Phụ nữ cần được trợ giúp y khoa chứ không cần “phá thai an toàn”

Phụ nữ cần được trợ giúp y khoa chứ không cần “phá thai an toàn”

New Delhi – Giáo hội Công giáo tại Ấn độ khẳng định rằng các phụ nữ cần được trợ giúp y khoa chứ không cần “phá thai an toàn”. Nữ tu Julie George thuộc dòng Chúa Thánh Thần đã nói với hãng tin Á châu như thế.

Chị Julie George là giám đốc của hội “Tiếng nói phụ nữ”, một tổ chức đấu tranh để củng cố vị trí của phụ nữ trên thế giới, tham dự vào tranh luận về phá thai ở Ấn độ. Chị Julie cho biết là các vụ phá thai bất hợp pháp “là một trong yếu tố nguy hiểm cho phụ nữ, thường chết ở độ tuổi còn trẻ. Sự thiếu kiến thức và việc sử dụng các cách thức dễ dàng như uống thuốc và các phương thức tại gia dẫn đến những biến chứng nghiêm trọng. Chính quyền phải bảo đảm việc được chăm sóc tốt hơn, đăc biệt là đối với các phụ nữ sống ở những vùng nông thôn.”

Nữ tu Talisha Nadukudiyil, thư ký điều hành của Ủy ban Phụ nữ của hội đồng Giám mục Ấn độ nói thêm rằng chúng ta là người Công giáo, chống lại phá thai, làm sao chúng ta có thể không nói về việc phá thai không an toàn. Chị cũng nhấn mạnh lời của Đức Giáo hoàng Phanxicô trong thông điệp Laudato sì (số 10): “Nếu chúng ta đáng mất cảm tính cá nhân và xã hội về việc tiếp nhận một sự sống mới, thì ngay cả những hình thức tiếp nhận có ích khác đối với cuộc sống xã hội cũng trở nên cằn cỗi.” Chị đặt câu hỏi: “Làm sao chúng ta có thể phớt lờ tiếng kêu khóc của thai nhi máu thịt của chính mình mà có thể lắng nghe tiếng kêu của người lân cận? Chúng ta có bao giờ có thể mong đợi trong một tình huống tương tự như vậy những tội ác chống lại những người dễ bị tổn thương sẽ giảm bớt?”

Theo thống kê, mỗi ngày có 10 phụ nữ ở Ấn độ bị chết vì phá thai bất hợp pháp và mỗi năm số phá thai lên đến khoảng 7 triệu. Theo các nghiên cứu cũng cho thấy số các bà mẹ chết vì phá thai chiếm 1/3 số các bà mẹ qua đời.

Nữ bác sĩ Astrid Lobo Gajiwala, một thần học gia Công giáo cho biết các cuộc phá thai trong điều kiện không an toàn là một quan tâm bức xúc dù là luật pháp tự do. Ngoài ra xu hướng thiển cận xem việc có thể phá thai an toàn là giải pháp chính cho vấn đề. Bà nói: “Nếu một đàng buộc phải bảo đảm việc phá thai cách an toàn và gia tăng các thông tin về các cơ sở y tế, thì tốt hơn nên nhớ rằng ngay cả những điều kiên tốt hơn cũng có thể có nguy cơ biến chứng và tạo nên vô sinh và thương tổn tâm lý.” (Asia News 26/07/2017)

Hồng Thủy

 

Thiên Chúa cứu thoát chúng ta trong cách thế của Ngài

Thiên Chúa cứu thoát chúng ta trong cách thế của Ngài

Cũng giống như bà Giuđitha chúng ta đừng bao giờ đặt các điều kiện cho Thiên Chúa, nhưng hãy để cho niềm hy vọng chiến thắng các sợ hãi của chúng ta. Tín thác nơi Thiên Chúa có nghĩa là bước vào trong các chương trình của Ngài mà không yêu sách, và cả chấp nhận rằng ơn cứu độ và sự trợ giúp của Chúa đến với chúng ta trong cách thức khác với các chờ mong của chúng ta.

ĐTC Phanxicô đã nói như trên với 8.000 tín hữu và du khách hành hương tham dự buổi gặp gỡ chung hàng tuần sáng thứ tư trong đại thính đường Phaolô VI.

Trong bài huấn dụ ĐTC đã nhắc tới bà Giuđitha, một nữ anh hùng vĩ đại giữa các gương mặt phụ nữ nổi bật của lịch sử dân Do thái. Sách Giuđitha kể lại cuộc chinh phục quân sự của vua Nabucodonosor cai trị Ninive, trải rộng biên giới của đế quốc bằng cách chiến thắng và bắt các dân tộc chung quanh thần phục mình. Người đọc hiểu ngay rằng mình đang đứng trước một kẻ thù lớn không thể chiến thắng được, đang gieo vãi chết chóc tàn phá, đang đi cho tới Đất Hứa, và khiến cho cuộc sống của con cái Israel gặp hiểm nguy.

Thật thế, dưới sự lãnh đạo của tướng Hôlôphécnê, đạo binh của vua Nabucodonosor đang bao vây một thành phó vùng Giudea là Betula, bằng cách cắt đứt việc tiếp tế nước, và làm suy yếu sự kháng cự của dân. ĐTC cho thấy thảm cảnh của dân thành Betulia như sau:

Tình hình thê thảm đến độ dân thành xin với các kỳ mục đầu hàng quân địch. Các lời của họ tuyệt vọng: “Vì thế, giờ đây chẳng có ai đến cứu giúp chúng tôi. Trái lại, Thiên Chúa đã bán đứng chúng tôi vào tay chúng, khiến chúng tôi phải phơi xác trước mặt chúng, phải chết khát và bị tận diệt.” Họ đi đến chỗ nói điều này: “Thiên Chúa đã bán đứt chúng ta rồi”; Nỗi tuyệt vọng nơi dân chúng rất lớn. Họ nói với các thủ lãnh: “Vậy các ông hãy gọi ngay chúng lại và trao nộp thành cho dân của Hô-lô-phéc-nê và cho toàn thể đạo quân của ông tha hồ cướp phá” (Gđ 7,25-26). Kết cục xem ra không thế tránh được, khả năng tín thác nơi Thiên Chúa đã cạn kiệt. Khả năng tín thác nơi Thiên  Chúa đã cạn kiệt. Và biết bao lần chúng ta đi tới các tình trạng tận cùng trong đó chúng ta cũng không còn cảm thấy khả năng tin tưởng nơi Chúa nữa. Đây là một cám dỗ xấu! Và một cách mâu thuẫn, xem ra là để thoát chết, chỉ còn cách tự nộp mình vào tay kẻ giết mình. Họ biết rằng các binh sĩ này sẽ vào cướp bóc thành phố, để bắt các phụ nữ làm nô lệ, và giết chết tất cả mọi người khác. Đây chính là “sự tận cùng”.

** ĐTC nói tiếp trong bài huấn dụ: Và trước biết bao tuyệt vọng như thế, thủ lãnh dân thử đề nghị một yểm trợ hy vọng: kháng cự trong vòng 5 ngày nữa, và chờ đợi sự can thiệp cứu rỗi của Thiên Chúa. Nhưng đó là một hy vọng yêu ớt, khiến cho ông kết luận rằng: “Nếu những ngày ấy trôi qua mà chẳng ai đến cứu giúp, tôi sẽ làm theo lời anh em” ( Gđt 7,31). Tội nghiệp cho con người: không có lối thoát. Năm ngày được cho Chúa để can thiệp; và tội lỗi chính là đây; năm ngày được dành cho Thiên Chúa để can thiệp, năm ngày chờ đợi, nhưng với viễn tượng của cái chết. Họ cho Chúa năm ngày để cứu họ, nhưng họ biết họ không tin tưởng, họ chờ đợi điều tồi tệ nhất. Trên thực tế, không còn ai nữa trong dân còn có khả năng hy vọng. Họ đã tuyệt vọng.

Chính trong tình trạng như thế bà Giuđitha xuất hiện trên sân khấu. Là một phụ nữ goá bụa rất xinh đẹp và khôn ngoan bà ngỏ lời  với dân chúng trong ngôn ngữ của lòng tin. Bà can đảm quở trách dân chúng thẳng mặt và nói: “Các vị muốn thử thách Thiên Chúa toàn năng… Quả thật, đối với các vị, tâm khảm con người đã khôn dò, suy tưởng con người đã khôn thấu, thì làm sao các vị có thể hiểu được Thiên Chúa, Đấng làm nên mọi sự, làm sao hiểu được tư tưởng và thấu suốt được dự tính của Người? Không, nhất định không, thưa anh em, đừng chọc giận Chúa, Thiên Chúa chúng ta. Giả như trong năm ngày ấy, Người không muốn cứu giúp chúng ta, thì vào những ngày Người muốn, Người vẫn thừa sức bảo vệ chúng ta hoặc tiêu diệt chúng ta trước mặt kẻ thù… Vì thế, một khi chúng ta kiên nhẫn đợi chờ Người cứu độ và kêu cầu Người đến cứu giúp, Người sẽ đoái nghe lời chúng ta, nếu điều ấy đẹp lòng Người” (Gđt 8,13.14-15.17). Đó là ngôn ngữ của niềm hy vọng. Chúng ta hãy gõ cửa con tim Thiên Chúa. Ngài là Cha, Ngài có thể cứu thoát chúng ta. Người phụ nữ goá bụa này cũng có nguy cơ bị xấu mặt trước những người khác! Nhưng bà can đảm! Bà tiến tới! Đây là một ý kiến của tôi: các phụ nữ can đảm hơn nam giới – Tín hữu vỗ tay tán đồng.

Và với sức mạnh của một ngôn sứ bà Giuđitha kêu gọi mọi người trong dân để đưa họ trở lại với lòng tin tưởng nơi Thiên  Chúa; với cái nhìn của một ngôn sứ bà trông thấy xa hơn chân trời chật hẹp của các thủ lãnh và sự sợ hãi còn khiến cho nó hẹp hơn nữa. Bà khẳng định: chắc chắn Thiên Chúa sẽ hành động, trong khi đề nghị chờ đợi năm ngày là một kiểu để thử thách Ngài và để tránh ý muốn của Ngài. Chúa là Thiên Chúa của việc cứu độ – và bà tin vào điều đó – bất kỳ nó xảy ra trong hình thức nào. Là ơn cứu độ giải thoát khỏi thù địch và làm cho sống, nhưng trong các chương trình khôn dò của Ngài, có thể là cứu độ cả việc nộp mình cho cái chết. Là phụ nữ của đức tin, bà biết điều đó. Thế rồi chúng ta biết kết cục, như câu chuyện kết thúc: Thiên Chúa cứu. ĐTC nói thêm trong bài huấn dụ:

** Anh chị em thân mến,  chúng ta đừng bao giờ đặt các điều kiện cho Thiên Chúa, nhưng hãy để cho niềm hy vọng chiến thắng các sợ hãi của chúng ta. Tín thác nơi Thiên Chúa có nghĩa là bước vào trong các chương trình của Ngài mà không yêu sách, và cả chấp nhận rằng ơn cứu độ và sự trợ giúp của Chúa đến với chúng ta trong cách thức khác với các chờ mong của chúng ta. Chúng ta xin Chúa sự sống, sức khoẻ, tình thương mến, hạnh phúc. Và thật đúng đắn làm điều ấy, nhưng trong ý thức rằng Thiên Chúa biết rút ra sự sống từ cả cái chết, rằng chúng ta có thể sống kinh nghiệm sự bình an cả trong bệnh tật, và rằng có thể thanh thản cả trong cô đơn, và hạnh phúc cả trong khóc lóc. Không phải chúng ta có thể dậy cho Thiên Chúa điều Ngài phải làm, điều chúng ta cần. Ngài biết hơn chúng ta và chúng ta phải tín thác, bởi vì các con đường và các tư tưởng của Ngài khác với các con đường và các tư tưởng của chúng ta.

Con đường của bà Giuđitha chỉ cho chúng ta là con đường của sự tin tưởng, của việc chờ đợi trong an bình, của lời cầu nguyện và của sự vâng phục. Đó là con đường của niềm hy vọng. Không có các chịu trận dễ dàng, bằng cách làm tất cả những gì trong các khả năng của chúng ta, nhưng luôn luôn ở lại trong luống cầy ý muốn của Chúa. Và tại sao chúng ta biết?:  bà đã cầu nguyện biết bao, bà đã nói với dân biết bao và rồi, can đảm và ra đi, bà đã tìm cách tới gần tướng chỉ huy đạo binh, và thành công trong việc chặt đầu ông ta. Bà can đảm trong đức tin và trong các hoạt động. Và bà luôn luôn kiếm tìm Chúa! Thật vậy bà Giuđitha có một chương trình của bà, bà hoàn thành nó một cách thành công, và đưa dân tới chiến thắng, nhưng luôn luôn trong thái độ của đức tin của người chấp nhận tất cả từ tay Thiên Chúa, chắc chắn về lòng lành của Ngài.

