Đức Thánh Cha khuyến khích chiến dịch hòa bình cho Syria

Đức Thánh Cha khuyến khích chiến dịch hòa bình cho Syria

Đức Thánh Cha khuyến khích chiến dịch hòa bình cho Syria

VATICAN. ĐTC Phanxicô khuyến khích chiến dịch của Caritas cho hòa bình tại Siria đồng thời lên án sự tài trợ võ khí nuôi chiến tranh tại đây.

Trong sứ điệp Video phổ biến hôm 5-7-2016, ĐTC bày tỏ đau buồn vì chiến tranh tại Siria nay đã bước sang năm thứ 5. ”Đó là một tình trạng đau khổ khôn tả, nạn nhân là những người dân Syria phải sống dưới bom đạn hoặc tìm đường trốn chạy ra nước ngoài: bỏ lại nhà cửa và mọi sự..” ĐTC nói: ”Tôi cũng nghĩ đến các cộng đoàn Kitô mà tôi hoàn toàn hỗ trợ vì những kỳ thị mà họ đang phải chịu”.

”Tôi muốn ngỏ lời với tất cả các tín hữu và những người, cùng với Caritas, đang dấn thân trong việc xây dựng một xã hội công chính hơn. Trong khi dân chúng chịu đau khổ, thì số lượng tiền bạc không thể tưởng tượng nổi được chi phí cho việc cung cấp võ khí cho những người đang đánh nhau. Và một số nước cung cấp các võ khí ấy, cũng thuộc vào số những nước nói về hòa bình. Làm sao ta có thể tin những người tay phải thì vuốt ve bạn, còn tay trái thì đánh bạn”.

ĐTC nói thêm rằng: ”Tôi khuyến khích tất cả mọi người, người lớn và người trẻ, hãy hăng hãi sống Năm Lòng Thương Xót này để khắc phục sự dửng dưng lãnh đạo và mạnh mẽ tuyên bố rằng hòa bình ở Syria là điều có thể!”

”Tôi mời gọi cầu nguyện cho hòa bình ở Syria và cho nhân dân nước này nhân dịp những buổi canh thức cầu nguyện, các sáng kiến gây ý thức nơi các nhóm, trong các giáo xứ và các cộng đoàn, để phổ biến một sứ điệp hòa bình, hiệp nhất và hy vọng”.

”Kèm theo lời cầu nguyện là những hoạt động cho hòa bình – ĐTC nói – Tôi mời gọi anh chị em hãy ngỏ lời với những người can dự vào các cuộc hòa đàm để họ coi trọng các hiệp định và dấn thân làm sao để các đồ cứu trợ nhân đạo được đưa tới cho các nạn nhân một cách dễ dàng.

”Tất cả phải nhìn nhận rằng không có một giải pháp quân sự cho Syria, nhưng chỉ có một giải pháp chính trị. Vì thế cộng đồng quốc tế phải hỗ trợ các cuộc hòa đàm, tiến tới việc thiết lập một chính phủ đoàn kết quốc gia.

Và ĐTC kết luận rằng: ”Chúng ta hãy liên kết mọi nỗ lực, trên mọi cấp độ, để hòa bình trở thanh điều có thể trên đất nước Siria yêu quí. Đây sẽ là một ví dụ hùng hồn về lòng thương xót và tình yêu được sống thực sể mưu ích cho toàn thể cộng đồng quốc tế” (SD 5-7-2016)

G. Trần Đức Anh OP 

Đọc Kinh Truyền Tin với Đức Thánh Cha, Chúa Nhật 14 Thường Niên

Đọc Kinh Truyền Tin với Đức Thánh Cha, Chúa Nhật 14 Thường Niên

Buổi Đọc Kinh Truyền Tin với Đức Thánh Cha, Trưa Chúa Nhật 14 Thường Niên

VATICAN. Trong buổi đọc kinh truyền tin trưa Chúa Nhật, ngày 03.07, với vài chục ngàn tín hữu và du khách hành hương năm châu, Đức Thánh Cha Phanxicô nói rằng mỗi người chúng ta hãy biết nài xin sự giúp sức của Thiên Chúa trước cánh đồng lúa chính vàng, và chính mỗi người chúng ta cũng phải trở nên những người thợ trong cánh đồng lúa ấy để loan báo Tin Mừng đến cho hết thảy mọi người.

Bài huấn dụ của Đức Thánh Cha

“Bài đọc Tin Mừng ngày hôm nay, trích từ chương thứ 10 Tin Mừng theo Thánh Luca (Lc, 1-12.17-20), giúp chúng ta hiểu sự cần thiết của việc kêu cầu Thiên Chúa: ‘Xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về ‘(Câu 2). Những người thợ mà Đức Giêsu nói đến chính là những thừa sai của Triều Đại Thiên Chúa. Chính Thiên Chúa đã kêu gọi và sai ‘cứ từng hai người một đi trước, vào tất cả các thành, các nơi mà chính Người sẽ đến’ (Câu 1). Nhiệm vụ của các thừa sai là loan truyền thông điệp cứu độ đến tất cả mọi người. Không chỉ những nhà truyền giáo ở những nơi xa xôi, nhưng chính chúng ta cũng là những thừa sai, những người nói những lời tốt lành về ơn cứu độ. Đây chính là món quà mà Đức Giêsu đã ban tặng cho chúng ta với Thần Khí. Lời loan báo ấy là: ‘Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần các ông’ (Câu 9). Thực vậy, Đức Giêsu đã mang Thiên Chúa đến gần với chúng ta, Thiên Chúa đã trở nên một người như chúng ta; trong Đức Giêsu, Thiên Chúa cư ngụ giữa chúng ta, tình yêu thương xót của Người chiến thắng tội lỗi và đau khổ của chúng ta.

Đây là Tin Mừng mà những ‘người thợ’ phải mang đến cho tất cả mọi người: một thông điệp của sự hy vọng và của sự ủi an, của hòa bình và của lòng bác ái. Đức Giêsu, khi sai các môn đệ đi trước vào các thành thị và làng mạc, đã căn dặn các ông: ‘Trước tiên hãy nói: “Bình an cho nhà này.”… Hãy chữa trị những người đau yếu trong thành’ (Câu 5.9). Tất cả những điều này có nghĩa là Triều Đại Thiên Chúa được xây dựng từng ngày từng ngày và làm trổ sinh trên trái đất này những hoa trái của sự hoán cải, của sự thanh tẩy, của tình yêu và của sự ủi gian giữa người với người. Thật là đẹp biết bao khi người ta biết xây dựng mỗi ngày Triệu Đại Thiên Chúa. Dựng xây chứ không phá hủy.

Người môn đệ của Đức Giêsu phải thực hiện sứ vụ này với một tinh thần như thế nào? Trước hết, anh phải ý thức về thực tại khó khăn và đôi khi cả sự thù địch đang chờ đợi anh phía trước. Thật vậy, Đức Giêsu đã nói: ‘Thầy sai anh em đi như chiên con đi vào giữa bày sói’ (Câu 3). Sự thù địch bao giờ cũng là khởi đầu của những bách hại, vì Đức Giêsu biết rằng sứ vụ luôn bị cản trở bởi những hành động chống phá của ma quỷ. Vì thế, người thợ của Tin Mừng phải nỗ lực để được tự do, thoát khỏi những điều kiện nhân loại trong mọi hình thức, tức là không mang theo bao bị, túi tiền, giầy dép (Câu 4) như Đức Giêsu đã căn dặn, để chỉ tín thác vào quyền năng của Thập Giá Đức Kitô mà thôi. Điều này có nghĩa là người môn đệ phải loại bỏ mọi động cơ liên quan đến hư danh cá nhân ngõ hầu có thể trở thành khí cụ khiêm nhường của ơn cứu độ đã được thực hiện bởi sự hiến tế của Đức Giêsu, Đấng đã chết và sống lại vì chúng ta.

Trở thành những Kitô hữu như thế là một sứ mạng tuyệt vời dành cho hết mọi người, không trừ một ai; điều này đòi hỏi rất nhiều lòng quảng đại, trên hết là có cái nhìn và một tâm hồn hướng thượng để nài xin sự giúp sức của Thiên Chúa. Chúng ta đang cần rất nhiều những Kitô hữu biết làm chứng cho Tin Mừng với niềm vui tươi trong cuộc sống hằng ngày. Các môn đệ, sau khi được Đức Giêsu sai đi, đã trở về trong vui tươi hớn hở (Câu 17). Khi chúng ta được sai đi như các môn đệ, tâm hồn chúng ta cũng ngập tràn niềm vui. Sự diễn tả này làm tôi nghĩ đến niềm vui trong Giáo hội. Mẹ Giáo hội mừng vui khi con cái mình được nhận lãnh Tin Mừng nhờ sự cống hiến, dấn thân của biết bao nhiêu người trong việc rao giảng: các linh mục, các cha xứ tốt lành, các nữ tu, các tu sĩ, các thừa sai, các nhà truyền giáo. Và giờ đây, tôi nhận thấy một câu hỏi đang dấy lên trong lòng là: Liệu có bao nhiêu bạn trẻ đang hiện diện nơi đây, trong quảng trường này, nghe thấy lời mời gọi của Thiên Chúa bước đi theo Ngài? Các bạn trẻ thân mến, các con đừng sợ hãi. Hãy cảm đảm và mang đến cho người khác ngọn đuốc cháy sáng của lòng nhiệt huyết tông đồ đã được để lại bởi gương mẫu của các môn đệ.

Chúng ta hãy cầu xin Chúa, với sự bầu cử của Đức Trinh Nữ Maria, để trong Giáo Hội, đừng bao giờ thiếu những tâm hồn quảng đại, luôn lao tác làm việc nhằm mang đến cho mọi người tình yêu và sự hiền lành của Cha trên trời.

Chào mừng và mời gọi

Sau Kinh Truyền Tin, Đức Thánh Cha đã gởi lời chào thân ái đến tất cả các tín hữu ở Roma và khách hành hương đến từ Italia cũng như các quốc gia khác. Đức Thánh Cha cũng đặc biệt chào mừng các nhóm, các đoàn thể đang tề tề tựu nơi đây trong buổi đọc Kinh Truyền Tin này.  

Đức Thánh Cha cũng nói thêm rằng trong Năm Thánh Lòng Thương Xót, ngài cảm thấy niềm hạnh phúc xâu xa vì thứ tư tới đây, toàn thể Giáo hội sẽ mừng lễ thánh nữ Maria Goretti, một thánh nữ tử vì đạo. Trước lúc chết, thánh nữ sẵn lòng tha thứ cho kẻ đã sát hại mình.

Cuối cùng Đức Thánh Cha chúc tất cả mọi người ngày Chúa nhật tốt lành và ngài cũng không quên xin mọi người cầu nguyện cho ngài.

Vũ Đức Anh Phương SJ

Đức Thánh Cha sẽ viếng trại Auschwitz trong thinh lặng

Đức Thánh Cha sẽ viếng trại Auschwitz trong thinh lặng

Trại Auschwitz

VATICAN. ĐTC Phanxicô sẽ viếng thăm trại tập trung Auschwitz Birkenau bên Ba Lan vào ngày 25 tháng 7 tới đây, trong thinh lặng và cầu nguyện, sẽ không có diễn văn nào nhân dịp này.

Hôm 30-6-2016, cha Lombardi, Giám đốc Phòng báo chí Tòa Thánh xác nhận sự thay đổi trên đây. Theo chương trình do Phòng báo chí Tòa Thánh công bố hôm 29-6 trước đó, ĐTC sẽ đọc một bài diễn văn tại đài tưởng niệm ở trại Birkenau giống như Đức Gioan Phaolô 2 và Đức Biển Đức 16 đã làm. Nhưng nay, có sự thay đổi như vừa nói.

Trên chuyến bay từ Armenia về Roma hôm 26-6-2016, Cha Lombardi đã ám chỉ đến sự thay đổi đó và ĐTC trả lời. Ngài nói: ”Hồi năm 2014, khi viếng nghĩa trang quân đội Redipuglia ở miền bắc Italia, nhân kỷ niệm 100 năm thế chiến thứ I bùng nổ, tôi đã bước đi trong thinh lặng giữa các ngôi mộ. Rồi sau đó, trong thánh lễ, tôi đã giảng, nhưng đây là chuyện khác. Cũng vậy tôi muốn đến chỗ kinh hoàng tại Auschwitz Berkenau, không có diễn văn, cũng chẳng có đám đông, chỉ một vài người cần thiết. Một mình đi vào, cầu nguyện, và xin Chúa ban cho tôi ơn được khóc”.

Cha Lombardi giải thích rằng sự im lặng của ĐTC Phanxicô không có nghĩa là ngài không có gì để nói về sự kinh hoàng của cuộc diệt chủng Do thái, điều quan trọng là tưởng niệm và cần phải tiếp tục bài trừ nạn bài Do thái. Chẳng hạn ngày 17-1 năm nay, khi viếng Hội đường Do thái ở Roma, ĐTC nói:

 ”Quá khứ phải là một bài học cho chúng ta trong hiện tại và tương lai.. Cuộc diệt chủng Do thái dạy chúng ta rằng sự cảnh giác tối đa luôn luôn là điều cần thiết để mau lẹ can thiệp bảo vệ phẩm giá con người và hòa bình”. (CNS 30-6-2016)

G. Trần Đức Anh OP 

Sách mới về nội dung cuộc phỏng vấn với Đức nguyên Giáo hoàng Biển đức

Sách mới về nội dung cuộc phỏng vấn với Đức nguyên Giáo hoàng Biển đức

Đức nguyên Giáo hoàng Biển đức

Vatican – Nội dung cuộc một cuộc phỏng vấn của ký giả Peter Seewald với Đức nguyên Giáo hoàng Biển đức XVI sẽ được xuất bản trong một cuốn sách tiếng Đức có tựa đề: “Letzte Gespräche” (Các cuộc đối thoại cuối cùng) vào tháng 9 tới đây, theo nhật báo “Corriere della Sera” của Italia.

Nhật báo “Corriere della Sera” cũng cho biết cuốn sách nói về việc Đức nguyên Giáo hoàng biết đến một “nhóm đồng tính quyền lực” trong Vatican và ngài đã có thể dẹp tan quyền lực của họ; việc ngài giữ một cuốn nhật ký trong suốt triều Giáo hoàng của ngài nhưng ngài muốn đốt nó đi dù là các nhà lịch sử sẽ có thể tìm thấy nó có giá trị; sự ngạc nhiên của Đức nguyên Giáo hoàng Biển đức khi Đức Giáo hoàng Phanxicô được bầu chọn và niềm vui của ngài khi thấy cách Đức tân Giáo hoàng cầu nguyện trước công chúng và có thể giao tiếp với đám đông; việc ngài nói về những điều giống và khác nhau giữa ngài và Đức Giáo hoàng Phanxicô.

Trên trang web của mình, nhà xuất bản tiếng Đức Droemer Knaur cho biết Đức nguyên Giáo hoàng Biển đức XVI nói về những ưu tiên trong triều đại Giáo hoàng của ngài, về VatiLeaks, về Đức Giáo hoàng Phanxicô và các vấn đề gây tranh cãi về chức Giáo hoàng của mình. Ngài thảo luận những thử thách mà Giáo hội Công giáo đang đối mặt, nhưng cũng nhìn lại những kỷ niệm của gia đình và những sự kiện trong cuộc đời mình.

Khi còn là Hồng Y, Đức nguyên Giáo hoàng Biển đức cũng đã có các cuộc phỏng vấn được thực hiện bởi cùng tác giả Seewald và nội dung đã được xuất bản trong 2 cuốn sách: “Muối Đất” (xuất bản tiếng Đức năm 1996) và “Thiên Chúa và Thế Giới” (xuất bản tiếng Đức năm 2000). Sau khi được chọn làm Giáo Hoàng, ngài và cùng tác giả Seewald đã phát hành cuốn sách “Ánh Sáng Thế Gian” vào năm 2010. (CNS/CNA 1/7/2016)

Hồng Thủy Op

Đức Thánh Cha: Lòng thương xót không có việc làm là ”chết”

Đức Thánh Cha: Lòng thương xót không có việc làm là ”chết”

ĐTC trong buổi tiếp kiến chung sáng 30-6-2016

VATICAN. Trong buổi tiếp kiến chung sáng 30-6-2016, ĐTC nhắc nhở cho các tín hữu rằng ”lòng thương xót nếu không có việc làm thì tự nó chết”.

Hôm qua là buổi tiếp kiến chung được thêm vào trong Năm Thánh và là buổi cuối cùng trước mùa hè. Trong tháng 7, ĐTC ngưng các buổi tiếp kiến.

Trong bài huấn dụ về đề tài ”các công việc từ bi thương xót” trước sự hiện diện của 30 ngàn tín hữu trong đó có khoảng 50 tín hữu hành hương người Việt, ĐTC nhấn mạnh đến sự cần thiết phải bày tỏ lòng thương xót qua các công việc cụ thể. Điều làm cho lòng thương xót sinh động chính là động thái liên lỷ đi đáp ứng nhu cầu và sự cần thiết của những người nghèo khổ về tinh thần và vật chất. Lòng thương xót có mắt để thấy, có tai để nghe, có đôi tay để nâng đỡ.”

ĐTC mời gọi các tín hữu đặc biệt quan tâm nhận ra tình trạng đau khổ và túng thiếu của bao nhiêu anh chị em. Nhiều khi chúng ta đứng trước những tình trạng nghèo khổ bi thảm nhưng dường như chúng ta không cảm thấy xúc động. Tất cả diễn ra như thể không hệ gì, trong một sự dửng dưng, đến độ làm cho chúng ta trở nên giả hình và lãnh đạm, không còn tâm hồn nhạy cảm nữa, và cuộc sống không còn mang lại hoa trái.

ĐTC nhắc đến bao nhiêu khía cạnh của lòng thương xót của Thiên Chúa đối với chúng ta và ngài nói: ”Cũng vậy, bao nhiêu người tìm đến chúng ta để được lòng từ bi thương xót. Ai đã cảm nghiệm trong cuộc sống của mình lòng thương xót của Chúa Cha thì không thể không nhạy cảm trước những nhu cầu của anh chị em mình… Những công việc từ bi thương xót không phải là những đề tài lý thuyết, nhưng là những chứng tá cụ thể, đòi chúng ta phải xắn tay áo lên để thoa dịu những đau khổ của nhân loại.

Trong bài huấn dụ, ĐTC nhận xét rằng trong thế giới hoàn cầu hóa, một số nạn nghèo đói vật chất và tinh thần gia tăng, vì thế chúng ta cần có tinh thần sáng tạo về đức bác ái để đề ra những hình thức hành động mới. Nhờ đó con đường thương xót sẽ luôn trở nên cụ thể hơn”.

Trong phần thứ hai của bài huấn dụ tại buổi tiếp kiến dưới trời nắng, ĐTC nhắc đến cuộc viếng thăm mục vụ ngài mới thực hiện tại Armeni, quốc gia đầu tiên đã theo Kitô giáo, hồi đầu thế kỷ thứ 4. Armeni, một dân tộc, qua dòng lịch sử dài đã làm chứng cho đức tin Kitô bằng sự tử đạo. Ngài nồng nhiệt cám ơn Tổng thống, Đức Tổng thượng phụ Karekin II, Đức Thượng Phụ, các GM Công Giáo và toàn dân Armeni đã đón tiếp ngài.

