Đức Thánh Cha hành hương viếng mộ 2 linh mục Italia

Đức Thánh Cha hành hương viếng mộ 2 linh mục Italia

VATICAN. ĐTC đã dành trọn sáng ngày 20-6-2017, để hành hương viếng mộ hai cha sở dấn thân xây dựng hòa bình, công lý và giáo dục các trẻ em nghèo ở Bozzolo và Barbiana, bắc Italia.

Viếng mộ Cha Mazzolari

Vị thứ nhất là Cha Mazzolari (1890-1959), cha sở giáo xứ Bozzolo gần Mantova từ năm 1932. Năm 1925, cha chống lại đảng phát xít ở Italia và từ năm 1943, cha tích cực tham gia kháng chiến. Trong thập niên 1950, cha Mazzolari dấn thân bênh vực những người bị thiệt thòi về mặt xã hội và chống lại ý niệm gọi là ”cuộc chiến tranh chính đáng”. Cha qua đời năm 1959 thọ 69 tuổi. Án phong chân phước cho cha sắp được khởi sự tại giáo phận Cremona vào tháng 9 tới đây.

ĐTC đã đáp trực thăng tới Bozzolo lúc 9 giờ, một làng hiện có 4.200 dân cư. Tại đây ngài được Đức Cha Antonio Napolioni, GM giáo phận Cremona, và xã trưởng địa phương tiếp đón cùng với đông đảo các em học sinh.

Sau khi cầu nguyện trong thinh lặng tại mộ cha Mazzolari ở nhà thờ giáo xứ, ĐTC đã đọc một bài huấn dụ dài nêu rõ tính chất thời sự trong sứ điệp và tấm gương của Cha Mazzolari cũng như của cha Milani, mặc dù không luôn được cảm thông và quí chuộng trong thời đại của các vị. Ngài nói: ”Cha Mazzolari không phải là một người tiếc nuối Giáo Hội quá khứ, nhưng đã tìm cách thay đổi Giáo Hội và thế giới, qua tình yêu say mê và sự tận tụy hiến thân vô điều kiện. ĐTC nhắn nhủ các linh mục hãy noi gương cha Mazzolari lắng nghe thế giới, nghe những người đang sống và hoạt động trong đó, đón nhận và đáp ứng mọi yêu cầu về ý nghĩa và hy vọng, không sợ đi qua những sa mạc và những vùng tăm tối. Như thế chúng ta có thể trở thành Giáo Hội nghèo cho và với người nghèo, Giáo hội của Chúa Giêsu”.

Viếng mộ Cha Milani

Vị LM thứ hai ĐTC đến hành hương viếng mộ là cha Lorenzo Milani (1923-1967), thuộc tổng giáo phận Firenze.

Tại làng nhỏ Barbiana, cha tổ chức các trường học trọn ngày để các trẻ em nghèo ở những làng mạc rải rác trên miền núi có thể được giáo dục. Cha qua đời cách đây 50 năm (1967) vì bệnh ung thư, lúc mới được 44 tuổi.

Giã từ làng Bozzolo, ĐTC đáp trực thăng đến làng Barbiana, gần thành phố Firenze vào lúc quá 11 giờ. Tại đây ngài được ĐHY Giuseppe Bertori TGM Firenze, và thị trưởng thành này tiếp đón. Sau khi viếng mộ cha Milani ở nghĩa trang, ngài gặp chung tại nhà thờ các cựu học sinh còn sống của cha Milani và thăm nhà xứ. Tại vườn bên cạnh, ĐTC chào thăm và ngỏ lời với các cựu học sinh cũng như các LM và một số người trẻ, tất cả khoảng 200 người.

Ngài đề cao sự hăng say của cha Milani trong việc giáo dục, với ý hướng khơi dậy nơi các học sinh đặc tính con người để họ cởi mở đối với Thiên Chúa.

Ngỏ lời với các giáo chức hiện diện, ĐTC nói: ”Sứ mạng của anh chị em đầy những chướng ngài nhưng cũng đầy vui mừng, nhưng đặc biệt đó là một sứ vụ, sứ vụ yêu thương, vì ta không thể giảng dạy mà không yêu thương và không ý thức rằng điều mà ta trao tặng chỉ là một quyền được hiểu biết, quyền học hỏi. Và có bao nhiêu diều cần dạy, nhưng điều nòng cốt là sự tăng trưởng của một lương tâm tự do, có khả năng đối diện với thực tại và định hướng trong thực tại được hướng dẫn nhà tình yêu thương, nhờ ước muốn dấn thân với ngươi khác, đảm nhận những vất vả, những vết thương của họ, và tránh mọi thái độ ích kỷ để phục vụ công ích”.

ĐTC cũng ngỏ lời với các LM hiện diện và nhắc nhở rằng ”Giáo Hội mà cha Milani đã tỏ cho thế giới có một khuôn mặt hiền mẫu và ân cần, nhắm mang lại cho tất cả mọi người cơ hội được gặp Thiên Chúa và mang lại sự vững chắc cho chính nhân vị của mình với trọn vẹn phẩm giá”.

Vào cuối cả hai cuộc viếng thăm, ĐTC đều ứng khẩu chào từ biệt và xin các tín hữu cầu nguyện để ngài trở nên giống như hai linh mục gương mẫu mà ngài đã viếng thăm.

Đầu buổi chiều, lúc 13 giờ 15, ĐTC lên đường trở về Vatican (SD 20-6-2017).

 

Đức Thánh Cha cử hành Lễ Mình Thánh Chúa

Đức Thánh Cha cử hành Lễ Mình Thánh Chúa

ROMA. Bí Tích Thánh Thể nhắc nhở các tín hữu về nghĩa vụ kiến tạo tình hiệp nhất giữa lòng Dân Chúa.

ĐTC nhấn mạnh điểm này trong bài giảng lễ kính Mình Máu Thánh Chúa ngài cử hành lúc 7 giờ chiều Chúa nhật 18-6-2017 tại thềm Đền Thờ thánh Gioan Laterano, trước sự hiện diện của đông đảo các tín hữu.

Ngài nhận xét rằng trong lễ Mình Thánh Chúa, đề tài tưởng niệm được nhiều lần nhắc lại: từ hành trình của Dân Chúa trong sa mạc được Chúa nuôi dưỡng bằng Manna, cho đến tưởng niệm Chúa Giêsu là bánh hằng sống từ trời Chúa, tưởng niệm lịch sử tình thương của Thiên Chúa đối với chúng ta.

”Đặc biệt Thánh Thể cũng nhắc nhở chúng ta không phải là những cá nhân riêng rẽ, nhưng là một thân thể. Như dân trong sa mạc nhận manna từ trời xuống, và chia sẻ trong gia đình (Xh 16), cũng vậy, Chúa Giêsu là Bánh từ trời, triệu tập chúng ta để cùng lãnh nhận bánh ấy và chia sẻ giữa chúng ta. Thánh thể không phải là một bí tích ”cho tôi”, nhưng là bí tích của nhiều người họp thành một thân mình duy nhất, dân thánh trung thành của Thiên Chúa, như lời Thánh Phaolo tông đồ đã dạy (1 Cr 10,17)… Thánh Thể là bí tích hiệp nhất. Ai đón nhận Thánh Thể không thể không kiến tạo sự hiệp nhất vì nảy sinh nơi người ấy, hệ di truyền DNA thiêng liêng, sự kiến tạo hiệp nhất.”

ĐTC giải thích rằng ”Bánh hiệp nhất ấy chữa chúng ta khỏi tham vọng muốn trổi vượt hơn người khác, khỏi sự ham hố vơ vét cho mình, xách động bất đồng, phổ biến những lời phê bình; Bánh Hiệp nhất khơi dậy niềm vui yêu thương nhau mà không cạnh tranh, không ghen tương và nói hành nói xấu nhau. Và giờ đây, khi sống Thánh Thể, chúng ta hãy thờ lạy và cảm tạ Chúa vì hồng ân cao cả này, là ký ức sinh động về tình thương của Chúa, làm cho chúng ta thành một thân thể duy nhất và dẫn chúng ta đến sự hiệp nhất”.

Cuối thánh lễ, đã có cuộc rước kiệu Mình Thánh Chúa từ Đền thờ Thánh Gioan Laterano đến Đền Thờ Đức Bà Cả. Giống như từ 3 năm nay, ĐTC không tham dự cuộc rước kiệu này và ngài đi xe thẳng tới Đền thờ Đức Bà Cả để đợi đoàn rước đến nơi. Tại đây ĐTC đã ban Phép lành Mình Thánh Chúa cho mọi người”.

Đây là lần đầu tiên từ 40 năm nay, ĐGH không cử hành thánh lễ Mình Thánh Chúa và chiều thứ năm, nhưng vào chiều chúa nhật theo lịch ở Italia (SD 19-6-2017)

G. Trần Đức Anh OP 

Giáo hội Philippines chuẩn bị kỷ niệm 500 năm đón nhận Tin mừng

Giáo hội Philippines chuẩn bị kỷ niệm 500 năm đón nhận Tin mừng

Manila – Giáo hội Philippines đang chuẩn bị kỷ niệm 500 năm Tin mừng được rao giảng tại đây (1521-2021). Đức cha Socrates C. Mesiona, đại diện tông tòa ở Puerto Princesa, trên đảo Palawan giải thích với hãng tin Fides: “Để chuẩn bị thích hợp cho biến cố quan trọng này, Giáo hội Philippines đã tổ chức một thời gian kéo dài 9 năm (từ năm 2013-2021) với cao điểm là năm 2021 – năm kỷ niệm.

Đức cha Socrates nhắc lại rằng: “Cách đây 500 năm, các nhà truyền giáo người Tây ban nha đã mang đức tin Kitô đến Philippines và ngày nay quốc gia này có số dân Công giáo đông nhất Á châu (và đứng thứ 4 trên toàn thế giới) với 86 giáo phận.” Đức cha cũng khẳng định rằng biến cố này sẽ là cơ hội để phát động lại đặc tính truyền giáo của Giáo hội Philippines. Ngài nói: “Chúng tôi đã nhận hồng ân đức tin Kitô qua các thừa sai đã đến trên quê hương chúng tôi; giờ đây các tín hữu Philippines được mời gọi trao tặng đức tin cho người khác.

Đức cha Socrates cũng là giám đốc quốc gia các Hội Giáo hoàng truyền giáo ở Philippines và là tổng thư ký điều hành của Ủy ban truyền giáo của Hội đồng Giám mục Philippines. Đức cha lưu ý rằng “hàng ngàn linh mục, tu sĩ và giáo dân Công giáo Philippines hiện đang truyền giáo trên khắp thế giới. Trong các hội dòng liên tục gửi các thừa sai đi truyền giáo ở hải ngoại có Hội truyền giáo Philippines, các Giáo dân truyền giáo Philippines và hàng trăm dòng tu nam nữ khác được thành lập tại địa phương, dấn thân tại các nơi mà việc rao giảng Tin mừng là một thách đố lớn do các bối cảnh xã hội chính trị.”

Antony Dameg S. Ward, điều hợp viên về đào tạo truyền giáo của các Hội Giáo hoàng truyền giáo Philippines chia sẻ rằng Giáo hội Philippines đã gia tăng các chương trình linh hoạt truyền giáo và đào tạo truyền giáo cho các linh mục, tu sĩ, giáo lý viên, giáo viên, giáo dân, với mục đích cổ võ và gây ý thức cho Dân Chúa, từ các trẻ em và người trẻ”. Việc giúp các tín hữu ý thức về ơn gọi truyền giáo rất là quan trọng: trong giai đoạn 9 năm này, Giáo hội Philippines đang chuẩn bị cho việc kỷ niệm 500 năm Kitô giáo được truyền giảng đến đất nước chúng tôi: năm 2021, đối với quốc gia này, thực sự sẽ là Năm Truyền giáo đến với muôn dân. (Agenzia Fides 16/06/2017)

Hồng Thủy

Sống Bí Tích Thánh Thể là sống Yêu Thương như Thầy Giêsu đã sống

Sống Bí Tích Thánh Thể là sống Yêu Thương như Thầy Giêsu đã sống

VATICAN. Lúc 12 giờ trưa Chúa nhật 18.06.2017, Đức Thánh Cha đã chủ sự buổi đọc kinh Truyền Tin với hàng chục ngàn tín hữu và du khách hành hương hiện diện tại Quảng trường Thánh Phêrô. Trước khi đọc kinh, Đức Thánh Cha quảng diễn bài Tin Mừng Chúa nhật Lễ Mình Máu Thánh Chúa Kitô, với lời mời gọi: Đón nhận Bí tích Thánh Thể để sống giới răn yêu thương của Chúa.

Bài huấn dụ của Đức Thánh Cha

Anh chị em thân mến!

Ở Italia cũng như nhiều quốc gia khác, chúng ta cử hành Chúa nhật hôm nay để mừng lễ Mình và Máu Chúa Kitô và thường sử dụng tiếng Latinh để gọi tên lễ này là Corpus Domini. Vào các Chúa nhật, cộng đoàn giáo hội đều tụ họp nhau xung quanh Bí tích Thánh Thể, là Bí tích Chúa Giêsu thiết lập trong Bữa Tiệc Ly. Tuy nhiên, mỗi năm chúng ta cũng mừng vui cử hành ngày đặc biệt dành cho Bí tích này, Bí tích trung tâm của đức tin, để diễn tả chóp đỉnh của sự thờ phượng mà chúng ta dâng lên Chúa Kitô, Đấng đã tự hiến làm của ăn thức uống để cứu độ chúng ta.