Như vậy, một phụ nữ đầy lòng tin và can đảm sẽ trao ban trở lại cho dân chúng đang gặp nguy hiểm chết chóc sức mạnh và dẫn họ đi trên các nẻo đường của niềm hy vọng, bằng cách chỉ chúng cho cả chúng ta nữa. Và chúng ta, nếu chúng ta có một chút ký ức: có biết bao lần chúng ta đã nghe các lời khôn ngoan, can đảm, từ những người khiêm tốn, từ những phụ nữ khiêm tốn mà một người nghĩ rằng – tuy không khinh rẻ họ – là những người dốt nát… Nhưng đó là các lời của sự khôn ngoan của Thiên Chúa! Các lời nói của các bà nội bà ngoại. Có biết bao lần các bà nội bà ngoại biết nói lời đúng đắn, lời của niềm hy vọng, bởi vì các ngài có kinh nghiệm cuộc sống, đã đau khổ nhiều, các ngài đã tín thác nơi Thiên Chúa, và Chúa ban ơn này để các ngài cho lời khuyên hy vọng.

Và khi bước đi trên các con đường ấy sẽ là niềm vui và ánh sáng phục sinh tín thác nơi Chúa với các lời của Chúa Giêsu: “Lậy Cha, nếu Cha muốn, xin hãy cho chén này xa con. Nhưng không phải theo ý con mà theo ý Cha” (Lc 22,42). Và đó là lời cầu nguyện của sự khôn ngoan, tin tưởng và niềm hy vọng

** ĐTC đã chào các tín hữu nói tiếng Pháp, đặc biệt tín hữu giáo phận Arras. Ngài nói: hôm nay chúng ta kính nhớ lễ thánh Phaolô hoán cải.Thánh nhân mời gọi chúng ta để cho Chúa Thánh Thấn hướng dẫn. Xin thánh nhân giúp chúng ta lớn lên trong sự tin tưởng nơi sự Quan phòng của Thiên Chúa và trở thành các chứng nhân của niềm hy vọng.

Chào các đoàn hành hương nói tiếng Anh đến từ Hoa Kỳ, trong bối cảnh của tuần cầu nguyện cho sự hiệp nhất các kitô hữu ngài đặc biệt chào các sinh viên của học viện đại kết Bossey và ca đoàn đan viện Westminster Anh quốc, và cám ơn lời ca tiếng hát của họ. Ngài xin Thiên  Chúa ban chọ họ và gia đình họ niềm vui và sự an bình.

Với các nhóm nói tiếng Đức ĐTC nói bà Giuđitha là phụ nữ của niềm tin và lòng can đảm được công bố là “có phúc trước mặt Thiên Chúa hơn mọi phụ nữ” (Gđt 13,18). Bà nhắc nhớ Trinh nữ diễm phúc Maria, Mẹ Chúa Kitô và mẹ của niềm hy vọng. Nơi Mẹ chúng ta hãy học bước đi trên các nẻo đường hy vọng và tín thác nơi Chúa là Đấng dẫn chúng ta từ bóng tối tới sự sáng phục sinh.

Chào các nhóm nói tiếng Bồ Đào Nha, đặc biệt là các tín hữu Brasil, ngài nói nếu họ biết hát bài thánh ca chúc tụng Đức Bà Aparecida thì có thể hát. Tôi mời gọi anh chị em trung thành với Chúa Giêsu Kitô. Chúa thách đố chúng ta ra khỏi thế giới bé nhỏ chật hẹp của mình để tiến tới Nước của Thiên Chúa và của sự tụ do đích thực. Xin Chúa Thánh Thần soi sáng anh chị em để anh chị em đem phúc lành của Thiên Chúa đến cho mọi người.

ĐTC cũng chào các nhóm nói tiếng Ý, đặc biệt các bề trên tỉnh dòng Anh em hèn mọn, hiệp hội cảnh sát Caserta, và huynh đoàn thánh Stefano Rieti. Ngài khích lệ mọi người trung thành với Chúa Kitô để niềm vui Phúc Âm có thể rạng ngời trong xã  hội.

Chào các bạn trẻ, người đau yếu và các đôi tân hôn ngài nhắc tới lễ kính thánh Phaolô trở lại. Ước chi gương mặt của thánh nhân trở thành mẫu gương cuộc sống môn đệ cho các bạn trẻ. ĐTC mời gọi các bệnh nhân dâng hy sinh khổ đau cầu nguyện cho sự hiệp nhất giữa các tín hữu kitô. Ngài nhắn nhủ các đôi tân hôn noi gương thánh nhân dành chỗ nhất cho Thiên Chúa và cho tình yêu trong cuộc sống gia đình.

Buổi tiếp kiến đã kết thúc với Kinh Lạy Cha và phép lành toà thánh ĐTC ban cho mọi người

Linh Tiến Khải

Sứ điệp Đức Thánh Cha nhân ngày Thế giới Truyền thông thứ 51

Sứ điệp Đức Thánh Cha nhân ngày Thế giới Truyền thông thứ 51

VATICAN. Trong sứ điệp nhân Ngày Thế Giới truyền thông công bố hôm 24-1-2017, ĐTC kêu gọi nhìn thực tại trong nhãn giới Tin Mừng và truyền thông trong niềm hy vọng.

Ngày Thế giới truyền thông lần thứ 51 sẽ được cử hành vào chúa nhật 28-5-2017 với chủ đề ”Đừng sợ, vì Ta ở với con” (Is 43,5). Thông truyền hy vọng và tín thác trong thời đại ngày nay”.

Trong sứ điệp, ĐTC nhận xét rằng nhờ tiến bộ kỹ thuật, rất nhiều người ngày nay có thể đồng thời nhận được và phổ biến sâu rộng các tin tức, những tin lành hoặc những tin dữ, tin thật hoặc tin giả. Tâm trí con người giống như cối xay nước, có thể xay các tin tức như các hạt thành bột làm bánh ngon, hoặc xay những cỏ lùng, cỏ dại.

Ngài viết: ”Tôi muốn sứ điệp này có thể đi tới và khích lệ tất cả những người trong lãnh vực nghề nghiệp cũng như trong các tương quan giữa con người với nhau, mỗi ngày có thể ”xay” bao nhiêu thông tin để tạo nên bánh thơm ngon cho những người nuôi dưỡng mình bằng thông tin. Tôi muốn nhắn nhủ tất cả hãy thực hiện một hoạt động truyền thông xây dựng, từ khước những thành kiến đối với nhau, cổ võ một nền văn hóa gặp gỡ, nhờ đó họ có thể học cách nhìn thực tại với niềm tin tưởng đầy ý thức”.

ĐTC kêu gọi hãy phá vỡ cái vòng lẩn quẩn lo âu và chặn đứng cái vòng sợ hãi, kết quả của thói quen chỉ tập trung sự chú ý với những ”tin dữ” như chiến tranh, khủng bố, gương xấu và mọi thứ thất bại trong cuộc sống con người”.

Với ý hướng đó, ĐTC cổ võ nhìn thực tại và những biến cố dưới ánh sáng Tin Mừng, như đeo một ”đôi kiếng” thích hợp để nhìn thực tại từ Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô, với niềm xác tín: Thiên Chúa liên đới với con người trong mọi hoàn cảnh, tỏ cho chúng ta thấy chúng ta không đơn độc, vì chúng ta có một Người Cha không bao giờ quên con cái mình. ”Đừng sợ, vì Ta ở với con” (Is 43,5).. Nơi Chúa, cả tăm tối và chết chóc cũng trở thành nơi hiệp thông với Ánh sáng và Sự sống. Từ đó nảy sinh một niềm hy vọng ai cũng có thể đạt tới, chính tại nơi mà cuộc sống gặp phải sự cay đắng vì thất bại”. ĐTC viết:

”Nước Thiên Chúa đã ở giữa chúng ta, như một hạt giống ẩn giấu đối với cái nhìn hời hợt và sự tăng trưởng của hạt giống đó diễn ra trong thầm lặng. Ai có đôi mắt được Thánh Linh làm cho trong sáng, thì thấy được hạt giống ấy nầm, và không để cho mình bị cướp mất niềm vui của Nước Trời vì những cỏ lùng cỏ dại luôn hiện diện”.

ĐTC xác quyết rằng ”niềm tín thác ấy làm cho chúng ta có khả năng hành động – trong nhiều hình thức truyền thông – với xác tín rằng có thể nhận thấy và soi sáng tin vui hiện diện trong thực tại của mỗi lịch sử và nơi khuôn mặt của mỗi người”.

”Ai tin tưởng, để cho mình được Thánh Linh hướng dẫn, thì có khả năng phân định trong mỗi biến cố điều xảy ra giữa Thiên Chúa và nhân lại, nhìn nhận chính Chúa đang dệt nên lịch sử cứu độ trong bối cảnh bi thảm của thế giới này” (SD 24-1-2017)

G. Trần Đức Anh

Trang web mới của viện bảo tàng Vatican

Trang web mới của viện bảo tàng Vatican

Vatican – Với nỗ lực chia sẻ những tác phẩm quý giá của mình cho nhiều người trên thế giới hơn, viện bảo tàng Vatican đã thành lập một kênh YouTube và đổi mới trang web để đăng tải các hình ảnh có độ phân giải cao và các thông tin thích hợp với điện thoại di động.

Kênh YouTube của viện bảo tàng Vatican có những tour giới thiệu ngắn về các bộ sưu tập cùng với các video quảng cáo về các tour thích hợp và các dịch vụ có trên trang web, bao gồm đăng ký hướng dẫn cho người khiếm thính.

Trang web museivaticani.va của viện bảo tàng cũng được đổi mới để thích hợp với các nền tảng ứng dụng và các dụng cụ để có thể tiếp cận tới ngay cả những vùng xa xôi trên trái đất.

Trang web được trình bày bằng 5 ngôn ngữ với thiết kế đẹp hơn, văn bản đơn giản hơn và truy cập nhanh hơn.Các đường dẫn (link) đến các trang có thể được chia sẻ qua Twitter, Facebook hay email. Trang web cung cấp thông tin về việc đăng ký thăm và mua vé vào viện bảo tàng, vườn Vatican, khu nghĩa địa cổ "Via Triumphalis" bên dưới đồi Vatican và các dinh thự Giáo hoàng ở Castel Gandolfo, ở miền nam Roma.

Hiện tại trang web trưng bày khoảng 3000 photo có độ phân giải cao của các tác phẩm trong các bộ sưu tập của bảo tàng. Bà Barbara Jatta, tân giám đốc của viện bảo tàng cho biết, kế hoạch lý tưởng là, trong một năm sẽ có thêm các  tấm hình của tất cả 20 ngàn vật thể đang được trưng bày cho công chúng và sau đó sẽ tiếp tục với photo của hơn 200 ngàn tác phẩm nghệ thuật được lưu giữ trong kho.

Trang web cũng cho phép công chúng tham khảo và tìm kiếm một mục lục online của một số bức họa, tượng điêu khắc và các tác phẩm nghệ thuật khác của viện bảo tàng. Bà cũng cho biết là viện bảo tàng đã có đăng ký tất cả tác phẩm của họ nhưng việc đưa mọi thứ vào cơ sở dữ liệu vẫn đang được thực hiện. (CNS 23/01/2017)

Hồng Thủy

 

Đức Thánh Cha gửi lời Chúc Tết âm lịch tới các gia đình

Đức Thánh Cha gửi lời Chúc Tết âm lịch tới các gia đình

VATICAN. Trong buổi đọc Kinh Truyền Tin với các tín hữu và du khách hành hương trưa Chúa Nhật 22.01.2017 tại quảng trường thánh Phêrô, sau khi quảng diễn sứ điệp Tin Mừng, Đức Thánh Cha đã gửi lời chúc mừng Năm Mới đến các gia đình đang chuẩn bị đón Tết âm lịch. Đức Thánh Cha nói:

Anh chị em thân mến!