Và ĐTC loan báo: ”Trong vòng 3 tháng nữa, nếu Chúa muốn, tôi sẽ đến thăm Cộng hòa Georgia và Azerbaigian, hai nước cùng thuộc vùng Caucase. ”Tôi nhận lời viếng thăm hai nước này vì hai lý do: một đàng là để đề cao giá trị của những căn cội Kitô kỳ cựu tại miền ấy, luôn ở trong tinh thần đối thoại với các tôn giáo và các nền văn hóa khác; đàng khác là để khích lệ những hy vọng và những con đường hòa bình. Lịch sử dạy chúng ta rằng con đường hòa bình đòi phải kiên nhẫn rất nhiều và có những bước liên tục, bắt đầu từ những bước nhỏ, và dần dần tăng trưởng thêm, đi gặp gỡ người khác. Chính vì thế tôi cầu chúc tất cả và từng người đóng góp phần của mình cho sự hòa giải” (RG 30-6-2016)

G. Trần Đức Anh OP 

Lời cầu nguyện mở ra lối thoát trong cuộc sống cá nhân và cộng đoàn

Lời cầu nguyện mở ra lối thoát trong cuộc sống cá nhân và cộng đoàn

ĐTC Phanxicô chủ sự thánh lễ kính hai thánh Tông Đồ Phêrô Phaolô và làm phép dây Pallium sáng 29-6-2016

Lời cầu nguyện giúp thắng vượt các khéo kín và cho phép ơn thánh mở một lối ra trong cuộc sống chúng ta: từ khép kín tới rộng mở, từ sợ hãi tới can đảm, từ buồn phiền tới niềm vui. Và chúng ta có thể thêm từ sự chia rẽ tới hiệp nhất.

ĐTC Phanxicô đã nói như trên trong bài giàng thánh lễ cử hành lúc 9 giở 30 sáng 29-6-2016, lễ kính hai thánh Tông Đồ Phêrô Phaolô. Cùng đồng tế với ĐTC có 40 Hồng Y, 75 Tổng Giám Mục và Giám Mục, trong đó có 25 Tổng Giám Mục nhận dây Pallium và 300 linh mục.

Trong số các Tổng Giám Mục nhân dây Pallium có 4 vị người Ý, 4 vị Brasil, các nước Tây Ban Nha, Mêhicô và Ecuador mỗi nuớc 2 vị, các nước Pháp, Bỉ, Thổ Nhĩ Kỳ, Cuba, quần đảo Antille, Ba Lan, Myanmar, Benin, Mỹ, đảo Salomon mỗi nước 1 vị.

Hiện diện trong thánh lễ có gần 10,000 tín hữu đặc biệt là phái đoàn của Toà Thượng Phụ Chính Thống Costantinopoli, gồm Đức Methodios TGM Boston, ĐC Telmessos, ĐC Job và Trưởng Phó tế Nephon Tsemalis.

Đảm trách phần thánh ca trong thánh lễ ngoài ca đoàn Sistina của Toà Thánh, còn có mấy ca đoàn khách. 

Các bài đọc bằng tiếng Anh và Tây Ban Nha, Thánh vịnh được hát bằng tiếng Ý và Phúc Âm được hát bằng tiếng Latinh. Các lời nguyện giáo dân đã được đọc bằng các thứ tiếng Pháp, Ba Lan, Bồ Đào Nha, Tầu và Ý.

Sau lời chào mở đầu, các Phó tế đã xuống trước mộ của Thánh Phêrô lấy các khăn Pallium để ở đây lên. Tiếp theo sau là phần giới thiệu các Tổng Giám Mục được nhận dây Pallium và lời thề của các vị. Dây Pallium được làm bằng lông chiên có 5  thánh giá mầu đen. Ngay từ hồi thế kỷ thứ IV nó đã được ĐGH dùng. Có lẽ nó đã là một dấu hiệu của hoàng đế, sau này được dùng cho các Giám Mục. Dây Pallium biểu tượng cho sự hiệp nhất của các Tổng Giám Mục với Đức Giáo Hoàng, là người kế vị thánh Phêrô. Sau này nó đuợc ĐGH là Giám Mục Rona trao cho các Tổng Giám Mục, nhất là dưới thời ĐGH Gregorio VII sau năm 1000, khi có nhu cầu kiểm soát việc lựa chọn các Giám Mục. Kể từ đó các Tổng Giám Mục đến Roma để nhận dây Pallium. Sau đó dây Pallium cũng được ban cho các vị không phải là Tổng Giám Mục như là một dấu hiệu danh dự. Vào thập niên 1970 Đức Phaolô VI đã cải cách hình thức trao dây Pallium, vì thế ngày nay nó chỉ được ban cho các Tổng Giám Mục mà thôi trong ngày lễ kính hai thánh Phêrô Phaolô 29 tháng 6 hàng năm, để nêu bật sự hiệp nhất gắn bó của các vị với Ngài Toà Thánh Phêrô. Trong suốt ngàn năm đầu tiên của Giáo Hội dây Pallium biểu tượng cho con chiên lạc và mục tử mang nó trên vai trái. Đó là hình chúng ta tìm thấy trên các ảnh vẽ icone trên gỗ và trên các bức khảm đá mầu. Sau ngàn năm thứ nhất dây Pallium thay đổi hình thức, nó được mang trên cổ và có ý nghĩa khác. Năm hình thánh giá đỏ ám chỉ 5 dấu thánh Chúa. Ba dấu thánh giá diễn tả 3 chiếc đinh đóng vào người Chúa Giêsu. Như thế dây Pallium đặc biệt có ý nghĩa kitô học, diễn tả Chúa Kitô Mục Tử Nhân Lành. Ngày này dây Pallium bao gồm tất cả các ý nghĩa kể trên và biểu hiệu cho Mục Tử Nhân Lành hy sinh mạng sống cho đoàn chiên.

Giảng trong thánh lễ ĐTC nói:

Lời Chúa trong phụng vụ chứa đựng một từ kép chính yếu: đóng – mở. Chúng ta cũng có thể để bên cạnh hình ảnh này biểu tượng của các chià khóa, mà Chúa Giêsu hứa ban cho Simon Phêrô để ông có thể mở cửa vào Nước Trời, chứ không đóng nó trước người ta, như vài ký lục và người pharisêu mà Chúa Giêsu quở trách, đã làm (c. Mt 23,13).

Bài đọc sách Tông Đồ Công Vụ (12,1-11) trình bầy với chúng ta ba cái đóng: thánh Phêrô bị đóng trong ngục; cộng đoàn đóng cửa chăm chú cầu nguyện; và trong bối cảnh gần với văn bản của chúng ta – sự đóng cửa nhà bà Maria, mẹ của Gioan gọi là Marco, nơi Phêrô tới gõ cửa  sau khi được giải thoát.

Liên quan tới các đóng kín này, lời cầu nguyện xem ra như là lối ra chính: lối ra cho cộng đoàn, có nguy cơ đóng kín trong chính mình vì cuộc bách hại và vì sợ hãi; lối ra cho Phêrô, còn đang ở trong giai đoạn đầu của sứ mệnh do Chúa trao phó, bị vua Hêrôđê tống ngục và có nguy cơ  bị kết án tử. Trong khi thánh Phêrô ở trong tù, thì “Giáo Hội liên lỉ dâng lên Chúa lời cầu nguyện khẩn thiết cho ông” (Cv 12,5). Và Chúa đáp trả lời cầu nguyện và sai thiên thần tới giải thoát ông, “giật thoát ông khỏi tay vua Hêrôđê (c. 11). Lời cầu nguyện như là việc khiêm tốn tín thác nơi Thiên Chúa và thánh ý Ngài, luôn luôn là lối ra cho các khép kín cá nhân và công đoàn của chúng ta.

Tiếp tục bài giảng ĐTC nói: Cả  thánh Phaolô, khi viết thư cho Timôthê, cũng nói về kinh nghiệm giải thoát của ngài, kinh nghiệm đi ra khỏi nguy hiểm bị kết án tử; nhưng Chúa đã ở gần ngài và ban cho ngài sức mạnh, để ngài có thể hoàn thành công trình rao giảng Tin Mừng cho muôn dân (x. 2 Tm 4,17). Nhưng Phaolô nói tới một rộng mở lớn lao hơn nhiều, hướng tới một chân trời vô cùng rộng rãi hơn: chân trời của cuộc sống vĩnh cửu, trước hết để đem Chúa Kitô tới cho những người không biết Chúa, và rồi để ném mình vào trong vòng tay ôm của Chúa và được Chúa cứu thoát đem lên trời trong nước Ngài” (c. 8).

Chúng ta hãy trở lại với thánh Phêrô. Trình thuật Tin Mừng (Mt 16,13-19) về lời tuyên xưng đức tin và sứ mệnh theo sau mà Chúa Giêsu tín thác cho thánh Phêrô cho thấy rằng cuộc sống của Simon – bác thuyền chài người Galilê  – như là cuộc sống của từng người trong chúng ta – mở ra, hoàn toàn mở ra, khi nó tiếp nhận ơn thánh đức tin từ Thiên Chúa Cha. Khi đó Simon lên đường – một con đường dài và cam go – sẽ đưa ông tới chỗ ra khỏi chính mình, ra khỏi các an ninh nhân loại của mình, nhất là ra khỏi sự kiêu căng lẫn lộn với can đảm và với lòng quảng đại yêu thương tha nhân. Trên lộ trình này của cuộc giải thoát của ông, lời cầu nguyện của Chúa Giêsu thật là định đoạt: “Thầy đã cầu nguyện cho anh, để đức tin của anh không thuyên giảm” (Lc 22,32). Nhưng cũng định đoạt cái nhìn tràn đầy cảm thương của Chúa, sau khi Phêrô đã chối Ngài ba lần: một cái nhìn đánh động con tim và tháo cởi các giọt nước mắt của sự hối hận (x. Lc 22,61-62).. Khi đó Simon đưọc giải thoát khỏi ngục tù của cái tôi kiêu căng và sợ hãi, và thắng vượt cám dỗ khép kín với lời mời Chúa Giêsu mời gọi theo Ngài trên con đường thập giá.

Như tôi đã nhấn mạnh, trong bối cảnh của sách Tông Đồ Công Vụ có một chi tiết chúng ta có thể ghi nhận (x. 12,12-17). Khi Phêrô được giải thoát ra khỏi ngục của vua Hêrôđê một cách lạ lùng, ông đến nhà bà mẹ của Gioan gọi là Marcô. Ông gõ cửa, và từ bên trong một đầy tớ gái tên là Rođê nhận ra tiếng Phêrô, nhưng thay vì mở cửa thì lại đầy nghi ngờ và vui mừng chạy vào báo cho bà chủ biết. Trình thuật xem ra tức cười, khiến cho chúng ta nhận thức được bầu khí sợ hãi mà cộng đoàn kitô đã sống, đóng kín trong nhà và cũng khép kín với cả các ngạc nhiên của Thiên Chúa nữa. Chi tiết này nói với chúng ta về cám dỗ luôn luôn hiện hữu đối với Giáo Hội: cám dỗ khép kín trong chính mình, khép kín trước các hiểm nguy.  Nhưng ở đây cũng có lốc xoáy, qua đó hoạt động của Chúa có thể đi ngang qua: thánh sử Luca nói rằng trong nhà đó “nhiều người họp nhau và cầu nguyện” (v. 12). ĐTC giải thích thêm như sau:

Lời cầu nguyện cho phép ơn thánh mở một lối ra: từ khéo kín tới rộng mở, từ sợ hãi tới can đảm, từ buồn phiền tới niềm vui. Và chúng ta có thể thêm từ sự chia rẽ tới hiệp nhất. Phải, hôm nay chúng ta nói lên điều này với sự tin tưởng cùng với các anh em của Phái đoàn, do ĐTC đại kết Bartolomeo thân mến gửi tới tham dự lễ hai thánh Bổn Mạng của Roma. Một ngày lễ của sự hiệp thông đối với toàn thể Giáo Hội như cũng minh nhiên sự hiện diện của các Tổng Giám Mục đến tham dự lễ làm phép các dây Pallium sẽ được các vị đại diện của tôi đeo cho các vị tại các toà địa phương.

Xin các thánh Phêrô Phaolô bầu cử cho chúng ta, để chúng ta có thể tươi vui hoàn thành lộ trình này, sống kinh nghiệm hoạt động giải thoát của Thiên  Chúa và làm chứng cho nó trước tất cả  mọi người.

Lúc 12 giờ trưa ĐTC đã ra cửa sổ Dinh Tông Toà đọc kinh Truyền Tin với hàng chục ngàn tín hữu tụ tập tại quảng trường dưới trời nóng 34 độ C của mùa hè Roma. Ngỏ lời với mọi người ĐTC nói: hôm nay lễ hai thánh Tông Đồ Phêrô Phaolô chúng ta chúc tụng Chúa vì lời rao giảng và chứng tá của các vị. Giáo Hội Roma được xây trên đức tin của hai vị Bổn Mạng của mình. Nhưng hai vị cũng là rường cột và là ánh sáng lớn chiếu soi không những trên bầu trời Roma mà cả trong con tim của các tín hữu Đông và Tây Phương nữa. Trình thuật sứ mệnh của các Tồng Đồ cho biết Chúa Giêsu gửi các môn đệ ra đi cứ hai người một (x, Mt 10,1; Lc 10,1). Trong một nghĩa nào đó từ Thánh Địa hai thánh Phêrô Phaolô cũng đã được gửi tới Roma để rao giảng Tin Mừng. Hai vị đã là những người rất khác nhau: thánh Phêrô một bác “thuyền chài khiêm tốn”, thánh Phaolô “bậc thầy và tiến sĩ” như phụng vụ hôm nay nói. Nhưng nếu ở Roma này chúng ta được biết Chúa Giêsu, và nếu đức tin kitô là phần sống động và nền tảng của gia tài tinh thần và nền văn hóa của vùng đất này, thì cũng là nhờ lòng can đảm tông đồ của hai người con này của vùng Cận Đông. Vì tình yêu đối với Chúa Kitô, hai vị đã bỏ quê hương, không lo lắng trước các khó khăn của cuộc du hành dài và các hiểm nguy cũng như các nghi ngờ có thể gặp, và đã đến Roma. Nơi đây các vị đã là những người loan báo và chứng nhân của Tin Mừng giữa dân chúng, và đóng ấn sứ mệnh đức tin và lòng bác ái của mình với cuộc tử đạo.

Ngày này hai thánh Phêrô và Phaolô trở lại trong tinh thần  giữa chúng ta, các vị rong ruổi trên các con đường của thành phố này, gõ cửa nhà của chúng ta, nhưng nhất là gõ cửa con tim chúng ta. Các ngài muốn một lần nữa đem Chúa Giêsu, tình yêu thương xót, sự ủi an và hoà bình của Chúa Giêsu tới cho chúng ta. Chúng ta hãy tiếp nhận sứ điệp của các ngài! Chúng ta hãy lấy chứng tá của các ngài làm kho tàng của mình. Đức tin ngay thẳng và vững vàng của thánh Phêrô, con tim vĩ đại và hoàn vũ của thánh Phaolô sẽ giúp chúng ta là các kitô hữu tươi vui, trung thành với Tin Mừng và cởi mở cho sự gặp gỡ với mọi người.

ĐTC cũng nhắc cho mọi người biết trong thánh lễ ban sáng ngài đã làm phép các dây Pallium của các Tổng Giám Mục được chỉ định trong năm qua thuộc nhiều nước. Ngài chào và chúc mừng các vị, cũng như thân nhân và những người tháp tùng các vị hành hương tới Roma. ĐTC khích lệ các vị tươi vui tiếp tục sứ mệnh phục vụ Tin Mừng trong niềm hiệp thông với toàn thể Giáo Hội, đặc biệt là với Ngai Toà thánh Phêrô, như dấu chỉ dây Pallium diễn tả. ĐTC cũng chào phái đoàn Giáo Hội Chính Thống do Đức Thượng Phụ Bartolomaios Giáo chủ chính thống Costantinopoli gửi sang tham dự thánh lễ hai thánh Bổn Mạng của Giáo Hội Roma. Sự hiện diện của phái đoàn là dấu chỉ các mối dây huynh đệ giữa hai Giáo Hội chúng ta. Chúng ta hãy cầu nguyện để các mối dây liên kết hiệp thông và làm chứng tá chung ngày càng mạnh mẽ hơn.

Chúng ta hãy phó thác toàn thế giới và đặc biệt thành Roma này cho Đức Trinh Nữ Maria, Sự cứu rỗi của dân Roma, để nó có thể luôn tìm thấy nơi các giá trị tinh thần và luân lý nền tảng phong phú cho cuộc sống xã hội và sứ mệnh của nó tại Italia, trong Âu châu và trên thế giới.

Tiếp đến ĐTC đã đọc kinh Truyền Tin và ban phép lành Toà Thánh cho mọi người.

Linh Tiến Khải

Đức nguyên Giáo Hoàng Biển Đức 16 kỷ niệm 65 năm Linh Mục

Đức nguyên Giáo Hoàng Biển Đức 16 kỷ niệm 65 năm Linh Mục

Đức nguyên Giáo Hoàng Biển Đức 16 kỷ niệm 65 năm Linh Mục

VATICAN. Trưa ngày 28-6-2016, Đức nguyên Giáo Hoàng Biển Đức 16 đã mừng kỷ niệm 65 năm Linh Mục.

Ngài thụ phong ngày 29-6 năm 1951 tại Nhà thờ Chính Tòa Freising của Tổng giáo phận Munich-Freising, cùng với anh ruột Georg và 42 bạn đồng môn.

Hiện diện tại sảnh đường Clementina trong dinh Tông Tòa, đặc biệt có ĐTC Phanxicô, đông đảo các vị Hồng Y và thủ lãnh các cơ quan trung ương Tòa Thánh.

Lên tiếng sau bài ca chúc mừng của Ca đoàn Sistina, ĐTC Phanxicô nhắc đến một nét nổi bật trong ơn gọi LM của Đức nguyên Giáo Hoàng là câu hỏi của Chúa Giêsu ”Hỡi Simon, con có yêu mến Thầy không?” (Ga 21,15-19). ”Đây là nét trổi vượt trong toàn đời sống phục vụ như LM và thần học gia mà Ngài (Đức nguyên Giáo Hoàng) không ngại định nghĩa là ”sự tìm kiếm Đấng được yêu mến”: đó là điều Ngài vẫn luôn đã và đang làm chứng ngày nay: điều quyết định trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta, chính là Chúa thực sự hiện diện, Đấng mà chúng ta mong ước và gần gũi Người trong nội tâm, Đấng mà chúng ta yêu mến và thực sự tin tưởng, tin rằng Chúa thực sự yêu thương chúng ta”.. Chính khi sống và làm chứng một cách khẩn trương và sáng ngời điều duy nhất thực sự quan trọng như thế mà Ngài vẫn tiếp tục phục vụ Giáo Hội, không ngừng góp phần mạnh mẽ vào sự tăng trưởng của Giáo Hội và Ngài thi hành điều đó trong Đan viện bé nhỏ Mẹ Giáo Hội ở Vatican…”.