Bài Tin Mừng theo thánh Gioan hôm nay là một phần của bài giảng về “bánh ban sự sống” (Ga 6:51-58). Chúa Giêsu nói: “Ta là bánh hằng sống từ trời xuống. […] Và bánh Ta sẽ ban chính là thịt Ta để cho thế gian được sống”. Người muốn nói rằng Chúa Cha đã sai Chúa Con đến thế gian để Chúa Con trở nên bánh hằng sống, và để làm được điều ấy, Chúa Giêsu hy sinh chính bản thân mình. Trên thập giá, Chúa đã làm như thế, Chúa đã hiến thân mình, đã đổ máu ra. Con Người chịu đóng đinh trên thập giá chính là Chiên vượt qua, để cứu muôn dân thoát khỏi ách nô lệ tội lỗi, mà tiến về miền đất hứa. Bí tích Thánh Thể là Bí tích của Mình và Máu Chúa đã hiến dâng để cho thế gian được sống. Ai ăn thức ăn này thì sẽ sống trong Chúa và cho Chúa. Đồng hình đồng dạng với Chúa Giêsu có nghĩa là ở trong Chúa, có nghĩa là trong Chúa Con chúng ta trở nên những người con của Chúa Cha.

Trong Bí tích Thánh Thể, Chúa Giêsu tiếp tục đồng hành với chúng ta như Người đã đồng hành với các môn đệ trên đường Emmau. Chúa đồng hành với chúng ta là những kẻ hành hương trong dòng lịch sử. Chúa làm như thế để nuôi dưỡng chúng ta trong đức tin, đức cậy và đức mến; để an ủi chúng ta giữa những thử thách; để củng cố chúng ta trong những dấn thân vì công lý và hòa bình. Đó là sự hiện diện của Con Thiên Chúa ở khắp mọi nơi, từ thành thị tới nông thôn, từ Bắc đến Nam, từ các quốc gia có truyền thống Kitô giáo cho đến những nơi mới đón nhận Tin Mừng. Trong Thánh Thể, Chúa ban cho chúng ta sức mạnh thiêng liêng, để chúng ta sống giới răn của Chúa, đó là: Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Chúng ta sống giới răn yêu thương bằng cách xây dựng cộng đoàn luôn mở cửa và đón chào tất cả các nhu cầu của tất cả mọi người, đặc biệt là những người dễ bị tổn thương nhất, người nghèo và người cần được giúp đỡ.

Được Chúa Giêsu Thánh Thể nuôi dưỡng, cũng có nghĩa chúng ta phải từ bỏ chính mình, để đặt niềm tin nơi Chúa và để cho Chúa hướng dẫn. Bằng cách ấy, tình yêu nhưng không mà chúng ta nhận nơi Chúa Kitô trong Bí tích Thánh Thể với tác động của Chúa Thánh Thần, sẽ nuôi dưỡng lòng mến Chúa và tình yêu thương mà chúng ta dành cho từng anh chị em mà chúng ta gặp gỡ trên mọi bước đường đời. Được nuôi dưỡng bởi Thân Mình Chúa Kitô, chúng ta ngày càng trở nên thân thiết hơn và cụ thể hơn với Thân Thể nhiệm màu của Chúa Kitô là chính Hội Thánh. Thánh Phaolô tông đồ nhắc chúng ta nhớ rằng: “Chén chúc tụng mà chúng ta dâng lên Chúa, lại chẳng phải là thông hiệp với Máu Chúa Kitô sao? Tấm bánh chúng ta bẻ ra, chẳng phải là thông phần vào Mình Chúa đó sao? Vì có một tấm bánh, nên chúng ta tuy nhiều, nhưng chỉ là một thân thể, vì tất cả chúng ta cùng thông phần vào một tấm bánh” (1Cr 10:16-17).

Lạy Đức Nữ Trinh Maria, Mẹ luôn hiệp thông mật thiết với Đấng là Bánh Hằng Sống, xin Mẹ giúp chúng con tái khám phá vẻ đẹp của Bí tích Thánh Thể, là bí tích nuôi dưỡng đời sống đức tin, để chúng con biết sống thân thiết với Chúa và với anh chị em đồng loại.

Tiếp theo bài huấn dụ, Đức Thánh Cha đọc Kinh Truyền Tin và ban Phép Lành Tòa Thánh cho mọi người.

Đức Thánh Cha chào thăm mọi người

Anh chị em thân mến!

Thứ ba sắp tới là ngày thế giới dành cho người tị nạn, được Liên Hiệp Quốc khởi xướng. Ngày nay hơn bao giờ hết, chúng ta phải đứng về phía những người tị nạn. Cần có sự quan tâm cụ thể tới những người nữ, người nam, trẻ em. Họ phải chạy trốn khỏi bao cuộc xung đột, bạo lực và đàn áp. Chúng ta nhớ đến và cầu nguyện cho biết bao người đã thiệt mạng trên biển hoặc đang vất vả trong hành trình đi bộ. Câu chuyện về những đau khổ và hy vọng của họ có thể trở thành cơ hội cho các cuộc gặp gỡ huynh đệ và giúp hiểu biết nhau cách chân thành. Thực tế, cuộc gặp gỡ cá nhân với những người tị nạn làm xua đi những sợ hãi và những ý tưởng sai lầm, đồng thời làm tăng trưởng tình liên đới giữa người với người, và tạo nên sự cởi mở để xây dựng những nhịp cầu.

Cha bày tỏ sự gần gũi với người dân Bồ Đào Nha, vì vụ cháy rừng khủng khiếp tại Pedrógão Grande đã làm cho nhiều người chết và bị thương (hiện đã có ít nhất 57 người chết). Chúng ta hãy cầu nguyện trong thinh lặng!

Cha gửi lời chào thăm đến tất cả anh chị em, tất cả những người dân thành Roma và khách hành hương từ khắp nơi trên thế giới. Tối nay tại Đền Thờ Thánh Gioan Laterano, Cha sẽ cử thành Thánh Lễ; sau đó là cung nghinh Thánh Thể đến Đền Thờ Đức Bà Cả. Cha mời tất cả mọi người cùng tham gia, cùng hiệp thông. Cha nghĩ cách đặc biệt tới những người đau bệnh, tới các tù nhân. Trong những hoàn cảnh ấy, chúng ta có sự trợ giúp của truyền thanh và truyền hình.

Thứ ba tới đây, Cha sẽ hành hương tới Bozzolo và Barbiana để tôn kính các cha Don Primo Mazzolari và Don Lorenzo Milani. Một lần nữa Cha cám ơn tất cả mọi người, đặc biệt là các linh mục vì các vị đã đồng hành cùng Cha trong lời cầu nguyện.

Sau cùng Đức Thánh Cha chào tạm biệt mọi người và Ngài nói lời mời gọi quen thuộc: Xin anh chị em đừng quên cầu nguyện cho Cha!

Tứ Quyết SJ

Người đàn ông lượm rác được mệnh danh là vua sách

Người đàn ông lượm rác được mệnh danh là vua sách

Tại Bogotà, thủ đô Colombia bên Mỹ Châu Latinh, từ 20 năm nay, có một người đàn ông lượm rác được mệnh danh là vua sách. Đó là ông José Alberto Gutierrez, năm nay 54 tuổi. Ông làm nghề lái xe hốt rác. Và từ 20 năm nay, ông đã biến căn nhà khiêm hạ của ông thành một thư viện bình dân cho người trong khu xóm.

Mọi chuyện đã bắt đầu với những chuyến lái xe đi hốt rác đầu tiên hồi năm 1997, khi ông thấy hàng thùng sách bị quẳng ra đường. Tác phẩm đầu tiên mà ông nhặt được là cuốn Anna Karenine của nhà đại văn hào người Nga Leon Tolstoi, nằm chỏng chơ trên một thùng đầy sách ở bên vệ đường. Ông đã không ngần ngại bưng nguyên thùng sách về nhà và khám phá ra bao nhiêu là tác phẩm khác, từ những tiểu thuyết lừng danh như Hoàng tử bé, thế giới của Sophie, đến thơ truyện hay sách giáo khoa vv…và lẽ dĩ nhiên là rất nhiều sách của Gabriel Garcia Marquez, nhà văn hào người Colombia đoạt giải Nobel văn chương.

Tiếng đồn dần dần lan ra, người trong xóm bắt đầu lui tới xin mượn sách giáo khoa để giúp con cái làm bài vở học hành, tiếp đến mượn sách để đọc giải trí, và thế là nhà của ông hốt rác đã trở thành một thư viện, lấp đầy một khoảng trống trong khu vực nỏi ông sinh sống. Năm 2000, cùng với vợ là bà Luz Mery và ba đứa con, ông biến hẳn tầng trệt rộng 90 mét vuông thành thư viện có tên gọi là Mãnh lực của chữ nghĩa.

Sáng kiến này đã thành công vượt bậc. Rất nhiều người thiện nguyện đã đến xin giúp gia đình yêu sách vở này một tay. Có nhiều người đến từ nước ngoài nữa. Có lẽ đây là thư viện duy nhất trên thế giới tặng sách cho những người đến mượn. Có những cuốn sách thật giá trị nhưng lại ở trong tình trạng thê thảm khi bị vất bỏ, khiến bà Luz đã mở một loại “bệnh viện chữa sách” bỏ công bỏ của tân trang lại hầu như lành lặn hoàn toàn.

Tiếng tăm của thư viện “mãnh lực của chữ nghĩa” lan rộng ra khắp nơi, từ trong vùng rồi trên toàn quốc và vượt ra ngoài biên giới quốc gia. Ông José Alberto được mời đến thăm nhiều hội chợ triển lãm sách mới tại Santiago bên Chilê, Monterrey bên Mêhicô và Bogotà và nhiều nhà xuất bản đã tặng sách cho thư viện. Ngày nay, thư viện có trên 25 ngàn tác phẩm và mở cửa suốt để tặng hay cho mượn sách.

Ông bà Gutierrez rất vui mừng và nói Thật là khó tin được. Càng cho đi lại càng nhận được nhiều hơn. Để có thể dành chỗ nhận sách mới, ông bà lấy thời gian rảnh rỗi đi đến những vùng xa xôi cách trở và nghèo khó để phát hay tặng sách. Nhiều trường học cũng gọi đến để xin sách cho học sinh nghèo. Cho đến nay, sách tặng biếu đã được thư viện gửi đến 235 nơi khác nhau trong nước, trong đó có cả những nơi vừa mới ra khỏi cuộc nội chiến kéo dài hơn 50 năm qua giữa quân đội chính quy và lực lượng phiến quân FARC. Một phiến quân đã liên lạc với ông xin ông gửi sách cho các nhóm du kích để họ có thể chuẩn bị hành trình trở về đời sống dân sự sau thỏa hiệp hòa bình ký kết hồi cuối tháng 11 năm ngoái.

Ông José nói: Tôi yêu sách từ khi còn nhỏ, sống tại một nơi hẻo lánh, nghe mẹ tôi đọc sách dạy con hàng đêm. Chính điều này đã thay đổi con người tôi. Sách giúp con người phát triển tâm linh. Tôi cũng đang cố gắng trở lại học tập và sắp thi tú tài. Tôi nghĩ đến những du kích quân và tin chắc rằng nơi chốn rừng sâu ấy, sách cũng là một dấu hiệu hòa bình, một biểu tượng của lòng hy vọng.

(AFP 06.06.2017) 

Mai Anh

Thế giới không có tình yêu thương là một hoả ngục

Thế giới không có tình yêu thương là một hoả ngục

Một thế giới không có tình yêu thương và sự chú ý săn sóc của con người đối với nhau là một hoả ngục, chứ không phải là một thế giới nhân bản. Thiên Chúa yêu thương chúng ta vì ngài là Tình Yêu và Ngài yêu thương cả khi chúng ta tội lỗi.

