Thánh lễ tạ ơn Lễ Phong Thánh cho Mẹ Têrêsa

Thánh lễ tạ ơn Lễ Phong Thánh cho Mẹ Têrêsa

Thánh lễ tạ ơn Lễ Phong Thánh cho Mẹ Têrêsa

VATICAN. Sáng thứ hai 5-9-2016, ĐHY Pietro Parolin, Quốc vụ khanh Tòa Thánh, đã chủ sự thánh lễ tạ ơn nhân dịp lễ phong hiển thánh cho Mẹ Têrêsa Calcutta.

Đồng tế với ĐHY có hơn 30 Hồng Y, GM, gần 200 Linh mục, trước sự hiện diện của hơn 10 ngàn tín hữu tại Quảng trường thánh Phêrô, trong đó có đông đảo các nữ tu thừa sai bác ái.

Hôm qua, cũng là lễ kính thánh nữ Têrêsa Calcutta và là ngày giỗ lần thứ 19 (1997) của Mẹ.

Bài giảng của Đức Hồng Y

Trong bài giảng thánh lễ, ĐHY Quốc vụ khanh nhấn mạnh bí quyết cuộc sống và hoạt động của Mẹ Têrêsa là lời Chúa Giêsu như được công bố trong bài Tin Mừng của ngày lễ: ”Thật, Thầy bảo các con, tất cả những gì các con làm cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Thầy, là các con làm cho Thầy” (Mt 25,40).

”Mẹ Têrêsa đã khám phá nơi những người nghèo, khuôn mặt của Chúa Kitô, 'Đấng đã trở nên nghèo vì chúng ta để làm cho chúng ta trở nên giàu có nhờ cái nghèo của Ngài' (Xc 2 Cr 8,9). Mẹ đã đáp lại tình yêu vô biên của Chúa bằng một tình yêu vô biên đối với người nghèo.. Tình yêu Chúa Kitô thúc bách chúng ta” (2 Cr 5,14).

ĐHY Parolin cũng nhận xét rằng: ”Mẹ Têrêsa đã có thể trở thành một dấu dấu chỉ rất sáng ngời về lòng từ bi thương xót, như ĐTC đã nói trong bài giảng lễ Phong thánh: 'Lòng từ bi thương xót đối với Mẹ là 'muối' mang lại hương vị cho mỗi hoạt động của Mẹ và là 'ánh sáng' chiếu sáng bóng đêm của những người không còn nước mắt để khóc sự nghèo khổ của họ', vì Mẹ đã để cho mình được Chúa Kitô soi sáng, Chúa Kitô được thờ lạy, yêu mến, chúc tụng trong Thánh Thể, như chính Mẹ đã giải thích: ”Cuộc sống của chúng ta phải liên tục được nuôi dưỡng bằng Thánh Thể, vì nếu chúng ta không có khả năng nhìn thấy Chúa Kitô dưới hình bánh, thì chúng ta cũng không có thể khám phá Chúa dưới những vẻ khiêm hạ của những thân thể tiều tụy của người nghèo” (Xc Teresa di Calcutta, L'amore che dissetta, p.16).

Trong bài giảng, ĐHY Quốc vụ khanh Tòa Thánh, cũng nhắc đến một trong những hình thức nghèo khổ đau thương nhất, đó là biết mình không được thương yêu, không được mong muốn và bị khinh rẻ. Đó là một thứ nghèo cũng hiện diện tại các nước và các gia đình không nghèo, và cả nơi những người thuộc giới có những phương tiện và khả năng, nhưng cảm thấy tâm hồn trống rỗng vì đánh mất ý nghĩa và hướng đi của cuộc đời, hoặc bị thất vọng, sầu muộn vì những liên hệ bị phá vỡ, vì cô đơn trầm trọng, vì cảm tượng bị mọi người quên lãng hoặc không còn ích lợi gì cho ai nữa”.

Mẹ Têrêsa cũng coi các thai nhi chưa sinh ra và bị đe dọa trong cuộc sống như ”những người nghèo nhất trong những người nghèo.. Từ đó mẹ đã can đảm bảo vệ những sự sống đang sinh ra, Mẹ nói thẳng thắn và có những hành động rõ ràng, là dấu chỉ sáng ngời về sự hiện diện của các Ngôn Sứ và Các Thánh, là những người không quì gối trước mặt ai ngoại trừ trước Đấng Toàn Năng”.

Sau cùng, ĐHY Parolin nhắc đến sự kiện khi Mẹ Têrêsa qua đời ngày 5-9-1997, thành phố Calcutta hoàn toàn bị mất ánh sáng trong vài phút dài. Mẹ Têrêsa trên trái đất này đã là một dấu chỉ minh bạch chỉ Trời Cao. Trong ngày Mẹ qua đời, Trời Cao muốn cống hiến một dấu ấn cho cuộc đời của Mẹ và thông báo cho chúng ta rằng một ánh sáng mới đã được thắp lên trên chúng ta. Giờ đây, sau khi được chính thức nhìn nhận sự thánh thiện, ánh sáng của Mẹ càng chiếu tỏa rạng ngời hơn. Ước gì ánh sáng không tàn lụi của Tin Mừng, tiếp tục chiếu sáng cho cuộc lữ hành trần thế của chúng ta và những con đường của thế giới khó khăn này” (SD 5-9-2016)

G. Tran Đức Anh OP 

Tường thuật lễ tôn phong hiển thánh cho Mẹ Teresa Calcutta

Tường thuật lễ tôn phong hiển thánh cho Mẹ Teresa Calcutta

Holy Mass and the canonization of Mother Teresa of Calcutta

Hoạt động thương xót không mỏi mệt của Mẹ Terexa Calcutta ở vùng ngoại biên các thành phố và cuộc sống giúp chúng ta luôn ngày càng hiểu rằng tiêu chuẩn hoạt động duy nhất của chúng ta phải là tình yêu thương nhưng không, tự do khỏi bất cứ ý thức hệ hay ràng buộc nào, và tuôn đổ trên tất cả mọi người, không phân biệt ngôn ngữ, văn hóa, chủng tộc hay tôn giáo. Mẹ Terexa thường nói: “Có lẽ tôi không nói tiếng của họ, nhưng tôi có thể cười”. Chúng ta hãy mang theo trong tim nụ cười của Mẹ và trao ban nó cho những ai chúng ta gặp trên đường đời, nhất là cho những người đau khổ.

Kính thưa quý vị thính giả, ĐTC Phanxicô  đã nói như trên trong bài giảng thánh lễ tôn phong hiển thánh cho Mẹ Terexa Calcutta, do ngài cử hành trước thềm Đền Thờ Thánh Phêrô lúc 10 giờ rưỡi sáng Chúa Nhật mùng 4 tháng 9 hôm qua.

 

Đại lễ phong thánh cho Mẹ Teresa Calcutta ngày 4 tháng 9-2016 -- Thuyết minh tiếng Việt Nam

Cùng đồng tế thánh lễ với ĐTC đã có khoảng 70 Hồng Y, 400 Tổng Giám Mục Giám Mục, 1,700 linh mục trong đó có 600 vị giúp ĐTC cho tín hữu rước lễ. Tham dự thánh lễ, ngoài ngoại giao đoàn cạnh Toà Thánh còn có phái đoàn đại diện của 20 quốc gia, do 13 quốc trưởng và thủ tướng hướng dẫn gồm các nước: Albania, nguyên Cộng hoà Jugoslavia Macedonia, Ấn Độ, Kosovo, Tây Ban Nha, San Marino, Đài Loan, Nigeria, Honduras, Italia, Vương quốc Monaco,  Hoà Lan, Ghana, Bosni Erzegovina, Panama, Hoa Kỳ, Áo, Croazia, Montenegro, Belize và 2 tổ chức quốc tế là Luơng nông quốc tế FAO và Lương thực thế giới PAM. Cùng tham dự thánh lễ có hơn 100,000 tín hữu, trong đó có 45.000 thành viên các tổ chức thiện nguyện về Roma mừng Năm Thánh Lòng Thương Xót. Đặc biệt cũng có 1,500 người nghèo, hành khất, vô gia cư, bị bỏ rơi được các nữ tu của Mẹ Terexa săn sóc trong các nhà ở Roma, Milano, Bologna, Firenze và Napoli.

Sau lời chào mở đầu thánh lễ của ĐTC ĐHY Angelo Amato Tổng trưởng Bộ Phong Thánh đã tiến lên xin ĐTC phong hiển thánh cho chân phước Têrexa Calcutta, và đọc tiểu sử của chân phước mà mọi người đều gọi là “Mẹ Têrêxa Caltutta”. Chân phước tên đời là Agnes Gonxha Bojaxhiu sinh ngày 26 tháng 8 năm 1010 tại Skopje, con của một gia đình gốc Albani. Hồi còn trẻ chị đã tham gia các sinh hoạt trong giáo xứ và ước mong tận hiến cuộc đời cho Chúa. Chị rời gia đình và được nhận vào dòng Đức Trinh Nữ diễm phúc Maria Loreto tại Rathfarnam bên Dublin Ai Len. Chi được gửi sang phục vụ bên Ấn Độ, vào nhà Tập và khấn dòng với tên gọi là Terexa. Trong 17 năm trời chị dậy học tại trường trung học Thánh Mary Bengali gần Calcutta.  Trên một chuyến xe lửa từ Calcutta đi Darieeling chị nghe tiếng Chúa Giêsu hấp hối trên thập giá nói “Ta khát” và trực giác được “ơn gọi trong ơn gọi”, thành lập một dòng du để “làm thoả mãn cái khát vô tận tình yêu thương và các linh hồn, mà Chúa Giêsu có trên thập giá, bằng cách làm việc cho ơn cứu rỗi và việc thánh hóa những người nghèo nhất trong những người nghèo. Chị lập dòng các nữ tu Thừa Sai Bác Ái, tiếp theo đó là dòng các Anh em Thừa Sai Bác Ái, các tổ chức giáo dân và Phong trào rộng mở cho các linh mục giáo phận.

Mẹ Terexa không quản ngại mệt nhọc tận hiến cuộc đời và sức lực cho việc loan báo Tin Mừng, qua nhiều hoạt động bác ái và trợ giúp những người rốt hết, không phân biệt giai tầng xã hội, tôn giáo và chủng tộc. Ở nền tảng mọi sáng kiến của Mẹ là việc cử hành Thánh Lễ, chầu Thánh Thể, cầu nguyện và có một tình yêu đại đồng thúc đẩy Mẹ trông thấy và phục vụ Chúa Giêsu nơi người nghèo.

Chứng tá tin mừng anh hùng của Mẹ khơi dậy sự khâm phục của của các giới chức lãnh đạo cao cấp nhất trong Giáo Hội cũng như trong thế giới đời. Năm 1979 Mẹ được giải thường Nobel Hoà Bình. Kiệt lực nhưng luôn luôn mạnh mẽ trong tinh thần Mẹ qua đời tại Calcutta ngày mùng 5 tháng 9 năm 1997 trong hương thơm thánh thiện.

Tiếp đến ĐTC đã cùng cộng đoàn hát kinh cầu các thánh. Rồi ngài đọc công thức tôn phong hiển thánh cho Mẹ như sau:

Để  vinh danh Thiên Chúa Ba Ngôi Chí Thánh, biểu dương đức tin công giáo và thăng tiến cuộc sống kitô, với quyền của Chúa Giêsu Kitô Chúa chúng ta và của hai Thánh Tông Đồ Phêrô Phaolô và của chúng tôi, sau khi đã suy nghĩ lâu dài và nhiều lần xin ơn Chúa trợ giúp và lắng nghe ý kiến của nhiều anh em trong Hàng Giám Mục, chúng tôi tuyên bố và định nghĩa là Thánh chân phước Terexa Calcutta và ghi tên người vào Sổ Bộ các Thánh và thiết định rằng người được tôn kính giũa các Thánh trong toàn thể Giáo Hội, nhân danh Cha và Con và Thánh Thần”.

Thánh tích của Mẹ đã được rước lên đặt bên trái bàn thờ. Đó là một cây thánh giá được ghép bằng nhiều mảnh gỗ phát xuất từ nhiều người và từ nhiều nơi khác nhau, nơi khổ đau tiếp tục nói lên tiếng rên “Ta khát” của Chúa Giêsu. Phần trước của thánh giá cũng bao gồm một mảnh gỗ của bàn quỳ toà giải tội, biểu tượng cho ơn tha thứ, mà hối nhân nhận được từ tình yêu của Thiên Chúa, và Mẹ Terexa coi họ là những người nghèo nhất trong những người nghèo. Thánh giá được viền vàng để nêu bật hai tình yêu lớn nhất của Mẹ đối với Chúa Giêsu và Người Nghèo. Chiếc hộp đựng thánh tích của Mẹ có hình một giọt nước để giải cơn khát của sự vô nghĩa của khổ đau trong cô đơn. Thánh giá được cắm trên một đế bảng sắt bẩn hư hại biểu tượng cho cái nhìn, mà xã hội có đối với người nghèo, nhưng họ lại được Mẹ yêu thương với tất cả tâm lòng và được Mẹ phục vụ trong các khu xóm ổ chuột bần thỉu tại Calcutta, vì họ là phương thế giúp kết hiệp với Chúa Giêsu.

Thánh giá được đặt trong một cái hộp hình trái tim phần bên trái có ba giải mầu xanh diễn tả chiếc áo dòng sari của Mẹ, cong xuống như lưng của Mẹ cúi xuống cầu nguyện, suy niệm và gù người phục vụ dân nghèo. Phần tim bên phải có hình mềm mại hơn mầu trắng diễn tả chiếc áo dòng của Mẹ vói hai chữ “Ta khát” Hai phần của trái tim tách rời nhau nhưng nối liền bởi một vòng tròn diễn tả sự năng động trong sứ mệnh của Mẹ, bắt đầu với sự mạc khải của Chúa Giêsu và được đưa tới chỗ thành toàn. Mầu xanh và mầu trắng cũng là mầu của Mẹ Maria, mà Mẹ Terexa rất tôn sùng và cầu khẩn với lời nguyện đẹp sau đây: “Lậy Mẹ Maria, Mẹ Chúa Giêsu, xin ban cho con Trái tim của Mẹ, xinh đẹp, trinh trong, vô nhiễm, tràn đầy tình yêu và khiêm tốn, để con có thể nhận lấy Chúa Giêsu trong Bánh Sự Sống, yêu Ngài như Mẹ đã yêu Ngài, và phục vụ Ngài như Mẹ đã phục vụ Ngài dưới gương mặt biến dạng của nhừng người nghèo nhất trong những người nghèo”.

