặn đứng. Tình trạng bấp bênh của thế giới như chúng ta đang sống là điều mọi người đều biết. Trong thời gian gần đây chiến tranh và những hiểm họa xung đột trở thành những quan tâm chính của chúng ta và được thảo luận nhiều. Vì thế, đứng trước bao cuộc xung đột hiện nay, dường như võ khí đã đạt tới mức độ ưu tiên khác thường, đến độ chúng loại bỏ những cách thức khác để giải quyết các tranh chấp. Tình trạng ấy ăn rễ sâu và được người ta chấp nhận đến độ nó cản trở việc phân phối lương thực tại những vùng chiến tranh, thậm chí đi tới sự vi phạm những nguyên tắc và qui luật cơ bản nhất của công pháp quốc tế hiện hành từ nhiều thế kỷ.

”Do đó chúng ta đứng trước một hiện tượng lạ thường và mâu thuẫn: trong khi những viện trợ và kế hoạch phát triển bị cản trở vì những quyết định chính trị phức tạp và khó hiểu, hoặc vì những quan điểm ý thức hệ thiên lệch hoặc vì những hàng rào quan thuế không thể vượt qua được, thì võ khí lại không hề bị cản trở; nó xuất phát từ đâu, đó chẳng phải là điều quan trọng, võ khí tự do lưu hành, hầu như một cách tuyệt đối trong nhiều vùng trên thế giới. Do đó chính chiến tranh được nuôi dưỡng, chứ không phải con người. Trong một số trường hợp, chính nạn đói được sử dụng như một võ khí chiến tranh. Và các nạn nhân gia tăng, vì số người chết đói và kiệt lực thêm vào số những chiến binh bị chết trên chiến trường và nhiều thường dân bị giết trong các cuộc xung đột và khủng bố. Chúng ta ý thức rõ điều đó, nhưng chúng ta để cho lương tâm mình bị tê liệt, và chúng ta không còn để lương tâm mình được nhạy cảm nữa. Qua đó, võ lực trở thanh phương thế hành động duy nhất của chúng ta, và mục tiêu cần ưu tiên đạt tới là quyền lực. Dân chúng yếu đuối nhất không những đau khổ vì chiến tranh, nhưng đồng thời họ thấy mọi sự viện trợ bị cản trở. Vì thế, điều cấp thiết là phải giải trừ thứ bệnh bàn giấy cản trở các kế hoạch viện trợ nhân đạo, không cho các kế hoạch này đạt tới mục đích. Trong lãnh vực này, chúng ta có một vai trò cơ bản, vì chúng ta cần những vị anh hùng thực sự, có khả năng mở ra những con đường, kiến tạo những nhịp cầu, tạo điều kiện dễ dàng cho những hoạt động đặt nặng tầm quan trọng khuôn mặt của người đau khổ. Những sáng kiến của cộng đồng quốc tế cũng phải hướng về mục tiêu ấy.

Trong phần kết của bài diễn văn, ĐTC nói đến sự sẵn sàng đóng góp của Giáo Hội Công Giáo vào những sáng kiến nhắm cứu vãn phẩm giá con người, nhất là những người bị chà đạp các quyền của mình. ”Tôi cam đoan với quí vị sự hỗ trợ hoàn toàn và sự nâng đỡ trọn vẹn của chúng tôi để tạo điều kiện dễ dàng cho mọi cố gắng đã bắt đầu”.

Sau bài diễn văn, ĐTC bước ra khỏi hội trường để chào thăm một nhân viên của Chương trình lương thực thế giới bị thương trong khi thi hành sứ mạng, rồi ngài tiến ra ngoài khuôn viên của tổ chức PAM để chào thăm tất cả các nhân viên và gia đình những người đang phục vụ tại trụ sở này.

G. Trần Đức Anh OP

 

Đức Cha Mar Jacob Muricken hiến thận cho một tín hữu Ấn giáo nghèo khổ

Đức Cha Mar Jacob Muricken hiến thận cho một tín hữu Ấn giáo nghèo khổ

Bishop Mar Jacob Muricken

Nhiều tấm gương về lòng thương xót được nhắc đến cách đặc biệt trong Năm Thánh này, trong đó có tấm gương của Đức cha Mar Jacob Muricken, 52 tuổi, người Ấn độ, Giám mục phụ tá của Giáo phận Palai thuộc Giáo hội Công giáo nghi lễ Đông phương Syro-Malabar. Đức cha đã chọn cách cử hành Năm Thánh Lòng thương xót đến môt mức độ tuyệt vời mà ít có người có thể nghĩ đến, đó là hiến tặng một quả thận của mình cho một tín hữu Ấn giáo nghèo khổ.

Anh Sooraj Sudhakaran, 30 tuổi, là một tín hữu Ấn giáo bị suy thận nặng từ 2 năm qua. Anh là người lao động chính trong gia đình và phải làm việc để nuôi mẹ và vợ của mình. Cha của Sooraj qua đời vị bị rắn cắn, còn anh của Sooraj  thì chết vì bị nhồi máu cơ tim. Người Ấn độ ở tầng lớp cùng đinh này vừa bị bịnh nặng lại vừa bị thất nghiệp, do đó anh đã phải bán cả nhà cửa của mình để có tiền chi trả cho chi phí lọc thận. Anh Sooraj đã gõ cửa Hiệp hội tặng thận của Ấn độ, một cơ quan xã hội giúp tìm những người hiến tặng thận để cấy ghép cho các bịnh nhân, để xin được giúp đỡ. Hiệp hội này đã sắp xếp cho 15 Linh mục và 6 nữ tu hiến tặng thận cho những người không có liên hệ với mình, cho các bịnh nhân đang cần được thay thận. Tại đây, anh Sooraj đã nhận được tin vui. Đức cha Muricken của giáo phận Palai sẽ hiến tặng một quả thận của ngài cho anh.