ĐTC Phanxicô đã khẳng định như trên với 30.000 tín hữu và du khách hành hương năm châu trong buổi tiếp kiến chúng sáng thứ tư 14.06.2017. Mở đầu bài huấn dụ ĐTC cho biết buổi tiếp kiến được tổ chức ở hai nơi: trong đại thính đường Phaolô VI cho các anh chị em đau yếu, vì trời quá nóng đối với họ, và tại quảng trường cho mọi người còn lại. Chúng ta tất cả được nối kết bởi Chúa Thánh Thần là Đấng luôn luôn tạo sự hiệp nhất. Chúng ta chào các anh chị em ở trong đại thính đường Phaolô VI. Sau đó ĐTC giải thích dụ ngôn người con hoang đàng như kể trong chương 15 Phúc Âm thánh Luca và nói:

Không ai trong chúng ta có thể sống mà không có tình yêu thương. Thật là một cảnh nô lệ xấu xa trong đó chúng ta có thể rơi vào, đó là cho rằng tình yêu thương là điều được thưởng. Có lẽ phần lớn nỗi lo lắng của con người ngày nay phát xuất từ điều này: đó là tin rằng nếu chúng ta không mạnh mẽ, hấp dẫn và xinh đẹp, thì khi đó không có ai lo lắng cho chúng ta. Biết bao nhiêu người ngày nay chỉ kiếm tìm tính cách hữu hình để lấp đầy sự trống rỗng bên trong: làm như thể chúng ta là những người muôn đời cần có các xác nhận. Tuy nhiên, anh chị em có tưởng tượng được một thế giới mà trong đó tất cả mọi ngươi đều ăn mày các lý do để khơi dậy sự chú ý cuả người khác không, và trái lại không có ai sẵn sàng yêu thương người khác một cách nhưng không?  Hãy tưởng tượng một thế giới như vậy: một thế giới không có sự nhưng không của tình yêu thương! Xem ra là một thế giới nhân bản, nhưng thật ra nó là một hoả ngục. Biết bao nhiêu chủ trương chiêm ngắm chính mình của con người nảy sinh từ một tình cảm cô đơn và mồ côi. Đàng sau biết bao nhiêu thái độ hành xử không thể giải thích được có ẩn dấu câu hỏi: “Có lẽ nào tôi lại không đáng được gọi tên hay sao, nghĩa là không đáng được yêu thương sao?” Bởi vì tình yêu thương luôn luôn gọi tên…

** Khi một thanh thiếu niên không được hay cảm thấy không được yêu thương, thì bạo lực nảy sinh. Đàng sau biết bao nhiêu hình thức của thù ghét xã hội và chủ trương đập phá thường có một con tim không được thừa nhận. Không có các trẻ em xấu, cũng như không có các người trẻ  hoàn toàn hoang dại, nhưng có các con người bất hạnh. Và cái gì có thể khiến cho chúng ta hạnh phúc, nếu không phải là kinh nghiệm của tình yêu thương được trao ban và được nhận lãnh? Cuộc sống con người là một trao đổi các cái nhìn: có ai đó nhìn chúng ta và giật được từ chúng ta nụ cười đầu tiên, và chúng ta là những người trao ban nụ cười một cách nhưng không cho người bị khép kín trong buồn sầu, và như thế chúng ta mở ra cho họ một lối thoát. Trao đổi cái nhìn: nhìn vào mắt và mở ra các cánh cửa của con tim. Bước đầu tiên mà Thiên Chúa làm với chúng ta là bước đi của một tình yêu thương được đi trước và vô điều kiện. Thiên Chúa yêu thương trước. Tiếp tục bài huấn dụ ĐTC nói:

Thiên Chúa yêu thương chúng ta bởi vì Ngài chính là Tình yêu, và tự bản chất của nó tình yêu hướng tới chỗ tự phổ biến và trao ban. Thiên Chúa cũng không ràng buộc lòng nhân lành của Ngài vào việc hoán cải của chúng ta: có chăng  đó là sự hoán cải là một kết quả tình yêu thương của Thiên Chúa. Thánh Phaolô diễn tả nó một cách hoàn hảo khi nói: “Thiên Chúa chứng minh tình yêu của Ngài đối với chúng ta trong sự kiện khi chúng ta còn là những kẻ tội lỗi, Chúa Kitô đã chết cho chúng ta” (Rm 5,8). Trong khi chúng ta còn là những người tội lỗi. Một tình yêu thương vô điều kiện. Trong khi chúng ta còn ở xa, như người con hoang đàng của dụ ngôn: “Khi nó còn ở đàng xa, cha nó trông thấy nó, và cảm thương…” (Lc 15,20).  

Vì yêu thương chúng ta Thiên Chúa đã thực thi một cuộc xuất hành khỏi chính Ngài, để đến kiếm tìm chúng ta trong vùng đất, nơi thật là vô nghĩa khi Ngài phải đến sống. Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta cả khi chúng ta đã lầm lỗi.

Ai trong chúng ta yêu thương kiểu đó, nếu không phải là một ngưòi cha hay một người mẹ? Một bà mẹ tiếp tục yêu thương con mình cả khi nó ở trong tù. Tôi nhớ tới biết bao bà mẹ, xếp hàng để vào nhà tù trong giáo phận trước đây của tôi. Họ không xấu hổ. Đứa con họ ở trong tù, nhưng nó là con của họ. Và họ chịu biết bao tủi nhục, khi bị lục soát trước khi vào nhà tù. Nhưng “Nó là con của tôi”. “Nhưng bà ơi, con bà là một tên tội phạm!” “Nó là con tôi!” Chỉ có tình yêu của người mẹ người cha làm cho chúng ta hiểu tình yêu của Thiên Chúa như thế nào.

** Một bà mẹ không xin xoá bỏ công lý nhân loại, bởi vì mỗi lầm lỗi đòi hỏi một đền bù, nhưng một bà mẹ không bao giờ  thôi đau khổ cho con mình. Bà yêu thương nó cả khi nó là một tội nhân. Thiên Chúa cũng làm cùng điều đó đối với chúng ta: chúng ta là con cái của được yêu thương của Ngài! Có thể Thiên Chúa có vài người con mà Ngài không yêu không? Không đâu. Chúng ta tất cả đều là các con cái được Thiên Chúa yêu thương. Không có một lời chúc dữ nào trên cuộc sống của chúng ta, nhưng chỉ có lời nhân lành của Thiên  Chúa, là Đấng đã kéo sự sống của chúng ta ra từ hư không. Sự thật của tất cả những điều đó là tương quan tình yêu thương gắn liền Thiên Chúa Cha với Chúa Con qua Chúa Thánh Thần, tương quan trong đó chúng ta được tiếp nhận do ơn thánh. Trong Ngài, trong Đức Kitô Giêsu, chúng ta đã được muốn, yêu thương và mong ước. Có Một Người đã in trong chúng ta một vẻ đẹp nguyên thuỷ, mà không tội lỗi nào, không lựa chọn sai lầm nào có thể xoá nhoà tất cả. Trước mắt Thiên Chúa chúng ta luôn luôn là các con suối nhỏ được làm để vọt lên nước ngon. Chúa Giêsu đã nói với người đàn bà xứ Samaria: “Nước mà tôi sẽ cho chị, sẽ trở thành nơi chị một suối nước vọt lên cho sự sống vĩnh cửu” (Ga 4,14).

Để thay đổi con tim của một người bất hạnh, thì đâu là phương dược? Đâu là thuốc giúp thay đổi con tim của một người không hạnh phúc? Tín hữu trả lời: tình yêu. ĐTC nói: “Hãy nói to hơn”. Tín hữu la to: tình yêu. Giỏi, giỏi, tất cả đều giỏi! Và làm thế nào để cho khiến cho một người cảm nhận được là ta yêu thương họ? Trước hết cần ôm họ trong vòng tay, làm cho họ cảm nhận được rằng họ được ước mong, rằng họ quan trọng, và họ sẽ thôi buồn. Tình yêu kêu gọi tình yêu, một cách mạnh mẽ hơn thù hận mời gọi cái chết. Chúa Giêsu đã không chết và sống lại cho chính Ngài, mà cho chúng ta, để tội lỗi chúng ta được tha thứ. Vì thế đây là lúc phục sinh cho tất cả mọi người: là lúc nâng các kẻ nghèo hèn đứng dậy khỏi sự chán nản, nhất là những kẻ nằm trong mồ từ một thời gian lâu hơn là ba ngày. Ở đây một ngọn gió giải phóng thổi trên mặt chúng ta. Ở đây nẩy mầm ơn của niềm hy vọng. Và niềm hy vọng là niềm hy vọng của Thiên Chúa Cha yêu thương chúng ta như chúng ta là: Ngài luôn luôn yêu thương chúng ta và yêu thương tất cả mọi người.

** ĐTC đã chào các đoàn hành hương hiện diện, trong đó có các đoàn đến từ Pháp, Bỉ, đảo Maurizitius, đặc biệt các sinh viên tham dự đại hội Olivaint tại Paris. Ngài nhắc cho mọi người nhớ tất cả đều quý báu trước mặt Chúa, và sự thật này là suối nguồn trao ban hy vọng.

Chào các đoàn hành hương đến từ Anh quốc, Thụy Điển, Hồng Kông, Pakistan, Philippines, Đại Hàn, Thái Lan, Canada và Hoa Kỳ ĐTC cầu chúc Chúa Kitô ban cho họ nhiều niềm vui và an bình.

Với các nhóm nói tiếng Đức, đặc biệt là cộng đoàn các cha Scolopi Illertissen, ngài nhắc cho biết tháng sáu là tháng kính Thánh Tâm  Chúa Giêsu, suối nguồn vô tận của tình yêu. Chúng ta hãy làm chứng cho tình yêu ấy của Chúa, bằng cách trao ban nó cho những người chúng ta gặp gỡ trong cuộc sống thường ngày.

Với các nhóm nói tiếng Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha trong đó có các đoàn hành hương Brasil, ngài xin Mẹ Maria giúp mọi người biết ra khỏi chính mình và noi gương Mẹ thông truyền tình yêu của Chúa cho tha nhân.

Chào các tín hữu Ba Lan ĐTC nhắc lại tư tưởng của thánh Gioan Phaolô II trong thông điệp Đấng Cứu Độ con người và nói: “Con người là sinh vật không thể hiểu đuợc và cuộc sống của nó vô nghĩa, nếu nó không gặp gỡ tình yêu thương và sống kinh nghiệm yêu thương, lấy đó làm của riêng mình và tham dự vào đó cách sống động” (s. 10) Chúng ta đừng sợ hãi tình yêu thương và các đòi hỏi của nó. Hãy khiến cho nó trở thành to lớn, xinh đẹp và có trách nhiệm trong cuộc sống, để là một ánh sáng hy vọng cho tha nhân.

Trong các nhóm Ý ĐTC chào các tân linh mục giáo phận Brescia bắc Italia, hiệp hội Bác ái không biên giới giáo phận San Marino Montefeltro kỷ niệm 20 năm thành lập, liên hiệp người mù Italia, hiệp hội Silvana Angelucci của nhiều vùng Italia, hiệp hội văn hóa Reatium kỷ nhiệm ĐGH Zosimo, thân nhân của các bính sĩ bị chết trong các sứ mệnh bảo hoà. ĐTC bầy tỏ sự trìu mến, gần gũi, ủi an và khích lệ họ.

Chào các bạn trẻ người đau yếu và các đôi tân hôn ngài nhắc hôm qua Giáo Hội mừng kính thánh Antôn thành Padova, “vị giảng thuyết tài ba bổn mạng dân nghèo và người đau khổ.” Ngài khích lệ giới trẻ đừng mệt mỏi noi gương sống của thánh nhân; người đau yếu xin thánh nhân bầu cử cho họ trong tật bệnh; và các cặp vợ chồng mới cưới thi đua học hỏi và sống Lời Chúa trong đời hôn nhân.

Buổi tiếp kiến đã kết thúc với Kinh Lạy Cha và phép lành toà thánh ĐTC ban cho mọi người.

Linh Tiến Khải

“Ngón trỏ bàn tay phải”. Hồi ký của cha Luigi Ginami, truyền giáo ở Kenya

“Ngón trỏ bàn tay phải”. Hồi ký của cha Luigi Ginami, truyền giáo ở Kenya

Cửa lên máy bay cho chuyến bay từ Roma đến Amsterdam sắp sửa đóng. Tôi cầm hộ chiếu trong tay, và tìm vé máy bay trong chiếc balô… Tôi tìm thấy nó. Thật ra tôi có 3 thẻ lên máy bay. Bay từ Roma đến Mombasa với giá chỉ 525 euro, nên tôi phải bay 18 giờ, với 3 chuyến bay. Từ Roma đến Amsterdan, rồi tối nay, từ Amsterdam đến Nairobi và ngày mai, từ Nairobi đến Mombasa.

Tôi cố nhớ xem mình đã cầm tất cả đồ đạc của mình chưa. Tôi an tâm vì tôi đã có tất cả. Tôi có thể lên máy bay. Trước mặt tôi chỉ có ít người, vì tất cả hầu như đã lên máy bay. Tôi từ từ đi tới và một cô chiêu đãi viên đón tôi với nụ cười mỉm chi. Cô ta còn trẻ, chắc chưa đến 30 tuổi. Rất xinh đẹp, trang điểm cẩn thận. Nhưng tôi không bị ấn tượng bởi sắc đẹp hay lối trang điểm của cô, mà điều đánh động tôi chính là ngón tay trỏ bàn tay phải của cô. Trước mặt tôi có hai người. Tôi quan sát cô chiêu đãi viên cầm lấy thẻ lên máy bay, rồi trả lại đuôi thẻ cho hành khách đi trước tôi. Chính lúc cô cầm lấy thẻ lên máy bay của hành khách, tôi nhìn ngón tay trỏ của cô. Có một chiếc nhẫn vàng. Tôi tò mò. Tôi là một linh mục… trí óc tôi nghĩ đến điều gì đó. Tôi dừng lại suy nghĩ vừa đến trong đầu và chú tâm vào cuộc sống hiện tại. Tôi không nhìn rõ lắm, nhưng mắt tôi sáng lên cách chính xác: đúng rồi, một chiếc nhẫn Mân côi 10 hạt. Tôi nhìn lần thứ hai và chắc chắn đúng vậy.