Thánh lễ tiếp tục với Kinh Vinh Danh. Các bài sách Thánh đã được tuyên đọc bằng tiếng Anh và tiếng Tây Ban Nha, Thánh vịnh được hát bằng tiếng Ý, và Phúc Âm được hát bằng tiếng Latinh và tiếng Hy Lạp. Các lời nguyện giáo dân đã được đọc bằng các thứ tiếng Albani, Pháp, Bengali, Đồ Đào Nha và Tầu.

Giảng trong thánh lễ ĐTC đã quảng diễn ý nghĩa bài đọc một trích từ sách Khôn Ngoan liên quan tới điều Thiên Chúa muốn nơi con người, là sống đẹp lòng Ngài. ĐTC nói: Các tác nhân lịch sử luôn luôn là hai: một đàng là Thiên Chúa, đàng khác là con người. Nhiệm vụ của chúng ta là nhận thức được tiếng gọi của Thiên Chúa và đón nhận ý muốn của Ngài. Nhưng để có thể tiếp nhận và kiểm thực tiếng gọi của Chúa mà không lưỡng lự chúng ta phải hiểu điều gì làm đẹp lòng Ngài. Biết bao ngôn sứ loan báo điều đẹp lòng Chúa và đúc kết nó trong kiểu diễn tả này: “Ta muốn lòng thương xót chứ không cần của lễ” (Hs 6,6; Mt 9,13). ĐTC giải thích như sau:

Mọi công việc của lòng thương xót đều đẹp lòng Thiên Chúa, bởi vì trong người anh em, mà chúng ta giúp đỡ, chúng ta nhận ra gương mặt của Thiên Chúa, mà không ai trông thấy (x. Ga 1,18). Mỗi lần chúng ta cúi xuống trên các nhu cầu của các anh em khác, là chúng ta đã cho Chúa Giêsu ăn và uống; chúng ta đã cho Ngài mặc, nâng đỡ và viếng thăm Con Thiên Chúa (x. Mt 25,40). Như thế, chúng ta đưọc mời gọi diễn tả cụ thể điều chúng ta xin trong lời cầu nguyện và tuyên xưng trong đức tin. Không có cách nào khác ngoài tình bác ái: những ai phục vụ các anh em khác là những nguời yêu mến Thiên Chúa, dù không biết Ngài (x Ga 3,16-18; Gc 2,14-18). Tuy nhiên, cuộc sống kitô không chỉ là việc trợ giúp khi cần. Nó là tâm tình liên đới đẹp, nhưng sẽ khô cằn vì không có gốc rễ. Trái lại, dấn thân mà Chúa đòi hỏi là dấn thân của một ơn gọi bác ái, qua đó nguời môn đệ Chúa Kitô dùng chính cuộc sống mình để phục vụ và lớn lên mỗi ngày trong tình yêu. Phúc Âm nói đến “đám đông dân chúng đến với Chúa Giêsu” (Lc 14,25). Ngày hôm nay “đám đông” đó là thế giới thiện nguyện đang quy tụ ở đây nhân Mừng Năm Thánh Lòng Thương Xót. Anh chị em chính là những người theo Chúa và khiến cho tình yêu của Ngài trở thành cụ thể đối với từng người…. Các người thiện nguyện củng cố biết bao con tim, nâng đỡ biết bao bàn tay, lau khô biết bao nước mắt! Có biết bao tình yêu thương đã được đổ vào việc phục vụ dấu ẩn, khiêm tốn và vô vị lợi này!

Việc theo Chúa Giêsu là một dấn thân nghiêm chỉnh, đồng thời tươi vui. Nó đòi hỏi tính triệt để và lòng can đảm, để nhận ra Chúa nơi người nghèo nhất và phục vụ họ. Khi phục vụ các người rốt hết và cần được giúp đỡ vì tình yêu Chúa Giêsu, các người thiện nguyện không chờ đợi lời cám ơn hay ca ngợi nào. Họ từ chối mọi sự vì đã khám phả ra tình yêu đích thật. Như Chúa đã đến gặp tôi và cúi xuống trên tôi trong lúc thiếu thốn, tôi cũng đi gặp gỡ Ngài và cúi xuống trên những người đã mất đức tin hay sống như thể Thiên Chúa không hiện hữu, cúi xuống trên những người trẻ sống không giá trị và không lý tưởng, trên các gia đình gặp khủng hoảng, trên bệnh nhân và người tù, người di cư tỵ nạn, trên người yếu đuối và không được bênh đỡ trên thân xác cũng như trong tinh thần, trên các trẻ em vị thành niên bị bỏ rơi cho chính mình, cũng như trên các người già cả phải sống cô đơn.

Đề cập đến gương sống của Mẹ Terexa ĐTC nói:

Trong toàn cuộc đời mình Mẹ Teressa đã quảng đại phân phát lòng thương xót Chúa, sẵn sàng với tất cả mọi người qua việc tiếp đón và bảo vệ sự sống con người, sự sống chưa sinh ra cũng như sự sống bị bỏ rơi và gạt bỏ. Mẹ đã dấn thân bênh vực sự sống bằng cách không ngừng công bố rằng “ai chưa sinh ra là người yếu đuối nhất, bé nhỏ nhất, bần cùng nhất”. Mẹ cúi xuống trên trên những người kiệt lực bi bỏ chết bên lề đường, bằng cách thừa nhận phẩm giá mà Thiên Chúa đã ban cho họ. Mẹ đã làm vang lên tiếng nói của Mẹ giữa các người quyền thế của trái đất này, để cho họ nhận ra các lỗi lầm của họ trước các tội ác của nghèo đói do chính họ dã gây ra. Đối với Mẹ lòng thương xót đã là “muối” trao ban hương vị cho mỗi hoạt động của Mẹ, và là “ánh sáng” chiếu soi các tăm tối của biết bao người cũng đã chẳng còn nước mắt để khóc thương cho sự nghèo túng và nỗi khổ đau của họ.

Sứ mệnh của Mẹ trong các vùng ngoại biên của các thành phố và của cuộc sống tồn tại ngày nay như chứng tá hùng hồn sự gần gũi của Thiên Chúa với những người nghèo nhất giữa những người nghèo. Hôm nay tôi trao gương mặt biểu tượng này của phụ nữ và người được thánh hiến cho toàn thế giới thiện nguyện: ước chi Mẹ là mẫu gương sự thánh thiện của anh chị em! Ước chi người hoạt động của lòng thương xót không mỏi mệt này giúp chúng ta luôn ngày càng hiểu biết hơn rằng tiêu chuẩn hoạt động duy nhất của chúng ta là tình yêu nhưng không, tự do khỏi bất cứ ý thức hệ hay ràng buộc nào, và tuôn đổ trên tất cả mọi người, không phân biệt ngôn ngữ, văn hóa, chủng tộc hay tôn giáo! Mẹ Terexa thường nói: “Có lẽ tôi không nói tiếng của họ, nhưng tôi có thể cười”. Chúng ta hãy mang theo trong tim nụ cười của Mẹ và trao ban nó cho những ai chúng ta gặp trên đường đời, nhất là cho những người đau khổ. Như thế chúng ta sẽ mở ra cho biết bao người đã mất tin tưởng và đang cần sự cảm thông và lòng hiền dịu các chân trời của niềm vui và niềm hy vọng.

Trưóc khi đọc kinh Truyền Tin và ban phép lành cuối lễ cho mọi người ĐTC đã ngỏ lời cám ơn tất cả mọi người tham dự. Trước hết là các nữ tu Thừa Sai Bác Ái là gia đình thiêng liêng của Mẹ. Uớc chi thánh đấng sáng lập luôn trông chừng trên con đường của các chị và giúp các chị trung thành với Thiên Chúa, Giáo Hội và người nghèo. Tiếp đến ĐTC cám ơn các chính quyền hiện diện đặc biệt của các nước gắn bó nhất với gương mặt của vị Thánh mới, cũng như các phái đoàn chính thức và nhiều tín hữu hành hương đến từ các nước đó trong dịp hạnh phúc này. Xin Chúa chúc lành cho quốc gia của anh chị em.

ĐTC cũng chào và cám ơn các thiện nguyện viên và nhân viên lòng thương xót. Ngài phó thác họ cho sự che chở của Mẹ Teresa. Xin Mẹ dậy cho họ biết chiêm ngắm và thờ lậy Chúa Giêsu bị đóng đanh mỗi ngày để nhận biết và phục vụ Ngài nơi các anh chị em nghèo. Chúng ta cũng xin ơn này cho tất cả những ai hiệp nhất với chúng ta qua các phương tiện truyền thông khắp nơi trên thế giới.

ĐTC cũng muốn nhớ tới những người xả thân phục vụ các anh chị em phải sống trong các hoàn cảnh khó khăn và nguy hiểm, đặc biệt là biết bao nhiêu nữ tu không quản ngại hiến mạng sống mình cho tha nhân. Ngài xin mọi người đặc biệt cầu nguyện cho chi Isabel người Tay Ban Nha bị sát hại cách đây hai ngày trong thủ đô Haiti, một đất nước bị thử thách nhiều và ngài cầu mong các hành động bạo lực như thế chấm dứt và có nhiều an ninh hơn cho tất cả mọi người. Chúng ta cũng hãy nhớ tới các nữ tu khác mới đây đã là nạn nhân của bạo lực tại các nước khác. Chúng ta làm điều này bằng cách hướng lời cầu lên Đức Trinh Nữ Maria là Mẹ và là Nữ Vương các Thánh. Tiếp đến ĐTC đã cất Kinh Truyền Tin và ban phép lành cho mọi người

Sau thánh lễ 1,500 người nghèo đã được ĐTC đãi ăn trưa tại tiền sảnh đại thính đường Phaolô VI, do 100 nữ tu và 50 tu huynh Thừa Sai Bác Ái phục vụ.

Linh Tiến Khải

 

 

Tên đường mang tên Mẹ Têrêsa Calcutta ở bang Orissa, Ấn độ

Tên đường mang tên Mẹ Têrêsa Calcutta ở bang Orissa, Ấn độ

Bức tượng ảnh Thánh Mẹ Teresa trên con đường được đặt tên

Cuttack-Bhubaneshwar, Orissa – Vào ngày 4 tháng 9, ngày Mẹ Têrêsa Calcutta, sáng lập dòng Thừa sai Bác ái, được tôn phong hiển thánh tại quảng trường thánh Phêrô, một con đường mới mang tên Mẹ Têrêsa cũng được khánh thành.

Quyết định này được Ủy ban thành phố Bhubaneshwar đưa ra theo lời yêu cầu của Đức cha John Barwa, Tổng giám mục Cuttack-Bhubaneshwar. Đức cha Barwa nói với hãng tin Á châu: “Quyết định này làm cho chúng tôi vui mừng”, đặc biệt là vì bang Orissa là nơi cách đây tám năm, các tín hữu Ấn giáo quá khích đã tàn sát cách dã man các Kitô hữu.

Trong một cuộc họp ngày 28 tháng 8, Hội đồng đã quyết định bật đèn xanh cho con đường mới “Mẹ Têrêsa”, nối từ Satyanagar Cuttack tới đường Puri. Đức cha Barwa cho biết là con đường chạy thẳng trước Tòa Tổng giám mục.

Sau thánh lễ, ông Naveen Patnaik, Thủ tướng của bang Orissa sẽ mở cho dân chúng thấy tấm bảng với tên đường mới. Các quan chức chính phủ tiểu bang cũng như địa phương cho biết sẽ hiện diện tại buổi lễ này.

Nhiều tu sĩ Thừa sai bác ái đang làm việc ở bang Orissa, sống trong 11 cộng đoàn tại 6 Giáo phận. Các nữ tu  cũng sẽ tham dự vào sự kiện nói trên. Tại sự kiện này, các học sinh thiếu nhi của các trường sẽ thực hiện những bài hát và điệu vũ truyền thống.

Đức cha Barwa kết luận: “Mẹ Têrêsa sẽ chúc lành cho chúng ta và đồng hành với chúng ta”. (Asia News 01/09/2016)

Hồng Thủy

5 Giám Mục Việt Nam tham dự khóa bồi dưỡng ở Roma

5 Giám Mục Việt Nam tham dự khóa bồi dưỡng ở Roma

5 Giám Mục Việt Nam tham dự khóa bồi dưỡng ở Roma

ROMA. 5 Giám Mục Việt Nam thuộc vào số 94 GM thuộc các xứ truyền giáo, được bổ nhiệm trong vòng 2 năm gần đây, tham dự khóa bồi dưỡng 2 tuần lễ do Bộ truyền giáo tổ chức từ ngày 4-9-2016.

Trong số các tham dự viên, có 42 GM thuộc 19 nước Phi châu, 36 GM thuộc 9 nước Á châu, kể cả 5 GM Việt Nam; 12 GM đến từ 9 nước Mỹ châu sau cùng có 4 GM thuộc 2 nước Úc Châu. 5 GM Việt Nam tham dự khóa này là Đức Cha Nguyễn Văn Hai, GM Vĩnh Long, Đức Cha Trần Văn Toản, Phụ tá Long Xuyên, , Đức Cha Nguyễn Văn Viên, Phụ Tá Vinh, và Đức Cha Nguyễn Hồng Sơn, Phụ tá Bà Rịa. Đức Cha Đỗ Mạnh Hùng, Phụ tá Sàigòn.

