Đức Thánh Cha tiếp kiến các tín hữu hành hương: 7 tháng 10-2015

Đức Thánh Cha tiếp kiến các tín hữu hành hương: 7 tháng 10-2015

ĐTC tiếp kiến chung 07 tháng 10-2015

VATICAN. Trong buổi tiếp kiến chung 60 ngàn tín hữu hành hương sáng ngày 7-10-2015, ĐTC Phanxicô đã nói về tinh thần gia đình và mời gọi các tín hữu cầu nguyện cho Thượng HĐGM.

Đề tài bài huấn dụ trong buổi tiếp kiến là ”Tinh thần gia đình” và đây là bài thứ 28 trong loạt bài huấn giáo của ngài về gia đình.

”Anh chị em thân mến, chào anh chị em

”Từ vài ngày nay đã khai diễn Thượng HĐGM thế giới về đề tài ”Ơn gọi và sứ mạng của gia đình trong Giáo Hội và trong thế giới ngày nay”. Gia đình tiến bước trên con đường của Chúa là điều cơ bản trong việc làm chứng về tình yêu Thiên Chúa và vì thế đáng được Giáo Hội tận tụy quan tâm săn sóc, và Giáo Hội có khả năng làm điều đó. Thượng HĐGM được kêu gọi diễn giải mối quan tâm và sự săn sóc này của Giáo Hội ngày nay. Chúng ta hãy tháp tùng trọn hành trình của Thượng HĐGM, nhất là bằng kinh nguyện và bằng sự chú tâm của chúng ta. Trong thời kỳ này, các bài huấn giáo của chúng ta sẽ là những suy tư lấy hứng từ một số khía cạnh trong tương quan giữa Giáo Hội và gia đình, chúng ta có thể nói tương quan ấy là bất khả phân ly, với chân trời cởi mở đối với thiện ích của toàn thể cộng đoàn nhân loại.

”Khi chăm chú nhìn đời sống thường nhật của con người nam nữ ngày nay, ta thấy ngay một nhu cầu, đó là ở mọi nơi đều cần đưa vào một tinh thần gia đình mạnh mẽ. Thực vậy, những lối quan hệ – về dân sự, kinh tế, pháp lý, nghề nghiệp và về mặt cộng dân, có tính chất hợp lý, chính thức, có tổ chức, nhưng nhiều khi chúng cũng rất khô cằn, vô danh. Nhiều khi các tương quan ấy trở nên không thể chịu nổi. Tuy chúng cũng muốn có tính chất bao gồm, dưới mọi hình thức, nhưng trong thực tế các quan hệ ấy bỏ mặc trong sự cô độc và bị gạt bỏ một số người ngày càng đông đảo.

”Đó là lý do tại sao gia đình mở ra cho toàn thể xã hội một viễn tượng nhân bản hơn; mở mắt con cái về sự sống, và không phải mở cái nhìn mà thôi, nhưng còn mở tất cả các giác quan khác, trình bày một cái nhìn về tương quan nhân bản dựa trên sự giao ước tình yêu tự do. Gia đình dẫn vào nhu cầu cần có những quan hệ chung thủy, thành thật, tín nhiệm, cộng tác, tôn trọng; gia đình khích lệ đề ra dự phóng một thế giới có thể cư ngụ được và tin tưởng nơi các quan hệ tín nhiệm, cả trong những hoàn cảnh khó khăn; gia đình dạy thực thi lời đã hứa, tôn trọng mỗi người, chia sẻ những giới hạn của mình và tha nhân. Và tất cả chúng ta đều ý thức về tính chất không thể thay thế được của sự quan tâm gia đình đối với những phần tử nhỏ bé, dễ bị tổn thương, bị thương tổn nhất, thậm chí những người đãng trí nhất trong cách cư xử của họ. Trong xã hội, ai thực thi những thái độ ấy, họ được thấm nhiễm tinh thần gia đình, không phải tinh thần cạnht rang và ước muốn tự thành đạt.

”Tuy biết tất cả những điều đó, người ta vẫn không dành cho gia đình sự quan tâm cần phải có, một sự nhìn nhận và nâng đỡ trong tổ chức chính trị và kinh tế của xã hội ngày nay. Tôi muốn nói hơn nữa: gia đình không những không được nhìn nhận thích đáng, nhưng không được học hỏi nhiều hơn! Nhiều khi điều ấy có nghĩa là: với tất cả những khoa học và kỹ thuật của mình, xã hội tân tiến ngày nay chưa có khả năng diễn tả những kiến thức ấy trong những hình thức sống chung xã hội tốt đẹp hơn. Không những việc tổ chức đời sống chung ngày càng bị sa lầy trong một thứ bệnh bàn giấy rất xa lạ với những quan hệ cơ bản giữa con người với nhau, nhưng thậm chí phong tục xã hội và chính trị thường cho thấy có những dấu hiệu sa đọa, – gây hấn, thô lỗ, khinh rẻ – ở dưới mức độ một nền giáo dục gia đình tối thiểu nhất. Trong bối cảnh đó, hai thái độ đối nghịch nhau trong quan hệ sa đọa – một bên là thái độ duy kỹ thuật, và bên kia là duy gia đình vô luân – liên kết với nhau và nuôi dưỡng nhau. Đó thực là một điều nghịch lý mâu thuẫn.

”Ngày nay, về điểm này, Giáo Hội xác định ý nghĩa lịch sử sứ mạng của mình, về gia đình và tinh thần gia đình chân chính: bắt đầu từ sự quan tâm kiểm điểm cuộc sống, liên quan đến chính mình. Ta có thể nói rằng tinh thần gia đình là một hiến pháp đối với Giáo Hội; Kitô giáo phải xuất hiện và phải hiện hữu như thế. Kinh thánh đã viết rõ ràng: ”Anh chị em không còn là những người xa lạ hoặc khách trọ, nhưng là đồng bào của các thánh và là người nhà của Thiên Chúa” (Ep 2,19). Giáo Hội đang và phải là gia đình của Thiên Chúa.

 ”Chúa Giêsu, khi gọi Phêrô đi theo Ngài, đã nói với ông là Ngài sẽ làm cho ông trở thành ”ngư phủ đánh cá người”; và vì thế Ngài muốn có một thứ lưới mới. Ngày nay chúng ta có thể nói rằng các gia đình là một trong những lưới quan trọng nhất đối với sứ mạng của Phêrô và Giáo Hội. Đó không phải là lưới làm cho ta trở thành tù nhân bị ràng buộc. Trái lại lưới ấy giải thoát khỏi những vùng biển xấu xa của sự bỏ rơi và dửng dưng, làm cho nhiều người chết đuối trong biển cô đơn và lãnh đạm. Gia đình biết rõ thế nào là phẩm giá được cảm thấy mình là con cái chứ không phải là nô lệ hoặc là người xa la, hay chỉ là một con số trên thẻ căn cước.

”Chính từ đó, từ gia đình, Chúa Giêsu tái bắt đầu tiến qua con người để thuyết phục họ rằng Thiên Chúa không quên họ. Từ đó Phêrô kín múc sức mạnh cho sứ vụ của Ngài. Từ đó, Giáo Hội, tuân theo lời Thầy chí thánh, ra khơi thả lưới, xác tín rằng nếu điều này xảy ra, vì sẽ có mẻ cá lạ lùng. Ước gì lòng nhiệt thành của các nghị phụ thượng HĐGM, được Thánh Thần linh hoạt, nuôi dưỡng đà tiến của một Giáo Hội từ bỏ những lưới củ kỹ và bắt đầu đánh cá tín thác nơi Lời Chúa. Chúng ta hãy sốt sắng cầu nguyện cho ý nguyện đó! Chúa Kitô đã hứa và khích lệ chúng ta: nếu những người cha xấu tính vẫn không từ chối bánh cho con cái mình đang đói, thì chúng ta tưởng tượng xem, Thiên Chúa chẳng lẽ không ban Thánh Thần của Ngài cho những người nồng nhiệt xin ngài, dù họ là người bất toàn sao!

Sau khi ĐTC hết thúc bài giáo lý dài bằng tiếng Ý, các LM đã tóm lược bài này bằng nhiều sinh ngữ khác kèm theo những lời chào thăm của ĐTC.

Sau cùng, bằng tiếng Ý, ĐTC nồng nhiệt cám ơn Đức TGM Vincenzo Paglia, chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh về gia đình, và các cộng sự viên đã dấn thân tổ chức Đại hội kỳ 8 của các gia đình Công giáo thế giới mới đây tại thành phố Philadelphia Hoa Kỳ. Ngài cũng nhắc đến các tham dự viên khóa bồi dưỡng do dòng Ngôi Lời tổ chức. ĐTC không quên các bạn trẻ, các đôi vợ chồng mới cưới và các bệnh nhân, ngài xin sức mạnh của Mẹ Maria dưới chân thánh giá nâng đỡ họ trong những lúc khó khăn nhất.

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Thiên Chúa muốn các vị sứ giả của Ngài phải có lòng thương xót

Thiên Chúa muốn các vị sứ giả của Ngài phải có lòng thương xót

ĐTC tại nhà nguyện Martha

Chúng ta hãy cảnh giác đừng để trái tim ra chai đá, vì như thế tình thương xót của Thiên Chúa không để đi vào. Đây là điều được Đức Thánh Cha nói đến trong thánh lễ sáng nay tại nhà nguyện thánh Marta, trước khi ngài tham dự Thượng Hội Đồng nhóm họp tại Hội Trường Thượng Hội Đồng Giám Mục Vatican. Đức Thánh Cha cũng nói thêm đừng cưỡng lại lòng thương xót của Thiên Chúa, vì lòng thương xót ấy quan trọng hơn những suy nghĩ của chúng ta, quan trọng hơn hàng tá điều răn mà chúng ta phải tuân giữ.

Đức Thánh Cha đã triển khai bài giảng của ngài từ Bài Đọc Một, trích sách Giô-na. Tiên tri Giô-na đã cưỡng lại ý muốn của Thiên Chúa, nhưng cuối cùng ông đã học để biết thế nào là vâng phục. Ni-ni-vê là một thành phố cực kỳ rộng lớn và dân chúng trong thành đã biết hoán cải nhờ lời công bố của Giô-na. Đức Thánh Cha nói: “Thực sự đã có một phép lạ xảy ra, vì Giô-na đã từ bỏ được sự cứng lòng và vâng phục ý Chúa. Ông đi và thực hiện điều Thiên Chúa đã truyền dạy cho ông.”

Dân thành Ni-ni-vê cũng đã ăn năn hoán cải. Nhưng đứng trước sự hoán cải này, Giô-na – người “không ngoan ngoãn vâng nghe Thần Khí” – đã nổi giận: “Ông  Giô-na bực mình, bực lắm và ông nổi giận.” Đức Thánh Cha nói: “Thậm chí, ông còn trách mắng Thiên Chúa.”

Lòng thương xót của Thiên Chúa không thể đi vào một con tim chai đá

Đức Thánh Cha nói, chuyện xảy giữa tiên tri Giô-na và thành Ni-ni-vê được chia thành ba phần. Phần một, tiên tri Giô-na chống lại sứ mạng Thiên Chúa ủy thác cho ông. Phần hai là sự vâng phục, và khi ông vâng phục, phép lạ xảy ra: dân thành Ni-ni-vê đã hoán cải. Trong phần ba, tiên tri Giô-na, một lần nữa, cưỡng lại lòng thương xót của Thiên Chúa. Ông đã nói với Thiên Chúa rằng: “Ôi, lạy Đức Chúa, đó chẳng phải là điều con đã nói khi còn ở quê nhà sao? Con đã làm tất cả những gì có thể để công bố cho dân thành Ni-ni-vê lời tuyên cáo của Chúa. Con đã hoàn thành việc đó thật tốt đẹp. Nhưng tại sao Ngài lại là một Thiên Chúa từ bi nhân hậu, chậm giận và giàu tình thương? Tại sao Ngài lại hối tiếc và tha thứ cho thành ấy?” Như vậy, tiên tri Giô-na thực sự không thấu hiểu được lòng thương xót của chúa. Đức Thánh Cha nói, một trái tim với sự cứng cỏi, chai đá như thế sẽ không để cho lòng thương xót của Thiên Chúa đi vào.

Người ta cũng không hiểu được lòng thương xót của Đức Giêsu

Những Tiến Sỹ Luật khổng hiểu tại sao Đức Giêsu lại bênh vực người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình và không để chị bị ném đá cho đến chết. Họ cũng không hiểu tại sao Ngài lại đến dùng bữa với những người thu thuế và quân tội lỗi. Họ không hiểu được. Nói khác đi, họ thật sự không thể hiểu được lòng thương xót: “Ngài là Thiên Chúa từ bi nhân hậu, chậm giận và giàu tình thương”. Đức Thánh Cha nói thêm: “Thánh Vịnh mà chúng ta đã cùng cầu nguyện với nhau ngày hôm nay nhắc nhở chúng ta rằng chúng ta hãy kiễn nhẫn chờ đợi Thiên Chúa vì Ngài là Đấng giàu lòng thương xót, nơi Ngài luôn chứa chan hồng ân cứu độ.”

Không hề có những sứ giả cứng đầu, bướng bỉnh; Thiên Chúa mời gọi chúng ta biết xót thương

Đức Thánh Cha kết luận rằng: “Ở đâu có Thiên Chúa, ở đấy có tình xót thương”. Và thánh Ambrogio nói thêm: ‘Ở đâu có những sứ giả, ở đó có sự cứng đầu, bướng bỉnh.’ Chính sự bướng bỉnh này dẫn tới việc không vâng lời trong sứ mạng, và vì thế thách thức lòng thương xót.  

Cuối cùng, Đức Thánh Cha nhắn nhủ: “Năm Thánh Kính Lòng Thương Xót Chúa đã gần kề, chúng ta hãy cầu xin Thiên Chúa giúp chúng ta thấu hiểu được trái tim của Chúa và ý nghĩa của “lòng xót thương” là gì. Đặc biệt, Thiên Chúa có ý gì khi nói: ‘Ta muốn lòng nhân chứ không cần lễ tế.’ Trong lời nguyện Nhập Lễ, chúng ta đã cầu nguyện nhiều với một câu rất đẹp: ‘Xin tuôn đổ trên chúng con lòng thương xót của Chúa.’ Như thế, chúng ta chỉ hiểu lòng thương xót của Thiên Chúa một khi lòng thương xót ấy tuôn đổ tràn trề trên chúng ta, trên tội lỗi của chúng ta và trên những đau khổ của chúng ta…” (SD 06-10-2015).

Anh Phương – Vatican Radio

Vô Gia Đình – Hector Malot – Hà Mai Anh dịch

Vô Gia Đình – Hector Malot – Hà Mai Anh dịch
PHẦN THỨ NHẤT
CHƯƠNG I
LÀNG TÔI

VoGiaDinh

 


Tôi là một đứa trẻ bỏ rơi.
Nhưng cho đến năm lên tám, tôi vẫn tưởng tôi có một người mẹ như những đứa trẻ khác, vì lúc nào tôi khóc thì lại có một bà đến ôm ấp, dỗ dành cho tôi nín.
Không bao giờ tôi đi ngủ lại không có bà đến vuốt ve tôi. Về mùa đông, khi gió gieo tuyết vào cửa kính trắng xóa, bà kéo chân tôi ủ vào hai bàn tay bà và ru tôi. Đến bây giờ tôi vẫn còn nhớ giọng hát và câu hát của bà.
Khi tôi chăn bò trên những con đường cỏ xanh hay ở bãi hoang mà chợt gặp mưa to, bà vội vã chạy ra đón, kéo vạt áo che đầu cho tôi và đưa tôi về.
Khi tôi cãi nhau với một đứa trẻ khác, bà bảo tôi kể lại cho bà nghe rồi bà tìm lời ngọt dỗ tôi và bao giờ cũng cho tôi là phải.

Vô Gia Đình

Ngày cuối cùng tại New York và sáng đầu tiên tại Philadelphia

Ngày cuối cùng tại New York và sáng đầu tiên tại Philadelphia

Pope at Peter and Paul church in Philadelphia

Tường thuật ngày cuối ĐTC viếng thăm New York và sáng ngày đầu tiên tại Philadelphia

Sáng thứ bẩy 26 tháng 9 ĐTC bắt đầu chặng thứ ba trong chuyến công du Hoa Kỳ đó là viếng thăm tổng giáo phận Phialadelphia và tham dự cuộc gặp gỡ quốc tế các gia đình lần thứ 8.

Sau đây xin kính mời quý vị cùng chúng tôi theo dõi các sinh hoạt cuối cùng của ĐTC tại New York và sáng thứ bẩy tại Philadelphia.

Tại New York sau khi phát biểu trước Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc, lúc 11 giờ sáng thứ sáu 25 tháng 9 ĐTC đã đến thăm đài tưởng niệm Ground Zero, là nền cũ của Tháp Song Sinh, đã bị khủng bố, cháy và sập ngày 11 tháng 9 năm 2001. 

Sáng ngày 11 tháng 9 năm 2001 lúc 8 giờ 48 phút chiếc American Airline 11 đã đâm vào ngọn tháp phiá bắc. Rồi vào lúc 9 giờ 3 phút chiếc máy bay United Airline 175 đâm vào tháp phía nam. Vì sức nóng kinh khủng của xăng cháy, cấu trúc bằng thép của hai tháp sụp đổ làm cho vài dinh thự khác của Trung Tâm Thương Mại cũng bị sập theo, khiến cho 2.896 người bị thiệt mạng.  Đây là số nạn nhân bị thiệt mạng cao nhất trong lịch sử các tai họa chết người tại  Hoa Kỳ. Năm 2002 đã có cuộc thi tái thiết Tháp Song Sinh và kiến trúc sư Daniel Libensky đã thắng với dự án “Trung tâm thương mại mới”.