Đức Thánh Cha mời gọi cầu nguyện cho sự hiệp nhất các tín hữu Kitô

Chúng ta đang trong Tuần cầu nguyện cho sự hiệp nhất Kitô. Chủ đề năm nay được lấy từ thư của Thánh Phao-lô: “Tình yêu Đức Kitô thúc bách chúng ta tiến tới sự hòa giải” (x. 2Cr 5,14). Thứ tư tới đây sẽ kết thúc Tuần cầu nguyện với việc cử hành giờ kinh chiều tại Vương Cung Thánh Đường Thánh Phaolô Ngoại thành, với sự tham dự của các anh chị em thuộc các giáo hội khác và cộng đoàn các Kitô hữu tại Roma. Cha mời gọi anh chị em hãy cầu nguyện, để thực hiện nguyện ước của Chúa Giê-su: “Để tất cả được nên một” (Ga 17,21).

Đức Thánh Cha mời gọi cầu nguyện cho các nạn nhân tại miền Trung Italia

Trong những ngày qua, các trận động đất và bão tuyết đã làm thiệt hại cho nhiều anh chị em thuộc miền Trung Italia. Cha bày tỏ sự gần gũi và cầu nguyện cho các gia đình có người bị nạn. Cha khuyến khích mọi người trong nỗ lực cứu trợ và hỗ trợ để giúp giảm bớt những khó khăn và đau khổ. Cám ơn anh chị em rất nhiều vì công việc phục vụ ấy. Cha mời mọi người cùng nhau cầu nguyện với Đức Mẹ cho các nạn nhân và cho những người đang quảng đại dấn thân trong công tác cứu trợ.

Đức Thánh Cha gửi lời Chúc Tết tới các gia đình trong dịp Tết âm lịch

Tại miền Viễn Đông và nhiều nơi trên thế giới, hàng triệu người đang chuẩn bị mừng Năm Mới âm lịch. Tôi xin gửi lời chào thân ái đến mọi gia đình, với hy vọng rằng mỗi gia đình ngày càng trở nên mái trường mà nơi đó mọi người học cách tôn trọng nhau, học cách tương quan và quan tâm chăm sóc nhau một cách vô vị lợi. Cầu chúc niềm vui của tình yêu mến chan hòa trong mỗi gia đình và tỏa lan ra toàn xã hội.

Tứ Quyết SJ

 

Đọc Kinh Truyền Tin với Đức Thánh Cha, Chúa nhật 22.01.2017: Hãy theo Tôi!

Đọc Kinh Truyền Tin với Đức Thánh Cha, Chúa nhật 22.01.2017: Hãy theo Tôi!

VATICAN. Trong buổi đọc Kinh Truyền Tin với các tín hữu và du khách hành hương trưa Chúa Nhật 22.01.2017 tại quảng trường thánh Phêrô, Đức Thánh Cha mời gọi mọi người quảng đại đáp lại tiếng gọi của Chúa Giê-su để cộng tác với Người trong sứ mạng cứu độ, nhất là đem Tin Mừng đến những vùng ngoại biên. Đức Thánh Cha nói:

Hôm nay Tin Mừng (x. Mt 4,12-23) kể lại cho chúng ta về khởi đầu việc rao giảng của Chúa Giê-su tại Ga-li-lê. Người rời khỏi ngôi làng Na-za-ret và đến ở thành Ca-phac-na-um. Đây là một thành trung tâm quan trọng thuộc miền duyên hải, là nơi sinh sống của hầu hết là người ngoại, và là điểm giao nhau giữa Địa Trung Hải và miền Lưỡng Hà. Khi Chúa chọn lựa như thế, có nghĩa là Người không chỉ rao giảng cho người đồng hương của mình, mà Người còn rao giảng cho biết bao người khác nữa tại Galilê “miền đất của dân ngoại” (x. Mt 2,15 và Is 8,23). Nếu nhìn từ thủ đô Giê-ru-sa-lem thì Galilê là vùng ngoại vi và là vùng đất người ta sống pha trộn với đầy những người ngoại đạo, những người không thuộc về dân It-ra-en. Từ Galilê người ta đã chẳng mong đợi gì nhiều từ lịch sử cứu độ. Thế mà chính từ đây lại bừng lên “ánh sáng”: ánh sáng ấy chính là Chúa Kitô. Ánh sáng ấy tỏa lan khởi đi từ vùng ngoại vi.

Sứ điệp của Chúa Giê-su chính là loan báo Nước Trời (Mt 4,17). Vương quốc này không phải là việc thiết lập một quyền lực chính trị mới, nhưng là hoàn tất giao ước giữa Thiên Chúa và dân Ngài. Đó chính là thiết lập nền hòa bình và công lý. Để thực hiện giao ước với Thiên Chúa, mọi người được mời gọi để biến đổi tâm trí và cuộc sống. Điều này rất quan trọng: biến đổi không chỉ có nghĩa là thay đổi cách sống mà còn là thay đổi cách nghĩ. Đó là cuộc biến đổi tâm trí. Đây không phải là chuyện thay đổi theo kiểu thay áo, mà là thay đổi thói quen.

Điều làm nên sự khác biệt giữa Chúa Giê-su và Gio-an Tẩy Giả chính là phong cách và phương pháp. Chúa Giê-su chọn lựa cách thế của một ngôn sứ luôn rảo bước. Chúa không chờ đợi người ta đến với mình, nhưng Chúa chủ động đến gặp họ. Chúa luôn luôn rảo bước trên những con đường. Sứ vụ đầu tiên là Chúa đi dọc theo biển hồ Ga-li-lê và tiếp xúc với dân chúng, đặc biệt là các ngư dân. Chúa không chỉ loan báo về Nước Thiên Chúa đã gần đến, mà Chúa còn đi tìm bạn đồng hành trên con đường thực thi sứ mạng cứu độ. Ở đó, Chúa đã gặp hai bộ anh em: Si-mon và An-rê, Gia-cô-bê và Gio-an. Chúa gọi các ông rằng: “Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh trở thành những kẻ lưới người như lưới cá” (Mt 4,19). Tiếng gọi đã chạm tới họ trong cái đời thường của cuộc sống: Chúa đã tỏ mình cho chúng ta không phải trong những chuyện giật gân hoặc đặc biệt nhưng chính trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta. Ở đó chúng ta tìm thấy Chúa và ở đó Chúa tỏ hiện chính Ngài cho chúng ta, và chúng ta cảm nhận được tình yêu của Ngài trong trái tim chúng ta. Ở đó có cuộc đối thoại với Chúa trong chính cuộc sống thường ngày của chúng ta. Ở đó Chúa biển đổi tâm hồn chúng ta.

Hôm ấy, bốn người ngư phủ đã đáp lại ngay lập tức và rất sẵn sàng. Tin Mừng kể lại: “Lập tức, họ bỏ chài lưới và đi theo Người” (Mt 4,20). Chúng ta biết rằng họ là các môn đệ của Gio-an Tẩy Giả và nhờ lời chứng của Gio-an mà họ bắt đầu tin rằng Chúa Giê-su là Đấng Mê-si-a (x. Ga 1,35-42).

Chúng ta, những Kitô hữu thời nay, vui mừng loan báo và làm chứng cho đức tin của chúng ta, vì đã có những người môn đệ đầu tiên ấy với đầy can đảm và khiêm tốn mà quảng đại đáp lại lời mời gọi của Chúa Giê-su. Khó mà tưởng tượng được, chính bên bờ hồ ở vùng đất Ga-li-lê mà cộng đoàn đầu tiên của các môn đệ Chúa Kitô được sinh ra. Suy tư về sự khởi đầu này sẽ truyền cảm hứng cho chúng ta trong việc đem Lời Chúa, tình yêu và sự dịu hiền của Chúa đến mọi hoàn cảnh, cho dù là khó khăn vất vả. Đó là đem Lởi Chúa đến tất cả các vùng ngoại vi! Mọi hoàn cảnh cuộc sống đều là mảnh đất để hạt giống Tin Mừng có thể gieo vãi, và để mang lại ơn cứu độ.

Xin Mẹ Maria cầu thay nguyện giúp chúng ta để chúng ta có thể đáp lại lời mời gọi của Chúa Giê-su, đó chính là dấn thân vào việc phục vụ Nước Thiên Chúa.

Tứ Quyết SJ

Đức Thánh Cha bế mạc năm kỷ niệm 800 năm lập dòng Đa Minh

Đức Thánh Cha bế mạc năm kỷ niệm 800 năm lập dòng Đa Minh

ROMA. Lúc 4 giờ chiều thứ bẩy 21-1-2017, ĐTC đã chủ sự thánh lễ trọng thể tại Đền thờ Thánh Gioan Laterano ở Roma nhân dịp bế mạc năm kỷ niệm 800 năm DGH Onorio III phê chuẩn dòng Đa Minh.

 Thánh lễ này cũng kết thúc 4 ngày hội nghị quốc tế (17-21/1/2017) tại Đại học Thánh Tômaso Aquino (Angelicum) ở Roma về các khía cạnh trong sứ vụ của dòng Đa Minh. Hơn 600 tu sĩ và giáo dân Đa Minh từ nhiều nước đã tham dự sinh hoạt này.

Đồng tế với ĐTC trong thánh lễ tạ ơn có 20 Hồng Y, Giám Mục và khoảng 100 LM, đặc biệt là ĐHY Dominik Duka OP, TGM Praha thuộc Cộng hòa Tiệp, Đức TGM Carlos Azpiros OP, người Argentina, nguyên Bề trên Tổng quyền dòng Đa Minh và Cha đương kim Tổng quyền Bruno Cadoré, O.P. Hiện diện trong thánh đường có khoảng hơn 3 ngàn người, trong đó có đông đảo các tu sĩ nam nữ và giáo dân Đa Minh đến từ các nước. Phần thánh ca do ca đoàn Ba Lan từ Cracovia đảm trách.

Trong bài giảng, ĐTC đã quảng diễn hai bài đọc (2 Tm 4,1-8 và Mt 5,13-19) trong đó thánh Phaolô nhắn nhủ môn đệ Timothê hãy kiên trì rao giảng rao giảng, dù con người chỉ thích tìm kiếm những điều mới mẻ, không chịu nghe chân lý, nhưng chỉ thích những huyền thoại; tiếp đến là lời Chúa Giêsu nhắn nhủ các môn đệ hãy trở thành muối đất và ánh sáng thế gian, hãy tôn vinh Chúa Cha bằng những công việc lành, và nhờ đó, làm cho những người chứng kiến ngợi khen Chúa Cha trên trời.

Toàn văn bài giảng của ĐTC

”Lời Chúa hôm nay trình bày cho chúng ta hai cảnh tượng của con người trái ngược nhau: một bên là ”hội hóa trang” (carnevale) của sự hiếu kỳ trần tục, và bên kia là sự tôn vinh Chúa Cha qua các công việc lành. Và đời sống chúng ta cũng luôn tiến qua hai cảnh tượng ấy. Thực vậy, những cảnh tượng này ở mọi thời đại đều có, như lời thánh Phaolô nói với Timothê (Xc 2 Tm 4,1-5). Và cả thánh Đa Minh với các anh em đầu tiên của Người, cách đây 800 năm, cũng trải qua hai cảnh tượng ấy.

Thánh Phaolô cảnh giác Timôthê hãy loan báo Tin Mừng giữa một bối cảnh trong đó người ta luôn tìm kiếm những ”thầy mới”, ”những huyền thoại”, các đạo lý khác, các ý thức hệ.. họ ”ngứa tai” (2 Tm 4,3). Đó là ”hội hóa trang” theo sự hiếu kỳ trần tục, quyến rũ. Vì thế thánh Phaolô dạy môn đệ Ngài với những động từ mạnh mẽ, như ”hãy nhấn mạnh”, ”hãy khuyên nhủ”, ”khiển trách”, ”khuyên bảo” rồi ”cảnh thức”, ”chịu đựng đau khổ' (vv.2.5)

Thật là hay khi thấy rằng hồi đó, 2 ngàn năm về trước, các tông đồ của Tin Mừng đã đứng trước quang cảnh đó, và ngày nay, cảnh tượng ấy đã phát triển nhiều và được hoàn cầu hóa vì sự thu hút của trào lưu duy tương đối chủ quan. Xu hướng tìm kiếm điều mới mẻ của con người tìm được một môi trường lý tưởng trong xã hội trọng bề ngoài, xã hội tiêu thụ, trong đó nhiều khi người ta ”xào lại' những thứ cũ kỹ, nhưng điều quan trọng là làm cho chúng có vẻ tân kỳ, có sức thu hút, hấp dẫn. Cả chân lý cũng bị giả mạo. Chúng ta bước đi trong ”xã hội gọi là lỏng”, không có những điểm cố định, không dựa vào căn bản nào, thiếu những điểm tham chiếu vững chắc và bền vững; chúng ta sống trong thứ văn hóa phù du, ”dùng rồi vứt bỏ”.