Quyết định hiến thận của Đức cha xuất phát từ một sự kiện vào năm ngoái, khi cha Davis Chiramel, chủ tịch Hiệp hội tặng thận của Ấn độ đã được giáo phận Palia mời đến thuyết trình trong một hội nghị đặc sủng và Đức cha Muricken cũng tham dự hội nghị này. Cha Chiramel đã kể lại việc cha đã hiến tặng thận cho C. G. Gopinathan, một tín hữu Ấn giáo mà cha không quen biết vào năm 2009. Đức cha Muricken đã được đánh động bởi tấm gương quảng đại của cha Chiramel. Sau đó, Đức cha đã điện thoại cho cha Chiramel và bày tỏ ước muốn hiến tặng thận của mình. Đức cha đã ghi tên mình vào danh sách tình nguyện hiến tặng của Hiệp hội hiến tặng thận của Ấn độ.

Qua cha Chiramel, Đức cha Muricken biết được tình trạng khốn khổ của anh Sooraj và quyết định giúp anh, đặc biệt là trong Năm Thánh Lòng Thương xót này. Đức cha tặng cho anh quả thận của ngài và ngài cũng đã chi trả các chi phí xét nghiệm và phụ trợ cho việc điều trị. Tiến trình phẫu thuât cấy ghép đã bắt đầu từ hôm 1 tháng 6 vừa qua tại bịnh viện tư ở Kochi thuộc bang Kerala, Ấn độ.

Việc hiến tặng thận của Đức cha đã được nhiều người thuộc các tín ngưỡng khác nhau nhìn nhận và cảm phục. Cha Anithottathil Gervasis, bí thư của Giáo phận Palai nhận xét việc làm của Đức cha Muricken là một hành động quên mình trong tinh thần của Năm Thánh Lòng thương xót. Sự quảng đại của Đức cha đã dạy chúng ta cách thực tiễn một mẫu gương luân lý trong việc đi ra khỏi bản thân mình để cứu sự sống”. Cha cũng cho biết, Đức cha Muricken là một trong những Giám mục đơn sơ nhất. Hành động vủa ngài không phải là một trò quảng cáo câu like. Hiện tại Đức cha hạnh phúc và chỉ xin mọi người cầu nguyện để ngài có thể tiếp tục làm việc và làm chứng cho Chúa Ki-tô với đồng bào mình.

Còn cha Chiramel, người đã sắp đặt cho việc tặng thận của Đức cha đã chia sẻ: “Đây là lần đầu tiên một Giám mục hiến tặng thận cho một tín hữu Ấn giáo. Thật là ý nghĩa khi Đức cha thực hiện điều này trong Năm Thánh Lòng Thương xót, theo lời mời gọi của Đức Thánh Cha Phanxicô là yêu thương mọi người không phân biệt giai cấp hay tín ngưỡng”. Cha Chiramel rõ ràng rất vui với quyết định và món quà chưa từng có của Đức cha Muricken. Cha nói: “anh Sooraj đã nhận sự sống từ Đức cha Muricken, người đang xây một cây cầu của tình yêu và ân sủng của Thiên Chúa”.

Một thương gia trong vùng thì nhận xét việc hiến thận khi đang còn sống của Đức cha đòi phải có một sự can đảm mạnh mẽ và nó đáng giá hơn nhiều lần việc quyên tặng tiền bạc hay của cải cho các tổ chức. Qua hành động của mình, Đức cha đã nêu tấm gương, đặc biệt cho các giới lãnh đạo, biết đặt tình yêu trong hành động của họ hơn là chỉ có những lời nói xuông.

Về phần mình, chia sẻ với hãng tin Công giáo Hoa kỳ, Đức cha Muricken cho biết mình không hề lo lắng về cuộc phẫu thuật cắt thận và ngài nghĩ là việc làm của mình chỉ là một hy sinh nhỏ cho một người anh em. Ngài nói: “nếu tôi có thể cứu sống anh ta thì cả gia đình anh sẽ được cứu”. Đức cha cũng chia sẻ là ngài đã nhận được nhiều sự khích lệ của các Giám mục. Đức Cha nói: “Đức Thánh Cha Phanxicô lập đi lập lại, kêu gọi hãy làm cho Chúa Giêsu trở nên hữu hình qua các hành động thương xót.” Đức cha không quan tâm đến việc người được ngài tặng thận không phải đồng đạo với mình. Ngài hy vọng việc làm của mình là một thông điệp mạnh mẽ cho mọi người xung quanh để họ cũng sẵn sàng hiến tặng các cơ phận. Đức cha xin cầu nguyện cho ngài. (CNA 1/6/2016)

Hồng Thủy OP

Ngày Năm Thánh dành cho các bệnh nhân và người khuyết tật

Ngày Năm Thánh dành cho các bệnh nhân và người khuyết tật

Đức Thánh Cha chủ sự thánh lễ Chúa Nhật, 12.06.2016

VATICAN. Lúc 10h30 sáng Chúa Nhật, ngày 12.06, Đức Thánh Cha Phanxicô đã chủ sự thánh lễ tại Quảng Trường Thánh Phê-rô nhân Ngày Năm Thánh dành cho các bệnh nhân và người khuyết tật cả về thể xác lẫn tâm trí.

Cùng đồng tế với Đức Thánh Cha có nhiều Hồng Y, Tổng Giám Mục, Giám Mục và linh mục. Đặc biệt, tham dự thánh lễ, có hơn 20 ngàn người khuyết tật, bệnh nhân và những người săn sóc họ.

Trong lúc bài Tin Mừng được công bố, có những hoạt cảnh đi kèm, nhờ đó những người khuyết tật tâm trí có thể hiểu được.