ĐHY Gerhard Mueller, Tổng trưởng Bộ giáo lý đức tin, cũng chúc mừng Đức nguyên Giáo Hoàng và trao cho ngài cuốn đầu tiên trong bộ sách tuyển tập tựa đề ”Dạy và học Tình Yêu Thiên Chúa”. ĐHY nói: Xét cho cùng, qua tựa đề đó có nói lên tất cả: chúng ta được kêu gọi dạy điều mà chúng ta đã học được nơi Tình Yêu Thiên Chúa.

ĐHY Angelo Sodano, niên trưởng Hồng Y đoàn, đã ngỏ lời chúc mừng Đức Biển Đức 16 và nhắc lại bài giảng thánh lễ của Người hồi tháng 9 năm 2006 tại Nhà thờ chính tòa Freising, nơi Người thụ phong. Trong bài giảng ấy, ĐGH Biển Đức 16 kể lại rằng: ”Khi tôi nằm phủ phục trên mặt đất như được kinh cầu các thánh bao phủ, tôi ý thức rằng trên con đường này chúng tôi không lẻ loi, nhưng có hàng ngũ đông đảo các thánh đồng hành với chúng tôi và các thánh vẫn còn sống, nghĩa là các tín hữu hôm nay và ngày mai, họ đang nâng đỡ và đồng hành với chúng tôi. Rồi đến nghi thức đặt tay và khi ĐHY Faulhaber nói với chúng tôi: ”Từ nay Thầy không gọi các con là tôi tớ, nhưng là bạn hữu”, lúc ấy tôi cảm nghiệm thấy rằng việc truyền chức linh mục giống như một sự khai tâm trong cộng đoàn các bạn hữu của Chúa Giêsu, họ được kêu gọi ở với Chúa và loan báo sứ điệp của Ngài”.

ĐHY Sodano cũng nhắc đến sự mô tả của Đức nguyên Giáo Hoàng về bản chất sứ điệp mà các linh mục được kêu gọi loan báo trên thế giới, nghĩa là các LM phải mang đến cho con người ngày nay ”Ánh sáng của Thiên Chúa và Tình Yêu của Thiên Chúa”.

ĐHY cũng nhận xét rằng khi đọc lại những lời của Đức Nguyên Giáo HOàng ngày nay, chúng ta thấy như một sự đi trước Giáo huấn của ĐGH Phanxicô, Người luôn mời gọi chúng ta hãy đi gặp những người đau khổ nhất, mang lại cho họ tình yêu thương huynh đệ của chúng ta. Đó cũng là đại sứ điệp của Năm Thánh Lòng Thương Xót chúng ta đang cử hành.

ĐHY niên trưởng Hồng Y đoàn cũng xin Đức Nguyên Giáo Hoàng ”đang ở trên núi” chuyên chăm sứ mạng cầu nguyện và suy niệm, tiếp tục cầu nguyện cho Giáo Hội và các tín hữu.

Buổi lễ mừng kết thúc với lời cám ơn chân thành của Đức nguyên Giáo Hoàng Biển Đức 16 đối với ĐTC Phanxicô vì lòng nhân từ ngay từ đầu đối với Ngài và cám ơn ĐHY Sodano và Mueller cũng như tất cả các Hồng Y và mọi người khác.

 Sau bản nhạc của Ca đoàn Sistina, các Hồng Y còn ở lại bắt tay và chúc mừng Đức đương kim Giáo Hoàng và vị Tiền Nhiệm (SD 28-6-2016)

G. Trần Đức Anh OP

Nhận định về chuyến viếng thăm Armenia của Đức Thánh Cha Phanxicô

Nhận định về chuyến viếng thăm Armenia của Đức Thánh Cha Phanxicô

Đức Thánh Cha Phanxicô và Đức Tổng Thương phụ Karekin II

Chuyến viếng thăm Cộng hòa Armenia của Đức Thánh Cha Phanxicô đã kết thúc và được đánh giá là thành công. Sau đây là một vài nhận định của cha Andrea Majewski, Giám đốc các chương trình của Đài phát thanh Vatican và cha Federico Lombardi, Giám đốc Phòng Báo chí Tòa Thánh.

Theo cha Majewski, người dân Armenia rất yêu mến Đức Thánh Cha. Số người hiện diện trong các sinh hoạt của Đức Thánh Cha tại đây thật đông đảo. Đã có khoảng 50 ngàn người hiện diện trong buổi cầu nguyện tại thủ đô Yerevan và trong Thánh lễ của Giáo Hội Armenia Tông truyền vào  sáng Chúa nhật tại quảng trường San Tiridate ở Etchmiadzin số người tham dự cũng không kém đi.

Một điều mà chúng ta ngạc nhiên và người ta nói nhiều đến là Đức Thánh Cha được yêu mến như thế nào ở Armenia. Tên của ngài được nhắc đến 2 lần trong cử hành Thánh Thể. Một điều nữa rất quan trọng là sự vỗ tay nồng nhiệt trong các cuộc gặp của Đức Thánh Cha, những phản ứng sống động của dân chúng, của các Giám mục; nhất là vào cuối buổi nói chuyện của Đức Thánh Cha, ngài đã xin Đức Tổng Thượng Phụ Giáo hội Armenia Tông truyền chúc lành cho ngài. Tất cả các Giám mục đông phương tông truyền đều đứng dậy và cử chỉ này đã đánh động lòng người dân Armenia vô cùng.

Cha nhận định: Cuộc viếng thăm của Đức Thánh Cha gần kết thúc và đối với quốc gia này, đây là một phút giây lịch sử: Đức Thánh Cha đã muốn cầu nguyện với dân Armeni, muốn gần gũi họ trong một giai đoạn không phải là dễ dàng, bởi vì chúng ta biết là Armenia đang sống trong thời gian không an bình lắm trong lịch sử của họ. Chúng ta trở về Roma với đầy những ấn tượng tốt về quốc gia này nhưng trên hết là lòng hiếu khách và tình yêu mà dân Armenia dành cho Đức Thánh Cha.

Còn cha Lombardi thì đánh giá chuyến đi của Đức Thánh Cha là một thành công lớn. Cha cho biết chuyến đi của Đức Thánh Cha có 3 chiều kích căn bản và tất cả được vinh quang với thành công lớn. Cuộc gặp gỡ của Đức Thánh Cha với dân tộc Armenia, dân tộc rất thích sự gần gũi, sự hiểu biết về lịch sử và truyền thông Kitô giáo của ngài. Một số giây phút quan trọng như cuộc gặp ở dinh Tổng thống và trên tất cả là buổi cầu nguyện đại kết ở quảng trường Yerevan, một sự kiện hoàn toàn ngoại thường vì đó là một cuộc “trình diễn” tôn giáo: cầu nguyện tại một nơi công cộng với tất cả đại diện, cả đại diện quốc gia. Cha tin điều này chưa bao giờ xảy ra.

Về khía cạnh đại kết, sự tiếp đón của Đức Tổng Thượng phụ của Giáo hội Armenia Tông truyền thật là tuyệt diệu. Đức Thánh Cha đã lưu trú tại Tòa Thượng Phụ 3 ngày và như thế chắc chắn sẽ có những giây phút gặp gỡ sâu sắc và chân thành. Rồi có những lần cầu nguyện đại kết cụ thể như lần viếng thăm nhà thờ chánh tòa thánh Gregorio Vị soi sáng hay Thánh lễ của Armenia tông truyền vào sáng Chúa nhật. Vào cuối cuộc viếng thăm, Đức Thánh cha và Đức Tổng thượng phụ đã cùng ký một tuyên ngôn. Trong các bài diễn văn của Đức Thánh Cha chúng ta cũng nhận thấy giọng văn khuyến khích việc đại kết, đối thoại, hiệp nhất về mục đích và tiến tới sự hiệp nhất Thánh Thể. Cha Lombardi nhận định: một bước quan trọng trong hành trình đại kết với Giáo hội đông phương này rất có ý nghĩa, bởi vì thực tế nó đồng hóa với Quốc gia Armenia.

Cuộc viếng thăm của Đức Thánh Cha cũng là sự khích lệ cho các tín hữu Công giáo Armenia, một cộng đoàn thiểu số, một cộng đoàn tương đối nhỏ nhưng rất sống động và tham dự vào đời sống của quốc gia. Họ cảm thấy được sự hiện diện của vị mục tử phổ quát và do đó họ có thể đạt đến sự hữu hình của họ với Thánh lễ tại quảng trường ở Gyumri: họ có thể cho Đức Thánh Cha thấy hoạt động bác ái của họ, cô nhi viện và các hoạt động bác ái khác. Do đó nó cũng là một ngày hội lớn cho công giáo Armenia cả ở tại Armenia cũng như hải ngoại. Nhiều người Armenia, cả công giáo lẫn tông truyền trở về Armenia trong dịp này, ví dụ: có sự hiện diện của tất cả Giám mục Công giáo Armeni cùng cử hành Thánh lễ với Đức Thánh Cha. Tất cả các khía cạnh này được thực hiện tràn đầy và chúng ta có thể nói là sự hiện diện của Đức Thánh Cha ở đây, như mọi khi, ngài muốn là một sứ điệp của hòa bình cho vùng đất này với hy vọng điều này được hiểu và hưởng ứng. (RV 26/6/2016)

Hồng Thủy Op

Đức Thánh Cha viếng thăm Đan viện Khor Virap của Armenia

Đức Thánh Cha viếng thăm Đan viện Khor Virap của Armenia

Đức Thánh Cha viếng thăm Đan viện Khor Virap của Armenia

YEREVAN. Hoạt động cuối cùng của ĐTC Phanxicô tại Armeni là cuộc viếng thăm Đan viện Khor Virap, một trong những nơi thánh quan trọng nhất của Giáo hội Armenia.

Lúc gần 4 giờ chiều chúa nhật 26-6-2016, tại Edchmiadzin, trụ sở của Giáo Hội Armenia Tông Truyền, ĐTC và Đức Tổng Thượng Phụ Karekin II đã gặp gỡ khoảng 100 người gồm các đại biểu và ân nhân của Giáo Hội này đã cộng tác vào việc chuẩn bị và tiến hành chuyến viếng thăm của ngài tại Armenia trong 3 ngày qua. Hai vị chào thăm từng người và chụp hình lưu niệm với họ, trước khi cùng lên đường đến Đan viện cổ kính Khor Virab cách đó 41 cây số. Đan viện tọa lạc trên một ngọn đồi giáp giới với Thổ nhĩ kỳ, và ở dưới chân ngọn núi Ararat, theo lưu truyền Con tàu của Ông Noe đã trôi tới núi trong trận hồng thủy.

Khor Virab có nghĩa là ”Giếng Sâu”, bắt nguồn từ sự tích cái giếng sâu 40 mét nơi thánh Gregorio Vị Soi Sáng bị vua Tiridate III cầm tù trong 13 năm trời, trước khi thánh nhân chữa cho nhà vua lành bệnh và hoán cải Vua cùng toàn thể triều đình và quốc dân Armeni vào năm 301.

Đến thế kỷ thứ 5, một đan viện được xây trên nơi trước kia là nhà tù rồi một huynh đoàn cũng được thành lập tại đây. Trong thế kỷ 12 và 13, Đan viện trở thành một trung tâm nghiên cứu nổi tiếng và là nơi đào tạo những nhân vật nổi bật trong đời sống tôn giáo và văn hóa của Armenia. Nhà thờ được xây trên giếng thánh Gregorio sâu 6 mét rưỡi so với mặt đất và trở thành nơi hành hương thu hút tín hữu từ các nơi trong nước.

Năm 1679, một trận động đất dữ dội đã tàn phá Đan viện, nhưng rồi cơ sở này dần dần được tái thiết, rồi được thêm nhiều phần khác trong đó có tháp chuông.

Ngày nay Đan viện này thuộc chủ quyền của Tòa Tổng Thượng vụ Armenia tông truyền va cách đây gần 15 năm, Đức Gioan Phaolô 2 cũng đã tới đây hành hương ngày 27-9 năm 2001, vào cuối cuộc viếng thăm 3 ngày của ngài ở Armenia.

Khi đến đây vào lúc 5 giờ chiều, ĐTC và Đức Tổng Thượng Phụ Karekin II được vị Bề trên đan viện tiếp đón và hướng dẫn lên tới phòng gọi là ”Giếng thánh Gregorio”. Tại đây hai vị cùng thắp lên một ngọn nến sáng, tượng trưng ánh sáng đức tin mà Thánh Gregorio đã rao giảng cho Armeni. Rồi hai vị đọc lời nguyện và Kinh Lạy Cha.

Sau khi ban phép lành cho mọi người hiện diện, hai vị Giáo Chủ tiến ra khuôn viên bên ngoài cho đến sân thượng hướng nhìn về núi Ararat và cùng thả hai con chim bồ câu trắng, tượng trưng cho hòa bình.

Liền đó, các vị ra phi trường quốc tế Zvartnots của thủ đô Yerevan cách đó gần 50 cây số. Tại đây, tổng thống Armenia cùng phu nhân và các quan chức chính phủ cũng như các vị lãnh đạo Giáo Hội đã có mặt để tiễn biệt.

Sau 4 giờ bay, chiếc Airbus A321 của hãng Alitalia chở ĐTC, đoàn tùy tùng và 70 ký giả cùng đi, đã về đến phi trường Ciampino của thành phố Roma lúc quá 8 giờ rưỡi tối.

Trên đường về Vatican, như thông lệ, ĐTC đã ghé lại Đền thờ Đức Bà Cả để dâng hoa cám ơn Đức Mẹ là phần rỗi của dân Roma đã phù hộ cho chuyến viếng thăm của ngài tại Armenia.

G. Trần Đức Anh OP

 

Tuyên ngôn chung của Đức Thánh Cha và Đức Thượng Phụ Armenia

Tuyên ngôn chung của Đức Thánh Cha và Đức Thượng Phụ Armenia

Tuyên ngôn chung của Đức Thánh Cha và Đức Thượng Phụ Armenia

YEREVAN. Vào cuối cuộc viếng thăm tại Armeni chiều ngày 26-6-2016, ĐTC Phanxicô và Đức Tổng Thượng Phụ Karekin II của Giáo Hội Armeni Tông Truyền đã ký và công bố một tuyên ngôn chung, toàn văn như sau:

 ”Hôm nay tại Thánh Thánh Etchmiadzin, trung tâm tinh thần của tất cả mọi người Armeni, chúng tôi, Giáo Hoàng Phanxicô và Karekin II, Tổng Thượng Phụ của tất cả mọi người Armeni, nâng tâm trí lên để cảm tạ Đấng Toàn Năng vì sự gần gũi liên lỷ và gia tăng trong đức tin và trong tình yêu giữa Giáo Hội Armeni Tông Truyền và Giáo Hội Công Giáo trong việc làm chứng tá chung cho sứ điệp Tin Mừng trong một giới bị xâu xé vì những cuộc xung đột, và đang mong ước được an ủi và hy vọng. Chúng tôi chúc tụng Chúa Ba Ngôi cực thánh, Cha, Con và Thánh Thần, vì đã cho chúng tôi đến phần đất Ararat này của Kinh Thánh, ngọn núi này vươn lên như để nhắc nhở chúng ta rằng Thiên Chúa vẫn luôn là Đấng bảo vệ và cứu độ chúng ta. Chúng tôi hài lòng nhắc lại rằng năm 2001, nhân dịp kỷ niệm 1700 năm tuyên bố Kitô giáo là tôn giáo của Armeni, Thánh Gioan Phaolô 2 đã viếng thăm Armeni và đã chứng kiến một trang sử mới về quan hệ nồng nhiệt và huynh đệ giữa Giáo Hội Armeni Tông Truyền và Giáo Hội Công Giáo. Chúng tôi cảm tạ vì được ơn ơn cùng nhau trong buổi phụng vụ trọng thể tại Đền thờ Thánh Phêrô ở Roma ngày 12-4-2015, trong đó chúng tôi đã quyết tâm chống lại mọi hình thức kỳ thị và bạo lực, và chúng tôi đã tưởng niệm các nạn nhân của điều mà Tuyên ngôn chung của ĐTC Gioan Phaolô 2 và Đức Tổng Thượng Phụ Karekin II đã gọi là ”cuộc tiêu diệt một triệu rưỡi Kitô hữu Armeni, thường được gọi là cuộc diệt chủng đầu tiên trong thế kỷ 20” (27-9-2001).

 Chúng tôi chúc tụng Chúa vì ngày hôm nay, đức tin Kitô lại là một thực tại sinh động tại Armeni, và Giáo Hội Armeni tiếp tục thi hành sứ mạng của mình với một tinh thần cộng tác huynh đệ giữa các Giáo Hội, nâng đỡ các tín hữu trong việc xây dựng một thế giới liên đới, công lý và hòa bình.

 Nhưng đáng tiếc là chúng ta đang chứng kiến một thảm trạng lớn lao đang xảy ra trước mắt chúng ta: vô số người vô tội bị giết, bị lưu đày hoặc phải lưu vong đau thương và bất định, vì những cuộc xung đột liên tục về chủng tộc, chính trị và tôn giáo tại Trung Đông và các nơi khác trên thế giới. Hậu quả là các nhóm thiểu số về chủng tộc và tôn giáo trở thành đối tượng cho các cuộc bách hại và đối xử tàn ác, đến độ những đau khổ ấy, vì lý do thuộc về một tôn giáo, đã trở thành một thực tại thường nhật. Các vị tử đạo thuộc tất cả các Giáo Hội và những đau khổ của họ tạo thành một ”phong trào đại kết bằng máu” vượt lên trên những chia rẽ lịch sử giữa các Kitô hữu, kêu gọi tất cả chúng ta hãy thăng tiến sự hiệp nhất hữu của mọi môn đệ Chúa Kitô. Cùng nhau chúng tôi cầu nguyện, nhờ lời chuyển cầu của các thánh Tông Đồ Phêrô và Phaolô, Tađeo và Bartolomeo, để có một sự thay đổi trong tâm hồn của tất cả mọi người đã phạm những tội ác tầy đình như thế và nơi những người có khả năng chặn đứng bạo lực. Chúng tôi khẩn thiết xin các vị nguyên thủ quốc gia hãy lắng nghe lời thỉnh cầu của hàng triệu người, đang lo âu chờ đợi hòa bình và công lý trên thế giới, đang yêu cầu tôn trọng các quyền mà Thiên Chúa ban cho họ, họ đang cấp thiết cần được cơm bánh chứ không phải võ khí. Đáng tiếc thay chúng tôi đang chứng kiến một sự trình bày tôn giáo và các giá trị tôn giáo trên thế giới một cách cực đoan, bị lạm dụng để biện minh cho sự phổ biến oán thù, kỳ thị và bạo lực. Sự biện minh cho các tội ác dựa trên các ý tưởng tôn giáo như thế là điều không thể chấp nhận được, vì ”Thiên Chúa không phải là một chúa tể của xáo trộn, nhưng là của hòa bình” (1 Cr 14,33). Ngoài ra, sự tôn trọng những khác biệt về tôn giáo là điều kiện cần thiết để có sự sống chung hòa bình giữa các cộng đồng chủng tộc và tôn giáo khác nhau. Chính vì là Kitô hữu, nên chúng ta được kêu gọi tìm kiếm và phát triển những con đường hòa giải và hòa bình. Về vấn đề này, chúng tôi cũng bày tỏ hy vọng một giải pháp hòa bình cho các vấn đề liên quan đến vùng Nagorno-Karabakh.