Cô chiêu đãi viên nhìn tôi mỉm cười, rồi nhìn vào hộ chiếu và thẻ lên máy bay của tôi… Một cách nhẹ nhàng, tôi thận trọng nắm bàn tay cô một vài giây ngắn ngủi. Trong khi nắm bàn tay được chăm sóc cẩn thận của cô, tôi nói với cô: “Cám ơn vì tấm gương đẹp tuyệt vời cô đã cho tôi thấy. Đừng bao giờ  cảm thấy xấu hổ khi tỏ cho tất cả các hành khách thấy rằng cô đeo một nhẫn Mân côi ở ngón tay. Tôi chắc chắn là cô cũng lần chuỗi Mân côi.” Cô gái trẻ đỏ mặt, nhìn xuống bàn tay mình, rôi nhìn thẳng vào mắt tôi. Tôi nói với cô: “Tôi là một linh mục. Tôi đang đi đến một nước Hồi giáo và tôi cảm thấy vui khi thấy rằng cô không xấu hổ khi là một Kitô hữu. Tôi đi đến trại tập trung Dadaab ở biên giới Kenya và Somalia!” Cô nói với tôi: “Thưa cha, rất nguy hiểm…. Con biết nó là gì và thật là buồn. Ở đó có cả biển người đang đau khổ. Cha cẩn thận nhé.” …

Tôi trả lời cô: “Bởi vì thế, lòng cha vui mừng khi nhìn thấy chuỗi Mân côi trên ngón tay con. Tốt lắm! Đừng bao giờ sợ tỏ ra mình là Kitô hữu. Khi con cầm các vé máy bay, con làm chứng bằng ngón tay trỏ này, con đang dạy giáo lý. Rất nhiều người, phần lớn, không biết nó, nhưng một người là đủ, một linh mục nghèo khó như cha, để nói rằng, ngày hôm nay, với một dấu hiệu nhỏ của người Kitô hữu của con, con đã làm một điều lớn lao.”

Tôi rút ra từ ngón tay tôi chiếc nhẫn Mân côi bằng nhựa màu vàng, từ Iraq, mà tôi đã chọn như bạn đồng hành của tôi. Tôi nói với cô chiêu đãi viên: “Nhìn xem! Cái này cha lấy ở một trại tị nạn cách Mosul 45 cây số. Những người dân khốn khổ ở đó cũng không xấu hổ là Kitô hữu và vì lý do này họ đã mất tất cả. Họ bị nhóm Hồi giáo ISIS đe dọa và phải rời bỏ quê quán, di tản đi nơi khác. Con không cần phải bỏ tất cả, nhưng chỉ đơn giản là can đảm tiếp tục làm điều con làm ngày hôm nay. Con hứa với cha không?”

Cô gái dịu dàng nhìn tôi và nói: “Cha ơi, cám ơn điều cha đã nói với con! Con vui vì sự khen ngợi của cha. Con lần hạt Mân côi mỗi ngày và con hứa với cha là khi cha đang bay đến Amsterdam, thì con sẽ đang đọc kinh Mân Côi cầu nguyện cho cha.” Tôi nắm chặt tay cô chiêu đãi viên và lòng tôi cảm thấy  có một sức mạnh to lớn và bình an. Tôi không cô đơn lẻ loi: rất nhiều người tốt lành cầu nguyện cho tôi…

Máy bay đang hạ cánh, tôi phải ngừng viết, tôi nghĩ đến cô chiêu đãi viên và kinh Mân Côi cô cầu nguyện cho tôi trong những giờ phút này… Chúng tôi đang rời máy bay… Một người đàn ông ở tuổi trung niên đặt tay của ông lên thành ghế trước mặt tôi, và … trên ngón tay đeo nhẫn của bàn tay phải … một nhẫn Mân côi. Tôi bắt kịp ông ta ở sân bay và lịch sự chào ông. Cả bà vợ của ông cũng có chiếc nhẫn Mân côi ở ngón tay.

Nếu bạn nhìn kỹ xung quanh mình, có nhiều đức tin hơn bạn tưởng. Hãy tìm kiếm đức tin, vì nó không bày tỏ ra, nó khiêm nhường và kín đáo, nhưng lại có hiệu quả tuyệt vời: đó là chứng ta. Hôm nay, khi đang trên đường bay đến Amsterdam, tôi đã học được tất cả điều này. Chỉ là một vài giờ hành trình…. (VoltiDiSperanza 7 Joe 13-16)

Hồng Thủy

Công bố Sứ Điệp Đức Thánh Cha nhân Ngày Thế giới người nghèo

Công bố Sứ Điệp Đức Thánh Cha nhân Ngày Thế giới người nghèo

VATICAN. Sáng 13-6-2017, Đức TGM Rino Fisichella, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh tái truyền giảng Tin Mừng, đã mở cuộc họp báo để công bố sứ điệp của ĐTC nhân Ngày thế giới lần đầu tiên về người nghèo sẽ được cử hành vào ngày 19-11 năm nay, chúa nhật thứ 2 của tháng 11.

Hiện diện tại cuộc họp báo cũng có Đức Cha José Octavio Ruiz Arenas, Tổng thư ký Hội đồng Tòa Thánh tái truyền giảng Tin Mừng.

Trong sứ điệp, ĐTC cho biết ngài thiết định Ngày Thế giới người nghèo khi bế mạc Năm Thánh Đặc biệt về Lòng Thương Xót, để ”trong toàn thế giới, các cộng đoàn Kitô ngày càng trở nên dấu chỉ cụ thể và rõ ràng về tình yêu thương của Chúa Kitô đối với những người rốt cùng và túng thiếu nhất”.

Sau khi mô tả nhiều tình trạng của những người nghèo đói do những nguyên nhân khác nhau gây ra, nhất là nghèo đói vì những bất công xã hội, lầm than về luân lý, sự ham hố của một thiểu số và thái độ dửng dưng lãnh đạm của nhiều người, ĐTC khẳng định rằng: ”Đáng tiếc là thời nay, ngày càng xuất hiện thứ giàu sang vô liêm sỉ, tích trữ trong tay một thiểu số người ưu tiên, và thường có kèm thao tình trạng bất hợp pháp, sự bóc lột thẳng tay phẩm giá con người, sự nghèo đói lan rộng trong nhiều lãnh vực xã hội trên thế giới”.

Không ai được giữ thái độ bất động, cam chịu trước tình cảnh trên đây, ”trước cảnh nghèo cản trở tinh thần sáng kiến của bao nhiêu người trẻ, cản ngăn họ trong việc tìm kiếm một công ăn việc làm; cảnh nghèo làm tê liệt ý thức trách nhiệm, khiến người ta thích ủy việc cho người khác và tìm kiếm những ân huệ; cảnh nghèo làm ô nhiễm sự tham gia và thu hẹp không gian của sự chuyên nghiệp, và hạ giá công trạng của người làm việc và sản xuất; đứng trước tất cả những tình trạng đó cần có một quan niệm mới cề cuộc sống và xã hội”.

ĐTC đặc biệt đề cao tấm gương cảu thánh Phanxicô Assisi, người không chỉ ”hài lòng với việc ôm lấy và làm phúc cho những người phong cùi, nhưng còn quyết định đi tới Gubbio để sống với họ”.

Trong sứ điệp, ĐTC viết thêm rằng:

”Tôi mời gọi toàn thể Giáo Hội và những người nam nữ thiện chí, trong ngày này, hãy nhìn vào những người đang giơ tay kêu cứu và xin tình liên đới của chúng ta… Ngày này trước tiên nhắm khích lệ các tín hữu để họ phản ứng chống lại nền văn hóa gạt bỏ và phung phí, đón nhận nền văn hóa gặp gỡ. Đồng thời tôi mời gọi tất cả mọi người, không phân biệt tôn giáo, hãy cởi mở chia sẻ với người nghèo trong mọi hình thức liên đới, như dấu chỉ tình huynh đệ”. (n.6)

ĐTC cũng cầu mong rằng ”trong tuần lễ trước Ngày Thế giới người nghèo, hãy dấn thân kiến tạo nhiều lúc gặp gỡ, thân hữu, liên đới, trợ giúp cụ thể. Có thể mời những người nghèo và những người thiện nguyện cùng tham dự thánh lễ chúa nhật Ngày Thế giới người nghèo, năm nay là Chúa nhật 33 thường niên, để việc cử hành Chúa nhật sau đó, lễ Chúa Kitô Vua, càng có tính chất chân thực hơn. Thực vậy, Vương quyền của Chúa Kitô biểu lộ trọn ý nghĩa trên đồi Golgotha, khi Đấng Vô Tội bị đóng đanh vào thập giá, trần trụi và thiếu thốn mọi sự, trở thành hiện thân và tỏ lộ tình yêu sung mãn của Thiên Chúa..”

Cũng trong sứ điệp, ĐTC đề nghị rằng ”Trong Ngày Thế giới người nghèo, nếu trong khu xóm chúng ta có những người nghèo tìm kiếm sự bảo vệ và trợ giúp, chúng ta hãy đến gần họ: đó sẽ là lúc thích hợp để gặp gỡ Thiên Chúa mà chúng ta tìm kiếm. Theo giáo huấn của Kinh Thánh (Xc St 18,3-5), Dt 13,2), chúng ta hãy đón nhận họ như những người khách ưu tiên tại bàn ăn của chúng ta; họ có thể là những thầy dạy giúp chúng ta sống đức tin một cách phù hợp hơn”.

ĐTC đề cao kinh nguyện như nền tảng của bao nhiêu sáng kiến cụ thể có thể thực hiện trong Ngày Thế Giới người nghèo. Ngài viết: ”Chúng ta đừng quên rằng Kinh Lạy Cha là kinh nguyện của người nghèo. Thực vậy, lời cầu xin cơm bánh biểu lộ sự phó thác cho Thiên Chúa những nhu cầu sơ đẳng của đời sống chúng ta. Khi Chúa Giêsu dạy chúng ta, qua kinh nguyện này, biểu lộ và đón nhận tiếng kêu của người đau khổ vì cuộc sống bấp bênh và vì thiếu những điều cần thiết”.

Trong cuộc họp báo giới thiệu Sứ điệp, Đức TGM Fisichella cho biết chúa nhật 19-11-2017, sau thánh lễ tại Quảng trường Thánh Phêrô, ĐTC sẽ dùng bữa trưa với 500 người nghèo tại Đại thính đường Phaolô 6 ở Nội thành Vatican. (SD 13-6-2017)

G. Trần Đức Anh OP 

 

Trang web chuẩn bị cho Thượng Hội đồng giám mục năm 2018

Trang web chuẩn bị cho Thượng Hội đồng giám mục năm 2018

Vatican – Văn phòng thư ký Thượng hội đồng giám mục thông báo việc khai trương  trang web để chuẩn bị cho Thượng Hội đồng giám mục thường kỳ lần thứ XV. Thượng hội đồng giám mục lần thứ XV sẽ được tổ chức vào tháng 10 năm 2018 với chủ để: “người trẻ, đức tin và phân định ơn gọi.”

Trang internet này sẽ bắt đầu hoạt động từ ngày 14/06/2017 tại địa chỉ: http: //youth.synod2018.va

Việc khai trương trang web nhắm cổ vũ sự tham gia rộng rãi của tất cả người trẻ trên thế giới, không chỉ để nhận các thông tin về Thượng hội đồng nhưng còn liên kết và tham dự vào quá trình chuẩn bị.

Trang web cũng có một bản câu hỏi online, bằng các ngôn ngữ khác nhau (Ý, Anh, Pháp, Bồ đào nha và Tây ban nha), trực tiếp gửi đến giới trẻ. Các câu trả lời cần được gửi đến văn phòng Tổng thư ký trước ngày 30/11/2017. Các câu trả lời sẽ rất hữu ích cho quá trình chuẩn bị biến cố Thượng hội đồng và sẽ là một phần của các tài liệu tham vấn mà văn phòng Tổng thư ký đang hướng đến mọi thành phần Dân Chúa. (REI 13/06/2017)

Hồng Thủy

Cộng đoàn kitô phản ánh cuộc sống hiệp thông của Thiên Chúa Ba Ngôi

Cộng đoàn kitô phản ánh cuộc sống hiệp thông của Thiên Chúa Ba Ngôi

Với tất cả các hạn hẹp nhân loại cộng đoàn kitô có thể trở thành một phản ánh của sự hiệp thông, của lòng nhân lành và vẻ đẹp của Thiên Chúa Ba Ngôi. Chúa Giêsu biểu lộ cho chúng ta thấy gương mặt của Thiên Chúa, là Đấng từ bi thương xót và giầu nhân nghĩa, tự cống hiến cho chúng ta để lấp đầy các hạn hẹp và thiếu sót của chúng ta, để tha thứ các lỗi lầm của chúng ta và dẫn đưa chúng ta trở lại con đường của công lý và sự thật.