Công viên tưởng niệm rộng 33.000 mét vuông, gồm một đám rừng nhỏ có trồng 400 cây sồi trắng và hai thác nước nhân tạo lớn nhất Hoa Kỳ cung cấp nước cho hai hồ mỗi hồ rộng 4.000 mét vuông. Hai hồ này là dấu vết nền cũ của Tháp Song Sinh, có song chắn bằng đồng chung quanh, bên trên khắc tên của tất cả các nạn nhân của hai vụ khủng bố ngày 26 tháng 2 năm 1993, và vụ khủng bố Tháp Song Sinh ngày 11 tháng 9 năm 2001. Bên trong lòng của khu tưởng niệm có một viện bảo tàng trưng bầy hình ảnh và vết tích của các biến cố thê thảm ấy.

Tại đây lúc 11 giờ rưỡi sáng 25  tháng 9 đã diễn ra buổi cầu nguyện đại kết, với sự tham dự của các đại diện Ấn giáo, Phật giáo, đạo Sihk, Jain, Thổ dân, Do thái, Hồi giáo, và các Giáo Hội Kitô khác tại New York.

Xe chở ĐTC đã dừng gần phông ten nước phía nam, nơi ĐTC đã cùng với ĐHY Dolan đặt một vòng hoa tưởng niệm các nạn nhân và chào 20 thân nhân của các nhân viên cấp cứu bị thiệt mạng. Sau đó hai vị đi vào bên trong Đài Tưởng Niệm, lấy thang máy lên lầu 4 có phòng khánh tiết. ĐTC bước lên bục nơi đã có 12 vị lãnh đạo các Giáo Hội Kitô và các tôn giáo khác chờ sẵn. Có vài trăm người tham dự buổi tưởng niệm đại kết này. ĐHY Dolan đã chào mừng và cám ơn sự hiện diện của mọi người. Ngài nói “người dân New York chúng con là những kẻ tội lỗi có nhiều thói xấu và phạm nhiều lỗi lầm, nhưng có một điều đã biết làm tốt: đó là xây dựng tình bạn chân thành và phong phú giữa các tôn giáo. Các vị lãnh đạo tôn giáo cùng nhau gặp gỡ, làm việc, cầu nguyện và phục vụ các tín hữu và thành phố.”

Tiếp đến là lời cầu nguyện của Rabbi Elliot Cosgrove, trưởng hội đường Do thái, và Imam Khalid Latif, tuyên úy Hồi giáo đại học New York. Rabbi Elliot nói: Tại nơi bạo lực đã bị vi phạm một cách sai lạc nhân danh Thiên Chúa các đại diện tôn giáo thế giới tụ họp để cống hiến các lời an ủi và cầu nguyện, để nhớ tới các nạn nhân vụ khủng bố ngày 11 tháng 9 với tình yêu thương trìu mến và cầu nguyện cho linh hồn họ. Imam Latif nói: Những người tấn công nơi này lòng tràn đầy bất khoan nhượng và không biểu biết. Lòng can đảm của buổi tụ họp nhau hôm nay khiên cho chúng ta khác với những người chống lại tự do tôn giáo vì chúng ta cùng nhau đứng đây như anh em để lên án các hành động kinh khủng cùa bạo lực và vinh danh từng sự sống đã mất đi một cách vô điều kiện như vậy. Như chúng ta đọc trong sách Coran: “Mỗi sự sống mất đi giống như toàn nhân loại mất đi” và “mỗi sự sống được cứu giống như toàn nhân loại được cứu”. Đối với Thiên Chúa mọi sự sống đều thánh thiêng và quý báu. Nơi đâu những người khác thất bại, thì chúng ta hãy là những người nhắc nhớ ý niệm sự tạo dựng này của Ngài.

Rồi ĐTC đọc lời nguyện: xin Thiên Chúa của tình yêu, lòng thương cảm và hoà giải, trong sự nhân lành của Ngài, ban ánh sáng và hòa bình vĩnh cửu cho tất cả những người đã chết tại nơi đây… tất cả mọi người nam nữ vô tội, nạn nhân của thảm cảnh này, chỉ vì công việc và bổn phận của họ đã đưa họ tới đây ngày 11 tháng 9 năm 2001. ĐTC cũng xin Chúa chữa lành những người đau khổ vì các thương tích và bệnh tật, cũng như nỗi khổ đau của các gia đình còn đang thương khóc vì đã mất người thân.. Xin Chúa ban cho họ sức mạnh tiếp tục sống với lòng can đảm và hy vọng. Tiếp tục lời cầu nguyện ĐTC cũng nhớ đến những người đã chết hay bị thương, và những người đã mất người thân trong cùng ngày tại Ngũ Giác Đài và tại Shanksville bên Pennsylvania. Ngài nói tiếp trong lời nguyện: “Lạy Thiên Chúa của hòa bình, xin đem Hoà Bình của Chúa đến trong thế giới bạo lực của chúng con; hòa bình trong các con tim của mọi người nam nữ, hòa bình giữa các quốc gia của trái đất. Xin Chúa dẫn những người có tâm trí bị thù hận soi mòn về Con đường tình yêu của Chúa. Lậy Thiên  Chúa của sự hiểu biết, bị đè nén bởi chiều kích lớn lao của thảm cảnh này, chúng con tìm ánh sáng và sự hướng dẫn của Chúa, trong khi chúng con đang đứng trước các biến cố kinh khủng như thế. Xin ban cho những người còn sống có thể sống làm sao để các mạng sống đã bị mất không mất đi một cách vô ích. Xin Chúa củng cố và an ủi chúng con, xin Chúa củng cố chúng con trong hy vọng, và ban cho chúng con sự khôn ngoan và lòng can đảm làm việc không biết mỏi mệt cho một thế giới, trong đó hoà bình và tinh yêu chân chính ngự trị giữa các quốc gia và trong con tim của mọi người”.

Lễ tưởng niệm tiếp tục với các lời suy niệm và cầu nguyện cho Hoà Bình của các đại diện Ấn giáo, Phật giáo, đạo Sikh, Kitô và Hồi giáo và các tôn giáo khác, rồi có lời cầu bằng tiếng Do thái cho các nạn nhân.

Nước mắt khóc thương mọi nạn nhân của bạo lực, tàn phá bất công trên toàn thế giới

Ngỏ lời trong dịp này bằng tiếng Tây Ban Nha, sau khi bầy tỏ các tâm tình và xúc động khi đứng tại nơi hàng ngàn người đã bị cướp mất mạng sống trong một khoảnh khắc của tàn phá vô nghĩa, và khi nhìn dòng nước chảy tại đài tưởng niệm, ĐTC nói:

Nước mà chúng ta thấy chảy về trung tâm trống rỗng, nhắc cho chúng ta nhớ tới tất cả các mạng sống đã ở dưới quyền lực của những người tin rằng sự tàn phá là phương thế duy nhất để giải quyết các xung khắc. Đó là tiếng kêu thầm lặng của những người đã khổ đau trong thịt xác mình vì cái luận lý của bạo lực, thù hận và báo oán. Một thứ luận lý chỉ có thể sản xuất ra khổ đau, tàn phá và nước mắt. Nước chảy xuống cũng biểu tượng cho nước mắt chúng ta. Nước mắt vì các tàn phá của ngày hôm qua kết hiệp với biết bao tàn phá của ngày hôm nay. Đây là nơi, trong đó chúng ta khóc, chúng ta khóc nỗi đớn đau vì cảm thấy bất lực trước bất công, trước cảnh anh em giết nhau, trước việc không có khả năng giải quyết các khác biệt bằng đối thoại. Tại nơi này chúng ta khóc vì những người vô tội bị mất mạng cách bất công và nhưng không, vì không thể tìm ra các giải pháp cho công ích. Đó là nước nhắc cho chúng ta nhớ tiếng khóc của hôm qua và của hôm nay.

ĐTC nói tiếp trong bài phát biểu : Ở đây giữa khổ đau xé lòng, chúng ta có thể sờ mó được với bàn tay khả năng của lòng tốt anh hùng, mà con người có thể có ; nó là sức mạnh dấu ẩn mà chúng ta luôn phải kêu gọi. Trong lúc khổ đau nhất anh chị em đã là chứng nhân của những cử chỉ tận hiến và trợ giúp vĩ đại nhất. Các bàn tay giơ ra, các mạng sống hiến dâng. Trong một thành phố lớn xem ra không cá tánh, vô danh, cô đơn, anh chị em đã có khả năng cho thấy tình liên đới mạnh mẽ của sự tương trợ lẫn nhau, của tình yêu và của hy sinh cá nhân. Trong lúc này đã không có vấn đề dòng máu, nguồn gốc, khu phố, tôn giáo hay lựa chọn chính trị ; nhưng đã là vấn đề của tình liên đới, của sự cấp thiết, của tình huynh đệ. Nó đã là vấn đề nhân đạo. Các nhân viên cứu hỏa New York đã vào hai tháp đang sập, mà không chú ý tới mạng sống của họ. Nhiều người đã ngã gục trong khi phục vụ, và với hy sinh của họ họ đã cứu mạng sống của biết bao nhiêu người khác.

Nơi chết chóc này cũng biến thành một nơi của sự sống, của các mạng sống được cứu vớt, một bài ca đem chúng ta tới chỗ khẳng định rằng sự sống luôn luôn được chỉ định chiến thắng các ngôn sứ của huỷ diệt, của cái chết, rằng sự thiện sẽ luôn luôn thắng sự dữ, rằng sự hòa giải và hiệp nhất sẽ chiến thắng thù hận và chia rẽ.

 Tại nơi của khổ đau và tưởng nhớ này, cơ may kết hiệp với các vị lãnh đạo đại diện cho nhiều tôn giáo làm giầu cho thành phố này, khiến cho tôi tràn đầy hy vọng. Tôi hy  vọng rằng sự hiện diện của chúng ta tại đây là một đấu chỉ mạnh mẽ ý chí của chúng ta chia sẻ và tái khẳng định ước muốn là các sức mạnh của sự hoà giải, các sức mạnh của hòa bình và công lý trong cộng đoàn này và tại khắp nơi trên thế giới. Trong các khác biệt, trong các bất đồng có thể sống trong một thế giới hòa bình. Trước mỗi mưu toan đồng nhất hóa chúng ta có thể và cần hiệp nhất với nhau giữa các tiếng nói, các nền văn hóa, tôn giáo khác nhau và trao ban tiếng nói cho tất cả những gì muốn ngăn cản nó. Hôm nay chúng ta cùng nhau được mời gọi  nói « không » với mọi mưu toan đồng nhất hóa, và nói « có » với một sự khác biệt được chấp nhận và hòa giải.

Vì mục đích này chúng ta cần loại trừ các tâm tình thù ghét, báo thù, oán hận. Và chúng ta biết rằng điều này chỉ có thể như một ơn của trời. Ở đây, tại nơi tưởng niệm này, mỗi người trong cách thức riêng của mình, nhưng cùng nhau. Tôi xin đề nghị với quý vị giữ một lúc thinh lặng và cầu nguyện. Chúng ta xin trời ơn dấn thân cho lý tưởng của hòa bình. Hoà bình trong các nhà, hòa bình trong các gia đình, trong các trường học, trong các cộng đoàn của chúng ta. Hoà bình tại các nơi chiến tranh xem ra không chấm dứt. Hoà bình trên các gương mặt đã không biết tới gì khác ngoài khổ đau. Hoà bình trong thế giới rộng rãi này mà Thiên  Chúa đã ban cho chúng ta như là nhà của tất cả mọi người và cho tất cả mọi người. Chỉ có hòa bình thôi.

ĐTC và mọi người đã thinh lặng cầu nguyện.

Rồi ngài kết luận : Như thế cuộc sống của các người thân yêu của chúng ta sẽ không phải là một cuộc sống kết thúc trong quên lãng, nhưng sẽ hiện diện mỗi lần chúng ta chiến đấu để là ngôn sứ của sự tái thiết, ngôn sứ của sự hòa giải, ngôn sứ của hòa bình.

Tiếp đến các thành viên ca đoàn thiếu nhi và bạn trẻ thuộc nhiều nước khác nhau đã lên đứng vây quanh khán đài, nắm tay nhau hát thánh ca hoà bình. Mọi người được mời gọi trao ban bình an cho nhau. Các đại diện tôn giáo được tặng mỗi người một huy hiệu chuyến viếng thăm của ĐTC.

Sau khi chào tữ giã ĐTC đã vào thăm viện bảo tàng, nơi trưng bầy các hình ảnh và nhiều chứng tích của cuộc khủng bố.

Lúc 12 giờ 30 ĐTC đã trở về khu vực dành cho Quan sát viên thường trực của Tòa Thánh cạnh Liên Hiệp Quốc cách đó 2 cây số để dùng bữa trưa và nghỉ ngơi chốc lát, trưóc khi tiếp tục các sinh hoạt khác vào ban chiều.

Lúc 6 giờ chiều giờ New York, ĐTC đã đến thăm trường « Đức Bà Nữ Vương các thánh Thiên Thẩn” cách đó 4 cây số rưỡi, gặp gỡ các trẻ em và gia đình các người di cư. Trường học này tọa lạc trong khu phố Brooklyn. Tên gọi Brooklyn đến từ tiếng Hoà Lan « Breuckelen » là tên ngôi làng người di dân gốc Hoà Lan đã thành lập năm 1624. Với 2,5 triệu người Brooklyn là khu phố đông dân cư nhất trong 4 khu phố tại New York. Năm 1898 nó được gắn liền với New York nhưng vẫn tiếp tục duy trì căn tính riêng. Là nơi cập bến của người di cư, nó gồm các cộng đoàn thuần nhất theo chủng tộc và tôn giáo. Tại Brooklym có cây cầu nổi tiếng nối liền Brooklyn với Manhattan xây năm 1883, và Viện bảo tàng xây năm 1897, là một trong các viện bảo tàng lớn nhất Hoa Kỳ với hơn 1,5 triệu tác phẩm nghệ thuật thuộc các nưóc từ Ai cập cho tới các tác phẩm ngày nay.

Giáo phận Brooklyn được thành lập năm 1853 có  hơn 1,4 triệu tín hữu công giáo trên gần 4,9 triệu dân, gồm 187 giáo xứ, 437 linh mục giáo phận, 167 linh mục dòng, 284 tu huynh, 769 nữ tu, 225 phó tế vĩnh viễn, 57 đại chủng sinh. Giáo phận diều khiển 203 cơ cấu giáo dục và 277 trung tâm bác ái.

Trường Đức Bà Nữ Vương các thánh Thiên Thần là một trưởng tiểu học có 282 học sinh tuổi từ 5 tới 14, trong đó 69% có học bổng. Các trẻ em là con các gia đình di cư có lợi tức thấp 69% đến từ châu Mỹ Latinh, các gia đình khác đến từ Phi châu và Trung Đông, 22% là người Mỹ gốc Phi châu. Trường này là một trong số 6 trường do tổng giáo phận New York điều hành với tổng cộng 2,100 học sinh, trong đó có ¼ không nói tiếng Anh.

Trưởng học là đại gia đình cho tất cả mọi người

ĐTC đã được bà giám đốc trường tiếp đón tại cửa hông của trường. Bà đã tháp tùng ĐTC vào trong phòng thể thao thể dục nơi diễn ra cuộc gặp gỡ.

Ngỏ lời với các em, ĐTC bầy tỏ sự hài lòng được ở với các em như trong một gia đình. Ngài đặc biệt xin lỗi các giáo chức vì đã lấy  ít phút giờ học. Các em thuộc các gia đình đến từ các nước khác. Cả khi không dễ mà tìm được nhà mới, các bạn bè và láng giềng mới và cuộc sống bắt đầu với nhiều vất vả : học tiếng mới, thích hợp với một nền văn hóa mới, khí hậu mới. Phải học biết bao nhiêu điều chứ không phải chỉ có bài tập của trường học. Nhưng có điều đẹp đó là các em cũng gặp các bạn mới, các người mở rộng cửa tiếp đón và cho thấy sự dịu hiền, tình bạn, sự cảm thông, và họ tìm giúp đỡ chúng ta để chúng ta không cảm thấy xa lạ. Trong cách thế đó trường học trở thành một đại gia đình cho tất cả mọi người, nơi chúng ta học giúp đỡ nhau cùng với cha me, ông bà, các nhà giáo dục, thầy dậy và bạn bè, học chia sẻ những gì là tốt lành nơi từng người, cho đi cái tốt nhất của mình, làm việc theo nhóm và kiên trì trong các mục đích. ĐTC nhắc đến một nhân vật có ảnh hưởng lớn trên xã hội Hoa Kỳ như sau :

Bên cạnh đây có một con đường rất quan trọng với tên của một người đã làm biết bao điều tốt lành cho tha nhân, mà cha muốn cùng tưởng niệm với các con. Cha muốn nói đến Mục sư Martin Luther King. Một ngày kia ngài đã nói : « Tôi có một giấc mơ » Ngài đã  mơ rằng biết bao nhiêu trẻ em, biết bao nhiêu người có được sự bình đẳng và cơ may. Ngài đã mơ rằng biết bao trẻ em như các con được giáo dục. Thật là đẹp có các giấc mơ và chiến đấu cho các giấc mơ đó.

Hôm nay chúng ta muốn tiếp tục mơ và chúng ta mừng tất cả các cơ may cho phép các con cũng như người lớn  không đánh mất đi niềm hy vong vào một thế giới tốt đẹp hơn với nhiều khả thể hơn. Cha biết rằng một trong các giấc mơ của cha mẹ các con là các con có thể lớn lên trong tươi vui. Thật luôn luôn là điều đẹp, trông thấy một trẻ em cười. Ở đây người ta thấy là các con tươi cười : hãy tiếp tục như thế, và hãy giúp làm cho niềm vui lây lan tới mọi người sống chúng quanh các con.

Các trẻ em thân mến, các con có quyền mơ, và cha rất vui mừng vì các con có thể tìm thấy trong ngôi trường này, nơi các bạn bè và các thầy dậy của các con sự nâng đỡ cần thiết để làm điều ấy. Nơi đâu có các giấc mơ, nơi đó có niềm vui, nơi đó luôn có Chúa Giêsu. Bởi vì Chúa Giêsu là niềm vui, và muốn giúp chúng ta để cho niềm vui ấy kéo dài mọi ngày.