Các khóa bồi dưỡng này, khởi sự từ năm 1994, có mục đích giúp các GM mới tìm hiểu thêm về các khía cạnh trong đời sống và sứ vụ GM, đối thoại và cầu nguyện.

Mỗi ngày các GM có 3 bài thuyết trình sau đó là phần trao đổi và hội thảo nhóm.

Chương trình

Thứ hai 5-9, sẽ có thánh lễ khai mạc do ĐHY Fernando Filoni, Tổng trưởng Bộ truyền giáo chủ sự. Tiếp đến là bài thuyết trình đầu tiên do Đức TGM Savia Hàn Đại Huy (Hon Tai Fai), Tổng thư ký Bộ truyền giáo, trình bày về đề tài ”GM như người phục vụ Tin Mừng”. Ban chiều cùng ngày 5-9, ĐHY Robert Sarah, Tổng trưởng Bộ Phụng tự và kỷ luật bí tích, nguyên là Tổng thư ký Bộ truyền giáo, nói về ”Thời sự của sứ mạng truyền giáo cho dân ngoại trong thực tại thế giới”.

Ngày thứ ba, 6-9, Đức TGM Protase Rugambwa, người Tanzania, Đồng Tổng thư ký Bộ truyền giáo, Chủ tịch Các Hội Giáo Hoàng truyền giáo, sẽ trình bày về bản chất, thẩm quyền và hoạt động của các Hội ngày.

Khóa bồi dưỡng được tiếp tục với các bài thuyết trình do các HY, TGM phụ trách các cơ quan trung ương Tòa Thánh đảm trách, như đối thoại đạt kết Kitô (Koch), Giáo huấn xã hội Công Giáo (Turkson), Thượng HĐGM (Baldisseri), Linh đạo GM (Angelo Amato), Tình phụ tử của GM đối với các LM và việc đào tạo giáo sĩ (Stella), ĐGH và các GM (Ouellet), việc phục vụ quản trị của GM (Pell), tương quan giữa Tòa Thánh với các quốc gia (Gallagher), Các chương trình mục vụ và các cơ cấu cộng tác trong giáo phận; Tự sắc Mitis judex về việc cải tổ tòa án hôn phối, huấn luyện giáo dân (Paglia), Chăm sóc đời sống thánh hiến (Carballo), Sự độc thân giáo sĩ và các giáo sĩ bị cáo lạm dụng tính dục (Scicluna), thi hành sứ vụ giáo huấn (Ladaria), Phụng vụ và sự thánh hóa của Giáo Hội (Roche), sau cùng là đối thoại liên tôn tại các xứ truyền giáo (Guixot).

Ngoài ra có một số chuyên gia khác cũng được mời đến nói chuyện với các GM về những vấn đề khác như bảo vệ trẻ vị thành niên, sử dụng các phương tiện truyền thông trong việc loan báo Tin Mừng, Dịch vụ bác ái, Cẩm nang cho các GM, thi hành công lý..

Thứ sáu 9-9, ĐTC sẽ tiếp kiến các GM và chúa nhật 11-9 các vị sẽ hành hương tại Assisi. Khóa bồi dưỡng sẽ kết thúc vào thứ bẩy, 17-9 với thánh lễ đồng tế tại mộ thánh Phêrô Tông Đồ (Fides 2-9-2016)

G. Trần Đức Anh OP

 

Đức Thánh Cha tiếp kiến 40 ngàn người thiện nguyện và bác ái

Đức Thánh Cha tiếp kiến 40 ngàn người thiện nguyện và bác ái

Đức Thánh Cha tiếp kiến những người thiện nguyện và bác ái

VATICAN. ĐTC kêu gọi các tín hữu thực thi cụ thể lòng bác ái từ bi và ngài khích lệ những người thiện nguyện và bác ái là những người làm cho Giáo Hội được tín nhiệm.

Ngài bày tỏ lập trường trên đây trong buổi tiếp kiến chung đặc biệt sáng thứ bẩy, 3-9-2016 tại Quảng trường Thánh Phêrô, dành cho 40 ngàn người từ các nơi về Roma tham dự Ngày Năm Thánh những người thiện nguyện và hoạt động bác ái với cao điểm là lễ Phong Thánh cho Mẹ Têrêsa Calcutta lúc 10 giờ rưỡi sáng chúa nhật 4-9-2016.

Huấn dụ

Trong bài huấn dụ, ĐTC đã đi từ bài ca đức ái của thánh Phaolô trong đoạn 13 của thư thứ I gửi tín hữu thành Corinto (1 Cr 13,1-13), nhất là câu ”Tình yêu không bao giờ chấm dứt” (v.8). Ngài nói:

”Giáo huấn này phải được chúng ta xác tín không lay chuyển: tình yêu của Thiên Chúa không bao giờ thiếu trong đời sống chúng ta và lịch sử thế giới. Đó là một tình yêu vẫn luôn trẻ trung, tích cực, năng động… Thánh Phaolô dạy rằng ”nếu tôi không có tình yêu thì tôi không là gì (v.2). Hễ chúng ta càng để cho mình can dự vào tình yêu này thì cuộc sống của chúng ta càng được tái sinh”.

ĐTC cũng cảnh giác rằng ”Giáo Hội không bao giờ được phép hành động như thầy tư tế và thầy Levi đứng trước người bị cướp đánh và để nằm nửa sống nửa chết trên đất (Xc Lc 10,25-36). Không thể ngoảnh mặt nhìn đi nơi khác để khỏi thấy bao nhiêu hình thức nghèo đói đòi lòng từ bi thương xót. Hành động như thế không xứng đáng với Giáo Hội và với một Kitô hữu, đó là một hành động tỗi lỗi; ”bỏ qua bên kia đường” và coi mình được lương tâm ổn định chỉ vì chúng ta đã cầu nguyện, đã đi nhà thờ rồi!”.

ĐTC cũng nhắc lại rằng ”Tôi không bao giờ mệt mỏi khi nói rằng lòng thương xót của Thiên Chúa không phải là một ý tưởng đẹp, nhưng là một hành động cụ thể; và cả lòng từ bi của con người không có thực chất cho đến khi nó được biểu lộ cụ thể trong đời sống thường nhật. Lời cảnh giác của thánh Gioan vẫn luôn có giá trị: ”Hỡi các con, chúng ta đừng yêu mến bằng lời nói và miệng lưỡi, nhưng bằng những hành động cụ thể và trong sự thật” (1 Ga 3,18).

Khích lệ người thiện nguyện

Ngỏ lời với những người thiện nguyện và hoạt động bác ái, ĐTC nói: ”Trong số những thực tại quí giá nhất của Giáo Hội, chính là anh chị hằng ngày, thường là trong âm thầm, kín đáo, anh chị em mang lại cho lòng từ bi thương xót một hình dạng và cụ thể hữu hình. Anh chị em biểu lộ ước muốn trong số những ước vọng đẹp nhất của tâm hồn con người, đó là ước muốn làm cho một người đau khổ cảm thấy họ được yêu mến.. Uy tín của Giáo Hội có sức thuyết phục cũng nhờ việc phục vụ của anh chị em dành cho những trẻ em bị bỏ rơi, các bệnh nhân, người nghèo đói không lương thực và việc làm, người già, người vô gia cư, các tù nhân, những người tị nạn và nhập cư, những người bị thiên tai.. Tóm lại, bất kỳ nơi nào có lời yêu cầu xin cứu giúp, tại đó có chứng tá tích cực và vô vị lợi của anh chị em. Anh chị em làm cho luật của Chúa Kitô trở nên hữu hình, luật mang đỡ gánh nặng cho nhau (Xc Gl 6,2; Ga 13,34).

ĐTC nhắn nhủ thêm rằng: ”Anh chị em hãy luôn hài lòng và đầy vui tươi vì việc phục vụ của mình, nhưng đừng bao giờ biến nó thành lý do để tự phụ, khiến cho mình nghĩ mình tốt đẹp hơn người khác. Trái lại, hoạt động từ bi thương xót của anh chị em phải khiêm tốn và là một sự kéo dài Chúa Kitô một cách hùng hồn, Đấng tiếp tục cúi mình và chăm sóc những người đau khổ”.

Trong bài huấn dụ, ĐTC cũng vui mừng nhắc đến Mẹ Têrêsa Calcutta được phong thánh vào chúa nhật này và nhận định rằng:

”Chúng ta từ bi thương xót của Mẹ Têrêsa thời nay được thâm vào cho vô số đoàn ngũ những người nam nữ đã làm cho tình yêu của Chúa Kitô trở nên hữu hình qua đời sống thánh thiện của họ. Chúng ta hãy noi gương họ, và cầu xin để chúng ta trở thành những dụng cụ khiêm hạ trong tay Chúa, hầu thoa dịu đau khổ của thế giới và mang lại vui tươi và hy vọng phục sinh”.

Sinh hoạt chuẩn bị

Trong một giờ rưỡi trước khi ĐTC tiến vào Quảng trường thánh Phêrô, hàng chục ngàn người thiện nguyện đã sinh hoạt, nghe những bài thánh ca và nghe chứng từ của nhiều người hoạt động trong lãnh vực từ thiện bác ái, các nạn nhân chiến tranh và xung đột ở Siria và Palestine, các nhân viên cứu hỏa, cảnh sát, và nhân viên bảo vệ dân chúng, đã cứu giúp các nạn nhân động đất ở miền Trung Italia những ngày vừa qua, một gia đình dấn thân trong tổ chức Unitalsi chuyên giúp đỡ các bệnh nhân đi hành hương tại Lộ Đức và các Đền Thánh khác.

Hiện diện và trình bày trong dịp này cũng có nhiều nghệ sĩ như danh ca Kelly Joyce và và nghệ sĩ Usha Uthup của Ấn độ, đã quen biết Mẹ Têrêsa trong 40 năm trời. (SD 3-9-2016)

Khi ĐTC đến Quảng trường, có hai chứng từ được trình bày lên Ngài và nói người, đặc biệt là chứng từ của nữ tu Sally người Ấn độ, thuộc dòng Thừa sai bác ái của Mẹ Têrêsa, phục vụ tại thành phố Aden, bên Yemen, nơi có 4 nữ tu bi quân khủng bố sát hại hồi tháng 3 năm nay, khi chúng tấn công vào nhà dưỡng lão nơi các chị phục vụ

Vatican Radio

Bức họa chân dung Mẹ Têrêsa tại lễ phong thánh

Bức họa chân dung Mẹ Têrêsa tại lễ phong thánh

Bức họa chân dung chính thức của Mẹ Têrêsa tại lễ phong thánh

Một bức chân dung lớn của Chân phước Mẹ Têrêsa được treo trước tiền đường Đền thờ Thánh Phêrô dịp lễ tôn  phong Mẹ lên hàng hiển thánh. Đó là bản copy của bức họa chân dung do họa sĩ Chas Fagan vẽ.

Họa sĩ Chas Fagan là người đã vẽ chân dung của tất cả các tổng thống Mỹ và các tác phẩm tại mái vòm tòa nhà trụ sở Quốc hội Hoa kỳ cũng như tại Nhà thờ chính tòa quốc gia. Ông đã được Hội hiệp sĩ Columbus chọn vẽ chân dung chân phước Mẹ Têrêsa. Họa sĩ Fagan đã lập tức nhận lời vẽ chân dung Mẹ khi được Hội Columbus yêu cầu nhưng không nghĩ là tác phẩm của ông sẽ là bức họa chính thức được treo trong lễ phong thánh của Mẹ Têrêsa.

Họa sĩ Fagan đã phải mất một tháng trời để chuẩn bị các phác họa trước khi bắt đầu vẽ, và đã hoàn thành bức họa sau 6 tuần làm việc. Bức họa diễn tả niềm vui và lòng vị tha của Mẹ Têrêsa. Họa sĩ Fagan cho biết, đầu mối của ý tưởng của bức họa chính là câu trưng dẫn của Mẹ Têrêsa “niềm vui là sức mạnh”. Ông nói: “Mẹ là một nhân vật nhỏ bé nhưng làm trái đất rung chuyển” và người ta nói với ông: “khi Mẹ nhìn vào bạn, Mẹ chói sáng rạng rỡ”. Vì vậy ông đã cố gắng diễn tả điều này trong bức họa. Ông giải thích về bức tranh: “Nếu bạn muốn làm cho một điều gì đó chói sáng, bạn phải bao quanh nó bằng bóng tối”.

Một điều nữa trong cuộc sống của Mẹ Têrêsa cũng đánh động họa sĩ Fagan, đó là sự vị tha của Mẹ. Ông chia sẻ: “Có một chủ đề mà người hướng dẫn của ông thời gian ông còn là một học sinh trung học đã nói với ông, đó là “nếu bạn bắt đầu giúp đỡ người khác, bất cứ vấn đề gì của bạn sẽ bắt đầu biến mất”. Họa sĩ nhận xét: Mẹ Têrêsa đã sống điều này. Khi học về cuộc sống của Mẹ và nhìn thấy cách sống hàng ngày của Mẹ, nó thật khiêm nhường đơn giản và tất cả chúng ta có thể mong muốn nó. Nhưng nó là một bước nhảy vọt”.

Họa sĩ Fagan đã có thể cảm thấy sự hiện diện của mẹ thánh Têrêsa trong phòng vẽ của mình khi đang vẽ bức họa. Đối với ông, Mẹ Têrêsa đã mang lại niềm vui cho phòng vẽ của ông, cho ngôi nhà của ông và khi hoàn thành bức họa, họa sĩ cảm thấy tiêc nuối vì sẽ cảm thấy thiếu sự đồng hành của Mẹ.

Bức họa được bắt đầu trưng bày vào hôm 1 tháng 9 tại đền thánh quốc gia Gioan Phaolô II ở Washington. Nữ tu Tanya, dòng Thừa sai Bác ái, phụ trách cộng đòan Thừa sai bác ái Quà tặng Bác ái và Hòa bình ở Washington nhận xét: “Bức họa tuyệt vời; nó sẽ đưa nhiều người đến gần Thiên Chúa”. Chị cũng nhận xét thêm việc phác họa đôi mắt thông suốt  của Mẹ, sự thanh bình và sự chăm chú vào người mà Mẹ đang nhìn. Chị nói: “Nếu một người nhìn vào Mẹ, họ sẽ hướng mắt họ về trời, tôi sẽ nói, bởi vì Mẹ không tập trung vào mình. Người nhìn mẹ sẽ hướng tâm đến Thiên Chúa.”