 Sau đây là bài giảng của Đức Thánh Cha:

“Tôi cùng chịu đóng đinh với Đức Kitô vào thập giá. Tôi sống nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2:19). Trong những lời này, Thánh Tông Đồ Phao-lô đã diễn tả cách mạnh mẽ mầu nhiệm đời sống Kitô giáo, mầu nhiệm đó có thể được gom tóm trong sự năng động phục sinh về cái chết và sự sống lại được nhận lãnh ngang qua Bí Tích Thanh Tẩy. Thật vậy, khi được dìm trong nước, mỗi người chúng ta đã chết và được mai táng cùng với Đức Kitô (Rm 6:3-4), và khi trồi lên khỏi mặt nước, một sự sống mới được chiếu tỏa rạng ngời trong Chúa Thánh Thần. Sự tái sinh này ôm ấp lấy tất cả mọi chiều kích của đời sống chúng ta: kể cả bệnh tật, khổ đau và cái chết cũng được tìm thấy nơi Đức Kitô và chính ở nơi Ngài mà chúng ta đọc được ý nghĩa tối hậu cho những bệnh tật, khổ đau và chết chóc ấy. Ngày hôm nay, Ngày Năm Thánh dành cho bệnh nhân và những người mang những khuyết tật, Lời Chúa về sự tái sinh này lại có một âm vang đặc biệt cho mỗi người chúng ta.

Dù sớm hay muộn, mỗi người chúng ta cũng được mời gọi để đối mặt – vào những thời điểm rất đau đớn – với sự yếu đuối mong manh và bệnh tật của chính chúng ta cũng như của người khác. Có bao nhiêu gương mặt khác nhau của nhân loại đã phải đón lấy kinh nhiệm này cách hết sức đặc trưng và đầy cảm xúc. Tất cả những điều ấy làm dấy lên câu hỏi bức thiết về ý nghĩa của đời sống con người. Chúng ta dường như dễ yếu lòng để chọn một giải pháp yếm thế, như thể cách giải quyết duy nhất chỉ đơn giản là kiên nhẫn chịu đựng những kinh nghiệm đau thương và cậy dựa vào sức của riêng bản thân. Hay có lẽ, chúng ta đã đặt tất cả sự tin tưởng vào khoa học, nghĩ rằng chắc chắn ở một nơi nào đó trên thế giới có một phương thuốc có khả năng chữa lành bệnh tật. Nhưng buồn thay, sự thật không phải như thế, thậm chí thần dược có tồn tại đi nữa, cũng chỉ đến được với một số người.

Bản chất con người, đã bị thương tổn vì tội lỗi, được ghi dấu bởi những giới hạn. Chúng ta đã thấy những chối bỏ, xuất hiện cách đặc biệt trong thời đại ngày hôm nay, đối với sự sống có những giới hạn thể lý nghiêm trọng. Người ta nghĩ rằng bệnh nhân hay người khuyết tật không thể hạnh phúc, vì họ không thể sống một đời sống được định hình bởi một nền văn hóa vui chơi và giải trí. Trong một thời đại khi sự chăm sóc cho thân xác của con người trở thành nỗi ám ảnh và gây ra nhiều tốn kém, bất cứ ai không hoàn hảo đều phải được che dấu đi, vì người ấy đe dọa đến hạnh phúc và sự thanh bình của một số người có đặc quyền và là sự nguy hiểm đối với những người lãnh đạo. Những người khuyết tật phải bị tránh xa, phải bị ‘cách ly’ trong những tòa nhà ‘tô vôi hào nhoáng’, hay trong những ‘ốc đảo’ của lòng mộ đạo hay của công ích xã hội, để người ta không phải giữ lại không gian cho một hữu thể sai lầm. Trong một số trường hợp, chúng ta thậm chí được nói rằng tốt hơn hết là hãy loại trừ những người khuyết tật đi càng sớm càng tốt, vì họ trở thành một gánh nặng kinh tế không thể chấp nhận được trong thời buổi khủng hoảng. Nhưng thật là ảo tưởng khi con người ngày nay nhắm mắt làm ngơ trước gương mặt của bao bệnh nhân và người khuyết tật. Họ đã không hiểu được ý nghĩa đích thực của sự sống, là phải biết đón nhận những đau khổ và giới hạn. Thế giới sẽ không trở nên tốt hơn nếu chỉ bởi những người có vẻ ‘hoàn hảo’ bên ngoài. Thế giới chỉ trở nên tốt hơn khi tình liên đới nhân loại, việc đón nhận và tôn trọng lẫn nhau được gia tăng. Lời của Thánh Tông Đồ Phao-lô thật đúng đắn thay: ‘Những gì thế gian cho là yếu kém, Thiên Chúa đã chọn để hạ nhục những kẻ hùng mạnh’(1 Cr 1:27)!

Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay (Lc 7:36-8:3) trình bày cho chúng ta một tình huống cụ thể về sự yếu đuối. Một phụ nữ bị xem là tội lỗi, bị người khác xét xử và loại trừ, nhưng Đức Giêsu lại đón nhận và bảo vệ chị: ‘Chị đã yêu mến nhiều’ (Lc 7:47). Đó là kết luận của Đức Giêsu, Đấng đã chú ý đến những đau khổ và sự nài xin của chị. Sự dịu dàng của Đức Giêsu là dấu chỉ của tình yêu mà Thiên Chúa bày tỏ cho những ai đau khổ và bị gạt ra bên lề. Đau khổ không chỉ là về thể lý nhưng còn là tinh thần, một trong những bệnh lý thường gặp nhất hiện nay. Đó là sự đau khổ của tâm hồn; khiến người ta buồn khổ vì thiếu tình yêu mến. Khi kinh nghiệm được sự thất vọng hay bị phản bội trong những mối tương quan thân thiết, chúng ta mới nhận ra chúng ta dễ bị tổn thương và mong manh đến là dường nào. Vì thế, cám dỗ muốn trở nên tự-chấp-nhận-mình (tự-đủ-cho-chính-mình) lại phát triển ngày càng mạnh mẽ hơn, và chúng ta có nguy cơ đánh mất cơ hội lớn lao nhất trong đời sống: yêu bất chấp chất cả.