Trước khi từ biệt các con cha muốn cho các con một bài tập về làm ở nhà, có được không ? Đó là một lời xin đơn sơ nhưng rất quan trọng : các con đừng quên cầu nguyện cho cha, để cha có thể chia sẻ với biết bao nhiêu người khác niềm vui của Chúa Giêsu. Và chúng ta cũng cầu nguyện để nhiều người có thể nếm hưởng niềm vui mà các con có.

Xin Thiên Chúa chúc lành cho các con và xin Đức Trinh Nữ che chở các con.

ĐTC dã tặng cho trường Đức Bà Nữ Vương các thánh Thiên Thần Harlem một bức tượng bằng gỗ Đức Mẹ bồng Chúa Hài Nhi, do các điêu khắc gia vùng Trentino đông bắc Italia tạc. Sau đó ngài đi ra phiá trước trưòng để chào giới phụ huynh và dân chúng trong khu phố.

Lúc 17 giở 15 phút chiều 25 tháng 9 ĐTC dã đi xe đến Madison Square Garden cách đó 9 cây số để chủ sự thánh lễ cho tín hữu tổng giáo phận New York. Madison Square Garden là sân vận động xây năm 1968 và tái thiết năm 1991, có 20,000 chỗ ngồi, nơi diễn ra các cuộc tranh tài thể thao thể dục, hoà nhạc, các hội nghị và các đại hội của hai đảng Cộng Hoà và Dân Chủ Mỹ.

Thiên Chúa đông hành với con người trong mọi môi trường sống và muốn soi sáng khắp nơi

Thánh lễ cầu nguyện cho hoà bình và công lý đã được cử hành bằng ba thứ tiếng Latinh, Anh và Tây Ban Nha. Các lời nguyện giáo dân được đọc bằng các thứ tiếng Gaelico, Ba Lan, Đức, Tigrino và Ý.

Giảng trong thánh lễ ĐTC đã quảng diễn ý nghĩa các bài đọc trích từ chương 9 sách ngôn sứ Isaia nói rằng: « Dân tộc bước đi trong tối tăm đã nhìn thấy một ánh sáng lớn » (Is 9,1)

Chúng ta đang ở trong sân vận động Madison Square Garden, là nơi biểu tượng của thành phố này, là trụ sở của các cuộc gặp gỡ thể thao, nghệ thuật, âm nhạc, tụ họp người của nhiều nơi, không phải chỉ là của thành phố mà của toàn thế giới. Dân bước đi giữa các sinh hoạt, các lo lắng thường nhật của mình, dân bước đi mang nặng các thành công và các  lầm lỗi, các sợ hãi và các cơ may, các niềm vui và niềm hy vọng, cũng như các thất vọng và cay đắng của mình đã trông thấy một ánh sáng lớn.

Trong mọi thời đại dân Thiên Chúa đưọc mời gọi chiêm ngưỡng ánh sáng đó, ánh sáng muốn chiếu soi mọi quốc gia, muốn đến trong mọi góc của thành phố này, với mọi công dân, mọi không gian của cuộc sống. Một trong các đặc thái của Dân có niềm tin là khả năng trông thấy, chiêm ngưỡng giữa các tối tăm của mình, ánh sáng mà Chúa Kitô đem đến. Dân có niềm tin biết nhìn, phân định và chiêm ngắm sự hiện diện sống động của Thiên Chúa giữa cuộc đời mình, giữa thành phố của mình. Sống trong một thành phố lớn có nhiều phức tạp, với một môi trường đa văn hóa và các thách đố lớn không đễ giải quyết. Các thành phố lớn nhắc cho chúng ta biết sự phong phú ẩn dấu trong thế giới chúng ta là các nền văn hóa, các truyền thống và lịch sử khác nhau, các tiếng nói, cách ăn mặc khác nhau. Các thành phố lớn diễn tả sự da diện của các cung cách sống và hành xử của chúng ta. Nhưng các thành phố lớn cũng che dấu gương mặt của biết bao nhiêu người bị coi như công dân hạng hai. Giữa các tiếng di chuyển  ồn ào, trong tiết nhịp các thay đổi cũng bị che dấu các tiếng nói của biết bao nhiêu gương mặt không có quyền công dân, không có quyền là thành phần của thành phố -- các người nước ngoài, con cái họ không được học hành, các người không đuợc săn sóc sức khỏe, các người vô gia cư, các người già cô đơn, bị ở bên lề các đường đi của chúng ta, trong một sự vô danh ầm ĩ. Họ bưóc vào trong một cảnh tượng thành thị từ từ trở thành tự nhiên trước mắt và đặc biệt là trong tim chúng ta. Tuy nhiên, trong mọi trạng huống đó vẫn có Chúa đồng hành với chúng ta. ĐTC nói :

Biết rằng Chúa Giêsu tiếp tục bước đi trên các con đường của anh chị em, trà trộn với dân Ngài môt cách sống động, để cho mình bị liện lụy và lôi cuốn con người vào trong một lịch sử cứu độ duy nhất khiến cho chúng ta tràn đầy hy vọng, một niềm hy vọng giải thoát chúng ta khỏi sức mạnh thúc dẩy chúng ta cô lập hóa mình và không biết đến cuộc sống của người khác, cuộc sống của thành phố. Một niềm hy vọng giải thoát chúng ta khỏi các liên lạc trống rỗng, các phân tích trừu tượng, hay nhu cầu có các cảm xúc mạnh. Một niềm hy vọng không sợ hãi tháp nhập vào và hành động như men trong những nơi bạn phải chung đụng và sống. Một niềm hy vọng mời gọi chúng ta nhìn giữa « khói mù ô nhiễm » sự hiện diện của Thiên Chúa là Đấng tiếp tục bước đi trong các thành phố của  chúng ta.

Ngôn sứ Isaia giới thiệu Chúa Giêsu với chúng ta như « Cố vấn kỳ diệu, Thiên Chúa quyền năng, Cha muôn thuở, Hoàng tử của hoà bình » (Is 9,5). Với những nguời hỏi cho biết họ phải làm gì, câu trả lời đầu tiên của Chúa Giêsu là đề nghị, khích lệ và động viên. Ngài luôn luôn đề nghị các môn đệ ra đi, và thúc đầy họ ra đi gặp gỡ những người khác tại những nơi họ sống, ra đi không sợ hãi, không nhờm gớm, ra đi loan báo niềm vui cho mọi dân tộc. Và nơi Chúa Giêsu, Thiên Chúa trở thành Emmamuel luôn đi bên cạnh chúng ta, trà trộn với chúng ta trong nhà của chúng ta. Không ai và không có gì có thể tách rời chúng ta khỏi Ngài. Ra đi loan báo Thiên Chúa là Cha luôn chờ đón chúng ta để ôm chúng ta vào lòng. Đi tới với những người khác để chia sẻ tin vui Thiên Chuá là Cha, đồng hành với chúng ta và giải thoát chúng ta khỏi cảnh vô danh, khỏi chiến tranh thi đua, tự quy hướng về mình, để mở ra con đường hoà bình cho chúng ta. Thiên  Chúa sống trong các thành phố của chúng ta, Giáo Hội sống trong các thành phố của chúng ta và muốn là men trong đám đông trà trộn với tất cả mọi nguời đồng hành với tất cả mọi người để loan báo các điều kỳ diệu của Đấng là « Cố vấn kỳ diệu, Thiên Chúa quyền năng, Cha muôn thuở và Hoàng Tử hòa bình.

Sau thánh lễ ĐTC đã trở về trụ sở Quan sát viên thường trực của Toà Thánh để dùng bữa tối và nghỉ đêm.

Sáng thứ bẩy 26 tháng 9 lúc 7 giờ rưỡi  ĐTC đã đi xe ra tới sân trực thăng cách đó 12 cây số để tới phi trường Kennedy lấy máy bay đi Philadelphia. Máy bay đã tới phi trường quốc tế Philadelphia sau 50 phút bay.

Philadephia là thành phố đông dân hàng thứ 5 của Hoa Kỳ và là thành phố quan trọng nhất của tiểu bang Pensylvania.  Các người thuộc địa âu châu đã tới đây năm 1646. Vài chục năm sau vùng này nằm dưới quyền kiểm soát của Anh quốc. Năm 1682 ông William Pen thành lập thành phố Philadelphia có nghĩa là « tinh yêu huynh đệ ». Vào hậu bán thể kỷ 18 thành phố trở thành một trong những trung tâm quan trọng nhất của cuộc Cách Mạng Mỹ và là nơi Hoa Kỳ tuyên bố độc lập ngày mùng 4 tháng 7 năm 1776, rồi Hiến pháp quốc gia năm 1787. Thành phố hiện có hơn 1.5 triệu dân 45% da trắng, 43% mỹ gốc phi châu, 8% nguời nói tiếng Tây Ban Nha, 4% gốc Á châu.

Tổng giáo phận đưọc thành lập năm 1808 có 1,5 triệu tín hữu trên tổng số hơn 4 triệu dân cư. Giáo phận có 235 giáo xứ, 18 cứ điểm truyền giáo, 564 linh mục giáo phận, 344 linh mục dòng, 447 tu huynh, 2,543 nũ tu, 281 phó tễ vĩnh viễn 49 đại chủng sinh. Giáo phận điều khiển 329 cơ sỏ giáo dục và 58 trung tâm bác ái.

Ra đón ĐTC tại phi trường có ĐTGM Charles Joseph Chaput và một số giới chức đạo đời khác. Từ phi trường ĐTC đã đi xe tới nhà thờ chính tòa cách đó 16 cây số để chủ sự thánh lễ với các Giám Mục và linh mục với sự tham dự của các tu sĩ nam nữ Phialadelphia và toàn bang Pensylvania. Nhà thờ chính toà kính hai thánh Phêrô Phaolô được xây năm 1846, theo mẫu nhà thờ thánh Carlo ở Roma, có 1500 chỗ ngồi

Giáo Hội cần sự cộng tác tích cực hơn nữa của các nữ giáo dân và nữ tu

Giảng trong thánh lễ ĐTC nhấn mạnh rằng lịch sử của Giáo Hội trong thành phố Philadelphia này là một lịch sử nói với chúng ta về các thế hệ công giáo dấn thân đi ra các vùng ngoại biên và xây dựng các cộng đoàn cho việc phụng tự, giáo dục, bác ái, và phục vụ xã hội nói chung.

Người ta có thể trông thấy lịch sử ấy tại nhiều đền thánh trong thành phố và nhiều nhà thờ giáo xứ, mà các tháp chuông nói về sự hiện diện của Thiên Chúa giữa các cộng đoàn. Người ta trông thấy nơi cố gắng của các linh ục, tu sĩ và giáo dân tận tụy trong hai thế kỷ  lo lắng cho các nhu cầu tinh thần của dân nghèo, người di cư, người bệnh và các tù nhân. Người ta trông thấy nơi hàng trăm trường học, trong đó các tu huynh và nữ tu đã dậy các trẻ em biết đọc biết viết, yêu mến Thiên Chúa và tha nhân, góp phần xây dựng cuộc sống xã hội Hoa Kỳ, như những công dân tốt. Tât cả điều này là một gia tài lớn lao mà anh chị em đã nhận được và được mời gọi làm giầu và thông truyền.

Tiếp đến ĐTC kể lại ơn gọi của chị Caterina Drexel một trong các vị thánh lớn của Giáo Hội Hoa Kỳ. Khi chị nói chuyện với ĐGH Leô XIII ngài hỏi chị: “Thế còn con. Con sẽ làm gì?” Câu hỏi đó đã thay đổi cuộc đời của chị, vì chúng nhắc cho chị nhớ rằng mỗi kitô hữu, do Bí tích Rửa Tội, đã nhận một sứ mệnh. Mỗi người trong chúng ta phải trả lời làm thế nào để đáp trả lại tiếng gọi của Chúa cách tốt nhất hầu xây dựng Thân Mình Ngài là Giáo Hội.

Câu hỏi đã được nói với một nữ giáo dân trẻ có nhiều lý tuởng và đã thay đổi cuộc đời chị. Nó đã làm cho chị nghĩ tới công việc mênh mông phải làm, và đưa chị tới ý thức phải làm cái gì đó trong nghĩa này. Có biết bao nhiêu người trẻ trong các giáo xứ và trường học của chúng ta có cùng các lý tưởng cao quý, tinh thần quảng đại, tình yêu đối với Chúa Kitô và Giáo Hội. Chúng ta có thử họ, có cho họ không gian và giúp họ thực hiện nhiệm vụ của họ không? Chúng ta có tìm cách chia sẻ sự hăng say và các ơn của họ với cộng đoàn, nhất là thực thi các việc bác ái thương xót và chú ý tới người khác không? Chúng ta có chia sẻ niềm vui và sư hăng say của chúng ta trong việc phục vụ Chúa không?

Một trong các thách đố lớn nhất đối với Giáo Hội trong lúc này là làm lớn lên trong tất cả các tín hữu, ý thức trách nhiệm đối với sứ mệnh của Giáo Hội, và khiến cho họ có khả năng chu toàn trách nhiệm đó như là các môn đệ thừa sai, như men Tin Mừng trong thế giới. Điều này đòi hỏi khả năng sáng tạo và thích ứng với các tình trạng thay đổi để thông truyền niềm vui Tin Mừng mọi ngày, suốt đời.

 

Tương lai của Giáo Hội trong một xã hội thay đổi nhanh chóng đòi buộc sự chia sẻ của các giáo dân tích một cách cực hơn. Giáo Hội Hoa Kỳ đã luôn luôn dấn thân trong việc đạy giáo lý và giáo dục. Thách đố ngày nay là xây dựng trên các nền tảng vững chắc, và làm cho ý thức cộng tác và chia sẻ trách nhiệm lớn lên trong việc đưa ra chương trình cho tương lai, biết phân định và khôn ngoan đánh giá các ơn đa diện  mà Chúa Thánh Thần đổ xuống trên Giáo Hội, để khích lệ sự góp phần mênh mông mà các nữ giáo dân và các nữ tu đã và đang cống hiến cho cuộc sống của các cộng đoàn.

ĐTC dã khích lệ các linh mục và nam nữ tu sĩ can đảm canh tân niềm vui của cuộc gặp gỡ đầu tiên với Chúa Kitô, và rút tiả ra từ đó lòng trung thành và sức mạnh đổi mới. Ngài xin các vị suy tư về việc phục vụ các gia đình, các cặp chuẩn bị hôn nhân và giới trẻ. ĐTC xin các vị sốt sắng cầu nguyện cho các gia đình cũng như cho các quyết định của Thượng Hội Đồng Giám Mục về gia đình.

Với lòng biết ơn về tất cả những gì chúng ta đã nhận được, và với lòng tin tưởng chắc chắn giữa các nhu cầu của chúng ta, chúng ta hãy hướng tới Đức Maria Mẹ Rất Thánh. Với tình yêu là mẹ, xin Mẹ bầu cử cho Giáo Hội tại Mỹ để nó tiếp tục lớn lên trong chứng tá ngôn sứ về quyền năng của Thập Giá của Con Mẹ, hầu đem lại niềm vui, hy vọng và sức mạnh cho thế giới. Tôi cầu nguyện cho anh chị em, xin anh chị em cũng cầu nguyện cho tôi.

Linh Tién Khải -- Vatican Radio

Cha Lombardi nhận định về diễn văn của Đức Thánh Cha tại LHQ

Cha Lombardi nhận định về diễn văn của Đức Thánh Cha tại LHQ

Pope at UN

NEW YORK. Sáng ngày 25-9-2015, ĐTC Phanxicô đã đọc một bài diễn văn quan trọng tại LHQ. Đây là lần thứ 5 một vị Giáo Hoàng lên tiếng tại Đại hội đồng LHQ, bắt đầu từ Đức Phaolô 6 năm 1965, 2 lần với Đức Gioan Phaolô 2 năm 1979 và 1995 và Đức Biển Đức 16 năm 2008.

 Tuy nhiên, Cha Lombardi SJ, Giám đốc Phòng báo chí Tòa Thánh kiêm Tổng giám đốc đài Vatican, tháp tùng ĐTC trong chuyến viếng thăm, nhận xét rằng ”Bài diễn văn này khai mạc một Đại hội đồng của LHQ (thứ 70), nên khác biệt với những lần gặp gỡ của các vị Giáo Hoàng trước tại Đại hội của LHQ, đây là bài diễn văn có cử tọa đông đảo hơn và quan trọng hơn.

 ”ĐGH đã nói một cách rất hiệu nghiệm về sự cần thiết phải dấn thân cụ thể, chứ không chỉ dừng lại ở bình diện những lời nói, trái lại cần đi tới thực tại. Ngài đã đưa ra nhiều lời kêu gọi rất mạnh mẽ. Ví dụ lời kêu gọi các tổ chức tài chánh quốc tế, các tổ chức này phải giúp đỡ các nước nghèo nhất phát triển, chứ không bắt các nước ấy phải phục tùng, áp đặt họ một cách ngộp thở dưới các hệ thống tín dụng, ghì họ trong một tình trạng bị loại trừ, nghèo đói và ngày càng lệ thuộc. ĐGH cũng nói một cách rất rõ ràng về việc giải trừ võ khí hạt nhân, nhắc đến một cách tích cực hiệp định mới đây với Iran về vấn đề này. Và đó là điều hiển nhiên là đòi hỏi nhiều, vì biết rằng đó là một hiệp định không phải tất cả đều quí chuộng.

 ”Rồi ĐGH cũng nói về tầm quan trọng của thiên nhiên; ngài cũng nói về bản tính con người, ví dụ bao gồm sự phân biệt giữa người nam và người nữ, và sự tôn trọng tuyệt đối cần có đối với sự sống trong mọi giai đoạn và chiều kích. Vì thế, ĐGH đã không bỏ lỡ cơ hội để trình bày lập trường của Giáo Hội về những điểm đòi nhiều cố gắng. ĐGH cũng đề cập đến vấn đề tị nạn, các nhóm dân thiểu số phải chịu bạo lực, đặc biệt là các tín hữu Kitô thiểu số ở Trung Đông, và tiếp đến là tất cả những vấn đề liên quan đến nghèo đói, công lý, quyền của tất cả mọi người được gia cư, công ăn việc làm và một môi trường lành mạnh để sống, và dĩ nhiên ĐTC cầu mong có một sự tiến bộ về hòa bình qua các cuộc thương thuyết, các cuộc đối thoại giữa các dân tộc khác nhau. Đề tài hòa bình chắc chắn là một chủ đề nổi bật trong cuộc viếng thăm của ĐTC và chỉ có thể như thế. Trong vấn đề này, ĐGH có một lời nói rất uy tín, một lời can đảm, thực sự được lắng nghe với tất cả lòng tôn trọng”.