Bức họa được thực hiện xuất phát từ lòng yêu mến và kính trọng của Hội hiệp sĩ Columbus dành cho Mẹ. Họ sẽ phân phát một triệu tấm thiệp cầu nguyện với chân dung của Mẹ cho các khách hành hương đến Roma. (CNA 01/09/2016)

Hồng Thủy 

Các chi tiết xung quanh lễ phong thánh Mẹ Têrêsa

Các chi tiết xung quanh lễ phong thánh Mẹ Têrêsa

Chân dung Mẹ Têrêsa tại tiền đường đền thờ Thánh Phêrô

Ngày Chúa nhật 4/9 tới đây, Đức Thánh Cha Phanxicô sẽ chủ sự Thánh lễ phong hiển thánh cho Mẹ Têrêsa. Mẹ Têrêsa qua đời ngày 5/9/1997 và đã được Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô phong chân phước vào ngày 19/10/2003.

Trong dịp này, nhiều buổi canh thức và cầu nguyện được tổ chức trong nhiều nhà thờ của Giáo phận Roma. Ngày phong thánh cho Mẹ cũng là ngày cử hành Năm thánh của các tình nguyện viên và các nhân viên của lòng thương xót. Thực ra, Mẹ Têrêsa là một biểu tường của lòng thương xót của Thiên Chúa đối với các người nghèo và người bị gạt ra ngoài lề xã hội.

Trước đó, ngày 2/9 tại đền thờ thánh Anastasia khu vực  Palatino, sẽ có 3 Thánh lễ được cử hành vào lúc 9 giờ (tiếng Anh), 10 giờ (tiếng Tây ban nha) và 12 giờ (tiếng Ý). Từ 20.30 đến 22 giờ, tại đền thời thánh Gioan Laterano, có buổi canh thức cầu nguyện do Đức Hồng Y Giám quản Roma, Agostino Vallini chủ sự và buổi chầu Thánh Thể trọng thể.

Thứ 7, 3/9, Đức Thánh Cha sẽ có buổi tiếp kiến chung đặc biệt trong Năm Thánh. Ban chiều lúc 17 giờ, tại đền thờ Thánh Andrea della Valle có giờ cầu nguyện và suy niệm với nghệ thuật và âm nhạc. Sau đó là tôn kính thánh tích của Mẹ Têrêsa, và Thánh lễ được cử hành lúc 19 giờ.

Thứ 2, 5/9, vào lúc 10 giờ, Đức Hồng Y Pietro Parolin sẽ chủ tế Thánh lễ tạ ơn cũng là Thánh lễ đầu tiên kính nhớ MẹTêrêsa.

Sau Thánh lễ tôn phong hiển thánh, thánh tích của Mẹ Têrêsa sẽ được đưa đến đền thờ Gioan Laterano và được trưng bày cho tín hữu kính viếng các ngày 5-7/9, và ngày 7-8 sẽ được kính viếng tại nhà thờ thánh Gregorio Cả, và cùng ngày này tín hữu có thể viếng căn phòng của Mẹ tại tu viện thánh Gregorio.

Đài truyền hinh TV2000 trong các ngày từ 3-5/9 cũng trình chiếu các cuốn phim trình bày về cuộc đời và hoạt động của Mẹ Têrêsa.

Sáng ngày 2/9 tại đại học Giáo hoàng Urbaniana đã diễn ra cuộc họp báo với sự tham dự của khoảng 200 ký giả. Chủ tọa cuộc họp báo là ông Greg Burke, Giám đốc phòng Báo chí Tòa thánh. Có sự tham dự của nữ tu Mary Prema, bề trên Tổng quyền dòng Thừa sai Bác ái, cha Brian Kolodiejchuk, bề trên ngành nam của dòng và cũng là thình nguyện viên án phong thánh cho Mẹ Têrêsa và sự hiện diện của đôi vợ chồng nhận được phép lạ qua việc cầu nguyện với Mẹ Têrêsa.

– Số người tham gia: Con số người tham dự Thánh lễ không thể dự đoán trước đươc, nhưng đã có 100 ngàn vé tham dự Thánh lễ được phân phát cho các tín hữu, 13 quan chức đứng đầu các quốc gia và chính phủ, trong đó có thủ tướng Ấn độ. Đức Thánh Cha Phanxicô sẽ chủ sự Thánh lễ cùng với nhiều Hồng y, Giám mục và Linh mục đồng tế.

– Truyền thông: sẽ có 9 telecamera có thể thu chiếu hình ảnh đặc biệt từ trên cao để thu hình các chiều kích của đám đông tập trung tại quảng trường thánh Phêrô. Thánh lễ phong thánh có thể theo dõi trên internet qua các mạng Youtube, Vaticanplayer của Radio Vatican và trang mạng Ctv.Thánh lễ sẽ được truyền đi trên toàn thế giới qua nối kết với 120 toàn thế giới. Đặc biệt các công nghệ tiên tiến sẽ được sử dụng như dự án "Io c'ero" giúp thu toàn cảnh với dung lượng lớn. Có hơn 200 ký giả đăng ký sự kiện quan trọng này.

– Về an ninh: 3000 nhân viên các lực lượng an ninh của Italia được huy động cho một sự kiện quan trọng nhất của Năm Thánh.

Từ chiều hôm qua, 1/9, đã có các cuộc kiểm tra các khu vực cũng như các hố ga. Các biện pháp an ninh cũng được đặt ra cho các buổi cầu nguyện tại các nhà thờ ở Roma. Sở cảnh sát nghiên cứu để bảo đảm an ninh tuyệt đối. Đồng thời cũng cần sự tham dự trôi chảy và an tĩnh của các tín hữu.

Từ 19 giờ ngày thứ 7, 3/9, khu vực đền thờ Thánh Phaolô sẽ được chia thành 3 phần, mỗi phần sẽ kiểm soát người và hành lý để bảo đảm an ninh tối đa nơi tập trung các tín hữu cũng như sự hiện diện của Đức Thánh Cha.

Từ 8-19 giờ ngày Chúa nhật 4/9, các chuyến bay sẽ bị cấm trong vùng rộng lớn cạnh đền thờ thánh Phêrô và tạo nên một vùng an toàn được kiểm soát bởi hệ thống ''Slow Mover Interceptor', hệ thống phát hiện các máy bay không được quyền bay trong vùng cấm.

Có khoảng 1000 người làm việc 24/24 để tăng cường các kế hoạch phòng ngừa cảnh giác và quy định phòng ngừa cho Năm Thánh ở vùng trung tâm. (Tổng hợp)

Hồng Thủy

Đức Thánh Cha lập Bộ Dịch Vụ Phát Triển nhân bản toàn diện

Đức Thánh Cha lập Bộ Dịch Vụ Phát Triển nhân bản toàn diện

Đức Thánh Cha thành lập Bộ Dịch Vụ Phát Triển nhân bản toàn diện

VATICAN. Hôm 31-8-2016, ĐTC đã thành lập Bộ Dịch Vụ phát triển nhân bản toàn diện (Dicastero per il Servizio dello Sviluppo Umano Integrale) và bổ nhiệm ĐHY Peter Turkson làm Bộ trưởng của cơ quan mới này.

Quyết định của ĐTC được trình bày trong tự sắc thành lập và được công bố hôm 31-8-2016 cùng với qui chế của Bộ tân lập.

Bộ Dịch Vụ phát triển nhân bản có thẩm quyền đặc biệt trong các vấn đề liên quan đến di dân, những người nghèo túng, các bệnh nhân và những người bị loại trừ, bị gạt ra ngoài lề và các nạn nhân chiến tranh và thiên tai, các tù nhân, người thất nghiệp cũng như các nạn nhân của bất kỳ hình thực nô lệ và tra tấn.

Qui chế của Bộ mới được phê chuẩn thử nghiệm, theo đó, từ ngày 1-1-2017 tới đây, thẩm quyền của 4 Hội đồng Tòa Thánh hiện nay sẽ tập trung vào Bộ Dịch Vụ phát triển nhân bản toàn diện, đó là Hội đồng Tòa Thánh Công lý và Hòa bình, Cor Unum (Đồng Tâm), mục vụ di dân và người lưu động, sau cùng là Hội đồng Tòa Thánh mục vụ các nhân viên y tế.

Kể từ ngày đó, 4 Hội đồng vừa nói sẽ ngưng hoạt động và bị bãi bỏ, cùng với các điều khoản từ số 142 đến số 153 của Tông Hiến Pastor Bonus (Mục Tử Nhân Lành).

Theo qui chế mới, trong Bộ tân lập sẽ có một Phân Bộ đặc biệt biểu lộ mối quan tâm của ĐTC đối với những người tị nạn và di dân. Thực vậy, ngày nay không thể có một dịch vụ phát triển nhân bản toàn diện mà không đặc biệt quan tâm đến hiện tượng di dân. Vì thế, phân bộ này được tạm thời ở dưới sự hướng dẫn trực tiếp của ĐTC (Qui chế, art, 1,4).

ĐHY Peter Turkson, tân Bộ trưởng, người Ghana, năm nay 68 tuổi, được Tòa Thánh bổ nhiệm làm TGM thành phố Cape Coast hồi năm 1992 và được thăng Hồng y hồi năm 2003. Năm 2009, ngài được ĐTC Biển Đức 16 bổ nhiệm làm Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh Công lý và Hòa Bình (31-8-2016)

G. Trần Đức Anh OP

 

Cái nhìn của Chúa Giêsu giải thoát và chữa lành tật bệnh

Cái nhìn của Chúa Giêsu giải thoát và chữa lành tật bệnh

ĐTC Phanxicô chào tín hữu trong buổi tiếp kiến chung sáng thứ tư 31-8-2016

** Với cung cách hành xử tràn đầy thương xót của Ngài Chúa Giêsu chỉ cho Giáo Hội thấy lộ trình phải đi để gặp gỡ mọi người, để mỗi người có thể được chữa lành trên thân xác cũng như trong tâm trí và phục hồi phẩm giá là con cái của Thiên  Chúa.

Kính thưa quý vị thính giả, ĐTC Phanxicô đã nói như trên trong buổi tiếp kiến tín hữu và du khách hanh hương sáng thứ tư hôm qua.

Trong bài huấn dụ ĐTC đã giải thích ý nghĩa trình thuật phép lạ cho người đàn bà bị bệnh băng huyết được lành bệnh, như thánh sử Mátthêu trình thuật trong chương 9,20-22. Khi trông thấy Chúa Giêsu đi qua giữa đám đông, bà tới gần đàng sau Ngài để rờ vào gấu áo của Ngài. “Thật ra bà tự nhủ: nếu tôi chỉ thành công rờ vào áo choàng của Ngài thôi, tôi sẽ được lành” (c. 21). Biết bao đức tin phải không? Người đàn bà này có lòng tin biết bao! Bà lý luận như thế, bởi vì bà được linh hoạt bởi biết bao lòng tin và niềm hy vọng, và với một cử chỉ ma lanh, bà thực hiện điều có trong tim. Ước muốn được Chúa Giêsu chữa lành khiến cho bà vượt quá các điều lệ do luật lệ Môshê thiết định. ĐTC giải thích điểm này như sau:

Thật ra, người đàn bà đáng thương này đã bị bệnh từ nhiều năm, nhưng bà bị coi là ô uế vì bị bệnh băng huyết ( x. Lc 15,19-30) và vì thế bị loại trừ khỏi các buổi cử hành phụng vụ, khỏi cuộc sống hôn nhân, khỏi các tiếp xúc với người thân cận. Thánh sử Marcô cho biết thêm rằng bà đã gặp nhiều y sĩ, tiêu hao hết tiền của để trả cho họ và chịu các chữa trị đau đớn, mà bệnh tình chỉ tệ hạị hơn. Bà đã là một phụ nữ bị xã hội gạt bỏ. Thật là quan trọng chú ý tới điều kiện này – bị gạt bỏ – để hiểu tâm trạng của bà: bà cảm thấy rằng Chúa Giêsu có thể giài thoát bà khỏi bệnh và tình trạng bị gạt bỏ ngoài lề và bất xứng, trong đó bà đã phải sống từ nhiều năm qua. Tắt một lời: bà biết, bà cảm thấy Chúa Giêsu có thể cứu bà.

Trường hợp này khiến cho chúng ta suy tư về sự kiện phụ nữ thường bị nhận thức và giới thiệu như  thế nào. Tất cả chúng ta, cả các cộng đoàn kitô nữa, đều được cảnh báo bởi các cách nhìn phụ nữ bị tiêm nhiễm các thành kiến và ngờ vực xúc phạm tới phẩm giá bất khả xâm phạm của họ. Trong nghĩa đó chính các Phúc Âm tái lập sự thật và tái dẫn đưa tới một quan điểm giải phóng. Chúa Giêsu đã khâm phục đức tin của người đàn bà đó, mà tất cả mọi người đều xa lánh, và Ngài đã biến niềm hy vọng của bà thành sự cứu rỗi.

** ĐTC nói thêm trong bài huấn dụ: Chúng ta không biết tên của bà, nhưng ít hàng mà các Phúc Âm miêu tả cuộc gặp gỡ của bà với Chúa Giêsu vạch ra một lộ trình lòng tin có khả năng tái lập sự thật và phẩm giá cao cả của từng người. Cuộc gặp gỡ với Chúa Kitô mở ra cho tất cả mọi người nam nữ thuộc mọi nơi và mọi thời con đường của sự giải thoát và cứu độ.