Hạnh phúc mà mọi người đều mong muốn có thể được diễn tả trong rất nhiều cách thức và chỉ đạt được khi chúng ta có khả năng yêu thương. Đó chính là đường lối của tình yêu, ngoài ra không còn cách nào khác. Nhưng thách đố là ai mới là người yêu thương nhất. Bao nhiêu người khuyết tật và đau khổ đã lại rộng mở tâm hồn khi họ nhận ra họ được yêu thương! Bao nhiêu tình yêu mến đã được ngự trị nơi tâm hồn chỉ đơn giản với một nụ cười dễ mến! Như thế, chính sự yếu đuối mong manh của chúng ta có thể trở thành một nguồn mạch của sự an ủi, và nâng đỡ chúng ta trong cảnh cô đơn. Đức Giêsu, trong cuộc khổ nạn, đã yêu chúng ta cho đến cùng (Ga 13:1); trên thánh giá, Ngài đã mặc khải tình yêu bằng cách hoàn toàn trao ban chính mình. Chúng ta có thể đến với Thiên Chúa với những yếu đuối, bệnh tật, đau khổ của chúng ta khi chúng ta nhận ra những đau khổ ấy mô tả gương mặt của Người Con Một Yêu Dấu bị đóng đinh trên thập giá? Những đau đớn thể xác mà Người phải chịu đi kèm với sự nhạo báng, hạ nhục và khinh miệt. Nhưng Đức Giêsu đã đáp lại những điều ấy bằng lòng thương xót khi Ngài đón nhận và tha thứ tất cả: Chính bởi thương tích của Người mà chúng ta được chữa lành’(Is 53:5; 1 Pr 2:24). Đức Giêsu là thầy thuốc chữa lành với phương dược tình yêu, vì Ngài đã dùng chính bản thân mình để xoa dịu những đau khổ và cứu độ chúng ta. Thiên Chúa có thể hiểu những yếu đuối của chúng ta, vì chính Ngài đã kinh nghiệm điều ấy như một người phàm thật sự (Dt 4:15).

Cách chúng ta kinh nghiệm bệnh nạn và những khuyết tật là một chỉ số tình yêu mà chúng ta đang sẵn sàng để trao ban. Cách chúng ta đối mặt với đau khổ và những giới hạn là sự đo lường tự do của chúng ta trong việc đem lại ý nghĩa cho kinh nghiệm cuộc sống nhân sinh, cả khi chúng phủ lấp chúng ta bằng sự vô nghĩa và không có ích lợi gì. Nhưng chúng ta đừng để bị nao núng vì các nỗi gian truân ấy (1 Tx 3:3). Chúng ta biết rằng trong sự yếu đuối chúng ta có thể trở nên mạnh mẽ (2 Cr 12:10) và được lãnh nhận ân sủng để mang lấy vào mình những gian nan thử thách của Đức Kitô vì lợi ích cho thân thể Người là Hội Thánh (Cl 1:24). Vì thân thể ấy, hình ảnh của chính Thiên Chúa Phục Sinh, gìn giữ những thương tích của mình, dấu vết của một cuộc chiến đấu cam go, nhưng đó là những thương tích được biến đổi mãi mãi vì tình yêu.”

Các lời nguyện giáo dân đã được đọc bằng các thứ tiếng Ý, Pháp, Trung Quốc, Bồ Đào Nha và Đức. Trong số những người giúp lễ mang lễ vật lên cho Đức Thánh Cha trong phần Dâng Lễ, cũng có một gia đình với em bé gái bị down, hay là bệnh khờ.

Hàng chục các linh mục đã giúp Đức Thánh Cha cho tín hữu rước lễ.

Trước khi đọc Kinh Truyền Tin và ban phép lành cho mọi người, Đức Thánh Cha thông báo rằng: “Hôm thứ 7, 11.06, ở a Vercelli, Giáo hội đã tuyên phong chân phước cho linh mục Giacomo Abbondo. Ngài sống vào khoảng thế kỷ 18, có lòng yêu mến Chúa nông nàn, hết mình dấn thân cho phần rỗi của các con chiên trong xứ đạo. Đồng thời, ở Monreale, ngày hôm nay, nữ tu Carolina Santocanale, vị sáng lập Dòng Nữ Tu Capucino Của Đức Mẹ Vô Nhiễm Lộ Đức, cũng được tuyên phong chân phước.

Trong bối cảnh Ngày Năm Thánh Dành cho các bệnh nhân, Hội Nghị Quốc Tế về chăm sóc sức khỏe cho những người nhiễm bệnh Hansen cũng đang được diễn ra ở Roma trong những ngày này. Với tâm tình biết ơn, tôi gởi lời chào thân ái đến ban tổ chức và những người tham dự hội nghị, hy vọng rằng hội nghị sẽ gặt hái được nhiều thành công trong việc chống lại bệnh phong.

Ngày hôm nay, ngày thế giới chống lạm dụng trẻ em. Xin cho các trẻ em được giải thoát khỏi những hình thức nô lệ, bách hại và lạm dụng.

Tôi cũng gởi lời chào thân ái đến tất cả các tín hữu ở Roma và khách hành hương đến từ Italia cũng như các quốc gia khác, đã hiện diện trong buổi lễ ngày hôm nay. Xin Đức Trinh Nữ Maria đồng hành và che chở cho hết thảy mọi người chúng ta.”

Vũ Đức Anh Phương, SJ

Đức Thánh Cha gặp 650 người dự Hội nghị về người khuyết tật

Đức Thánh Cha gặp 650 người dự Hội nghị về người khuyết tật

Đức Thánh Cha tiếp 650 tham dự viên Hội nghị về người khuyết tật

VATICAN. ĐTC kêu gọi giúp người khuyết tật hoàn toàn tham gia vào đời sống Giáo Hội một cách bình thường, đặc biệt là đời sống bí tích.

Ngài đưa ra lời kêu gọi trên đây sáng ngày 11-6-2016, trong buổi tiếp kiến tại Đại thính đường Phaolô 6 dành cho 650 tham dự viên hội nghị về người khuyết tật do HĐGM Italia tổ chức, nhân dịp kỷ niệm 25 năm thành lập phân bộ Huấn giáo cho người khuyết tật thuộc Văn phòng Huấn giáo toàn quốc Italia. Trong số những người hiện diện cũng có nhiều người khuyết tật về thể lý và tâm lý.