Đứng trước thứ ”hội hóa trang” trần tục ấy, có một quang cảnh hoàn toàn đối nghịch lại, như chúng ta thấy qua những lời Chúa Giêsu vừa nghe đọc: ”Những việc làm ấy tôn vinh Cha các con ở trên trời” (Mt 5,16). Vậy sự chuyển tiếp từ sự hời hợt của lễ hội giả tạo tiến đến sự tôn vinh diễn ra như thế nào? Thưa nó diễn ra nhờ những công việc lành của những người, khi trở thành môn đệ Chúa Giêsu, họ trở thành ”muối” và ”ánh sáng”. Chúa Giêsu nói: ”Ánh sáng của các con phải chiếu tỏa rạng ngời trước mặt loài người để người ta thấy việc lành của các con mà tôn vinh Cha các con ở trên trời” (Mt 5,16).

Giữa thứ ”hội hóa trang” quá khứ và hiện nay, câu trả lời của Chúa Giêsu và của Giáo Hội, sự nâng đỡ vững chắc giữa môi trường ”lỏng” chính là những công việc lành chúng ta có thể thực hiện nhờ Chúa Kitô và Thánh Linh của Ngài, và những việc ấy làm nảy sinh trong tâm hồn lời cảm tạ Chúa Cha, lời chúc tụng, hoặc ít là sự ngưỡng mộ và câu hỏi: ”tại sao?”, ”tại sao người ấy cư xử như thế?”; sự băn khoăn của thế giới đứng trước chứng tá Tin Mừng.

Nhưng để sự đánh động ấy xảy ra được, thì điều cần là muối không bị mất vị và ánh sáng không bị che giấu (Xc Mt 5,13-15). Chúa Giêsu đã nói rất rõ điều đó: nếu muối nhạt thì nó chẳng có ích gì. Khốn cho muối nếu mất vị! Khốn cho một Giáo Hội mất hương vị! Khốn cho một linh mục, một tu sĩ, một hội dòng đánh mất hương vị!

Hôm nay, chúng ta tôn vinh Chúa Cha vì công việc mà thánh Đa Minh, đầy ánh sáng và muối của Chúa Kitô, đã thực hiện trong 800 năm qua; một công trình phục vụ Tin Mừng, được rao giảng bằng lời nói và bằng cuộc sống; một công trình, nhờ ơn của Chúa Thánh Linh, đã làm cho bao nhiêu người nam nữ được trợ giúp để không bị tản mát giữa ”thứ hội hóa trang” của sự hiếu kỳ trần tục, trái lại họ cảm thấy hương vị của đạo lý lành mạnh, của Tin Mừng, và đến lượt họ, họ trở thành ánh sáng và muối, thành những người thực hiện những công lành.. thành những anh chị em đích thực, tôn vinh Thiên Chúa và họ dạy cách tôn vinh Chúa bằng những công việc lành trong cuộc sống” (SD 21-1-2017)

G. Trần Đức Anh OP 

Đức Thánh Cha tiếp Tòa Thượng Thẩm Rota ở Roma

Đức Thánh Cha tiếp Tòa Thượng Thẩm Rota ở Roma

VATICAN. ĐTC kêu gọi tăng cường việc huấn luyện chuẩn bị hôn phối và đồng hành với các đôi tân hôn để họ sống đời sống hôn nhân và gia đình theo ý định của Thiên Chúa.

Ngài đưa ra lời kêu gọi trên đây trong buổi tiếp kiến sáng thứ bẩy 21-1-2017 dành cho đoàn thẩm phán và các nhân viên của tòa Thượng Thẩm Rota ở Roma nhân dịp khai mạc năm tư pháp mới. Tòa này có hơn 20 vị thẩm phán quốc tế, chuyên cứu xét các đơn xin tuyên bố hôn nhân vô hiệu, từ cấp 2 trở lên.

Lên tiếng trong dịp này, ĐTC nói đến mối liên hệ mật thiết giữa đức tin và hôn nhân, giữa tình yêu và chân lý, như Đức Giáo Hoàng Biển Đức 16 đã nói: ”Nếu tình yêu không có tương quan với chân lý, thì nó sẽ chịu những thay đổi của tình cảm và sẽ không vượt qua được những thử thách của thời gian.. Chỉ khi nào dựa trên chân lý thì tình yêu mới kéo dài trong thời gian, vượt thắng những thứ phù du nhất thời và tiếp tục kiên vững để nâng đỡ cuộc hành trình chung”.

Từ tiền đề trên đây, ĐTC nhận xét rằng ”sự thiếu sót các giá trị tôn giáo và đức tin có ảnh hưởng cả tới sự ưng thuận kết hôn. Kinh nghiệm về đức tin của những người xin kết hôn theo Kitô giáo rất khác nhau.. người thì tích cực tham gia vào đời sống giáo xứ, có đời sống cầu nguyện nhiệt thành, trái lại có những người chỉ có những tâm tình mơ hồ về tôn giáo, nhiều khi xa lìa hoặc thiếu sót về đức tin”.

Đứng trước tình trạng đó, ĐTC kêu gọi tìm ra những phương dược thích hợp: ”trước tiên cần có hành trình chuẩn bị hôn phối thích hợp, giúp các đôi vợ chồng tương lai đón nhận và nếm hưởng ân thánh, vẻ đẹp và niềm vui của tình yêu chân thực, tình yêu được Chúa Giêsu cứu chuộc. Cộng đồng Kitô được kêu gọi nồng nhiệt loan báo Tin Mừng cho những người chuẩn bị kết hôn.. Cần coi tiến trình chuẩn bị hôn phối như một cơ hội thích hợp để loan báo Tin Mừng cho người lớn, và nhiều khi cho những người xa lạ với đức tin”.

Như phương dược thứ hai, ĐTC kêu gọi giúp các đôi tân hôn. Ngài nói: ”Cần can đảm và với tinh thần sáng tạo đề ra một dự án huấn luyện cho các đôi vợ chồng trẻ, với những sáng kiến giúp họ ngày càng ý thức về bí tích họ đã nhận lãmh. Vấn đề ở đây là khuyến khích họ cứu xét những khía cạnh khác nhau của đời sống lứa đôi thường nhật, là dấu chỉ và là dụng cụ tình yêu của Thiên Chúa..

ĐTC nói thêm rằng: ”Cộng đồng Kitô được kêu gọi đón nhận, đồng hành và giúp đỡ các đôi vợ chồng trẻ, cống hiến những cơ hội và phương thế thích hợp bắt đầu việc tham dự thánh lễ Chúa nhật, để chăm sóc đời sống thiêng liêng trong gia đình, cũng như trong khuôn khổ chương trình mục vụ tại xứ đạo hoặc trong các hội đoàn.. Nhiều khi các đôi vợ chồng trẻ bị bỏ mặc một mình, chỉ vì họ ít xuất hiện trong giáo xứ, hoặc nhất là sau khi họ sinh con.. Nhưng chính trong những lúc đầu tiên ấy của đời sống gia đình, cần phải bảo đảm cho họ sự gần gũi và nâng đỡ mạnh mẽ về tình thần, cả trong việc giáo dục con cái..” (SD 21-1-2017)

G. Trần Đức Anh OP

Đức Thánh Cha tiếp kiến 30 Giám Mục Ireland

Đức Thánh Cha tiếp kiến 30 Giám Mục Ireland

VATICAN. Sáng ngày 20-1-2017, ĐTC đã tiếp kiến 30 GM thuộc 4 giáo tỉnh của Ireland, nhân dịp các vị về Roma viếng mộ hai thánh Tông Đồ và thăm Tòa Thánh.

Sau cuộc gặp gỡ, các GM đã mở cuộc họp báo tại trụ sở đài Vatican và cho biết buổi tiếp kiến là một cuộc nói chuyện như trong gia đình trong đó tất cả các vấn đề được bàn đến: từ sự sống cho đến gia đình, từ nạn nghèo đói cho đến giáo dục, cả vấn đề các vụ lạm dụng tính dục trẻ vị thành niên do một số giáo sĩ và tu sĩ gây ra trước đây cũng được nói đến.   Về vấn đề này, Đức TGM Diarmuid Martin của giáo phận thủ đô Dublin, Phó Chủ tịch HĐGM Ailen, nói rằng: ”Những vụ lạm dụng tính dục xảy ra giữa lòng Giáo Hội ít hơn so với mức độ toàn thể xã hội Ireland, nhưng có sự khác biệt về mức độ trầm trọng, vì một vụ lạm dụng trong Giáo Hội, nơi mà chính Chúa Giêsu đã đặt trẻ em như dấu chỉ Nước Thiên Chúa, có mức độ nặng nề và tiêu cực hơn so với những lạm dụng xảy ra trong xã hội”.

Về tình hình Giáo Hội Công Giáo tại Ireland, Đức TGM Martin cho biết so với tình trạng cách đây 10 năm, đã có những tiến bộ trong Giáo Hội, tuy rằng đây không phải là tiến bộ về phương diện những con số, vì có sự sa sút ơn gọi, số người dự lễ chúa nhật giảm bớt.. Nhưng có những dấu hiệu chứng tỏ sự tăng trưởng và canh tân tinh thần đáng kể. Thay vì phê bình Giáo Hội tại Ireland, nhiều người muốn khích lệ chúng tôi trên con đường canh tân”. (RG 20-1-2017)

G. Trần Đức anh OP

 

 

Cha Francisco Lopez Sedano: Trừ tà là một sứ vụ thiêng liêng

Cha Francisco Lopez Sedano: Trừ tà là một sứ vụ thiêng liêng

Mexico – Cha Francisco Lopez Sedano 80 tuổi, thuộc dòng các Thừa sai Chúa Thánh Linh, là một Linh mục chuyên trừ quỷ người Mêhicô. Trong 40 năm qua, cha Sedano đã thực hiện ít nhất 6000 vụ trừ quỷ. Cha nói là quỷ sợ cha.

Chia sẻ với báo Los Angeles Ngày nay, cha cho biết khi ma quỷ nói với cha qua người bị quỷ nhập, cha trả lời rằng: “Ta không là ai cả, nhưng tôi đến từ Chúa Kitô, Chúa và Chủ của mày và bây giờ mày xuất ra ngay. Nhân danh của Người, ta ra lệnh cho mày xuất ra. Đi ra!”

Trong cuộc phỏng vấn, cha Sedano nêu bật 4 điều mà cha nhận thấy trong những năm thực hiện việc trừ quỷ. Thứ nhất, quỷ là một người chứ không phải là một đồ vật. Chúa Giêsu đã đối mặt với quỷ và nói với nó nhiều lần. Quỷ muốn chia cắt chúng ta khỏi Thiên Chúa, làm chúng ta sợ hãi, đe dọa chúng ta, làm chúng ta run sợ. Nó mang đến cho chúng ta sự lười biếng, mệt mỏi, buồn ngủ, mất lòng tin, thất vọng, hận thù; mọi thứ tiêu cực.

Điều thứ hai, cha Sedano lưu ý, đó là ma quỷ đi vào trong con người là bởi vì họ cho phép nó làm điều này. Cha nói: “Quỷ không thể đi vào trong chúng ta nếu chúng ta không mở cửa cho nó. Bởi vì điều này, Thiên Chúa cấm việc thực hành phép thuật, mê tín dị đoan, ma thuật, phù thủy, bói toán, tư vấn người chết, các lực lượng vô hình và chiêm tinh học. Đây là bảy vùng đất của những lời dối trá và lừa dối.”

Một điều nữa cha Sedano nhận thấy đó là người bị quỷ nhập có những cách cư xử đặc biệt. Cha đã quan sát những người bị quỷ ám, “họ bắt đầu la hét, sủa như chó, hét hay quằn quại và  họ bò trườn như một con rắn trên mặt đất. Có hàng ngàn hình thức.” Cha cho biết, có một thanh niên 18 tuổi đã đẩy 5 ghế dài lớn  rất nặng mà bình thường cần sức của 10 người để di chuyển. Họ đã cần 3 người để giữ anh ta khi cha thực hiện việc trừ quỷ. Họ có thể leo lên các bức tường và cũng có thể bay.” Thỉnh thoảng người bị quỷ nhập nghe các tiếng nói, cảm thấy bị Thiên Chúa ghét hay loại bỏ. Có người bị đau lưng nhưng mà bác sĩ nói là sưc khỏe của họ không có vấn đề. Cha Sedano nói: “Những thương tổn của Satan nằm ngoài sự kiểm soát của y học.

Điều cuối cùng cha Sedano nhận thấy là việc trừ quỷ là một nhiệm vụ thiêng liêng. Cha xem việc trừ quỷ của mình đến từ nhu cầu cần thiết sau khi chứng kiến những trường hợp nặng nề và đau đớn. Cha cho biết, một Linh mục bạn đã giúp cha nhận thấy rằng chiến đấu chống lại Ác thần là một đòi buộc. 3 mệnh lệnh được Chúa truyền là mang lời của Chúa, chữa người đau bệnh và xua trừ ma quỷ. (CNA 19/01/2017)

Hồng Thủy

Đạo luật gây sốc của Nebraska ngăn cản một nữ tu được dạy học

Đạo luật gây sốc của Nebraska ngăn cản một nữ tu được dạy học

Sister Madeleine Miller

Lincoln, Nebraska – Những nỗ lực để dạy học tại một trường công lập ở Nebraska của nữ tu Madeleine Miller đã gặp khó khăn vì một đạo luật có từ cả thế kỷ. Điều này cũng nhắc các cơ quan lập pháp quốc gia có một cái nhìn khác về quá khứ đen tối của pháp luật.

Nữ tu Miller 37 tuổi, thuộc dòng các nữ tu Thừa sai Biển đức ở Norfolk, một dòng yêu cầu các nữ tu luôn mang tu phục ở chốn công cộng. Chị Miller có bằng dạy học của Nebraska, bằng cử nhân của học viện Wayne State của Nebraska và bằng cao học của đại học Chicago. Chị đã nộp đơn vào dạy tại các trường công lập Norfolk vì thiếu các trường Công giáo. Chị được thông báo rằng nếu được nhận vào dạy học, chị không được mặc tu phục. Chị cho biết là chị bị sốc. Chị nói: “Đó là vào năm 2015. Làm sao mà điều này có thể hợp pháp?” Chị cũng cho biết là chị đã có thể bị bắt, bị bỏ tù, bị phạt hay bị tước bằng nếu chị cố dạy học.

Đạo luật 1919 được Ku Klux Klan và các nhóm chống Công giáo ủng hộ. Các vi pham điều luật này là tội hình sự. Các giáo viên vi phạm lần đầu đối mặt với án tù treo một năm, và vi phạm lần hai sẽ bị tước quyền giảng dạy vĩnh viễn. Điều luật cũng cấm khăn choàng của đạo Chính thống và Hồi giáo. Đã có 36 tiểu bang có luật tương tự nhưng hiện nay chỉ Nebraska và Pennsylvania là còn cấm trang phục tôn giáo đối với các giáo viên tại các trường công lập. Oregon là bang mới nhất bãi bỏ luật này vào năm 2010.

Jim Scheer, phát ngôn viên của cơ quan lập pháp đề nghị một dự luật để chấm dứt đạo luật này, vì theo ông, nó vi phạm quyền tự do ngôn luận của các giáo viên và tạo nên tình trạng thiếu hụt giáo viên trong 18 lãnh vực ở Nebraska. Nhiều nhóm ủng hộ việc bãi bỏ luật này.

Vì không tìm được công việc ở đông Nebraska, nữ tu Miller đã chuyển về tu viện của dòng ở Winnebago, Nebraska để daỵ tại một trường Công giáo ở Sioux City, bang Iowa. Chị cho biết mục đích dạy học của mình là giúp học sinh hoc chứ không để cải đạo. Chị nói: “Tôi nghĩ mọi người có quyền làm việc trong khả năng chuyên nghiệp của họ bất kể niềm tin tôn giáo của họ. Bạn làm những gì bạn được thuê làm và bạn đi về nhà. Và mọi người có quyền đó.” (CNA 18/01/2017)

Hồng Thủy

Đức Thánh Cha tiếp phái đoàn Đại kết Phần Lan

Đức Thánh Cha tiếp phái đoàn Đại kết Phần Lan

VATICAN. ĐTC kêu gọi các tín hữu Công Giáo và Tin Lành Luther tăng cường đời sống đức tin và làm chứng tá chung, đặc biệt trong năm kỷ niệm 500 năm cuộc cải cách của Luther.

Ngài đưa ra lời kêu gọi trên đây trong buổi tiếp kiến sáng 19-1-2017 dành cho phái đoàn đại kết Phần lan, gồm các vị lãnh đạo Tin Lành Luther, Chính Thống và Công Giáo, về Roma hành hương nhân dịp lễ kính thánh Enrico bổn mạng Phần Lan, và nhân dịp Tuần cầu nguyện cho sự hiệp nhất các tín hữu Kitô. Đây là lần thứ 35 cuộc hành hương thường niên này được thực hiện.

Lên tiếng trong dịp này ĐTC nhắc đến buổi lễ tưởng niệm 500 năm cuộc cải cách của Luther ngày 31-10-2016 tại thành phố Lund, Thụy Điển, mà ngài đích thân tham dự. ”Tại thành phố ấy, chúng ta đã nhắc nhớ ý hướng của Martin Luther cách đây 500 năm là canh tân Giáo Hội chứ không phải để phân rẽ Giáo Hội. Cuộc tập họp này tại đây mang lại cho chúng ta can đảm và sức mạnh, trong Chúa Giêsu Kitô, để nhìn về hành trình đại kết đằng trước, hành trình mà chúng ta được kêu gọi cùng nhau tiến bước”.

ĐTC nói thêm nói rằng: ”Năm kỷ niệm này, đối với các tín hữu Công Giáo và Luther là một cơ hội rất tốt để sống đức tin một cách chân thực hơn, để cùng nhau tái khám Tin Mừng và tìm cách làm chứng cho Chúa Kitô hăng hái nồng nhiệt hơn. Vào cuối ngày kỷ niệm ở thành phố Lund, và hướng về tương lai, chúng ta đã lấy hứng từ chứng tá chung của chúng ta về đức tin trước mặt thế giới, khi chúng ta quyết tâm cùng nhau giúp đỡ những người đau khổ, những người túng thiếu, bị bách hại và phải chịu nạn bạo lực. Khi làm như thế, các tín hữu Kitô chúng ta không còn chia rẽ nữa, nhưng đúng hơn, được hiệp nhất với nhau trong hành trình tiến về sự hiệp thông trọn vẹn”.

ĐTC cũng khẳng định rằng: ”Phong trào đại kết chân thực dựa trên sự cùng hoán cải, trở về với Chúa Giêsu Kitô là Chúa và là Đấng Cứu Chuộc chúng ta. Nếu chúng ta đến gần Chúa, chúng ta cũng đến gần nhau. Trong những ngày này, chúng ta cùng nhau cầu nguyện sốt sắng hơn với Chúa Thánh Linh để chúng ta có thể cảm nghiệm sự hoán cải này, làm cho sự hòa giải có thể thực hiện được”. (SD 19-1-2017)

G. Trần Đức Anh OP

 

Giáo Phận Orange làm lễ tấn phong tân giám mục

Giáo Phận Orange làm lễ tấn phong tân giám mục

GARDEN GROVE, California (NV) – Lúc 2 giờ trưa Thứ Ba, 17 Tháng Giêng, Giáo Phận Orange tổ chức lễ tấn phong cho tân Giám Mục Timothy Freyer, đảm nhận chức vụ giám mục phụ tá giáo phận, tại nhà thờ Saint Columban, Garden Grove.

Con đường nhỏ Standford, thường ngày vắng lặng mà hôm nay xôn xao chật cứng một đoàn xe hơi, kiên nhẫn lăn bánh từng phân, từng phân tới trước.

Một nhóm cảnh sát Garden Grove, cùng với các đồng nghiệp ở Sở Cảnh Sát Anaheim, và các giới chức cũng tuần tự tiến vào khuôn viên nhà thờ.

Mới hơn 12 giờ mà bên ngoài nhà thờ đã đông vui như ngày hội. Một nhóm giáo dân khoảng gần 40 người, gồm mọi sắc dân Việt, Mỹ, Mễ múa hát, tươi cười theo tiếng đàn guitar tại sân cỏ phía trước cửa chính nhà thờ. Trong sân bên hông, các vị linh mục trong những chiếc áo khoác màu trắng đứng chuyện trò thăm hỏi nhau trong niềm vui chung.

Bà Tracy Đồng, cư dân Santa Ana, nói: “Bây giờ tôi vào đây, đại diện nhà thờ Saint Barbara, cầm biểu ngữ chào mừng ngài giám mục chứ lúc nãy tôi cũng ở phía trước, vừa nhảy múa, vừa cầu nguyện Thiên Chúa đã đến đây cùng chúng ta trong thân thể vị tân giám mục.”

“Tôi là người đi sâu, đi sát với mọi sinh hoạt của giáo hội. Hôm nay, Thiên Chúa đã chọn nhà thờ Columban này làm đất lành để ngài Timothy (Freyer) được nhận chức giám mục,” bà nói với ánh mắt đầy niềm tin.

Ông Phao Lô Nguyễn, giáo dân nhà thờ Saint Barbara, nói: “Tôi đến đây để củng cố đức tin. Dạo sau này, niềm tin Chúa Kitô của tôi có vẻ như bị chao đảo nên tôi muốn đến đây đón chào vị tân giám mục của Orange County này để tự xét lại chính mình. Tôi rất vui khi thấy, đứng đây trong không khí tưng bừng này, tôi tìm lại đức tin và vui cho Đức Cha Timothy (Freyer).”

Bên trong, ngôi giáo đường với sức chứa 1,500 người, chật cứng. Có rất đông người, vì thiếu ghế, phải đứng sát tường. Nhiều người không có giấy mời phải đứng bên ngoài nhìn vào.

Buổi lễ tấn phong giám mục diễn ra trong không khí vừa trang nghiêm với những câu kinh cầu nguyện cùng những nghi lễ tôn giáo, vừa sôi nổi với những trận reo hò, vỗ tay phấn khích của giáo dân.

Bên ngoài, có những bà cụ ngồi lần tràng hạt một cách nghiêm chỉnh. Bà Maria Luis, cư dân Garden Grove, nói: “Vinh dự này, tôi không bao giờ quên. Tôi không có giấy mời nên phải ngồi đây. Nhưng Thiên Chúa cũng ở ngoài này.”

Ông Mi Ca Trần, cư dân Westminster, nói: “Tôi tin nhà thờ Saint Columban đã trở thành đất thánh kể từ hôm nay.”

Tân giám mục phụ tá sẽ hỗ trợ Giám Mục Kevin Vann, giám mục Giáo Phận Orange, quản trị một giáo phận có hơn 1.3 triệu giáo dân, với nhiều sắc dân khác nhau, và được xem là một trong những nơi có sự đa dạng sắc tộc nhất và đông giáo dân nhất Hoa Kỳ.

“Tôi cảm thấy rất vui và vinh dự khi được bổ nhiệm vào chức này,” vị tân giám mục phụ tá được trích lời nói. “Tôi biết ơn Ðức Giáo Hoàng và Giám Mục Kevin Vann đã luôn tin tưởng và ủng hộ tôi trong suốt thời gian qua. Ngoài ra, tôi cũng rất biết ơn Giám Mục Tod Brown và Giám Mục Mai Thanh Lương, vì tình bạn và tình cảm của họ dành cho tôi.”

Giám Mục Tod Brown và Giám Mục Mai Thanh Lương hiện nghỉ hưu trong giáo phận.

Với vai trò mới này, Giám Mục Freyer sẽ hỗ trợ Giám Mục Kevin Vann trong việc tiếp tục phát triển các kế hoạch mục vụ mới của giáo phận. Ðồng thời, vị tân giám mục phụ tá sẽ tiếp tục công việc truyền giáo và tổ chức các hoạt động để đem mọi người đến gần với Chúa Kitô hơn, theo thông báo của Giáo Phận Orange.

“Khi tôi chuyển về Giáo Phận Orange, Linh Mục Freyer trở thành người bạn tốt của tôi và là một cộng tác viên tuyệt vời, và là ơn phước của Bề Trên dành cho tôi và mọi dân Chúa trong giáo phận,” Giám Mục Kevin Vann được trích lời nhận xét về vị tân giám mục phụ tá. “Lòng nhiệt thành và tình yêu của linh mục đối với sự nghiệp phục vụ giáo dân chắc chắn cũng giống như tôi khi tôi bắt đầu con đường phục vụ.”

Vị chủ chăn của Giáo Phận Orange cho biết thêm: “Tân Giám Mục Freyer sẽ kế thừa công việc của cựu giám mục phụ tá, và sẽ là người bạn tuyệt vời của tất cả mọi người, đồng thời giúp tôi và các nhân viên kết nối tất cả mọi người trong giáo phận trong tình thương của Chúa. Kinh nghiệm của ngài trong nhiều năm qua tại các giáo xứ, đặc biệt là ở cộng đồng gốc Hispanic sẽ là món quà lớn cho giáo phận.”

Tân Giám Mục Phụ Tá Timothy Freyer sinh ra ở Los Angeles và lớn lên ở Hungtinton Beach, nơi cách nhà thờ chánh tòa Christ Cathedral ở Garden Grove không xa.

Sau khi tốt nghiệp trung học tại trung học Hungtinton Beach, ông vào đại học của nhà dòng St. John’s ở Camarillo, California, và lấy bằng cử nhân thần học.

Tân Giám Mục Phụ Tá  Freyer thụ phong linh mục ngày 10 Tháng Sáu, 1989 và bắt đầu công việc mục vụ tại nhà thờ St. Hedwig ở Los Alamitos của Giáo Phận Orange County trong năm năm, trước khi được bổ nhiệm về nhà thờ Our Lady of Fatima ở San Clemente. Năm năm sau, ông được chuyển về nhà thờ St. Catherine of Siena ở Laguna Beach, và ở đây hai năm.
Năm 2001, Giám Mục Freyer được bổ nhiệm làm linh mục chánh xứ nhà thờ St. Mary’s ở Fullerton, và năm 2003 về làm chánh xứ nhà thờ St. Boniface ở Anaheim.
Năm 2012, Linh Mục Freyer được bổ nhiệm làm tổng đại diện giáo phận, phụ trách huấn luyện các linh mục.

Tân Giám Mục Phụ Tá Timothy Freyer là một trong những sáng lập viên của trung tâm Anaheim Family Justice Center, nơi giúp đỡ những nạn nhân bạo lực gia đình. Ông cũng phục vụ hai nhiệm kỳ trong hội đồng quản trị trung tâm y tế St. Jude ở Fullerton. Ngoài ra, ông cũng là linh mục tuyên úy cho Sở Cảnh Sát Anaheim.

Giám Mục Phụ Tá Freyer là người con duy nhất của ông bà Jerry và Patricia Freyer. Cha ông mất năm 1977. Hiện mẹ ông đang sinh sống tại Hungtinton Beach.

Đăng Giao/Người Việt

Sự sọ hãi cái chết khiến cho con người cầu nguyện và gặp gỡ Thiên Chúa

Sự sọ hãi cái chết khiến cho con người cầu nguyện và gặp gỡ Thiên Chúa

** Sự sợ hãi kinh hoàng trước cái chết vén mở cho thấy nhu cầu hy vọng nơi Thiên Chúa của sự sống, khiến cho con người cầu nguyện, xin cứu giúp, và nhận biết Chúa đích thật và duy nhất của trời và đất. Dưới ánh sáng lòng thương xót của Thiên Chúa và của mầu nhiệm phục sinh cái chết có thể trở thành “chị chết” và dịp nhận biết niềm hy vọng gặp gỡ Chúa.

 ĐTC Phanxicô đã nói như trên với 8,000 tín hữu và du khách hành hương tham dự buổi tiếp kiến chung sáng thứ tư hôm qua trong đại thính đường Phaolô VI.

Trong bài huấn dụ ngài đã giới thiệu gương mặt của ông Giôna là vị ngôn sứ đã tìm cách tránh né lời mời gọi của Thiên Chúa và khước từ phục vụ chương trình cứu độ của Thiên Chúa như kể trong sách Giôna, là cuốn sách ngắn chỉ có 4 chương, nhưng giầu giáo huấn liên quan tới lòng thương xót của Thiên Chúa là Đấng tha thứ.

Giôna là một ngôn sứ “đi ra”, và cũng là một ngôn sứ chạy trốn! Đó là một ngôn sứ đi ra, mà Thiên Chúa gửi ra vùng ngoại biên, là Ninivê để hoán cải dân chúng thành phố lớn này. Nhưng đối với một tín hữu do thái như Giôna Ninivê diễn tả một thực tại đe dọa, là kẻ thù gây nguy hiểm cho Giêrusalem, và vì thế phải hủy diệt, chứ không được cứu thoát. Vì thế, khi Thiên Chúa gửi Giôna đi rao giảng trong thành phố ấy, thì ngôn sứ vốn biết lòng lành của Chúa và ước mong tha thứ, tìm cách trốn tránh nhiệm vụ của mình và chạy trốn. ĐTC tiếp tục bài huấn dụ như sau:

** Trong cuộc trốn chạy của ông ngôn sứ tiếp cận với các người ngoại giáo, là các thuỷ thủ của con tầu ông đã lên để tránh xa Thiên Chúa và sứ mệnh của mình. Và ông trốn xa, bởi vì Ninivê đã ở trong vùng Iraq, và ông trốn sang Tây Ban Nha, trốn thật. Và chính thái độ của các người ngoại giáo này, cũng như rồi sẽ là thái độ của dân thành Ninivê sau đó, cho phép chúng ta hôm nay suy  tư một chút về niềm hy vọng được diễn tả ra bằng lời cầu nguyện truớc hiểm nguy và cái chết.

Thật thế, trong khi vượt biển đã xảy ra một trận bão khủng khiếp, và Giôna xuống hầm tầu để ngủ. Trái lại, các thủy thủ, các người ngoại giáo này, khi thấy mình sắp chết “mỗi người khẩn cầu thần linh của họ” (Gn 1,5).

Thuyền trưởng đánh thức Giona dậy và nói: “Sao làm gì mà ngủ thế này? Dậy, kêu cầu thần của ông đi chứ! May ra ngài sẽ nghĩ tới chúng ta và chúng ta khỏi mất mạng” (Gn 1,6).

Phản ứng của các người ngoại giáo này là phản ứng đúng đắn truớc hiểm nguy, bởi vì chính đó là lúc con người sống trọn vẹn kinh nghiệm sự giòn mỏng và nhu cầu cứu rỗi của mình. Bản năng kinh sợ phải chết vén mở cho thấy sự cần thiết hy vọng nơi Thiên Chúa của sự sống. “May ra Thiên Chúa nghĩ tới chúng ta và chúng ta sẽ không chết”: đó là các lời nói của niềm hy vọng  trở thành lời cầu nguyện, lời cầu nguyện tràn đầy âu lo, thốt lên từ miệng lưỡi con ngưòi trước nguy hiểm của cái chết gần kề.

ĐTC nói thêm trong bài huấn dụ: quá thường khi chúng ta dễ  xem thường việc hướng tới Thiên Chúa trong nhu cầu, làm như thể nó chỉ là một lời cầu nguyện nhắm tới lợi lộc, và vì thế bất toàn. Nhưng Thiên Chúa biết sự yếu đuối của chúng ta, Ngài biết rằng chúng ta nhớ đến Ngài là để xin cứu giúp, và với nụ cucời khoan dung của môt ngưòi cha Ngài đáp trả một cách nhân hậu.

** Khi Giôna thừa nhận trách nhiệm của mình và để mình bị ném xuống biển, hầu cứu thoát các bạn đồng hành của ông, bão tố dịu xuống. ĐTC giải thích như sau:

Cái chết cận kề đã khiến cho các người ngoại giáo cầu nguyện, và làm cho ngôn sứ sống ơn gọi phục vụ tha nhân của ông, mặc dù tất cả, bằng cách hy sinh chính mình cho họ, và dẫn đưa những người sống sót tới chỗ nhận biết Chúa và chúc tụng Ngài. Các thuỷ thủ đã cầu nguyện vì sợ hãi hướng tới các thần linh của họ, giờ đây với lòng chân thành kính sợ Chúa, họ nhận biết Thiên Chúa thật, dâng lễ tế và lời khấn nguyền.  Niềm hy vọng đã khiến cho họ cầu xin để khỏi chết, lại vén mở cho thấy nó quyền năng hơn nữa, và làm ra một thực tại đi xa hơn những gì họ hy vọng: họ không chỉ không thiệt mạng trong trận bão, mà còn rộng mở cho việc nhận biết Chúa thật và duy nhất của trời đất.

Tiếp đó cả dân chúng thành Ninivê trước viễn tượng bị huỷ diệt, họ cũng sẽ cầu nguyện, được thúc đẩy bởi niềm hy vọng nói sự tha thứ của Thiên Chúa. Họ sẽ đền tội, khẩn nài Chúa và trở về với Ngài, bắt đầu từ nhà vua, cũng như vị thuyền trưởng, trao ban tiếng nói cho niềm hy vọng khi nói rằng: “Biết dâu Thiên Chúa chẳng nghĩ lại… và chúng ta sẽ không phải chết” (Gn 3,9). Đối với họ cũng như đối với thủy thủ đoàn trong trận bão, đối diện với cái chết và được cứu thoát đã đưa họ tới sự thật. Và như thế dưới lòng thương xót của Chúa và còn hơn thế nữa dưới ánh sáng  của mầu nhiệm phuc sinh, cái chết có thể trở thành “chị chết của chúng ta” cũng như đối với thánh Phanxicô thành Assisi, và diễn tả đối với từng người và mỗi người trong chúng ta, dịp kinh ngạc hiểu biết niềm hy vọng và gặp gỡ Chúa.

Xin Chúa làm cho chúng ta hiểu mối dây nối kết giữa lời cầu nguyện và niềm hy vọng. Lời cầu nguyện đưa bạn tiến tới trong hy vọng, và khi các sự việc trở thành tăm tối, cần phải cầu nguyện nhiều hơn! Và sẽ có nhiều hy vọng hơn.

** ĐTC đã chào các tín hữu nói tiếng Pháp, đặc biệt là một đoàn hành hương đến từ Tân Caledonia. Ngài cũng chào các đoàn hành hương Niu Dilen, Philippines, Canada và Hoa Kỳ, cũng như các tín hữu nói tiếng Đức, đặc biệt là phái đoàn của Lộ trình đại kết âu châu, do bà chủ tịch Annette Kurschus hướng dẫn. Ngài nói cuộc dừng chân của họ tại Roma là một dấu chỉ đại kết rất ý nghĩa, đặc biệt trong tuần cầu nguyện cho hiệp nhất các kitô hữu. Nó diễn tả sự hiệp thông đã đạt được qua con đường đối thoại trong các thập niên qua. Phúc Âm của Chúa Kitô là trung tâm điểm cuộc sống chúng ta và hiệp nhất những người nói các thứ tiếng khác nhau, sống trong các quốc gia khác nhau và trong các cộng đoàn khác nhau. Tôi cảm động nhớ tới lời cầu đại kết tại Lund bên Thụy Điển ngày 31 tháng 10 năm ngoái. Trong tinh thần kỷ niệm cuộc Cải Cách chúng ta nhìn vào những gì kết hiệp chúng ta hơn là nhìn vào những gì chia rẽ chúng ta, và chúng ta cùng nhau tiếp tục con đường đào sâu sự hiệp thông và trao ban cho nó một hình thái ngày càng hữu hình hơn.

Tại Âu châu niềm tin chung này nơi Chúa Kitô như là một sợi chỉ xanh của niềm hy vọng chúng ta thuộc về nhau. Hiệp thông, hoà giải và hiệp nhất là các điều có thể. Như là kitô hữu chúng ta có trách nhiệm đối với sứ điệp này và chúng ta phải làm chứng cho nó bằng cuộc sống của mình. Xin Thiên Chúa chúc lành cho ý chí hiệp nhất và giữ gìn tất cả mọi người bước đi trên con đường hiệp nhất.

ĐTC cũng chào các tín hữu nói tiếng Bồ Đào Nha, đặc biệt nhóm “Brasilien Tropical Violins”.

Chào các tín hữu Ba Lan ĐTC nhắc tới tuần cầu nguyện cho hiệp nhất các kitô hữu và nói: Tình yêu của Thiên Chúa thúc đẩy chúng ta hoà giải. Chúng ta hãy cầu xin Chúa để mọi cộng đoàn kitô hiểu biết hơn lịch sử thần học và giáo luật của mình, và luôn rộng mở hơn cho sự hoà giải. Xin Thần Khí thấm nhuần chúng ta với lòng nhân hậu, sự hiểu biết và ý chí cộng tác.

ĐTC cũng chào các tín hữu Croát, đặc biệt là các trẻ em Bosni Erzegovine cùng các gia đình tiếp đón các em trên đảo Sicilia. Ngài cầu chúc các em sống tình huynh đệ trong các gia đình tiếp đón các em, và có cơ may sống bầu khí hy vọng. Chỉ như thế các người trẻ công giáo, chính thống và hồi giáo mới có thể cứu vãn niềm hy vọng sống trong một thế giới huynh đệ, công bằng và hoà bình, chân thành hơn và phù hợp hơn với chiều kích của con người. Ngài xin các em sống vững vàng trong đức tin, cầu nguyện cho hoà bình và hiệp nhất của quê hương các em và toàn thế giới. ĐTC cũng cám ơn các gia đình tỏ tình liên đới kitô tiếp đón các em nêu gương yêu thương cho mọi người. Cần phải luôn luôn tiếp đón, che chở, bảo vệ và lắng nghe các trẻ em mồ côi với tình thương mến.