ĐTC Phanxicô đã nói như trên với hàng chục ngàn tín hữu và du khách hành hương tham dự buổi đọc Kinh Truyên Tin trưa Chúa Nhật lễ Chúa Ba Ngôi. Mở đầu bài huấn dụ ngài nói:

Các bài đọc sách thánh của Chúa Nhật lễ Chúa Ba Ngôi Chí Thánh giúp chúng ta bước vào trong mầu nhiệm căn tính của Thiên Chúa. Bài đọc thứ hai trình bầy các lời cầu chúc thánh Phaolô hướng tới cộng đoàn Corintô: “Cầu chúc toàn thể anh em được đầy tràn ân sủng của Chúa Giê-su Ki-tô, đầy tình thương của Thiên Chúa, và ơn hiệp thông của Thánh Thần.” (2 Cr 13.13). Lời chúc lành này của thánh Tông Đồ là hoa trái kinh nghiệm cá nhân của ngài về tình yêu của Thiên Chúa, đã được Chúa Kitô mạc khải cho ngài. Nó đã biến đổi cuộc sống của thánh nhân và đã thúc đầy ngài đem Tin Mừng tới cho dân ngoại. Từ kinh nghiệm về ơn thánh này của mình thánh Phaolô có thể khích lệ các kitô hữu với các lời sau đây: “Anh em hãy vui mừng và gắng nên hoàn thiện. Hãy khuyến khích nhau, hãy đồng tâm nhất trí và ăn ở thuận hoà. Như vậy, Thiên Chúa là nguồn yêu thương và bình an, sẽ ở cùng anh em.” (c. 11). Với tất cả các hạn hẹp nhân loại cộng đoàn kitô có thể trở thành một phản ánh của sự hiệp thông, của lòng nhân lành và vẻ đẹp của Thiên Chúa Ba Ngôi. Nhưng điều này, như chính thánh Phaolôlàm chứng, cần đi ngang qua kinh nghiệm về lòng thương xót của Thiên Chúa và ơn tha thứ của Chúa.

Đó là điều xảy ra cho người Do thái trên con đường xuất hành. Khi dân bẻ gẫy giao ước, Thiên Chúa hiện ra với ông Môshê trong đám mây để canh tân giao ước đó, bằng cách xướng tên của Ngài và ý nghĩa của nó: “Giavê! Giavê! Thiên Chúa nhân hậu và từ bi, hay nén giận, giàu nhân nghĩa và thành tín” (Xh 34,6). ĐTC giải thích tên gọi của Thiên Chúa như sau:

Tên gọi này diễn tả rằng Thiên Chúa không xa cách và khép kín trong chính Ngài, nhưng là Sự Sống muốn thông truyền chính mình, là sự cởi mở, là Tình Yêu chuộc con người khỏi sự bất trung. Thiên Chúa thương xót, từ bi và giầu nhân nghĩa, bởi vì Ngài tự cống hiến cho chúng ta để lấp đầy các hạn hẹp và thiếu sót của chúng ta, để tha thứ các lỗi lầm của chúng ta, để đưa chúng ta trở lại con đường của công lý và sự thật. Mạc khải này của Thiên Chúa đã thành toàn trong Tân Ước nhờ lời nói của Chúa Kitô và sứ mệnh cứu độ của Ngài. Chúa Giêsu đã biểu lộ cho chúng ta gương mặt của Thiên Chúa, Một trong bản tính và Ba trong ngôi vị.  Thiên Chúa là tất cả và chỉ là Tình yêu, trong một tương quan thực sự tạo dựng ra tất cả, cứu chuộc và thánh hoá: Cha, Con và Thánh Thần.

Tiếp tục bài huấn dụ ĐTC nói: Và Tin Mừng hôm nay giới thiệu ông Nicôdêmô là người tuy có một chỗ quan trọng trong cộng đoàn tôn giáo và dân sự thời đó, nhưng đã không ngừng kiếm tìm Thiên Chúa. Và giờ đây ông đã nhận thức được tiếng vọng lời nói của ông nơi Chúa Giêsu. Trong cuộc đối thoại ban đêm với Vị Thầy Nadarét sau cùng ông Nicôđêmô  hiểu mình đã được Thiên Chúa kiếm tìm và chờ đợi, được Ngài yêu thương một cách cá biệt. Và thật ra Chúa Giêsu nói với ông như thế: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời.” (Ga 3,16). Và cuộc sống vĩnh cứu đó là cái gì? Đó là tình yêu vô lường và nhưng không của Thiên Chúa, mà Đức Giêsu đã trao ban trên thập giá, bằng cách hiến dâng sự sống của Ngài cho ơn cứu rỗi của chúng ta. Với hoạt động của Chúa Thánh Thần tình yêu này đã dãi toả ra một ánh sáng mới trên trái đất và trong mọi con tim tiếp nhận nó, một ánh sáng vén mở các góc tối tăm, các cứng nhắc ngăn cản chúng ta mang lại các hoa trái tốt lành của tình bác ái và lòng thương xót.

Xin Đức Trinh Nữ Maria giúp chúng ta ngày càng bước vào trong sự hiệp thông của Thiên Chúa Ba Ngôi, để sống và làm chứng cho tình yêu trao ban ý nghĩa cho cuộc sống chúng ta.

Tiếp đến ĐTC đã đọc kinh Truyền Tin và ban phép lành toà thánh cho mọi người.

Sau kinh Truyền Tin ĐTC đã chào mọi người hiện diện và nói: hôm qua tại La Spezia chị Itala Mela đã được phong chân phước. Là người đã lớn lên trong một gia đình sống xa đức tin, trong tuổi thanh xuân chị đã tự xưng mình là vô thần, nhưng ssau đó chị đã hoán cải và sống một kinh nghiệm tinh thần sâu đậm. Chị dấn thân giữa giới sinh viên công giáo, rồi trở thành nữ tu tận hiến Biển Đức, và hoàn thành một lộ trình thần bí tập trung nơi mầu nhiệm của Thiên Chúa Ba Ngôi, mà chúng ta cử hành đặc biệt hôm nay. Xin chứng tá cuả tân chân phước khích lệ chúng ta trong các ngày sống biết năng hướng tư tưởng về Thiên Chúa Cha, Con và Thánh Thần ngự trong con tim chúng ta.

ĐTC cũng chào các nhóm giáo xứ và hiệp hội, đặc biệt các tín hữu đến từ các tỉnh Montpelier bên Pháp, từ đảo Corse và Malta, cũng như từ Italia, cách riêng tín hữu đến từ các tỉnh Padova, Norbello, và các bạn trẻ đến từ Sassuolo, cũng như cộng đoàn Colombia sống tại Roma mừng lễ Đức Trinh Nữ Copacabana.

Linh Tiến Khải

Đức Thánh Cha viếng thăm chính thức Tổng Thống Italia

Đức Thánh Cha viếng thăm chính thức Tổng Thống Italia

VATICAN. ĐTC cầu mong mọi thành phần ở Italia hợp lực để giải quyết tình trạng thất nghiệp của giới trẻ và ngài cám ơn sự cộng tác, giúp đỡ của Italia để người kế vị Thánh Phêrô có thể phục vụ Giáo hội hoàn vũ.

ĐTC bày tỏ lập trường trên đây trong diễn văn tại Phủ Tổng thống Italia sáng hôm 10-6-2017 nhân cuộc viếng thăm chính thức tại đây. Ngài viếng thăm đáp lễ cuộc viếng thăm của Tổng thống Italia, Ông Sergio Mattarella, tại Vatican ngày 18 tháng 4 năm 2015, sau khi ông mới được bầu làm tổng thống.

Đến điện Quirinale vào lúc 10 giờ 45, sau nghi thức tiếp đón, ĐTC đã hội kiến với tổng thống Matarella và trao đổi quà tặng. Ngài cũng dừng lại tại Nhà Nguyện Đức Mẹ truyền tin ở trong dinh Tổng Thống, rồi sau đó có phần trao đổi diễn văn.

Lên tiếng trong dịp này, ĐTC nhắc đến những thách đố mà Italia, cũng như nhiều nước Âu Châu đang phải đương đầu, như nạn khủng bố quốc tế, được nuôi dưỡng bằng trào lưu cực đoan, hiện tượng di dân gia tăng với chiến tranh và những chênh lệch xã hội và kinh tế tại nhiều miền trên thế giới, nhiều thế hệ trẻ khó tìm được công ăn việc làm xứng đáng, và tình trạng này không tạo điều kiện cho việc thành lập các gia đình mới và có con cái.

ĐTC nhận xét rằng: ”Italia, qua hoạt động quảng đại của các công dân và sự dấn thân của các tổ chức, đang tận dụng tài nguyên tinh thần dồi dào của mình để biến những thách đố vừa nói thành những cơ hội để tăng trưởng và có những cơ may mới.”

ĐTC đặc biệt ca ngợi nỗ lực của Italia trong việc đón tiếp và giú đỡ người di dân và tị nạn, cũng như trợ giúp dân chúng tại những vùng bị động đất.

Riêng về vấn đề kiến tạo công ăn việc làm, ĐTC nhận xét rằng: ”Cần có một sự hợp lực và những sáng kiến để các nguồn tài chánh được dùng để phục vụ cho đối tượng rộng lớn và có giá trị xã hội, thay vì để chúng bị lấy mất và phân tán trong những cuộc đầu tư chủ yếu là cầu cơ, tạo nên một sự thiếu dự phóng dài hạn, thiếu quan tâm đến vai trò thực sự của những người kinh doanh, và xét cho cùng, có là một sự yếu đuối, một bản năng chạy trốn trước những thách đố của thời đại chúng ta”.

Sau cùng ĐTC đề cao sự cộng tác của Giáo Hội và Nhà Nước Italia, chiếu theo hiệp định Laterano được ký kết giữa Tòa Thánh và Italia. Đặc biệt hình thức của đặc tính đời (laicità) tại đây không có nghĩa là đố kỵ và xung đột giữa Giáo Hội và nhà nước, nhưng có đặc tính thân hữu và cộng tác, trong sự phân biệt nghiêm túc về thẩm quyền.

Giữa Giáo Hội và Nhà Nước Italia có sự cộng tác rất tốt, mang lại lợi ích cho cá nhân và toàn thể cộng đồng quốc gia.

Vào cuối cuộc viếng thăm của ĐTC, tại khuôn viên điện Quirinale, ngài và tổng thống Mattarella đã chào thăm khoảng 200 thiếu nhi được mời. Các em từ những vùng bị động đất ở miền trung Italia. (SD 8-6-2017)

G. Trần Đức Anh OP 

Vị tử đạo Lituania đầu tiên dưới thời Sô viết được phong chân phước

Vị tử đạo Lituania đầu tiên dưới thời Sô viết được phong chân phước

Vác-sa-va, Ba lan – Ngày 25/06 tới đây, Đức tổng giám mục Teofilius Matulionis, giám mục người Lituani bị giết trong nhà tù cộng sản sẽ trở thành chân phước tử đạo đầu tiên trong thời kỳ cộng sản ở Lituani.

Lễ phong chân phước dự kiến được cử hành tại Vilnius, thủ đô Lituani.  Sẽ có khoảng 30 ngàn người, bao gồm các giám mục và linh mục hải ngoại cũng được dự kiến sẽ tham dự thánh lễ.

Đức tổng giám mục Gintaras Grusas của Vilnius, chủ tịch hội đồng giám mục Lituani nói: “Ngoài việc là vị tử đạo đầu tiên dưới thời Sô viết được giáo hội hoàn vũ nhìn nhận, Đức tổng giám mục Matulionis cũng là người Lituani đầu tiên được phong thánh trên quê hương mình. Đức tổng Grusas cũng nhận định: “đức tin triệt để trong việc tìm kiếm chân lý bằng mọi giá” của đức tổng Matulionis để lại một sứ điệp hấp dẫn, đặc biệt đối với người trẻ, những người sẽ tham dự đại hội giới trẻ kéo dài 2 ngày trước lễ phong chân phước.

“Trước những căng thẳng hiện thời trên thế giới, lời mời gọi kiên trì trong hòa bình và đi theo ý Chúa, nhận biết rằng Chúa luôn ban cho chúng ta những điều chúng ta cần, luôn quan trọng”, đức tổng Grusas nhận xét. Ngài nói thêm: “Chứng kiến đức tin của một người không cần thiết phải là đi đến cái chết. Có những hình thức bách hại nhẹ hơn đang xảy ta hàng ngày trong xã hội chúng ta, và đòi chúng ta phải can đảm đối diện.”

Đức tổng Matulionis sinh năm 1873 tại Kudoriskis, đông bắc Lituani. Ngài được truyền chức vào năm 1900 tại Petersburg, Nga. Năm 1923, trong cuộc xử đức tổng giám mục Jan Cieplak và một số giáo sĩ Công giáo, ngài bị kết án tù 3 năm. 6 năm sau khi được ra tù, ngài được bí mật truyền chức giám mục, nhưng sau đó bị gửi đến nhà tù Solovski  trên quần đảo Solovetsky, miền Bạch hải.

Năm 1933, trong một cuộc trao đổi tù binh, Đức tổng Matulionis được trở về Lituani và giúp phổ biến lòng sùng kính Thánh Tâm khi làm tuyên úy quân đội. Năm 1943, ngài được bổ làm giám mục Kaisiadorys và bị bắt vào năm 1946 vig từ chối cộng tác với lực lượng Sô viết chiếm đóng Lituani. Ngài bị gửi đến một số nhà tù và chỉ vào năm 1956, khi được trả tự do, ngài khôi phục nhiệm vụ giám mục cách bí mật.