ĐTC đã ứng khẩu trả lời một số câu hỏi do các tham dự viên nêu lên, đặc biệt là một phụ nữ 25 tuổi ngồi trên xe lăn, hỏi ĐTC tại sao trong giáo xứ, cô không được tham gia nhiều sinh hoạt của giáo xứ, và bị kỳ thị. Cô cho biết là sẽ tham dự Ngày Quốc Tế giới trẻ cuối tháng 7 tới tại Cracovia Ba Lan.

ĐTC nhận định rằng: ”Cho đến nay nhiều điều đã được thực hiện trong việc săn sóc mục vụ cho người khuyết tật, nhưng cần phải đi xa hơn nữa, ví dụ nhìn nhận khả năng của người khuyết tật làm tông đồ và thừa sai, và trước tiên là giá trị sự hiện diện của họ như những nhân vị, như những chi thể sinh động của Thân Mình Giáo Hội. Trong sự yếu đuối và mong manh có tiềm ẩn những kho tàng có khả năng canh tân các cộng đoàn Kitô của chúng ta”.

ĐTC ghi nhận trong các cộng đoàn Công Giáo có sự quan tâm nhiều hơn tới những người khuyết tật, nhưng chưa thực hiện sự hội nhập đích thực, chưa có sự tham gia trọn vẹn và bình thường của những tín hữu khuyết tật. Điều này không những đòi các giải pháp kỹ thuật và những chương trình chuyên biệt nhưng trước tiên đòi phải có sự nhìn nhận và tiếp đón, xác tín kiên trì theo đó mỗi người là duy nhất, có một không hai và không thể lập lại, mỗi khuôn mặt bị loại trừ đều làm cho cộng đoàn nghèo nàn hơn”.

Cũng trong chiều hướng trên đây, trong diễn văn soạn sẵn, ĐTC kêu gọi giúp người khuyết tật tham gia hoàn toàn vào đời sống bí tích của Giáo Hội. Ngài nói: “Chúng ta phải khẳng định rõ ràng rằng những người khuyết tật được kêu gọi sống trọn vẹn đời sống bí tích, cả khi họ bị khuyết tật trầm trọng về tâm lý. Thật là buồn khi thấy trong một số trường hợp người ta vẫn còn tỏ ra nghi ngờ, chống lại hoặc từ khước. Nhiều khi người ta biện minh cho sự từ khước cho người khuyết tận lãnh nhận các bí tích và nói: ”Họ đâu có hiểu gì”, hoặc ”họ không cần”. Trong thực tế, thái độ như thế chứng tỏ những người ấy không hiểu ý nghĩa đích thực của chính các bí tích, và trong thực tế họ không cho những người khuyết tật được thực thi chức phận làm con Chúa và được tham gia trọn vẹn vào cộng đoàn Giáo Hội”.

Thánh lễ chúa nhật

Cũng liên quan đến những người khuyết tật, chúa nhật 12-6-2016, hơn 20 ngàn người khuyết tật, bệnh nhân và những người săn sóc họ, sẽ tham dự thánh lễ ĐTC cử hành tại Quảng trường Thánh Phêrô nhân ngày Năm Thánh dành cho họ.

Trong số những người giúp lễ mang lễ vật lên ĐTC trong phần dâng lễ, cũng có những người bị hiệu chứng down, hay là bệnh khờ. Ngoài ra trong lúc bài Tin Mừng được công bố lần đầu tiên cũng có những hoạt cảnh đi kèm, nhờ đó những người khuyết tật tâm trí cũng có thể hiểu được.

Đức TGM Rino Fisichella, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh tái truyền giảng Tin Mừng cho biết như trên trong cuộc họp báo hôm 9-6 vừa qua ở Roma. Ngài cũng bày tỏ hài lòng vì sự gia tăng con số các tín hữu hành hương Năm Thánh:

Trong 6 tháng đầu tiên của Năm Thánh, tức là từ đầu tháng 12 năm ngoái đến nay, đã có 9 triệu 100 ngàn tín hữu hành hương đến Roma. Con số đáng kể này cho thấy nhiều tín hữu từ các nơi trên thế giới vẫn muốn cử hành Năm Thánh ở Roma, mặc dù Cửa Năm Thánh được mở ra ở các nơi trên thế giới.

Trong dịp đại Năm Thánh 2000, có hơn 30 triệu tín hữu hành hương đến Roma. Ngay từ đầu, Tòa Thánh đã nhận định rằng sẽ không có một con số đông đảo như vậy cho Năm Thánh Lòng Thương Xót vì thời gian ngắn ngủi từ khi ấn định Năm Thánh cho đến lúc khởi sự biến cố này (SD 11-6-2016)

G. Trần Đức Anh OP

 

Đức Thánh Cha tiếp kiến phái đoàn Liên hiệp Tin Lành Cải Cách

Đức Thánh Cha tiếp kiến phái đoàn Liên hiệp Tin Lành Cải Cách

Đức Thánh Cha tiếp kiến phái đoàn Liên hiệp Tin Lành Cải Cách

VATICAN. ĐTC kêu gọi các cộng đồng Công Giáo và Tin Lành cải cách cùng dấn thân đáp ứng sự khao khát tinh thần của con người ngày nay.

 Ngài đưa ra lời kêu gọi trên đây trong buổi tiếp kiến sáng hôm 10-6-2016, dành cho 10 vị thuộc Hội đồng lãnh đạo Liên hiệp các Giáo Hội Tin Lành Cải Cách trên thế giới.