 Cha Lombardi cũng nhận xét rằng kiểu của ĐTC Phanxicô khi trình bày các bài diễn văn, ngài nhấn mạnh về sự khuôn mặt cụ thể của con người: người già, trẻ em, người trẻ, người thất nghiệp. ĐGH liên tục nhấn mạnh rằng không được dừng lại ở bình diện các cuộc thảo luận ý thức hệ hoặc coi con người như những con số thống kê, nhưng luôn luôn nghĩ họ là những người người cụ thể, là anh chị em chúng ta, và qua đo khích lệ trách nhiệm của những người cầm quyền hãy nhớ con người cụ thể, đang chờ đợi sự dấn thân của chính quyền trong việc tìm ra những câu trả lời cụ thể cho cuộc sống của người dân. Theo nghĩa đó, thật là điều đẹp cuộc gặp gỡ của ĐGH tại LHQ với hàng ngàn người làm việc mỗi ngày để cho cuộc sống và hoạt động của tổ chức quốc tế này có thể tiến hành được. (RG 26-9-2015)

 G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Lịch sử tượng và Đền thánh Đức Mẹ Bác Ái ở Mỏ Đồng, Cuba

Lịch sử tượng và Đền thánh Đức Mẹ Bác Ái ở Mỏ Đồng, Cuba

Đền thờ Đức Mẹ Bác Ái ở Mỏ đồng

SANTIAGO DE CUBA. Chiều thứ hai, 21-9-2015, ĐTC Phanxicô đã từ thành phố Holguín bay đến Santiago ở mạn cực nam Cuba, chặng thứ 3 và cũng là chặng chót trong chuyến viếng thăm 3 ngày của ngài tại Cuba.

Tại Santigio, thành phố 400 ngàn dân cư, vào lúc 7 giờ tối ĐTC gặp gỡ các GM Cuba tại đại chủng viện thánh Basil Cả, rồi cùng với các vị cầu nguyện tại Đền thánh Đức Mẹ Bác Ái Mỏ Đồng, Bổn mạng của Cuba. Sáng thứ ba, 22-9, vào lúc 8 giờ, ngài sẽ cử hành thánh lễ tại Vương cung Thánh Đường Đức Mẹ Bác Ái, trước khi gặp gỡ các gia đình tại Nhà thờ chính tòa Đức Mẹ Mông Triệu của tổng giáo phận Santiago, rồi ra phi trường để bay sang Mỹ.

Trong cuộc viếng thăm của 3 vị Giáo Hoàng tại Cuba, từ Đức Gioan Phaolô 2, đến Đức Biển Đức 16, rồi tới Đức đương kim Giáo Hoàng, đều có cuộc kính viếng Đền Thánh Đức Mẹ Bác Ái Mỏ Đồng ở Santiago.

 Vài nét lịch sử của tượng Đức Mẹ và Đền Thánh Đức Mẹ Bác Ái

Cách đây 403 năm, tức là vào năm 1612, Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa, đã muốn biểu lộ tình thương của Người cho con cái ở lãnh thổ Cuba. Tài liệu về sự tích này có từ năm 1687, dựa theo lời kể của ông Juan Moreno, một người nô lệ da đen. Khi lên 10 tuổi, Juan cùng hai anh em thổ dân bản xứ là Juan và Rodrigo de Hoyos, ở làng Nipe, đi tìm muối, và họ đã vớt một tượng Đức Mẹ ở khu vực Vịnh Nipe thuộc mạn đông bắc quần đảo Cuba.

Khi kể lại chuyện này thì Ông Juan Moreno bấy giờ đã 85 tuổi và là người duy nhất còn sống sót sau biến cố ấy. Ông thuật lại những ký ức thời thơ ấu với một giọng đơn sơ của những người khiêm hạ, và nói:

”Một buổi sáng, biển lặng, họ ra khỏi một đảo nhỏ của Pháp để tìm muối, trước khi mặt trời mọc, hai anh Juan và Rodrigo de Hoyos cùng với người kể lại đây. Khi cả ba lên một xuồng và rời đảo Pháp, thì thấy một vật gì màu trắng cạnh những bọt biển và họ không phân biệt vật ấy là gì. Khi đến gần hơn, họ có cảm tưởng đó là một con chim và những cành cây. Những người thổ dân ấy nói: ”Hình như là một bé gái”, nhưng khi đến nơi, họ thấy đó là một tượng Đức Mẹ rất thánh tay bồng Chúa Hài Đồng Giêsu, bên dưới có một bảng nhỏ có những chữ lớn mà Rodrigo de Hoyos đọc lên: ”Ta là Đức Trinh Nữ Bác Ái”. Và mặc dù áo của pho tượng bằng vải, cả ba đều ngạc nhiên vì áo ấy không bị ướt, và đầy vui mừng, họ trở về và họ chỉ lấy 1 phần 3 số lượng muối mà thôi”.

Ít lâu sau, pho tượng Đức Mẹ cao 60 centimét ấy được đưa về làng El Cobre, là nơi có mỏ đồng lộ thiên đầu tiên tại Mỹ châu. Từ sau vụ tìm được tượng Đức Mẹ, lòng sùng mộ đối với Đức Mẹ Bác Ái lan rộng mau lẹ trên toàn đảo, mặc dù việc thông tin và giao thông khó khăn.

Thoạt đầu các thổ dân khám phá pho tượng đã dựng một chòi đầu tiên tại ”Hato de Bajaragua” để đặt ”Bà thánh” ở trong đó. Năm 1648, một chiếc am nhỏ được dựng lên và 32 năm sau đó, 1680, một nhà thờ nhỏ được kiến thiết.

Thiết lập đền thánh

Qua dòng thời gian, nhiều nhà nguyện khác nhau và nhà thờ nhỏ đã được dựng lên tại đây, nhưng do điều kiện khí hậu, các nơi thờ phượng này dễ bị hư hỏng, nên các tín hữu đã quyết định xây thánh đường mới cho tượng Đức Mẹ mà họ gọi bằng danh từ thân mật là ”Cachita”. Nhiều lần, tượng Đức Mẹ được giữ trong các ngôi nhà nghèo nàn của các nông dân và những người thợ mỏ.

Người ta phải đợi gần 2 thế kỷ mới có được một đền thánh đầu tiên được kiến thiết vào cuối năm 1800. Năm sau đó, tại Đền thánh này có tuyên đọc ”Hiến chương tự do cho những người nô lệ ở Mỏ Đồng”, nhờ sự vận động và can thiệp của LM tuyên úy Alejando Escanio.

106 năm sau đó, tức là 1906, Đền thánh ấy hoàn toàn bị phá hủy vì những vụ nổ và lở đất ở mỏ đồng. Với thời gian, người ta kiếm được một khu đất vộng lớn hơn để xây Đền thánh trên núi ”La Cantera”, đúng hơn là một ngọn đồi nhỏ gọi là “Maboa” có thể tiếp đón số tín hữu hành hương ngày càng gia tăng.

Những nhân vật nổi bật trong lịch sử Cuba, trong đó có các vị lập quốc và những người giữ vai chính trong việc dành độc lập cho Cuba, như ông Carlos Manuel de Céspedes, và tượng Calixto García, là những người rất gắn bó với Đức Mẹ Bác Ái. Ông Manuel de Céspedes là người đã giải phóng và dành độc lập cho Cuba, đồng thời cũng là người cổ võ bãi bỏ chế độ nô lệ. Ông đến hành hương tại Đền thánh để cầu nguyện trước tượng Đức Mẹ cho nền tự do của Cuba. Sau khi chiến thắng, ông lại đến Đền thánh Đức Mẹ Bác Ái để cảm tạ vì ơn tự do cho Cuba.

Vào cuối năm 1895, tướng Calixto García đã cử tướng Agustin Cebreco và bộ tham mưu của ông đến Đền thánh để cử hành lần đầu tiên ”Lễ Đức Trinh Nữ Bác ái của Cuba tự do”. Biến cố này được coi là cử chỉ chính thức đầu tiên của nước Cuba độc lập.

Ngày 12-7-1898, tại Đền thánh đã cử hành thánh lễ tạ ơn vì cuộc giải phóng Cuba, trước sự hiện diện của các vị sĩ quan Quân đội giải phóng.

Trong thời chiến tranh dành độc lập, các đoàn quân phó thác cho Đức Mẹ Bác Ái. Năm 1915, sau chiến tranh độc lập, các cựu chiến binh xin ĐGH Biển Đức 15 tuyên bố Đức Mẹ Bác Ái ở làng El Cobre là Bổn mạng của Cuba. Trong một văn kiện ngày 10-5 năm 1916, ĐHY GM giáo phận Ostia, thông báo rằng ĐGH đã chấp thuận lời thỉnh cầu và tuyên bố Đức Mẹ Bác Ái Mỏ Đồng là Bổn Mạng chính của Cộng hòa Cuba, và ấn định ngày lễ là 8 tháng 9 hằng năm.

Ngày 8-9 năm 1927, Đền thánh mới dâng kính Đức Mẹ Bác Ái được thánh hiến và tượng Đức Mẹ Bác Ái được rước đến đây.

Tượng Đức Mẹ này được Đức Cha Valentín Zubizarreta, TGM giáo phận Santiago de Cuba sở tại, đội triều thiên ngày 20 tháng 12 năm 1936.

Vương cung thánh đường quốc gia

Ngày nay, Vương cung thánh đường Đền thánh quốc gia Đức Mẹ Bác Ái Mỏ Đồng là một nhà thờ có hình thánh giá latinh, với 3 gian, mặt tiền cân đối và có một mái vòm. Cả hai gian bên hông cũng có mái vòm, nhưng nhỏ hơn, và tại đây có các quả chuông. Đền thánh có 8 cửa và một tiền đường phía trước dài 240 mét và rộng 15 mét. Có nhiều bậc thang dẫn lên tiền đường này. Bàn thờ chính của thánh đường được làm bằng nhiều loại cẩm thạch và phía trên bàn thờ có giữ tượng Đức Mẹ.

Dưới bàn thờ Đức Mẹ trong Đền Thánh, có một nhà nguyện phép lạ, là nơi giữ các đồ dâng cúng Đức Mẹ và nhiều vật dụng khác do các tín hữu mang đến để tạ ơn Đức Mẹ.

Ngày 24-1 năm 1998, ĐTC Gioan Phaolô 2 cũng đã đến viếng thăm tại tổng giáo phận Santiago de Cuba này, một thành phố lớn thứ hai của Cuba với 400 ngàn dân cư, cách thủ đô La Habana 750 cây số về mạn đông nam.

Hồi đó, Đức Cố Giáo Hoàng đã cử hành thánh lễ tại Santiago de Cuba trước sự tham dự của hơn 200 ngàn tín hữu. Thánh lễ được cử hành với chủ đề ”Sự hiện diện của Mẹ Maria trong lịch sử quốc gia Cuba. Tượng Đức Mẹ Bác Ái đã được rước từ Đền thánh và đặt trên lễ đài gần bàn thờ. Đồng tế với ĐTC có 14 GM Cuba, và hàng trăm HY, GM khách, đến thăm Cuba trong dịp trọng đại này, cùng với đông đảo các linh mục.

Ngày 26-3 năm 2012, ĐTC Biển Đức 16 đã đến kính viếng Đức Mẹ Bác Ái mỏ đồng và cử hành thánh lễ trước 200 ngàn tín hữu trước tượng Đức Mẹ. Trong số những người hiện diện cũng có Chủ tịch Raúl Castro 80 tuổi và một số quan chức chính quyền Cuba.

Trong bài giảng, ĐTC Biển Đức nói: ”Tôi rất vui mừng chia vui với anh chị em về việc mừng 400 năm tìm thấy tượng Đức Mẹ Bác Ái ”Mỏ Đồng”. Ngay từ đầu, Đức Mẹ đã hiện diện sâu rộng trong đời sống bản thân của người dân Cuba, trong các biến cố lớn của đất nước, đặc biệt là trong nền độc lập, được mọi người tôn kính như người Mẹ đích thực của dân tộc Cuba. Lòng sùng kính đối với Đức Mẹ ”Mambisa” đã nâng đỡ đức tin và khuyến khích bảo vệ cũng như thăng tiến những gì làm cho thân phận con người được xứng đáng hơn và các quyền căn bản của con người, và còn mạnh mẽ tiếp tục ngày nay, chứng tỏ một cách cụ thể về sự rao giảng Tin Mừng một cách phong phú tại lãnh thổ này, cũng như những căn cội Kitô sâu xa, tạo nên căn tính sâu đậm hơn của tâm hồn người Cuba. Theo vết bao nhiêu tín hữu hành hương qua dòng lịch sử, tôi cũng muốn đến Mỏ Đồng để phủ phục dưới chân Mẹ Thiên Chúa, để cảm tạ Mẹ vì Mẹ đã can thiệp bênh đỡ mọi người con Cuba của Mẹ và xin Mẹ chuyển cầu, hướng dẫn hành trình của đất nước yêu quí này trên con đường công lý, hòa bình, tự do và hòa giải.”

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Đức Thánh Cha chủ sự kinh chiều với các linh mục, tu sĩ Cuba

Đức Thánh Cha chủ sự kinh chiều với các linh mục, tu sĩ Cuba

Đức Thánh Cha chủ sự kinh chiều với các linh mục  tu sĩ Cuba

LA HABANA. Chiều chúa nhật 20-9-2015, ĐTC Phanxicô đã chủ sự kinh chiều lúc 5 giờ với các LM, tu sĩ và chủng sinh Cuba tại Nhà thờ chính tòa thủ đô La Habana.

Nhà thờ chính tòa này, dâng kính Đức Mẹ Vô Nhiễm và thánh Cristobal, được các cha dòng Tên khởi công xây cất hồi năm 1748, tức là cách đây 267 năm. Cả sau khi các cha dòng Tên bị trục xuất khỏi Cuba vì bị cáo về âm mưu lật đổ chính quyền, việc xây cất thánh đường vẫn được tiếp tục và hoàn thành sau 19 năm kiến thiết.

Dọc đường 7 cây số khi ĐTC đến nhà thờ, có đông đảo dân chúng đứng hai bên đường để chào đón ngài, nhất là họ tụ tập ở quảng trường trước Nhà thờ chính tòa.

Đầu buổi hát kinh chiều trọng thể, ĐHY Jaime Ortega TGM sở tại đã đại diện mọi người chào mừng ĐTC và nhấn mạnh rằng có một điều ”liên kết tất cả mọi người, mọi phần tử của Giáo Hội trong việc phục vụ nhân dân Cuba chúng con, đó là cái nghèo. Tại Cuba, Giáo Hội thật nghèo và chứng tá âm thầm, từ bỏ của các LM triều và dòng của chúng con, các phó tế, những người nam nữ thánh hiến, thật là đáng ngưỡng mộ. Sự nghèo khó đang góp phần mạnh mẽ cho tình liên đới và tình huynh đệ giữa chúng con. Ở đây không có cơ hội cho sự cạnh tranh và sự thi đua, ngoài sự phục vụ và hiến thân”.

Chứng từ của Nữ tu Yaileny

Tiếp đến, một nữ tu đã đại diện mọi người kể lại chứng từ về hoạt động phục vụ người nghèo, đó là chị Yaileny Ponce Torres, Nữ tử bác ái thánh Vinh Sơn Phaolô, làm việc tại Edad de Oro, một nhà thương thuộc Bộ y tế Cuba có 200 bệnh nhân, cả nam lẫn nữ, có nhiều chứng bệnh liên quan tới sự viêm não bộ kinh niên. Chị nói: ”Chúa Cha đã làm cho con ngạc nhiên dường nào khi cho con được hạnh phúc ở giữa các bệnh nhân ấy. Ngày hôm nay con có thể nói với niềm xác tín vui tươi rằng nơi mà con sống thật là đẹp, ai biết điều ấy thì cũng biết con muốn nói về điều gì. Thật là đẹp vì nơi những người con yếu đuối nhất như thế có Thiên Chúa hiện diện và tỏ mình ra”.

Nữ tu Ponce Torres nói thêm rằng: ”Cả các bệnh nhân ấy cũng thực thi lòng từ bi thương xót đối với chúng con, khi dạy chúng con với tất cả sự kiên nhẫn để hiểu họ, họ tha thứ những điều xảy ra bất ngờ hoặc gọi hỏi chúng con với cuộc sống của họ đứng trước những điều thiết yếu.. Khi họ tặng một nụ cười, một cái nhìn vui tươi, thì con biết rằng thật là điều bõ công khi dâng hiến cuộc sống cho họ trong khi thực hiện Nước Trời.. Phúc cho những người nghèo vì Nước Trời là của họ”.

Huấn dụ của ĐTC

Sau bài đọc ngắn của giờ kinh, như thói quen trong những cuộc gặp gỡ tương tự, ĐTC đã trao lại cho các LM, tu sĩ và chủng sinh bài huấn dụ ngài đã dọn sẵn để họ đọc sau đó, và ngài ứng khẩu nói chuyện với họ. Hai từ nòng cốt trong bài huấn dụ của ngài là ”thanh bần và lòng từ bi thương xót”. Sự giàu sang có thể làm hư hỏng con tim.

ĐTC nhắc lại lời ĐHY Jaime Ortega trong lời chào mừng và nhận xét: ”ĐHY Jaime đã dùng một từ mà người ta khó chịu, đó là sự nghèo khó. Tinh thần thế gian không biết đến từ này, cũng chẳng tìm kiếm nó, trái lại che đậy sự nghèo khó vì khinh rẻ nó. Tinh thần thế giới không thích con đường của các con cái Thiên Chúa, Đấng đã tự hạ, hạ cố để trở thành một người trong chúng ta”.