Đức Giáo hoàng Gioan XXIII thăng ngài làm tổng giám mục vào năm 1962, nhưng chính quyền Sô viết không cho phép ngài dự Công đồng chung Vatican II, và ngày 20/08/1962, ngài bị chích thuốc độc chết. Người ta tin là một y tá cảnh sát KGB (tình báo Sô viết ) đã thực hiện.

Án phong thánh cho Đức tổng Matulionis được bắt đầu năm 1990, sau khi Lituania được độc lập khỏi sự cai trị của Sô viết và tháng 12/2016, Đức giáo hoàng đã ra sắc lệnh nhìn nhận sự tử đạo của ngài.

Đức tổng giám mục Grusas nói đức  tổng giám mục Matulionis tử đạo đã dâng những đau khổ của mình để cầu cho nước Nga trở lại, đồng thời cũng thúc đẩy giáo hội tiến bước qua việc giáo dục các giáo sĩ ở lại với đàn chiên ngay cả khi có nghĩa là bách hại và lưu đày. (CNS 09/06/2017)

Hồng Thủy

Trong thời khắc đen tối nhất của cuộc sống thì nên làm gì?

Trong thời khắc đen tối nhất của cuộc sống thì nên làm gì?

Ngay cả trong những thời khắc đen tối, buồn thảm và đau thương nhất, ngay cả khi bị lăng mạ sỉ nhục cáo gian, vẫn chọn con đường của cầu nguyện của kiên nhẫn và đặt niềm hy vọng nơi Thiên Chúa; chứ không chạy theo trò lừa dối của những thứ phù vân. Đức Thánh Cha chia sẻ như thế trong thánh lễ sáng nay tại nhà nguyện Marta.

Từng trải những đau khổ tột cùng

Đừng để cho mình bị đánh lừa bởi cái hào nhoáng bề ngoài của những thứ phù vân, nhưng hãy để cho lòng mình biết mở ra đón nhận niềm vui đến từ Thiên Chúa, biết tạ ơn Ngài vì những ơn lành, vì ơn chữa lành mà Ngài ban cho chúng ta.

Bài đọc trích sách Tobia kể lại câu chuyện rất đời thường. Ông Tobit chuyên làm việc lành phúc đức là đi chôn xác kẻ chết. Nhưng rồi ông bị mù, và có lần do vợ chồng chưa hiểu ý nhau, mà bà vợ đã la mắng ông Tobit rằng: ông coi, ông làm việc lành mà giờ lại bị mù như thế. Ông Tobit có con trai là Tobia. Vợ của Tobia là Sara. Cô Sara cũng chịu nhiều đau khổ, vì bị mang tiếng là sát chồng. Vì thực sự trước khi lấy Tobia, cô Sara đã có nhiều đời chồng, các người chồng ấy đều chết, nhưng lý do không phải do Sara. Như thế, cả ông Tobit và con dâu là Sara đều phải chịu nhiều thử thách và bị sỉ nhục, nhưng cả hai đều đặt niềm hy vọng nơi Thiên Chúa.

Chỉ biết cầu nguyện, kiên nhẫn và hy vọng

Mỗi người trong chúng ta đều có kinh nghiệm từng trải những thời khắc khó khăn cùng cực. Có thể kinh nghiệm ấy chưa phải là tột độ, nhưng cũng đủ để chúng ta biết được kinh nghiệm ấy có cảm giác thế nào, thế nào là bóng tối, là đau buồn, là khó khăn, chúng ta biết những điều ấy.

Khi đối diện với sự khủng hoảng, cô Sara từng nghĩ: nếu tôi treo cổ tự tử thì tôi sẽ làm cho cha mẹ đau khổ. Cô đã dừng lại và cầu nguyện. Khi gặp cay đắng, ông Tobit nói: đây là cuộc sống của tôi, nào chúng ta hãy tiến bước, tiến bước trong cầu nguyện và cầu nguyện. Đó là thái độ có thể cứu chúng ta trong những đêm đen: thái độ cầu nguyện. Cả cô Sara và ông Tobit đều đau khổ nhưng biết kiên nhẫn trong cầu nguyện, vì hy vọng Thiên Chúa sẽ lắng nghe, vì hy vọng rồi đây mình sẽ có thể vượt qua những khổ đau ấy. Những khi buồn bã chán nản và đen tối nhất, đừng quên: cầu nguyện, kiên nhẫn và hy vọng.

Lời nguyện tạ ơn

Câu chuyện trong sách Tobia kết thúc có hậu, nhưng không phải như những cái kết của tiểu thuyết. Sau thời gian chịu thử thách và đau khổ, Thiên Chúa đã lắng nghe họ, đã chữa lành họ, và các vị ấy cảm tạ Thiên Chúa, mở rộng tâm hồn với lời nguyện tạ ơn.

Trong những hoàn cảnh khác nhau của cuộc sống, chúng ta có biết nhận diện những chuyển động khác nhau trong tâm hồn hay không. Làm như thế để nhận biết những thời điểm khó khăn thách đố, để biết cầu nguyện, biết kiên nhẫn và một chút hy vọng. Làm như thế, để tránh bị rơi vào sự trống rỗng hư vô, để trong cầu nguyện chúng ta biết rằng có Chúa luôn đồng hành và Ngài sẽ sớm ban niềm vui cho chúng ta. Cô Sara đã sống điều ấy. Cô không tự vẫn, nhưng biết cầu nguyện. Tobit cũng thế, ông chờ đợi trong cầu nguyện và hy vọng Chúa sẽ cứu. Và rồi Thiên Chúa đã cứu cô Sara, Thiên Chúa cũng cứu ông Tobit.

Dịp cuối tuần này, chúng ta hãy đọc sách Tobia, hãy nài xin ân sủng của Thiên Chúa, để biết cách sống trong những thời điểm khó khăn nhất của cuộc sống, để biết cách sống trong những thời điểm tươi sáng, để không bị lừa gạt bởi những thứ phù vân hư không.

Tứ Quyết SJ

Hơn 15 ngàn bệnh nhân HIV và AIDS Ấn độ được các cơ sở Công giáo điều trị

Hơn 15 ngàn bệnh nhân HIV và AIDS Ấn độ được các cơ sở Công giáo điều trị

Hyderabad – Hơn 15 ngàn bệnh nhân aids hoặc nhiễm Hiv được chăm sóc với tình yêu và sự thương cảm tại các cơ sở do Hiệp hội Y khoa Công giáo Ấn độ (CHAI) điều hành. Đây là một thực thể quốc gia được thành lập từ năm 1943, liên kết các bệnh viện Công giáo, các trung tâm y tế và dịch vụ xã hội tại các giáo phận Công giáo trên khắp Ấn độ. CHAI bắt đầu chương trình hoạt động giúp các bệnh nhân Hiv và sida từ năm 1993.

Cha Mathew Abraham, dòng Chúa Cứu Thế, tổng giám đốc CHAI, cho hãng tin Fides biết: “Hơn 150 trung tâm trợ giúp của chúng tôi được phép điều trị cho các bệnh nhân bị nhiễm Hiv hay aids; các trung tâm này theo đúng hoạt động của các bệnh viện, trong việc tư vấn và điều trị, phối hợp với các tổ chức chính phủ và phi chính phủ khác.”

Trong khoảng 25 năm hoạt động trong lãnh vực này, hơn 15 ngàn bệnh nhân đã nhận được các chữa trị ngoại trú và khoảng 500 ngàn được trợ giúp trực tiếp. Hiện có khoảng 40 cơ sở thành viên của CHAI chuyên về các nhu cầu chữa trị cho trẻ em và người lớn bị nhiễm Hiv và sida, để đảm bảo cho họ một cuộc sống tốt hơn.

Theo số liệu của chính phủ, có khoảng 2.4 triệu dân Ấn độ bị nhiễm Hiv và số trẻ em dưới 15 tuổi chiếm khoảng 3.5% trong số này.

Trong những thập kỷ mới đây, CHAI đã hướng sự quan tâm đặc biệt đến giới trẻ, đặc biệt các phụ nữ trẻ: trong các đề tài của chiến dịch phòng ngừa cũng có nói đến các khía cạnh liên quan đến tuổi kết hôn, giáo dục tốt hơn, và sức khỏe bà mẹ.

Tại Ấn độ, hiện nay các phụ nữ trẻ bị ảnh hưởng bởi các hình thức bạo lực tính dục cũ và mới, bởi các cuộc tấn công bằng axít, các cách thức mang mặt nạ của giai cấp hoặc tôn giáo.  (Agenzia Fides 8/6/2017)

Hồng Thủy

Một xã hội chỉ dựa vào lý trí mà không có đức tin sẽ lãng quên Thiên Chúa

Một xã hội chỉ dựa vào lý trí mà không có đức tin sẽ lãng quên Thiên Chúa

Philadelphia – Một xã hội chỉ dựa trên lý trí và kỹ thuật, mà không có đức tin, thì có nguy hiểm bỏ quên Thiên Chúa và thỏa hiệp với ma quỷ. Đó là lời cảnh giác của Đức tổng giám mục Charles J. Chaput của tổng giáo phận Philadelphia.

Trong bài viết đăng trên Catholic Philly hôm 05/06, Đức tổng Chaput viết: “Chúng ta ở trong cuộc chiến đấu cho các linh hồn. Kẻ thù của chúng ta là ma quỷ. Trong khi Satan không ngang bằng Thiên Chúa và phải chịu thất bại cuối cùng, nó có thể gây nên những tổn hại cay đắng trong cuộc sống con người. Các Kitô hữu tiên khởi nhận biết điều này. Chúng ta tìm thấy sự ý thức của họ hầu như trên mọi trang Tân ước.”

Đức tổng Chaput cũng nhấn mạnh: “Thế giới hiện đại làm cho khó tin vào ma quỷ. Nhưng nó cũng làm khó tin vào Chúa Giêsu. Và đó là vấn đề.” Ngài nhắc lại lời của một Kitô hữu thời Trung cổ: “không có ma quỷ, thì không có Đấng Cứu chuộc.” Khi mà chúng ta từ chối sự hiện diện của ma quỷ thì khó giải thích tại sao Chúa Kitô xuống thế để chịu đau khổ và chết thay cho nhân loại. Đức tổng Chaput giải thích: “Ma quỷ, hơn bất cứ ai, thích điều này, nghĩa là, chúng ta không thể hiểu hoàn toàn sứ mệnh của Chúa Giêsu mà không có ma quỷ. Ma quỷ lợi dụng điều này. Nó biết là khi chúng ta cho là ma quỷ chỉ là thần thoại thì chúng ta cũng không tránh việc sẽ xem Thiên Chúa cũng là thần thoại.”

Trong bài viết, Đức tổng Chaput cũng nhắc lại cuộc đời của Leszek Kolakowski, từng là một nhà phê bình Giáo hội Công giáo, một nhà Mác xít đứng đầu tại Balan thời cộng sản, sau đó trở thành người ngưỡng mộ thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô. Năm 1987, trong bài nói chuyện tại đại học Havard, Kolakowski nói: “khi một xã hội mất đi ý nghĩa thánh thiêng của nó thì nó sẽ mất tất cả ý nghĩa.” Kolakowski nhận định: “Sự dữ đang tiếp diễn qua kinh nghiệm con người. Vấn đề không phải là làm thế nào để một người tránh được nó, nhưng là dưới những hoàn cảnh nào người ta có thể xác định ma quỷ và chống cự lại nó.”

Tiếp tục đề tài, Đức tổng nhắc lại câu chuyện của Faust, một học giả thông thái bán linh hồn cho ma quỷ để biết được các bí mật của vũ trụ… Một tù nhân của sự phù vân vô nghĩa của chính mình, Faust thà đổi chác linh hồn mình hơn là khiêm hạ trước mặt Đức Chúa Trời.

Đức tổng Chaput kết luận: “Không có đức tin thì sẽ không có sự hiểu biết, không có kiến thức, không có khôn ngoan. Chúng ta cần cả đức tin và lý trí để thấu hiểu các mầu nhiệm tạo dựng và các mầu nhiệm cuộc đời chúng ta.” Và ngài cảnh giác rằng một xã hội dựa vào lý trí, khoa học và kỹ thuật, nhưng không có đức tin, chiếm được thế giới với sức mạnh, sự giàu sang và các thành tựu vật chất của nó, nhưng nó bị mất linh hồn của mình. (CNA 06/06/2017)

Hồng Thủy

 

Thiên Chúa không thể không có con người

Thiên Chúa không thể không có con người

** Chúng ta có thể xa vắng, thù nghịch, chúng ta cũng có thể xưng mình “không có Thiên Chúa”, nhưng Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô vén mở cho chúng ta thấy rằng Thiên Chúa không thể không có chúng ta: Ngài sẽ không bao giờ là một vì Thiên Chúa không có con người. Đó là niềm hy vọng mà chúng ta tìm thấy được duy trì trong tất cả mọi lời cầu của Kinh Lậy Cha, một lời cầu cách mạng tâm lý tôn giáo của con người.