 Trong lời chào mừng, ĐTC nhắc đến cuộc viếng thăm tại Vatican cách đây 10 năm của các vị lãnh đạo Tin Lành cải cách trên hoàn cầu, gặp ĐGH Biển Đức 16. Ngài cũng ca ngợi và cảm tạ những tiến bộ trong quan hệ đại kết giữa các cộng đồng Giáo Hội Tin Lành cải cách với nhau và với Giáo Hội Công Giáo. ĐTC nhận xét rằng: ”Ngày nay chúng ta thường cảm nghiệm ”sự sa mạc hóa tinh thần”, nhất là nơi mà người ta sống như thể Thiên Chúa không hiện hữu, các cộng đồng Kitô chúng ta được kêu gọi là những ”vò nước” giải khát với niềm hy vọng, những sự hiện diện có khả năng khơi dậy tình huynh đệ, gặp gỡ, liên đới, yêu thương chân thành và vô vị lợi; các cộng đồng ấy cần đón nhận và khơi dậy ơn thánh của Chúa, để không khép kín vào mình, và cởi mở thi hành sứ mạng. Thực vậy, không thể thông truyền đức tin, nếu ta sống đức tin một cách cô lập hoặc trong những nhóm khép kín và chia cách, trong một thứ tự trị giả tạo và chỉ biết đến cộng đoàn của mình. Làm như thế chúng ta không đáp ứng được lòng khao khát Thiên Chúa, đang gọi hỏi chúng ta và tạo nên nhiều hình thức tôn giáo mới..”

 ĐTC cũng nói rằng: ”Hiện nay có nhu cầu cấp thiết phải có một phong trào đại kết, cùng với nỗ lực thần học để giải quyết những tranh luận đạo lý giữa các tín hữu Kitô. Phong trào đại kết này cổ võ một sứ mạng chung loan báo Tin Mừng và phục vụ. Chắc chắn là đã có nhiều sáng kiến và sự cộng tác tốt đẹp với nhau tại nhiều nơi, nhưng tất cả chúng ta có thể cùng nhau làm hơn nữa, để cống hiến một chứng tá sinh động, cho tất cả những người hỏi chúng ta tại sao có niềm hy vịong nơi chúng ta (Xc 1 Pr 3,15): cần thông tuyền tình yêu thương xót của Chúa Cha mà chúng ta lãnh nhận nhưng không và chúng ta được kêu gọi quảng đại trao ban cho tha nhân” (SD 10-6-2016)

G. Trần Đức Anh OP

Bài học từ ngôn sứ Ê-li-a

Bài học từ ngôn sứ Ê-li-a

Thánh lễ sáng thứ Sáu, ngày 10.06

VATICAN. Đức Thánh Cha Phanxicô cử hành thánh lễ sáng thứ Sáu, 10-06, tại nhà nguyện thuộc Nhà trọ Thánh Marta. Khởi đi từ Bài Đọc Một, Đức Thánh Cha nhấn mạnh đến ba thái độ làm nên đặc nét của người Kitô hữu: đứng trước nhan thánh Chúa trong thinh lặng để lắng nghe lời Người và sẵn sàng đi ra để tiến vào lòng đời nhằm công bố điều đã được nghe cho người khác biết. Đức Thánh Cha cũng cảnh giác mọi người trước nguy hiểm về một nỗi sợ hãi tê liệt trong đời sống Kitô hữu, không biết mình đang ở đâu trong cuộc hành trình với Thiên Chúa và không quan tâm đến tình trạng đời sống của mình trong Giáo hội.

Hãy đứng thẳng và bước đi

Để trình giải vấn đề này và làm sao để thoát khỏi sợ hãi, Đức Thánh Cha đã tập trung vào hình ảnh ngôn sứ Ê-li-a trong Bài Đọc Một trích Sách Các Vua. Đức Thánh Cha gợi nhắc lại việc ngôn sứ Ê-li-a đã chiến thắng như thế nào, ngài đã chiến đấu mãnh liệt ra sao vì đức tin, ngài đã đánh bại hàng trăm ngôn sứ giả tôn thờ ngẫu tượng Ba-an trên núi Carmen như thế nào. Nhưng cuối cùng, một trong những hành động bách hại nhằm vào Ê-li-a cũng đạt được mục tiêu. Ê-li-a đã ngã vật xuống trong sự thất vọng và chán nản dưới một gốc cây, chỉ chờ có chết. Nhưng Thiên Chúa không hề bỏ rơi ngài trong trạng thái mệt mỏi, kiệt sức đó. Chúa đã sai thiên thần đến an ủi đồng thời cũng kèm theo một mệnh lênh: Hãy trỗi dậy, cầm lấy mà ăn và bước ra ngoài.

Để gặp gỡ Chúa cần phải quay trở lại với bối cảnh mà ở đó con người đã được tạo dựng nên, đứng thẳng và bước đi. Thật vậy, Thiên Chúa tạo dựng và ban cho chúng ta có khả năng đứng thẳng và ngẩng cao đầu trước tôn nhan Ngài, vì chúng ta giống hình ảnh Ngài và bước đi trên đường cùng với Ngài. ‘Hãy đi và tiến về phía trước: Hãy cày cấy và canh tác đất đai’. Sau này, Thiên Chúa cũng phán với Ê-li-a như vậy: ‘Hãy ra ngoài và đứng trên núi trước mặt Đức Chúa.’ Ê-li-a đã đứng thẳng trên đôi chân của mình và bắt đầu bước đi.

Tính căng thẳng của sự thinh lặng

Hãy ra ngoài và lắng nghe Thiên Chúa. Làm sao chúng ta có thể chắc chắn gặp được Chúa trong cuộc hành trình? Ngôn sứ Ê-li-a được thiên thần mời bước ra khỏi núi Khô-rép, nơi mà ông đã tìm được chỗ nghỉ qua đêm trong một cái hang, để gặp gỡ Thiên Chúa. Thiên Chúa không ở trong cơn gió to bão lớn xẻ núi non, cũng không ở trong trận động đất và cũng không ở trong lửa nhưng Ngài chỉ xuất hiện khi Ê-li-a bước ra ngoài trong cơn gió hiu hiu. Như vậy, dù có nhiều âm thanh ầm ầm vang dội hay là những cảnh tượng hoành tráng, kinh thiên động địa; Thiên Chúa vẫn không ở đó. Nhưng chỉ ở trong sự thinh lặng, trầm lắng; Thiên Chúa mới hiện diện và mới ngỏ lời với chúng ta.