ĐTC minh định rằng quản lý của cải vật chất một cách khôn ngoan, đó là điều bình thường, nhưng thật là buồn nếu của cải lẻn vào trong tâm hồn và xác định cuộc sống chúng ta”.

Ngài cũng trích dẫn lời thánh Ignatio Thánh Tổ dòng Tên nói rằng ”Nghèo khó là một bức tường và là mẹ của đời sống thánh hiến. Là mẹ vì nghèo khó kích thích lòng tín thác nơi Thiên Chua, nó là bức tường vì bảo vệ chúng ta khỏi mọi thói thế gian. Lòng yêu mến tinh thần thế giới làm cho chúng ta trở nên tầm thường, sự giàu sang làm cho ta trở nên nghèo nàn, trong khi tinh thần thanh bần là tinh thần của những người muốn theo Chúa Giêsu”.

ĐTC Phanxicô kể lại giai thoại một LM già khôn ngoan nói rằng khi Thiên Chúa gởi một người quản lý tệ hại tới một dòng tu chẳng hạn, thì đó là một trong những phúc lành lớn nhất, vì Ngài giải thoát dòng tu ấy khỏi tinh thần thế gian. Cần phải sống theo điều chúng ta đọc thấy trong đoạn 25 của Tin Mừng theo thánh Mathêu: tiêu chuẩn theo đó chúng ta sẽ bị phán xét chính là sự gần gũi những người rốt cùng, những người bé mọn nhất. 'Điều mà các con làm cho người bé mọn nhất trong số các anh em của Thầy đây, chính là các con làm cho Thầy”.

ĐTC nói thêm rằng: ”Có những việc phục vụ mục vụ làm cho chúng ta mãn nguyện nhất xét về phương diện con người, nhưng ai có tâm hồn ưu tiên dành cho những người bé mọn nhất, người bệnh tật, những người chẳng đáng kể gì, người không xin gì, thì họ chính là người đang theo Chúa Giêsu tuyệt hảo nhất”.

Ngài cũng không quên nhắn nhủ các LM, những người thánh hiến và các chủng sinh hãy là những người vui tươi, vì niềm vui là dấu chỉ của Kitô giáo. Thánh nữ Têrêsa vẫn dạy các nữ đan sĩ đừng kêu ca than vãn. Ngài cũng ca ngợi những tu sĩ tận hiến cuộc đời để săn sóc những người mà thế gian coi là ”đồ bỏ”, loại trừ những người ấy, cả khi họ chưa sinh ra.

ĐTC kết luận rằng: ”Một LM có thể đặt câu hỏi: nhưng con phải coi một giáo xứ, làm sao con theo Chúa Giêsu? Đâu là người bé mọn nhất, con có thể gặp họ ở đâu? tù nhân, bệnh nhân.. Nhưng có một nơi đặc biệt có người bé mọn, người rốt cùng, đó là tòa giải tội. Tại đó chúng ta gặp những người nam nữ bày tỏ sự lầm than của họ. Tôi xin anh em đừng khiển trách họ. Anh em hãy ném đá trước tiên nếu anh em là những người không có tội. Hãy nghĩ rằng hối nhân ấy có thể là chính anh em. Anh em có một kho tàng, đó là sự dịu dàng, lòng thương xót của Thiên Chúa. Đừng bao giờ mỏi mệt trong việc tha thứ, vì anh em mang lòng thương xót của Thiên Chúa. Thánh Ambroxio đã nói một câu làm cho tôi rất cảm động: nơi nào có lòng thương xót, nơi đó có tinh thần của Chúa Giêsu, nơi nào có sự cứng nhắc, nơi đó chỉ có các thừa tác viên của Chúa. Anh em LM và GM, hãy để cho lòng từ bi thương xót tuân chảy qua anh em cho những người bé mọn nhất.”

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

 

Đức Thánh Cha khuyến khích giới trẻ Cuba mơ ước tương lai

Đức Thánh Cha khuyến khích giới trẻ Cuba mơ ước tương lai

Pope talks to young people in Cuba

LA HABANA. Chiều chúa nhật 20-9-2015, ĐTC đã gặp giới trẻ Cuba tại thủ đô La Habana, và ngài mời gọi họ vượt thắng bi quan, mơ ước và dấn thân xây dựng tương lai tốt đẹp hơn cho bản thân và đất nước.

Sau khi ban phép lành kết thúc buổi hát kinh chiều với các LM, tu sĩ và chủng sinh Cuba, ĐTC đã tiến sang trung tâm nghiên cứu văn hóa mang tên của Vị Tôi Tớ Chúa, LM LM Félix Varela. Cha sống vào thế kỷ 18 và được là ”thầy của các thầy dạy” ở Cuba. Cha giảng dạy trong 10 năm trời tại Học viện kiêm chủng viện thánh Carlo ở La Habana, góp phần vào sự tiến bộ khoa học và văn chương của Cuba. Về sau, cha sang Mỹ, bênh vực quyền độc lập của Cuba và bênh vực nhân dân nước này. Trong 30 năm hoạt động tại Mỹ cha Felix Varela đã thiết lập nhiều trường học, thánh đường và loan báo Tin Mừng cho những người sống ngoài lề xã hội. Cha Qua đời năm 1853 và án phong chân phước cho cha được khởi sự cách đây 30 năm, tức là năm 1985.

Trong cuộc gặp gỡ lúc 6 giờ chiều ở Trung tâm Varela, ĐTC cũng bỏ bài huấn dụ dọn sẵn và ứng khẩu nói chuyện với các bạn trẻ.

Huấn dụ ứng khẩu của ĐTC

Ngỏ lời với các bạn trẻ trong cuộc gặp gỡ lúc 6 giờ rưỡi chiều chúa nhật vừa qua ở Trung tâm Cha Varela, ĐTC trả lời một bạn trẻ trình bày mơ ước được thấy một nước Cuba tốt đẹp hơn, ngài trích dẫn một văn sĩ Mỹ châu la tinh nói rằng con người có 2 con mắt, một con bằng thịt và một con bằng thủy tinh. Với con mắt thịt chúng ta thấy điều chúng ta nhìn. Với con mắt bằng kiếng, chúng ta thấy điều mà chúng ta mơ ước. Một người trẻ không có khả năng mơ ước, là một người khép kín vào mình.

ĐTC mời gọi các bạn trẻ hãy mơ ước những điều vĩ đại:

”Trong sự khách quan của cuộc sống cần để cho khả năng mơ ước đi vào. Và một người trẻ không có khả năng mơ ước, thì bị khép kín trong chính mình.. Nhiều khi mỗi người mơ ước những gì không bao giờ xảy ra, nhưng hãy mơ ước, hãy ước mong, hãy tìm kiếm những chân trời..

Ngài cũng nói đến khả năng đón tiếp và chấp nhận người nghĩ khác với mình. Trong thực tế, nhiều khi chúng ta khép kín. Chúng ta bước vào trong thế giới bé nhỏ và khép kín trong khuôn khổ ý thức hệ hoặc tôn giáo. Khi tôn giáo trở thành một thứ tu viện nhỏ, thì nó đánh mất phần tốt đẹp nhất của mình, đánh mất thực tại tôn thờ Thiên Chúa, tin nơi Chúa. Đó là một thứ hội lời nói, cầu nguyện, với những qui luật luân lý. Và khi tôi theo ý thức hệ của tôi, cách tư duy của tôi, và các bạn theo ý thức hệ của các bạn thì tôi khép kín trong cái hộp ý thức hệ.

ĐTC nhắn nhủ các bạn trẻ hãy cởi mở tâm trí, đừng chỉ quan tâm đến những gì làm cho chúng ta chia rẽ, hãy nghĩ đến những điểm chung, làm việc chung cho công ích. Sự hận thù xã hội tàn phá, phá hủy gia đình, xã hội, thế giới, sự hận thù lớn nhất về mặt xã hội chính là chiến tranh, chúng ta thấy chiến tranh đang tàn phá thế giới.

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

CHÚA GIÊSU THƯƠNG XÓT, AI KHÔNG THA THỨ KHÔNG PHẢI LẢ KITÔ HỮU

CHÚA GIÊSU THƯƠNG XÓT, AI KHÔNG THA THỨ KHÔNG PHẢI LẢ KITÔ HỮU

forgiveness

VATICAN: Chúa Giêsu là hoàng tử hòa bình, bởi vì Ngài sinh ra hòa bình trong con tim chúng ta. Ngài thương xót và luôn luôn tha thứ, ai không tha thứ không phải là kitô hữu.

ĐTC Phanxicô đã nói như trên trong bài giàng thánh lễ tại nguyên đường nhà trọ Thánh Marta sáng mùng 10 tháng 9 vừa qua. Giảng trong thánh lễ ngài đã quảng diễn đề tài “hòa bình và hòa giải”. ĐTC nói: Cả ngày nay hàng ngày, qua tin tức truyền hình và báo chí, chúng ta cay đắng trông thấy biết bao nhiêu chiến tranh xung khắc, tàn phá, đổ nát và hận thù. Cũng có những người nam nữ làm việc nhiều biết bao nhiêu để chế tạo khí giới  giết người, các khí giới thấm đầy máu của biết bao người vô tội. Có các cuộc chiến và có sự gian ác chuẩn bị chiến tranh, chế tạo vũ khí chống lại tha nhân, giết người. Hoà bình cứu thoát và làm cho bạn sống, làm cho bạn lớn lên, còn chiến tranh hủy diệt bạn, nhận chìm bạn. Nhưng chiến tranh không chỉ là thế, mà nó cũng có trong các cộng đoàn kitô của chúng ta, giữa chúng ta nữa. Phụng vụ hôm nay khuyên nhủ chúng ta hãy xây dựng hòa bình. Và tha thứ là từ chià khóa: “Như Chúa đã tha thứ cho anh chị em, anh chị em cũng hãy tha thứ”. Nếu bạn không biết tha thứ, bạn không phải là tín hữu kitô. Bạn sẽ là một người nam nữ tốt… Tại sao bạn không làm điều Chúa đã làm? Nhưng còn hơn nữa: nếu bạn không tha thứ, bạn cũng không thể nhận được hòa bình của Chúa. Cần phải có “lòng kiên nhẫn kitô”. Có biết bao nhiêu phụ nữ anh hùng chịu đựng sự tàn bạo, và biết bao bất công vì hạnh phúc của gia đình, của con cái! Có biết bao người nam anh hùng trong dân kitô chịu thức khuya dậy sớm để làm việc nuôi sống vợ con, biết bao lần đó lại là một việc làm bất công, với dồng lương rẻ mạt. Họ là những người công chính. Nhưng cũng có những người làm việc với cái lưỡi của mình và gây chiến tranh, bởi vì cái lưỡi tàn phá, gây chiến. Trong Phúc Âm hôm nay còn có một từ chìa khoá khác: đó là từ “thương xót”. Hiểu người khác, không kết án họ là điều quan trọng. Chúa, Thiên Chúa Cha thương xót biết bao! Ngài luôn luôn tha thứ và luôn luôn muốn làm hoà với chúng ta. Nhưng nếu bạn không thương xót, thì bạn gặp nguy cơ là Chúa cũng không thương xót bạn, vì chúng ta sẽ bị xét xử với cùng mức độ chúng ta dùng để xét đoán người khác.  Nếu bạn là linh mục và cảm thấy mình không thương xót, thì hãy làm ơn xin giám mục cho bạn một công việc hành chánh, nhưng đừng xuống tòa giải tội. Một linh mục không thương xót, thì gây ra biết bao nhiêu điều xấu trong toà giải tội! “Thưa cha, con thương xót chứ, nhưng con hơi  căng thẳng thần kinh một chút”. Vậy thì trước khi xuống tòa giải tội, hãy đi gặp bác sĩ để ông ấy cho bạn một viên thuốc chống căng thẳng thần kinh. Nhưng hãy thương xót. Và cũng hãy thương xót giữa chúng ta. Đừng nói người khác tội lỗi hơn mình. Không ai có thể nói điều đó! Chỉ có Chúa biết mà thôi.

Như thánh Phaolô dạy: cần phải mặc lấy các tâm tình “hiền dịu, nhân hậu, khiêm nhượng, từ tốn và cao thượng” Đó là kiểu sống kitô, là kiểu sống qua đó Chúa Giêsu đã đem lại hoà bình và hoà giải. Chứ không phải sụ kiêu căng, kết án và nói xấu người khác. Xin Chúa cho chúng ta ơn biết chịu đựng lẫn nhau, tha thứ và thương xót như Chúa thương xót chúng ta (RG 10-9-2015)

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

ĐTC KHÍCH LỆ NGÂN HÀNG TÍN DỤNG HỢP TÁC XÃ ROMA THĂNG TIẾN CÔNG ÍCH

ĐTC KHÍCH LỆ NGÂN HÀNG TÍN DỤNG HỢP TÁC XÃ ROMA THĂNG TIẾN CÔNG ÍCH

bcc-roma

VATICĂNG: ĐTC Phanxicô khích lệ Ngân hàng tín dụng hợp tác xã Roma tiếp tục theo đuổi các mục tiêu cao quý nhân bản hóa kinh tế, thăng tiến công ích, chú ý đến các nhu cầu của các gia đình và giới trẻ.

 

ĐTC đã đưa ra lời kêu gọi trên đây trong buổi tiếp kiến Hội đồng quản trị, các thành viên cộng tác, nhân viên và gia đình Ngân hàng tín dụng hơp tác xã Roma sáng 12 tháng 9, nhân kỷ niệm 60 thành lập. Ngài khẳng định rằng Giáo Hội hiểu biết giá trị của các tổ chức hợp tác xã, vì nhiều hợp tác xã đã do chính các linh mục và giáo dân dấn thân thành lập theo tinh thần liên đới kitô. Thông điệp Laudato si’ cũng nêu bật giá trị của chúng trong lãnh vực  năng lượng có thể canh tân và nông nghiệp (LS 179-180). ĐTC đã lập lại một số khích lệ ngài đã đưa ra khi tiếp Liên hiệp các hợp tác xã Italia hồi tháng hai năm nay: tiếp tục là động cơ phát triển phần yếu kém nhất của các cộng đoàn địa phương và xã hội dân sự, đặc biệt nghĩ tới người trẻ thất nghiệp và thăng tiến việc tái sinh các doanh nghiệp hợp tác xã; chủ động trong việc đề nghị và thực hiện các giải pháp mới cho việc trợ cấp xã hội bắt đầu từ lãnh v vực y tế; lo lắng cho tương quan giữa kinh tế và công bằng xã hội bằng cách duy trì phẩm giá và giá trị của con người; tạo dễ dãi và khích lệ cuộc sống gia đình, đề nghị các giải pháp hợp tác xã và hỗ tương cho việc điều hành các tài sản chung, không thể chúng trở thành tư sản của một ít người và đối tượng của nạn đầu cơ; thăng tiến việc sử dụng tiền bạc với mục đích liên đới và xã hội, theo kiểu của hợp tác xã đích thật, nơi tư bản không chỉ huy con người nhưng con người chỉ huy tư bản; gia tăng nền kinh tế liêm chính: anh chị em không chỉ được mời gọi liêm chính – đây là điều bình thường – nhưng phổ biến và làm đâm rễ sụ liêm chính trong toàn môi trường; sau cùng là tham gia tích cực vào việc toàn cầu hóa tình liên đới.

 

ĐTC nói thêm trong bài huấn dụ: Mỗi hợp tác xã đều được mời gọi áp dụng các đường lối này vào sứ mệnh chuyên biệt của mình. Thách đố lớn nhất là phát triển mà vẫn luôn  là một hợp tác xã. Làm ngân hàng là một nghề tế nhị, đòi hỏi sự nghiêm khắc. Nhưng một ngân hàng hợp tác xã còn cần một cái gì hơn nữa: đó là tìm nhân bản hóa kinh tế, hiệp nhất sự hữu hiệu với tình liên đới. Ngoài ra con có một từ quan trọng khác: đó là từ “phụ đới”. Anh chị em đã thực thi điều này trong cuộc khủng hoảng tài chánh kinh tế, bằng cách hiệp nhất các sức mạnh, giải quyết các vấn đề với sức riêng của mình và với tinh thần trách nhiệm, không trở thành gánh nặng cho các cơ cấu quốc gia.

 

Tôi cũng được biết là ngân hàng tín dụng hợp tác xã của anh chị em hay làm việc thiện và tương trợ. Tôi khích lệ anh chị em tiếp tục truyền thống tốt đẹp này và luôn lấy con người, giới trẻ và các gia đình làm trọng tâm. Ngân hàng trung ương có thể là hạt nhân của một mạng lưới lớn, giúp nảy sinh ra các xí nghiệp tạo công ăn việc làm và trợ giúp các gia đình, qua vốn đầu tư nhỏ và các phương thức khác nhằm nhân bản hóa nền kinh tế. Anh chị em là Ngân hàng trung ương của Roma, nhưng vòng hoạt động cũng trải dài ra trong toàn vùng Lazio và cả vùng Abruzzo nữa. Tôi cầu chúc anh chị em trung thành thực thi sứ mệnh hợp tác xã tín dụng của anh chị em, với óc sáng tạo, niềm vui và sư trung thực nhằm phục vụ công ích (SD 12-9-2015)

 

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

*Ngân hàng tín dụng hợp t1c xã Roma: the Banca di Credito Cooperativo (the BCC) of Rome, an Italian credit union

 

ĐTC TIẾP KIẾN CÁC TU SĨ CLARET

ĐTC TIẾP KIẾN CÁC TU SĨ CLARET

ĐTC tiếp kiến tu sĩ dòng Claret

VATICAN : ĐTC khích lệ các tu sĩ dòng Claret kiên trì thờ lậy Chúa, liên lỉ bước đi và đồng hành với dân Chúa trong cuộc sống ơn gọi.