Phúc Âm thánh Matthêu nói rằng khi người đàn bà sờ vào áo choàng của Chúa Giêsu, Ngài “quay lại” và “trông thấy bà” (c 22) và nói với bà. Như chúng ta đã nói, vì tình trạng bị loại trừ của bà, bà ta đã hành động lén lút, sau lưng Chúa Giêsu, bà đã hơi sợ hãi, để không bị trông thấy, bởi vì bà đã là một người bị gạt bỏ. Trái lại, Chúa Giêsu trông thấy bà và cái nhìn của Ngài không phải là cái nhìn quở trách, Ngài không nói: “Cút đi, bà là một người bị gạt bỏ!”, làm như thể Ngài nói: “Bà là một người phong cùi, cút đi!”. Không, Chúa không quở trách bà. Nhưng cái nhìn của Chúa Giêsu là cái nhìn của lòng thương xót và dịu hiền. Ngài biết điều đã xảy ra và tìm sự gặp gỡ cá biệt với bà, là điều mà chính người đàn bà ước muốn. Điều này có nghĩa là Chúa Giêsu không chỉ tiếp đón bà, mà còn cho rằng bà đáng có được cuộc gặp gỡ ấy đến độ làm quà cho bà lời Ngài và sự chú ý của Ngài nữa.

Trong phần hai của trình thuật từ “cứu” được lập lại 3 lần: “Tôi chỉ cần sờ được vào áo của Người thôi là sẽ được cứu! " Đức Giê-su quay lại thấy bà thì nói: "Này con, cứ yên tâm, lòng tin của con đã cứu chữa con." Và ngay từ giờ ấy, bà được cứu chữa.” (cc.21-22).

Câu “can đảm lên con gái” – “can đảm lên, con gái” Chúa Giêsu nói – diễn tả tất cả lòng thương xót của Thiên Chúa đối với người ấy.  Và đối với từng người bị gạt bỏ, biết bao lần chúng ta cảm thấy mình bị gạt bỏ trong thâm tâm vì các tội lỗi của chúng ta, chúng ta đã phạm biết bao tội, chúng ta đã có biết bao tội… Và Chúa nói với chúng ta: “Can đảm lên! Hãy đến!”. Đối với Ta con không phải là một người bị gạt bỏ. Can đảm lên, con gái. Con là một con trai, một con gái”. Và đây là thời điểm của ơn thánh, là thời điểm của ơn tha thứ, thời điểm của việc hội nhập vào trong sự sống của Chúa Giêsu, vào trong cuộc sống của Giáo Hội. Đây là lúc của lòng thương xót. Ngày hôm nay với tất cả chúng ta, những người tội lỗi, chúng ta là những người tội lỗi  lớn hay tội lỗi nhỏ, nhưng tất cả đều tội lỗi, với tất cả chúng ta Chúa nói: “Can đảm lên, hãy đến !” Con không bị gạt bỏ: Ta tha cho con, Ta ôm con trong vòng tay”. Lòng thương xót của Thiên Chúa là thế đó. Chúng ta phải có can đảm đi đến với Ngài, xin lỗi Ngài vì các tội của chúng ta và tiến bước. Với lòng can đảm, như người đàn bà đã làm.

** Tiếp đến ĐTC đã quảng diễn ý nghĩa da diện của sự cứu rỗi như sau:

Thế rồi, sự cứu rỗi có nhiều ý nghĩa: trước hết nó tái lập sức khỏe cho người đàn bà; rồi giải thoát bà khỏi các kỳ thị xã hội và tôn giáo; ngoài ra nó hiện thực niềm hy vọng mà bà đã mang trong tim, bằng cách hủy bỏ các sợ hãi và nỗi tuyệt vọng của bà; sau cùng nó tái trao ban bà cho cộng đoàn  bằng cách giải thoát bà khỏi sự cần thiết hành động lén lút. Điều cuối cùng này quan trọng: một người bị gạt bỏ luôn luôn làm một cái gì lén lút, vài lần hay trong suốt cuộc đời: chúng ta hãy nghĩ tới các người phong cùi thời đó, những người vô gia cư ngày nay… chúng ta hãy nghĩ tới các người tội lỗi, tới chúng ta tội lỗi, chúng ta luôn luôn làm cái gì đó lén lút… như thể chúng ta cần làm cái gì đó lén lút, và chúng ta xấu hổ vì điều chúng ta là. Và Chúa giải thoát chúng ta khỏi điều ấy. Chúa Giêsu giải thoát chúng ta và nâng chúng ta đứng lên: “Hãy đứng dậy và đến. Hãy đứng lên”. Như Thiên Chúa đã tạo dựng chúng ta: Thiên Chúa đã tạo dựng chúng ta đứng trên hai chân, chứ không bị hạ nhục. Hãy đứng lên. Sự cứu rỗi mà Chúa Giêsu trao ban là sự cứu rỗi toàn vẹn, tháp nhập cuộc sống của người đàn bà vào trong bầu khí  tình yêu thương của Thiên Chúa, đồng thời tái lập phẩm giá tràn đầy cho bà.

Kết luận, không phải cái áo choàng mà người đàn bà đã sờ vào cho bà sự cứu thoát, nhưng là lời của Chúa Giêsu, được tiếp nhận trong lòng tin, có khả năng an ủi bà, chữa lành bà, tái lập bà trong tương quan với Thiên Chúa và với dân Ngài. Chúa Giêsu là suối nguồn duy nhất của phước lành, từ đó nảy sinh ra ơn cứu độ cho tất cả mọi người, và đức tin là sự sẵn sàng nền tảng để tiếp nhận nó. Một lần nữa Chúa Giêsu cho thấy với cung cách tràn đầy thương xót của Ngài, Ngài chỉ cho Giáo Hội thấy con đường phải theo để gặp gỡ mọi người, để mỗi người có thể được chữa lành trên thân xác và trong tinh thần và tái chiếm được phẩm giá là con cái Thiên Chúa.

** ĐTC đã chào các đoàn hành hương khác nhau. Với các nhóm nói tiếng Pháp, ngài nói: Kết thúc kỳ nghỉ hè tôi mời gọi anh chị em đặt để cuộc sống thường ngày dưới cái nhìn thương xót của Chúa, để Ngài ban cho từng người ơn chu toàn bổn phận và đem tình yêu của Chúa Kitô tới mọi người chung quanh.

Ngài cũng chào các đoàn hành hương nói tiếng Anh đến từ các nước Ai len, Malta, Philippines, Việt Nam và Hoa Kỳ. Ngài cầu chúc chuyến viếng thăm Roma củng cố tình yêu của họ đối với Chúa Kitô và giúp họ trở thành các thừa sai của lòng thương xót Chúa, đặc biệt đối với những ai sống xa Chúa.

Trong số các nhóm nói tiếng Đức ĐTC chào các tín hữu đến từ Hoechstadt, Ostfildern và các học sinh trường trung học ĐHY Von Gallen tỉnh Muenster. Ngài chúc họ có những ngày hành hương tươi vui tại Roma.

Trong các nhóm nói tiếng Bồ Đào Nha ĐTC chào các sinh viên trường Brasil, đoàn hải quân Brasil và tín hữu giáo phận Vitoria, và cầu chúc họ là các chứng nhân đem Tin Mừng và sự ủi an của Chúa tới cho mọi người.

Chào các tin hữu Ba Lan ĐTC khuyến khích mọi người đừng sợ hãi đến với Chúa với các khổ đau và yếu đuối của mình. Ngài cầu mong ơn thánh Chúa ban giúp họ tái khám phá ra phẩm giá là con cái Chúa.

ĐTC cũng chào các tín hữu tổng giáo phận Genova do ĐHY Angelo Bagnasco hướng dẫn, cũng như tín hữu giáo phận Melfi- Rapolla – Venosa do ĐC Gianfranco Todisco hướng dẫn, các đại chủng sinh giáo phận Milano và nhiều đoàn hành hương khác. Ngài cầu chúc họ có chuyến hành hương Năm Thánh sốt mến và gặt hái nhiều ơn lành của Chúa.

Chào các bạn trẻ, người đau yếu và các đôi tân hôn ĐTC nhắc tới thánh Gioan Tẩy Giả Giáo Hội mừng lễ ngày thứ hai vừa qua. Ngài cầu mong cuộc tử đạo anh hùng của thánh nhân giúp các bạn trẻ dấn thân sống Tin Mừng, người đau yếu can đảm tìm được sức mạnh và sự thanh thản nơi Chúa Kitô, và các cặp vợ chồng mới cưới sống kinh nghiệm niềm vui ủi an phát xuất từ việc tận hiến cho nhau.

Buổi tiếp kiến đã kết thúc với Kinh Lạy Cha và phép lành toà thánh ĐTC ban cho mọi người.

Linh Tiến Khải

Đức Thánh Cha gặp gỡ 35 ngàn bác sĩ chuyên về bệnh tim

Đức Thánh Cha gặp gỡ 35 ngàn bác sĩ chuyên về bệnh tim

Đức Thánh Cha gặp gỡ 35 ngàn bác sĩ chuyên về bệnh tim

ROMA. Trưa ngày 31-8-2016, ĐTC Phanxicô đã đến chào thăm và gặp gỡ 35 ngàn bác sĩ, đến từ 140 quốc gia, tham dự Hội nghị thế giới về bệnh tim, nhóm tại khu vực Hội chợ ở Roma, gần phi trường Fiumicino.

Lên tiếng trong dịp này, ĐTC cho biết ”Giáo Hội đồng hành với các nhà khoa học trong con đường cam go là nghiên cứu về sự sống và sức khỏe con người, đồng thời cổ võ và nâng đỡ họ, vì Giáo Hội biết rằng điều gì góp phần vào thiện ích thực sự của con người, cũng là một hành động đến từ Thiên Chúa.”

ĐTC cũng nhận xét rằng ”nguyên khoa học thiên nhiên và vật lý mà thôi không đủ để hiểu mầu nhiệm mà mỗi người hàm chứa trong mình. Nếu ta nhìn con người toàn diện, ta có thể có một cái nhìn đặc biệt khẩn trương đối với những người nghèo khổ nhất, những người kém may mắn và bị gạt ra ngoài lề, để họ cũng được săn sóc, được quan tâm và giúp đỡ qua các cơ cấu y tế công và tư nhân”.   Sau cùng, ĐTC cầu mong rằng điều quan trọng là nhà khoa học, trong khi cứu xét mầu nhiệm cao cả về cuộc sống con người, không để cho mình bị đè bẹp vì cám dỗ muốn bóp nghẹt sự thật (Xc Rm 1,18).

G. Trần Đức Anh OP

Động lực đàng sau cử chỉ đẹp của Abbey D’Agostino tại Thế vận hội 2016

Động lực đàng sau cử chỉ đẹp của Abbey D’Agostino tại Thế vận hội 2016

Abbey D’Agostino và Nikki Hamblin

Trong khi huy chương vàng Olympic là một thành công mà các vận động viên mơ ước, thì có một giải thưởng khác được trao cho một số nhỏ được chọn lựa. Hai vận động viên điền kinh Nikki Hamblin (người New Zealand) và Abbey D’Agostino (người Mỹ) không đạt huy chương vàng, đồng hay bạc, nhưng đã được trao huy chương Pierre de Coubertin, là huy chương được trao cho các vận động viên và nhân viên tiêu biểu cho tinh thần thể thao tại Thế vận hội mùa hè và mùa đông. Đó là huy chương về “fair play” – tinh thần thượng võ. Đây là huy chương được ví là khó đạt hơn cả huy chương vàng, vì chỉ riêng Michael Phelps, kình ngư của thế giới, đã đạt được tất cả 23 huy chương vàng, thì hai vận động viên này mới là người thứ 18 và 19 nhận huy chương này. Cặp đôi này đã trở thành đề tài trên báo chí tuần qua.

Mọi chuyện diễn ra vào ngày thứ 3, 17 tháng 8 vừa qua, trong cuộc thi chạy  vòng loại 5000 mét. Khi chỉ còn 2000 mét là đến đích thì hai vận động viên Hamblin và D’Agostino va chạm, cùng vấp và ngã xuống đất. D’Agostino đã đứng dậy trước nhưng cô không tiếp tục cuộc chạy ngay; thay vì đó, cô đã quay lại giúp Hamblin. Rồi khi D’Agostino quá đau không thể tiếp tục cuộc thi, đến lượt Hamblin đã đứng lại với D’Agostino một lúc để giúp cô đứng dậy. Cả hai đã kết thúc cuộc đua, nhưng D’Agostino phải đi khập khễnh trong 5 vòng cuối. D’Agostino và Hamblin đã ôm nhau cách thân thiết khi kết thúc vòng đua, và sau đó D’Agostino phải lên xe lăn rời vòng đua. Dù cả 2 thất bại trong vòng loại nhưng Ủy ban Olympic phán quyết là cả 2 được vào thi vòng chung kết do tinh thần thể thao của họ. Nhưng vào phút cuối D’Agostino đã không thể tham dự vòng chung kết vì chân vẫn còn đau.

Câu chuyện đẹp được khán giả trường đua chứng kiến và các khán giả khắp thế giới theo dõi qua các mạng truyền thông ngưỡng mộ, và các hãng tin toàn thế giới cũng đã tốn giấy mực cho cử chỉ đẹp đầy tinh thần thể thao này. Sau đó, D’Agostino đã chia sẻ về việc làm của mình: động lực và sức mạnh của hành động của cô chính là Thiên Chúa. Cô nói: “Dù hành động của tôi lúc đó là bản năng, cách duy nhất tôi có thể và lý luận đó chính là Thiên Chúa đã chuẩn bị trái tim tôi phản ứng theo cách đó. Cả thời gian ở đây Người cho tôi biết rõ là kinh nghiệm của tôi ở Rio sẽ có giá trị hơn là cuộc thi của tôi, và khi Nikki đứng lên tôi đã biết điều đó.”