Giờ của sứ mạng

Mệnh lệnh mà Ê-li-a nhận được từ Thiên Chúa ngang qua thiên thần là: Hãy đi ra. Vị ngôn sứ được mời gọi bước đi, tiến qua sa mạc, vì ngài đã được trao phó một sứ mạng cần phải thi hành. Điều ấy có nghĩa là ngài ở trên đường, luôn bước ra rộng mở, không đóng lại trong sự ích kỷ của những tiện nghi vật chất, nhưng luôn can đảm mang thông điệp của Thiên Chúa đến cho người khác. Đó chính là con người của sứ mạng.

Chúng ta phải luôn tìm kiếm Thiên Chúa. Tất cả chúng ta đều ý thức rằng sẽ có những giây phút rất tồi tệ: những giây phút ta chán nản, thất vọng, chẳng còn niềm tin tưởng, những giây phút đen tối, chẳng thấy chút ánh sáng nào phía chân trời. Có những giây phút ta không thể gượng dậy được nữa. Tất cả chúng ta đều biết những điều đó. Nhưng Thiên Chúa sẽ đến, sẽ thêm sức cho chúng ta và nói: ‘Hãy đứng dậy và lên đường!’ Như vậy, để gặp được Thiên Chúa chúng ta cũng phải đứng dậy và lên đường, chờ đợi Ngài ngỏ lời với chúng ta với một con tim rộng mở. Chắc chắn, Thiên Chúa sẽ đến và nói: ‘Chính ta đây.’ Khi ấy, đức tin của chúng ta sẽ trở nên vững mạnh. Và khi ấy, chúng ta cũng được trao cho sứ mạng mang thông điệp của Chúa đến cho người khác và sức dầu cho họ.

Vũ Đức Anh Phương, SJ

 

Thăng tiến đời sống bí tích cho người khuyết tật

Thăng tiến đời sống bí tích cho người khuyết tật

Ngôn ngữ ký hiệu

Rome – Ngôn ngữ ký hiệu, ngôn ngữ ký hiệu xúc giác, ngôn ngữ thân thể là quà tặng của Chúa Thánh Thần để giúp các Ki-tô hữu chia sẻ Tin Mừng với tất cả mọi người, cha Cyril Axelrod, dòng Chúa Cứu Thế, đã khẳng định như thế. Cha Axelrod là một người điếc bẩm sinh và khi lên 16 tuổi cha cũng đã bị mù. Theo cha, dù cho có khó khăn và phức tạp thế nào thì tất cả trẻ em có quyền và cần được giáo dục tôn giáo và đến với các bí tích.

Ngày 10/6, trong ngày khai mạc năm Thánh dành cho các người khuyết tật, cha Axelrod đã dùng ngôn ngữ ký hiệu quốc tế để đưa ra những nhận xét giới thiệu ngắn gọn; sau đó cha đã nhận các câu hỏi từ cộng đoàn đa phần là các tín hữu Công giáo khiếm thính người Ý và gia đình họ.

Một người trong họ muốn biết làm thế nào mà cha Axelrod, một người gốc Do thái bị điếc, lại trở thành tín hữu Công giáo. Một người khiếm thị ở Turin thì hỏi làm sao để có một giáo xứ địa phương dạy giáo lý cho các trẻ em khuyết tật. Còn một bà mẹ của một bé gái khiếm thính ở Rome chia sẻ với cha là cha xứ của họ đã từ chối cho em được rước lễ lần đầu vì nghĩ là em không hiểu gì.

Trả lời các câu hỏi, cha Axelrod nói: “Chúa Giê-su là quà tặng cho tất cả. Đừng lo lắng về các lời nói, lời nói, lời nói. Hãy cho các trẻ em lãnh nhận Bí tích Thánh Thể”. Nhận định của cha đã được mọi người hoan hô. Cha khẳng định: “Mọi người ở mọi lứa tuổi và khả năng phải được học Giáo lý”. Cha chia sẻ: “ Cách đây nhiều năm, trước khi trở thành tín hữu Công giáo, tôi là người Do thái. Tôi nhận thấy người khiếm thính không biết điều gì về đức tin nên tôi đã muốn trở thành rabbi. Nhưng Chúa đã chọn điều khác cho tôi và tôi trở thành người Công giáo”.

Vào lúc mà ở Nam phi chưa có những dịch vụ đặc biệt cho các tín hữu Công giáo khiếm thính và không có Thánh lễ cử hành bằng các dấu hiệu. Tôi cảm thấy cách chắc chắn là họ cần nghe sứ điệp của Chúa và tôi được Chúa gọi để mang Tin Mừng cho mọi người. Ơn gọi của tôi là giúp người khiếm thị mở trái tim họ để thấy Thiên Chúa quyền năng thế nào trong cuộc sống của hợ.

Cha Axelrod đã đi khắp nơi để phục vụ cho người Công giáo khiếm thính và ủng hộ cho họ.Cha khuyến khích các phụ huynh của các em khiếm thính giúp các em học ngôn ngữ ký hiệu cấp cao để các em có thể tiếp tục tăng trưởng trong sự hiểu biết và bày tỏ đức tin của mình. Cha cũng giúp các em khiếm thính và có khó khăn về thể lý và phát triển. Cha cho biết là cha mang Tin Mừng đến cho họ và cũng chuẩn bị cho các em rước lễ lần đầu, ngay cả việc chấm Mình Thánh vào Máu Thánh để cho Mình Thánh mềm hơn cho ai gặp khó khăn về nuốt Mình Thánh để tiêu hóa.