 Nhớ lại điều Chúa Giêsu đã dạy các môn đệ khi Ngài nói: ”Ta đói và các con đã cho Ta ăn, Ta khát các con đã cho Ta uống, Ta là ngoại kiều và các con đã đón tiếp Ta, Ta trần trụi và các con đã cho Ta mặc, Ta bệnh tật và các con đã viếng thăm Ta, Ta ở tù và các con đã đến tìm Ta” (Mt 25,35-36), chúng tôi kêu gọi các tín hữu thuộc các Giáo Hội chúng tôi hãy mở rộng tâm hồn và đôi tay cho các nạn nhân chiến tranh và khủng bố, những người tị nạn và gia đình họ. Ở đây có liên hệ tới chính ý nghĩa tình người của chúng ta, tình liên đới, sự cảm thông và lòng quảng đại, chỉ có thể được diễn tả một cách thích hợp qua việc sử dụng ngay các tài nguyên một cách thực tiễn. Chúng tôi nhìn nhận tất cả những gì đã được thực hiện, nhưng chúng tôi tái khẳng định rằng các vị hữu trách chính trị và cộng đồng quốc tế được yêu cầu hãy làm hơn nữa để đảm bảo quyền của tất cả mọi người được sống trong hòa bình và an ninh, để hỗ trợ nhà nước pháp quyền, để bảo vệ các nhóm tôn giáo và chủng tộc thiểu số, để bài trừ nạn buôn người.

 Sự tục hóa trong nhiều lãnh vực xã hội, sự kiện xã hội bị tha hóa khỏi những gì là tinh thần và thần linh, chắc chắn đưa tới một cái nhìn không có tính chất thánh thiên và duy vật về con người và gia đình nhân loại. Về điểm này chúng tôi lo ngại vì cuộc khủng hoảng gia đình tại nhiều nước. Giáo Hội Armeni Tông Truyền và Giáo Hội Công Giáo có cùng một quan niệm về gia đình, dựa trên hôn nhân, một hành vi nhưng không và yêu thương chung thủy giữa một người nam và một người nữ.

 Chúng tôi vui mừng khẳng định rằng mặc dù vẫn còn những chia rẽ giữa các tín hữu Kitô, chúng tôi đã hiểu rõ hơn rằng điều liên kết chúng tôi thì nhiều hơn những gì làm chúng tôi chia rẽ. Đây là nền tảng vững chắc dựa trên đó sự hiệp nhất của Giáo Hội Chúa Kitô sẽ được biểu lộ, theo lời Chúa dạy: ”Để tất cả chúng được nên một” (Ga 17,21). Trong những thập niên qua, quan hệ giữa Giáo Hội Armeni Tông Truyền và Giáo Hội Công Giáo đã bước vào một giai đoạn mới với sự thành công, được củng cố nhờ cầu nguyện cho nhau và sự dấn thân chung để vượt qua những thách đố hiện nay. Ngày nay chúng tôi xác tín về tầm quan trọng chủ yếu của việc phát triển những quan hệ ấy, thi hành một sự cộng tác sâu xa và quyết liệt hơn không những trong lãnh vực thần học, nhưng cả trong kinh nguyện và sự cộng tác tích cực trên bình diện các cộng đoàn địa phương, trong viễn tượng chia sẻ sự hiệp thông trọn vẹn và những biểu hiện cụ thể sự hiệp nhất ấy. Chúng tôi nhắn nhủ các tín hữu của chúng tôi hãy làm viẹc trong sự hòa hợp để thăng tiến các giá trị Kitô trong xã hội, góp phần hữu hiệu vào việc xây dựng một nền văn minh công lý và hòa bình và liên đới nhân bản. Con đường hòa giải và huynh đệ mở rộng trước mắt chúng ta. Ước gì Chúa Thánh Linh, Đấng hướng dẫn chúng ta đến chân lý trọn vẹn (Xc Ga 16,13), nâng đỡ mọi cố gắng chân thành để kiến tạo những cây cầu yêu thương và hiệp thông giữa chúng ta.

 Từ Thành Thánh Etchmiadzin chúng tôi mời gọi tất cả các tín hữu của chúng tôi hãy hiệp nguyện, với những lời của thánh Nerses Vị … ”Lạy Chúa Hiển Vinh, xin đón nhận những lời khẩn nguyện của tôi tớ Chúa và nhân từ đón nhận những lời cầu xin của chúng con, nhờ lời chuyển cầu của Mẹ Thánh của Thiên Chúa, Thánh Gioan Tẩy Giả, Thánh Stephano vị tử đạo tiên khởi, thánh Gregorio Vị Soi Sáng, các Thánh Tông Đồ, các Thánh ”Thần Linh”, các vị Tử Đạo, các Thánh Thượng Phụ, các vị ẩn tu, các Thánh Đồng Trinh và tất cả các Thánh của Chúa trên trời và dưới đất. Lạy Chúa Ba Ngôi không bị phân rẽ, chúc tụng và tôn vinh Chúa đến muôn đời. Amen”

 Thành Thánh Etchmiadzin ngày 26 tháng 6 năm 2016

 Ký tên: Phanxicô Giáo Hoàng – Karekin II Tổng Thượng Phụ

 G. Trần Đức Anh OP chuyển ý

Thánh lễ truyền chức 6 tân Phó Tế tại Giáo Phận Orange

Thánh lễ truyền chức 6 tân Phó Tế tại Giáo Phận Orange

6 Tân Phó Tế ngày 25 tháng 6 - 2016

GARDEN GROVE – Vào lúc 10 giờ sáng thứ Bảy, ngày 25 tháng 6, 2016, Đức Giám Mục Kevin Vann, Giám Mục Giáo Phận Orange đã đến thánh đường Saint Columban, 10801 Stanford, Garden Grove để cử hành Thánh Lễ Truyền Chức cho 6 tân Phó Tế: Michael Khổng, Phạm Tuấn, Trần Xuân Hòa, Nguyễn Văn Phương, Tony Key Park (Đại Hàn) và Timothy John Donovan (Mỹ).

Cùng đồng tế với Đức Giám Mục Kevin Vann có Đức Cha Tod David Brown và hơn một trăm linh mục, phó tế trong giáo phận. Tham dự thánh lễ, ngoài thân nhân trong gia tộc của 6 tân phó tế còn có trên một ngàn giáo dân và tu sĩ nam nữ.

Nghi thức truyền chức được bắt đầu sau bài Tin Mừng của thánh Gioan do Phó Tế Peter Chung công bố.

Tân Phó Tế Tuấn Phạm thuộc cộng đoàn Orange, Phaolo Trần Xuân Hòa thuộc cộng đoàn Anaheim, Phương Nguyễn thuộc giáo xứ Hedwig là ba thầy được Đức Tổng Giám Mục Ngô Quang Kiệt, khi Ngài còn làm Tổng Giám Mục Hà Nội cử sang giáo phận Orange tu học. Riêng tân Phó Tế Michael Khổng Tuấn thuộc cộng đoàn Saint Columban, vị này là con đỡ đầu thứ 19 của linh mục Nguyễn Văn Luân, chính xứ giáo xứ Đức Mẹ La Vang tại Santa Ana.

Trong dịp vui mừng này, Viễn Đông phỏng vấn linh mục Nguyễn Văn Luân, được cha cho biết, “Thầy Michael Khổng Tuấn đã vào chủng viện cách nay 7 năm sau khi đã làm kỹ sư ở ngoài đời. Lý do thầy Khổng được Ơn Gọi là từ giáo xứ Saint Columban này. Khi cha tới đây làm Quản Nhiệm thì thầy Khổng xin đi học các chương trình tại Chủng Viện Saint Patrick, sau đó học tại Chủng Viện Saint John thêm 4 năm về triết học, 4 năm về thần học và đã giúp xứ Saint Joseph được một năm. Đó là thời gian thử thách, nay thầy đã được Đức Giám Mục truyền chức Phó Tế và sang năm, nếu không có gì trở ngại thầy sẽ lãnh chức linh mục.”

Linh mục Nguyễn Văn Luân cũng nhân cơ hội này giải thích chức Phó Tế. Các Thầy chịu chức Phó Tế hôm thứ Bảy là Phó Tế Chuyển Tiếp, nghĩa là sẽ được truyền chức linh mục, còn Phó Tế Vĩnh Viễn là những người có gia đình thì không bao giờ được truyền chức linh mục.

Bishop Kevin Vann and six new transition deacons 06-25-2016

Sau khi được truyền chức Phó Tế, các thầy sẽ đi giúp xứ, đặc biệt ở những giáo xứ do Đức Giám Mục bổ nhiệm để làm việc trong mùa hè. Các Phó Tế có thể Công Bố Lời Chúa, làm việc bác ái, giảng và trao Mình Thánh Chúa nhưng không được cử hành thánh lễ như các linh mục trên bàn thờ.

THANH PHONG

Viendongdaily

Tường thuật ngày thứ hai chuyến công du của ĐTC bên Armenia

Tường thuật ngày thứ hai chuyến công du của ĐTC bên Armenia

ĐTC Phanxicô giảng trong thánh lễ cử hành cho tín hữu tại Gyumri sáng thứ bẩy 25-6-2016

Thứ bẩy 25-6.là ngày thứ hai ĐTC viếng thăm mục vụ Armenia. Ban sáng ĐTC có ba sinh hoạt chính là viếng thăm Đài tưởng niệm cuộc diệt chủng Armenia tại Etchmiadzin, chủ sự thánh lễ tại Gyumri, và thăm tu viện Đức Bà Armenia. Vào ban chiều sau khi viếng thăm nhà thờ chính toà Armenia Tông truyền và nhà thờ chính toà công giáo Armenia tại Gyumri, ĐTC lấy máy bay trở về Yerevan để tham dự buổi gặp gỡ đại kết cầu nguyện cho hoà bình tại quảng trường Cộng hoà trước  Dinh chính quyền. Sau đây là chi tiết các sinh hoạt kể trên.

 

ĐTC thăm đài tưởng niệm Tzitzemakaberd

Lúc 8 giờ 30 sáng thứ bẩy ĐTC đã đi xe đến kính viếng đài kỷ niệm cuộc diệt chủng Tzitzernakaberd, có nghĩa là “Đồi chim én” nằm cách đó 21 cây số, nơi có Đài tưởng niệm cuộc diệt chủng  Armenia hồi năm 1915 dưới thời đế quốc Ottoman Thổ Nhĩ Kỳ, khiến cho 1,5 triệu người chết. Đài kỷ niệm này đã được khánh thành năm 1967 và năm 1995 có thêm Viện bảo tàng trưng bầy các chứng tích cuộc diệt chủng, cũng như một trung tâm nghiên cứu tuỳ thuộc Hàn lâm viện khoa học quốc gia Armenia. Đài tưởng niệm gồm ba phần: Bức tường tưởng niệm, Lăng tẩm và Cột Armenia tái sinh. Bức tường dài 100 mét bằng huyền vũ nham dẫn vào Lăng tẩm có khắc tên các thành phố và dân chúng nạn nhân của “Sự dữ lớn lao”. Lăng tẩm hình tròn được tạo thành bởi 12 tấm huyền vũ nham đặt nghiêng, biểu tượng cho 12 thành phố nạn nhân cuộc tán sát hàng loạt bao quanh một khoảng trời trống, nơi có Ngọn lửa vĩnh cửu. Bên cạnh Lăng Tẩm là Cây cột Armenia tái sinh gồm hai cây cột xi măng dính vào nhau hình chiếc kim cao 44 mét, tượng trưng cho cuộc phân tán bạo lực nhân dân Armenia và sự hiệp nhất của nó. Sau cùng bên cạnh đài tưởng niệm có các hàng cây tưởng niệm các vị lãnh đạo và nhân vật quốc tế đã thừa nhận cuộc diệt chủng.

ĐTC và Đức Catholicos đã được tổng thống tiếp đón trên đường dẫn tới Đài tưởng niệm, nơi ĐTC đã đặt một vòng hoa bên ngoài. Cũng có một nhóm trẻ em cầm các bảng tên của các người đã bị tàn sát hồi năm 1915. ĐTC cùng các vị đi xuống thang cấp dẫn tới Ngọn lửa vĩnh cửu. Mọi người đọc Kinh Lạy Cha trong thứ tiếng riêng của mình. ĐTC và Đức  Thượng Phụ Catholicos làm phép và xông hương. Sau đó là bài thánh ca Hrashapar. Tiếp đến Giám Mục Armenia Tông truyền đọc bài đọc bằng tiếng Armenia trích từ chương 10 thư gửi tín hữu Do thái, nói về cuộc chiến đấu lớn lao mà kitô hữu phải chịu. Tiếp đến một Giám Mục công giáo đọc Phúc Âm bằng tiếng Ý, chương 14 thánh Gioan, ghi lại lời Chúa Giêsu nói: bất cứ gì chúng con xin nhân danh Thầy, Thầy sẽ làm cho các con. ĐTC đã đọc các lời nguyện bằng tiếng Ý. Sau cùng mọi người đọc Kinh Lạy Cha trong các thứ tiếng riêng của mình. Tại đài tưởng niệm ĐTC đã đọc lời nguyện sau đây: “Lạy Chúa Kitô, là Đấng đã đội triều thiên cho các thánh và hoàn thành ý muốn của tín hữu Chúa, cũng như nhìn các thụ tạo của Chúa với tình yêu thương và sự dịu hiền, từ trời cao sự thánh thiện của Chúa xin hãy lắng nghe chúng con nhờ lời bầu cử của Mẹ Thiên Chúa, nhờ lời khẩn cầu của tất cả các thánh của Chúa và của những người mà chúng con tưởng niệm hôm nay. Xin Chúa hãy lắng nghe và thương xót, xin tha thứ cho chúng con, xin đền bù và tha các tội của chúng con. Xin làm cho chúng con xứng đáng vinh danh Chúa với các tâm tình biết ơn cùng với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần bây giờ và luôn mãi cho đến muôn muôn đời. Amen.”

ĐTC, Đức Catholicos và tổng thống đi xe lên sân thượng Viện bảo tàng cách đó 80 mét. ĐTC đã dừng lại chúc lành và tưới một cây tưởng niệm chuyến viếng thăm của ngài. Trên sân thượng có hàng chục người con cháu của những người Armenia bị bách hại, đã từng được ĐGH Biển Đức XV tiếp đón và cho trú ngụ tại nhà nghỉ mát Castel Gandolfo. Trước khi từ giã ĐTC đã ký tên vào sổ vàng.

Rời Đài tưỏng niệm ĐTC đã đi xe tới phi trường Yerevan cách đó 19 cây số để lấy máy bay di Gyumri cách đó 80 cây số.

Đón tiếp ĐTC tại phi trường quốc tế Gyumri có ông thị trưởng, ĐTGM Raphael François Minassian của Giáo Hội công giáo Armenia Đông Âu, và ĐGM Giáo Hội Tông truyền sở tại. Cũng có một nhóm trẻ em mồ côi và một ca đoàn.

 

ĐTC cử hành Thánh lễ tại Gyumri

Gyumri là thành phố nằm trên độ cao hơn 1,500 mét, có 146,000 dân, là thành phố lớn và đông dân thứ hai của Armenia, và là thủ phủ tây bắc vùng Shirak, có người ở ngay từ hồi năm 3,000 trước công nguyên. Vài nhà khảo khổ cho rằng thành phố bị các người Hy lạp chiếm đóng hồi thế kỷ thứ V hay thế kỷ thứ VIII trước công nguyên, hồi đó thành phố tên là Kumayri. Sau đó nó lần lượt bị người Ba Tư, A rập và Mông Cổ chiếm đóng. Năm 1837 nó bị Nga hoàng Nicolas I chiếm đóng và đổi tên là “Alessandropoli” theo tên hoàng hậu Alessandra. Sau đó thành phố được gọi là “Leninakan” khi Lenin qua đời năm 1924. Sau khi Liên Xô sụp đổ năm 1990 thành phố lấy lại tên Gyumri như hiện nay, và nổi tiếng là “thành phố của thủ công nghệ và các nghệ thuật”. Nó cũng nổi tiếng là thành phố của các học viện giáo dục và các nhà hát. Gyumri hãnh diện là thành phố đầu tiên có một đoàn hát năm 1865, nhà hát năm 1923, cũng như là thành phố tổ chức các buổi vũ cổ điển năm 1924, một nhà hát văn xuôi năm 1929. Gyumri cũng là trung tâm giáo dục chính của miền bắc Armenia, và là thành phố kỹ nghệ hoá nhất nước. Nhưng năm 1988 đã xảy ra một trận động đất lớn khiến cho thành phố bị hư hại nhiều và dân chúng phải sống trong các thùng tiền chế nhiều năm sau đó. Thế giới đã tỏ tình liên đới với dân chúng, và danh ca Pháp gốc Armeni Charles Aznavour đã phát động phong trào quyên góp trợ giúp các nạn nhân. Thành phố đã dựng tuợng ghi ơn ông sau đó.

ĐC Raphael François Minassian, TGM đặc trách tín hữu công giáo vùng Đông Âu châu từ năm 1991, hiện trông coi 600,000 tín hữu. Giáo phận có 44 giáo xứ với 11 linh mục giáo phận và 11 linh mục dòng, 10 tu huynh, 20 nữ tu và 4 đại chủng sinh. Giáo Hội điều khiển 1 học viện và 29 trung tâm bác ái.

Sau lễ nghi tiếp đón đơn sơ tại phi trường ĐTC đã đi xe tới quảng trường Vartanànts cách đó hơn 6 cây số để chủ sự thánh lễ cho tín hữu. Thánh lễ kính Lòng Thương Xót Chúa đã được cử hành bằng tiếng Latinh, Ý và Armenia. Tham dự thánh lễ cũng có Đức Thượng Phụ Catholicos Karekin II, cũng như tổng thống, các giới chức đạo đời và mấy chục ngàn tín hữu. Một ca đoàn hùng hậu gồm mấy trăm ca viên đảm trách phần thánh ca trong thánh lễ.

Để xây dựng và tái thiết cuộc sống cần duy trì và phục hồi ký ức, sống đức tin vững mạnh cụ thể và thực thi tình yêu thương xót Chúng ta được mời gọi trước hết xây dựng và tái thiết các con đường của sự hiệp thông, mà không mệt mỏi, xây dựng các cây cầu hiệp nhất và thắng vượt các hàng rào phân cách. Cần có các kitô hữu không để cho mệt mỏi đánh ngã, và không nản chí trước các đối nghịch, nhưng sẵn sàng và cởi mở, sẵn sàng phục vụ. Cần có những người thiện chí trợ giúp các anh chị em gặp khó khăn không phải chỉ bằng lời nói nhưng với cả việc làm. Cần có các xã hội công bằng hơn, trong đó mỗi người có thể có một cuộc sống xứng đáng hơn và nhất là một công việc làm được trả lương công bằng.

ĐTC đã nói như trên trong bài giảng thánh lễ. Ngài đã quảng diễn ý nghĩa các bài đọc lồng khung trong lịch sử của dân nước Armenia. Lấy lại lời ngôn sứ Isaia ngài nói: “Chúng sẽ xây lại các đổ nát cổ xưa; chúng sẽ tái thiết các thành phố hoang tàn” (Í 61,4). Có thể nói rằng các lời này của ngôn sứ đã được thực hiện. Sau các tàn phá kinh khủng của cuộc động đất hôm nay chúng ta cảm tạ Thiên Chúa về tất cả những gì đã được tái thiết. Nhưng chúng ta cũng có thể hỏi Chúa mời gọi chúng ta tái thiết cái gì trong cuộc sống hôm nay, và nhất là xây dựng cuộc sống chúng ta trên cái gì? ĐTC đã đề nghị ba nền tảng vững chắc giúp xây dựng và tái xây dựng cuộc sống Kitô không mệt mỏi: đó là ký ức, đức tin và tình yêu thương xót.

Biết phục hồi ký ức là một ơn cần xin Chúa ban cho chúng ta: ký ức liên quan tới những gì Thiên Chúa đã thành toàn nơi chúng ta và cho chúng ta. Nhớ lại rằng Chúa đã không quên chúng ta nhưng nhớ tới chúng ta (Lc 1,72). Ngài đã yêu thương chúng ta, tuyển chọn chúng ta, mời gọi chúng ta và tha thứ cho chúng ta.  Có các biến cố trong lịch sử tình yêu của chúng ta với Chúa cần được hồi sinh trong tâm trí từng người, nhưng cũng có ký ức của dân tộc. ĐTC nhấn mạnh điểm này như sau:

Và ký ức của dân tộc anh chị em rất cổ xưa và quý báu. Trong tiếng nói của anh chị em vang lên tiếng nói của các thánh khôn ngoan trong quá khứ; trong các lời nói của anh chị em vang vọng tiếng của người đã chế ra mẫu tự của anh chị em để loan báo Lời Chúa; trong các thánh ca của anh chị em tan hoà các khóc than và niềm vui của lịch sử của anh chị em. Duyệt xét lại tất cả những điều đó chắc chắn anh chị em có thể nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa: Ngài đã không bỏ anh chị em cô đơn. Ngài đã viếng thăm dân tộc của anh chị em, nhớ tới sự trung thành của tất cả những người đã làm chứng, cả với máu của mình, rằng tình yêu của Thiên  Chúa giá trị hơn sự sống. Thật là hay đẹp khi nhớ lại với lòng biết ơn đức tin kitô đã trở thành hơi thở của dân tộc anh chị em và con tim ký ức của nó.

Nền tảng vững chắc thứ hai là đức tin. Nó cũng là niềm hy vọng cho tương lai của anh chị em, là ánh sáng trên con đường cuộc sống. Nhưng cũng luôn luôn có nguy cơ làm lu mờ đức tin vì cám dỗ giản lược nó thành một cái gì của quá khứ, quan trọng nhưng thuộc các thời đại khác, như một cuốn sách được gìn giữ trong viện bảo tàng. Thật ra, đức tin là sức mạnh, là vẻ đẹp và sự rộng mở đối với tất cả mọi người; nó nảy sinh và tái sinh từ cuộc gặp gỡ sống động với Chúa Giêsu, từ kinh nghiệm về lòng thương xót của Ngài trao ban ánh sáng cho mọi trạng huống cuộc sống. Cần làm sống dậy mỗi ngày cuộc gặp gỡ này của chúng ta với Chúa, đọc và suy gẫm Lời Ngài trong thinh lặng để nhóm lên niềm vui trong con tim, một niềm vui lớn hơn sự buồn phiền, một niềm vui kháng cự lại khổ đau và biến thành an bình. Tất cả canh tân cuộc sống và khiến cho nó tự do và ngoan ngoãn đối với các ngạc nhiên, sẵn sàng với Chúa và với tha nhân. Chúa cũng có thể mời gọi chúng ta theo Ngài gần hơn, và dâng hiến cuộc sống cho Ngài và cho các anh chị em khác. Khi Ngài gọi anh chị em, đặc biệt là các người trẻ, đừng sợ hãi, nhưng hãy nói lên tiếng “có” để giãi sáng tình yêu và tiếp tục lịch sử rao truyền Tin Mừng, mà Giáo Hội và thế giới ngày nay cần đến.

Nền tảng thứ ba là tình yêu thương xót. Nó là đá tảng cho cuộc sống của người môn đệ Chúa Giêsu. Tình yêu cụ thể là tấm cạc có tên và địa chỉ của kitô hữu. Các kiểu giới thiệu khác có thể sai lạc và cả đến vô ích, vì mọi người sẽ nhận biết chúng ta  khi chúng ta yêu thương nhau. Chúng ta được mời gọi trước hết xây dựng và tái thiết các con đường của sự hiệp thông, mà không mệt mỏi, xây dựng các cây cầu hiệp nhất và thắng vượt các hàng rào phân cách.

Tiếp tục bài giảng ĐTC khẳng định như sau:

Thiên Chúa ở trong con tim của kẻ yêu mến: Thiên Chúa ở nơi đâu người ta yêu thương, đặc biệt nơi đâu người ta lo lắng cho người yếu đuối và nghèo nàn với lòng can đảm và thương xót. Điều này cần thiết biết bao: cần có các kitô hữu không để cho mệt mỏi đánh ngã, và không nản chí trước các đối nghịch, nhưng sẵn sàng và cởi mở, sẵn sàng phục vụ. Cần có những người thiện chí trợ giúp các anh chị em gặp khó khăn không phải chỉ bằng lời nói nhưng với cả việc làm. Cần có các xã hội công bằng hơn, trong đó mỗi người có thể có một cuộc sống xứng đáng hơn và nhất là một công việc làm được trả lương công bằng.

ĐTC đã nhắc tới gương của thánh Gregorio thành Narek, là tiếng nói của dân nước Armenia, là người luôn đặt để trong sự đối thoại các bần cùng của con người với lòng thương xót của Thiên Chúa. Thánh nhân là tiếng nói ủi an, khích lệ, dịu hiền, từ bi, thương xót của Chúa.

Trước khi ban phép lành cuối lễ ĐTC đã cám ơn Đức Thuợng Phụ Catholicos Karekin II và ĐTGM Minassian cũng như Đức Thưọng Phu Ghabroyan, các Giám Mục, linh mục và các giới chức chính quyền cũng như toàn thể tín hữu tham dự thánh lễ, dến từ nhiều miền, kể cả Cộng hoà Georgia. Ngài cũng cám ơn các người quảng đại trợ giúp dân nghèo, các nhân viên nhà thương Ashotsk, cộng đoàn công giáo địa phương, các nữ tu Armenia Vô nhiễm nguyên tội và các nữ tu thừa sai bác ái của Mẹ Têrêsa Calcutta.

Sau thánh lễ ĐTC đã đi một vòng quảng trường để chào tín hữu, rồi đến thăm tu viện “Đức Bà Armenia”, cách đó 5 cây số. Mẹ bề trên tu viện các nữ tu Armenia Vô nhiễm nguyên tội đã tiếp đón ĐTC tại lối vào viện mồ côi “Đức Bà Armeni – Trung tâm giáo dục Boghossian”, trong đó có 60 trẻ em mồ côi. Trong tu viện cũng có “Trường huấn nghệ Diramayr”. Các học sinh đảm trách việc tiếp đón ĐTC và phái đoàn Toà Thánh. ĐTC đã dùng bữa trưa trong tu viện của các nữ tu.

Vào lúc 4 giờ 15 phút chiều ĐTC từ giã cộng đoàn các nữ tu và nhân viên trường huấn nghệ và viện mồ côi tu viện Đức Bà Armenia. Ngài đã chụp hình lưu niệm với ba nhóm: các trẻ em mồ côi, các khách của tu viện cùng con em của họ, và các ân nhân. Tiếp đến ngài đến viếng thăm nhà thờ chính toà Tông truyền Gyumri tọa lạc tại quảng trường Vartanànts cách đó 5 cây số.

Nhà thờ chính toà Armenia Tông truyền “Yot Verk” được dâng kính Mẹ Thánh của Thiên Chúa, và được biết đến như là “Nhà thờ chính toà 7 vết thương của Đức Trinh Nữ Maria Rất Thánh”, chiếu theo hình vẽ trên gỗ được cất giữ tại đây. Bẩy vết thương quy chiếu 7 giai thoại cuộc đời Thánh Gia, từ biến cố trốn sang Ai Cập cho tới vụ an táng Chúa Giêsu. Ban đầu nhà thờ được làm bằng gỗ, sau đó vào cuối thế kỷ XIX được các ông hoàng nhà Kamsarakan thay thế bằng đá màu tối của vùng này. Dưới thời chính quyền Liên Xô mọi nhà thờ tại Gyumri đều bị đóng cửa. Nhà thờ chính toà Yot Verk đã là nơi thờ tự duy nhất được mở cửa cho các tín hữu. Bàn thờ chính giữa được dùng bởi Giáo Hội Armenia Tông Truyền, trong khi cung thánh phía bắc có tượng thánh giá lấy từ một nhà thờ công giáo dành cho các tín hữu công giáo, và cung thánh phiá nam có một ảnh Icone nga thánh Nicola vẽ trên gỗ dành cho tín hữu chính thống thuộc Toà Thượng Phụ Moscow. Bị hư hại trong trận động đất năm 1988 nhà thờ chính tòa được trùng tu với tiền quyên góp của các tín hữu Armenia di cư bên Argentina. Mái tròn cao 12 mét có bức bích họa Mẹ Maria bồng Chúa Giêsu hài đồng của họa sĩ Vardges Surenyants. Bên trong nhà thờ có nhiều ảnh Icone và trên tường có các bức bích họa thuộc thế kỷ XVII và các bức tranh sơn dầu.

ĐTC và Đức Thượng Phụ Catholicos tiến vào nhà thờ bên trong có vài Giám Mục Armenia Tông Truyền và một nhóm người tàn tật và người tỵ nạn Siri. ĐTC và Đức Thượng Phụ thinh lặng quỳ cầu nguyện trước ảnh Icone năm vết thương, rồi hai vị tôn kính thánh giá, trong khi đó một ca đoàn hát các thánh ca. Sau cùng ĐTC ban phép lành cho mọi người hiện diện. Khi ĐTC ra ngoài nhà thờ có một nữ ân nhân tặng quà cho ngài.

Tiếp đến ĐTC đã đi xe tới viếng thăm nhà thờ chính toà các thánh Tử đạo công giáo Armenia ở quảng trường Vartanànts, cách đó 700 mét. Nhà thờ chính toà này đã được khởi công xây cất năm 2010 do ĐTGM Minassian hoàn thành, và được ĐHY Leonardo Sandri, Tổng trưởng Bộ các Giáo Hội Đông Phương thánh hiến năm 2015.

ĐTGM Minassian và cha sở đã tiếp đón ĐTC tại cửa nhà thờ. Bên trong nhà thờ có một số các ân nhân của Giáo Hội công giáo Armenia. Sau lời nguyện của ĐTC Đức Thượng Phụ Catholicos đã ban phép lành cho mọi người.

Sau khi từ giã mọi người ĐTC đã ra phi trường Gyumri cách đó 6 cây số để lấy máy bay trở về Yerevan. Từ phi trường ĐTC đi xe tới quảng trường Cộng hoà Yerevan cách đó 12 cây số để tham dự buổi gặp gỡ đại kết cầu nguyện cho hoà bình. Quảng trường tọa lạc trước Dinh chính quyền, các Bộ và Viện bảo tàng quốc gia, có chỗ cho 50,000 người. Buổi phụng vụ lời Chúa cầu nguyện cho hoà bình được cử hành bằng tiếng Ý và Armenia.

Để thực hiện sự hiệp nhất cần có lời cầu nguyện của tất cả mọi người. và cần gia tăng tình yêu thương nhau, vì chỉ có lòng bác ái mới có thể chữa lành ký ức và các vết thương của quá khứ: chỉ có tình yêu thương mới xóa bỏ được các thành kiến và cho phép thừa nhận rằng việc cởi mở với người anh em thanh tẩy và cải tiến các xác tín của mình. Chúng ta được mời gọi can đảm từ bỏ các xác tín cứng nhắc và các lợi lộc riêng, nhân danh tình yêu tự hạ và trao ban, nhân danh tình yêu khiêm nhường.

ĐTC đã nói như trên trong bài giảng tại buổi cầu nguyện đại kết cho hoà bình. Ngài đã nói lên ước muốn của ngài được viếng thăm Armenia, là quốc gia đầu tiên trên thế giới đã lãnh nhận đức tin kitô. Các thánh giá bằng đá “khatchkar” kể lại một lịch sử duy nhất bao gồm đức tin sắt đá và khổ đau vô biên, một lịch sử giầu các chứng nhân tuyệt vời của Tin Mừng, mà anh chị em là những người thừa kế. Tôi đến như người hành hương từ Roma để gặp gỡ anh chị em và bầy tỏ tâm tình yêu thương quý  mến và vòng tay ôm huynh đệ của toàn thể Giáo Hội Công Giáo, yêu mến anh chị em và gần gũi với anh chị em.

Trong các năm qua các cuộc gặp gỡ giữa hai Giáo Hội đã được củng cố, luôn thân tình và đáng ghi nhớ. Và tôi cám ơn anh chị em vì lòng trung thành với Tin Mừng thường rất anh hùng, và là một món quà vô giá cho mọi kitô hữu. Chúng ta vui mừng chia sẻ biết bao bước tiến trên con đường chung, và tin tưởng hướng nhìn về một ngày, trong đó với sự trợ giúp của Thiên  Chúa, chúng ta sẽ hiệp nhất gần bàn thờ hiến tế của Chúa Kitô trong sự hiệp thông thánh thể tràn đầy.

ĐTC đã đặc biệt nhắc đến biết bao vị tử đạo đã đóng ấn niềm tin chung nơi Chúa Kitô với máu của các vị. Các vị là những vì sao chiếu sáng và chỉ đường cho chúng ta trên con đường còn lại phải đi. Trong số các vị thánh đó nổi bật là thánh Catholicos Nerses Shnorhali, rất yêu thương dân tộc và các truyền thống, và hướng tới các Giáo Hội khác. Sự hiệp nhất thực ra không phải là một lợi thế chiến thuật cần tìm kiếm cho lợi ích của nhau, nhưng là lợi thế mà Chúa Giêsu xin chúng ta, và là điều chúng ta phải chu toàn với thiện chí và tất cả sức lực của mình, để thực hiện sứ mệnh của chúng ta là trao ban Tin Mừng cho thế giới với sự trung thực. Theo thánh Nerses để thực hiện sự hiệp nhất cần thiết thiện chí của một ai đó trong Giáo Hội thì không đủ: cần phải có lời cầu nguyện của tất cả mọi người. Chính vì thế chiều nay tôi đến đây để xin anh chị em món quà của lời cầu nguyện. Thánh Nerses cũng ghi nhận là cần gia tăng tình yêu thương nhau, vì chỉ có lòng bác ái mới có thể chữa lành ký ức và các vết thương của quá khứ: chỉ có tình yêu thương mới xóa bỏ được các thành kiến và cho phép thừa nhận rằng việc cởi mở với người anh em thanh tẩy và cải tiến các xác tín của mình. Noi gương thánh nhân chúng ta được mời gọi can đảm từ bỏ các xác tín cứng nhắc và các lợi lộc riêng, nhân danh tình yêu tự hạ và trao ban, nhân danh tình yêu khiêm nhường: nó là dầu được chúc lành của cuộc sống kitô, là dầu thơm thiêng liêng quý báu chữa lành, củng cố và thánh hóa. Thánh nhân nói “Chúng ta hãy bổ túc các thiếu sót với lòng bác ái đồng nhất”… Không phải các tính toán, và các lợi thế, nhưng là tình yêu thương khiêm nhường và quảng đại lôi kéo lòng thương xót của Thiên Chúa Cha, phước lành của Chúa Kitô và sự phong phú của Chúa Thánh Thần.

Sự bình an mà Chúa Giêsu ban tặng cho chúng ta thế giới này vất vả tìm kiếm. Ngày nay các chướng ngại trên con đường hoà bình lớn biết bao, và các hậu quả của chiến tranh thê thảm biết bao! Tôi nghĩ tới các dân tộc bị bó buộc phải bỏ tất cả, đặc biệt là bên vùng Trung Đông, nơi biết bao nhiêu anh chị em của chúng ta đau khổ vì bạo lực và bách hại, vì thù hận và các xung khắc luôn luôn được dưỡng nuôi bởi tệ nạn phổ biến và buôn bán khí giới, bởi cám dỗ dùng võ lực và thiếu tôn trọng đối với con người, đặc biệt là đối với những người yếu đuối, nghèo nàn và đối với tất cả những ai chỉ xin có một cuộc sống xứng đáng.

Tiếp tục bài giảng trong buổi cầu nguyện đại kết cho hoà bình, ĐTC nói: Tôi không thể không nghĩ tới các thử thách kinh khủng mà dân tộc anh chị em đã phải sống: một thế kỷ đã qua, kể từ khi “Sự dữ lớn lao” đổ ập trên anh chị em. Cuộc tàn sát to lớn và điên loạn, mầu nhiệm thê thảm này của sự gian ác mà dân tộc anh chị em đã sống trong thịt xác, ghi đậm dấu trong ký ức và nung nấu con tim. Tôi muốn nhấn mạnh rằng các khổ đau của anh chị em cũng là các khổ đau của chúng tôi: chúng là các khổ đau của Thân Mình mầu nhiệm Chúa Kitô. Nhớ lại chúng không chỉ là điều thích đáng mà là một bổn phận: Ước chi chúng là lời cảnh cáo cho mọi thời đại, để thế giới đừng bao giờ rơi vào lốc xoáy của những kinh hoàng như thế!

ĐTC đã ca ngợi đức tin kitô của Giáo Hội Armenia cả trong những lúc thê thảm nhất của lịch sử đã là sức đẩy khai mào cuộc tái sinh của dân tộc bị thử thách. Nó chính là sức mạnh đích thực cho phép anh chị em rộng mở cho con đường nhiệm mầu và cứu rỗi của Phục Sinh: các vết thương còn mở và bị gây ra bởi thù hận tàn bạo và vô nghĩa có thể trong một cách thế nào đó đồng hình dạng với các vết thương của Chúa Kitô phục sinh, với các vết thương đã bị mở ra và Ngài còn mang trên thịt xác ngày hôm nay… Các vết thương kinh khủng ấy được tình yêu biến đổi đã trở thành suối nguồn của tha thứ và hoà bình… Thật thế, ký ức được tình yêu đi ngang qua có khả năng bước đi trên các con đường mới gây kinh ngạc, nơi các đan dệt của thù hận biến thành các dự án hoà giải, trong đó có thể hy vọng nơi một tương lai tốt đẹp hơn cho mọi người.

Hướng tới các ban trẻ ĐTC nói: Các người trẻ thân mến, tương lai này tuỳ thuộc các con: khi làm cho sự khôn ngoan của cha ông các con thành kho tàng, các con hãy ước muốn trở thành những người xây dựng hòa bình, không phải các chưởng khế của tình trạng ngưng đọng, nhưng là những người tích cực thăng tiến một nền văn hóa gặp gỡ và hoà giải.

ĐTC đã khích lệ mọi người noi gương thánh Gregorio thành Narek mà ngài đã tuyên bố là Tiến sĩ Giáo Hội và có thể gọi thánh nhân là “Tiến sĩ hòa bình”. Cuốn sách ngài viết có thể là hiến pháp tinh thần của nhân dân Armenia, trong đó có lời cầu này: “Lạy Chúa, xin nhớ tới những người trong dòng giống nhân loại là các kẻ thù của chúng con, nhưng vì thiện ích của họ, xin thực thi nơi họ sư tha thứ và lòng thương xót” Như thánh nhân chúng ta cũng phải là người dâng lời cầu nguyện cho toàn thế giới. ĐTC gửi lời chào mọi người dân Armenia sống rải rác đó đây trên thế giới, và cầu chúc họ trở thành các sứ giả của sự hiệp thông và hòa bình.

ĐTC và Đức Thượng Phụ Catholicos đã ôm hôn trao ban bình an cho nhau, rồi ban phép lành cho tín hữu.

Từ giã mọi người ĐTC đã đi xe về dinh Tông toà Etchmiadzin cách đó 12 cây số để dùng bữa tối và nghỉ đêm, kết thúc ngày thứ hai trong chuyến viếng thăm Armenia ba ngày.

Linh Tiến Khải

Đức Thánh Cha gặp gỡ chính quyền Armenia

Đức Thánh Cha gặp gỡ chính quyền Armenia

Đức Thánh Cha gặp gỡ chính quyền Armenia

YEREVAN. Trong buổi gặp gỡ chính quyền và ngoại giao đoàn, cũng như các giới chức xã hội và dân sự Armenia, ĐTC ca ngợi niềm tin mạnh mẽ của dân tộc này và kêu gọi giới lãnh đạo bảo vệ nhân quyền và tự do tôn giáo.

Lúc 5 giờ rưỡi chiều ngày 24-6-2016, ĐTC đã đến phủ tổng thống Armenia cách dinh Tông Tòa 16 cây số để viếng thăm.

Tổng thống Sargsyan năm nay 62 tuổi (1954), đã từng làm bộ trưởng quốc phòng, rồi thủ tướng của Armenia, trước khi đảm nhận trách vụ hiện thời từ 8 năm nay (2008). Hồi tháng 4 năm ngoái (2015), ông đã cùng với Đức Tổng thượng Phụ Karekin và các GM Armeni, Công Giáo và Tông truyền, đến Vatican để tham dự phụng vụ do ĐTC Phanxicô chủ sự tại Đền thờ Thánh Phêrô nhân dịp kỷ niệm 100 năm cuộc ”tử đạo” của một triệu rưỡi người Armenia dưới bàn tay của quân Ottoman Thổ Nhĩ kỳ.

Sau khi hội kiến riêng với Tổng thống và chào thăm gia đình ông, ĐTC đã gặp gỡ các giới chức chính quyền và xã hội dân sự và văn hóa của Armenia cũng như ngoại giao đoàn tại nước này, tổng cộng là 240 người, vào lúc 6 giờ rưỡi chiều, cũng tại phủ Tổng Thống.

 

Diễn văn của ĐTC

Lên tiếng trong dịp này, sau khi cám ơn Tổng Thống, ĐTC nhắc đến Đại Tai Ương hàng triệu người dân Armenia bị tàn sát và lễ tưởng niệm đã được cử hành hồi tháng 4 năm ngoái ở Đền thờ Thánh Phêrô ở Vatican. Ngài cũng ca ngợi dân tộc Armenia kiên vững trong thử thách và tìm được sức mạnh nơi thập giá của Chúa Kitô:

”Tôi ca ngợi dân tộc Armenia, được ánh sáng Tin Mừng soi chiếu, cả trong những lúc bi thảm nhất của lịch sử, vẫn luôn tìm thấy nơi Thập Giá và sự Phục Sinh của Chúa Kitô, sức mạnh để trỗi dậy và tiếp tục hành trình trong phẩm giá. Điều này cho thấy cội rễ đức tin Kitô thật là sâu xa và kho tàng vô biên ơn an ủi và hy vọng chứa đựng trong đó. Nhớ đến những hậu quả đau buồn mà oán thù, thành kiến và ước muốn thống trị vô độ đưa tới trong thế kỷ vừa qua, tôi nồng nhiệt cầu chúc nhân loại biết rút ra từ kinh nghiệm bi thảm ấy bài học để hành động với tinh thần trách nhiệm va khôn ngoan để phòng ngừa, đừng để những điều kinh hoàng ấy tái diễn. Vì thế, từ mọi phía cần gia tăng nỗ lực để, trong những tranh chấp quốc tế, sự đối thoại luôn được trổi vượt, sự chân thần và liên lỷ tìm kiếm hòa bình, sự cộng tác giữa các quốc gia và sự chuyên cần dấn thân của các tổ chức quốc tế luôn chiếm ưu thế để kiến tạo một bầu không khí tín nhiệm, để đạt tới những hiệp định lâu bền.

ĐTC cho biết: ”Giáo Hội Công Giáo mong ước tích cực cộng tác với tất cả những người quan tâm đến số phận của nền văn minh và sự tôn trọng các quyền con người, để trên thế giới, các giá trị tinh thần được chiếm ưu thế, vạch mặt những người làm băng hoại ý nghĩa và vẻ đẹp của các giá trị ấy. Về vấn đề này, một điều tối quan trọng là tất cả nhưng người tuyên xưng niềm tin nơi Thiên Chúa hiệp lực với nhau để cô lập hóa những kẻ lạm dụng tôn giáo để thực hiện những dự án chiến tranh, chiếm đoạt, bách hại, lèo lái và lạm dụng danh thánh của Thiên Chúa.

”Đặc biệt ngày nay, các tín hữu Kitô, giống như và có thể là hơn cả thời các vị tử đạo đầu tiên, tại một số nơi họ bị kỳ thị và bách hại chỉ vì họ tuyên xưng niềm tin của họ, trong khi quá nhiều xung đột ở nhiều miền trên thế giới vẫn chưa tìm được những giải pháp tích cực, tạo nên tang tóc, tàn phá và những cuộc cưỡng bách di cư toàn thể dân tộc. Vì thế điều tối cần thiết là các vị nắm giữ vận mệnh của các dân nước này can đảm và không chút trì hoãn đề ra và thực hiện những sáng kiến nhắm chấm dứt những đau khổ ấy, tìm kiếm hòa bình, bảo vệ và đón tiếp những người đang bị tấn công và bách hại, thăng tiến công lý và sự phát triển dài hạn như những mục tiêu hàng đầu. Nhân dân Armeni đã đích thân trải qua những tình trạng như thế; họ biết đau khổ và bách hại; họ bảo tồn trong ký ức không những các vết thương trong quá khứ, nhưng cả tinh thần giúp họ mỗi lần đầu bắt đầu lại. Theo ý nghĩa đó, tôi khích lệ anh chị em đừng quên sự đóng góp quí giá này cho cộng đồng quốc tế.

Trong bài diễn văn, ĐTC cũng đề cập đến một kỷ niệm quan trọng và nói rằng:

”Năm nay là năm kỷ niệm 25 năm Armenia được độc lập. Đây là một dịp quí giá để vui mừng và nhớ đến những mục tiêu đã đạt được cũng như để đề ra những mục tiêu mới cần hướng tới. Những buổi lễ mừng độc lập càng có ý nghĩa nếu chúng trở thành cho mọi người Armenia ở quê hương cũng như ở hải ngoại một dịp đặc biệt để hồi niệm và phối hợp nghị lực, với mục đích tạo điều kiện dễ dàng cho sự phát triển đất nước về mặt dân sự và xã hội, công bằng và bao gồm mọi người. Vấn đề ở đây là liên tục kiểm chứng để không bao giờ lỗi những giới luật luân lý về công lý bình đẳng cho tất cả mọi người và về tình liên đới với nhưng người yếu thế và kém may mắn.

Về phần mình, Giáo Hội Công Giáo, tuy chỉ hiện diện tại đất nước này với số người giới hạn, nhưng cũng vui mừng vì có thể góp phần làm tăng trưởng xã hội, đặc biệt trong những hoạt động nhắm giúp đỡ những người yếu thế và nghèo túng hơn, trong lãnh vực y tế và giáo dục, trong lãnh vực bác ái, như nhà thương Redemptoris Mater, Mẹ Giáo Hội, ở Ashotsk, từ 25 năm nay, hoạt động của trường học ở thủ đô Yerevan, các sáng kiến của Caritas Armenia và hoạt động của các dòng tu.

Xin Chúa chúc lành và bảo vệ Armenia, phần đất được soi sáng nhờ đức tin, lòng can đảm của các vị tử đạo, niềm hy vọng mạnh hơn mọi đau khổ”.

Giã từ Tổng thống và các giới chức chính quyền, ĐTC đã về dinh tông tòa ở Etchmiadzin của Giáo Hội Armenia Tông Truyền để hội kiến với Đức Tổng Thượng Phụ và chào thăm phái đoàn 45 GM của giáo hội này vào lúc 7 giờ rưỡi tối. Sau đó ngài đã dùng bữa tối và qua đêm cũng tại dinh này.

Chương trình viếng thăm của ĐTC thứ bẩy 25-6-2016

Thứ bẩy 25-6-2015, ĐTC sẽ đến viếng thăm và cầu nguyện tại Đài tưởng niệm sẽ tới đài tưởng niệm Tzitzernakaberd, hay còn gọi là ”Pháo đài chim én” nằm trên một ngọn đồi.

Đài tưởng niệm này được xây năm 1967 để tưởng niệm 1 triệu rưỡi người Armenia đã bị sát hại hồi năm 1915 dưới thời đế quốc Ottoman của Thổ Nhĩ kỳ. Các nạn nhân thuộc 29 tỉnh đã bị giết trong 3 năm trời. Khu vực này bao gồm một viện bảo tàng, một đài tưởng niệm với 12 cây cột và một bút tháp cao vút. Đài tưởng niệm hình tròn, chính giữa có ngọn lửa thiêng cháy suốt ngày đem và có 12 cây cột nghiêng chụm đầu vào nhau biểu tượng cho các tỉnh có các nạn nhân bi sát hại. thêm vào đó là hai cây kim cao vút lên trời ám chỉ sự tái sinh của dân nước Armenia.

Trong dịp này, ĐTC cũng sẽ thăm bảo tàng viện diệt chủng và gặp khoảng 10 người con cháu của những người Armenia bị bách hại.

Tiếp đến vào lúc 10 giờ, ngài sẽ đáp máy bay đến Gumri, thành phố lớn thứ hai của Armenia, để cử hành thánh lễ theo nghi thức la tinh cho các tín hữu. Ban trưa ngài viếng thăm và dùng bữa tại Tu viện Đức Mẹ Armenia của các nữ tu dòng Đức Mẹ Vô Nhiễm nguyên tội.

Ban chiều cùng ngày, ĐTC còn viếng nhà thờ chính tòa của Giáo Hội Armenia Tông truyền cũng tại Gumri rồi thăm nhà thờ Chính tòa của Công Giáo tại đây, trước khi bay trở lại thủ đô Yerevan.

G. Trần Đức Anh OP

 

Đức Thánh Cha bắt đầu viếng thăm Cộng Hòa Armenia

Đức Thánh Cha bắt đầu viếng thăm Cộng Hòa Armenia

Đức Thánh Cha bắt đầu viếng thăm Cộng Hòa Armeni

EREVAN. Chiều ngày 24-6-2016, ĐTC Phanxicô đã đến Yerevan để bắt đầu chuyến viếng thăm 3 ngày tại Cộng hòa Armenia, cho đến chiều chúa nhật 26-6-2016.

Đây là chuyến viếng thăm mục vụ thứ 14 của ngài tại nước ngoài và Armenia là quốc gia thứ 22 được ngài đến thăm. ĐTC sẽ trở lại vùng Caucase này để viếng thăm 2 nước láng giềng của Armenia là Cộng hòa Georgia và Azerbaigian vào tháng 9 năm nay.

Cùng đi với ĐTC trên chuyến bay có đoàn tùy tùng gồm 30 người và 70 ký giả Italia và quốc tế, không kể hơn 600 ký giả đã đăng ký tại phòng báo chí của Armenia để theo dõi và tường thuật về cuộc viếng thăm của ĐTC.

Armenia là một quốc gia bé nhỏ chỉ rộng gần 30 ngàn cây số vuông, với hơn 2 triệu 900 ngàn dân cư, trong đó 90% là tín hữu thuộc Giáo Hội Armenia tông truyền, và khoảng 10% tức là 280 ngàn tín hữu Công Giáo Armenia, với 3 giáo phận do 3 GM coi sóc và 40 giáo xứ được 30 LM triều và dòng phụ trách. Ngoài ra có 50 ngàn tín hữu Công Giáo la tinh sinh sống tại nước này.

Trên huy hiệu chính thức cuộc viếng thăm của ĐTC có hàng chữ: ”ĐGH Phanxicô tại Armenia từ 24 đến 26-6-2016. Cuộc viếng thăm tại nước Kitô đầu tiên.” Armenia đã được rửa tội theo Kitô giáo hồi năm 301, tức là 12 năm trước khi đế quốc Roma được hoàng đế Constantino tha bắt đạo.

Biến cố kỷ niệm 1700 năm Armenia lãnh nhận bí tích rửa tội đã được mừng trọng thể cách đây 15 năm (2001), đặc biệt với cuộc viếng thăm của thánh Gioan Phaolô 2 Giáo Hoàng tại đây từ ngày 25 đến 27-9-2001.

Tiếp đón

Sau 4 giờ bay, vượt qua 3 ngàn cây số, ĐTC và đoàn tùy tùng đã tới phi trường Zvartnots của thủ đô Yerevan vào lúc gần 3 giờ chiều giờ địa phương, tức là gần 1 giờ trưa giờ Roma. Yerevan ở cao độ 1 ngàn mét và có từ 3 ngàn năm nay. Đây cũng là thành phố lớn nhất của Armenia với hơn 1 triệu 200 ngàn dân cư, tức là chiếm hơn 1 phần 3 dân số toàn quốc.

 

Tổng thống Cộng hòa Armenia, Ông Serzb Sargsyan, cùng với phu nhân và Đức Tổng Thượng phụ Karekin II và Đức Thượng Phụ Công Giáo Armenia Grégoire Pierre 20 Ghabroan cùng một số GM Công Giáo và chính quyền đã chào đón ĐTC tận chân thang máy bay. Hai em bé trong quốc phục đã dâng cho ngài bánh và muối như một cử chỉ chào mừng.

Sau nghi thức chào cờ và duyệt qua hàng quân danh dự, ĐTC đã được tháp tùng về trụ sở Giáo Hội Armenia Tông Truyền ở Etchmiadzin cách đó 12 cây số.

”Tòa Thánh” Etchmiadzin

Thành phố này chỉ có 56 ngàn dân cư cách thủ đô Yerevan 18 cây số về mạn tây, gồm nhiều dinh thự khác nhau, trong đó có dinh tông tòa, Nhà thờ chính tòa, giáo phủ, chủng viện, nhà khách và một bảo tàng viện lưu trữ nhiều bảo vật và thủ bán quí giá. Đây la ”Vaticvan” của Giáo Hội Armeni tông truyền, trung tâm hành chánh và tôn giáo của Armenia sau khi Kitô giáo được chọn làm quốc giáo tại đây từ năm 301.

Theo truyền thống, các cuộc viếng thăm của các vị thủ lãnh tôn giáo bắt đầu với một nghi thức cầu nguyện ngắn tại Nhà thờ chính tòa ở Etchmiadzin và ĐTC Phanxicô cũng không đi ra ngoài thông lệ đó của Giáo Hội Armeni Tông truyền.

Nghi thức bắt đầu bằng bài nguyện ca Hrashapar dâng kính thánh Gregorio Vị Soi sáng, trong khi ĐTC và Đức Karekin II cùng hôn bàn thờ, và hai vị GM đọc thánh vịnh 122: ”Vui dường nào khi thiên hạ bảo tôi: Nào ta hãy đi về nhà Chúa. Chân chúng tôi đã dừng lại ở cửa ngươi, hỡi Jerusalem!”.

 Lên tiếng sau lời chào mừng của Đức Tổng thượng Phụ Karekin, ĐTC ca ngợi đức tin của nhân dân Armenia, sự giao hảo và cộng tác tốt đẹp giữa Giáo Hội này với Cộng Giáo, đồng thời ngài nhắc đến những thách đố đang chờ đợi hai Giáo Hội. Ngài nói:

”Trong dịp long trong này, tôi cảm tạ Chúa vì ánh sáng đức tin được thắp lên nơi đất nước của anh chị em, niềm tin đã mang lại cho Armenia căn tính đặc thù và làm cho Armenia trở thành sứ giả của Chúa Kitô giữa các dân nước. Chúa Kitô là vinh quang, là ánh sáng, là mặt trời chiếu soi anh chị em và ban cho anh chị em sự sống mới, tháp tùng và nâng đỡ anh chị em, đặc biệt trong những lúc thử thách cam go. Tôi cúi đầu trước lòng thương xót của Chúa, Đấng đã muốn cho Armeni trở thành quốc gia đầu tiên, ngay từ năm 301, đón nhận Kitô giáo như tôn giáo của mình, trong một thời kỳ đế quốc Roma vẫn còn hung hăng bách hại.

Niềm tin nơi Chúa Kitô, đối với Armenia không phải như chiếc áo người ta có thể mặc vào hoặc cởi ra tùy theo hoàn cảnh hoặc theo cơ hội thuận tiện, nhưng là một thực tại cấu thành chính căn tính của mình, một hồng ân bao la cần đón nhận và gìn giữ với quyết tâm và lòng can đảm, dù phải hy sinh mạng sống. Như Thánh Gioan Phaolô 2 đã viết, ”Với phép rửa của cộng đoàn Armeni […] đã nảy sinh một căn tính mới của dân tộc, sau này trở nên thành phần cấu thành và không thể tách rời khỏi chính bản thể của Armeni. Từ đó không còn có thể nghĩ rằng, trong số các yếu tố cấu thành căn tính ấy, không có niềm tin nơi Chúa Kitô như một yếu tố nòng cốt” (Tông Thư nhân 1700 năm dân Armenia chịu phép rửa, 2-2-2001). Xin Chúa chúc lành cho anh chị vì chứng tá đức tin sáng ngời, chứng tỏ cụ thể hiệu năng mạnh mẽ và phong phú của phép rửa tội được lãnh nhận cách đây hơn 1,700 năm..

ĐTC cũng nói rằng: ”Tôi cảm tạ Chúa vì hành trình mà Giáo Hội Công Giáo và Giáo Hội Armenia Tông Truyền đã thực hiện qua cuộc đối thoại chân thành và huynh đệ, để đạt tới sự chia sẻ trọn vẹn bàn tiệc Thánh Thể. Xin Chúa Thánh Linh giúp chúng ta thực hiện sự hiệp nhất mà Chúa đã cầu xin, để các môn đệ của Người được nên một, hầu cho thế gian tin.

ĐTC nhắc đến những giai đoạn quan trọng trong cuộc đối thoại đại kết giữa hai Giáo Hội, với sự đẩy mạnh trong thời gian gần đây nhờ Đức Tổng Thượng Phụ Vasken I và Karekin I, nhờ thánh Gioan Phaolô 2 và ĐGH Biển Đức 16.

Nhắc đến những thách đố đang chờ đợi, ĐTC nói:

”Rất tiếc là thế giới đang bị ghi đậm những chia rẽ và xung đột, cũng như những hình thức nghèo đói trầm trọng về vật chất và tinh thần, kể cả nạn bóc lột người, cho đến cả các trẻ em và người già, thế giới ấy đang chờ đợi nơi các tín hữu Kitô một chứng tá về sự quí chuộng nhau và cộng tác huynh đệ, làm cho quyền năng và chân lý về sự phục sinh của Chúa Kitô chiếu tỏa rạng ngời trước mặt mọi lương tâm. Sự dấn thân kiên nhẫn và đổi mới tiến về sự hiệp nhất trọn vẹn, sự tăng cường những sáng kiến chung và sự cộng tác giữa mọi môn đệ của Chúa để mưu công ích, giống như ánh sáng rạng ngời trong đêm đen và là một lời kêu gọi hãy sống trong tình bác ái và cảm thông nhau, dù có những khác biệt. Tinh thần đại kết có một giá trị gương mẫu kể cả đối với thế giới ở ngoài biên cương của cộng đồng Giáo Hội, và là một lời mạnh mẽ kêu gọi mọi người hãy giải quyết những bất đồng bằng con đường đối thoại và đề cao giá trị của những gì liên kết chúng ta. Ngoài ra tinh thần đại kết ngăn cản sự lợi dụng và lèo lái đức tin, vì nó buộc phải tái khám phá những căn cội chân thực, trao đổi, bảo vệ và phổ biến chân lý trong niềm tôn trọng phẩm giá của mỗi người và theo những thể thức qua đó người ta thấy được sự hiện diện của tình thương và ơn cứu độ mà ta muốn phổ biến. Như thế chúng ta sẽ trình bày cho thế giới một chứng tá đầy sức thuyết phục, chứng tá mà thế giới rất cần, đó là Chúa Kitô hằng sống và đang hoạt động, Ngài luôn có thể mở ra những con đường mới, hòa giải giữa các dân nước, các nền văn minh và tôn giáo. Chúng ta làm chứng và làm cho chân lý này trở nên đáng tin, đó là Thiên Chúa là tình thương và thương xót.”

Cuộc viếng thăm và cầu nguyện kết thúc với kinh Lạy Cha và phép lành của ĐTC và Đức Tổng Thượng Phụ Karekin. Ngài nghỉ ngơi tại dinh Tông Tòa, trước khi đến thăm Tổng thống Armenia và gỡ 240 người thuộc chính quyền, ngoại giao đoàn và các giới chức xã hội văn hóa vào lúc 5 giờ rưỡi chiều.

G. Trần Đức Anh OP

Sứ điệp Video của Đức Thánh Cha gửi Armenia

Sứ điệp Video của Đức Thánh Cha gửi Armenia

Sứ điệp Video của Đức Thánh Cha gửi Armeni

VATICAN. ”Tôi đến Armenia để hỗ trợ mọi nỗ lực hòa bình và chia sẻ với người dân nước này những bước tiến trên con đường hòa giải mang lại hy vọng.”

Đây là điều ĐTC Phanxicô quả quyết trong sứ điệp Video gửi nhân dân Armenia, quốc gia ngài sẽ viếng thăm từ ngày hôm nay, 24-6 đến hết chúa nhật 26-62016. Ngài khẳng định rằng: ”Với ơn Chúa giúp, tôi đến giữa anh chị em để thực hiện ”cuộc viếng thăm tại quốc gia Kitô đầu tiên”, như khẩu hiệu của chuyến viếng thăm này diễn tả. Tôi đến như một người lữ hành trong Năm Thánh này, kể kín múc sự khôn ngoan cổ kính của dân tộc anh chị em và để uống nơi những nguồn đức tin của anh chị em. đức tin sắt đá, như những thánh giá thời gian được khắc trên đá.

ĐTC cũng bày tỏ lòng ngưỡng mộ đối với lịch sử dân tộc và đất nước Armenia. Ngài nói: ”Lịch sử và những thăng trầm của dân tộc yêu quí của anh chị em gợi lên trong tôi lòng ngưỡng mộ và đau thương: ngưỡng mộ vì anh chị em đã tìm được nơi thập giá Chúa Kitô và trong năng khiếu của mình sức mạnh để luôn đứng dậy, kể cả từ những đau khổ thuộc hàng kinh khủng nhất mà nhân loại nhớ được; đau khổ vì những thảm kích mà cha ông anh chị em đã chịu trong thân xác của mình.

”Chúng ta đừng để cho những ký ức đau thương chiếm đoạt tâm hồn chúng ta; cả khi đứng trước những cuộc tấn công tái diễn của sự ác, chúng ta đừng đầu hàng. Đúng hơn, chúng ta hãy làm như ông Noe, sau trận hồng thủy, đã không mỏi mệt nhìn lên trời cao và nhiều lần thả chim câu,cho đến khi nó trở lại, mang theo cành lá non của cây ôliu (St 8,11).

ĐTC nói thêm rằng: ”Như một người phục vụ Tin Mừng và sứ giả hòa bình, tôi đến giữa anh chị em, để hỗ trợ mọi nỗ lực trên con đường hòa bình và tôi chia sẻ những bước đường của anh chị em trên con đường hòa giải sinh ra hòa bình” (SD 22-6-2016)

G. Trần Đức Anh OP

 

Các người nghèo, người bị loại trừ và bệnh tật là thịt xác của Chúa Kitô

Các người nghèo, người bị loại trừ và bệnh tật là thịt xác của Chúa Kitô

ĐTC Phanxicô chụp hình với nhóm 12 thanh niên Phi châu tỵ nạn trong buổi tiếp kiến chung sáng thứ tư 22-6-2016

Các người nghèo, ngưòi bị loại trừ và bệnh tật là thịt xác của Chúa Kitô. Khi giơ tay đụng đến người phong cùi, Chúa Giêsu dậy chúng ta đừng sợ hãi đụng chạm tới người nghèo và người bị loại trừ, bởi vì Ngài ở trong họ. Đụng chạm tới người nghèo có thể thanh tẩy chúng ta khỏi sự giả hình, và khiến cho chúng ta lo lắng cho điều kiện của họ.

ĐTC Phanxicô đã khẳng định như trên với hơn 40,000 tín hữu và du khách hành hương năm châu trong buổi tiếp kiến chung sáng thứ tư hôm qua. Trong số các đoàn hành hương hiện diện cũng có một đoàn hành hương 50 người đến từ Việt Nam, do các cha Dòng Tên hướng dẫn. Cũng có một nhóm  12 người Phi châu tỵ nạn được Caritas Firenze hướng dẫn về hành hương Roma, gặp và chụp hình chung với ĐGH sau buổi tiếp kiến.

Trong bài huấn dụ ĐTC giải thích ý nghĩa lòng thương xót của Chúa Giêsu khi làm phép lạ cho người phong cùi được khỏi bệnh. Ngài nói: “Lạy Chúa, nếu Chúa muốn Chúa có thể thanh tầy con” (Lc 5,12): đó là lời xin mà chúng ta vừa nghe từ một người phong cùi. Người này không chỉ xin được chữa lành, nhưng được “thanh tẩy”, nghĩa là được chữa lành một cách toàn vẹn, trên thân xác và trong con tim. Thật thế, bệnh phong cùi đã bị coi như một hình thức chúc dữ của Thiên Chúa, của sự ô uế sâu xa. Người phong cùi phải ở xa tất cả mọi người; họ không thể đến đền thờ và tham dự việc thờ phượng Thiên Chúa. Xa cách Thiên Chúa và xa cách loài người. Họ có cuộc sống buồn thương.

Mặc dù vậy, người phong cùi này không chịu trận đối với bệnh tật cũng như đối với các quy định khiến cho anh ta trở thành một kẻ bị loại trừ. Để đến với Chúa Giêsu anh ta đã không sợ hãi vi phạm luật lệ, đi vào thành phố, là phạm điều anh ta không được làm, điều bị cấm; và khi tìm thấy Chúa anh quỳ gối xuống trước mặt Ngài và cầu xin Ngài: “Lạy Chúa, nếu Chúa muốn, Chúa có thể thanh tẩy con” (c. 12). Tất cả những  gì mà người bị coi là ô uế này làm và nói diễn tả đức tin của anh.  Anh nhìn nhận quyền năng của Chúa Giêsu: anh chắc chắn rằng Ngài có quyền chữa lành anh, và tất cả tuỳ thuộc nơi ý muốn của Ngài. Đức tin này là sức mạnh cho phép anh bẻ gẫy mọi quy ước và tìm gặp Chúa Giêsu, quỳ gối trước mặt Ngài, gọi Ngài là “Chúa”. ĐTC giải thích thêm cung cách hành xử  của người phong cùi như sau:

Lời khẩn nài của người phong cùi cho thấy rằng khi chúng ta đến với Chúa Giêsu, không cần phải làm các diễn văn dài dòng. Chỉ cần ít lời thôi, miễn là chúng được đi kèm bởi sự tin tưởng tràn đầy nơi sự toàn năng và lòng lành của Chúa. Thật thế, tín thác nơi ý muốn của Thiên Chúa có nghĩa là phó mình cho lòng thương xót vô biên của Ngài. Tôi cũng xin thổ lộ với anh chị em một điều riêng tư. Buổi tối trước khi đi ngủ, tôi đọc lời cầu nguyện ngắn này: “Lậy Chúa, nếu Chúa muốn, Chúa có thể thanh tầy con”. Và tôi đọc một Kinh Lạy Cha cho mỗi một vết thương của Chúa Giêsu, bởi vì Chúa Giêsu đã thanh tẩy chúng ta với các vết thương của Ngài. Mà nếu tôi làm điều này, thì anh chị em cũng có thể làm ở nhà và nói: “Lậy Chúa, nếu Chúa muốn, Chúa có thể thanh tẩy con” và đọc một Kinh Lậy Cha cho mỗi vết thương. Và Chúa Giêsu luôn luôn lắng nghe chúng ta.

Tiếp tục bài huấn dụ ĐTC nói: Chúa Giêsu bị người phong cùi này đánh động một cách sâu xa. Tin Mừng thánh Marcô nhấn mạnh rằng “Ngài cảm thương anh ta, giơ tay ra đụng tới anh và nói: “Ta muốn, hãy được thanh tẩy” Cử chỉ của Chúa Giêsu đi kèm theo các lời nói của Ngài và khiến cho giáo huấn của Ngài được rõ ràng hơn. Chúa Giêsu giơ tay ra và còn đụng vào người phong cùi nữa, chống lại Lề Luật Môshê cấm đến gần một người phong cùi (x. Lv 13,45-436). Chống lại mọi điều luật, Chúa Giêsu giơ tay và còn đụng tới anh nữa. Có biết bao lần chúng ta găp gỡ một người nghèo đến gặp chúng ta! Chúng ta cũng có thể quảng đại, có thể cảm thương, nhưng không đụng tới tay họ. chúng ta cho họ một đồng bạc, nhưng tránh đụng tới tay họ, chúng ta vứt đồng bạc ở đó. Và chúng tra quên rằng người đó là thịt xác của Chúa Kitô ! Chúa Giêsu dậy chúng ta đừng sợ hãi đụng tới người nghèo và người bị loại trừ, bởi vì Ngài ở trong họ. Dụng chạm tới người nghèo có thể thanh tẩy chúng ta khỏi sự giả hình và khiến cho chúng ta lo lắng cho điều kiện của họ. Đụng chạm tới những người bị loại trừ. Hôm nay có các người trẻ này đồng hành với tôi. Có biết bao người nghĩ rằng họ ở lại trong đất nước của họ thì tốt hơn, nhưng tại đó họ đau khổ biết bao! Họ là những người tỵ nạn của chúng ta, nhưng biết bao người coi họ là những kẻ bị loại trừ. Tôi xin anh chị em, họ là anh em của chúng ta! Kitô hữu không loại trừ ai hết, nhưng cho họ chỗ và để cho tất cả mọi người đến.

Sau khi đã chữa lành người phong cùi, Chúa Giêsu truyền cho anh đừng nói với ai, nhưng Ngài bảo anh: “Hãy đi trình diện tư tế, và dâng lễ vật cho việc thanh tẩy như Môshê dậy để làm chứng cho họ” (c. 14). Việc sắp đặt này của Chúa Giêsu cho thấy ít nhất ba điều. Thứ nhất, ơn thánh hoạt động trong chúng ta không tìm khuynh hướng cảm xúc. ĐTC giải thích:

Bình thường ơn thánh di chuyển một cách kín đáo và không gây ồn ào. Để chữa lành các vết thương của chúng ta và dẫn chúng ta trên con đường của sự thánh thiện, ơn thánh làm việc bằng cách kiên nhẫn nhào nắn con tim chúng ta theo Trái Tim của Chúa, như vậy để nó càng ngày càng có các tư tưởng và tâm tình của Chúa hơn. Thứ hai, khi chính thức làm cho các tư tế kiểm thực việc lành bệnh đã xảy ra, và dâng một hy lễ đền tội, người phong cùi được tái gia nhập cộng đoàn tín hữu và cuộc sống xã hội. Việc tái hội nhập anh thành toàn việc lành bệnh. Như chính anh đã xin, giờ đây anh được thanh tẩy hoàn toàn. Sau cùng, khi trình diện với các tư tế, người phong cùi làm chứng cho Chúa Giêsu và quyền bính cứu thế của Ngài. Sức mạnh của lòng thương xót mà Chúa Giêsu dùng để chữa lành người phong cùi đã đưa đức tin của người ấy tới chỗ rộng mở cho việc truyền giáo. Anh đã là một người bị loại trừ, giờ đây anh trở thành một người trong chúng ta.

Rồi ĐTC kết thúc bài huấn dụ như sau: Chúng ta hãy nghĩ tới mình, tới các khốn nạn của mình… Mỗi người đều có sự khốn nạn của mình. Chúng ta hãy suy tư với lòng chân thành. Có biết bao lần chúng ta bao che chúng với sự giả hình của các “cung cách hành xử tốt”. Nhưng chính khi đó lại cần ở một mình hơn cả, quỳ gối xuống trước mặt Thiên Chúa và cầu nguyện: “Lạy Chúa, nếu Chúa muốn, Chúa có thể thanh tẩy con”. Và anh chị em hãy làm điều đó, hãy làm điều đó mỗi chiều trước khi đi ngủ. Và bây giờ chúng ta hãy nói lên lời cầu đẹp này: “Lạy Chúa, nếu Chúa muốn, Chúa có thể thanh tẩy con”. Tất cả cùng nhau lập lại ba lần: “Lạy Chúa, nếu Chúa muốn, Chúa có thể thanh tẩy con”. “Lạy Chúa, nếu Chúa muốn, Chúa có thể thanh tẩy con”. “Lạy Chúa, nếu Chúa muốn, Chúa có thể thanh tẩy con”. Xin cám ơn anh chị em.

ĐTC đã chào nhiều đoàn hành hương khác nhau đến từ các nước Anh, Thụy Điển, Pháp, Đức, Áo, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Canada, Hoa kỳ, Trung quốc, cũng như các đoàn hành hương đến từ các nước châu Mỹ Latinh như Brasil.

Trong số các nhóm hành hương Pháp ĐTC đặc biệt chào phái đoàn đại biểu dấn thân trong xã hội dân sự do ĐC Dominique Rey hướng dẫn. Ngài khuyến khích họ hãy dám đụng chạm tới người nghèo đang muốn chúng ta trợ giúp họ. Cử chỉ này giải thoát chúng ta khỏi sự giả hình và tha thứ nhiều tội lỗi cho chúng ta.

Chào các đoàn hành hương nói tiếng Anh ĐTC cầu mong Năm Thánh Lòng Thương Xót là dịp giúp gia đình họ nhận được nhiều ơn thánh Chúa và giúp canh tân tinh thần.

Chào các đoàn hành hương nói tiếng Đức ĐTC cầu mong tháng 6 kính Thánh Tâm Chúa Giêsu giúp mọi người ý thức được lòng thương xót của Chúa Giêsu đối với nhân loại và thắp lên nơi từng người ngọn lửa đức tin truyền giáo.

Với các nhóm nói tiếng Bồ Đào Nha ngài đặc biệt chào các thành viên cộng đoàn Doce Mãe de Deus, và các thành viên hiệp hội Escuteiros giáo phận Leira. Ngài khích lệ họ dấn thân phục vụ các lý tưởng cao đẹp bằng cách tận dụng mọi khả năng Chúa ban.

Chào các nhóm Ba Lan ngài nhắn nhủ họ noi gương người phong cùi kêu lên Chúa để Ngài giải thoát khỏi tội lỗi và các quên sót, đồng thời luôn nhớ rằng Thiên Chúa không bao giờ bỏ rơi chúng ta, trái lại Ngài đến gặp gỡ, chữa lành, xá giải và tha thứ tội lỗi chúng ta.

Trong số nhiều đoàn hành hương Italia ĐTC chào tín hữu các giáo phận Alba, Alghero-Bosa, do các Giám Mục hướng dẫn, các bác sĩ và người thiện nguyện của nhà thương bách khóa Gemelli thành viên tổ chức “Trao ban cuộc sống với con tim”. Ngài cám ơn họ vì các hoạt động khám tim miễn phí cho người nghèo với phòng khám di động. Ngoài ra ngày thứ năm vừa qua nhà thương cũng đã khánh thành  nhà ngủ cho các người vô gia cư, do cộng đồng thánh Egidio điều hành, thành quả của Năm Thánh Lòng Thương Xót. ĐTC cũng chào các tham dự viên đại hội Giostra del Saracino tỉnh Arezzo, năm nay có đề tại là lòng thương xót. Ngài khích lệ họ dấn thân gợi lại các biến cố lịch sử và phổ biến sứ điệp hoà bình, đối thoại và đối chiếu các nền văn hóa nhân danh thánh Phanxicô.

Chào các bạn trẻ, ĐTC khích lệ họ tận dụng các tài năng Chúa ban. Ngài xin các anh chị em đau yếu dâng hiến khổ đau cho Chúa Kitô để cộng tác vào việc cứu độ thế giới. và nhắn nhủ các đôi tân hôn ý thức sứ mệnh không thể thay thế được của họ trong bí tích hôn nhân.

Buổi tiếp kiến đã kết thúc với Kinh Lạy Cha và phép lành toà thánh ĐTC ban cho mọi người.

Linh Tiến Khải

Hãy nhìn mình trong tấm gương trước khi xét đoán người khác

Hãy nhìn mình trong tấm gương trước khi xét đoán người khác

Thánh lễ sáng tại nguyện đường thuộc Nhà Thánh Marta, thứ Hai, ngày 20.06.2016

VATICAN. Trước khi xét đoán người khác, chúng ta nên nhìn vào tấm gương để thấy chính bản thân chúng ta như thế nào. Đây là nội dung bài giảng của Đức Thánh Cha Phanxicô trong thánh lễ sáng thứ Hai, 20.06, tại nguyện đường thuộc Nhà Thánh Marta. Trong thánh lễ cuối cùng tại nhà nguyện này trước kỳ nghỉ mùa hè, Đức Thánh Cha đã chỉ ra rằng điều phân biệt giữa sự phán xét của Thiên Chúa và sự xét đoán của con người chính là ‘Lòng Thương Xót’ chứ không phải sự ‘Toàn Năng’.

Chỉ Thiên Chúa mới có quyền phán xét. Vì thế, nếu không muốn bị xét xử, chúng ta đừng xét đoán người khác. Khởi đi từ bài đọc Tin Mừng, Đức Thánh Cha nói rằng: “Tất cả chúng ta ai cũng mong muốn Thiên Chúa đoái thương nhìn đến với sự quảng đại và tấm lòng tha thứ trong ngày Phán Xét. Chúng ta cũng mong Chúa quên đi những lầm lỗi cùng những điều xấu xa mà chúng ta đã vấp phạm trong đời.

Đức Giêsu sẽ gọi chúng ta là những kẻ đạo đức giả nếu chúng ta xét đoán người khác. Nếu ‘anh em đong đấu nào, thì Thiên Chúa cũng sẽ đong đấu ấy cho anh em.’ Thiên Chúa đòi hỏi chúng ta phải nhìn xem mình trong tấm gương.

Nhìn xem mình trong gương không phải để trang điểm, to son kẻ mắt. Không! Không phải là chuyện trang điểm. Nhưng nhìn vào gương là để thấy mình như chính mình là. ‘Sao anh thấy cái rác trong con mắt của người anh em, mà cái xà trong con mắt của mình thì lại không để ý tới?’ Hay ‘sao anh lại nói với người anh em: hãy để tối lấy cái rác ra khỏi mắt bạn, trong khi có cả một cái xà trong con mắt anh?’ Vậy Thiên Chúa sẽ nhìn chúng ta như ra sao, khi chúng ta hành xử như thế này? Một câu thôi: ‘đạo đức giả’. ‘Hãy lấy cái xà ra khỏi mắt anh trước đã, rồi anh sẽ thấy rõ, để lấy cái rác ra khỏi mắt người anh em.’

Hãy cầu nguyện cho tha nhân chứ đừng xét đoán họ

Chúng ta nhận thấy rằng Chúa có vẻ hơi tức giận khi nói những điều này. Ngài mắng chúng ta là kẻ đạo đức giả khi chúng ta dám đặt mình vào vị trí của Thiên Chúa để xét xử người khác. Đây chính là điều mà con rắn xưa đã cám dỗ ông bà Adam và Eva: Nếu các ngươi ăn trái ấy, các ngươi sẽ nên như Thiên Chúa. Và ông bà đã muốn giành lấy vị trí của Thiên Chúa.

Phát xét là chuyện thuộc riêng về Thiên Chúa, chỉ mình Ngài mà thôi. Còn nhiệm vụ của chúng ta là hãy yêu, cảm thông, thấu hiểu và cầu nguyện cho tha nhân khi ta nhận thấy những điều trái tai gai mắt, hay không được tốt đẹp cho lắm. Thiên Chúa mời gọi chúng ta hãy đến nói chuyện, gặp gỡ với người khác cách nhã nhặn, lịch sự để từ đó họ có thể nhận ra được những lỗi lầm của họ. Đừng bao giờ xét đoán. Đừng bao giờ. Nếu xét đoán, chúng ta sẽ là những kẻ đạo đức giả.

Xét đoán của chúng ta thiếu đi lòng thương xót, chỉ Thiên Chúa mới có quyền xét xử

Khi chúng ta xét đoán người khác, chúng ta đặt mình vào vị trí của Thiên Chúa. Nhưng xét đoán của chúng ta là một xét đoán tồi tệ và nghèo nàn, không bao giờ có thể là một phán xét đúng nghĩa được. Tuy nhiên, liệu xét đoán của ta có giống được với phát xét của Thiên Chúa không? Xin thưa là không. Bởi vì Thiên Chúa toàn năng, còn chúng ta thì không. Xét đoán của chúng ta sẽ thiếu đi tình thương xót. Còn khi phán xét, Thiên Chúa sẽ xét xử với lòng nhân hậu và đầy tình thương.

Ngày hôm nay, hãy ngẫm nghĩ thật nhiều về những điều Thiên Chúa nói với chúng ta: Đừng xét đoán, để khỏi bị Thiên Chúa xét đoán; đong đấu nào thì Thiên Chúa sẽ đong lại bằng đấu ấy; và cuối cùng, chúng ta hãy nhìn vào tấm gương trước khi muốn xét đoán người khác. ‘Tại sao anh kia lại làm cái này? Tại sao chị kia lại làm cái nọ?…’ Ta đừng vội vã xét đoán ngay. Hãy dừng lại chút đã. Hãy nhìn chính bản thân mình trong tấm gương và ngẫm nghĩ. Chúng ta xét đoán, chúng ta sẽ là những kẻ đạo đức giả, vì đã dám đặt mình vào vị thế của Thiên Chúa. Và sự xét đoán của chúng ta cũng thật nghèo nàn, tệ hại. Xét đoán của nhân loại thiếu đi lòng thương xót của Thiên Chúa. Xin Thiên Chúa ban ơn để mỗi người chúng ta có thể thấu hiểu được những điều này.”

Vũ Đức Anh Phương SJ

Khoảng 1500 bạn trẻ Philippine tham dự ngày Quốc tế Giới trẻ tại Cracovia

Khoảng 1500 bạn trẻ Philippine tham dự ngày Quốc tế Giới trẻ tại Cracovia

Cờ hiệu ngày Quốc tế giới trẻ ở Cracovia

Khoảng 1500 bạn trẻ Philippine dự kiến sẽ tham dự ngày Quốc tế Giới trẻ tại Cracovia, Balan vào cuối tháng 7 tới đây. Dự kiến sẽ có khoảng 2,5 triệu ngừoi trẻ từ khắp thế giới tham dự ngày hội đặc biệt này.

Johann Mangussad, một nhà thiết kế công nghiệp 27 tuổi, cho biết, anh không chờ đợi bất cứ điều gì đặc biệt ở Balan nhưng chỉ muốn thấy Chúa Giê-su. Anh nói: “Tôi muốn thấy Chúa trong mắt của mỗi người và mọi người tôi gặp. Tôi muốn cảm nhận sự hiện diện của Người”.

Sky Ortigas, đã tham dự ngày Quốc tế Giới trẻ 2 lần và đang chờ tham dự lần 3 chia sẻ: “Âm nhạc trong các nghi thức cử hành truyền cảm hứng và làm tôi xúc động, và cách nào đó làm cho tôi mong muốn biết Chúa nhiều hơn. Nhìn thấy mọi quốc gia và chủng tộc quỳ gối trước Chúa Ki-tô thì thật là tuyệt vời”.

Đoàn giới trẻ chính thức của Philippine sẽ được đại diện bởi 320 bạn trẻ đến từ Ủy ban Giới trẻ của Hội đồng Giám mục và mạng lưới mục vụ giới trẻ. Stephen Borja, thư ký của Ủy ban cho biết là các tổng giáo phận lớn như Manila và Cebu và các giáo phận như Cubao, Novaliches, Paranaque, và San Pablo cũng sẽ gửi các đoàn của riêng họ. Trung tâm mục vụ Mindanao-Sulu cũng gửi một đoàn từ khoảng 21 giáo phận ở miền nam Philippine. Trong khi đó, tòa Đại sứ Balan ở Manila cho biết họ đã nhận được it nhất 2200 đơn xin visa từ Philippin.

Trước khi đi đến Cracovia, các thành viên của đoàn Philippine sẽ gặp gỡ chuẩn bị. Borja cho biết: đây không chỉ là phần chuẩn bị trước mắt nhưng còn để củng cố tinh thần cộng đồng và chia sẻ quan điểm trong việc thực hiện cuộc hành hương này. Các nhóm đầu tiên của các đoàn sẽ đi Balan vào ngày 17/7 để tham dự “Ngày giáo phân”, một hoạt động trước khi đại hội Giới trẻ chính thức bắt đầu từ 26-31/7.

Đức Hồng Y của Manila Luis Antonio Tagle sẽ tham dự Đại hội cùng với Đức cha Joel Baylon của Legazpi, chủ tịch Văn phòng Giới trẻ của Phân bộ Giáo dân và Gia đình của Liên Hội đồng Giám mục châu Á. (Ucan news 21/6/2016)

Hồng Thủy Op

Đức Thánh Cha viếng thăm Villa Nazareth

Đức Thánh Cha viếng thăm Villa Nazareth

Đức Thánh Cha viếng thăm Villa Nazareth

ROMA. Lúc 5 giờ chiều 18-6-2016, ĐTC đã đến viếng thăm Villa Nazareth ở Roma và trả lời nhiều câu hỏi thời sự do các bạn trẻ nêu lên.

Trung tâm này ở gần Nhà Quản Lý Phát Diệm, và do ĐHY Dominico Tardini, sau này là Quốc vụ khanh Tòa Thánh, thành lập cách đây 70 năm (1946) để đón nhận các trẻ mồ côi và con cái của những gia đình nghèo và đông con, với mục đích đề cao giá trị ơn gọi tông đồ của họ, phục vụ Giáo Hội và mưu thiện ích cho xã hội. Từ đó vào năm 1980, nảy sinh Hiệp hội ”Cộng đoàn Domenico Tardini” để đón tiếp giới trẻ và huấn luyện họ về đời sống Kitô. Năm 2004, Hội đồng Tòa Thánh về giáo dân nhìn nhận hiệp hội này như một Hội quốc tế của các giáo dân và thuộc quyền Tòa Thánh.

Tại Nhà nguyện của Villa Nazareth, ĐTC đã gặp gỡ các sinh viên, và chú giải cho họ đoạn Tin Mừng theo thánh Luca về người Samaritano nhân lành (Lc 10,25-37). Khi giải thích về phần này, ĐTC đặc biệt nói rằng:

Xin Chúa giải thoát chúng ta khỏi những linh mục đi vội vã

Thực vậy, ĐTC đã bình luận về thái độ của vị tư tế, thầy Lêvi, trong dụ ngôn người Samaritano nhân lành, vội vã đi mà không dừng lại cứu giúp người bị thương bên vệ đường, ngài nói:

”Xin Chúa giải thoát chúng ta khỏi những tên cướp, (như kẻ đã đả thương và cướp người đi đường). Có bao nhiêu tên cướp như vậy. Nhưng xin Chúa cũng giải thoát chúng ta khỏi những linh mục luôn vội đi, như người không có thời giờ để dừng lại giúp người bị thương, có thể là LM ấy phải đi đóng cửa nhà thờ, có một thời khóa biểu phải tôn trọng, không có giờ để lắng nghe và xem: họ phải làm những việc của mình. Xin Chúa giải thoát khỏi những nhà thông luật, như người không thể dừng lại, có thể đó là một luật sư không thể chịu nguy cơ đánh mất một ngày làm việc, và có lẽ là một ngày đi làm chứng ở tòa án.. Họ là một trong những người muốn trình bày đức tin nơi Chúa Giêsu với sự cứng nhắc của toán học. Xin Chúa dạy chúng ta dừng lại, và dạy chúng ta sự khôn ngoan của Tin Mừng. Nghĩa là xin Chúa cho chúng ta được bẩn tay: xin Chúa ban cho chúng ta ơn này”

Trả lời các câu hỏi

Sau đó, ĐTC gặp gỡ Cộng đoàn Villa Nazareth ở khuôn viên và trả lời 7 câu hỏi do một số đại diện cộng đoàn nêu lên, trước sự hiện diện của 1.300 người.

Trong số các câu trả lời, có những đoạn ĐTC khẳng định rằng:

Tại Trung Đông, có cuộc bách hại nhưng không có cuộc ”diệt chủng” Kitô

ĐTC cho biết ngài không thích dùng từ ”diệt chủng” để mô tả tình trạng các tín hữu Kitô ở Trung Đông, vì đây là một định nghĩa thu hẹp, chú ý tới vấn đề từ một cái nhìn xã hội học và như thế là thu hẹp thực tại phức tạp vào những thứ loại hoàn toàn theo năng động xã hội. Trong thực tế, ở Trung Đông, đó là một cuộc bách hại, ”đưa các tín hữu Kitô đến sự viên mãn niềm tin của họ”, là sự tử đạo, và có nghĩa là hy sinh mang sống của mình vì đức tin… Ví dụ các tín hữu Kitô Copte Ai Cập bị cắt cổ trên bãi biển ở Libia. Tất cả khi chết đều nói: ”Lạy Chúa Giêsu, xin giúp con”. Tôi chắc chắn rằng phần lớn họ không biết đọc biết viết, nhưng họ là những ”tiến sĩ về sự sống phù hợp với Kitô giáo, nghĩa là họ là những chứng nhân đức tin và đức tin khiến cho chúng ta làm chứng về bao nhiêu điều khó khăn trong cuộc sống..”. ĐTC cũng cảnh giác rằng: “Chúng ta đừng tự lừa mình. Sự tử đạo đổ máu không phải là cách thức duy nhất để làm chứng cho Chúa Giêsu Kitô ngày nay. Ngài nay chúng ta có nhiều tử đạo hơn so với những thế kỷ quá khứ, nhưng có một cuộc tử đạo hằng ngày: tử đạo vì kiên nhẫn, trong việc giáo dục con cái, trong sự chung thủy với tình yêu”.

Bao nhiêu lần tôi gặp khủng hoảng đức tin

Đáp một câu hỏi khác, ĐTC Phanxicô nói: ”Bao nhiêu lần tôi gặp khủng hoảng đức tin, nhiều lần tôi táo bạo trách Chúa Giêsu và nghi ngờ. Đây có phải là chân lý không? Đây là giấc mơ? Tôi đã gặp khủng hoảng như thế khi còn là một thiếu niên, chủng sinh, tu sĩ, linh mục, giám mục và cả khi làm giáo hoàng nữa”. Rồi ĐTC nhấn mạnh rằng ”một Kitô hữu không cảm thấy vài lần bị khủng hoảng vì đức tin thì họ thiếu một cái gì đó..” Ngài nói thêm rằng: ”Tôi không biết tiếng Hoa, với sinh ngữ tôi gặp nhiều khó khăn. Họ nói rằng từ khủng hoảng trong tiếng Hoa gồm 2 chữ gộp lại: rủi ro và cơ may”.

ĐTC cũng kêu gọi các bạn trẻ ”hãy chấp nhận rủi ro, nếu không cuộc sống của bạn dần dần sẽ bị tê liệt, hạnh phúc, hài lòng, nhưng nó bị dừng lại ở đó.. Thật là buồn khi thấy những người giống như những xác ướp ở trong bảo tàng viện hơn là một người sống động. Hãy chấp nhận rủi ro, hãy tiến bước!”

Tốt hơn đừng kết hôn nếu không ý thức về bí tích

ĐTC lập lại điều ngài đã nói trong hội nghị giáo phận Roma chiều thứ năm, 16-6-2016 ở Đền thờ Thánh Gioan Laterano: ”Tốt hơn đừng kết hôn nếu bạn không biết bí tích là gì!”. Ngài ghi nhận phần lớn các hôn nhân ngày nay là bất thành vì lý do đó”. Câu nói của ngài, khi công bố trên tờ thông tin của Phòng báo chí Tòa Thánh và báo Quan sát viên Roma, được điều chỉnh lại là ”một số hôn nhân ngày nay bất thành”.

Tại Villa Nazareth, ĐTC trở lại vấn đề này và giải thích rằng ”Ngày nay nhiều người không tự do trong nền văn hóa duy khoái lạc. Bí tích hôn phối chỉ có thể cử hành trong tự do, nếu không bạn đừng lãnh nhận bí tích này.. một số người kết hôn mà không biết điều mình làm. Có một nền văn hóa tạm bợ xâm nhập chúng ta, trong các giá trị và phán đoán của chúng ta. Điều này có nghĩa là hôn phối chỉ kéo dài bao lâu tình yêu còn kéo dài, rồi sau đó chấm dứt. Giáo Hội phải làm việc nhiều về điểm này trong việc chuẩn bị hôn phối”.

Nền kinh tế giết người, kỹ nghệ võ khí là doanh nghiệp nhiều lợi lộc.

ĐTC cũng nói rằng: ”Chiến tranh là doanh nghiệp hiện nay mang lại nhiều tiền bạc nhất. Nhiều khi Hội Chữ Thập Đỏ không đưa đồ cứu trợ đến nơi được. Nhưng võ khí vẫn luôn được đưa tới nơi, không có hải quan nào ngăn chặn chúng được”.

”Ngày nay có một nền kinh tế giết người. Nơi trung tâm kinh tế ấy không có con người nhưng chỉ có thần tiền bạc và điều này giết hại chúng ta. Một buổi sáng người ta thấy một người vô gia cư chết vì giá lạnh ở quảng trường Risorgimento (gần Vatican), điều này không thành tin tức. Nhưng nếu thị trường chứng khoán ở Tokio hay New York bị giảm 2, 3 phần trăm, thì nó trở thành một thảm họa quốc tế. Chúng ta là nô lệ của một chế độ giết người” (SD 18-6-2016)

G. Trần Đức Anh OP

 

Đức Thánh Cha viếng thăm hai cộng đoàn linh mục ở Roma

Đức Thánh Cha viếng thăm hai cộng đoàn linh mục ở Roma

Đức Thánh Cha viếng thăm hai cộng đoàn linh mục ở Roma

ROMA. Trong khuôn khổ các ”ngày thứ sáu từ bi thương xót” nhân dịp Năm Thánh, chiều ngày 17-6-2016, ĐTC đã viếng thăm một số các LM già yếu bệnh tật.

Phòng báo chí Tòa Thánh cho biết ĐTC đã chọn 2 cộng đoàn LM để thăm. Trước tiên là Cộng đoàn Núi Tabor nơi có 8 LM thuộc nhiều giáo phận, đang chịu đau khổ vì nhiếu thứ bệnh tật. Các vị được sự trợ giúp của một thày phó tế vĩnh viễn tên là Ermes Luparia. Thày nguyên là một đại tá không quân và nay là một chuyên gia tâm lý, thi hành công tác đồng hành trong tinh thần của các cha dòng Salvatoriani. Đến nơi ĐTC đã gặp các LM trong nhà nguyện nhỏ, lắng nghe và cầu nguyện với các vị.

Sau đó, ngài đến thăm Cộng đoàn các LM cao niên của giáo phận Roma, tên là ”Nhà thánh Gaetano”, hiện có 21 LM hưu dưỡng, trong đó có một số vị bị bệnh nặng. Các LM được 3 nữ tu và các nhân viên khác trợ giúp. Giám đốc nhà này là cha Antonio Antonelli nguyên là một cha sở trong nhiều năm và nay ngài cũng bị bệnh nặng.

Trong cuộc viếng thăm, ĐTC muốn bày tỏ với các LM lòng quí mến cụ thể và nồng nhiệt, đầy tinh thần an ủi, cũng như lòng lòng biết ơn của giáo phận và Giáo Hội.

Đây là lần thứ 6 trong Năm Thánh Lòng Thương Xót, ĐTC thực hiện những cử chỉ bác ái. Hồi tháng giêng ngài thăm một nhà dưỡng lão và các bệnh nhân sống như thực vật; tháng hai ngài thăm một cộng đoàn cai nghiện ma túy ở Castelgandolfo; trong tháng 3, trùng vào thứ 5 Tuần Thánh, ĐTC thăm Trung tâm tiếp đón người tị nạn ở Castelnuovo di Porto; tháng 4 ngài thăm người tị nạn và di dân tại đảo Lesbo thuộc Hy Lạp. Tháng năm vừa qua, ĐTC thăm cộng đồng Chicco dành cho những người khuyết tật nặng về tâm trí ở thị trấn Ciampino (RG 17-6-2016)

G. Trần Đức Anh OP