ĐTC Phanxicô đã nói như trên vói 40.000 tín hữu hành hương trong buổi tiếp kiến CHUNG sáng thứ tư hôm qua. Trong số các nhóm hiện diện cũng có hai nhóm tín hữu Việt Nam do hai cha Nguyễn Tầm Thường và Bùi Trọng Biên hướng dẫn. Ngoài ra cũng có một số tín hữu đi riêng không theo phái đoàn.

Trong bài huấn dụ ĐTC đã quảng diễn ý nghĩa đoạn phúc âm theo thánh Luca (11,1-4) kể lại việc Chúa Giêsu dạy các môn đệ Kinh Lậy Cha. Thánh Luca viết: “Có một lần Đức Giê-su cầu nguyện ở nơi kia. Người cầu nguyện xong, thì có một người trong nhóm môn đệ nói với Người: "Thưa Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện, cũng như ông Gio-an đã dạy môn đệ của ông." Người bảo các ông: "Khi cầu nguyện, anh em hãy nói:

"Lạy Cha, xin làm cho danh thánh Cha vinh hiển, Nước Cha mau đến, xin Cha cho chúng con ngày nào có lương thực ngày ấy; xin tha tội cho chúng con, vì chính chúng con cũng tha cho mọi người mắc lỗi với chúng con, và xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ." (Lc 11,1-4).

ĐTC nói: có cái gì đó hấp dẫn trong lời cầu nguyện của Chúa Giêsu đến độ một ngày kia các môn đệ Người xin được dẫn đưa vào trong đó. Giai thoại được kể lại  trong Phúc Âm thánh Luca, là thánh sử đã cung cấp tài liệu liên quan tới mầu nhiệm của Chúa Kitô cầu nguyện hơn các vị khác: Chúa cầu nguyện. Các môn đệ bị đánh động bởi sự kiện Chúa Giêsu, đặc biệt ban sáng và ban chiều, rút lui vào nơi thanh vắng và chìm sâu trong lời cầu nguyện. Chính vì vậy mà một ngày kia họ xin Ngài dậy họ cầu nguyện (Lc 11,1). Và khi đó Chúa Giêsu truyền lại cho họ điều đã trở thành lời cầu kitô tuyệt diệu là Kinh Lạy Cha. Thật ra so sánh với thánh Mátthêu thánh Luca kể lại lời cầu của Chúa Giêsu trong một hình thức hơi ngắn gọn, bắt đầu với lời khẩn nài đơn sơ: Lậy Cha” (c.2).

** Tất cả mầu nhiệm lời cầu kitô được tóm gọn ở đây, trong từ này: có can đảm gọi Thiên Chúa với tên gọi là Cha. Phụng vụ cũng khẳng định điều đó, khi dùng kiểu nói “chúng con dám nguyện rằng” để mời gọi chúng ta cùng nhau đọc lời cầu nguyện này của Chúa Giêsu. ĐTC quảng diễn thêm như sau:

Thật thế, gọi Thiên Chúa với tên gọi là Cha không phải là một sự kiện đương nhiên. Chúng ta sẽ có khuynh hướng dùng các tước hiệu cao cả hơn xem ra kính trọng sự siêu việt của Chúa hơn. Trái lại, kêu cầu Ngài như là “Cha” đặt để chúng ra trước một tương quan tin tưởng với Ngài, như một đứa bé hướng tới cha mình, vì biết rằng mình được cha yêu thương và săn sóc. Đây là cuộc cách mạnh lớn lao mà Kitô giáo in sâu vào trong tâm lý tôn giáo của con người. Mầu nhiệm của Thiên Chúa luôn luôn hấp dẫn chúng ta và làm cho chúng ta cảm thấy mình bé nhỏ, nhưng không khiến cho chúng ta sợ hãi, không đè bẹp chúng ta, không làm cho chúng ta lo lắng. Đó là một cuộc cách mạng khó chấp nhận trong tâm hồn chúng ta. Đến độ trong các trình thuật sự Phục Sinh người ta nói rằng các phụ nữ sau khi thấy mộ trống và thiên thần “đã chạy trốn vì họ kinh hoàng khiếp sợ” Mc 16,8). Nhưng Chúa Giêsu vén mở cho chúng ta thấy rằng Thiên Chúa là cha nhân lành và Ngài nói với chúng ta: “Đừng sợ!” ĐTC nói tiếp trong bài huấn dụ:

Chúng ta hãy nghĩ tới dụ ngôn người cha thương xót (x. Lc 15,11-32). Chúa Giêsu kể về một người cha chỉ biết là tình yêu đối với con cái ông. Một người cha không đánh phạt đứa con vì thái độ ngạo mạn của nó, và ông có khả năng tín thác cho nó phần gia tài của mình và để cho nó đi khỏi nhà. Thiên Chúa là Cha, nhưng không phải theo kiểu của con người trần gian, bởi vì không có người cha nào trên thế giới này hành xử như vậy như người cha trong dụ ngôn. Thiên Chúa là Cha theo kiểu của Ngài: tốt lành, không được bênh đỡ trước sự tự do của con người, có khả năng chia động từ “yêu thương”. Khi người con nổi loạn, sau khi phung phí mọi sự, rốt cuộc trở về nhà nơi nó sinh ra, người cha đó không áp dụng các tiêu chuẩn của công lý nhân loại, nhưng trước hết cảm thấy cần tha thứ, và với vòng tay ôm của mình ông làm cho người con hiểu rằng trong suốt thời gian dài vắng bóng ấy ông thiếu nó, ông thiếu nó một cách đau đớn trong tình yêu là cha của ông.

** Ôi mầu nhiệm khôn dò biết bao một vì Thiên Chúa dưỡng nuôi kiểu yêu thương đó đối với con cái Ngài!

Có lẽ vì thế mà khi gợi lại nòng cốt mầu nhiệm kitô, tông đồ Phaolô không dịch ra tiếng Hy lạp một từ mà Chúa Giêsu đã nói trong tiếng Aramây là từ “abba”.  Trong các thư của ngài hai lần thánh Phaolô đề cập tới đề tài này và hai lần nài để nguyên từ này không dịch trong cùng công thức trong đó từ “abba” đã tươi nở trên môi Chúa Giêsu, một từ còn thân thiết hơn từ “cha” và có ai đó dịch là “ba, bố”.

Anh chị em thân mến, chúng ta không bao giờ cô đơn. Chúng ta có thể xa vắng, thù nghịch, chúng ta cũng có thể xưng mình “không có Thiên Chúa”, nhưng Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô vén mở cho chúng ta thấy rằng Thiên Chúa không thể không có chúng ta: Ngài sẽ không bao giờ là một vì Thiên Chúa “không có con người”. Ngài không thể sống mà không có chúng ta, và đây là một mầu nhiệm lớn lao… Thiên Chúa không thể là Thiên Chúa mà không có con người: đó là một mầu nhiệm lớn lao. Sự chắc chắn này là suối nguồn niềm hy vọng của chúng ta, mà chúng ta tìm thấy được giữ gìn trong Kinh Lậy Cha. Khi chúng ta cần sự trợ giúp, Chúa Giêsu không nói với chúng ra hãy nhẫn nhục và đóng kín trong chính mình, nhưng hướng tới Chúa Cha và cầu xin Ngài với lòng tin tưởng. Tất cả các nhu cầu của chúng ta, từ những nhu cầu hiển nhiên và thường nhật như thực phẩm, sức khoẻ, việc làm, cho tới nhu cầu được tha thứ và nâng đỡ trong các cám dỗ, chúng không phải là tấm gương phản chiếu sự cô đơn của chúng ta: trái lại có một người Cha luôn luôn nhìn chúng ta với tình yêu thương và chắc chắn không bỏ rơi chúng ta.

Đó là niềm hy vọng mà chúng ta tìm thấy được duy trì trong tất cả mọi lời cầu của Kinh Lạy Cha, một lời cầu cách mạng tâm lý tôn giáo của con người. Bây giờ tôi đề nghi với anh chị em: mỗi người trong chúng ta có biết bao nhiêu vấn đề, biết bao nhiêu nhu cầu…Trong thinh lặng, chúng ta hãy suy nghĩ một chút các vấn đề và các nhu cầu đó. Chúng ta cũng hãy nghĩ tới Chúa Cha, Cha của chúng ta, là Đấng không bao giờ có thể sống mà không có chúng ta, và trong lúc này đang nhìn chúng ta. Và tất cả cùng nhau với lòng tin tưởng và hy vọng chúng ta cầu nguyện. Lậy Cha chúng con ở trên trời.. ĐTC đã cùng tín hữu đọc kinh Lậy Cha.

** ĐTC đã chào nhiều đoàn hành hương khác nhau. Trong các nhóm nói tiếng Pháp ngài chào các phái đoàn đến từ Pháp, Côte d’’ Ivoire và Benin; ngài xin Chúa Thánh Thần dẫn đưa mọi người vào trong lời cầu nguyện của Chúa Giêsu và biết sống các tương quan con thảo của tình yêu thương và sự tin tưởng với Thiên Chúa Cha, một tương quan loại bỏ mọi sợ hãi.

Ngài cũng chào các đoàn hành hương đến từ các nước Anh, Ecốt, Đức, Hoà Lan, Ghana, Ấn Độ, Indonesia, Singapore, Đại Hàn, Hồng Kông, Đài Loan, Philippines, Canada và Hoa Kỳ. ĐTC cũng chào các nhóm nói tiếng Tây Ban Nha, và Bồ Đào Nha, trong đó có Brasil và mời gọi họ luôn tin tưởng hướng tới Chúa là Cha trong mọi lúc và mọi nhu cầu của cuộc sống. Sự phục sinh của Chúa Kitô đã mở ra con đường vượt qua cái chết. Vì vậy không có gì có thể ngăn cản chúng ta sống trong tình bạn với Thiên Chúa Cha, và làm chứng cho lòng nhân lành thương xót vô biên của Ngài.

Trong các đoàn hành hương Ba Lan ĐTC đặc biệt chào hiệp hội Nữ Vương hoà bình tỉnh Radom, lấy hứng từ 12 ngôi sao trên triều thiên của Đức Mẹ, đang thực hiện 12 trung tâm chầu Thánh Thể để liên lỉ cầu nguyện cho hoà bình tại những vùng đất nóng bỏng trên thế giới. Vì lời tín hữu Nam Hàn xin ĐTC cho biết ngài đã làm phép bàn thờ “Thờ lậy Chúa trong hiệp nhất và hòa bình” cho đền thánh Đức Bà Mân Côi Namyang. Trong tháng 6 này là tháng kính Thánh Tâm ĐTC xin mọi người cầu nguyện cho hoà bình.

Ngày thứ năm 8-6 lúc 13 giờ tại nhiều nước có sáng kiến “Một phút cho hoà bình”, kỷ niệm buổi cầu nguyện giữa ĐTC, cố tồng thống Peres của Israel và tổng thống Palestin Abbas. Thời đại ngày nay cần lời cầu nguyện cho hoà bình biết bao nhiêu giữa các tín hữu Kitô, do thái và hồi giáo.

Trong các nhóm nói tiếng Ý ĐTC chào các nữ tu Bác ái của các thánh nữ Capitanio và Vicenza Gerosa tham dự tổng tu nghị, các lực sĩ trẻ tham dự cuộc hành hương “đuốc hoà bình” Macerata-Loreto, do ĐC Nazzareno Marconi hướng dẫn, cũng như các tu sĩ anh em hèn mọn Phanxicô, tín hữu San Cipriano Picentino và Airola mừng kỷ niệm 100 năm lễ Đức Mẹ Sầu Bi, các tham dự viên đại hội quốc tế về Sản khoa, trẻ em nhà thương nhi đồng thánh Mátthêu tỉnh Pavia. Chào các bạn trẻ, người đau yếu và các đôi tân hôn ngài nhắc cho mọi người nhớ tháng sáu là tháng kính Thánh Tâm Chúa Giêsu. ĐTC ước mong người trẻ học trường Thánh Tâm Chúa để lớn lên trong đạo hạnh, người đau yếu biết kết hiệp khổ đau của họ với khổ đau của Chúa, các cặp vợ chồng mới cuới biết nhìn lên Thánh Tâm Chúa để học sống tình yêu thương vô điều kiện.

Buổi tiếp kiến đã kết thúc với Kinh Lạy Cha và phép lành toà thánh ĐTC ban cho mọi người.

Linh Tiến Khải

Xin ơn để không bị rơi vào thói đạo đức giả

Xin ơn để không bị rơi vào thói đạo đức giả

Thói đạo đức giả không phải là loại ngôn ngữ của người Kitô, và thói đạo đức giả có thể giết chết cộng đoàn. Tiếng nói của Kitô hữu phải đúng sự thật theo gương Chúa Giêsu. Đức Thánh Cha chia sẻ như thế trong thánh lễ sáng nay tại nhà nguyện Marta.

Thói đạo đức giả bắt đầu bằng sự tâng bốc

Các luật sĩ nói năng và phán đoán một đàng nhưng thực ra họ đang âm mưu một nẻo. Họ nói không thật lòng. Họ sống theo thói đạo đức giả.