Theo cha, các trẻ em học biết về Thiên Chúa trước hết từ việc quan sát cha mẹ của các em. Đặc biệt các em khiếm thính có một sự chú ý đến ngôn ngữ thân thể và các diễn tả trên gương mặt. Các em nhận ra niềm vui, tình thương, sự sợ hãi, nỗi buồn và lòng biết ơn. Các em có thể học biết là Chúa Giê-su, Đấng yêu thương tất cả, hiện diện trong bí tích Thánh Thể. Và các em có thể học diễn tả sự đau buồn về tội lỗi của các em trước khi đón nhận Chúa Giê-su Thánh Thể, Đấng yêu thương các em. Chúng ta có thể thấy là khi các em hiểu Chúa Giê-su ở đó, trong phép Thánh Thể, niềm vui hiện lên trên gương mặt của các em. (CNS 10/6/2016)

Hồng Thủy Op

Lễ thánh nữ Maria Madalena được nâng lên hàng lễ Kính

Lễ thánh nữ Maria Madalena được nâng lên hàng lễ Kính

Lễ thánh nữ Maria Madalena được nâng lên hàng lễ Kính

VATICAN. Theo quyết định của ĐTC Phanxicô, lễ thánh nữ Maria Madalena được nâng cấp: từ bậc lễ nhớ bắt buộc lên Lễ Kính (Festum).

Trong thông cáo và sắc lệnh công bố hôm 10-6-2016, ĐHY Robert Sarah,  Tổng Trưởng Bộ Phụng tự và kỷ luật bí tích thông báo quyết định của ĐTC và đồng thời trình bày những lý do, trong đó có đoạn viết: ”ĐTC Phanxicô đã đưa ra quyết định trên đây trong bối cảnh Năm Thánh Lòng Thương Xót, để nêu cao tầm quan trọng của người Phụ Nữ đã chứng tỏ tình yêu nồng nhiệt đối với Chúa Kitô và được Chúa Kitô yêu mến.”

Thực vậy, quyết định được đề ra trong bối cảnh Giáo Hội ngày nay đòi phải suy tư sâu xa hơn về phẩm giá phụ nữ, công việc tái truyền giảng Tin Mừng và sự cao cả của mầu nhiệm Lòng Chúa Thương Xót. Chính Thánh Gioan Phalô 2 đã dành sự chú ý lớn không những về tầm quan trọng của các phụ nữ trong sứ mạng của chính Chúa Kitô và của Giáo Hội, nhưng còn đặc biệt đề cao chức năng của thanh Maria Madalena như chứng nhân đầu tiên đã thấy Đấng Phục Sinh và là sứ giả đầu tiên loan báo cho các Tông Đồ sự sống lại của Chúa” (Xc Mulieris dignitatem, 16). (SD 10-6-2016)

G. Trần Đức Anh OP

Chứng từ của người sống sót từ cuộc diệt chủng

Chứng từ của người sống sót từ cuộc diệt chủng

Trại tập trung Auschwitz

Montreal – Leon Celemencki, một người sống sót từ cuộc diệt chủng của Đức quốc xã đã chia sẻ với các bạn trẻ Canada ở Montreal, đang chuẩn bị đến Balan tham dự đại hội giới trẻ quốc tế vào cuối tháng 7.

Trong chương trình của ngày giới trẻ, các bạn trẻ cũng sẽ đến thăm trại tập trung Auschwitz ở Balan, nơi nhiều người Do thái đã bị giết. Nổi bật trong các người bị giam ở đây có thánh Maximilian Kolbe, vị thánh đã tình nguyện chết thay cho một người cha có gia đình và con cái.

Ông Celemencki năm nay 76 tuổi, là một người gốc Do thái. Vào năm 1942, khi ông mới chỉ được 2 tuổi, bà Faiga Tabacznick, mẹ của ông đã bị quân đội Pháp bắt và đưa đến Balan. Vào lúc đó các trẻ em chưa bị bắt và trục xuất. Do đó cha ông đã gửi ông và 2 người chị gái đến trại mồ côi, một nơi an toàn hơn. Sau khi chiến tranh kết thúc, năm 1945, một đôi vợ chồng Công giáo đã nuôi 3 chị em ông. Ông bà thương yêu 3 đứa trẻ này và các em gọi họ là “ông”, “bà”. Các người thân yêu của ông: ông bà, 3 người chú bác, 7 cô dì, và nhiều anh em họ đã bị giết tại trại tập trung Auschwitz và Treblinka. Ông thường phối hợp với trung tâm tưởng niệm diệt chủng ở Montreal kể lại chuyện đời của mình cho cử tọa giới trẻ

Ông Celemencki nói ông không bao giờ đến trại tập trung Auschwitz, vì đó là một nơi khủng khiếp. Ông cảnh cáo các bạn trẻ sẽ đến đó: “Ở đó có 1 phòng chứa đầy gò tóc, rồi 1 phòng khác đầy giày dép đàn ông, đàn bà và trẻ em. Các bạn sẽ thấy những điều kinh khiếp…Tại sao người ta có thể thực hiện những hành động khủng khiếp như vậy? Nó đã xảy ra và nó không bao giờ nên tái diễn”.

Norman Levesque, người sẽ đồng hành với các bạn trẻ của phái đoàn giáo phận đi Balan nhận xét rằng cuộc gặp gỡ với các nhân chứng của nạn diệt chủng rất quan trọng cho việc chuẩn bị các thanh thiếu niên tham dự ngày giới trẻ quốc tế. Levesque đã hỏi ông Celemencki nếu ông muốn họ làm một cử chỉ đặc biệt gì ở Auschwitz, ông Celemencki trả lời là ông muốn là khi các người trẻ trở về họ sẽ nói cho mọi người những gì họ thấy ở đó và cam kết không bao giờ chấp nhận bất kỳ loại phân biệt chủng tộc hoặc chống Do Thái nào. Tất cả chúng ta đều bình đẳng, không kể tôn giáo, màu da và tất cả chúng ta mong chờ hạnh phúc. Mặt trời chiếu sáng cho tất cả. (CNS 10/6/2016)

Hồng Thủy Op