Abbey D’Agostino 24 tuổi, lớn lên trong một gia đình Công giáo. Cô đã chia sẻ trong cuộc phỏng vấn dành cho podcast “Running On Om” về việc chạy đua của cô, về những lo lắng chấn thương và về đời sống cầu nguyện. D’Agostino cho biết, cô thường dùng thời gian cầu nguyện của mình để suy gẫm về những điều Thiên Chúa đã làm trong cuộc sống của cô. Cô lắng nghe thánh ca, đọc Kinh thánh và viết nhật ký. Những điều này đưa cô đến một nơi khiêm nhường, nơi cô nhận ra vị trí của mình trước nhan Chúa. Khi vào cuộc thi chạy, cô nghĩ rằng sự tin cậy vào Chúa và sự hiện diện của Chúa Thánh Thấn sẽ thêm “năng lượng” cho cô, cách ý thức hay vô thức. Cô nói: “Tôi cảm thấy bình an khi nhận biết là mình không đang chạy với sức mạnh của mình”. Cô kết thúc cuộc thi chỉ với việc đón nhận Chúa Giêsu và nhận ra điều có ý nghĩa trong cuộc sống của cô.

Như các vận động viên khác, D’Agostino cũng lo sợ những chấn thương trong các cuộc thi. nhưng chính sự tín thác vào Thiên Chúa giúp cô vơi bớt những lo lắng trước các cuộc thi quan trọng. Cô nói: “Cho dù kết quả cuộc thi thế nào tôi sẽ chấp nhận nó. Tôi rất biết ơn và chỉ rút lấy những điều mà tôi cảm thấy nó bày tỏ rõ ràng việc làm của Thiên Chúa trong cuộc sống của tôi.” D’Agostino cho biết những lần chấn thương trước đã thúc đẩy cô cậy dựa vào Thiên Chúa trong cách thế mà cô chưa bao giờ có trước đó. Trên lý thuyết, cô biết tín thác vào Thiên Chúa là cách duy nhất mình có thể cảm thấy bình an, vui mừng và thỏa mãn mà Người ban cho, nhưng kinh nghiệm điều này và rơi vào trong một tình trạng mà đức tin bị thử thách thì lại là một vấn đề khác. Sau những chấn thương, những lần cảm thấy cô đơn và mất tự tin đã làm cô phải xét mình; mình có thực sự tin cậy vào Thiên Chúa, để Thiên Chúa kiểm soát và làm vinh danh Thiên Chúa qua thể thao hay không. Nếu thời gian có thể quay lại, cô muốn được trò chuyện với Mẹ Têrêsa, một người rất đặc biệt với cô. (CAN 17/8/2016)

Hồng Thủy

Hội đồng Giám mục Italia trích 3.5 triệu euro giúp các người tị nạn Syria

Hội đồng Giám mục Italia trích 3.5 triệu euro giúp các người tị nạn Syria

ĐHY Angelo Bagnasco, chủ tịch HĐGM Italia

Văn phòng Truyền thông Quốc gia của Hội đồng Giám mục Italia loan báo: số tiền 3.5 triệu euro trích từ ngân quỹ 8/1000 sẽ được dùng để giúp các người tị nạn Syria.

Ngân quỹ 8/1000 là số tiền nhà nước Italia trích 8 phần ngàn từ khoản tiền thuế của người dân Italia và cung cấp cho các Giáo hội tại Italia.

Đoàn chủ tịch Hội đồng Giám mục Italia đã phân bổ số tiền khoảng hai triệu Euro giúp cho các người tị nạn Syria, thuộc các Giáo hội Kitô Canđê, Công giáo Sirô và Chính thống Sirô, chạy trốn từ Mosul và vùng bình nguyên Ninivê, tìm được chỗ trú ngụ tạm thời trong các ngôi nhà gạch mà Giáo phận Canđê Erbil thuê.

Số tiền một triệu sáu trăm ngàn euro khác được sử dụng để cung cấp thực phẩm, trợ giúp y tế và các nhu yếu phẩm cho hơn 12 ngàn gia đình của cộng đồng Kitô giáo Aleppo, thông qua các cha dòng Phanxicô và Hiệp hội pro Terra Sancta.

Cả hai khoản tiền sẽ được giải ngân trong hai lần; lần thứ hai sẽ chỉ được thực hiện sau khi các tài liệu được đệ trình chứng minh kết quả tích cực trong lần thứ nhất. (SD 29/08/2016)

Hồng Thủy

Đức Giáo Hoàng Phanxicô gặp người sáng lập Facebook

Đức Giáo Hoàng Phanxicô gặp người sáng lập Facebook

Đức Giáo Hoàng Phanxicô gặp người sáng lập Facebook

Vatican – Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã gặp Mark Zuckerberg, sáng lập viên và CEO của Face book, và vợ của ông, vào sáng thứ 2 hôm nay, trong một buổi tiếp kiến riêng tại Vatican.

Thông cáo của phòng báo chí Tòa Thánh cho biết: Đức Giáo hoàng và ông Zuckerberg đã nói chuyện với nhau về cách thế sử dụng các kỹ thuật truyền thông để xoá bớt nghèo khổ, khuyến khích một nền ván hóa gặp gỡ và giúp chuyển đạt một sứ điệp của hy vọng, đặc biệt cho những người bị thiệt thòi nhất”.

Ông Zuckerberg đã viết trên Facebook: “Priscilla và tôi đã có vinh dự gặp Đức Giáo Hoàng Phanxicô tại Vatican. Chúng tôi đã kể với ngài chúng tôi rất ngưỡng mộ sứ điệp thương xót và hiền dịu của ngài và cách ngài tìm ra những cách thức mới để giao tiếp với con người của mọi tôn giáo trên toàn thế giới. Chúng tôi cũng nói về tầm quan trọng của việc nối kết con người, đặc biệt tại những phần trên thế giới mà người ta không có kết nối internet”.

Hai vợ chồng ông Zuckerberg đã tặng Đức Giáo Hoàng một mẫu Aquila, là một máy bay nhỏ sử dụng năng lượng mặt trời để phân phát kết nối internet đến những vùng không có kết nối.

Ông chia sẻ them: “Chúng tôi còn chia sẻ về hoạt động của sáng kiến Chan Zuckerberg nhắm giúp con người trên toàn thế giới”.

Và ông kết luận: “Đó là một cuộc gặp gỡ mà chúng tôi không bao giờ quên. Bạn có thể cảm thấy sự ấm ấp và tử tế của ngài và trong tim ngài lòng muốn sâu sắc giúp đỡ con người.” (SD và AGI 29/08/2016)

Hồng Thủy

Đức Thánh Cha cổ võ tái truyền giảng Tin Mừng cho Âu Châu

Đức Thánh Cha cổ võ tái truyền giảng Tin Mừng cho Âu Châu

Đức Thánh Cha cổ võ tái truyền giảng Tin Mừng cho Âu Châu

VATICAN. ĐTC Phanxicô cổ võ các tín hữu Kitô tìm ra những con đường và phương pháp, ngôn ngữ mới, để tái truyền giảng Tin Mừng cho người Âu châu ngày nay.

 

Trên đây là nội dung sứ điệp ĐTC gửi đến Diễn đàn liên Kitô giáo lần thứ 14 nhóm tại thành phố Salonicco Hy Lạp từ ngày 28 đến 30-8-2016 này do Học viện về Linh đạo của Đại học Giáo Hoàng Antonianum của dòng Phanxicô ở Roma cùng với Phân khoa thần học Chính Thống thuộc đại học Aristoteles ở Salonicco tổ chức với đề tài ”Nhu cầu tái truyền giảng Tin Mừng cho các cộng đồng Kitô ở Âu Châu”.

 

Trong số các diễn giả về phía Công Giáo có ĐHY Kurt Koch người Thụy Sĩ, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh hiệp nhất các tín hữu Kitô.

 

ĐTC Phanxicô nhắc đến hiện tượng nhiều Kitô hữu ngày nay ở Âu Châu tuy đã được rửa tội, nhưng không thực hành đạo, không ý thức hồng ân đức tin đã nhận lãnh, không tích cực tham gia đời sống cộng đồng Kitô. Đó là một thách đố cho tất cả các Giáo Hội Kitô ở đại lục này, và cho thấy cần có một công trình tái truyền giảng Tin Mừng.

 

Trong bối cảnh đó, ĐTC cầu chúc Diễn đàn liên Kitô, nhờ những suy tư và đề nghị do các thuyết trình viên và sự trao đổi thẳng thắn thân thiện giữa các học giả Công giáo và Chính thống có thể góp phần đề ra những con đường mới, những phương pháp có tính chất sáng tạo và một ngôn ngữ thích hợp để đưa lời loan báo Chúa Giêsu Kitô với tất cả vẻ đẹp đến cho con người Âu Châu ngày nay”. (SD 29-8-2016)

 

G. Trần Đức Anh OP

 

Lễ truyền chức và mở tay của tân Linh mục đầu tiên người Mông cổ

Lễ truyền chức và mở tay của tân Linh mục đầu tiên người Mông cổ

fr-joseph-enkh-baatars-first-mass-a-gift-from-god-photos

Ulan Bator, Mông cổ – Như báo chí đã đưa tin, ngày hôm qua, 28/8, Giáo hội Mông cổ, một cộng đoàn Công giáo nhỏ nhất thế giới đã có vị Linh mục người bản xứ đầu tiên.

 

Tại nhà thờ chánh toà thánh Phêrô và Phaolô ở thủ đô Ulan Bato, Đức cha Wenceslao Padilla, Giám quản Tông tòa, đã xức dầu thánh hiến cho thầy Giuse Enkh-Baatar. Đồng tế trong Thánh lễ truyền chức còn có Đức cha Lazzaro You Heung-sik, Giám mục Giáo phận Daejeon – Nam hàn – nơi thầy Enkh-Baatar đã học thần học, và Đức cha Oswaldo Padilla, khâm sứ Tòa Thánh tại Hàn quốc và Mông cổ, cùng hơn 40 Linh mục, các nhà thừa sai Consolata đã hiện diện ở đây nhiều năm. Có khoảng 1500 tín hữu và khách mời, bao gồm các đaị diện chính phủ và chính quyền thành phố, các đại diện ngoại giao.

 

First Priest ordained in MONGOLIA

 

 

Đặc biệt có sự hiện diên của hòa thượng Dambajav, trụ trì chùa Dashi Choi Lin. Hòa thượng đã tặng cho tân  Linh mục trẻ một khăn choàng truyền thống của Phật giáo màu xanh, màu tượng trưng cho bầu trời, nghĩa là sự thanh sạch, nhưng cũng là biểu tượng của lời chúc tốt lành và mời gọi cảm thông. Những người hiện diện đã vỗ tay khi hòa thượng choàng tấm khăn lên vai vị tân Linh mục. Vị thư ký của hòa thượng cho biết: “Chúng tôi có mối liên hệ tốt đẹp với các tín hữu Công giáo. Chúng tôi học hỏi từ họ như họ học hỏi từ chúng tôi. Chúng tôi vui mừng vì một người trong chúng tôi, một người Mông cổ, trở thành Linh mục của Giáo hội này.

Hôm nay vị tân Linh mục, cha Giuse Enkh-Baatar, đã cử hành Thánh lễ mở tay trong niềm vui của gia đình và cộng đoàn dân Chúa. Cha Giuse chia sẻ là Thánh lễ đầu tiên được cử hành bởi một tân Linh mục “luôn luôn là một quà tặng của Thiên Chúa. Nhưng Thánh lễ này, phụng vụ Thánh Thể này, đối với tôi, là một quà tặng lớn nhất. Tôi hy vọng sẽ có thể bước đi trên con đường đã được Thiên Chúa chỉ dẫn cho mình và thực hành thánh ý”.

Trong thực tế, dân tộc Mông Cổ theo Phật giáo Tây Tạng và Saman giáo truyền thống, và các khía cạnh của hai tôn giáo rất thường gặp nhau. Còn đối với cộng đồng Kitô hữu, các mối liên hệ ít gần gũi hơn, và việc phong chức Enkh là một cầu nối cả trong ý nghĩa này.

Cha Bernardo Cervellera, Giám đốc hãng tin Á châu nhận xét lễ truyền chức Minh mục là một biến cố quan trọng bởi vì đây là Linh mục đầu tiên của một cộng đoàn phát sinh thật sự từ tro bụi, không có hiện diện cách thực hành. Đây là kết quả của hoạt động nhiều năm của các thừa sai và điều này cho thấy các hạt giống được gieo vãi sẽ sinh sôi phát triển. Một Linh mục người Mông cổ là một phần của văn hóa này đồng thời cũng là người đón nhận lời rao giảng của Chúa Giêsu, có thể làm việc hội nhập văn hóa, cả từ khía cạnh văn hóa cũng như thần học, điều mà hơi khó và chậm đối với các thừa sai ngoại quốc. Cha cho biểt, Giáo hội tại Mông cổ phát triển chậm và kiên nhẫn, với những liên hệ bạn bè cũng như các trợ giúp cho dân chúng. Cha nhìn thấy Giáo hội tại Á châu, cách riêng tại Mông cổ, có thể phát triển vì đức tin đang tái sinh ở châu lục này. (RV 28/8/2016 và Asia News 29/8/2016)

Hồng Thủy

 

Đức tin của một số vận động viên người Mỹ tham dự Thê vận hội Brazil 2016

Đức tin của một số vận động viên người Mỹ tham dự Thê vận hội Brazil 2016

Vận động viên bơi lội Katie Ledecky

Sau 16 ngày tranh tài, Thế vận hội Olympic mùa hè năm 2016 tổ chức tại Brazil, với sự tham dự của hơn 11 ngàn vận động viên đến từ 206 quốc gia, vùng lãnh thổ trên thế giới, đã bế mạc vào ngày 22 tháng 8. Thế vận hội năm nay được đánh giá là một trong những kỳ Thế vận hội thành công nhất trong lịch sử của nó, từ cách tổ chức của nước chủ nhà Brazil, cho đến số kỷ lục đạt được, cũng như những câu chuyện đẹp đầy tinh thần thể thao. Các vận động viên, chắc chắn là những người đã góp công sức rất lớn khi cố gắng tập luyện và thi đua để mang lại những thành công cho đại hội thể thao. Trong số các vận động viên tham gia các cuộc thi, có các vận động viên Công giáo và họ đã là những chứng tá về đức tin của mình, về nguồn sức mạnh thiêng liêng đã trợ giúp họ trong những thành công nghề nghiệp cũng như trong cuộc sống hàng ngày. Sau đây là chứng từ của một vài vận động viên Công giáo người Mỹ.