 

ĐTC đã đưa ra lời khích lệ trên đây trong buổi tiếp các tu sĩ Claret đang tham dự tổng tu nghị tại Roma sáng ngày 11 tháng 9 vừa qua. Trong bài huấn dụ nói buông ngài tâm sự rằng ngài có phúc vì có một vài người bạn là tu sĩ Claret. Người ta gặp các tu sĩ Claret khắp nơi, và nhiều vị là các thần học gia và chuyên viên giáo luật nổi tiếng. ĐTC nói diễn văn đã dọn sẽ được ĐTGM Ganswein trao cho các tu sĩ, ngài chỉ muốn nói với các vị 3 từ có thể giúp các vị sống ơn gọi của mình : « thờ lậy, bước đi và đồng hành ». Trong thế giới hữu hiệu ngày nay chúng ta đã đánh mất đi ý nghĩa của việc thờ lậy, và cả trong việc cầu nguyện nữa. Dĩ nhiên, chúng ta cầu nguyện, chúc tụng, xin ơn và cảm tạ Chúa, nhưng quên thờ lậy Ngài. Thờ lậy Chúa là ở trước Thiên Chúa duy nhất, là Đấng Duy Nhất, vô giá, không thể thương thuyết, không thể đổi được. Mọi sự ở ngoài Ngài là « giấy bìa bắt chước », là một thần tượng. Cần phải cố gắng lớn lên trong thái độ thờ lậy này. Thờ Lậy Thiên Chúa. Nó là điều thiếu trong Giáo Hội hiện nay, vì thiếu sư phạm. Thờ lậy Thiên Chúa là giới răn đầu tiên trong Thánh Kinh : « Hãy thờ lậy Thiên Chúa duy nhất. Con không có Thiên Chúa nào khác. Đó là Đấng Duy Nhất con phải tôn thờ. Việc « mất thì giờ này », không xin, không cám ơn, cũng không chúc tụng, chỉ thờ lậy thôi với linh hồn phủ phục. Tôi không biết tại sao tôi nói với anh em điều này, nhưng nó đến từ tận đáy tim tôi.

 

Từ thứ hai : bước đi. Thiên  Chúa không thể tự thờ lậy chính mình, nhưng Thiên Chúa đã muốn bước đi. Ngài đã không muốn ở yên. Ngay từ dầu Ngài đã bước đi với dân Ngài. Đoạn kinh thánh của ông Môshê thật đẹp : « Anh em hãy nghĩ coi: đã có dân tộc nào có Thiên Chúa gần gũi cùng bước đi với anh em không ? » Bước đi có nghĩa là rộng mở biên giới, đi ra, mở rộng cửa, và tìm các con đường. Đúng thật là cần phải tổ chức sự việc, và có những việc đòi buộc phải có đầu óc yên ắng, nhưng với linh hồn, với con tim và cái đầu phải bước đi và tìm kiếm. Đi ra biên giới: các biên giới của tất cả mọi loại, kể cả tư tưởng. Anh em là các nhà trí thức, hãy đi ra các biên giới, mở ra các con đường, tìm kiếm. Nghiã là không ở yên. Ai ở yên và không cử động thì hư thối: cũng như nước vậy, nước mà tù đọng thì sẽ thối, trong khi nước sông chảy thì không thối. Bước đi như Thiên Chúa đã bước đi, và trở thành bạn đường của hành trình. Chúa đã đồng hành với dân Ngài bằng cách gánh lấy cả tội lỗi, tha thứ và đồng hành… Bước đi, bước đi với ước muốn một ngày kia chiêm ngưỡng Ngài, chứ không phài để bảo đảm cuộc sống mình trong một dòng tu, hay có cuộc sống an lành vì không thiếu thốn gì… Bước đi, bước đi.

 

Từ thứ ba: đồng hành. Như thế không phải bước đi một mình, vậy thì buồn lắm. Nhưng đồng hành với dân : Thiên Chúa bước đi bằng cách đồng hành. Thật là hay đẹp khi nhớ lại cảnh Chúa Giêsu đã « giả vờ » với những người đang trốn khỏi Giêrusalem để về làng Emmaus : Ngài ở đó, đồng hành với họ, đồng hành với toàn tiến trình.

 

Đồng hành trong những lúc vui, đồng hành với hạnh phúc của các đôi vợ chồng, của các gia đình, đồng hành với họ trong những lúc khó khăn, trong những lúc của thập giá, trong những lúc của tội lỗi… Chúa Giêsu không sợ người có tội : Ngài tìm họ. người ta chỉ trích Ngài : « Ông này đi qúa trớn ; ông này thật bất cẩn » Đồng hành với dân chúng, đồng hành với biết bao nhiêu ước muốn, mà Chúa gieo vãi trong con tim và để cho chúng lớn lên một cách tốt đẹp. Tôi muốn nói với anh em điều đó: thờ lậy, bước đi và đồng hành. Nếu nó giúp anh em, thì hãy tiến tới. Tôi để nó trong tay anh em (SD 11-9-2015)

 

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

 

ĐTC TIẾP 400 THÀNH VIÊN PHONG TRÀO TU ĐỨC GIA ĐÌNH EQUIPES NOTRE DAME

ĐTC TIẾP 400 THÀNH VIÊN PHONG TRÀO TU ĐỨC GIA ĐÌNH EQUIPES NOTRE DAME

ĐTC tiếp GIA ĐÌNH EQUIPES NOTRE DAME

VATICAN: ĐTC khích lệ các gia đinh kitô dấn thân trợ giúp và thương xót các gia đình bị thương tích, hay bị thất bại trong hôn nhân, cũng như mạnh mẽ chống lại các thực dân ý thức hệ.

ĐTC đã nhắn nhủ như trên trong buổi tiếp kiến 400 thành viên phong trao tu đức gia đình “Équipes Notre Dame” sáng ngày mùng 10 tháng 9 vùa qua. Ngài khẳng định rằng các cặp vợ chồng và các gia đình kitô thường ở trong các điều kiện tốt hơn để loan báo Chúa Giêsu Kitô cho các gia đình khác, để nâng đỡ, củng cố và khích lệ các gia đình khác. Đó cũng là lý do của Thượng Hội Đồng Giám Mục về gia đình sẽ khai diễn tại Roma trong vài tuần nữa. Mục đích là để Giáo Hội suy tư với nhiều chú ý hơn về cuộc sống của các gia đình, là các tế bào nòng cốt của xã hội và của Giáo Hội, và chúng bị đe dọa trong bối cảnh văn hóa khó khăn ngày nay. ĐTC đã mời gọi các gia đình của phong trào chủ động trong công tác truyền giáo, bằng cách làm chứng, loan báo, thông truyền, điều mà Chúa làm cho họ sống trong sự thân tình của tổ ấm gia đình, với các vui buồn và khổ đau trong sự phong phú nhân bản và tinh thần, để lôi kéo người khác bước đi trên cùng con đường ấy. Sứ mệnh này đặc biệt quan trọng vì hình ảnh của gia đình như Chúa muốn, bao gồm một người nam và một người nữ cho thiện ích của hai người và của việc sinh con cái và giáo dục chúng, nhưng bị méo mó do các dự án quyền lực được nâng đỡ bởi các thực dân ý thức hệ. Chính vì thế cần có các hành động cụ thể và óc sáng tạo luôn canh tân để tiếp đón, đào tạo và đồng hành với các cặp vợ chồng trẻ, trước và sau khi cưới nhau. Đặc biệt cần gần gữi các gia đình bị thương tích vì nhiều lý do: thiếu công ăn việc làm, nghèo túng, vấn đề sức khỏe, tang chế, lo lắng vì con cái, mất quân bình vì xa cách hay vắng mặt, bầu khí bạo lực vv… Chúng ta phải có can đảm tiếp xúc với các gia đình đó một cách kín đáo nhưng quảng đại trên bình diện vật chất cũng như nhân bản và tinh thần trong các hoàn cảnh bị thương tích của chúng. Chúng ta hãy là dụng cụ lòng thương xót của Chúa và của Giáo Hội đối với người thất bại trong hôn nhân. Một cặp vợ chồng hiệp nhất và hạnh phúc có thể hiểu hơn bất cứ ai khác, từ bên trong, vết thương và nỗi khổ đau gây ra bởi một sự bỏ rơi, phản bội hay một thất bại của tình yêu. Ngoài ra cũng không được quên nỗi khổ đau không thể tả được của các trẻ em phải sống các hoàn cảnh gia đình đớn đau này và trợ giúp chúng (RG 10-9-2015)

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

ĐTC TIẾP CÁC TÂN GIÁM MỤC ĐƯỢC CHỈ ĐỊNH TRONG NĂM NAY 2015

ĐTC TIẾP CÁC TÂN GIÁM MỤC ĐƯỢC CHỈ ĐỊNH TRONG NĂM NAY 2015

ĐTC gặp các tân giám mục 2015

VATICAN: Sáng hôm 10-9 ĐTC Phanxicô đã tiếp kiến các tân Giám Mục được chỉ định trong năm nay 2015.

Ngài khuyến khích các vị hãy là các chủ chăn rao giảng Chúa Kitô phục sinh, là nhà sư phạm, hướng đạo tinh thần, giáo lý viên, chuyên viên dẫn tín hữu bước vào các mầu nhiệm và là nhà truyền giáo. Các Giám Mục là những người kế vị các Tông Đồ, và cũng như các Tông Đồ, đã sống kinh nghiệm gặp gỡ Chúa Kitô phục sinh và ơn của Chúa Thánh Thần biến đổi cuộc đời mình, cho dù có các khước từ, bỏ trốn, và phản bội trong đời sống. Trước con người thời nay hay quên lãng cuộc sống vĩnh cửu các Giám Mục phải luôn luôn khiêm tốn can đảm rao giảng Chúa Kitô phục sinh nhắc nhở cho con người biết số phận cao cả của con người được mời gọi sống yêu thương. ĐTC nói ngài không muốn làm cho các Giám Mục hoảng sợ vì các vị đang sống tuần trăng mật với Chúa, sau khi được chỉ định làm chủ chăn. Nhưng cũng không nên quên rằng thế giới ngày nay đầy các thách đố cam go và thê thảm như: hiện tượng toàn cầu hóa gia tăng cách biệt giữa con người; làn sóng di cư tỵ nạn ồ ạt; môi sinh bị de dọa vì bị khai thác một cách tàn bạo; phẩm giá con người bị xúc phạm, tương lai công ăn việc làm bấp bênh, nạn sa mạc hóa các tương quan, tinh thần vô trách nhiệm lớn mạnh, sự thờ ơ đối với ngày mai, thái độ khép kín sợ hãi, sự lạc hướng của biết bao nhiêu người trẻ và nỗi cô đơn của người già, và biết bao nhiêu vấn đề khác nữa…

Tuy nhiên ĐTC chỉ muốn trao cho từng tân Giám Mục Niềm Vui Tin Mừng và xin các vị hãy là các mục tử sống chết vì đoàn chiên hao mòn vì săn sóc lo lắng cho Giáo Hội địa phương. Không có lãnh vực nào của cuộc sống con người bị loại trừ không được con tim mục tử chú ý. Trái lại phải lưu tâm tới mọi thực tại của đoàn chiên, gặp gỡ, rao giảng Lời Chúa và mời gọi mọi người truyền giáo. Các Giám Mục phải là các nhà sư phạm, các vị hướng đạo tinh thần và các giáo lý viên cừ khôi có khả năng cầm tay tín hữu và dẫn họ lên núi Tabor gặp Chúa và bước vào mầu nhiệm đức tin, chiêm ngưỡng nhan thánh Chúa, xả thân đồng hành với họ lên núi, không để họ ở dưới đồng bằng và tế nhị giứp họ thanh tẩy đôi mắt để trông thấy Chúa. Niềm vui của vị mục tử lôi cuốn, gây hứng khởi và làm cho ngất ngây. Không có niềm vui Kitô giáo tàn lụi trong mệt nhọc. Các chủ chăn cũng phải săn sóc các linh mục của mình thế nào để các vị cũng lôi cuốn, thức tỉnh và giúp tín hữu và con người say mê Chúa. Nhiều người xa Chúa vì thất vọng bởi các lời hứa của niềm tin, hay con đường đạt đến xem ra quá đòi hỏi. Không ít người đóng sầm cửa lại vì các yếu đuối của các chủ chăn khiến họ kiếm tìm các niêm hy vọng ở nơi khác. Các chủ chăn phải bắt được lộ trình của họ, không coi các khổ đau và thất vọng của họ là gương mù gương xấu, nhưng soi sáng cho họ với ngọn lửa khiêm tốn của đức tin nhưng có sức dãi toả, dành thời giở để gạp gỡ, nói chuyện và giảng giải cho họ như Chúa Giêsu làm với hai môn đệ trên đường về làng Emmaus, giúp họ nhận ra Chúa, để họ có sức mạnh trở về Gierusalem. Các Giám Mục cũng phải là những nhà truyên giáo, kiếm tìm những ai chưa biết Chúa Giêsu, đi theo họ, ngước nhìn họ, và mời họ xuống như Chúa Giêsu đã làm với ông Giakêu và biết lo lắng cho thiện ích và hạnh phúc đích thật của các anh chị em ở xa (SD 10-9-2015)

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Đức Thánh Cha đề cao liên hệ chặt chẽ giữa đạo lý và mục vụ

Đức Thánh Cha đề cao liên hệ chặt chẽ giữa đạo lý và mục vụ

ĐTC Francis

VATICAN. Trong sứ điệp gửi các tham dự viên Hội nghị thần học quốc tế ở Buenos Aires, ĐTC nhấn mạnh sự liên kết chặt chẽ giữa đạo lý và mục vụ.

Hội nghị đã kết thúc hôm 3-9-2015 sau 3 ngày tiến hành tại thủ đô nước Argentina, nhân dịp kỷ niệm 100 năm thành lập Phân khoa thần học thuộc Đại học Công Giáo Argentina và 50 năm bế mạc Công đồng chung Vatican 2.

Trong sứ điệp Video, ĐTC nhắc nhở đông đảo các tham dự viên Hội nghị rằng nhà thần học là người con của dân chúng, gặp gỡ con người với những lịch sử và truyền thống; nhà thần học là tín hữu đã cảm nguyện về Chúa Giêsu Kitô, và sau cùng nhà thần học là ngôn sứ, vì khi suy tư về truyền thống đã lành nhận từ Giáo Hội, họ duy trì sinh động ý thức về quá khứ, kiến tạo lời mời gọi hướng về tương lai, trong đó Chúa Giêsu đánh bại thái độ tự tham chiếu (autoreferenzialità) và thiếu hy vọng.

Về tương quan giữa đạo lý và mục vụ, ĐTC nhấn mạnh rằng: ”nghiên cứu của nhà thần học có một giá trị quan trọng hàng đầu, nhưng không thể có một ý niệm thuần túy là đạo lý, tách rời khỏi mục vụ. Các Giáo Phụ như các thánh ”Irênê, Augustino, Basilio, Ambrogio” là những đại thần học gia, vì các ngài là các đại mục tử.

Trong bối cảnh đó, ĐTC nhấn mạnh sự cần thiết phải có sự gặp gỡ với các gia đình, người nghèo, những người sầu khổ, những người ở ngoại biên, đó là những con đường để hiểu rõ hơn về đức tin. ”Những nhu cầu của dân chúng, những lo âu, ước mơ, các cuộc đấu tranh và lo lắng của họ có một giá trị giải thích mà chúng ta không thể làm ngơ không biết đến” (SD 4-9-2015)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

 

Tòa Thánh dè dặt đối với một số điểm trong chương trình LHQ

Tòa Thánh dè dặt đối với một số điểm trong chương trình LHQ

TTK LHQ Ban Ki Moon and Pope

NEW YORK. Tòa Thánh bày tỏ sự dè dặt đối với một số điểm trong chương trình phát triển của LHQ sau năm 2015, có thể hiểu là cho phép phá thai và xóa bỏ khác biệt tự nhiên giữa nam nữ.

Chương trình này mang tựa đề ”Biến đổi thế giới chúng ta: chương trình hành động 2030 để phát triển dài hạn”, được thông qua trong những ngày qua tại LHQ ở New York.

Lên tiếng về chương trình này, Sứ bộ quan sát thường trực của Tòa Thánh ở LHQ đã tái khẳng định lập trường của Tòa Thánh về tương quan vợ chồng giữa một người nam và một người nữ, các phương pháp làm cha làm mẹ trong tinh thần trách nhiệm đứng trước những dịch vụ kế hoạch hóa gia đình không tôn trọng tự do và phẩm giá con người; ”gender” (giống) của con người được hiểu như một từ ngữ dựa trên căn tính tính dục sinh lý nam nữ; ưu tiên của cha mẹ trong việc giải dục con cái.

Tuy Tòa Thánh đồng ý với một số mục tiêu và một số điểm trong Chương trình của LHQ, nhưng Tòa Thánh tỏ ra dè dặt về một số ý niệm trong văn kiện. Ví dụ thành ngữ ”sức khỏe tính dục và sinh sản” và ”các quyền sinh sản” được văn kiện của LHQ sử dụng với một nghĩa quá rộng lớn, và chúng có thể bị người ta dựa vào đó để cổ võ phá thai và sử dụng các thuốc phá thai như phương thế kế hoạch hóa gia đình, không tôn trọng tự do của các đôi vợ chồng, phẩm giá cũng như các nhân quyền của những người liên hệ.

Những lập trường trên đây đã được Tòa Thánh khẳng định trong dịp Hội nghị thế giới kỳ 4 ở Bắc Kinh về phụ nữ.

Sứ bộ Tòa Thánh ở LHQ cho biết về vấn đề giáo dục, thông tin và tính dục, Tòa Thánh nhấn mạnh trách nhiệm đầu tiên và các quyền ưu tiên của các cha mẹ đối với con cái, kể cả quyền tự do tôn giáo. Theo ý nghĩa đó, Tòa Thánh nhấn mạnh vị thế trung tâm của gia đình như nòng cốt tự nhiên và cơ bản của xã hội.. (SD 2-9-2015)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

 

Đức Thánh Cha cầu nguyện cho sự chăm sóc thiên nhiên

Đức Thánh Cha cầu nguyện cho sự chăm sóc thiên nhiên

Cha dòng Phanxicô

VATICAN. Chiều 1-9-2015, ĐTC Phanxicô đã chủ sự lần đầu tiên Ngày Thế Giới cầu nguyện cho việc chăm sóc thiên nhiên như công trình tạo dựng của Thiên Chúa.