Thói đạo đức giả không phải là ngôn ngữ của Kitô hữu. Một Kitô hữu không thể là một kẻ đạo đức giả và một kẻ đạo đức giả không thể là một Kitô hữu. Điều ấy thật rõ ràng. Chúa Giêsu đã nói điều ấy cho nhiều người. Nhiều lần Chúa nói: Đồ giả hình, chúng ta hãy nhìn xem những gì họ làm. Những kẻ đạo đức giả chỉ ưa nịnh hót, dù ít hay nhiều, nhưng nói chung đều là nịnh hót và tâng bốc nhau. Họ không nói sự thật nhưng tìm cách thổi phồng và gia tăng sự hư ảo.

Sau khi tâng bốc sẽ là gài bẫy

Những kẻ đạo đức giả đi tâng bốc người khác vì họ nhắm đến mục đích xấu xa. Trong bài Tin Mừng hôm nay, các luật sĩ bắt đầu bằng cách tâng bốc Chúa Giêsu để rồi họ tìm cách gài bẫy Chúa bằng câu hỏi: Có nên nộp thuế cho Xêda không? Có hay không?

Thế đó, thói đạo đức giả là cách sống hai mặt. Chúa Giêsu biết thói giả hình của những kẻ đang thử mình, nên Chúa nói với họ: Tại sao các người lại thử tôi? Đem một quan tiền cho tôi coi! Chúa Giêsu luôn luôn đáp lại sự giả hình bằng điều chân thật. Sự thật là sự thật, chứ không phải là thứ đạo đức giả, cũng không phải là ý thức hệ. Khi họ đưa cho Chúa đồng tiền, Chúa hỏi: Hình và danh hiệu này là của ai đây? Họ đáp: Của Xêda. Chúa nói: Của Xêda, trả cho Xêda; của Thiên Chúa, trả cho Thiên Chúa.

Xin ơn để không bị rơi vào thói đạo đức giả

Ngôn ngữ của thói đạo đức giả là tiếng nói dối lừa. Đó là tiếng nói của con rắn đi lừa dối bà Eva. Khi bắt đầu, con rắn cũng lên tiếng tâng bốc con người, và rồi nó nhắm đến hủy diệt con người, thậm chí con rắn cắn xé và phá hủy nhân cách và tâm hồn con người. Điều ấy còn phá hoại cả cộng đồng. Khi thói giả hình len lỏi vào trong cộng đoàn, thì đó là mối nguy hiểm lớn, là điều tồi tệ. Chúa Giêsu đã nói rằng: Có thì nói có, không thì nói không, thêm thắt điều gì là do ác quỷ.

Thói đạo đức giả có thể giết chết cộng đoàn. Bởi vì họ nói thì rất ngọt nhưng lại xét đoán xấu xa về tha nhân. Thói đạo đức giả tựa như một thứ giết hại. Hãy nhớ điều này: khi nó bắt đầu nịnh bợ, thì hãy đáp lại bằng điều chân thực. Bởi vì cùng với một cái lưỡi mà thần dữ gieo rắc sự phá hoại vào trong cộng đoàn. Chúng ta hãy cầu xin Chúa canh giữ chúng ta, để chúng ta không bị rơi vào thói đạo đức giả: Xin Chúa ban cho con ơn ấy. Xin cho con đừng bao giờ trở thành kẻ đạo đức giả. Xin cho con chỉ biết nói sự thật, và khi con không thể nói sự thật, xin cho con biết lặng thinh, chứ không bao giờ, không bao giờ trở thành kẻ đạo đức giả.

Tứ Quyết SJ

Đức Thánh Cha gặp ban lãnh đạo HĐGM Venezuela

Đức Thánh Cha gặp ban lãnh đạo HĐGM Venezuela

VATICAN. Phòng báo chí Tòa Thánh cho biết ngày 8-6-2017, ĐTC Phanxicô sẽ tiếp kiến Ban Chủ tịch HĐGM Venezuela theo lời thỉnh cầu của chính các vị lãnh đạo của Hội đồng này. Các vị muốn trao đổi với ngài về tình trạng tại Venezuela.

Tham dự buổi tiếp kiến này có Đức TGM Chủ tịch Diego Padrón, hai Đức Cha Phó Chủ tịch và Đức Cha Tổng thư ký. Ngoài ra có hai vị Hồng Y người Venezuela là Jorge Urosa Savino, và Baltazar Porras.

Trước đó, Đức TGM Diego Rafael Padrón Sanchez, Chủ tịch HĐGM Venezuela bày tỏ lo ngại rằng một cuộc leo thang khủng hoảng chính trị, kinh tế và xã hội sẽ làm cho đất nước này ”xuống dốc không phanh!”.

Trong cuộc phỏng vấn dành cho Nhật báo ”Tiêu chuẩn” (Der Standard) số ra ngày 2-6-2017 tại Áo, Đức Cha Padrón, cũng là TGM giáo phận Cumana, cho biết dân chúng cảm thấy một chính quyền suy sụp, không còn cai trị nữa. Tự do của con người ngày càng bị cắt xén từng mảnh. Dân chúng xuống tinh thần đứng trước bao nhiêu thiếu thốn: thiếu lương thực và thuốc men, thiếu an ninh và lối thoát. Tại đây có nhiều người dân chết vì thiếu thuốc men. Nhiều người khác suy dinh dưỡng. Theo một nghiên cứu của Caritas, 11% trẻ em Venezuela đang ở trong tình trạng suy dinh dưỡng. Cả nạn tội phạm cũng bành trướng mạnh mẽ”.

Trong cuộc phỏng vấn, Đức TGM Padrón mô tả tương quan hiện nay giữa Giáo Hội và Nhà Nước Venezuela là ”băng giá”. Kế hoạch của tổng thống Nicolas Maduro triệu tập một quốc hội lập hiến sẽ không giải quyết được các vấn đề xã hội tại nước này.”

Đức TGM cũng cho biết ”trong tuần qua, một phái đoàn chính phủ đã đến gặp các đại diện của Giáo Hội, nhưng chúng tôi lịch sự trả lời rằng ”chúng tôi không muốn thảo luận về một dự án mà chúng tôi thấy là thừa thãi, chúng tôi muốn thảo luận về tình trạng khẩn trương của dân chúng”.

Sau cùng, Đức TGM Chủ tịch HĐGM Venezuela tin là vẫn còn có thể có sự hòa giải tại nước này và nói rằng ”nhân dân Venezuela không ”cay cú”, nhưng rất liên đới. Đất nước rất giàu tài nguyên và tiềm năng”. (SD, KNA 5-6-2017)

Trần Đức Anh OP

Đức Thánh Cha tiếp Tổng tu nghị dòng Thừa Sai Đức Mẹ An Ủi

Đức Thánh Cha tiếp Tổng tu nghị dòng Thừa Sai Đức Mẹ An Ủi

VATICAN. ĐTC khuyến khích các tu sĩ nam nữ dòng Thừa sai Đức Mẹ an ủi ngày càng tái khám phá tình yêu thương xót của Thiên Chúa và thể hiện tình yêu ấy cho tha nhân.

Ngài đưa ra lời kêu gọi trên đây trong buổi tiếp kiến sáng 5-6-2017, dành cho 120 thành viên tổng tu nghị liên hệ của hai ngành nam nữ dòng thừa sai Đức Mẹ An Ủi, là dòng do chân phước Giuseppe Allamano sáng lập.

ĐTC cám ơn các tu sĩ của hai dòng vì những điều thiện họ đang thực hiện trên thế giới và nói rằng: ”Tôi muốn khuyến khích anh chị em thực hiện một sự chăm chú phân định về tình trạng của các dân tộc nơi anh chị em thi hành sứ vụ loan báo Tin Mừng. Đừng bao giờ mệt mỏi trong việc mang lại sự an ủi nâng đỡ cho các dân tộc đang bị nghèo đói và khổ đau trầm trọng, như tại nhiều miền ở Phi châu và Mỹ la tinh. Hãy liên tục để cho những tình trạng cụ thể thách thức, và tìm cách làm chứng tá thích hợp về tình bác ái mà Chúa Thánh Linh phú vào trong tâm hồn anh chị em”.

ĐTC nhận xét rằng ”để thi hành sứ mạng không dễ dàng ấy cần phải sống hiệp thông với Thiên Chúa, ngày càng ý thức về tình thương xót của Chúa đối với chúng ta.. Theo mức độ chúng ta ý thức và xác tín về tình thương của Chúa, chúng ta càng gắn bó với Ngài. Chúng ta cần luôn tái khám phá tình yêu và lòng thương xót của Chúa để phát triển cuộc sống thân mật với Chúa.. noi gương các nhân đức của Chúa Kitô và thái độ đầy tình nhân đạo của Chúa, để làm chứng về những điều ấy cho tất cả mọi người mà anh chị em đến làm việc mục vụ..”

ĐTC đặc biệt khuyến khích các tu sĩ của dòng chú ý đến việc đối thoại với Hồi giáo, dấn thân thăng tiến phẩm giá phụ nữ và các giá trị gia đình, nhạy cảm đối với các vấn đề công lý và hòa bình.

Dòng nam thừa sai Đức Mẹ An Ủi (IMC) được chân phước Allemano thành lập năm 1901 hiện có 980 tu sĩ, trong số này có 763 LM, hoạt động tại 220 nhà trên thế giới và ngành nữ của dòng này có hơn 600 nữ tu thuộc 96 nhà. Cả hai dòng hoạt động tại nhiều nước Phi châu và Mỹ la tinh, Âu Châu. Tại Á châu dòng hoạt động tại hai nước Nam Hàn và Mông Cổ (SD 5-6-2017)

G. Trần Đức Anh OP 

 

Làm việc lành phúc đức để chia sẻ và cảm thông

Làm việc lành phúc đức để chia sẻ và cảm thông

Làm việc lành phúc đức không phải là vì thương hại, cũng không phải chỉ là để trút gánh nặng tâm hồn, nhưng là để chia sẻ và cảm thông với đau khổ của anh chị em đồng loại. Đức Thánh Cha chia sẻ như thế trong thánh lễ sáng nay tại nhà nguyện Marta.

Cảm thông và sẻ chia

Đau khổ với người đau khổ. Làm việc lành phúc đức không phải là làm một cái gì đó để trút bớt những đè nặng trong lòng, cũng không phải là làm để cảm thấy yên tâm hơn… Không chỉ thế! Làm việc lành phúc đức là để cảm thông với nỗi đau của người khác, là chia sẻ với đầy lòng trắc ẩn trong sự đồng hành. Làm việc lành phúc đức còn có nghĩa là thông cảm với những vấn đề của tha nhân. Ở đây có câu hỏi là: Tôi có biết chia sẻ như thế không? Tôi có sống quảng đại không? Khi tôi nhìn thấy một người đau khổ, một người đang gặp khó khăn, tôi có cảm thấy nỗi đau ấy? Tôi có biết đặt mình trong hoàn cảnh của người khác? Trong những hoàn cảnh đau thương của người ấy?

Chấp nhận những rủi ro

Giống như ông Tobia trong bài đọc thứ nhất, với lòng trắc ẩn và sẻ chia, khi làm việc lành phúc đức, chúng ta sẵn lòng đón nhận những rủi ro bất trắc. Có nhiều rủi ro. Ở đây ở Roma trong thời chiến tranh, Đức Giáo Hoàng Pio XII đã liều lĩnh che giấu những người Do thái. Vì nếu không, những người ấy sẽ bị bắt. Nhưng khi làm việc lành để cứu người, chúng ta phải đối diện với nhiều rủi ro.

Chấp nhận bị chê cười

Khi làm việc lành, ông Tobia bị người ta chê cười chế nhạo. Họ cho rằng ông không chịu ở yên mà lại đi làm những chuyện gây phiền hà rắc rối. Như thế, khi làm việc lành, chúng ta có thể gây cho người khác cảm giác khó chịu, ngay cả có khi chúng ta cũng cảm thấy khó chịu. Ví dụ như trường hợp này: “Tôi có một người bạn, người bạn ấy bị bệnh, tôi cần đến thăm anh ấy, nhưng tôi lại cảm thấy thích nghỉ ngơi hoặc xem tivi hơn… tóm lại tôi thích cái gì đó an toàn bình yên”. Thế đó, khi làm việc lành phúc đức, luôn có những đau khổ và rắc rối nào đó. Nhưng Chúa đã tự nguyện đón nhận tất cả, chịu đựng tất cả những rắc rối của chúng ta, để rồi Người lên thập giá để ban cho chúng ta lòng thương xót của Người.

Ai có thể thực thi lòng thương xót, đó là người cảm nhận được rằng Chúa xót thương mình trước. Chúng ta có thể sống thương xót là vì chúng ta đã được Thiên Chúa xót thương trước. Chúng ta cứ thử nghĩ về những sai lầm, tội lỗi của chúng ta, nghĩ về con đường tha thứ mà Chúa dành cho chúng ta, từ đó chúng ta biết cách làm như thế với anh chị em mình. Để rồi, chúng ta có thể ra khỏi sự ích kỷ của bản thân và bước theo sát chân Chúa Giêsu hơn.

Tứ Quyết SJ