Một trong những vận động viên được nhắc đến nhiều nhất với những thành công vượt bực chính là nữ vận động viên bơi lội trẻ tuổi người Mỹ, Katie Ledecky; cô đã đạt được 4 huy chương vàng và một huy chương bạc tại Thế vận hội mùa hè năm nay. Katie Ledecky 19 tuổi, là một sinh viên Công giáo, sẽ theo học tại Đại học Stanford mùa thu này. Trước đó cô đã học tại trường Little Flower và trung học Stone Ridge của các nữ tu dòng Thánh Tâm tại Bethesda, tiểu bang Maryland. Ledecky chia sẻ: “Tôi đã nhận được một nền giáo dục đầy đức tin tuyệt vời ở cả hai trường. Có cơ hội học hành tại những trường giáo dục nghiêm túc đã giúp tôi quan tâm đến thế giới và việc phục vụ người khác và làm giàu cho cuộc sống của tôi, để nó không chỉ tập trung vào việc bơi lội của tôi và môn điền kinh…. Việc học ở các trường này quan trọng đối với việc bơi lội của tôi vì các truờng Công giáo thử thách tôi, chúng mở rộng tầm nhìn của tôi và cho phép tôi dùng lý trí của mình trong những cách thức đưa tôi vượt qua việc chỉ nghĩ đến việc tập luyện, gặp gỡ trong bơi lội và thể thao.”

Ledecky được bạn bè đánh giá là một người khiêm nhường, đáng yêu và là tấm gương cho các học sinh lớp nhỏ hơn về cách hành xử của người nổi tiếng. Dù tập luyện rất chăm chỉ và đạt những thành công nhưng Ledecky không bao giờ quên các bạn đồng đội. Cô luôn muốn các bạn đạt thành tích tốt nhất cho dù đó là một cuộc thi tại Thế vận hội hay tại trường trung học. Điều đặc biệt nơi vận động viên trẻ này là cô luôn đọc kinh Kính Mừng hay một lời cầu nguyện khác trước khi bước vào cuộc thi. Việc cầu nguyện, đọc kinh Kính Mừng giúp Ledecky bình tĩnh trước khi cô bắt đầu cuộc thi. Đối với Ledecky, Kinh Kính Mừng là một lời kinh rất đẹp. 

Trong một email phỏng vấn với báo Catholic Standard của Tổng giáo phận Washington trước khi Thế vận hội mùa hè năm nay diễn ra, Ledecky cho biết chính đức tin Công giáo đã cho cô sức mạnh và giúp cô giữ cân bằng trong cuộc sống của mình. Tầm quan trọng của cân bằng trong cuộc sống của một người là bài học cô đã học và hy vọng nó sẽ giúp cô ở đại học và sau này nữa. Cô chia sẻ: “Đức tin Công giáo của tôi rất quan trọng đối với tôi. Nó luôn quan trọng và sẽ luôn luôn quan trọng. Nó là một phần của căn tính của tôi, tôi là ai, và tôi cảm thấy thoải mái thực hành đức tin của mình. Nó giúp tôi quan tâm mọi thứ”.

Một vận động viên Công giáo người Mỹ khác cũng đạt thành công vẻ vang trong Thế vận hội mùa hè ở Brazil năm nay là Simone Biles. Biles năm nay 19 tuổi, sinh tại Houston, là ngôi sao trong đội tuyển thể dục dụng cụ nữ Hoa kỳ, đoạt 4 huy chương vàng ở các nội dung Thể dục toàn năng, ngựa gỗ, tự do và đồng đội, và huy chương đồng ở cầu thăng bằng, trở thành vận động viên thể dục đoạt nhiều huy chương vàng nhất cho Hoa Kỳ chỉ trong 1 kỳ thế vận hội. Với 19 danh hiệu Olympic và Vô địch thế giới, Biles được coi là một trong những vận động viên thành công nhất lịch sử môn Thể dục dụng cụ của nước Mỹ. Biles cũng chính là vận động viên đầu tiên giành được 3 chức vô địch thế giới liên tiếp nội dung Toàn năng. Với 14 danh hiệu tại giải đấu này, trong đó có 10 huy chương vàng, Biles cũng là một trong những vận động viên thành công nhất lịch sử giải đấu Olympic. Trong cuộc phỏng vấn với US Magazine, cô cho biết mình mang theo một chuỗi Mân côi màu trắng mà mẹ cô đã cho trong túi thể thao của mình. Biles thường tham dự Thánh lễ Chúa nhật và đều đặn và thắp một ngọn nến ở tượng thánh Sebastiano, thánh quan thầy của các vận động viên, trước mỗi sự kiện lớn.

Một thành viên của hội Hiệp sĩ Columbus cũng đã đạt một huy chương bạc môn đẩy tạ tại Thế vận hội Brazil, đó là Joe Kovacs. Kovacs chia sẻ với tờ báo Columbia hội Hiệp sĩ Columbus là các Linh mục đã giúp đỡ anh rất nhiều trong cuộc sống. Các Linh mục không chỉ là các gương mẫu hành xử mà còn là những người bạn của anh. Anh đã tham gia hội Hiệp sĩ Columbus vì các thành viên là những người tình nguyện, tổ chức các sự kiện, họ là mẫu người mà anh mong muốn trở thành. Anh yêu thích tính phổ quát của Giáo hội. Anh nói: “Mỗi khi bạn đi nhà thờ ở một đất nước khác, các Thánh lễ đều giống nhau. Có thể tôi không hiểu điều họ đang nói qua ngôn ngữ của họ nhưng tôi biết điều họ đang nói. Ở nhiều đất nước, tôi chỉ biết vài chữ để gọi thức ăn, nhưng khi tôi đi nhà thờ tôi biết những gì đang diễn ra và có thể tham dự Thánh lễ”.

Một vận động viên khác, tuy không đạt được thứ hạng cao nhưng những chia sẻ thiêng liêng của cô thật quý giá. Đó là Deanna Price, xếp hạng 8 chung kết môn ném búa nữ. Càng đạt thứ hạng cao, Price càng gắn kết với đức tin Công giáo. Price và gia đình đã được giáo dân trong Giáo xứ Vô nhiễm nguyên tội của cô quyên góp để cha mẹ cô có thể đến Rio di Janeiro xem cuộc thi của con gái. Cô chia sẻ: “Bạn nghe nhiều về tất cả những điều tồi tệ trên thế giới nhưng điều tốt tràn đầy. Nó chiếu sáng phủ lên bóng tối”. Có Thiên Chúa trong cuộc sống tạo nên một sự khác biệt. Cô nói: “Những khi tôi bực mình với người khác, tôi nhận ra mình đang xét đoán họ. Việc của tôi là yêu họ vô điều kiện. Thiên Chúa là Đấng sẽ xét xử”. Năm 2014, khi bị thương ở đầu gối, Price đã đến nhà thờ và cầu nguyện để biết sẽ phải làm gì. Cô chia sẻ: “Thiên Chúa đã cho tôi sức mạnh và khả năng không cạn kiệt. Bạn không nhận ra cơ hội mà Người ban cho bạn mà nó có thể đến trong cách tiêu cực. Nó có thể là chịu đựng một thử thách hay một thánh giá của gánh nặng, nhưng khi bạn vượt qua, nó dạy bạn nhiều hơn về chính bạn và đức tin của bạn. Khi bạn nghĩ bạn cô đơn, không ai bên cạnh bạn và bạn chán nản, vả rồi khi bạn quay lại, bạn nhận ra Người luôn ở đó và giúp bạn mọi lúc”. Khi phải thi đấu vào cuối tuần và không thể tham dự Thánh lễ các ngày Chúa nhật, Price kiếm thời gian lần hạt Mân côi và cám ơn Chúa về những gì Người ban cho cô và cầu xin sức mạnh để sống theo ý Chúa. Chuẩn bị cho cuộc thi tài là một kinh nghiệm căng thẳng đối với Deanna Price, nhưng cô được thư giản vì biết ở làng Olympic có một nhà nguyện. (CNS 2/8/2016; CAN 20/8/2016; Catholic Herald 22/8/2016)

Hồng Thủy

ĐHY Turkson: các tôn giáo bảo vệ môi trường

ĐHY Turkson: các tôn giáo bảo vệ môi trường

ĐHY Turkson đề cao vai trò của các tôn giáo trong việc bảo vệ môi trường

STOCKHOLM. ĐHY Peter Turkson, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh công lý và hòa bình, cổ võ các tôn giáo cộng tác để bảo vệ môi trường, đặc biệt là các nguồn nước.

Ngài bày tỏ lập trường trên đây chiều hôm 29-8-2016, trong bài tham luận tại Hội nghị về chủ đề: ”Nước và tín ngưỡng: các tổ chức tôn giáo góp phần vào chương trình gọi là ”Nước để phát triển dài hạn”.

Hội nghị được tổ chức tại thành phố Stockhol, Thụy Điển, nhân ”tuần lễ thế giới về nước” do LHQ đề xướng. Tham dự Diễn đàn có nhiều vị lãnh đạo các tôn giáo khác nhau.

ĐHY Turkson đặc biệt nói về đề tài ”tín ngưỡng và phát triển” và ngài nhận xét rằng ”khoa học có thể cho biết số lượng sự ô nhiễm dưới biển sâu hoặc quanh các quặng mỏ, tiên đoán những hậu quả tiêu cực và đề nghị phương thức chữa trị. Nhưng khoa học không thể cung cấp động lực để hành động tốt đẹp. Cũng vậy trong lãnh vực các khoa học thiên nhiên: các nhà xã hội, kinh tế và luật gia có thể phân tích và giải thích những hậu quả tiêu cực của nạn thất nghiệp, nạn đầu cơ và tham những: họ có thể cảnh giác chúng ta về những chênh lệch, những chính sách mâu thuẫn hoặc những bất an địa lý chính trị. Nhưng xét cho cùng họ không thể cung cấp động lực để hành động tốt đẹp”.

Từ đó, ĐHY đề cao vai trò của các tôn giáo và tín ngưỡng mang lại những động lực mạnh mẽ giúp con người quan tâm đến những hiểm họa về môi sinh và dấn thân hành động, như ĐTC Phanxicô đã viết trong thông điệp ”Laudato sì” về việc bảo vệ thiên nhiên, căn nhà chung của chúng ta: ”khoa học và kỹ thuật sẽ không giúp ích ở đây. Mọi giải pháp kỹ thuật sẽ bất lực ”nếu chúng ta đánh mất động lực mạnh mẽ làm cho chúng ta có thể sống trong hòa hợp, hy sinh và đối xử tốt với nhau” (LS 200).

Trong bài tham luận, ĐHY Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh Công lý và Hòa Bình cũng đưa ra một vài đề nghị cụ thể như:

– Giáo dục giới trẻ có tinh thần liên đới, vị tha và trách nhiệm. Sau này những nhân đức đó sẽ giúp họ trở thành những người quản trị và chính trị gia lương thiện.

– Kinh thánh và các truyền thống linh đạo cho thấy nước là điều quí giá và cũng là một yếu tố thần thiêng. Nước được dùng nhiều trong phụng vụ. Điều này phải gợi hứng để chúng ta sử dụng nước với lòng tông trọng và biết ơn, bài trừ những nguồn nước ô nhiễm và hiểu rằng nước không phải chỉ là một tiện ích thuần tuý.

– Nên tổ chức những chiến dịch liên tôn để làm sạch các sông ngòi và hồ nước để thăng tiến sự tôn trọng lẫn nhau, hòa bình và tình thân hữu giữa các nhóm khác nhau.

– Tái khẳng định phẩm giá con người và công ích của toàn thể gia đình nhân loại để thăng tiến một phẩm trật khôn ngoan về các ưu tiên trong việc sử dụng nước, nhất là tại những nơi có nhiều nhu cầu cạnh tranh nhau về nước” (SD 29-8-2016)

G. Trần Đức Anh OP

Sống Tin Mừng là phục vụ nhũng ngưởi rốt hết vì yêu Thiên Chúa

Sống Tin Mừng là phục vụ những người rốt hết vì yêu Thiên Chúa

ĐTC Phanxicô chào tín hữu và du khách hành hương tham dự buổi đọc Kinh Truyền Tin trưa Chúa Nhật 28-8-2016

Phục vụ tha nhân vì tình yêu Chúa là sứ điệp nền tảng của Tin Mừng Chúa Giêsu rao giảng. Chúa cho chúng ta thấy Ngài yêu thích những người nghèo túng, đói khát, người di cư tỵ nạn, người bị cuộc sống đánh bại, người bị xã hội và sự ngạo mạn của những kẻ mạnh hơn loại trừ gạt bỏ.

Kính thưa quý vị thính giả ĐTC Phanxicô đã nói như trên với hàng chục ngàn tín hữu và du khách hành hương năm châu tham dự buổi đọc Kinh Truyền Tin trưa Chúa Nhật hôm qua 28-8-2016.

Trong bài huấn dụ ĐTC đã quảng diễn ý nghĩa bài Phúc Âm kể lại sự kiện Chúa Giêsu đến nhà của một trong các thủ lãnh người Pharisêu dùng tiệc và quan sát họ vất vả tranh giành chỗ tốt nhất. Thấy vậy Ngài kể hai dụ ngôn: một liên quan tới việc tìm chỗ tốt và một liên quan tới phần thưởng. Dụ ngôn thứ nhất được lồng khung trong một tiệc cưới như kể trong chương 14 Phúc Âm thánh Luca: “Khi anh được mời đi ăn cưới, thì đừng ngồi vào cỗ nhất, kẻo lỡ có nhân vật nào quan trọng hơn anh cũng được mời, và rồi người đã mời cả anh lẫn nhân vật kia phải đến nói với anh rằng: "Xin ông nhường chỗ cho vị này. Bấy giờ anh sẽ phải xấu hổ mà xuống ngồi chỗ cuối” (Lc 14,8-9). ĐTC giải thích ý nghĩa dụ ngôn như sau:

Với lời dặn dò này Chúa Giêsu không có ý đưa ra điều luật cho cung cách hành xử, nhưng đưa ra một bài học liên quan tới giá trị của sự khiêm nhường.  Lịch sử dậy rằng kiêu căng, giành giật tiến thân, khoe khoang, phô trương là lý do của nhiều sự dữ. Và Chúa Giêsu làm cho chúng ta hiểu sự cần thiết chọn chỗ rốt hết, tìm kiếm sự bé nhỏ và ẩn dấu. Khi chúng ta đặt mình trước Thiên Chúa trong chiều kích của sự khiêm nhường, khi đó Thiên Chúa nâng chúng ta lên cao, và cúi xuống trên chúng ta để nâng chúng ta lên với Ngài: “vì ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống, ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên” (c.11).