Buổi cầu nguyện diễn ra trong Đền thờ Thánh Phêrô, dưới hình thức một buổi phụng vụ Lời Chúa, với sự tham dự của 20 Hồng Y, 40 TGM và Giám mục, 100 Giám chức và linh mục, cùng với đại diện Giáo Hội Chính Thống và các Giáo Hội Kitô khác, và gần một ngàn tín hữu.

Mở đầu là bài ca dẫn nhập trích từ sách ngôn sứ Daniel (3,57-87) mời gọi toàn thể các loài thụ tạo hãy chúc tụng Chúa. Tiếp đến là lời chào phụng vụ của ĐTC và lời nguyện trong đó ngài chúc tụng Ba Ngôi Thiên Chúa và cầu xin Chúa ”dạy chúng con biết chiêm ngắm Chúa trong vẻ đẹp của vũ trụ, qua đó tất cả đều nói về Chúa. Xin thức tỉnh sự ngợi khen và lòng biết ơn của chúng con vì mỗi hữu thể Chúa đã dựng nên. Xin ban cho chúng con ơn được cảm thấy liên kết mật thiết với tất cả những gì hiện hữu.. Xin tỏ cho chúng con thấy chỗ của chúng con trong thế giới này như dụng cụ tình thương của Chúa đối với mọi loài trên trái đất, vì không loài nào bị Chúa quên lãng”.

ĐTC cũng nguyện rằng: ”Xin Chúa soi sáng những chủ nhân ông của quyền lực và tiền bạc, để họ không rơi vào tội dửng dưng, nhưng yêu mến công ích, thăng tiến những người yếu, và chăm sóc thế giới chúng con đang ở. Những người nghèo và trái đất đang kêu: 'Lạy Chúa, xin nắm lấy chúng con bằng quyền năng và ánh sáng của Chúa, để bảo vệ mọi sự sống, để chuẩn bị một tương lai tốt đẹp hơn, để Nước Chúa hiển trị, Nước công chính, an bình, yêu thương và tươi đẹp”.

3 bài đọc

Buổi cầu nguyện được tiếp tục với 3 bài đọc. Bài thứ I bằng tiếng Anh trích từ sách Sáng Thế kể lại sự sáng tạo của Thiên Chúa và Chúa thấy mọi sự Ngài đã làm, tất cả đều rất tốt đẹp (St 1,26-2.3.15). Bài thứ hai bằng tiếng Ý trích từ thông điệp ”Laudato sì” của ĐTC (84,86,87), nói về sự phong phú của các loài thụ tạo: ”Toàn thể vũ trụ, với những quan hệ đa dạng, chứng tỏ rõ ràng sự phong phú khôn lường của Thiên Chúa.. Các loài thụ tạo có liên hệ mật thiết với nhau.. Trong thông điệp, ĐTC viết: ”Khi chúng ta nhận thức sự phản ánh của Thiên Chúa trong tất cả những gì hiện hữu, tâm hồn cảm thấy ước muốn tôn thờ Chúa vì tất cả những gì Chúa đã dựng nên, và cùng với các loài thụ tạo, chúng ta chúc tụng Chúa như trong bài ca rất hay của thánh Phanxicô Assisi”.

Sau cùng, trong bài Tin Mừng theo thánh Mathêu (6,24-34), Chúa Giêsu nhắn nhủ các môn đệ đừng lo lắng về ngày mai, ”Các con hãy xem chim trời, chúng không gieo không gặt, cũng chẳng thu vén vào kho, vậy mà Cha các con trên trời vẫn nuôi chúng. Các con chẳng giá trị hơn chung hay sao?!”

Bài giảng của cha Cantalamessa

Cha Raniero Cantalamessa, dòng Capuchino, giảng thuyết viên tại Phủ Giáo Hoàng từ 35 năm nay, đã giảng sau các bài đọc. Cha nói đến phẩm trật trong các loài thụ tạo để phục vụ sự sống, và phê bình hiện tượng người ta chi tiêu những ngân khoản khổng lồ cho súc vật trong khi họ để cho hàng triệu trẻ em chết trước mắt vị đói và bệnh tật.

Nhắc đến Lời Chúa dạy trong Tin Mừng đừng lo lắng về ngày mai, Cha Cantalamessa khẳng định rằng chúng ta không lo lắng về ngày mai của chúng ta, nhưng chúng ta hãy lo lắng về ngày mai của con cháu chúng ta. ”Tin Mừng muốn chúng ta không dính bén của cải trần thế, nhưng khi có liên hệ tới tha nhân, Tin Mừng không hề muốn nghe nói về sự dửng dưng và sống ngày qua ngày.. Chúa Giêsu nhiều lần lo lắng cho dân chúng được ăn, ngài làm phép lạ bánh và cá hóa ra nhiều và sau đó ngài còn bảo hãy lượm những gì còn dư, để không điều gì bị phí phạm”.

Cha Cantalamessa nhấn mạnh điều Chúa Giêsu muốn nói trong bài Tin Mừng: ”Các con không thể phụng sự Thiên Chúa lẫn tiền tài”. Không ai có thể phục vụ nghiêm túc chính nghĩa bảo tồn công trình tạo dựng nếu không có can đảm chống lại sự tích trữ thái quá giàu sáng trong tay một thiểu số và chống lại việc coi tiền bạc như mẫu mực cuộc sống”.

Lời nguyện giáo dân

Tiếp đến 6 ý nguyện đã lần lượt được xướng lên bằng 6 ngôn ngữ khác nhau: Pháp, Tây Ban Nha, Ba Lan, Đức, Arập và Bồ đào nha. Xin Chúa ban sức mạnh để chúng con chăm sóc bảo vệ sự sống và vẻ đẹp, xin Chúa ban hòa bình để chúng con sống với nhau như anh chị em và không làm hại một ai, xin Chúa giúp chúng con giúp đỡ những người bị bỏ rơi và quên lãng trên trái ấy này, xin chúa lành cuộc sống chúng con để chúng con bảo vệ thế giới chứ không bóc lột nó, xin Chúa đánh đông tâm hồn những người chỉ tìm lợi lộc mà gây hại cho những người nghèo và trái đất. Sau cùng xin Chúa dạy chúng con khám phá giá trị của mọi sự, chiêm ngắm và nhìn nhận rằng chúng con có liên hệ sâu xa với tất cả các loại thụ tạo trên con đường tiến về ánh sáng vĩnh cửu của Cha”.

Buổi cầu nguyện kết thúc với Kinh Lạy Cha và Phép lành của ĐTC. (SD 1-9-2015)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

 

Cần hoán cải con tim để thực sự trong sạch

Cần hoán cải con tim để thực sự trong sạch

Cần hoán cải con tim để thực sự trong sạch

Việc tuân giữ từng chữ các điều luật là một cái gì vô bổ, nếu nó không biến đổi trái tim và không diễn tả ra bằng các thái độ cụ thể: rộng mở cho cuộc gặp gỡ với Thiên  Chúa và Lời Ngài, tìm kiếm công lý và hòa bình, cứu giúp người nghèo, người yếu đuối và bị áp bức.

ĐTC Phanxicô đã nói như trên với hơn 40,000 tín hữu và du khách hành hương năm châu trong buổi đọc Kiinh  Truyền Tin trưa Chúa Nhật 30-8-2015

Mở đầu bài huấn dụ ĐTC nói: Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay kể lại một cuộc tranh luận giữa Chúa Giêsu và vài người Pharisêu và ký lục, liên quan tới giá trị “truyền thống của người xưa” (Mc 7,3) mà Giêsu, trích lời ngôn sứ Isaia, định nghĩa là “luật của loài người” (c.7) và chúng không đuợc chiếm chỗ “giới răn của Thiên  Chúa” (c. 8). Các điều luật cũ ở đây không chỉ bao gồm các điều luật Thiên  Chúa mạc khải cho ông Môshê, mà cũng là một chuỗi các câu nói minh giải các chỉ dẫn của luật lệ Môshê nữa. Các người đối thoại áp dụng các điều lệ ấy một cách khá chi li, và trình bầy chúng như là các diễn tả lòng đạo dức đích thật. Chính vì thế họ quở trách Chúa Giêsu và các môn đệ Người là vi phạm chúng, đặc biệt là các điều luật liên quan tới việc thanh tẩy bề ngoài của thân xác. Câu trả lời của Chúa Giêsu có sức mạnh của một lời ngôn sứ: “Các ông tuân giữ truyền thống của người phàm mà lại lơ là giới răn của Thiên Chúa” (Mc 7,8). Chúng là các lời khiến cho chúng ta khâm phục vị Thầy của chúng ta: chúng ta cảm thấy rằng nơi Người có chân lý và sự khôn ngoan giải thoát chúng ta khỏi các thành kiến. Nhưng ĐTC cảnh cáo tín hữu như sau:

Nhưng hãy coi chừng! Với các lời này Chúa Giêsu muôn cảnh báo cả chúng ta ngày nay nữa, đừng cho rằng việc tuân giữ luật lệ bề ngoài là đủ để là các kitô hữu tốt. Cũng như xưa kia đối với người Pharisêu, ngày nay đối với chúng ta cũng có nguy cơ cho mình là yên ổn rồi, hay tệ hơn nữa, coi mình là tốt lành hơn những người khác, chỉ vì tuân giữ các luật lệ, các thói quen, cả khi chúng ta không yêu tha nhân, có trái tim cứng cỏi, vênh váo và kiêu căng. Việc tuân giữ từng chữ các điều luật là một cái gì vô bổ, nếu nó không biến đổi trái tim và không diễn tả ra bằng các thái độ cụ thể: rộng mở cho cuộc gặp gỡ với Thiên  Chúa và Lời Ngài trong việc cầu nguyện, tìm kiếm công lý và hòa bình, cứu giúp người nghèo khổ, người yếu đuối và bị áp bức. Chúng ta tất cả đều biết, trong các cộng đoàn, các giáo xứ, các khu phố của chúng ta, họ làm hại biết bao cho Giáo Hội và gây gương mù gương xấu, những người nói rằng họ là tin hữu rất công giáo và thường đi nhà thờ, nhưng sáu đó trong cuộc sống thường ngày họ lơ là với gia đình, nói xấu các người khác vv… Đó là điều Chúa Giêsu lên án, bởi vì nó là một phản chứng kitô.

Tiếp tục lời khích lệ của ngài, Chúa Giêsu tập trung chú ý trên một khiá cạnh sâu xa hơn và khẳng định: “Không có cái gì từ bên ngoài vào trong con người lại có thể làm cho con người ra ô uế được. Nhưng chính cái từ con người xuất ra, là cái làm cho con người ra ô uế” (c. 15). Trong cách đó Người nhấn mạnh quyền tối thượng của nội tâm, nghĩa là quyền tối thượng của con tim; không phải những gì ở bên ngoài khiến cho chúng ta thánh hay không thánh, nhưng chính con tim diễn tả các ý hướng, các lựa chọn của chúng ta và uớc muốn làm tất cả mọi sự vì tình yêu Chúa. Các thái độ bề ngoài là là hậu quả của những gì chúng ta đã quyết định trong tim, chứ không phải điều ngược lại: với thái độ bề ngoài nếu trái tim không thay đổi, thì chúng ta không phải là các kitô hữu đích thực.  ĐTC quảng diễm thêm điểm này như sau:

Ranh giới của thiện ác không đi qua bên ngoài chúng ta nhưng đúng hơn là đi qua bên trong lương tâm của chúng ta. Chúng ta có thể tự hỏi: con tim của tôi ở đâu? Chúa Giêsu nói: “Kho tàng của con ở đâu, thì trái tim của con ở đó” Kho tàng của tôi là gì? Có phải là Chúa Giêsu và giáo lý của Ngài không? Khi đó con tim tốt. Hay kho tàng là một cái gì khác?

Vì thế chính con tim phải được thanh tẩy và hoán cải. Khi không có một con tim được thanh tẩy, thì cũng không thể có các bàn tay thực sự sạch sẽ và miệng lưỡi nói lên các lời chân thành của tình yêu – mọi sự đều hai mặt, một cuộc sống hai mặt – miệng lưỡi nói lên các lời của lòng thương xót và tha thứ. Điều này chỉ có con tim chân thành và được thanh tẩy mới làm được thôi.

Chúng ta hãy xin Chúa, qua lời bầu cử của Đức Trinh Nữ Thánh, ban cho chúng ta một con tim trong sạch, tự do khỏi mọi giả hình. Đó là tính từ Chúa Giêsu nói với các người Pharisêu: “giả hình”, bởi vì họ nói một điều nhưng làm một điều khác. Một con tim tự do khỏi sự giả hình, như thế chúng ta có thể sống theo tinh thần của luật lệ và đạt tới mục đích của nó là tình yêu.

Tiếp đến ĐTC đã cất Kinh Truyền Tin và ban phép lành toà thánh cho mọi người.

Sau kinh Truyền Tin ĐTC đã kêu tái kêu gọi cầu nguyện cho các kitô hữu Trung Đông và xin các giới hữu trách quốc tế tìm giải pháp chấm dứt các bách hại chống kitô hữu. Ngài nói: Hôm qua tại Harissa bên Libăng, Giám Mục công giáo siro Flaviano Michele Melki, tử đạo đã được công bố là chân phước. Trong bối cảnh của một cuộc bách hại kinh khủng chống lại các kitô hữu, Đức Cha đã là người không mỏi mệt bảo vệ các quyền của dân tộc người, bằng cách khích lệ tất cả kiên vững trong đức tin. Cả ngày nay nữa, anh chị em thân mến, bên Trung Đông và tại nhiều nơi khác trên thế giới các kitô hữu cũng bị bách hại. Có nhiều người tử đạo hơn trong các thế kỷ đầu tiên của Kitô giáo. Ước chi việc phong chân phước cho vị Giám Mục tử đạo đổ tràn đầy trên họ sự an ủi, lòng can đảm và niềm hy vọng, nhưng cũng là sự khích lệ cho các nhà lập pháp và các người cầm quyền để cho tự do tôn giáo được tôn trọng ở bất cứ đâu. Và tôi yêu cầu cộng đồng quốc tế làm cái gì đó để chấm dứt các bạo lực và đàn áp.

Rất tiếc trong những ngày qua có nhiều người di cư đã mất mạng sống trong các cuộc du hành kinh khủng. Tôi cầu nguyện cho tất cả các anh chị em đó và tôi mời anh chị em cầu nguyện cho họ. Cách riêng tôi hiệp ý với ĐHY Schoenborn hôm nay hiện diện ở đây và toàn thể Giáo Hội tại Áo, cầu nguyện cho 71 nạn nhân, trong đó có 4 trẻ em, bị chết trong một chiếc xe chở hàng trên xa lộ Budapest Vienne.  Chúng ta hãy phó thác từng nạn nhân một cho lòng thương xót của Thiên Chúa và xin Ngài trợ giúp chúng ta cộng tác hữu hiệu để ngăn cản các tội phạm này xúc phạm đến toàn gia đình nhân loại. Chúng ta hãy cầu nguyện trong thinh lặng cho tất cả các người di cư và những người đã thiệt mạng.

Tiếp đến ĐTC đã chào nhiều nhóm hành hương khác nhau, đặc biệt là các tín hữu Croazia, các hướng đạo sinh Bồ Đào Nha, giới trẻ giáo phận Vicenza, Rovato và trẻ em hai tỉnh Salzano và Arconate. Ngài chúc tất cả ngày Chúa Nhật an lành và xin mọi người đừng quên ngài trong lời cầu nguyện.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Đức Thánh Cha hy vọng lễ phong chân phước cho Đức Cha Melki

Đức Thánh Cha hy vọng lễ phong chân phước cho Đức Cha Melki

Melki

VATICAN. ĐTC Phanxicô mong ước lễ phong chân phước cho Đức Cha Flaviano Micae Melki là một sứ điệp hy vọng và khích lệ cho tất cả các tín hữu Kitô đang bị hạ nhục và áp bức.

Trên đây là lời ĐHY Angelo Amato, Tổng trưởng Bộ Phong thánh, tuyên bố với đài Vatican, trước khi lên đường sang Liban chủ sự nghi thức phong chân phước cho Đức Cha Đức Cha Flaviano Micae Melki, thuộc Giáo Hội Công Giáo Siriac, tử đạo 100 năm đúng vào ngày thứ bẩy 29-8-2015, tại Thổ Nhĩ Kỳ, vì quyết liệt không chịu bỏ Kitô giáo theo Hồi giáo.

Lễ phong diễn ra tại Tu viện Đức Mẹ Giải Thoát (Our Lady of Delivrance) ở Harissa, phía bắc Beirut, trước sự hiện diện của các vị Thượng Phụ và thủ lãnh các Giáo Hội Kitô Đông phương đến từ Liban, Siria và Irak, cùng với hàng ngàn tín hữu địa phương.

ĐHY Amato nói: ”Nhiều tín hữu Kitô ngày nay ở Trung Đông, và cả nơikhác, đang chịu đau khổ vị sự suy tàn của một nền văn hóa sống chung hòa bình giữa con người với nhau. Nhưng các anh chị em ấy không muốn đầu hàng trước sự kinh hoàng, và họ đáp lại bạo lực bằng sự can đảm và niềm tin mạnh mẽ”.

ĐHY Tổng trưởng Bộ Phong thánh cũng nhận định rằng: ”Ngày nay, cũng như cách đây 100 năm, các tín hữu Kitô bị kỳ thị, bách hại, trục xuất, và giết hại. Nhà của họ bị đánh dấu không phải bằng máu con chiên trong lễ Vượt Qua, nhưng bằng chữ N màu đỏ, có nghĩa là Nazareni, Kitô hữu, một dấu chỉ họ sẽ bị kết án. Cũng như 100 năm trước đây, thời Đức Đức Melki tử đạo, ngày nay các tín hữu Kitô cũng bị tước bỏ mọi tự do, bó buộc phải rời bỏ quê hương hoặc bị cưỡng bách theo Hồi giáo nếu không sẽ bị giết. Trong thực tế, chính cái chết đang thống trị trong tâm trí chai đá những kẻ bách hại, họ không chịu nổi nền văn minh Kitô về tự do, tình huynh đệ, tôn trọng tha nhân, công lý và bác ái”.