Trong số các nhóm nói tiếng Ý ĐTC chào đặc biệt các nữ tu dòng thánh Agostino nữ tử của Chúa Giêsu và Mẹ Maria; và các nam tu sĩ Agostino, cũng như Hiệp hội các chưởng khế công giáo do ĐC Domenico Sorrentino, TGM Assisi tháp tùng. Chào các bạn trẻ, người đau yếu và các đôi tân hôn ĐTC nhắc lại đề tài tuần cầu nguyện cho hiệp nhất các kitô hữu năm nay về đề tài “Tình yêu của Chúa Kitô thúc đẩy hoà giải”. Ngài xin mọi người cầu nguyện cho sự hiệp nhất, các người đau yếu dâng các hy sinh khổ đau cho ý chỉ này, và các cặp vợ chồng mới cưới sống kinh nghiệm tình yêu hôn nhân như tình yêu Thiên Chúa dành cho nhân loại.

Buổi tiếp kiến đã kết thúc với Kinh Lậy Cha và phép lành toà thánh ĐTC ban cho mọi nguời.

Linh Tiến Khải

Đừng dậm chân tại chỗ mà hãy can đảm tiến bước

Đừng dậm chân tại chỗ mà hãy can đảm tiến bước

Hãy là những Kitô hữu can đảm, với cái neo chắc chắn là niềm hy vọng, để có thể vững vàng trước những khoảnh khắc đen tối. Đức Thánh Cha chia sẻ như thế trong thánh lễ sáng nay tại nhà nguyện Marta.

Đừng lười biếng mà cam đảm lên

Sống một cách can đảm, đó là lối sống của người Kitô hữu. Can đảm tiến về phía trước. Đó là thái độ cần có trong cuộc sống, giống như người vận động viên chăm chỉ luyện tập để dành chiến thắng. Hãy đối diện với sự lười biếng bằng lòng dũng cảm.

Có những Kitô hữu lười biếng, có những Kitô hữu không muốn nhấc chân lên để bước, có những Kitô hữu không muốn tranh đấu để tạo nên những thay đổi, những gì mới mẻ, những gì tốt đẹp cho mọi người. Những Kitô hữu ấy lười biếng và tìm thấy Giáo Hội như là trạm dừng, như là bãi đậu xe. Và tôi có thể nói rằng, các Kitô hữu ấy là những giáo dân, là những linh mục, là những giám mục… Tất cả. Có những Kitô hữu như thế! Đối với họ, Giáo Hội là bến đậu an toàn, là bến đậu cho cuộc sống. Những Kitô ấy làm tôi nghĩ tới điều mà đứa bé nói với ông bà rằng: “Ông bà hãy cẩn thận, đừng có ngăn cản nước, vì nếu nước không chảy, thì trước tiên nước sẽ bị bẩn”.

Bám chắc vào neo hy vọng để vững vàng trong giông tố

Điều gì giúp cho người Kitô hữu có thể sống can đảm? Đó là niềm hy vọng. Những Kitô hữu lười biếng, vì họ không có niềm hy vọng, vì họ đang “nghỉ hưu”. Thật là tốt đẹp để nghỉ hưu sau nhiều năm làm việc. Nhưng hãy cẩn thận, chẳng tốt đẹp gì nếu cả cuộc đời đều là nghỉ hưu.

Thông điệp của ngày hôm nay là niềm hy vọng, hy vọng là không thất vọng, hy vọng là còn có điều gì khác nữa. Niềm hy vọng là cái neo vững chắc cho cuộc sống. Niềm hy vọng chính là cái neo: chúng ta ném cái neo xuống, nó bám chắc, và chúng ta nắm vững sợi dây. Đó là niềm hy vọng của chúng ta. Đừng nghĩ rằng: đây là bầu trời, thật là đẹp, và tôi vẫn còn… Không. Hy vọng có nghĩa là chiến đấu, là bám chắc sợi dây, là đạt tới. Trong cuộc tranh đấu hằng ngày thì hy vọng chính là đức tính để mở rộng các chân trời chứ không đóng lại! Có lẽ, nếu bạn hiểu thì hy vọng chính là đức tính mạnh mẽ nhất. Hy vọng: sống trong hy vọng, sống bằng hy vọng, luôn nhìn tới phía trước với lòng can đảm. Một số người trong anh chị em có thể nói: “Vâng, thưa cha, nhưng có những lúc tệ hại, khi ấy dường như mọi sự đều tối đen, con nên làm gì?” Khi ấy, hãy nắm chắc sợi dây và chịu đựng với đầy nghị lực.

Xin ơn vượt thắng tính ích kỷ

Chúng ta phải can đảm nhìn lại và rồi bước tiếp. Những Kitô hữu tốt lành cũng vẫn thường mắc sai lỗi. Tất cả chúng ta đều có những sai lỗi. Những người đứng yên một chỗ, có vẻ như chẳng làm gì sai. Khi bạn không thể bước đi vì mọi sự đều tăm tối, vì mọi thứ đều đóng lại, thì bạn phải có khả năng chịu đựng, bạn phải kiên trì. Chúng ta có thể bền lòng bền chí vì chúng ta có niềm hy vọng, vì chúng ta không thất vọng, vì Thiên Chúa không thất vọng.

Chúng ta hãy tự hỏi: Tôi đang thế nào? Đời sống đức tin của tôi thế nào? Đời sống của tôi là những chân trời rộng mở, tràn đầy hy vọng, can đảm tiến bước, hay lại là cuộc sống hâm hẩm thậm chí là một cuộc sống không có khả năng chịu đựng những thời khắc đen tối? Nguyện xin Chúa ban cho chúng ta ân sủng của Ngài, để chúng ta có thể vượt thắng tính ích kỷ vốn chỉ biết lo cho mình mà không thèm nhìn anh chị em.

Tứ Quyết SJ

Đức Thánh Cha rửa tội cho 13 hài nhi từ các vùng bị động đất

Đức Thánh Cha rửa tội cho 13 hài nhi từ các vùng bị động đất

VATICAN. Lúc 5 giờ chiều thứ bẩy, 14-1-2017, tại nhà nguyện nhà trọ thánh Marta nơi ngài cư ngụ, ĐTC đã ban phép rửa tội cho 13 hài nhi sinh sau các trện động đất ở miền trung Italia hồi tháng 8 và tháng 10 năm ngoái.

Qua việc cử hành này, ĐTC giữ lời đã hứa. Đức Cha Dominico Pompilli, GM giáo phận Rieti, giải thích rằng ngày 4-10 năm 2016, khi viếng thăm làng Amatrice, nơi bị động đất nặng nhất, một bà mẹ giới thiệu hài nhi con của bà với ĐTC và hỏi xem ngài có thể rửa tội cho cháu không. Ngài đã nhận lời và quyết định nới rộng cho cả các hài nhi sinh tại các vùng bị động đất.

Cuối thánh lễ, một số trẻ em và cha mẹ đã tặng cho ĐTC một tập với những bức họa gợi lại cuộc viếng thăm của ngài ở hai nơi bị động đất nặng là Amatrice và Accumoli. (RG 15-1-2017)

G. Trần Đức Anh OP 

ĐTC kêu gọi che chở và bảo vệ người trẻ di cư vị thành niên

ĐTC kêu gọi che chở và bảo vệ người trẻ di cư vị thành niên

Trong buổi đọc Kinh Truyền Tin chung với tín hữu và du khách hành hương trưa Chúa Nhật hôm qua, ĐTC đã kêu gọi đưa ra mọi biện pháp có thể giúp che chở, bảo vệ và hội nhập các trẻ em di cư. Ngài nói:

Hôm nay cử hành “gày quốc tế người di cư và tỵ nạn” với đề tài “Các người di cư vị thành niên, dễ bị thương tổn và không có tiếng nói.” Các anh em bé nhỏ này của chúng ta, đặc biệt nếu không được tháp tùng, bị phơi bầy cho biết bao nguy hiểm. Họ đông lắm! Cần đưa ra mọi biện pháp có thể để bảo đảm cho các trẻ em vị thành niên di cư sự che chở, bào vệ và cả việc hội nhập các em nữa. ĐTC cũng cám ơn Văn phòng di cư của giáo phận Roma và các nhân viên trong dấn thân tiếp đón và trợ giúp người tỵ nạn. Ngài nhắc đến gương của thánh Francesca Saverio Cabrini bổn mạng người di cư, một nữ tu can đảm tận hiến cuộc đời đem Chúa Giêsu Kitô tới cho những cho người sống xa quê hương và gia đình họ, nêu gương săn sóc người anh em kiều cư là hình ảnh của Chúa Giêsu khổ đau bị khước từ và hạ nhục. Biết bao lần trong Thánh Kinh Chúa đã xin chúng ta tiếp đón các người di cư và ngoại quốc, bằng cách nhắc cho chúng ta biết rằng chúng ta cũng là người kiều cư.

Trước đó trong bài huấn dụ ĐTC đã quảng diễn trình thuật Phúc Âm Chúa Nhật kể lại biến cố Chúa Giêsu đến xếp hàng như các tội nhân để lãnh nhận phép rửa từ tay thánh Gioan Tẩy Giả. Ở trung tâm bài Tin Mừng (Ga 1,29-34) có lời của thánh nhân: “Đây là Chiên  Con Thiên Chúa, Đấng xoá bỏ tội trần gian” (c. 29). Một lời nói được đi kèm bởi cái nhìn và cử chỉ của bàn tay chỉ Ngài, Đức Giêsu.

Chúng ta hãy tưởng tượng ra quang cảnh này. Chúng ta đang đứng trên bờ sông Giordan. Thánh Gioan đang làm phép rửa, có biết bao nhiêu người đàn ông đàn bà thuộc đủ mọi lứa tuổi đến sông để nhận phép rửa từ tay người, mà theo nhiều người nhắc nhớ ngôn sứ Elia, vị đại ngôn sứ 9 thế kỷ trước đó đã thanh tẩy dân Israel khỏi việc tôn thờ ngẫu tượng và dẫn đưa họ trở về với niềm tin thật nơi Thiên Chúa của giao ước, Thiên Chúa của tổ phụ Abraham, Igiaac và Giacóp. ĐTC nói:

Gioan rao giảng rằng nước trời đã gần, rằng Đấng Messia đang tự tỏ hiện và cần chuẩn bị , hoán cải và sống công chính; và ông bắt đầu ban phép rửa trên sông Giordan để cho dân chúng một phương thế sám hối cụ thể (x. Mt 3,1-6) Những người này đến để sám hối tội lỗi của họ, để đền tội, để bắt đầu trở lại cuộc sống.

Ông biết, Gioan biết rằng Đấng Messia, Đấng được thánh hiến của Chúa đã đến gần, và dấu chỉ để nhận biết Người sẽ là Chúa Thánh Thần ngự xuống trên Người; thật ra Người sẽ đem đến phép rửa thật, phép rửa trong Thánh Thần (x. Ga 1,33).

Và đây, lúc ấy đến: Đức Giêsu trình diện trên bờ sông, giữa dân chúng, giữa những người tội lỗi – như tất cả chúng ta – Đó là cử chỉ công khai đầu tiên của Ngài, điều đầu tiên Ngài làm khi rời nhà ở Nadarét năm 30 tuổi: Ngài đi xuống Giuđêa tới sông Giordan và để cho Gioan làm phép rửa. Chúng ta biết điều gì xảy ra – chúng ta đã cử hành Chúa Nhật vừa qua – Thánh Thần ngự xuống trên Đức Giêsu trong hình bồ câu và tiếng Thiên Chúa Cha công bố Người là Con yêu dấu (x. Mt 3,16-17). Đó là dấu chỉ Gioan chờ đợi. Chính Ngài! Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế. Gioan bối rối vì Ngài đã tự biểu lộ một cách không thể nghĩ được: giữa các tội nhân, được rửa như họ, còn hơn thế nữa đuợc rửa vì họ. Nhưng Thần Khí soi sáng cho Gioan và khiến cho ông hiểu rằng như thế được hoàn thành công lý của Thiên Chúa, dấu chỉ ơn cứu độ thành toàn như vậy: Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế, là Vua Israel, không phải với quyền năng của thế gian này, nhưng như là Chiên Con Thiên Chúa, Đấng mang trên mình và cất tội của trần gian.

Và như thế Gioan chỉ Người cho dân chúng và các môn đệ của ông. Vì Gioan có một vòng tròn nhiều môn đệ, đã chọn ông như vị hướng dẫn tinh thần. và chính vài người trong số họ sẽ trở thành các môn đệ đầu tiên của Đức Giêsu. Chúng ta biết rõ tên của họ: Simon sẽ được gọi là Phêrô, Anrê em ông, Giacôbê và em ông là Gioan. Tất cả đều là dân chài; tất cả đều là người Galilê, như Đức Giêsu.

ĐTC nói tiếp trong bài huấn dụ: Anh chị em thân mến, tại sao chúng ta lại dừng lâu trên cảnh này? Bởi vì nó định đoạt! Nó không phải là một giai thoại. Nó là một sự kiện lịch sử định đoạt! Cảnh này định đoạt đối với đức tin của chúng ta; nó định đoạt đối với cả sứ mệnh của Giáo Hội nữa. Và ĐTC giải thích như sau:

Trong mọi thời đại, Giáo Hội được mời gọi làm điều mà Gioan Tảy Giả đã làm, chỉ Chúa Giêsu cho dân chúng và nói: “Đây là Chiên Con Thiên Chúa, Đấng xóa bỏ tội trần gian”. Ngài là Đấng Cứu Độ duy nhất! Ngài là Chúa, khiêm tốn, giữa các tội nhân, nhưng đó là Ngài, là Ngài: không phải một người khác, quyền thế đang đến: không, không, đó là Ngài!

Và đó là các lời mà chúng tôi linh mục lập lại hằng ngày trong Thánh Lễ, khi chúng tôi giới thiệu với dân chúng bánh và rượu đã trở thành Mình và Máu Chúa Kitô. Cử chỉ phụng vụ này diễn tả toàn sứ mệnh của Giáo Hội, không loan báo chính mình. Khốn, khốn khi Giáo Hội loan báo chính mình; thì Giáo Hội mất đi dịa bàn, không biết mình đi đâu.  Giáo Hội loan báo Chúa Kitô; không đem chính mình, nhưng đem Chúa Kitô.  Vì chính Ngài và chỉ có Ngài cứu rỗi dân Ngài khỏi tội lỗi, giải thoát nó và hướng dẫn nó tới đất của sự tự do đích thật.

Xin Trinh Nữ Maria là Mẹ của Chiên Con Thiên Chúa, giúp chúng ta tin nơi Chúa và theo Người.

Tiếp đến ĐTC đã đọc kinh Truyền Tin và ban phép lành toà thánh cho mọi người

Linh Tiến Khải

Tòa Thánh hy vọng Israel và Palestine tái đối thoại

Tòa Thánh hy vọng Israel và Palestine tái đối thoại

VATICAN. Tòa Thánh hy vọng Israel và Palestine có thể mở lại các cuộc thương thuyết trực tiếp giữa các phe để đạt tới sự chấm dứt bạo lực, đang gây đau khổ không thể chấp nhận được cho các thường dân và tiến tới một giải pháp chính đáng và lâu bền.

Phòng báo chí Tòa Thánh cho biết như trên trong thông cáo công bố sau cuộc tiếp kiến của ĐTC dành cho Tổng thống Mahmoud Abbas của Palestine sáng ngày 14-1-2016. Sau khi gặp ĐTC, Tổng thống Abbas đã hội kiến với ĐHY Pietro Parolin, Quốc vụ khanh Tòa Thánh, và ngoại trưởng Paul Gallagher.

Thông cáo cũng viết: ”Để đạt mục tiêu vừa nói, Tòa Thánh cầu mong rằng, với sự hỗ trợ của Cộng đồng quốc tế, có những biện pháp được đề ra để tạo điều kiện cho sự tín nhiệm nhau và góp phần kiến tạo một bầu không khí giúp đưa ra những quyết định can đảm để đạt tới hòa bình. Các vị cũng nhắc đến tầm quan trọng của việc bảo tồn tính chất thánh thiêng của các Nơi Thánh cho các tín hữu thuộc tất cả 3 tôn giáo có chung tổ phụ Abraham. Đặc biệt chú ý đến các cuộc xung đột đang đè nặng trên vùng Trung Đông.”

Trong phần đầu của thông cáo, Phòng báo chí Tòa Thánh, cho biết ”qua các cuộc trao đổi thân mật, có đề cao những quan hệ tốt giữa Tòa Thánh và Palestine, quan hệ này được thắt chặt bằng Hiệp Định tổng quát năm 2015, liên quan đến đời sống và hoạt động của Giáo Hội trong xã hội Palestine. Trong bối cảnh đó, hai bên đã nhắc đến đóng góp quan trọng của các tín hữu Công Giáo cho sự thăng tiến phẩm giá con người và giúp đỡ những người túng thiếu nhất, đặc biệt trong các lãnh vực giáo dục, y tế và từ thiện”

Tổng thống Abbas đến Roma nhân dịp khánh thành đại sứ quán của Palestine cạnh Tòa Thánh (SD 14-1-2017)

G. Trần Đức Anh OP 

Đức Thánh Cha tố giác chế độ kinh tế gạt bỏ con người

Đức Thánh Cha tố giác chế độ kinh tế gạt bỏ con người

VATICAN. ĐTC Phanxicô mạnh mẽ tố giác chế độ kinh tế gạt bỏ con người vì họ không còn hữu ích theo các tiêu chuẩn lợi nhuận của các xí nghiệp.

Ngài bày tỏ lập trường trên đây trong buổi tiếp kiến sáng 14-1-2017 dành cho 85 tham dự viên quốc tế ”cuộc thảo luận bàn tròn” do Ngân Quỹ hoàn cầu (Globl Foundation) tổ chức tại Roma trong hai ngày 13 và 14-1 vừa qua. Trong số các tham dự viên cũng có ĐHY Pietro Parolin, Quốc vụ khanh Tòa Thánh.

Lên tiếng trong buổi tiếp kiến, sau khi đề cao khẩu hiệu của Ngân Quỹ Hoàn cầu là ”Cùng nhau chúng ta dấn thân cho công ích của hoàn cầu”, ĐTC khẳng định rằng: ”Thật là điều không thể chấp nhận được, vì vô nhân đạo, một chế độ kinh tế thế giới gạt bỏ người nam, người nữ và trẻ em, vì những người này dường như không còn hữu ích theo các tiêu chuẩn lợi nhận của các xí nghiệp và các tổ chức khác. Chính sự gạt bỏ con người như thế là một sự thoái hóa và làm cho bất kỳ chế độ chính trị và kinh tế nào trở nên vô nhân đạo: những người gây ra hoặc cho phép sự gạt bỏ tha nhân – những người tị nạn, các trẻ em bị lạm dụng hoặc bị biến thành nô lệ, những người nghèo chết trên đường vì trời lạnh – thì chính những kẻ ấy trở thành như những chiếc máy vô hồn, họ ngầm chấp nhận nguyên tắc theo đó chính họ, sớm muộn gì cũng sẽ bị gạt bỏ, khi họ không còn hữu ích cho một xã hội đặt thần tiền bạc ở trung tâm”.

ĐTC Phanxicô nhắc lại lập trường của thánh Gioan Phaolô 2 Giáo Hoàng đã từng cảnh giác chống lại nguy cơ lan tràn khắp nơi ý thức hệ duy tư bản, không để ý gì đến hiện tượng gạt con người ra ngoài lề, bóc lột, tha hóa con người, làm ngơ không biết đến bao nhiêu người còn sống trong tình trạng lầm than về vật chất và tinh thần..

Trong bối cảnh đó, ĐTC cũng đề cao bao nhiêu nỗ lực của các cá nhân và các tổ chức tìm cách chữa lành những tai ương do sự hoàn cầu hóa vô trách nhiệm gây ra. Thánh Têrêsa Calcutta là biểu tượng những cố gắng như thế. Mẹ cúi mình trên những người kiệt lực, bị bỏ mặc cho chết trên vỉa hè, nhìn nhận nơi họ phẩm giá Chúa ban… Mẹ đã lên tiếng nói với những kẻ cường quyền trên trái đất để họ nhìn nhận các tội ác nghèo đói do họ gây ra.

ĐTC nhận xét rằng ”đó là thái độ đầu tiên có thể đưa tới sự hoàn cầu hóa tình liên đới và sự sộng tác. Trước tiên, mỗi người đừng dửng dưng đối với những vết thương của người nghèo, nhưng học cách cảm thông với những người đang chịu đau khổ vì bách hại, cô đơn, cưỡng bách di tản hoặc vì gia đình bị phân rẽ, cảm thông với những người không được săn sóc sức khỏe, những người chịu đói, lạnh hoặc nóng”.

Ngân Quỹ hoàn cầu (The Global Foundation) được khởi xướng năm 1998 ở Australia, và lan rộng trên thế giới, trẻ thành một diễn đàn đặc biệt trong đó những người thiện chí và có phương thế họp nhau, trao đổi và giúp đáp ứng những thách đố lớn trên thế giới ngày nay, cổ võ một nền kinh tế thịnh vượng chung.. (SD 14-1-2017)

G. Trần Đức Anh OP 

Đức Hồng y Dolan đọc đoạn sách Khôn ngoan trong lễ nhậm chức của ông Trump

Đức Hồng y Dolan đọc đoạn sách Khôn ngoan trong lễ nhậm chức của ông Trump

Washington – Đức Hồng y Timothy M. Dolan của New York cho biết, đoạn Kinh thánh ngài chọn để đọc trong lễ nhậm chức của tổng thống Donald J. Trump được lấy từ chương 9 sách Khôn ngoan. Đó là lời cầu nguyện của vua Salomon, xin ơn khôn ngoan để lãnh đạo đất nước theo ý Thiên Chúa.

Đức Hồng y Dolan nói với hãng tin Công giáo Hoa kỳ là ngài luôn cầu nguyện điều này và nói đùa rằng Chúa chưa ban cho ngài điều khấn xin.

Đức Hồng y giải thích rằng qua nhiều thế kỷ, lời cầu nguyện của Salomon đã được dâng lên Chúa. Trong lời cầu nguyện, vua Salomon nhận thức rằng Thiên Chúa tạo dựng con người “để cai quản thế giới trong sự thánh thiện và công bình và để xét xử với trái tim ngay thẳng.” Nhà vua tiếp tục cầu xin Chúa ban cho sự khôn ngoan “hằng ngự bên tòa Chúa, và xin đừng đuổi con khỏi các con cái Ngài.”

Vua Salomon cũng khẩn cầu Thiên Chúa ban đức Khôn ngoan “để Người ở cùng và hành động với con, để con có thể biết điều làm đẹp lòng Chúa.” Vua cầu xin để các việc làm của vua sẽ được chấp nhận và vua sẽ phân xử dân Chúa cách chính trực và xứng với ngai vàng của vua cha.

Đức Hồng y Dolan có một phút để đọc lời cầu nguyện này và ngài cho biết một phút là đủ cho ngài. Ngài được yêu cầu gửi lời cầu nguyện mình đã chọn đến cho đội ngũ của ông Trump. Ngài không biết có phải để kiểm soát hay không nhưng đối với ngài điều này là thích hợp.

Đức Hồng y Dolan cùng với 3 vị lãnh đạo các tôn giáo khác sẽ xuất hiện trên bục khi buổi lễ nhậm chức của tổng thống Trump bắt đầu. Ngài cũng biết có những phê bình về việc ngài tham dự vào lễ nhậm chức này và đã nhận được các lời phê bình. Ngài đã trả lời cho những phê bình là nếu bà Hilary Clinton đắc cử và mời ngài, thì ngài cũng sẽ hiện diện như một vinh dự. Đức Hồng y nói thêm: “Chúng tôi là các mục tử và các lãnh đạo tôn giáo trong tổ chức cầu nguyện thánh thiện. Người ta yêu cầu chúng tôi cầu nguyện với họ và cho họ. Điều đó không có nghĩa là chúng tôi vì họ hay chống lại họ. Đó là trách nhiệm thiêng liêng của chúng tôi.”

Đối với Đức Hồng y, lễ nhận chức của một tổng thống mới cũng có thể là cơ hội của hy vọng và canh tân cho đất nước. Ngài nói: “Nhiều người có thể có những nghi ngờ về tổng thống đắc cử và tôi chắc chắn cũng thế, như đối với vị tổng thống sắp tới. Nhưng trong truyền thống vĩ đại của Hoa kỳ, chúng ta nhìn vào thời điểm của vị tổng thống sắp tới như một cơ hội của hy vọng … một cách thế để cho một người một cơ hội và cố gắng để hoàn thành những lời ông ta đã hứa.” (CNS 12/01/2017)

Hồng Thủy