ĐTC nói: các lời của Chúa Giêsu nêu  bật các thái độ hoàn toàn khác biệt và đối nghich nhau: thái độ của người chọn chỗ cho chính mình, và thái độ của người để cho Thiên  Chúa chỉ chỗ cho mình và chờ đợi phần thưởng từ Ngài. Chúng ta đừng quên điều này: Thiên Chúa trả cho nhiều hơn con người rất nhiều! Chính Ngài cho chúng ta một chỗ đep hơn chỗ con người cho chúng ta! Chỗ mà Thiên Chúa cho chúng ta là chỗ gần con tim của Ngài, và phần thưởng của Ngài là cuộc sống vĩnh cửu: “Bạn sẽ diễm phúc… Bạn sẽ nhận được phần thưởng của mình vào ngày người công chính sống lại” (c. 14).

Đó là điều được miêu tả trong dụ ngôn thứ hai, trong đó Chúa Giêsu chỉ cho thấy thái độ vô vị lợi của việc tiếp đón và nói: “Khi bạn đãi tiệc, hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù. Họ không có gì đáp lễ” (cc. 13-14). Đây là lựa chọn sự nhưng không thay vì tính toán duy thuận lợi tìm được phần thưởng. Thật vậy, các người nghèo túng, đơn sơ, những người không được kể tới, sẽ không thể đáp trả lại lời mời ăn. Như thế Chúa Giêsu chứng minh cho thấy Ngài ưa thích những người nghèo nàn và bị loại trừ, nhưng họ là những người được đặc ân của Nước Thiên  Chúa, và Ngài gióng lên sứ điệp nền tảng của Phúc Âm là phục vụ tha nhân vì tình yêu Thiên Chúa . ĐTC giải thích thêm điểm này như sau:

Ngày hôm nay, Chúa Giêsu là tiếng nói của những người không có tiếng nói, và hướng tới từng người trong chúng ta một lời mời gọi đau đớn mở rộng con tim và coi là của mình các khổ đau và âu lo của những ngươi nghèo nàn túng thiếu, của những người đói khát, của những người bị gạt bỏ ngoài lề, của những người di cư tỵ nạn, những người bị cuộc đời đánh bại, những người bị xã hội và sự ngạo mạn của những kẻ mạnh hơn gạt bỏ.

Trong lúc này đây với lòng biết ơn tràn đầy tôi nghĩ tới biết bao thiện nguyện viên cống hiến sự phục vụ của họ, bằng cách cho những người cô đơn, gặp khó khăn, không việc làm hay không có nhà ở, ăn uống. Những nơi cung cấp các bữa ăn này là các nơi tập luyện của tình bác ái, phổ biến nền văn hóa của sự nhưng không, bởi vì những người hoạt động tại đó là những người làm việc vì được thúc đẩy bởi tình yêu của Thiên Chúa và được soi sáng bởi sự khôn ngoan của Tin Mừng. Như thế việc phục vụ các anh chị em khác trở thành chứng tá tình yêu, khiến cho tình yêu của Chúa Kitô đáng tin cậy và hữu hình.

Chúng ta hãy xin Đức Trinh Nữ Maria hướng dẫn chúng ta mỗi ngày trên con đường của sự khiêm nhường, làm cho chúng ta có khả năng có các cử chỉ nhưng không tiếp đón và liên đới với những người bị gạt bỏ ngoài lề để trở nên xứng đáng với phần thưởng của Chúa.

Tiếp đến ĐTC đã đọc kinh Truyền Tin và ban phép lành Toà Thánh cho mọi người.

Sau phép lành ĐTC lại nhắc tới dân chúng và các nạn nhân trận động đất vùng Lazzio, Marche và Umbria. Giáo Hội chia sẻ nỗi khổ đau và âu lo của họ và cầu nguyện cho những người đã qua đời và những người sống sót. Ngài cũng nhắc tới sự ân cần mà chính quyền, các lực lượng an ninh, bảo vệ dân sự và các thiện nguyện viên đang làm chứng tỏ tầm quan trọng của tình liên đới giúp thắng vượt các thử thách đớn đau như thế. ĐTC nói vừa khi có thể ngài cũng sẽ đến viếng thăm và đem tới cho họ sự ủi an của niềm tin và sự đỡ nâng của niềm hy vọng Kitô.

Ngài cũng nhắc tới lễ phong chân phước cho nữ tu Maria Antonia thánh Giuse tại Buenos Aires bên Argentina. Chị là gương sáng của chứng tá Kitô đặc biệt trong việc thăng tiến các cuộc tĩnh tâm. Ước chi nữ tân chân phước khơi dậy nơi mọi người ước muốn ngày càng gắn bó với Chúa Kitô và Tin Mừng của Chúa hơn.

Linh Tiến Khải

 

Tòa Thánh công bố đề tải cho Ngày Hoà Bình Thế Giới 2017

Tòa Thánh công bố đề tải cho Ngày Hoà Bình Thế Giới 2017

world-peace-day

VATICAN: Sáng ngày 26 tháng 8 vừa qua Toà Thánh đã công bố đề tài cho Ngày hoà bình thế giới lần thứ 50 cử hành ngày mùng 1 tháng giêng năm 2017 đó là: “Không bạo lực: kiểu của một nền chính trị cho hoà bình” .

Thông cáo viết: “Bạo lực và hoà bình là nguồn gốc của hai kiểu xây dựng xã hội trái nghịch nhau. Sự kiện nhiều tổ bạo lực bùng nổ gây ra các hậu quả xã hội tiêu cực và trầm trọng khiến cho ĐTC gọi đó là Đệ tam thế chiến từng mảnh”. Trái lại hoà bình có các hiệu quả tích cực và cho phép thực hiện một tiến bộ thực sự.  Vì thế cần phải di chuyển trong các không gian có thể bằng cách thương thuyết các con đường hoà bình, cả tại những nơi các con đường ấy xem ra cong queo  hay không thể đi được. Trong kiểu này không bạo lực sẽ có thể có một ý nghĩa rộng rãi và mới mẻ hơn: không chỉ là uớc mong, ngưỡng vọng, khước từ bạo lực, các hàng rào cản, các thúc đẩy tàn phá, mà cũng là kiểu thự thi chính trị thực tiễn, rộng mở cho hy vọng.

Đây là một kiểu làm chính trị dựa trên sự tối thượng của quyền lợi. Nếu quyền lợi và sự bình đẳng phẩm giá của mỗi bản vị con người được cứu vãn không kỳ thị và phân biệt, thì hiệu qủa là bất bạo động được hiểu như đường lối chính trị  có thể là một con đường thực tế giúp thắng vượt các xung đột vũ trang. Trong viễn tượng này thật là quan trọng luôn luôn thừa nhận sức mạnh của quyền lợi, chứ không phải quyền lợi của sức mạnh.

Với sứ điệp này một lần nữa ĐTC Phanxicô chỉ cho thấy một bước nữa, một con đường hy vọng thích hợp với các hoàn cảnh lịch sử: đó là giải quyết được các tranh chấp qua đối thoại, tránh cho chúng không trở thành xung đột vũ trang. Đàng sau viễn tượng này cũng có việc tôn trọng đối với nền văn hóa và căn tính của các dân tộc, nghĩa là sự thắng vượt ý tường cho rằng một phần cao hơn phần kia trên bình điện luân lý. Đồng thời điều này không có nghĩa là một quốc gia thờ ơ với các thảm kịch của một quốc gia khác. Tri lại nó có nghĩa là thừa nhận quyến tối thượng của ngoại giao trên tiếng của súng đạn. Việc buôn bán vũ khí trên thế giới rộng lớn nhưng thường bị đánh giá thấp. Chính việc buôn khí giới lậu yểm trợ cho không ít các xung đột trên thế giới. Chính vì thế bất bạo động như đường lối chính trị có thể góp phần rất nhiều vào việc loại trừ tệ nạn này.

Ngày hoà bình thế giới đã do ĐGH Phaolô VI cử hành lần đầu tiên ngày mùng 1 tháng giêng năm 1968, và sứ điệp của ĐGH được gửi tới các  chính quyền trên toàn  thế giới (SD 26-8-2016).

Linh Tiến Khải

 

ĐTC khuyến khích các tu hội đời duy trì căn tính riêng

ĐTC khuyến khích các tu hội đời duy trì căn tính riêng

ĐTC Phanxicô nói chuyện với các bệnh nhân trong buổi tiếp kiến chung sáng thứ tư 24-8-2016

VATICAN: ĐTC Phanxicô khích lệ các thành viên tu hội đời duy trì căn tính riêng là giáo dân được thánh hiến sống giữa đời với ba lời khấn phúc âm, đem sự thánh thiện vào mọi sinh hoạt để biến đổi thế giới.

ĐTC đã đưa ra lời khích lệ trên đây trong sứ điệp do ĐHY Pietro Parolin, Quốc vụ Khanh Toà Thánh ký, gửi các tham dự viên Hội nghị quốc tế các tu hội đời, diễn ra tại Roma trong các ngày từ 21 tới 25 tháng 8 vừa qua. ĐTC đã nhắc lại các lời chân phước Phaolô VI định nghĩa nòng cốt ơn gọi của các thành viên tu hội đời là kết hiệp hai trào lưu của cuộc sống kitô: là giáo dân, được thánh hiến bởi các bí tích Rửa Tội và Thêm Sức, nhưng lựa chọn nêu bật việc thánh hiến cho Thiên Chúa với ba lời khấn phúc âm, được chấp nhận như các bổn phận với một ràng buộc vững chắc và được thừa nhận, dấn thân trong các gia trị đời riêng và đặc thù của giáo dân (LG, 31).

Thách đố lớn đối với các tu hội đời ngày nay là tổng hợp giữa sự thánh hiến và tính cách đời, phối kết chứ không phân rẽ chúng. Chính vì thế việc đào tạo có tầm quan trọng nền tảng và đòi hỏi vì cần liên tục cố gắng hiệp nhất giữa việc thánh hiến và tính cách đời, giữa hoạt động và chiêm niệm, mà không có sự nâng đỡ của một tổ chức công đoàn cho đời cầu nguyện và công việc làm. Nhưng nếu rộng mở cho Chúa Kitô thì sẽ khám phá ra Ngài hiẹn diện khắp nơi. Vì thế cần được giáo dục để có tương quan cá nhân với Thiên Chúa, được phong phú nhờ sự hiện diện của các anh chị em khác. Ngoài ra cần chú ý tới các dấu chỉ thời đại và để dấu vết tin mừng trên lịch sử và góp phần quy hướng nó về Nước Chúa; đem cái luậ lý của Thiên Chúa vào trong thế giới góp phần thực hiện nhân loại mới; có óc sáng tạo và khả năng tưởng tượng ra các giải pháp mới, tìm ra các câu trả lời chưa từng có cho các tình trạng mới. Để đượọc như thế cần săn sóc cuộc sống cầu nguyện, cuộc sống gia đình là tổ ấm nơi mọi ngưòi có thể tới kín mục yêu thương.

** ĐTC viết tiếp trong sứ điệp: Như là muối men các thành viên tu hội đời phải là các chứng nhân của tình huynh đệ và tình bạn. Vì nhiệm vụ biến đổi thế giơi nên với cuộc sống cần kêu lên cho con người ngày nay biết rằng có một kiểu sống mới, trong tương quan với thế giới và với con người, là con người mới trong Chúa Kitô. Với lời khấn khiết tịnh các bạn cho thấy có một kiểu yêu thương khác với con tim tụ do như con tim của  Chúa Giêsu, trong việc hiến thân; với sự khó nghèo các bạn phản ứng lại khuynh hướng tiệu thụ đang đặc biệt ngấu nghiến tây phương và qua cuộc sống của các bạn tố cáo cả bằng lời nói, ở nơi đâu cần thiết, biết bao bất công chống lại người nghèo trên trái đất; với sự vâng lời các bạn là các chứng nhân của sự tự do nội tâm chống lại cá nhân chủ nghĩa, kiêu căng, ngạo mạn.

Các thành viên các tu hội đời cũng là lực lượng tiền đồn của công tác rao truyền Tin Mừng và trường dậy sự thánh thiện được cho chảy vào các sinh hoạt thường ngày, trong các biến cố lớn nhỏ. Và yếu tố nền tảng của việc tái phúc âm hóa là sống tình yêu huynh đệ trong các hoàn cảnh thường ngày của thế giới, một mình, trong gia đình, trong các nhóm theo các hiến pháp của mình. Và dối tượng của việc tái rao giảng tin mừng đó là những người đã mất đức tin hay sống như thể Thiên Chúa không hiện hữu, các người trẻ sống không có lý tưỏng và giá trị, các gia đình đổ bể, các người thất nghiệp, người già, người cô đơn, người di cư…

ĐTC bầy tỏ sự gần gũi tinh thần, bảo đảm với các tham dự viên lời cầu nguyện của ngài cho hội nghị được thành công và gửi phép lành toà thánh tới tất cả mọi người.

Hội nghị quốc tế các tu họi đời đã diễn ra tại đại học Salesianum ở Roma quy tụ 140 tham dự viên đến từ 25 quốc gia năm châu  (SD 26-8-2016)

 

Linh Tiến Khải