Đức Cha Melki sinh cách đây 158 năm (1858) ở làng Kalaat Mara, Thổ nhĩ kỳ, trong một gia đình Chính Thống Siriac và thụ phong phó tế trong Giáo Hội này khi được 20 tuổi. Sau đó thầy trở lại Giáo Hội Công Giáo Siriac, và được thụ phong linh mục.

Cuộc bách hại của nhà cầm quyền đế quốc Ottoman chống các Kitô hữu bắt đầu nghiêm trọng với vụ tàn sát những người Arméni từ năm 1894 đến 1897. Nhà thờ và gia cư của cha Melki bị đốt phá năm 1895, nhiều giáo dân của cha bị sát hại, trong đó có cả thân mẫu của cha. Tổng cộng các cuộc tàn sát ấy làm cho từ 80 đến 300 ngàn Kitô hữu Arméni bị thiệt mạng.

Cha Melki thụ phong GM năm 1913 và coi sóc giáo phận Gazireh của Công Giáo Siriac.

 Trong đợt bách hại thứ 2 chống các tín hữu Kitô trong đế quốc Ottoman bắt đầu vào tháng 4-1915, Đức Cha Micae Melki bị bắt và sau khi quyết liệt từ chối theo Hồi giáo để được sống, ngài bị đánh bất tỉnh và bị chặt đầu. Hôm đó là ngày 29-8-1915. (SD 28-8-2015)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

ĐGH lo âu trước thảm kịch di dân tỵ nạn

ĐGH lo âu trước thảm kịch di dân tỵ nạn

Tàu thuyền nhân

ĐTC Phanxicô rất lo âu theo dõi thảm kịch của những người đang phải bỏ nhà cửa quê hương trốn chạy đi nơi khác.

 

Đây là một cuộc xuất hành vĩ đại với bao nhiêu gia đình lâm vào cảng mất mát mọi của cải nhà cửa, liều mình  ra đi với hai bàn tay trắng mong thoát khỏi chiến tranh, đói khổ và bạo lực đủ kiểu để tìm kiếm tương lai. Trong một tweet, ĐTC kêu gọi mọi người hãy mở con tim cho những ai đang phải đau khổ. Ngài viết: Lạy Chúa, xin hãy giúp chúng con biết tỏ ra quảng đại hơn và luôn gần gũi hơn những gia  đình nghèo khó.

 

Trong khi đó, con số người di dân thiệt mạng ngày càng lên cao. Vài ngày trước đây, thi hài của 71 người bị chết ngạt chồng chất lên nhau, trong đó có cả 8 phụ nữ và 4 trẻ em, đã được khám phá trong một chiếc xe tải nhỏ đậu ven một xa lộ bên Áo. Hôm sau đó, 200 người khác chết trong hai vụ đắm tàu ngoài khơi Lybia. Trong một phóng sự gửi về đài Vatican, ký giả Benedetta Capelli nói: Xác người lềnh bềnh trong nước, tiếng người còn sống van xin cầu cứu, màn đêm dày đặc khiến cho công cuộc cứu vớt gặp nhiều khó khăn. Đó là cảnh tượng người ta phải chứng kiến ngoài khơi duyên hải Zuwara nước Libia hôm qua, khi hai con tàu đầy chật người di dân tỵ nạn bị đắm. Phải ghi thêm con số những người chết này vào danh sách 2.500 người di dân thiệt mạng trên đường vượt Địa Trung Hải vừa được LHQ công bố hôm nay. 10 tên lái tàu đã bị nhận diện và bắt giữ trên con tàu chở 600 người di dân cặp bến Palermo thủ phủ đảo Sicilia Nam Italia, trong đó có 52 người chết ngạt trong hầm tàu. 3 người khác bị chính quyền Áo bắt giam trong vụ khám phá xe tải đầy xác người. Nhiều vụ đụng độ cũng xảy ra tại biên giới Hy Lạp và Macedonia. Trong một cuộc phỏng vấn dành cho đài Vatican, đặc phái viên Nello Scavo của báo Avvenire Tương Lai, tại vùng Pristina Macedonia cho biết “các cuộc kiểm soát của cảnh sát ngày càng trở nên chặt chẽ hơn và thường xuyên hơn. Người tỵ nạn từ Thổ Nhĩ Kỳ và Bulgari đến chỉ có được ba ngày để đi qua lãnh thổ Macedonia tìm đường vào Âu châu. Trong những tháng vừa qua đã có trên 100 ngàn người đến đây. Chỉ trong những ngày vừa qua, đã có 4000. Họ gặp nhiều khó khăn trong việc vượt qua bức tường mới được chính quyền Orban dựng lên, nhưng không có gì ngăn cản được họ. Sống chết gì thì họ cũng sẽ tìm ra những con đường khác để vào Âu châu.

 

Đặc phái viên báo Tương Lai nhận xét thêm rằng “sự hiện diện của người di dân tỵ nạn đã đẩy mạnh guồng máy của bọn buôn người, vốn đã rất thịnh hành tại đây. Các nhóm tội phạm mafia vùng Kossovo, liên kết với mafia Serbi và macedoni đang tổ chức những lối thoát mới để vượt qua bức tường Hungari, chẳng hạn qua ngõ Rumani hay các nước vùng Balkans vào Sloveni và Croat, rồi từ đó vào Áo hay Italia, tuy với nhiều hiểm nguy hơn, như chúng ta vừa thấy trong vụ chiếc xe tải ở Áo. Nguy hiểm cao hơn, thì giá cả cũng cao hơn và đem lại lợi nhuận nhiều hơn cho bọn bất lương. Vì thế, tình hình hiện nay rất rắc rối và nhiều khó khăn. Người di dân và tỵ nạn phải chịu bao nhiêu đau khổ vì đường đi và cũng vì thái độ đối xử của các lực lượng cảnh sát, nhất là cảnh sát macedoni. Bù lại, nhiều nơi, họ đã được người dân địa phương tận tình giúp đỡ. Chẳng hạn như tại Veles, gần Skopje, một số dân chúng địa phương, nhất là một phụ nữ, đã tổ chức được một cơ cấu đón tiếp và trợ giúp hơn 50 ngàn người trong vòng 2 năm gần đây mà hoàn toàn không cậy nhờ đến thẩm quyền chức trách địa phương. Và thật là phi thường khi chứng kiến thiện chí và lòng quảng đại của từng cá nhân có thể vượt thắng những chướng ngại mà các chính quyền không muốn đương đầu. (RG 280815)

 

Mai Anh

 

Khi yêu Chúa thật, chúng ta sẽ tìm ra giờ để cầu nguyện

Khi yêu Chúa thật, chúng ta sẽ tìm ra giờ để cầu nguyện

Khi yêu Chúa thật, chúng ta sẽ tìm ra giờ để cầu nguyện

Khi yêu Chúa thật, chúng ta sẽ tìm ra giờ để cầu nguyện. Một con tim có tình yêu thương đối với Thiên Chúa biến thành lời cầu nguyện cả một tư tưởng không lời, hay một lời khẩn cầu trước một ảnh tượng thánh hay một nụ hôn gửi về phía nhà thờ.

ĐTC Phanxicô đã nói như trên với hơn 30,000 tín hữu và du khách hành hương năm châu trong buổi tiếp kiến chúng sáng thứ tư hôm qua tại quảng trường thánh Phêrô. Ngoài các đoàn hành hương đến từ các nước Bắc Mỹ Hoa Kỳ và Canada, có nhiều đoàn hành hương đến từ các nước Âu châu như Pháp, Đức, Áo, Anh, Đan Mạch, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Ba Lan, cũng có các nhóm tín hữu đến từ Trung Quốc, Dubai, Nigeria, hay từ Mỹ Latinh như Brazil.

Trong bài huấn dụ ĐTC đã khai triển đề tài giáo lý thời giờ cầu nguyện trong gia đình. Đề cập đến lời than thông thường nhất liên quan tới việc cầu nguyện ĐTC nói:

Lời than thông thường nhất của các kitô hữu liên quan tới thời giờ là: “Con muốn cầu nguyện nhiều hơn… con muốn làm điều đó, nhưng con thiếu giờ”. Sự khó chịu này chắc chắn là thành thật, bởi vì trái tim con người luôn luôn kiếm tìm lời cầu nguyện, cả khi không biết nó. Và nếu nó không tìm ra lời cầu nguyện, nó không có sự bình an.  Nhưng để gặp nhau, cần phải vun trồng trong con tim một tình yêu “nồng cháy” đối với Thiên  Chúa, một tình yêu trìu mến.

Chúng ta có thể tự đặt cho mình một câu hỏi rất đơn sơ. Tin nơi Thiên Chúa với tất cả con tim, tốt rồi, hy vọng rằng Chúa trợ giúp chúng ta trong các khó khăn, tốt rồi, cảm thấy có bổn phận phải cám ơn Chúa, tốt rồi. Tất cả đều chính đáng. Nhưng chúng ta có yêu Chúa một chút không? Tư tưởng về Thiên Chúa có làm cho chúng ta cảm động không, có khiến chúng ta ngạc nhiên không, có làm cho chúng ta hiền dịu không?

Chúng ta hãy nhớ tới công thức của giới răn lớn nâng đỡ mọi giới răn khác: “Con hãy yêu Chúa Thiên Chúa của con với hết con tim, hết linh hồn và sức lực con” (Đnl 6,5, x. Mt 22,37). Công thức dùng ngôn ngữ mạnh mẽ của tình yêu, bằng cách đổ dồn nó về cho Thiên Chúa. Đó, tất cả tinh thần của lời cầu nguyện trước hết là ở đây. Và nếu nó ở đây, thì nó chiếm hữu tất cả thời gian và không bao giờ ra khói đó nữa.

Tiếp tục bài huấn dụ ĐTC nói: Chúng ta có thành công nghĩ tới Thiên Chúa như cái vuốt ve giữ gìn chúng ta sống, mà trước đó không có gì không? Một cái vuốt ve mà không gì, kể cả cái chết, có thể tách rời chúng ta không? Hay chúng ta chỉ nghĩ Thiên Chúa là Đấng Toàn Năng đã làm ra mọi sư, là vị Thẩm Phán kiểm soát mọi hành động của chúng ta? Dĩ nhiên tất cả đều đúng. Nhưng chỉ khi Thiên  Chúa là sự trìu mến của tất cả mọi trìu mến của chúng ta, ý nghĩa của các lời này mới tràn đầy. Khi đó chúng ta cảm thấy hạnh phúc và cũng hơi xấu hổ một chút, bởi vì Ngài nghĩ tới chúng ta và nhất là yêu thương chúng ta. Đây lại không phải là điều hay đẹp sao? Ngài đã có thể làm cho mình được nhận biết một cách đơn sơ như Đấng Tối Cao, ban các giới răn và chờ đợi các kết quả thôi. Nhưng Thiên Chúa đã và đang làm hơn điều này, một cách vô tận.

Nếu lòng trìu mến đối với Thiên Chúa không thắp lên ngon lửa, tinh thần cầu nguyện không suởi ấm thời gian. Chúng ta cũng có thể thêm “nhiều lời” như dân ngoại làm, như Chúa Giêsu nói; hay cả đến trình bầy các lễ nghi của chúng ta “như các  người Pharisêu làm” (x. Mt 6,5.7). Rồi ĐTC miêu tả một con tim có Chúa ngự trị như sau:

Một con tim được ở bởi sự trìu mến đối với Thiên Chúa, nó biến thành lời cầu nguyện cả môt tư tưởng không lời, hay một khẩn cầu trước ảnh tuợng thánh, hoặc một nụ hôn gửi tới nhà thờ. Thật đẹp biết bao khi các bà mẹ dậy cho các con nhỏ gửi một cái hôn tới cho Chúa Giêsu hay Đức Mẹ. Trong lúc đó trái tim của các trẻ em biến thành nơi cầu nguyện. Và đây là một ơn của Chúa Thánh Thần. Chúng ta đừng bao giờ quên xin ơn này cho từng người trong chúng ta! Thần Khí của Thiên Chúa có kiểu đặc biệt nói trong con tim chúng ta “Abba Cha ơi” như Chúa Giêsu nói, một kiểu mà chúng ta sẽ không bao giờ một mình tìm ra được (x. Gl 4,6). Ơn này của Chúa Thánh Thần  chính trong gia đình mà chúng ta học xin và đánh giá cao. Nếu bạn học nó với cùng sự tự phát, mà bạn học gọi “mẹ “ hay “cha”, bạn đã học được luôn mãi. Khi điều này xảy ra, thòi gian của toàn cuộc sống gia đình bị lôi cuốn vào cung lòng tình yêu của Thiên Chúa và tự động tìm ra giờ cầu nguyện.

ĐTC nói thêm trong bài huấn dụ: Chúng ta biết thời giờ của gia đình là một thời giờ phức tạp và đầy sinh hoạt, bận rộn và lo lắng. Nó luôn luôn ít, và không bao giờ đủ. Ai có một gia đình thì mau chóng học giải quyết một phương trình mà cả các nhà toán học giỏi  nhất cũng không giải được: trong vòng 24 giờ người ta làm cho nó thành gấp đôi. Có những người cha và người mẹ đáng lãnh giải Nobel về diều này!

Tinh thần cầu nguyện trả lại thời giờ cho Thiên Chúa, nó ra khỏi nỗi ám ảnh của một cuộc sống luôn luôn thiếu thời giờ, tìm lại được niềm an bình của các việc cần thiết, và khám ra niềm vui  của các món quà không chờ đợi. Hai chị em Marta và Maria, mà Phúc Âm nói tới,  là những người hướng dẫn tốt trong việc này. Họ học được từ Thiên Chúa sự hài hòa của các tiết nhịp gia đình: vẻ đẹp của các ngày lễ, sự thanh thản của công việc làm, tinh thần cầu nguyện (x. Lc 10,38-42). Cuộc viếng thăm của Chúa Giêsu mà họ rất yêu mến đã là ngày lễ của họ. Tuy nhiên, một ngày kia Marta học biết rằng sự hiếu khách, tuy quan trọng, nhưng không là tất cả, nhưng lắng nghe Chúa, như Maria đã làm, đã là điều thực sự nòng cốt, là phần nhất của thời gian. Lời cầu nguyện vọt lên từ việc lắng nghe Chúa Giêsu, từ việc đọc Tin Mừng, từ chỗ tin tưởng nơi lời Chúa. Trong gia đình có sự tin tưởng này không? Chúng ta có sách Phúc Âm trong nhà không? Chúng ta có thỉnh thoảng mở ra để đọc chung với nhau không? Chúng ta có suy gẫm trong khi lần hạt Mân Côi không? Tin Mừng được đọc và suy gẫm trong gia đình giống như bánh ngon dưỡng nuôi con tim của mọi người. Vào ban sáng và ban chiều, khi chúng ta ngồi vào bàn ăn, hãy tập cũng nhau đọc một lời cầu nguyện rất đơn sơ: đó là Chúa Giêsu đến giữa chúng ta, như Ngài đã đến nhà của Marta, Maria và Ladarô vậy.

Trong lời cầu nguyện của gia đình, trong những lúc mạnh khỏe cũng như trong những lúc khó khăn, chúng ta hãy tín thác nơi nhau, mỗi người được gìn giữ bởi tình yêu của Thiên Chúa.

ĐTC đã kêu gọi tín hữu Roma và du khách hành hương tham dự “Ngày quốc tế cầu nguyện cho việc săn sóc thụ tạo” mùng 1 tháng 9 tới đây. Ngài nói: Trong niềm hiệp thông với các anh em chính thống và với mọi người thiên chí, chúng ta muốn cống hiến phần đóng góp của chúng ta cho việc thắng vượt cuộc khủng hoảng mà nhân loại đang sống.

Trên toàn thế giới trong các thực tại khác nhau của các Giáo Hội địa phương người ta đã đề ra các sáng kiến thích hợp cầu nguyện và suy tư  để làm cho Ngày này trở thành một thời điểm mạnh mẽ nhằm có các kiểu sống trung thực.

Với các Giám Mục, linh mục, các người sống đời thánh hiến và tín hữu giáo dân của các cơ quan trung ương Tòa Thánh chúng ta sẽ gặp nhau trong đền thờ thánh Phêrô lúc 17 giờ cho buổi cử hành Lời Chúa, mà ngay từ bầy giơ tôi mời tín hữu Roma cũng như du khách hành hương và những ai muốn, cùng tham dự.

ĐTC đã chào các nhóm hành hương và cầu mong chuyến viếng thăm Roma củng cố đức tin và giúp họ đồng cảm với Giáo Hội. Ngài cũng xin mọi người cầu nguyện cho gia đình.

Trong số các nhóm tiếng Ý ĐTC chào các nữ tu dòng Thánh Nhan và các nữ tu Preziosine tỉnh Monza, cả hai dòng đang tham dự tổng tu nghị, cũng như các thành viên Tu hội đời Gia đình Phan sinh nhỏ”.

Ngài nhắc cho mọi người biết hôm nay lễ nhớ thánh nữ Monica, mẹ của thánh Agostino. Chúng ta hãy phó thác các đôi tân hôn và cha mẹ kitô cho lời bầu cử của hai thánh, để họ noi gương các ngài đồng hành với con cái qua gương sống và lời cầu nguyện. Ngài cũng phó thác cho các vị các anh chị em đau yếu và những người cần ủi an và chú ý. Ngài cầu mong các bạn trẻ noi gương thánh Agostino hướng tới Chân Lý và tình Yêu tràn đầy.

Buổi tiếp kiến đã kết thúc với Kinh Lạy Cha và phép lành toà thánh ĐTC ban cho mọi người.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio