Phụ nữ Công giáo Bangladesh có 6 con đi tu được giải thưởng “người mẹ gương mẫu”

Phụ nữ Công giáo Bangladesh có 6 con đi tu được giải thưởng “người mẹ gương mẫu”

Josephine Corraya family

Dhaka, Bangladesh – Josephine Corraya, 82 tuổi, bà mẹ Công giáo của 10 người con, đã được phát ngôn viên của quốc hội Bangladesh trao giải thưởng “người mẹ gương mẫu”.

Là một phụ nữ gương mẫu, yêu thương và ân cần, đã nuôi dạy các con và bảo đảm cho các con một nền giáo dục tốt.  Bà Josephine đến từ giáo xứ Rangamitia thuộc giáo phận Dhaka; chồng của bà Josephine đã qua đời khi các con còn rất nhỏ và bà đã nuôi các con trong sự nghèo khổ.  6 trong 10 người con của bà đã dâng mình cho Chúa: 3 người con cha trở thành Linh mục và 3 người con gái là những nữ tu.

Abul Kalam Azad, một người Hồi giáo, là chủ tịch của tổ chức tài trợ cho giải thưởng đã khẳng định: “chúng tôi trao giải thưởng này cho bà Josephine vì bà đã hoàn thành một công việc tuyệt vời trong việc nuôi dạy 10 người con của mình. Bà đã hy sinh lơn lao để bảo đảm cho các con có một sự giáo dục để chúng có thể phục vụ xã hội của chúng ta”.

Joel Rebeiro, con thứ 9 của bà, đang làm việc cho tổ chức Caritas, thuật lại: “Mẹ của chúng tôi đã giáo dục chúng tôi cách đặc biệt.Mẹ đưa chúng tôi đi dự lễ mọi buổi sáng, rồi chúng tôi làm việc nhà, học hành và đến trường. Mẹ dạy chúng tôi đạo đức và lòng kính trọng người cao tuổi.”

Người con thứ 10 của bà, cha Bulbul kể: “ngay cả nếu chúng tôi gặp khó khăn về tiền bạc, mẹ chúng tôi đã lao động và trả được tiền học cho chúng tôi”. Cha cho biết mẹ mình là một phụ nữ đơn sơ và luôn luôn tích cực trong các điều liên quan đến Giáo hội. Cha không thể nhớ được có lần nào mà mẹ mình nói xấu về các Linh mục hay nữ tu. Bà đã khuyến khích các con vào chủng viện”.

Bà Josephine rất cảm kích về giaỉ thưởng, bà nói: “Tôi nghĩ là Thiên Chúa toàn năng đã chúc phúc cho gia đình đông đúc của tôi. Tôi luôn là một tín hữu đơn sơ và tôi đã nuôi dạy các con theo giáo huấn của Chúa Giê-su. Trong những ngày cuối của đời tôi, tôi cảm tạ Thiên Chúa bởi vì tôi là một phụ nữ hạnh phúc”. (Asia News 01/06/1016)

Hồng Thủy OP

 

ĐTC khích lệ tín hữu Đức sống đời chiêm niệm, cầu nguyện thân tình với Thiên Chúa

ĐTC khích lệ tín hữu Đức sống đời chiêm niệm, cầu nguyện thân tình với Thiên Chúa

ĐTC Phanxicô gửi sứ điệp Video cho Đại Hội Công Giáo Đức lần thứ 100

VATICAN: ĐTC Phanxicô khích lệ tín hữu công giáo Đức dành nhiều giờ hơn cho việc chiêm niệm, cầu nguyện, và sống thân tình với Chúa, để tái chiếm lại sự hài hoà an bình với thế giới, với thụ tạo và với Đấng Tạo Hóa.

Ngài đã đưa ra lời khích lệ trên đây trong sứ điệp Video gửi các tham dự viên Đại hội công giáo toàn quốc Đức lần thứ 100, nhóm tạị Leipzig trong các ngày 25 tới 29 tháng 5 với khẩu hiệu “Này là người”. ĐTC nói: Khẩu hiệu của đại hội rất hay đẹp, vì cho thấy điều thực sự quan trọng. Không phải những gì chúng ta làm được, hay sự thành công bề ngoài quan trọng, nhưng là khả năng dừng lại, ghé mắt nhìn, chú ý tới tha nhân, và cống hiến cho họ những gì họ thực sự thiếu thốn. Ai trong chúng ta cũng ước mong hiệp thông và hoà bình, và cần sự sống chung hoà bình. Nhưng điều này chỉ có thể được, khi chúng ta xây dựng hoà bình nội tâm trong con tim. Nhiều người thường xuyên sống trong vội vã, và kiểu sống này ảnh hưởng trên tất cả những gì ở chung quanh, kể cả việc đối xử với môi sinh. Cần dành nhiều thời giở hơn cho cuộc sống nội tâm trong chiêm niệm và cầu nguyện, để đạt tới sự thân tình với Thiên  Chúa là Cha, Đấng ước muốn thiện ích cho con cái Ngài, và thấy chúng ta sống trong hạnh phúc, tràn đầy niềm vui và thanh bình. Sự thân tình này với Chúa linh hoạt lòng thương xót của chúng ta khiến cho chúng ta cũng biết thương xót nhau như Chúa thương xót chúng ta.

Trong xã hội có biết bao lần chúng ta gặp thấy con người bị đối xử tàn tệ. Chúng ta thấy các người khác phán xử giá trị cuộc sống của họ và thúc giục họ mau chết đi trong tuổi già và trong bệnh tật. Chúng ta thấy các người giàn xếp và vật vờ qua lại, không có phẩm giá, bởi vì họ không có công ăn việc làm hay là các người tỵ nạn. Chúng ta trông thấy Chúa Giêsu khổ đau và bị tử đạo hướng cái nhìn trên sự gian ác và tàn bạo trong tất cả mọi chiếu kích của chúng, mà con người phải gánh chịu hay khiến cho người khác phải gánh chịu.

ĐTC gửi lời chào thăm và ban phép lành toà thánh cho tất cả các tham dự viên và tín hữu công giáo toàn nước Đức. Ngài cầu mong họ luôn dành nhiều chỗ hơn cho tiếng nói của người nghèo và các người bị áp bức, cũng như nâng đỡ nhau trong việc chia sẻ các kinh nghiệm, tư tưởng và kiểu loan báo Tin Mừng, và là các chứng nhân can đảm của niềm hy vọng kitô.

Đại hội công giáo toàn quốc Đức nhóm họp hai năm một lần với sự tham dự của hàng chục ngàn tín hữu. Chương trình đại hội gồm các buổi cử hành phụng vụ, diễn thuyết, thảo luận bàn tròn, sinh hoạt văn nghệ, triển lãm, chia sẻ kinh nghiệm và chứng từ sống đạo vv… Đại hội lần trước năm 2014 đã được triệu tập tại Regensburg về đề tài “Cùng Chúa Kitô xây dựng các cây cầu”, và đã tập trung vào các đề tài luân lý gia đình và các viễn tượng gia đình kitô nhăm chuẩn bị cho Thượng Hội Đồng Giám Mục Thế Giới về gia đình trong bối cảnh tái truyền giảng Tin Mừng (SD 25-5-2016)

Linh Tiến Khải

Sứ điệp Đức Thánh Cha gửi Hội nghị Thượng đỉnh về nhân đạo

Sứ điệp Đức Thánh Cha gửi Hội nghị Thượng đỉnh về nhân đạo

Sứ điệp Đức Thánh Cha gửi Hội nghị Thượng đỉnh về nhân đạo

VATICAN. ĐTC tố giác nhiều quyền lợi đang ngăn cản việc giải quyết các xung đột trên thế giới và ngài kêu gọi canh tân nỗ lực bảo vệ phẩm giá và các quyền con người.

Ngài bày tỏ lập trường trên đây trong sứ điệp gửi Hội nghị Thượng Đỉnh về nhân đạo do LHQ triệu tập tại Istanbul Thổ Nhĩ Kỳ trong hai ngày 23 và 24-5-2016.

ĐTC khẳng định rằng: ”Chúng ta không thể phủ nhận ngày nay nhiều quyền lởi đang ngăn cản việc giải quyết các cuộc xung đột, và nhiều chiến lược quân sự, kinh tế và chính trị địa lý đang làm cho các cá nhân và các dân tộc phải tản cư, và nó áp đặt thần tiền bạc, thần quyền lực. Đồng thời các nỗ lực nhân đạo thường bị những hạn chế về thương mại và ý thức hệ.   Vì thế, ĐTC viết, điều đang cần ngày nay là tái quyết tâm bảo vệ mỗi người trong đời sống thường nhật và bảo vệ phẩm giá cũng như các nhân quyền, an ninh và những nhu cầu toàn diện của họ. Đồng thời cũng cần bảo tồn tự do và căn tính xã hội, văn hóa của các dân tộc; điều này không đưa tới sự cô lập, trái lại nó tạo điều kiện cho sự cộng tác, đối thoại và nhất là hòa bình”.

Trong ý hướng trên đây, ĐTC cổ võ sự quyết tâm, trước tiên là những cố gắng bản thân, rồi cùng nhau, phối hợp sức mạnh và các sáng kiến để không có gia đình nào mà không có gia cư, không người tị nạn nào mà không được tiếp đón, không ai phải sống mà không có phẩm giá, không có người bị thương nào mà không được săn sóc, không trẻ em nào bị mất tuổi thơ, không người trẻ nam nữ nào mà không có tương lai, không người cao niên nào mà không được một tuổi già đáng trọng”.

ĐTC cầu mong hội nghị thượng đỉnh ở Istanbul này cũng là một cơ hội nhìn nhận công việc của những người đang phục vụ những người thân cận, và góp phần an ủi những đau khổ của các nạn nhân chiến tranh và thiên tai, những người phải tản cư và tị nạn, những người săn sóc xã hội, đặc biệt là qua những chọn lựa can đảm để bênh vực hòa bình, sự tôn trọng, chữa lành và thư thứ. Đó là cách thức các sinh mạng con người được cứu vớt” (SD 23-5-2016)

G. Trần Đức Anh OP

Bốn yếu tố cần thiết để nên thánh

Bốn yếu tố cần thiết để nên thánh

Thánh lễ sáng thứ Ba, 24.05, tại nguyện đường Thánh Marta

VATICAN. Bước đi trước tôn nhan Chúa mà không thấy lòng hổ thẹn. Đó là điều mà Đức Thánh Cha Phanxicô chia sẻ để làm sao chúng ta có thể bước đi trong cuộc hành trình nên thánh. Trong bài giảng thánh lễ sáng thứ 3, 24.05, tại nhà nguyện Thánh Marta, Đức Thánh Cha nói rằng để hành trình này đạt đến thành công, các Kitô hữu phải có khả năng vững lòng trông cậy với sự can đảm, biết mở lòng ra để thảo luận, và tự do đón nhận ân sủng của Thiên Chúa.

Sự thánh thiện không thể mua được, cũng không thể đạt được bằng sức mạnh con người. Sự thánh thiện đơn sơ của mọi Kitô hữu chỉ có thể đạt được nhờ sự giúp đỡ của bốn yếu tố cần thiết sau đây: lòng can đảm, niềm hy vọng, ân sủng và sự hoán cải.

Đường lối can đảm

Khởi đi từ bài đọc một trích thư thứ nhất của Thánh Phê-rô Tông đồ, thuật lại luận thuyết nhỏ của thánh nhân về sự thánh thiện, Đức Thánh Cha nói rằng: “Thánh thiện là bước khi trước sự hiện diện của Chúa mà lòng không cảm thấy hổ thẹn.

Thánh thiện là một hành trình. Sự thánh thiện không thể được mua bán, cũng không thể cho được. Sự thánh thiện là một hành trình bước đi trong sự hiện diện của Chúa mà chính mỗi người chúng ta phải thực hiện. Không ai có thể làm thay cho chúng ta được. Chúng ta có thể cầu nguyện cho một người được nên thánh thiện, nhưng chính người đó phải bước đi, phải tự mình thực hiện chứ không phải chúng ta. Bước đi trong sự hiện diện của Chúa với một cách thức hoàn hảo không tì vết.

Sự thánh thiện trong cuộc sống hằng ngày cũng có thể là ‘vô danh’. Và yếu tố đầu tiên cần thiết để đạt được sự thánh thiện chính là lòng can đảm. Con đường nên thánh cần có can đảm.

Hy vọng và ân sủng

Vương quốc của Đức Giêsu chỉ dành cho những ai dám bước đi với lòng can đảm và lòng can đảm lại xuất phát từ niềm hy vọng. Đó cũng là yếu tố thứ hai trong hành trình nên thánh. Lòng can đảm có được nhờ hy vọng vào cuộc gặp gỡ với Đức Giêsu.

Yếu tố thứ ba trong hành trình nên thánh xuất hiện trong những lời của Thánh Phê-rô: ‘Hãy hoàn toàn đặt niềm trong cậy vào ân sủng.’ Chúng ta không thể đạt được sự thánh thiện nhờ sức riêng của mình. Nhưng đó là một ân sủng. Trở nên tốt lành, nên thánh thiện, mỗi ngày mỗi tiến lên những bước nho nhỏ trong đời sống Kitô hữu là ân sủng của Thiên Chúa và chúng ta phải cầu xin ơn này. Lòng can đảm, một cuộc hành trình; một cuộc hành trình mà người ta cần phải có lòng can đảm để bước đi với niềm hy vọng và tấm lòng luôn sẵn sàng rộng mở để đón nhận ân sủng này.

Tôi mời gọi anh chị em hãy đọc một chương rất đẹp, đó là chương 11 trong thư gởi tín hữu Do Thái, thuật lại cuộc hành trình của các tổ phụ. Họ là những người đầu tiên được Thiên Chúa mời gọi. Tổ phụ Áp-ra-ham đã lên đường bước theo lời mời gọi của Chúa trong khi chưa biết mình phải đi đâu. Nhưng ngài vẫn một lòng hy vọng.

Hoán cải mỗi ngày

Trong thư của thánh Phê-rô, chúng ta cũng nhận thấy tầm quan trọng của yếu tố thứ tư: hoán cải là một nỗ lực liên tục để tẩy sạch con tim. Hoán cải mỗi ngày không có nghĩa là chúng ta phải đánh mình, phạt xác khi phạm tội. Nhưng chúng ta hãy làm những hoán cải nho nhỏ thôi. Chẳng hạn như: cố gắng giữ gìn miệng lưỡi để không nói xấu người khác, cố gắng bước đi trên con đường ngay chính để nên thánh. Không nói xấu người khác có phải là một chuyện dễ dàng không? Không hề dễ chút nào. Khi ta muốn chỉ trích người hàng xóm, người đồng nghiệp, chúng ta hãy cẩn thận miệng lưỡi của mình, nếu được hãy cắn lưỡi một cái thật đau. Có thể lưỡi sẽ xưng lên, nhưng tinh thần của chúng ta sẽ được thánh thiện hơn. Đừng chỉ thích làm những hãm mình, khổ chế to lớn nhưng hãy làm những gì nhỏ bé đơn sơ thôi. Con đường nên thánh thì đơn sơ. Đừng bao giờ lùi lại, hãy luôn tiến về phía trước với lòng can đảm.”

Vũ Đức Anh Phương SJ

Vừa gian ác tham lam lại vừa ngu

Vừa gian ác tham lam lại vừa ngu

Protest Dead fish in Viet Nam 1Courtesy picture

Từ đầu tháng tư và nhất là đầu tháng 5 vừa qua nạn ô nhiễm môi trường biển miền Trung Việt Nam đã khiến cho cá và hải sản chết hàng loạt, kể cả các loại cá sống sâu dưới đáy biển. Thật ra nạn cá chết trôi giạt vào bờ đã được ngư dân Kỳ Anh, Hà Tĩnh phát hiện ngày mùng 6 tháng 4.  Những ngày sau đó nạn cá chết lan dần xuống bờ biền Quảng Bình, Quảng Trị và Huế.

Ngày 22 tháng 4 một người dân lặn biển là ông Nguyễn Xuân Thành đã tìm thấy đường ống thải hóa chất dưới đáy biển. Ông cho báo Thanh niên biết là đường ống này phun nước rất mạnh. Nước phun từ đường ống ra có mầu vàng đục, nhừa nhựa, mùi hôi thối, khi ngừi thì cảm thấy nghẹt thở. Ngày 24 tháng 4 giáo sư Lê Huy Bá, nguyên viện trưởng Viện khoa học công nghệ và quản lý môi trường thuộc đại học công nghiệp thành phố Sài Gòn cho đài BBC Luân Đôn biết những loại chất làm cho cá và thuỷ sản chết nhanh và nhiều như vậy thuộc loại vô cùng độc hại, và dòng hải lưu đã khiến cho các chất độc từ Hà Tĩnh lan nhanh về Quảng Bình, Quảng Trị và Huế. Chỉ trừ một số chất làm sạch nước, chống khuẩn, còn lại các chất chống gỉ, chống ăn mòn, khử trùng, trung hoà vv.. đều gây độc. Các thành phần giầu kim loại nặng, rất giầu hóa chất mạch vòng và chất điện tử tự do đều gây độc kinh khủng . Chúng có thể tạo ra các hợp chất cơ kim rất bền trong nước và rất khó giải độc.

Protest Dead fish in Viet NamCourtesy picture

Ngày 27 tháng 4 ngư dân Đã Nẵng cũng thấy cá chết hàng loạt giạt vào bờ.

Ống cống thải các chất cực độc nói trên thuộc Công ty gang thép hưng nghiệp Formosa Hà Tĩnh của tập đoàn Formosa Đài Loan, được thành lập năm 2008 và hoạt động tại khu kinh tế Vũng Áng tỉnh Hà Tĩnh. Ba chủ đầu tư chiến lược của công ty Formosa Hà Tĩnh là Tổng công ty thép Đài Loan chiếm 25% cổ phần, Công ty Plastics Group Formosa, con của Công ty hoá chất dầu hoả Formosa chiếm 70% và Tập đoàn thép của Nhật Bản chiếm 5%. Các công ty này đầu tư 10.5 tỷ mỹ kim và tạo công ăn việc làm cho gần 6,500 nhân công.

Tuy chứng cớ đã rành rành, nhưng Công ty gang thép hưng nghiệp Formosa Hà Tĩnh vẫn khẳng định họ không gây ô nhiễm môi trường biển. Và ông Võ Tuấn Nhân, thứ trưởng Bộ tài nguyên và môi trường còn khẳng định rằng Công ty Formosa được nhà nước cho phép xả thải.

Thật ra ngay từ tháng 12 năm 2015 đã xảy ra hiện tượng ngao sò chết tại Hà Tĩnh. Mãi cho tới khi cá bắt đầu chết hàng loạt người ta mới chú ý. Khoảng cách từ Đà Nẵng tới mũi Cà Mau là 1,242 cây số. Chỉ trong vòng 6 tuần toàn bờ biển Việt Nam sẽ trở thành bờ biển chết.

Ngày mùng 8 tháng 4 lực lượng tuần tra biên phòng Quảng Bình đã chận bắt 6 tầu đánh cá Trung quốc đột nhập sâu bờ biển Việt Nam, chỉ cách Nhật Lệ tỉnh Đồng Hới 19 hải lý về phía đông. Các ngư dân này đều bất hợp tác và đa số là tầu trinh sát giả dạng ngư phủ.

Cũng vào đầu tháng 5 người dân sống gần đảo Pag-asa thuộc vùng biển phía tây của Philippines cũng chứng kiến hàng hàng lớp lớp các loài sinh vật biển chết, trôi giạt đầy bờ. Như thế, cùng thời điểm Công ty Formosa Hà Tĩnh bất ngờ đẩy mạnh việc xả hàng tấn chất độc ra biển cũng là lúc nhiều tầu Trung Quốc giả dạng như dân nhưng có vũ trang được lệnh xâm nhập và bỏ các chất độc hại xuống vùng biển tranh chấp, nhằm tiêu diệt người dân các nước vùng Đông Nam Á, bắt đầu với Việt Nam và Philippines.

Vì lợi nhuận 10.5 tỷ mỹ kim nhà nước cộng sản Hà Nội đã khiến cho toàn bờ biển Việt Nam biến thành biển chết, kéo theo các hậu quả vô cùng thảm khốc. Sẽ có hàng chục triệu người mất công ăn việc làm và sẽ chết đói. Toàn bộ thu nhập đánh bắt, nuôi trồng và xuất cảng hải sản đem về hàng mấy chục tỷ mỹ kim hàng năm sẽ bị mất trắng. Thế rồi với nạn ô nhiễm môi trường biển và hải sản ngành du lịch hàng năm đem lại mấy chục tỷ mỹ kim cũng sẽ khựng lại. Toàn dân Việt Nam sẽ bị ngộ độc vì thực phẩm và nước biển ô nhiễm. Hàng chục triệu trẻ em sinh ra sẽ là các quái thai, tàn tật, dị dạng, tạo ra một xã hội gồm hàng triệu trẻ em tàn tật.

Khi nhìn vào tình hình của đất nước, ai cũng dễ dàng nhận ra Trung  Quốc đang bức tử Việt Nam, với hai gọng kìm siết họng 90 triệu con dân nước Việt. Gọng kìm phiá Đông là các căn cứ quân sự và tầu chiến ở Hải Nam, Hoàng Sa và Trường Sa và hàng ngàn tầu đánh cá vũ trang bắn phá, huỷ hoại và xua đuổi tầu đánh cá của ngư phủ Việt Nam. Rồi giờ đây là chiến thuật xả các chất độc hại để giết dân Việt Nam.

Gọng kìm thứ hai ở phía Tây là ngăn chặn dòng chảy của sông Mêkông với hàng chục đập thuỷ điện lực, khiến cho miền nam Tây nguyên và cả miền Tây Việt Nam đang bị hạn hán, mất mùa và biến đồng bằng sông Cửu Long, vựa lúa của Việt Nam, trở thành khô cằn và nhiễm mặn nặng nề.

Protest dead fish in VN 1Courtesy picture

Nhưng lưỡi mác mổ bụng dân Việt là các đội quân kinh tế, gồm cả quân đội, ngày càng đông đảo không giấy tờ tràn sang trồng rừng, xây nhà máy, đường sá, cầu cống, xe lửa, khai thác bau xít, xây cảng, xây các vùng tự trị, lập khu dân cư với các hàng quán cửa hiệu Tầu, lấy phụ nữ Việt, đẻ con mang họ Tầu. Người Tầu nắm chặt mọi hoạt động kinh tế, đời sống của dân Việt từ Bắc chí Nam với hàng trăm nhà máy thuỷ điện, sắt thép , xi măng, phân bón, cơ khí phụ thuộc trang thiết bị Tầu, do các công ty Tầu nắm. Buôn bán thực phẩm, thịt và rau quả độc hại cũng nằm trong tay Tầu. Các thứ nguyên liệu xuất cảng vài, da, tơ lụa cũng do Tầu nắm chặt và định giá.

Thế là vì gian ác, tham lam và ngu dốt, 19 uỷ viên Bộ chính trị, 200 Uỷ viên trung ương, 500 đại biểu Quốc Hội và hơn 3 triệu đảng viên cộng sản đã bán đứng Việt Nam cho Tầu Cộng, để cho tập đoàn cộng sản Bắc Kinh sai khiến như nô lệ và bức tử nhân dân Việt Nam.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Công trình cứu chuộc của Chúa Kitô là nối lại tương quan với Thiên Chúa là Cha

Công trình cứu chuộc của Chúa Kitô là nối lại tương quan với Thiên Chúa là Cha

ĐTC chủ sự thánh lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống trong đền thờ Thánh Phêrô sáng Chúa Nhật 15-5-2016

Toàn công trình cứu chuộc của Chúa Kitô là nối lại tương quan của chúng ta với Thiên Chúa là Cha

Toàn công trình cứu chuộc của Chúa Kitô là nối lại tương quan của chúng ta với Thiên Chúa là Cha bằng cách ban Chúa Thánh Thần để Người hướng dẫn, ủi an và bênh vực chúng ta trong cuộc sống.

ĐTC đã nói như trên trong bài giảng thánh lễ cử hành lúc 10 giờ sáng Chúa Nhật hôm qua lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống trong đền thờ thánh Phêrô. Cùng đồng tế với ĐTC có gần 100 vị gồm Hồng Y, Tổng Giám Mục, Giám Mục và mấy chục Linh Mục. Đảm trách phần thánh ca có ca đoàn Sistina của Toà Thánh và ca đoàn Mater Ecclesiae. Tham dự thánh lễ đã có khoảng 10.000 tín hữu và du khách hành hương.

Sau bài thánh ca Xin Chúa Thánh Thần đến và ca nhập lễ ĐTC đã bắt đầu buổi cử hành với phần làm phép nước là dấu chỉ lòng lành của Thiên Chúa, Đấng đã giải phóng dân Do thái khỏi kiếp sống nô lệ, và dẫn đưa họ vuợt qua Biển Đỏ, Đấng đã cho nước vọt ra trong sa mạc để giải khát cho dân  cho dân. Với hình ảnh nước mát, các ngôn sứ đã tiên báo giao ước mới, mà Thiên Chúa muốn cống hiến cho loài người. Sau cùng trong nuớc sông Giordan được Chúa Kitô thánh hóa, Chúa đã khai mào bí tích tái sinh ghi dấu việc khởi đầu một nhân loại mới, tự do không bị tội lỗi làm hư hoại. Xin Chúa làm sống dậy nơi chúng con trong dấu chỉ của nước thánh này kỷ niệm bí tích Rửa Tội để chúng con có thể kết hiệp với cộng đoàn tươi vui của tất cả các anh chị em đã được rửa tội trong lễ Phục Sinh của Chúa Kitô Chúa chúng con.

Tiếp đến ĐTC và hai Phó tế rảy nước thánh trên tín hữu, trong khi ca đoàn hát bài thánh thi “Tôi đã trông thấy nước từ Đền Thờ chảy ra, nước ấy chảy đến đâu thì đem sự sống đến đó”.

Bài đọc một bằng tiếng Tây Ban Nha, trích từ sách Công Vụ kể lại biến cố Chúa Thánh Thần hiện xuống khiến cho các Tông Đồ mạnh dạn rao giảng Chúa Kitô phục sinh và dân chúng thuộc nhiều quốc tịch khác nhau hiểu trong ngôn ngữ của mình điều họ nghe. Bài đọc hai bằng tiếng Anh, trích từ thư thánh Phaolô tông đồ gửi tín hữu Roma, nói về cuộc sống mới trong Thần Khí khiến cho tín hữu được gọi Thiên Chúa là Cha. Phúc Âm được hát bằng tiếng Latinh thuật lại các lời Chúa Giêsu khích lệ các môn đệ ở lại trong Ngài và tuân giữ các điều răn của Ngài, để Thiên Chúa Cha và Ngài yêu thương họ và ở lại trong họ. Chúa Thánh Thần mà Chúa Giêsu sẽ gửi đến sẽ dậy dỗ họ mọi điều, để họ nhớ lại những gì Ngài đã nói với họ.

Giảng trong thánh lễ ĐTC nói:

 “Thầy sẽ không để các con mồ côi” (Ga 14,18). Sứ mệnh của Chúa Giêsu đạt tột đỉnh với ơn Chúa Thánh Thần đã có mục đích nòng cốt này: đó là nối lại tương quan của chúng ta với Thiên Chúa Cha, đã bị tội lỗi làm hư hại; kéo chúng ta ra khỏi điều kiện mồ côi và tái lập điều kiện là con cho chúng ta.

Khi viết cho kitô hữu giáo đoàn Roma thánh tông đồ Phaolô nói: “Quả vậy, phàm ai được Thần Khí Thiên Chúa hướng dẫn, đều là con cái Thiên Chúa. Phần anh em, anh em đã không lãnh nhận Thần Khí khiến anh em trở thành nô lệ và phải sợ sệt như xưa, nhưng là Thần Khí làm cho anh em nên nghĩa tử, nhờ đó chúng ta được kêu lên: "Áp-ba! Cha ơi! " (Rm 8,14-15). Đó là tương quan được nối lại: chức làm cha của Thiên Chúa được kích hoạt lại trong chúng ta nhờ hoạt đông cứu độ của Chúa Kitô và nhờ ơn Thánh Thần.

Chúa Thánh Thần được Thiên Chúa Cha ban cho dẫn chúng ta tới Thiên Chúa Cha. Toàn công trình cứu chuộc là một công trình tái sinh, trong đó chức làm cha của Thiên Chúa, qua ơn của Chúa Con và của Chúa Thánh Thần, giải thoát chúng ta khỏi cảnh mồ côi chúng ta đã bị rơi vào. Cả trong thời đại của chúng ta ngày nay nữa  cũng gặp thấy nhiều dấu chỉ của điều kiện mồ côi này của chúng ta: sự cô đơn nội tâm mà chúng ta cũng cảm thấy giữa đám đông  và đôi khi có thể trở thành  sự buồn sầu hiện sinh; yêu sách tự lập khỏi Thiên Chúa, đi kèm một nhớ nhung nào đó về sự gần gũi cuả Ngài; sự mù chữ tinh thần phổ biến khiến cho chúng ta không có khả năng cầu nguyện; cái khó khăn trong việc cảm nhận sự sống vĩnh cửu đích thật như sự hiệp thông tràn đầy đâm chồi và nẩy lộc vượt quá cái chết; sự mệt nhọc trong việc thừa nhận ngườì khác như anh em, trong tư cách là con của cùng một Cha; và nhiều dấu chỉ tương tự khác nữa.

Đối nghịch với tất cả các thứ đó là điều kiện là con, là ơn gọi nguyên thuỷ của chúng ta, là điều vì đó chúng ta đã được tạo dựng nên, là yếu tố di truyền sâu đậm nhất cuả chúng ta, nhưng nó đã bị hư hoại,  và để tái lập nó đã cần phải có hy tế của Con Một Thiên Chúa. Từ ơn tình yêu vô biên là cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá, đã nảy sinh ra cho toàn nhân loại như là một thác ơn thánh vô biên, việc đổ tràn đầy Thánh Thần. Ai dìm mình với đức tin trong mầu nhiệm tái sinh ấy thì được sinh lại vào cuộc sống tràn đầy là con cái Thiên Chúa.

Tiếp tục bài giảng ĐTC nói:

Thầy sẽ không để các con mồ côi”. Hôm nay, lễ Ngũ Tuần, các lời này của Chúa Giêsu cũng khiến cho chúng ta nghĩ tới sự hiện diện hiền mẫu của Đức Maria trong Nhà Tiệc Ly. Mẹ Chúa Giêsu ở giữa cộng đoàn các môn đệ tụ họp cầu nguyện: Mẹ là ký ức sống động của Con và là lờì khẩn nài sống động của Thánh Thần. Mẹ là Mẹ Giáo Hội. Một cách đặc biệt chúng ta hãy phó thác cho lời bầu cử cuả Mẹ tất cả các kitô hữu, các gia đình và các cộng đoàn trong lúc này đây đang cần đến sức mạnh của Thần Khí Ủi An, Bảo Vệ. Thần Khí của sự thật, tự do và hoà bình.

Thần Khí, như thánh Phaolô khẳng định một lần nữa, khiến cho chúng ta thuộc về Chúa Kitô: “Nếu ai không có Thần Khí của Chúa Kitô thì không thuộc về Ngài” (Rm 8,9). Và khi củng cố tương quan tuỳ thuộc về Chúa Giêsu của chúng ta, Thần Khí làm cho chúng ta bước vào một năng động huynh đệ mới. Qua Người Anh đại đồng là Chúa Giêsu, chúng ta có thể tương quan với các người khác  một cách mới mẻ, không phải như những kẻ mồ côi nữa, nhưng như là con cái của cùng một Cha nhân lành và thương xót. Và điều này thay đổi mọi sư! Chúng ta có thể nhìn nhau như anh em và các khác biệt của chúng ta chỉ gia tăng niềm vui và sự tuyệt diệu thuộc về một chức làm cha và tình huynh đệ duy nhất.

Các lời nguyện giáo dân đã được tuyên đọc trong các thứ tiếng Tầu, Giorgiano, Pháp, Armeno và Lingala: xin cho các ơn của Chúa Thánh Thần làm cho Giáo Hội mạnh mẽ loan báo sự thật và chiếu sáng thực tại Phục Sinh; xin cho các nhà làm luật và những ngươi cai trị được giải thoát khỏi tinh thần thế tục và biết lo cho công ích; xin cho người trẻ biết lắng nghe tiếng Chúa mời gọi và quảng đại đáp trả để trở nên linh mục tu sĩ; xin cho các kitô hữu đang gặp cảnh khó khăn thử thách và bách hại đưọc kiên cường và sự hy sinh của họ làm sống dậy đức tin của các anh chị em nguội lạnh; xin cho các anh chị em nghèo túng và khổ đau được Chúa Thánh Thân an ủi và được các anh chị em khác trợ giúp trong tình bác ái.

Các lễ vật đã được 3 gia đình đem lên bàn thờ, trong đó có gia đình ông bà De Branche với 4 người con và gia đình ông bà Del Rossi và Barbarra Potenza với 3 người con sinh cùng một lúc.

Lúc 12 giờ trưa ĐTC đã đọc Kinh Lậy Nữ Vương Thiên Đàng với hơn 60.000 tín hữu.  Trong bài huấn dụ ngài nhắc lại lời Chúa Giêsu nói với các môn đệ “Nếu các con yêu mến Thầy thì sẽ giữ các giới răn của Thầy, Thầy sẽ xin Cha và Ngài sẽ ban cho các con một Đấng Bảo Trợ khác để Người ở với các con luôn mãi. ĐTC nói:

Các lời này nhắc nhớ chúng ta trước hết rằng tình yêu đối với một người và cả đối với Chúa nữa không chỉ được chứng minh bằng lời nói, nhưng với việc làm. Và cả việc tuân giữ các giới răn cũng được hiểu trong nghĩa hiện sinh, làm sao để toàn cuộc sống bị liên lụy. Thật thế, là kitô hữu một cách nòng cốt không có nghĩa là tuỳ thuộc một nền văn hóa hay theo một lý thuyết nào đó, mà đúng hơn là cột buộc mọi khía cạnh đời mình vào con người của Chúa Giêsu và qua Người vào Thiên Chúa Cha. Chính vì thế mà Chúa Giêsu hứa ban Thánh Thần cho các môn đệ Ngài. Chính nhờ Thánh Thần, là Tình Yêu kết hiệp Chúa và Chúa Con và từ đó Người phát xuất, mà tất cả chúng ta có thể sống chính cuộc sống của Chúa Giêsu Thật thế, Thần Khí dậy chúng ta mọi điều, hay điều duy nhất cần thiết là yêu như Thiên Chúa yêu. Chúa Giêsu định nghĩa Thánh Thần là Đấng bào chữa, là Đấng an ủi, là Trạng Sư và Đấng bầu cử, nghĩa là Đấng trợ giúp, bênh vực và ở bên cạnh chúng ta trên con đường cuộc sống và trong cuộc đấu tranh cho sự thiện chống lại sự dữ. Ngoài ra Chúa Thánh Thần còn có nhiệm vụ dậy dỗ và nhắc nhở chúng ta. Người khiến cho giáo huấn của Chúa Giêsu sống và hoạt động để nó không bị thời gian xóa bỏ và làm suy yếu đi. Chúa Thánh Thần tháp giáo huấn đó vào tim chúng ta và giúp chúng ta nội tâm hóa nó, bằng cách làm cho nó trở thành thịt của chúng ta, và chuẩn bị cho chúng ta có khả năng nhận các lời và các gương sống của Chúa. Xin Mẹ Maria bầu cử cho chúng ta được linh hoạt một cách mạnh mẽ bởi Chúa Thánh Thần để làm chứng cho Chúa Kitô và ngày càng rộng mở cho tình yêu tràn đầy của Chúa.

Tiếp đến ĐTC đã cất Kinh Lạy Nữ Vương Thiên Đàng và ban phép lành cho mọi người.

Sau Kinh Lây Nữ Vương Thiên Đàng ĐTC cho biết ngài đã công bố sứ điệp cho Ngày Thế Giới Truyền Giáo  cử hành vào Chúa Nhật thứ ba tháng 10 tới xin Chúa Thánh Thần ban sức mạnh cho các thừa sai truyền giáo cho muôn dân và nâng đỡ sứ mệnh  của Giáo Hội trên toàn thế giới.

Chào nhiều nhóm tín hữu và du khách hành hương, ĐTC khích lệ mọi người là chứng nhân lòng thương xót và niềm hy vọng của Chúa.

Linh Tiến Khải

Thiên Chúa là Cha vẫn yêu thương và chờ đợi con người trở về

Thiên Chúa là Cha vẫn yêu thương và chờ đợi con người trở về

ĐTC chào một nhà sư trong buổi tiếp kiến chung sáng thứ tư 11-5-2016

Trong bất cứ hoàn cảnh nào của cuộc sống, tôi không bao giờ được quên rằng tôi vẫn luôn mãi là con của Thiên Chúa, của một người Cha yêu thương tôi và chờ đợi tôi trở về. Cả trong tình trạng tồi tệ nhất của cuộc sống, Thiên  Chúa vẫn chờ đợi tôi, Thiên Chúa vẫn muốn ôm tôi, Thiên Chúa vẫn đợi chờ.

Kính thưa quý vị thính giả, ĐTC Phanxicô đã nói như trên với hơn 60,000 tín hữu và du khách hành hương năm châu trong buổi tiếp kiến chung sáng thứ tư hàng tuần hôm qua. Trước đó ngài đã chào các bệnh nhân tụ họp trong đại thính đường Phaolô VI, vì trời hơi mưa một chút. Ngài nói trong đại thính đường anh chị em sẽ dễ chịu hơn và có thể theo dõi buổi tiếp kiến trên màn hình khổng lồ. Tôi cám ơn anh chị em rất nhiều. Xin cám ơn. Xin anh chị em đừng quên cầu nguyện cho tôi nhé! Giờ đây chúng ta cầu xin Đức Mẹ và tôi ban phép lành cho anh chị em. ĐTC đã đọc Kinh Kính Mừng chung với tín hữu và ban phép lành cho họ. Tiếp đến ngài lên xe díp mui trần ra quảng trường chào tín hữu. Lúc này trời đã tạnh và quang đãng.

Trong bài huấn dụ ĐTC đã giải thích ý nghĩa dụ ngôn người con hoang đàng, bắt đầu từ cuối dụ ngôn với niềm vui của con tim người cha và lời mời: “Chúng ta hãy mở tiệc mừng vì con ta đây đã chết nay lại sống, đã mất nay lại tìm được” (Lc 15,23-24). Với các lời này người cha đã ngắt lời đứa con thứ khi anh ta đang xưng thú lỗi lầm của mình: “Con không đáng được gọi là con cha nữa…” (c. 19). Và ĐTC quảng diễn như sau:

Nhưng kiểu nói này không thể chịu đựng được đối với trái tim của người cha, mau mắn trả lại cho đứa con các dấu chỉ phẩm giá của nó: áo đẹp, nhẫn và dép. Chúa Giêsu không miêu tả một người cha bị xúc phạm và giận dỗi; một người cha nói chẳng hạn: “Mày sẽ phải trả giá”; không người cha ôm anh ta, chờ đợi anh ta với tình yêu thương. Trái lại điều duy nhất mà người cha lưu tâm là đứa con này đang đứng trước mặt ông khoẻ mạnh và an lành, và điều này khiến cho ông sung sướng và mở tiệc mừng. Việc đón tiếp đứa con trở về rất là cảm động: “Khi nó còn ở đàng xa, cha nó trông thấy nó, ông động lòng thương, chạy ra gặp con ngã vào cổ nó và hôn nó”  (c. 20). Biết bao nhiêu dịu hiền; ông trông thấy con từ xa: điều này có nghĩa là gì? Có nghĩa là người cha liên tục lên sân thượng, để nhìn con đường và trông thấy đứa con trở về, đứa con đã làm đủ mọi chuyện, nhưng ông chờ đợi nó. Sự dịu hiền của người cha thật đẹp biết bao!

Lòng thương xót của người cha tràn đầy, vô điều kiện và đưọc biểu lộ ra trước khi đứa con nói. Chắc chắn đứa con biết mình đã sai lầm và thừa nhận điều đó: “Con đã phạm tội… xin cha đối xử với con như một đứa con ăn đầy tớ của cha” (c. 19). Nhưng các lời này tan biến trong sự tha thứ của người cha. Vòng tay ôm và nụ hôn của cha khiến cho anh hiểu rằng mặc dù tất cả, anh đã luôn luôn được coi như là con. Giáo huấn này của Chúa Giêsu quan trọng: điều kiện là con Thiên Chúa của chúng ta là hoa trái của tình yêu nơi con tim của Thiên Chúa Cha; nó không tuỳ thuộc các công nghiệp của chúng ta hay các hành động của chúng ta, và vì thế không ai có thể lấy mất đi của chúng ta, kể cả ma qủy! Không ai có thể lấy mất đi phẩm giá này.

Tiếp tục bài huấn dụ ĐTC nói: lời này của Chúa Giêsu khích lệ chúng ta đừng bao giờ thất vọng. Tôi nghĩ tới các người mẹ người cha, khi trông thấy các  con mình xa rời và bước vào các con đường nguy hiểm. Tôi nghĩ tới các cha sở và giáo lý viên đôi khi tự hỏi không biết công việc của mình có vô ích không. Nhưng tôi cũng nghĩ tới những người trong tù và xem ra cuộc đời họ đã hết; tôi nghĩ tới biết bao  người đã có các lựa chọn sai lầm và không thành công nhìn vào tương lai; tới tất cả những ai đói khát lòng thương xót và ơn tha thứ và tin rằng mình không xứng đáng được ơn ấy. Trong bất cứ hoàn cảnh nào của cuộc sống, tôi không bao giờ được quên rằng tôi vẫn luôn mãi là con của Thiên Chúa, của nột người Cha yêu thương tôi và chờ đợi tôi trở về. Cả trong tình trạng tồi tệ nhất của cuộc sống, Thiên  Chúa vẫn chờ đợi tôi, Thiên Chúa vẫn muốn ôm tôi, Thiên Chúa vẫn đợi chờ.

Trong dụ ngôn có một người con khác, người con cả: Cả anh ta cũng cần tái khám phá ra lòng thương xót của cha. Anh ta đã luôn luôn ở nhà, nhưng rất khác cha! Các lời của anh thiếu sự dịu hiền: “Cha xem con đã hầu hạ cha biết bao năm và không bao giờ trái lệnh cha, nhưng giờ đây cái thằng con cha đó trở về… (cc. 29-30). Chúng ta trông thấy sự khinh rẻ. Anh ta không bao giờ nói cha, và em. Anh ta chỉ nghĩ tới mình, anh ta khoe khoang là đã luôn luôn ở bên cạnh cha và phục vụ cha; nhưng anh ta đã không bao giờ sống sự gần gũi ấy với niềm vui. Và giờ đây anh ta tố cáo cha đã không bao giờ cho anh một con dê con để mừng lễ với bạn bè. Tội nghiệp người cha! Một đứa con bỏ nhà, đứa kia thì lại đã không bao giờ gần gũi cha thực sự! Cái khổ đau của người cha giống nỗi khổ đau của Thiên  Chúa, nỗi khổ đau của Chúa Giêsu khi chúng ta rời xa, hay bởi vì chúng ta ở xa hoặc vì chúng ta ở gần nhưng lại không gần.

Người anh cả cũng cần lòng thương xót. Những người công chính, những người tin rằng mình công chính cũng cần lòng thương xót. Người con này đại diện cho chúng ta tất cả, khi chúng ta tự hỏi xem có đáng công vất vả nhiều như thế để rồi không nhận được gì đổi lại hay không. ĐTC nêu bật giáo huấn của Chúa Giêsu như sau:

Chúa Giêsu nhắc cho chúng ta nhớ rằng người ta không bao giờ ở trong nhà Cha để có một phần thưởng, nhưng bởi vì ta có phẩm giá là con có tinh thần trách nhiệm.  Đây không phải là chuyện đổi chác với Thiên Chúa, nhưng là đi theo Chúa Giêsu là Đấng đã tận hiến  chính mình trên thập giá không đong đếm.

“Con ơi, con luôn luôn ở với cha và tất cả những gì của cha là của con, nhưng phải mừng lễ và vui sướng” c. 31). Người Cha nói với con cả như thế. Cái luận lý của ông là cái luận lý của lòng thương xót! Người con thứ  đã nghĩ rằng anh ta đáng phạt vì các tội của mình, người anh cả chờ đợi một phần thưởng cho các phục vụ của anh ta. Hai anh em không nói chuyện với nhau, họ sống các lịch sử khác nhau, nhưng cả hai đều theo lý luận xa lạ đối với Chúa Giêsu: nếu bạn làm tốt, thì được một phần thưởng, còn nếu bạn làm xấu, thì bị phạt. Đó không phải là cái luận lý của Chúa Giêsu. Nó không phải là cái luận lý của Ngài.

Cái luận lý này bị đảo lộn bởi các lời của người cha: “Cần phải mừng lễ và sui sướng bởi vì em con đã chết mà đã sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy” (c. 31). Người cha đã phục hồi đứa con đã mất và giờ đây cũng có thể phục hồi anh nó! Nếu không có người em út người anh cả cũng thôi là một người anh. Niềm vui lớn nhất đối với người cha là trông thấy các con ông nhận nhau là anh em.

Các người con có thể quyết định hiệp nhất với niềm vui của cha hay từ chối nó. Họ phải tự vấn về các ước mong của cha và quan điểm họ có về cuộc sống. Dụ ngôn kết thúc bằng cách để lửng đoạn kết: chúng ta không biết người anh cả đã quyết định làm gì. Và đây là một kích thích đối với chúng ta. Tin Mừng này dậy chúng ta rằng chúng ta tất cả đều cần bước vào trong nhà Cha và tham dự vào niềm vui của Cha, tham dự vào lễ mừng của lòng thương xót và tình huynh đệ. Anh chị em, chúng ta hãy mở rộng con tim chúng ta để thương xót như Cha.

ĐTC đã chào các đoàn hành hương đến từ các nước nói tiếng pháp, đặc biệt các thị trưởng trong giáo phận Chartres, cũng như đoàn hành hương đảo Corse, do các Giám Mục sở tại hướng dẫn. Ngài mời gọi chuẩn bị mừng lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống bằng lời cầu nguyện và các việc lành phúc đức.

Chào tín hữu đến từ các nước Anh, Ailen, Đan Mạch, Trung quốc, Ấn Độ, Indonesia, Nhật Bản, Malaysia, quần đảo Seychelles và Hoa Kỳ ĐTC xin Chúa đổ tràn đầy trên họ và gia đình họ niềm vui của Chúa phục sinh.

Chào các đoàn hành hương nói tiếng Đức ngài mời gọi tín hữu đi xưng tội trong Năm Thánh để được tình yêu của Chúa đánh động con tim.

Với các đoàn hành hương nói tiếng Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha ngài khích lệ họ biết tham dự vào lễ hội của lòng thương xót và tình huynh đệ để biết sống nhân từ như Thiên Chúa Cha. Ngài đặc biệt xin Chúa đổ tràn đầy Thánh Thần trên nhân dân Brasil đang phải sống những lúc khó khăn, biết hướng tới sự hòa hợp và hoà bình nhờ lời cầu nguyện và việc đối thoại, dưới sự hướng dẫn của Đức Bà Aparecida.

Chào các tín hữu Slovac, ngài xin Chúa Thánh Thần ban các ơn giúp mọi người trở thành chứng nhân can đảm của Chúa Kitô phục sinh.

ĐTC cũng chào nhiều đoàn hành hương do các Giám Mục Italia hướng dẫn. Ngài cầu mong Năm Thánh cùng cố đức tin của họ để làm chứng cho Chúa Kitô. Ngài đặc biệt chào các linh mục Á châu và Phi châu sinh viên trường Thánh Phaolô, cũng như của học viện Antonianum.

Chào giới trẻ, người đau yếu và các đôi tân hôn, ngài nhắc cho biết Chúa Nhật tới là Lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống. Ngài cầu chúc các bạn trẻ biết nhận ra tiếng của Chúa Thánh Thần nói với con tim của họ. Ngài khích lệ các bệnh nhân, đặc biệt các bệnh nhân của trung tâm Cottolengo tỉnh Trentola biết tín thác nơi Chúa Thánh Thần để nhận được ánh sáng ủi an của Chúa. Sau cùng ĐTC cầu chúc các đôi tân hôn, đặc biệt các cặp thuộc phong trào Tổ Ấm, phản ánh tình yêu trong sáng của Chúa trong cuộc sống gia đình.

Buổi tiếp kiến đã kết thúc với Kinh Lạy Cha và phép lành toà thánh ĐTC ban cho mọi người.

Linh Tiến Khải

50 ngàn đọc kinh Lạy Nữ Vương Thiên Đàng với Đức Thánh Cha

50 ngàn đọc kinh Lạy Nữ Vương Thiên Đàng với Đức Thánh Cha

50 ngàn tín hữu dự buổi đọc kinh Lạy Nữ Vương Thiên Đàng với Đức Thánh Cha 8-5-2016

VATICAN. Trong buổi đọc kinh Lạy Nữ Vương Thiên Đàng với 50 ngàn tín hữu tại Quảng trường Thánh Phêrô, trưa chúa nhật 8-5-2016, ĐTC mời gọi mọi người hướng nhìn trời cao, nhưng không quên dấn thân làm chứng tá cho Tin Mừng của Chúa trong đời sống thường nhật.

Bài huấn dụ của ĐTC trước khi đọc kinh

ĐTC nói: ”Hôm nay, tại Italia và các nước khác, chúng ta mừng lễ Chúa Giêsu lên trời, diễn ra 40 ngày sau khi sống lại. Chúng ta hãy chiêm ngắm mầu nhiệm Chúa Giêsu ra khỏi không gian trần thế của chúng ta để đi vào vinh quang sung mãn của Thiên Chúa, mang theo nhân tính của chúng ta. Tin Mừng theo thánh Luca tỏ cho chúng ta thấy phản ứng của các môn đệ trước Chúa ”Ngài tách rời khỏi họ và được đưa lên trời” (24,51). Các môn đệ không cảm thấy đau khổ và ngỡ ngàng, nhưng ”họ phủ phục trước Chúa; rồi trở về Jerusalem rất vui mừng” (v.52). Đó là sự trở về của những người không còn sợ thành thị đã phủ nhận Thầy của họ, thành ấy đã thấy sự phản bội của Giuda và sự chối thầy của Phêrô, sự phân tán các môn đệ và bạo lực của nhà cầm quyền cảm thấy bị đe dọa.

”Từ ngày ấy, đối với các Tông Đồ và mỗi môn đệ Chúa Kitô, họ có thể ở lại Jerusalem và trong tất cả các thành thị trên thế giới, cả trong những thành bị chao đảo vì bất công và bạo lực, vì trên mỗi thành có cùng một bầu trời và mỗi người dân có thể ngẩng lên nhìn trời trong niềm hy vọng. Trong bầu trời ấy có Thiên Chúa ngự trị, Ngài đã tỏ ra gần gũi đến độ đã nhận lấy khuôn mặt của một người, Đức Giêsu thành Nazareth. Ngài vẫn luôn là ”Thiên Chúa ở cùng chúng ta và không để chúng ta lẻ loi! Chúng ta có thể nhìn lên cao để nhận ra trước mặt tương lai chúng ta. Trong biến cố Chúa Giêsu lên trời, Đấng đã Chịu Đóng Đanh sống lại, có lời hứa chúng ta được tham dự vào cuộc sống sung mãn nơi Thiên Chúa.

”Trước khi rời các bạn hữu của Ngài, Chúa Giêsu, nhắc đến biến cố Ngài chịu chết và sống lại, và nói với họ: ”Các con sẽ là chứng nhân về biến cố ấy” (v. 48). Thực vậy, sau khi thấy Chúa lên trời, các môn đệ trở về thành phố như những chứng nhân vui mừng loan báo cho mọi người sự sống mới đến từ Chúa Chịu đóng đanh và sống lại, nhân danh Ngài, sự hoán cải và tha thứ tội lỗi sẽ được rao giảng cho mọi dân tộc” (v.47). Đó là chứng tá, được thực hiện không những bằng lời nói nhưng còn bằng đời sống thường nhật – mà mỗi chúa nhật phải xuất phát từ các thánh đường của chúng ta để, trong tuần, đi vào các nhà ở, các công sở, trường học và những nơi nghỉ ngơi, giải trí, trong các nhà thương, nhà tù, các nhà dưỡng lão, các nơi đầy người di dân, trong các khu ngoại ô, v.v..

ĐTC nói tiếp:

”Chúa Giêsu cam kết với chúng ta rằng trong lời loan báo và trong chứng tá ấy ”sẽ có quyền năng từ trên cao” (v. 49), nghĩa là với quyền năng của Chúa Thánh Linh. Bí quyết của sứ mạng ấy là sự hiện diện của Chúa Phục Sinh nơi chúng ta, với ơn của Thánh Linh, Chúa tiếp tục mở tâm trí chúng ta, để loan báo tình thương và lòng thương xót của Ngài cả trong những môi trường khô cằn nhất trong các thành thị của chúng ta. Chính Chúa Thánh Linh là người thực sự thực hiện chứng tá đa dạng mà Giáo Hội và mỗi tín hữu đã chịu phép rửa đang thi hành trên thế giới. Vì thế, chúng ta không bao giờ có thể lơ là việc mặc niệm trong kinh nguyện để chúc tụng Thiên Chúa và cầu xin ơn của Chúa Thánh Linh. Trong tuần này, chúng ta hãy để tâm hồn mình ở trong Nhà Tiệc Ly, cùng với Đức Trinh Nữ Maria, để đón nhận Chúa Thánh Linh. Và giờ đây, hiệp với các tín hữu tụ họp tại Đền Thánh Đức Mẹ Pompei nhân lễ khẩn nguyện theo truyền thống, để cầu xin các ơn ấy.

Nhắc nhở và chào thăm

Sau khi ban phép lành cho các tín hữu, ĐTC nhắc nhở rằng: ”hôm nay là ngày Thế giới truyền thông xã hội lần thứ 50 do Công đồng chung Vatican 2 mong muốn. Thực vậy, khi suy nghĩ về Giáo Hội trong thế giới ngày nay, các Nghị Phụ đã hiểu tầm quan trọng cốt yếu của truyền thông, chúng có thể bắc những nhịp cầu giữa các cá nhân, gia đình, các nhóm xã hội, các dân tộc. Điều này diễn ra trong môi trường thể lý cũng như trong môi trường kỹ thuật số” (sứ điệp 2016). Tôi gửi lời chào thân ái đến tất cả những người hoạt động trong ngành truyền thông và cầu mong sao cho cách thức truyền thông trong Giáo Hội luôn có đặc tính Tin Mừng rõ rệt, một kiểu thức liên kết chân lý với lòng thương xót.

Đức Thánh Cha cũng đặc biệt chào thăm các tín hữu hành hương từ Roma và các nơi, đặc biệt là ở Ba Lan, cũng như những ngừơi tham dự cuộc tuần hành bênh vực sự sống.

Ngài không quên nhắc đến lễ các bà mẹ hôm qua, và mời gọi mọi người với lòng biết ơn hãy nhớ đến các bà mẹ, phó thác các bà mẹ cho Mẹ Maria là Mẹ Chúa Giêsu. Trong ý hướng đó ngài mời gọi mọi người cùng đọc một kinh Kính Mừng với ngài.

Cũng nên nhắc lại rằng Sứ điệp của ĐTC nhân Ngày thế giới truyền thông xã hội năm nay có chủ đề là: ”Truyền thông và lòng thương xót: một cuộc gặp gỡ phong phú”.

Sứ điệp của có đoạn viết: ”Chúng ta được kêu gọi đả thông với tất cả mọi người trong tư cách là con cái Thiên Chúa, không loại trừ một ai. Đặc biệt chính ngôn ngữ và hoạt động của Giáo Hội thông truyền lòng thương xót, đến độ đánh động tâm hồn con người và nâng đỡ họ trên con đường tiến về cuộc sống sung mãn là Chúa Giêsu Kitô, được Chúa Cha sai đến để mang sự sống ấy cho tất cả mọi người… Thật là đẹp dường nào khi thấy những người dấn thân cân nhắc kỹ lưỡng những lời nói và cử chỉ để vượt thắng những hiểu lầm, chữa lành ký ức đã bị tổn thương, và kiến tạo an bình và hòa hợp. Những lời nói có thể bắc những nhịp cầu giữa con người, các gia đình, các nhóm xã hội và các dân tộc với nhau. Điều này cần được diễn ra trong lãnh vực thể lý cũng như trong lãnh vực kỹ thuật số (digital). Vì thế, những lời nói và hành động phải làm sao để giúp chúng ta ra khỏi những vòng lẩn quẩn lên án và báo thù tiếp tục đưa các cá nhân và quốc gia vào những cạm bẫy, khiến họ biểu lộ bằng những sứ điệp oán ghét nhau”.

G. Trần Đức Anh OP

Kitô hữu không tê liệt vì đau khổ

Kitô hữu không tê liệt vì đau khổ

Niềm vui và sự lo buồn của người phụ nữ khi sinh con

VATICAN. Trong bài giảng thánh lễ sáng thứ Sáu, 06.05, tại nguyện đường Thánh Marta, Đức Thánh Cha Phanxicô chia sẻ rằng: “Kitô hữu không tê liệt trước những đau khổ nhưng vượt qua những đau khổ trong niềm hy vọng Thiên Chúa sẽ ban cho niềm vui; và niềm vui ấy, không ai lấy mất được.”

Niềm vui và sự lo buồn của người phụ nữ khi sinh con

Được khởi hứng từ những bài đọc ngày hôm nay, khi Đức Giêsu cảnh giác các môn đệ về nỗi lo lắng, muộn phiền sẽ đến với các ông nhưng nỗi buồn ấy sẽ trở thành niềm vui; Đức Thánh Cha đã đặt vấn đề: “Làm thế nào để các Kitô hữu có thể duy trì mãi được niềm vui và hy vọng của họ, cho dù có ở giữa những đau khổ, muộn phiền? Đức Giêsu đã dùng hình ảnh của người phụ nữ lúc lâm bồn và nói rằng: ‘Khi sinh con người đàn bà lo buồn vì đến giờ của mình; nhưng sinh con rồi, thì không còn nhớ đến cơn gian nan nữa.’ Bà đã mang niềm hy vọng vượt qua những đau khổ và sau đó bà đã mừng vui.

Chúng ta cũng có thể có đươc niềm vui và hy vọng này, cho dù chúng ta phải đối mặt với những cơ cực, với những vấn nạn hay khi chúng ta sầu khổ. Chúng ta không rơi vào trạng thái tê liệt. Đau khổ đúng là đau khổ, nhưng nếu ta biết vượt qua nó với niềm vui và hy vọng thì nó sẽ mở ra trước mắt chúng ta một cánh cửa chan chứa niềm vui, vì ‘một con người đã sinh ra trong thế gian’. Hình ảnh mà Đức Giêsu sử dụng giúp chúng ta hy vọng hơn trong những gian nan, nguy khốn. Những gian nan, nguy khốn rất đáng sợ, thậm chí có thể khiến chúng ta lung lay mất đức tin… Nhưng với niềm vui và hy vọng, chúng ta bước về phía trước, vì sau cơn mưa trời lại sáng, sau đau khổ sẽ là niềm vui chan chứa, giống như người phụ nữ khi sinh con.

Niềm vui và hy vọng – không phải là tinh thần lạc quan

Niềm vui và hy vọng của các Kitô hữu luôn bện chặt vào nhau. Và chúng ta đừng lẫn lộn chúng với những hạnh phúc đơn giản hay tinh thần lạc quan. Niềm vui mà không có hy vọng thì chỉ là vui, một hạnh phúc tạm thời, mong manh. Hy vọng mà không có niềm vui sẽ không phải là hy vọng và cũng không thể vươn tới được một tinh thần lạc quan lành mạnh. Niềm vui và hy vọng luôn bước song hành với nhau và sẽ tạo ra một cảm xúc bùng nổ đến vỡ òa trong Giáo hội: ‘Giáo hội hãy vui mừng hoan hỷ. Hãy mừng vui.’ Khi mừng vui hoan hỷ, người ta sẽ không còn phải chăm chú vào những nghi lễ, quy định, phép tắc nữa. Chỉ có niềm vui mà thôi.

Niềm vui và hy vọng có mối tương quan biện chứng với nhau. Chúng giúp nuôi dưỡng Giáo hội, thúc đẩy Giáo hội mở ra với tất cả mọi người. Niềm vui củng cố hy vọng và hy vọng trổ sinh từ niềm vui. Chúng ta sẽ bước về phía trước trong tư thế vui mừng và hy vọng. Chính hai nhân đức này giúp chúng ta và giúp Giáo hội mở lòng ra với tha nhân. Những ai có niềm vui chẳng khép mình lại bao giờ; hy vọng giúp ta mở ra. Hai nhân đức này giống như mỏ nẻo trên cửa biển Nước Trời kéo chúng ta đi lên và đi ra với mọi người.

Niềm hoan lạc vĩnh cửu

Niềm vui thế trần có thể bị lấy mất bất cứ lúc nào. Trong khi đó, Đức Giêsu ban cho chúng ta niềm vui vĩnh cửu, không ai có thể lấy mất được. Niềm vui ấy vẫn tồn tại, cho dù chúng ta có bị chìm ngập trong những thời khắc đen tối nhất của cuộc đời, giống như các Tông đồ được thiên thần an ủi sau khi Đức Giêsu về trời, đã tìm lại được niềm vui và hạnh phúc. Đó là niềm vui khi biết rằng giờ đây con người có thể đặt chân vào thiên đàng. Niềm vui ấy đang tràn ngập toàn thể Giáo hội hôm nay.”

Vũ Đức Anh Phương SJ

 

Bách hại – cái giá của việc làm chứng cho Chúa

Bách hại – cái giá của việc làm chứng cho Chúa

Thánh lễ sáng thứ Hai, 02.05, tại nguyện đường Thánh Marta

VATICAN. Chúa Thánh Thần ban cho chúng ta sức mạnh để trở nên những chứng nhân của Đức Giêsu ngay giữa những bách hại. Có những bách hại lớn đòi chúng ta phải hy sinh mạng sống mình, nhưng cũng có những bách hại nho nhỏ là những lời đàm tiếu, phê bình và chỉ trích. Đây là nội dung bài giảng của Đức Thánh Cha Phanxicô trong thánh lễ sáng thứ Hai, 02 tháng 05, tại nguyện đường Thánh Marta.

Chúng ta đã đến gần Lễ Ngũ Tuần và các bài đọc trình bày cho chúng ta nhiều hơn về Chúa Thánh Thần. Sách Công vụ Tông Đồ thuật lại rằng có một bà tên là Ly-đi-a, quê ở Thy-a-ti-ra, chuyên buôn bán vải điều. Thiên Chúa đã mở lòng cho bà để bà chú ý đến những lời ông Phao-lô nói.

Người phụ nữ này đã cảm nhận được điều gì đó trong tâm hồn khiến bà cất tiếng nói: ‘Điều này thật đúng đắn! tôi đồng ý với những gì mà người ấy (Thánh Phao-lô) nói. Ông ấy đã làm chứng về Đức Giêsu Phục Sinh. Và những lời ông nói đều chân thật.’ Nhưng ai đã đụng chạm lay động trái tim của người phụ nữ này? Ai đã nói với bà: ‘Hãy lắng nghe, vì đó là sự thật’? Chính Chúa Thánh Thần đã làm cho người phụ nữ này nhận ra Đức Giêsu là Thiên Chúa; giúp bà khám phá ra ơn cứu độ ngang qua những lời mà Thánh Phao-lô rao giảng; và giúp bà lắng nghe được những lời chứng ấy. Chúa Thánh Thần đã làm chứng về Đức Giêsu. Mỗi lần chúng ta cảm thấy có điều gì kéo chúng ta lại gần với Giêsu, thì đó chính là Chúa Thánh Thần đang làm việc trong tâm hồn chúng ta.

Tin Mừng nói về một chứng tá kép: một là của Chúa Thánh Thần, Đấng làm chứng về Đức Giêsu; và hai là chính những lời chứng của chúng ta. Chúng ta là những chứng nhân của Thiên Chúa với sức mạnh của Thánh Thần. Đức Giêsu mời gọi các môn đệ đừng để mình bị vấp ngã, vì làm chứng sẽ dẫn đến những bách hại. Từ những bách hại nho nhỏ của những lời dèm pha, chỉ trích đến những bách hại lớn – đã xảy ra nhiều trong lịch sử Giáo hội – khiến các Kitô hữu phải chịu cách lao tù hay thậm chí phải hy sinh cả mạng sống của mình.

Đó chính là cái giá của việc làm chứng cho Đức Giêsu: ‘Họ sẽ khai trừ anh em khỏi hội đường. Hơn nữa, sẽ đến giờ kẻ nào giết anh em cũng tưởng mình phụng thờ Thiên Chúa.’ Kitô hữu, với sức mạnh của Thần Khí, can đảm làm chứng rằng Đức Giêsu vẫn sống, Ngài đã phục sinh và luôn ở giữa chúng ta. Đức Giêsu sẽ cùng với chúng ta cử hành việc Ngài chịu chết và phục sinh mỗi khi chúng ta quây quần với nhau bên cạnh bàn thờ. Với sự giúp sức của Thần Khí, các Kitô hữu biết làm chứng tá cho Chúa ngay cả trong cuộc sống thường ngày ngang qua cách hành xử và làm việc của mình. Những lời chứng của các Kitô hữu vẫn còn tiếp tục. Nhưng chúng cũng gặp phải nhiều công kích, bách hại, khủng bố.

Chúa Thánh Thần làm cho chúng ta nhận biết Đức Giêsu. Ngài thôi thúc chúng ta nhận biết Giêsu không chỉ bằng những lời nói nhưng bằng chính chứng tá đời sống.

Như vậy, sẽ thật tốt đẹp nếu chúng ta biết nài xin Chúa Thánh Thần đến ngự trong tâm hồn chúng ta để giúp chúng ta làm chứng về Đức Giêsu. Chúng ta hãy thân thưa với Ngài: ‘Lạy Chúa, xin kéo con đến gần với Giêsu. Xin soi sáng cho con hiểu những gì mà Đức Giêsu đã dạy. Nhắc nhớ cho con tất cả những gì mà Đức Giêsu đã làm và giúp con dám can đảm làm chứng về tất cả những điều này. Xin gìn giữ con, để tinh thần thế gian, những việc dễ dàng thoải mái đến từ cha của sự dối trá, thủ lãnh thế gian này, là tội lỗi, không làm con xa lìa việc làm chứng cho Chúa.’”

Vũ Đức Anh Phương SJ

Đức Thánh Cha cổ võ cảm thông đối với người bị bệnh họa hiếm

Đức Thánh Cha cổ võ cảm thông đối với người bị bệnh họa hiếm

Đức Thánh Cha cổ võ cảm thông đối với người bị bệnh họa hiếm

VATICAN. ĐTC cổ võ sự cảm thông đối với những người bị các bệnh họa hiếm, đồng thời chống lại nền kinh tế loại trừ và bất công.

Ngài bày tỏ lập trường trên đây trong buổi tiếp kiến sáng 29-4-2016 dành cho 700 tham dự viên Hội nghị quốc tế về y khoa tái sinh (medicina rigenerativa) do Hội đồng Tòa Thánh về văn hóa cùng với một số cơ quan khác tổ chức.

Lên tiếng tại buổi tiếp kiến, trước tiên ĐTC cổ võ sự nhạy cảm hóa, gây ý thức về tình trạng những người bị bệnh họa hiếm. Ngài nói: ”Điều rất quan trọng là thăng tiến trong xã hội sự gia tăng mức độ cảm thông, để không một ai tỏ ra dửng dưng đối với các ơn gọi trợ giúp tha nhân, kể cả khi họ bị một thứ bệnh họa hiếm. Chúng ta biết rằng nhiều khi không thể tìm được những giải pháp mau lẹ cho các bệnh phức tạp, nhưng ta luôn có thể quan tâm đối với các bệnh nhân ấy, họ thường cảm thấy bị bỏ rơi và bị lơ là.”

ĐTC cũng khuyến khích đẩy mạnh việc nghiên cứu khoa học và giáo dục. Trong lãnh vực này cần luôn để ý tới những khía cạnh luân lý đạo đức đẻ có thể là dụng cụ bảo vệ sự sống và phẩm giá con người.

Sau cùng, ĐTC kêu gọi đảm bảo sao cho mọi bệnh nhân đều có thể được chữa trị. Về lãnh vực này, ngài nhấn mạnh rằng “Cần chống lại thứ kinh tế loại trừ và bất công” (EG 53), đang gieo rắc các nạn nhân khi cơ cấu tìm lợi lộc trổi vượt lên sự sống con người. Chính vì thế cần phải lấy việc hoàn cầu hóa sự dửng dưng bằng sự hoàn cầu hóa sự cảm thông. Vì thế chúng ta cần phổ biến vấn đề các bệnh họa hiếm trên bình diện hoàn cầu, đầu tư vào việc huấn luyện thích hợp, gia tăng tài nguyên cho việc nghiên cứu, cổ võ những luật lệ thích đáng, thay đổi các mô thức kinh tế, để dành ưu tiên cho nhân vị con người” (SD 29-4-2016)

G. Trần Đức Anh OP

Triển lãm “Con đường ngay chính”

Triển lãm “Con đường ngay chính”

ĐHY Rino Fisichella tại San_Lorenzo

Roma – Hôm qua, 28 /4, lúc 11 giờ, tại trung tâm Thánh Lorenzo đã khai mạc triển lãm “‘La Buona Strada’ / The right way – (Con đường ngay chính). Những chứng tá về lòng Thương Xót của Chúa Cha.” Mục đích của cuộc triển lãm là giới thiệu các chứng nhân về Lòng Thương Xót của Chúa Cha, những người sẽ chỉ cho chúng ta con đường tốt lành để nên thánh.

Đức Tổng Giám mục Rino Fisichella, chủ tịch Ủy ban Tòa Thánh Tái Truyền giảng Tin Mừng và Matteo Truffelli, Chủ tịch Công giáo Tiến hành Italia đã cắt băng khai mạc buổi triển lãm.

Có hơn 50 chứng nhân được trình bày trong cuộc triển lãm, trong đó có chân phước Pier Giorgio Frassati, được Đức Thánh Cha Phanxicô chỉ định như tấm gương cho ngày Quốc tế giới trẻ tại Cracovia tháng 7 tới đây, và Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II, người đã khánh thành trung tâm Thánh Lorenzo vào năm 1983,  trước khi các ngày Quốc tế giới trẻ bắt đầu.

Sứ điệp của triển lãm này là một lời mời gọi: học hỏi các chứng nhân, các thánh, các chân phước, các vị đáng kính, các tôi tớ của Thiên Chúa được tôn kính trong Giáo hội; nhận ra vô vàn chứng nhân trong các giáo phận của chúng ta, những người đã và đang hoạt động âm thầm trong cuộc sống hàng ngày; đề cao sự phong phú của lựa chọn tham gia vào việc học hỏi này như “trường học dạy thánh thiện” để cùng nhau bước đi trên những con đường của thế giới.

Cuộc triển lãm được thực hiện bởi Hiệp hội Công giáo Tiến hành Italia, Caristas Italia, Diễn đàn quốc tế của Công giáo Tiến hành và tổ chức Công giáo Tiến hành “Trường học của sự Thánh thiện” Pio XI với sự bảo trợ của Ủy ban Năm Thánh Lòng Thương Xót, bao gồm 25 tấm bảng với 3 ngôn ngữ (Italia, Anh và Tây ban nha). Triển lãm nhắm đến tất cả khách hành hương trong Năm Thánh Lòng Thương Xót, đặc biệt là giới trẻ.

Triển lãm sẽ được ghi vào trong lịch các sự kiện Năm Thánh, sẽ mở cửa từ ngày 2/5-20/112016, từ 11-17 giờ các ngày từ thứ hai đến thứ sáu; tháng 8 sẽ đóng cửa. (ACI 27/4/2016)

Hồng Thủy

Luôn có đối kháng trong Giáo hội chống lại Thánh Thần

Luôn có đối kháng trong Giáo hội chống lại Thánh Thần

Thánh lễ sáng thứ Năm, 28.04

VATICAN. “Ngày hôm nay trong Giáo hội cũng như xưa kia, luôn có những đối kháng chống lại Thánh Thần. Có những người không chấp nhận những đổi mới mà Thánh Thần mang đến. Nhưng Thánh Thần giúp chúng ta chiến thắng, tiến về phía trước và luôn kiên vững trên con đường của Đức Giêsu.” Đây là nội dung bài giảng của Đức Thánh Cha Phanxicô trong thánh lễ sáng thứ Năm, 28.04, tại nguyện đường Thánh Marta.

Khởi đi từ bài đọc một trích sách Công vụ Tông đồ thuật lại các cuộc tranh luận đang diễn ra ở ‘Công đồng’ Giê-ru-sa-lem, Đức Thánh Cha nhận xét rằng: “Nhân vật chính hoạt động trong Giáo hội chính là Chúa Thánh Thần. Ngay từ buổi đầu, Ngài đã ban sức mạnh cho các Tông đồ để loan truyền Tin Mừng. Chính Chúa Thánh Thần là Đấng thực hiện tất cả và khiến cho Giáo hội không ngừng tiến lên phía trước, cho dù có gặp phải những khó khăn và ngay cả khi những cuộc bách hại bùng nổ dữ dội. Chính Chúa Thánh Thần ban sức mạnh và lòng can đảm cho các tín hữu để họ kiên vững trong đức tin cho dù có gặp phải chống đối và sự giận dữ điên cuồng của những kinh sư, luật sĩ. Có một sự đối kháng kép chống lại hoạt đông của Thần Khí: Một là từ những người xác tín rằng Đức Giêsu chỉ đến với dân được tuyển chọn, chứ dân ngoại không có phần; hai là từ những người muốn áp đặt luật Mô-sê, gồm cả việc cắt bì, lên những người gốc dân ngoại trở lại với Thiên Chúa. Hai sự đối kháng này ẩn chứa những nhầm lẫn lớn.

Thánh Thần đặt những tâm hồn bước đi trên một con đường mới. Đó là việc kỳ diệu của Thần Khí. Các Tông đồ đã bắt gặp những tình huống mà họ chưa nghĩ đến bao giờ. Đó là những hoàn cảnh hoàn toàn mới lạ. Và họ đã đương đầu với những hoàn cảnh này như thế nào? Bài đọc một ngày hôm nay bắt đầu như thế này: ‘Trong những ngày ấy, đã diễn ra một cuộc tranh luận sôi nổi’, một cuộc tranh luận nảy lửa, vì họ đang thảo luận với nhau về vấn đề những người gốc dân ngoại quay trở lại với Thiên Chúa. Họ có sức mạnh của Thần Khí – nhân vật chính – Đấng thúc đẩy họ tiến lên. Nhưng Thần Khí cũng mang đến những điều mới mẻ, những điều chưa hề được ai thực hiện trước đây bao giờ và cũng chưa có ai nghĩ đến. Đó là việc người gốc dân ngoại cũng được lãnh nhận Thánh Thần.

Các môn đệ nắm trong tay ‘ngọn lửa nhiệt huyết cháy bỏng’ nhưng không biết phải làm gì. Bởi thế họ mới triệu tập một công nghị ở Giê-ru-sa-lem để mỗi người có thể thuật lại những kinh nghiệm của họ về việc dân ngoại đã được lãnh nhận Thánh Thần như thế nào. Và cuối cùng, họ đã đi đến sự đồng thuận. Nhưng trước đó, cả công nghị đã chìm trong thinh lặng và chăm chú lắng nghe khi Phao-lô và Ba-na-ba thuật lại những dấu lạ điềm thiêng mà Thiên Chúa đã thực hiện giữa dân ngoại ngang qua các môn đệ. Chúng ta đừng sợ hãi khi lắng nghe với lòng khiêm tốn. Khi sợ hãi không dám lắng nghe, chúng ta không có Thánh Thần trong tâm hồn. Khi các Tông đồ lắng nghe, họ đã quyết định sai nhiều môn đệ tới Hy Lạp, các cộng đoàn dân ngoại, là những người đã trở lại với Chúa để củng cố họ.

Những người dân ngoại trở lại với Thiên Chúa không buộc phải cắt bì. Điều này đã được thông truyền đến với họ ngang qua lá thư, trong đó các Tông đồ nói rằng: ‘Chúa Thánh Thần và chúng tôi đã quyết định rằng….’ Đây chính là cách thức mà Giáo hội đối mặt với những điều mới mẻ. Không phải những điều mới lạ thuộc kiểu thế trần nhưng là sự đổi mới của Thần Khí, Đấng luôn khiến chúng ta phải ngỡ ngàng vui sướng. Giáo hội đã giải quyết những vấn đề này như thế nào? Giáo hội giải quyết bằng cách ngang qua những buổi gặp gỡ và thảo luận, lắng nghe và cầu nguyện, trước khi đưa ra quyết định cuối cùng. Đây chính là cách thức của Giáo hội khi Thánh Thần khiến chúng ta ngạc nhiên bởi những điều mới mẻ. Và chúng ta cũng nhớ lại những chống đối đã phát sinh trong thời gian diễn ra công đồng Vaticano 2.

Những chống đối ấy vẫn tiếp tục tồn tại cho đến ngày nay bằng cách này cách khác. Nhưng Thánh Thần vẫn đi tiên phong. Và cách thức Giáo hội diễn tả sự đồng thuận của mình là ngang qua công nghị với những cuộc gặp gỡ, lắng nghe, trao đổi, cầu nguyện và đưa ra quyết định. Chúa Thánh Thần luôn là nhân vật chính và Thiên Chúa mời gọi chúng ta đừng sợ hãi khi Thánh Thần lên tiếng với chúng ta. Như khi xưa Thánh Thần đã dừng Thánh Phao-lô lại và dẫn ngài đi trên đường ngay nẻo chính, thì Thánh Thần cũng ban cho chúng ta sự can đảm và lòng kiên nhẫn để chúng ta vượt qua những đa dạng, khác biệt và kiên vững trong ơn phúc tử đạo. Xin Thiên Chúa ban cho chúng ta ơn để hiểu Giáo hội đã hành xử như thế nào trước những đổi mới, ngỡ ngàng mà Thần Khí mang đến. Chúng ta cũng xin ơn được trở nên ngoan ngoãn và đi theo con đường mà Đức Kitô đã mời gọi chúng ta cũng như toàn thể Giáo hội.”

Vũ Đức Anh Phương, SJ

Người thân cận là bất cứ ai cần sự trợ giúp của chúng ta

Người thân cận là bất cứ ai cần sự trợ giúp của chúng ta

ĐTC Phanxicô chào vài thổ dân Da Đỏ Mỹ châu trong buổi tiếp kiến chung sáng thứ tư 27-4-2016

Nếu có lòng cảm thương trong con tim, bạn có thể trở thành người thân cận của bất cứ ai đang cần sự trợ giúp. Không phải ai lui tới Nhà Chúa và biết lòng thương xót của Ngài đều biết yêu thương người lân cận đâu.

Kính thưa quý vị thính giả, ĐTC Phanxicô đã nói như trên với hơn 80,000 tín hữu và du khách hành hương năm châu tham dự buổi tiếp kiến chung sáng thứ tư hàng tuần hôm qua. Trong số các đoàn hành hương cũng có một đoàn tín hữu Việt Nam do các cha dòng Tên hướng dẫn.

Trong bài huấn dụ ĐTC đã giải thích ý nghĩa dụ ngôn Người Samaritano nhân hậu, như thánh sử Luca kể trong chương 10. Có một tiến sĩ Luật muốn thử Chúa Giêsu nên hỏi Ngài: “Thưa Thầy tôi phải làm gì để được sống đời đời?” Chúa Giêsu xin ông tự trả lời cho mình, và ông trả lời một cách toàn vẹn: “Ngươi phải yêu Chúa là Thiên Chúa của ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực và trí tuệ ngươi, và yêu thương người thân cận như chính mình vậy” (c. 27). Khi đó Chúa Giêsu kết luận: “Ông hãy làm như thế và sẽ sống” (v. 28). Ông này lại đặt một câu hỏi khác, rất quý báu đối với chúng ta: “Ai là người thân cận của tôi?” (c. 29), và ông ta hiểu ngầm: cha mẹ tôi? các người đồng hương của tôi? Các người đồng đạo với tôi?”. Nghĩa là, ông ta muốn có một luật lệ rõ ràng cho phép ông sắp loại các người khác thành những người “thân cận” và “không thân cận”, thành những người có thể trở thành thân cận và những người không thể trở thành thân cận.

Và Chúa Giêsu trả lời ông với một dụ ngôn, có ba nhân vật: một tư tế, một thầy Lêvi và một người Samaritano. Hai gương mặt đầu tiên liên quan tới việc phụng tự trong đền thờ; người thứ ba là một người Do thái ly giáo, bị coi như ngoại quốc, dân ngoại và ô uế. Trên đường từ Giêrusalem  xuống Giêricô thầy tư tế và Lêvi gặp một người hấp hối, vì bị cướp đánh và bỏ rơi. Trong các trường hợp như thế Lề Luật của Chúa dự trù bổn phận cứu giúp, nhưng cả hai đi qua mà không dừng lại. Họ vội vã… Thầy tư tế có lẽ đã nhìn đồng hồ và nói: “Tôi đễn trễ lễ… Tôi phải làm lễ”. Và người kia thì nói: “Tôi không biết Luật có cho phép tôi không, bởi vì có máu ở đó và tôi sẽ bị ô uế…” Họ đi một con đường khác và không tới gần.

Và ĐTC rút tiả ra giáo huấn đầu tiên như sau:

Ở đây dụ ngôn cống hiến cho chúng ta một giáo huấn đầu tiên: không phải tự động ai lui tới nhà Thiên Chúa và biết lòng thương xót của Ngài là biết yêu thương người lân cận. Nó không tự đông đâu! Bạn có thể biết toàn sách Thánh Kinh, bạn có thể biết tất cả các chữ đỏ của Phụng Vụ, bạn có thể biết toàn thần học, nhưng từ việc biết không tự động yêu: yêu thương có một con đường khác, cần sự thông minh, nhưng cũng cần một cái gì khác nữa…

Vị tư tế và thầy Lêvi trông thấy, nhưng không biết; nhìn thấy nhưng không lo liệu. Nhưng không có phụng tự thật, nếu nó không được thể hiện ra bằng việc phục vụ người lân cận. Chúng ta đừng bao giờ quên điều này: trước nỗi khổ đau của biết bao nhiêu người kiệt quệ vì đói khát, vì bạo lực và bất công, chúng ta không thể ở đó như các khán giả. Không biết nỗi khổ đau của con người, có nghĩa là gì? Nó có nghĩa là không biết Thiên Chúa. Nếu tôi không đến gần người đàn ông đó, đến gần người đàn bà đó, đến gần đứa trẻ đó, ông già đó hay bà già đó, tôi không đến gần Thiên Chúa.

Tiếp tục bài huấn dụ ĐTC nói: chúng ta hãy bước vào trọng tâm của dụ ngôn: người Samaritano, nghĩa là chính người bị khinh miệt này, chính người mà có lẽ không ai sẽ đánh cá gì hết, và cả ông ta cũng có các dấn thân và công việc phải làm,  khi trông thấy người bị thương, ông không bỏ qua như hai người kia, là những người gắn liền với đền thờ, nhưng  mà “cảm thương” (c. 33). Phúc Âm nói thế: “Ông cảm thương”, nghĩa là trái tim, ruột cảm động. Đây là sự khác biệt. Hai người kia “trông thấy”, nhưng con tim của họ đóng kín, lạnh lùng. Trái lại, con tim của người samaritano đồng điệu với chính con tim của Thiên  Chúa. Thật vậy, sự “cảm thương” là  một đặc tích nòng cốt của lòng thương xót Chúa. Thiên Chúa cảm thương chúng ta. Nó có nghĩa là gì?  Ngài đau khổ với chúng ta, các khổ đau của chúng ta Ngài cảm nhận được. Cảm thương có nghĩa là “đau khổ với”. Động từ ám chỉ ruột máy động và run rẩy trước nỗi đau của con người. Và trong các cử chỉ và hành động của người samaritano nhân hậu chúng ta nhận ra hành động thương xót của Thiên Chúa trong tất cả lịch sử cứu độ. Nó cũng chính là sự cảm thương, qua đó Chúa đến gặp gỡ từng người trong chúng ta: Ngài không giả vờ không biết chúng ta, Ngài biết các khổ đau của chúng ta, Ngài biết chúng ta cần sự trợ giúp và ủi an biết chừng nào. Ngài đến gần chúng ta, và không bao giờ bỏ rơi chúng ta.

Mỗi người trong chúng ta hãy tự hỏi và trả lời trong tim: “Tôi có tin điều đó không? Tôi có tin rằng Chúa cảm thương tôi, như tôi là không, là người tội lỗi, với biết bao nhiêu vấn đề và biết bao nhiêu sự?” Hãy nghĩ tới điều đó và câu trả lời là: “Có!” Nhưng mỗi người phải nhìn vào con tim mình xem mình có tin vào sự cảm thương này của Thiên Chúa không, của Thiên Chúa nhân hậu, là Đấng đến gần, chữa lành chúng ta, vuốt ve chúng ta. Và nếu chúng ta khước từ Ngài, Ngài chờ đợi: Ngài kiên nhẫn và luôn luôn ở bên cạnh chúng ta.

Người Samaritano hành xử với lòng thương xót đích thật: ông băng bó các vết thương của người ấy, chở ông ta tới nhà trọ và đích thân lo lắng cho người ấy, liệu trước việc trợ giúp ông ta. Và ĐTC rút tiả ra thêm một giáo huấn khác:

Tất cả những điều này dậy cho chúng ta biết rằng sự cảm thương, tình yêu, không phải là một tâm tình mông lung,  nhưng có nghĩa là lo lắng cho tha nhân cho tới độ chính mình phải trả giá. Nó có nghĩa là để cho mình bị liên lụy bằng cách làm mọi sự cần thiết để tới gần người khác cho tới độ tự đồng hóa với họ: “Hãy yêu tha nhân như chính mình”. Đó là giới răn của Chúa.

Kết luận dụ ngôn Chúa Giêsu nêu bật câu hỏi của vị tiến sĩ Luật và hỏi ông: “Ai trong ba người, theo ông, đã là người thân cận của người bị rơi vào tay bọn cướp?” (c. 36). Sau cùng câu trả lời không thể mập mờ được: “Đó là người đã thương xót ông ta” (v.27). Mở đầu dụ ngôn đối với thầy tư tế và thầy Lêvi người thân cận là kẻ hấp hối; vào cuối dụ ngôn đò là người Samaritano đã trở thành người lân cận. Chúa Giêsu nhấn mạnh viễn tượng: đừng có đứng đó mà sắp xếp các người khác để xem ai là thân cận ai không. Bạn có thể trở thành người thân cận của bất cứ ai bạn gặp trong cần thiết, và bạn sẽ là người thân cận, nếu trong tim bạn có sự cảm thương, nghĩa là nếu bạn có khả năng đau khổ với người khác.

Dụ ngôn này là một món qua tuyệt diệu cho tất cả chúng ta, và cũng là một dấn thân nữa! Chúa Giêsu lập lại với từng người trong chúng ta điều Ngài đã nói với vị tiến sĩ Luật: “Hãy đi và làm như vậy” (c. 37). Chúng ta tất cả được mời gọi đi cùng con đường của người Samaritano nhân hậu, là gương mặt của Chúa Kitô: Chúa Giêsu cúi xuống trên chúng ta, biến thành tôi tớ của chúng ta, và như thế Ngài đã cứu chuộc chúng ta, để cả chúng ta nữa cũng có thể yêu thương  nhau như Ngài đã yêu thương chúng ta, theo cùng một cách thức.

ĐTC đã chào nhiều đoàn hành hương khàc nhau. Trong các đoàn nói tiếng Pháp ngài chào tín hữu đến từ các giáo phận Montpellier, Nantes, San Claude và Moulins, do các GM sở tại hướng dẫn. Ngài khuyến khích mọi người đừng thờ ơ trước các khổ đau của tha nhân, nhưng hãy bắt chước người Samaritano nhân hậu cảm thương săn sóc và thoa dịu các khổ đau của họ.

Ngài cũng chào các đoàn hành hương đến từ các nước Anh, Thuỵ Điển, Slovachia, Trung quốc, Indonesia, Singapore, Sri Lanka, Việt Nam, Philippines, Canada và Hoa Kỳ. Ngài xin Chúa Kitô phục sinh chúc lành cho họ và gia đình họ.

Với các tín hữu A Rập ĐTC chào đoàn hành hương của đại học Thánh Giuse Beirut nhân kỷ niệm 140 năm thành lập. Ngài nhắc cho mọi người biết kitô hữu được mời gọi là dụng cụ hòa giải, đem ơn tha thứ và lòng xót thương của Thiên Chúa tới cho người khác qua các cử chỉ bác ái yêu thương.

  Trong số các nhóm nói tiếng Đức ĐTC chào phái đoàn giáo phận Bolzano Bresanone và các nhóm đến từ Đức, đặc biệt các bạn trẻ và cầu mong họ là các người Samaritano nhân hậu đối với tha nhân.

Trong số các nhóm nói tiếng Bồ Đào Nha ngài chào tín hữu đến từ Zurich, Brasilia, các linh mục giáo phận Serrinha, các nữ tu Phansinh thánh Giuse, và chúc mọi người biết hiến dâng cuộc sống như món quà tình yêu cho tha nhân.

Chào các đoàn hành hương Ba Lan và Slovachia, ĐTC cầu mong tín hữu noi gương người Samaritano nhân hậu đến với những người nghèo nàn đói khổ, săn sóc gia đình, môi sinh và xứ đạo, và được nhiều ơn Chúa khi bước qua các Cửa Thánh.

Trong số các phái đoàn Ý ĐTC chào tín hữu các giáo phận Chieti-Vasto, Novara, Alessandria, Chiavari và Pavia, do các Giám Mục hướng dẫn; các thừa sai dòng Chúa Cứu Thế; các linh mục giáo sư các đại chủng viện liên hệ với đại học Urbaniana của Bộ Truyền Giáo; và các tham dự viên tuần hội học do đại học Thánh Giá tổ chức.

Chào đông đảo các bạn trẻ ĐTC chúc họ luôn trung thành với bí tích Rửa Tội và hăng say làm chứng cho Chúa. Với người đau yếu ĐTC khích lệ họ biết nhìn lên  Chúa Kitô khổ nạn và dâng mọi khổ đau lên cho Chúa để góp phần mưu cầu ơn cứu rỗi cho mọi người. Sau cùng ngài chào các đôi tân hôn và cầu chúc họ biết thực thi giáo huấn của thánh Phaolô: yêu thương nhau, tha thứ tất cả và chịu đựng tất cả trong cuộc sống thường ngày.

Buổi tiếp kiến đã kết thúc với Kinh Lạy Cha và phép lành toà thánh ĐTC ban cho mọi người.

Linh Tiến Khải

Jean Vanier, người sáng lập các cộng đoàn “Con Tàu” và các nhóm “Đức tin và Ánh Sáng”

Jean Vanier, người sáng lập các cộng đoàn “Con Tàu” và các nhóm “Đức tin và Ánh Sáng”

Jean Vanier

Jean Vanier sinh năm 1928 tại Geneve, trong một gia đình Công giáo Canada gốc Pháp. Thời niên thiếu Jean được hưởng nền giáo dục Anh Pháp ở Canada, và sau đó ở ngay tại Anh và Pháp. Năm 1945, khi cha của Jean trở thành đại sứ Canada tại Pháp, Jean đã có dịp đến Paris. Tại đây, Jean và mẹ của mình đã giúp đỡ những người sống sót trong các trại tập trung của Đức quốc xã. Nhìn thấy các nạn nhân gầy gò, khuôn mặt co quắp vì sợ hãi và đau khổ, là một cuộc gặp gỡ gây ấn tượng sâu sắc mà Jean không bao giờ quên. Sau đó anh tham gia vào Hải quân Hoàng gia Anh và hải quân Hoàng gia Canada. Nhưng anh cảm thấy có một tiếng gọi nội tâm thúc giục anh làm một việc khác, anh từ giã hải quân, trở lại Paris để học đại học và sau đó bảo vệ luận án tiến sĩ triết tại học viện Công giáo Paris và trở thành giáo sư dạy triết tại Toronto.

 

Cuối năm 1963, khi ấy còn là một giáo sư trẻ, Jean đã đến thăm một cơ sở nuôi 80 người bệnh tâm thần. Ông chứng kiến những con người này bị đối xử tàn tệ không ra con người. Ông hiểu đây chính là những người dễ bị thương tổn nhất và muốn thay đổi tình trạng tồi tệ này nhưng không biết làm sao. Ông cảm thấy Chúa muốn ông làm gì đó nhưng không biết bắt đầu thế nào và ở đâu. Và rồi Chúa đã chỉ cho ông con đường, ơn gọi của ông. Ông đã gặp 2 người bị thiểu năng trí tuệ là Raphael và Philip và ông đã mời họ bỏ viện tâm thần nơi họ đang sống để đến sống với ông tại Trosly-Breuil, một làng nhỏ ở miền Bắc nước Pháp, nơi ông vẫn sống cho đến bây giờ.Việc làm của ông là một cuộc cách mạng xuất phát từ đức tin ôm trọn cả nhân loại, vì vào thời gian đó, những người bệnh tâm thần bị hắt hủi bỏ rơi, vì bị coi như sự nhục nhã của gia đình và ngăn trở cho xã hội, bởi vì tật nguyền của họ bị xem như là sự trừng phạt của Thiên Chúa.

 

Cộng đoàn “Arche” – Con Tàu – đầu tiên đã ra đời như thế. Hiện nay phong trào này đã có 140 cộng đoàn rải rác khăp 5 châu, là những nơi mà những người bị xã hội bỏ rơi sống chung với những người tiếp nhận họ. Đầu tiên đây là cộng đoàn Công giáo nhưng dần dần cộng đoàn đón tiếp các bệnh nhận thuộc mọi tôn giáo và chủng tộc. Nghi thức rửa chân được xem như biểu tượng của lãnh đạo phục vụ, hiệp thông và hiệp nhất của những điều khác nhau. Công giáo là phổ quát và Chúa Giê-su đã dạy một tình yêu phổ quát. Mọi người dù thuộc tôn giáo hay sắc tộc nào cũng điều quý giá đối với Thiên Chúa. Jean cũng đã thành lập phong trào “Đức tin và Ánh sáng” với cùng ý tưởng như “Con Tàu”, nơi các người bệnh cùng sống trong các buổi gặp gỡ, tĩnh tâm, nghỉ hè với nhau. Ngày nay đã có 1500 nhóm của phong trào trên khắp thế giới. Ông đã đi khắp thế giới, gặp gỡ các Đức giáo hoàng, các lãnh đạo quốc gia, nhận nhiều giải thưởng, vv.

 

Con đường ngoại thường và hạnh phúc của Jean là con đường khiêm nhường, chia sẻ những cử chỉ nhỏ nhặt hàng ngày như đi chợ, dọn nhà cửa gọn gàng, nấu nướng, giữ mối liên hệ  tốt với những người xung quanh, và tất nhiên chữa bệnh. Ông đã tìm ra chân lý trong lời của Chúa Giê-su: khi các con đãi tiệc, đừng mời gia đình, hàng xóm giàu có nhưng mời những người nghèo, người què, đui mù và các con sẽ vui mừng. Niềm vui là dấu hiệu đầu tiên, tài liệu đầu tiên của Lòng Thương xót. Những người có hoàn cảnh khó khăn, bao lực cũng đến với cộng đoàn “Con tàu”. Lịch sử của “Con tàu” không phải là dễ dàng, nhưng Lòng Thương Xót đã đồng hành với ông trong cuộc sống, giúp cho công việc phát triển tốt đẹp.

 

Ông Jean nghĩ đến Đức Giáo hoàng Phanxicô, người đã bao lần mời gọi đi đến các biên cương của sự hiện hữu, mời gọi đến với những người nghèo để gặp gỡ họ và học từ họ. Theo ông, những người nghèo, khiêm nhường, bên lề xã hội, hay lạc đường, họ có  trái tim thánh thiện và rộng mở. Điều họ cần và khao khát là biết có người yêu thương họ. Chỉ có điều này đủ sức đổi ngược sự nhát sợ, ý nghĩ mình không có giá trị, sự chán ghét chống lại Thiên Chúa và chống lại chính mình. Điều tuyệt vời là không chỉ chúng ta thay đổi những người bệnh nhưng chính họ cũng giúp chúng ta thay đổi. Chúng ta thay đổi người khác là giúp họ trở nên giống người và giống Chúa Giê-su hơn. Ông hy vọng người ta khám phá ra là những người khuyết tật là những người đáng yêu và không phải chỉ là làm những gì cho họ nhưng còn trở thành bạn thật sự của họ.

 

Ngày 15 tháng 3 vừa qua Jean Vanier đã được công bố là người đạt giải thưởng Templeton năm 2015. Đây là giải thưởng được thành lập năm 1972 nhằm vinh danh những người đã có những đóng góp đặc biệt để khẳng định chiều kích thiêng liêng, qua những ý tưởng, những khám phá, hoặc các hoạt động thực tế. Số tiền 1.7 triệu Mỹ kim được ông dành tặng cho mạng lưới cộng đoàn “Con Tàu”, vì theo ông, nhờ các cộng đoàn này ông mới được vinh danh ở giải thưởng này, và để các cộng đoàn có thể tiếp tục công việc thay đổi trái tim con người và đưa nhiều người đến với Chúa Giê-su. (Tracce 03/2016)

 

Hồng Thủy OP

 

Có con tim yêu thương, tự do, rộng mở dể là môn đệ Chúa Giêsu

Có con tim yêu thương, tự do, rộng mở dể là môn đệ Chúa Giêsu

Thánh lễ Ngày Năm Thánh Giới Trẻ sáng Chúa Nhật 24-4-2016

Có con tim yêu thương, tự do, rộng mở để là môn đệ Chúa Giêsu

ĐTC khích lệ người trẻ có con tim yêu thưong và tự do để hướng tới các lý tuởng cao đẹp. Vì tình yêu là “thẻ căn cước” của kitô hữu, là “tải liệu” duy nhất  có giá trị cần liên tục gia hạn để được nhận biết là môn đệ của Chúa Giêsu.

Ngài đã đưa ra lời khích lệ trên đây trong bài giảng thánh lễ cho Ngày Năm Thánh Giới Trẻ cử hành lúc 10 giờ rưỡi sáng Chúa Nhật 24 tháng 4 hôm qua.

Từ mấy ngày qua hơn 70,000 bạn trẻ tuổi từ 13 tới 16 từ Italia và nhiều nước trên thế giới đã tuôn về Roma hành hương Năm Thánh. Các bạn trẻ được 203 giáo xứ Roma tiếp đón, và đã theo dõi các buổi học giáo lý theo các thứ tiếng tại nhiều nhà thờ khác nhau trong thủ đô Giáo Hội. Chiều thứ bẩy đã có hàng trăm Linh Mục ban bí tích Hoà Giải cho họ tại quảng trường thánh Phêrô. Chính ĐTC Phanxicô cũng đã giải tội cho 16 bạn trẻ. Tiếp đến vào ban tối các bạn trẻ đã tham dự đại nhạc hội tại sân vận động Olimpic Roma với các chứng từ, hoạt cảnh và các màn trình diễn của nhiều ca sĩ nổi tiếng.

Ngay từ 8 giờ sáng Chúa Nhật quảng trường thánh Phêrô đã đông đặc các bạn trẻ, tín hữu và du khách hành hương. Đảm trách thánh ca trong thánh lễ ngoài ca đoàn Sistina của Toà Thánh còn có ca đoàn Mater Ecclesiae và ca đoàn Anh giáo.

Cùng đồng tế thánh lễ với ĐTC có 20 Hồng Y, 50 Giám Mục, và 950 Linh Mục. Phần lời nguyện giáo dân đã được các bạn trẻ tuyên đọc trong các thứ tiếng Anh, Tây Ban Nha, Pháp, Ý và tiếng Hoa. 180 Linh mục đã giúp ĐTC cho các bạn trẻ và tín hữu rước Mình Thánh Chúa.

Giảng trong thánh lễ ĐTC đã quảng diễn ý nghĩa điều răn yêu thương Chúa Giêsu để lại cho các môn đệ. Ngài nói:

 “Từ điều này mọi người sẽ biết các con là môn đệ của Thầy, đó là các con yêu thương nhau” (Ga 13,35). Các thanh thiếu niên nam nữ thân mến, thật lớn lao biết bao trách nhiệm mà Chúa tín thác cho chúng ta hôm nay! Nó nói với chúng ta rằng thiên hạ sẽ nhận biết các môn đệ của Chúa Giêsu từ cách họ yêu thương nhau. Nói cách khác, tình yêu là “thẻ căn cước” của kitô hữu, là “tải liệu” duy nhất  có giá trị để được nhận biết là môn đệ của Chúa Giêsu. Nếu tài liệu này hết hạn, và ta không gia hạn nó liên tục, thì chúng ta không là các chứng nhân của Chúa nữa.  Vì vậy cha hỏi các con: các con có muốn tiếp nhận lời Chúa Giêsu mời gọi là môn đệ của Ngài không? Các con có muốn là bạn trung thành của Ngài không? Bạn thật của Chúa Giêsu được phân biệt một cách nòng cốt bởi tình yêu cụ thể rạng ngời trong cuộc sống của mình. Các con có muốn sống tình yêu này mà Chúa ban cho chúng ta không ? – Các bạn trẻ thưa có – Thế thì chúng ta hãy tìm đến học trường của Ngài, là một trường sự sống để học yêu thương.

Trước hết yêu thương là điều xinh đẹp, là con đường để hạnh phúc. Tuy nhiên, nó không dễ dàng, nó đòi hỏi dấn thân, nó khiến cho ta mệt nhọc. Chẳng hạn chúng ta hãy nghĩ tới khi mình nhận được một món qua. Điều này làm cho chúng ta hạnh phúc. Nhưng để chuẩn bị món qua đó các người quảng đại đã phải dành thời giờ và dấn thân, và như vậy họ cũng tặng chúng ta một chút cái gì đó của chính con người họ, một cái gì mà họ đã biết lấy đi của họ. Chúng ta cũng hãy nghĩ tới món quà mà cha mẹ và các linh hoạt viên của các con đã làm, bằng cách cho phép các con đến Roma tham dự Ngày Năm Thánh dành cho các con. Các vị đã phải lên chương trình, tổ chức, chuẩn bị mọi sự cho các con, và điều này khiến cho các vi vui, cả khi các vị có phải khước từ một chuyến du hành cho chính mình. Thật thế, yêu thương có nghĩa là cho đi, không phải chỉ một cái gì là vật chất, nhưng một cái gì của chính mình: thời giờ, tình bạn và các khả năng của mình.

Tiếp tục bài giảng ĐTC nói: Chúng ta hãy nhìn lên Chúa là Đấng không thể thắng vượt được trong sự quảng đại. Chúng ta nhận từ Ngài biết bao ơn, và mỗi ngày đáng lý ra chúng ta phải cám ơn Ngài… Cha muốn hỏi các con: các con có cám ơn Chúa mỗi ngày không? Cả khi nếu chúng tra quên, thì Chúa không quên ban cho chúng ta mỗi ngày một ơn đặc biệt. Đó không phải là một món quà vật chất cần giữ trong tay và sử dụng, nhưng là một món quà lớn lao hơn nữa, cho cuộc sống. Ngài cho chúng ta tình bạn trung thành của Ngài và sẽ không bao giờ lấy đi. Cả khi con làm cho Ngài thất vọng, và xa rời Ngài, Chúa Giêsu vẫn tiếp tục yêu thương con và gần gũi con, tin tưởng nơi con hơn là chính con tin nơi mình. Và điều này thật quan trọng biết bao! Vì sự đe dọa chính ngăn cản lớn lên một cách tốt đẹp, đó là khi không có ai chú ý đến con, khi con cảm thấy mình bị bỏ ra một bên. Trái lại Chúa luôn luôn ở với con, và hài lòng ở với con.  Cũng như Ngài đã làm với các môn đệ trẻ của Ngài, Ngài nhìn vào mắt con và mời con theo Ngài, “ra khơi” và “thả lưới”, tin tưởng nơi lời Ngài, nghĩa là bỏ vào cuộc chơi các tài năng của con trong cuộc sống, cùng với Ngài, mà không sợ hãi. Chúa Giêsu chờ đợi nơi con một câu trả lời, Ngài chờ đợi tiếng “vâng” của con.

Các thanh thiếu niên thân mến, vào tuổi của các con, các con cảm thấy nổi lên trong mình ước muốn yêu và nhận tình yêu thương. Nếu các con đến học trường của Ngài, Chúa sẽ dậy các con khiến cho lòng trìu mến và sự dịu hiện trở thành đẹp hơn nữa. Ngài sẽ đặt để trong tim các con một ý hướng tốt lành, ý hướng yêu thương mà không chiếm hữu: yêu thương các bản vị mà không muốn họ là của riêng mình, nhưng để cho họ tự do. Thật vậy, luôn luôn có cám dỗ làm ô nhiễm tình yêu với yêu sách bản năng chiếm lấy, có được điều mình thích. Nền văn hóa duy tiêu thụ cũng củng cố khuynh hướng này. Nhưng mọi sự, nếu ta siết chặt quá, thì bị hỏng, bị hư hại: và ta thất vọng với cái trống rỗng bên trong. Nếu các con lắng nghe tiếng Chúa, Ngài sẽ vén mở cho các con bí quyết của sự hiền dịu: lo lắng cho người khác có nghiã là tôn trọng họ, giữ gìn họ và chờ đợi họ.

ĐTC nói thêm trong bài giảng thánh lễ Ngày Năm Thánh giới trẻ: Trong các năm này các con cũng cảm thấy một ước ao tự do lớn lao. Nhiều người sẽ nói với các con rằng tự do có nghĩa là làm điều mình muốn. Nhưng ở đây phải biết nói không. Tự do không luôn luôn có thể là làm điều hợp với tôi: điều này khiến cho ta bị khép kín, xa cách và ngăn cản chúng ta là các người bạn cởi mở và chân thành. Khi tôi khỏe thì mọi sự đều trôi chảy là điều không đúng đâu. ĐTC định nghĩa sự tự do như sau:

Sự tự do, trái lại, là ơn có thể lựa chọn sự thiện: ai lựa chọn sự thiện kẻ ấy tự do, ai tìm điều đẹp lòng Thiên Chúa, cả khi nó vất vả đi nữa, người ấy tự do. Chỉ với các lựa chọn can đảm và mạnh mẽ người ta mới thực hiện được các giấc mộng cao cả nhất, các giấc mộng đáng để cho chúng ta tiêu hao cuộc sống. Các con đừng hài lòng với sự tầm thường xoàng xĩnh, “sống vật vờ” đứng ngồi thoải mái. Đừng tín thác nơi kẻ làm cho các con lo ra khỏi sự giầu có đích thực, là chính các con, bằng cách nói với các con rằng cuộc đời chỉ đẹp khi có nhiều sự. Hãy coi chừng kẻ muốn làm cho các con tin rằng các con chỉ có giá trị khi đeo mặt nạ làm ra vẻ mạnh mẽ, như các anh hùng trong phim ảnh, hay khi các con mặc quần áo hàng hiệu mới nhất. Hạnh phúc của các con vô giá và không thể mua bán. Nó không phải là một chương trình “app” mà người ta chuyển vào điện thoại cầm tay. Nó cũng không phải là phiên bản cập nhật nhất có thể giúp các con trở thành tự do hay lớn lao trong tình yêu.

Vì tình yêu là món qua tự do của người có con tim rộng mở. Nó là một trách nhiệm đẹp kéo dài suốt đời. Nó là dấn thân thường ngày của người biết thực hiện các giấc mộng cao cả! Tình yêu được dưỡng nuôi bằng sự tin tưởng, kính trọng và tha thứ. Tình yêu không được hiện thực vì ta nói về nó, nhưng khi ta sống nó: nó không phải là một bài thơ êm dịu cần học thuộc lòng, mà là một lựa chọn cuộc sống cần thực hành! Chúng ta có thể lớn lên trong tình yêu như thế nào? Bí quyết vẫn là Chúa: Chúa Giêsu trao ban chính Ngài cho chúng ta trong Thánh Lễ, Ngài cống hiến sự tha thứ và niềm an bình cho chúng ta trong bí tích Giải Tội. Chính tại đó chúng ta học tiếp nhận Tình Yêu của Ngài, biến nó thành của chúng ta, và thông chuyền nó trong thế giới. Và khi yêu thương xem ra nặng nề, khi khó nói không với điều sai lầm, các con hãy nhìn lên thập giá Chúa Giêsu, ôm lấy nó và không rời tay Chúa dẫn các con tới với tha nhân và nâng các con dậy, khi các con ngã. Tè ngã là điều có thể xảy ra, nhưng phải đứng dậy.

Cha biết các con có khả năng có các cử chỉ của tình bạn và lòng tốt lớn lao. Các con được mời gọi xây dựng tương lai: cùng với những người khác và cho người khác, không bao giờ chống lại ai khác! Các con sẽ làm những điều tuyệt diệu, nếu các con tự chuẩn bị ngay từ bây giờ, bằng cách sống tràn đầy tuổi trẻ giầu ơn lành như thế của các con, mà không sợ hãi mệt nhọc. Hãy làm như các tay vô địch thể thao đạt các đích điểm bằng cách khiêm tốn kiên trì luyện tập mỗi ngày.  Chương trình hằng ngày của các con hãy là các công việc của lòng thương xót. Hãy luyện tập với lòng hăng say để trở thành các tay vô địch của cuộc sống, các tay vô địch của tình yêu! Như thế các con sẽ được nhận biết như là các môn đệ của Chúa Giêsu. Và cha bảo đảm với các con rằng niềm vui của các con sẽ tràn đầy. 

Trước khi hát kinh Lậy Nữ Vương Thiên Đàng và ban phép lành cho mọi người, ĐTC đã đặc biệt chào các bạn trẻ. Ngài nói: các con đã từ Italia và nhiều nơi trên thế giới đến để sống những giờ phút của đức tin và sự chia sẻ huynh đệ. Cha cám ơn các con về chứng tá tươi vui và ồn ào của các con. Hãy can đảm tiến bước!

Hôm qua tại Burgos bên Tây Ban Nha đã được tôn phong chân phước linh mục Valentin Palencia Marquina và 4 bạn tử đạo, bị giết vì đức tin trong cuộc nội chiến Tây Ban Nha. Chúng ta hãy chúc tụng Chúa vì các chứng nhân can đảm này, và qua lời bầu cử của các vị chúng ta hãy khẩn nài Chúa giải thoát thế giới khỏi mọi bạo lực.

Tôi luôn luôn âu lo vì các anh em giám mục, linh mục, tu sĩ công giáo và chính thống đã bị bắt cóc từ lâu bên Syria. Xin Thiên Chúa từ nhân đánh động con tim của những người bắt cóc, và ban cho các anh em của chúng ta được tự do sớm chừng nào có thể, để các vị có thể trở về các cộng đoàn của mình. Vì thế tôi mời gọi tất cả cầu nguyện và chúng ta cũng không quên tất cả những ai bị bắt cóc trên thế giới. Chúng ta hãy phó thác tất cả các khát vọng và niềm hy vọng của chúng ta cho sự bầu cử của Đức Maria, Mẹ của Lòng Thương Xót.

Tiếp đến là Kinh Lạy Nữ Vương Thiên Đàng và phép lành toà thánh ĐTC ban cho mọi người.

Sau thánh lễ ĐTC đã bắt tay chào và nói chuyện với các linh mục, và một số đại diện giới trẻ, rồi ngài đã đi xe Jeep quanh các lối giữa quảng trường chào ngưởi trẻ, tín hữu và du khách hành hương hiện diện.

Linh Tiến Khải

Cổng Trường Mở Ra

Cổng Trường Mở Ra

Nhà văn Lý Lan

Vào đêm trước ngày khai trường của con, mẹ đã chuẩn bị nhiều tâm trạng và tưởng tượng một số tình huống sẽ xảy ra. Nhưng mẹ đã không hề nghĩ rằng đêm nay mẹ không ngủ được. Một ngày kia, sẽ còn xa lắm ngày đó, con sẽ biết thế nào là không ngủ được. Còn bây giờ giấc ngủ đến với con dễ dàng như uống một ly sữa, ăn một cái kẹo. Gương mặt thanh thoát của con tựa nghiêng trên gối mềm, đôi môi hé mở và thỉnh thoảng chúm lại như đang mút kẹo.

Con là một đứa trẻ nhạy cảm, mỗi lần mẹ con mình sắp đi chơi xa, thì vào đêm trước ngày đi con háo hức đến nỗi lên giường mà không sao nằm yên được. Nhưng mẹ chỉ dỗ một lát là con ngủ. thực ra chỉ cần nói: “Ngủ đi, không thôi sáng mai dậy trễ không kịp xe” là con nhắm mắt lại ngay, và chỉ lát sau, con ngủ ngon lành. Đêm nay con cũng có niềm háo hức như vậy: ngày mai con đi học- những sự chuẩn bị áo quần mới, giầy nón mới, cặp sách mới, tập vở mới , mọi thứ đâu đó sẵn sàng, khiến con cảm nhận được sự trang trọng của ngày khai trường. Nhưng cũng như trước một chuyến đi xa, trong lòng con không có mối bận tâm nào khác hơn là ngày mai thức dậy sớm cho kịp giờ.

Mẹ đắp mền cho con, buông mùng, ém góc cẩn thận rồi, mẹ bỗng không biết làm gì nữa. Đầu óc hoàn toàn tỉnh táo, vả lại cũng còn quá sớm so với giờ ngủ thường ngày của mẹ. Mọi ngày, dỗ con ngủ rồi, mẹ dọn dẹp nhà cửa. Căn nhà mình chỉ trông tạm ngăn nắp gọn gàng từ sau khi con ngủ rồi cho đến sáng hôm sau. Mẹ lượm những chiếc xe thiết giáp dưới gầm ghế, cạnh chân bàn, những chú rôbô bằng nhựa đứng ngồi khắp nơi, và giữa nhà là đoàn quân thú dàn trận trong một cuộc chiến tranh Sư tử – Khủng long mà ngày nào con cũng bày ra và không ngày nào kết thúc bằng thắng lợi của phe nào.

Nhưng tất cả những động tác đó con đã giúp mẹ làm từ chiều rồi. Mẹ nói: Ngày mai con đi học, con là cậu học sinh cấp một, con lớn rồi. Vì vậy con hăng hái tranh với mẹ dọn dẹp những món đồ chơi. Khi con cất những món đồ quen thuộc thường chơi ấy vào thùng, mẹ có cảm giác là con chia tay với chúng luôn. Cái cách con bỏ chúng vào thùng giấy như thể con đã ý thức là chúng không còn phù hợp với mình nữa. Con đóng nắp thùng như thể kết thúc một cái gì. Mấy câu mẹ nói: “Con lớn rồi . . . hình như có một ý nghĩa đặc biệt với con. Và con hành động như một đứa bé – lớn rồi.

Mẹ cũng thường nhân lúc con ngủ mà làm vài việc của riêng mình. Viết một bức thư cho người bạn ở xa , gọi điện thoại cho dì cậu, làm mặt nạ dưỡng da hay bài tập thể dục thẩm mỹ. Nhưng hôm nay mẹ không tập trung được vô chuyện gì cả, mẹ cũng không định làm những chuyện ấy tối nay. Mẹ nhìn con ngủ một lát, rồi đi xem lại những thứ đã chuẩn bị cho con. Mẹ tự bảo mình cũng đi ngủ sớm đi. Mẹ lên giường và trằn trọc, cảm thấy mình hơi vô lý, nhưng không biết như thế nào cho hợp lý. Con đã đi học từ ba năm trước, từ hồi ba tuổi vào lớp mẫu giáo, đã biết thế nào là trường, lớp, thầy, bạn. Ngay cả ngôi trường mới của con, trường cấp một, con cũng đã tập làm quen từ những ngày hè. Tuần lễ trước ngày khai giảng, con đã làm quen với các bạn và cô giáo mới, đã được tập xếp hàng đi ra sân, tập đứng, tập ngồi, cho buổi lễ khai trường long trọng. Mẹ tin là con sẽ không bỡ ngỡ trong ngày đầu niên học đâu.

Mẹ còn nhớ hồi con đi học Mẫu giáo lần đầu tiên , mẹ chọn trường gần chỗ mẹ làm, để cứ một hai tiếng đồng hồ mẹ lại chạy qua trường ngó chừng con một cái. Mẹ sợ con lần đầu xa mẹ sẽ khóc nhiều rồi sinh bệnh. Nhưng cô giáo con có nhiều kinh nghiệm, bảo mẹ đừng để cho con thấy mặt. Con chỉ khóc mấy bữa đầu, mà cũng chỉ khóc đầu giờ sáng khi vừa xa mẹ và đầu giờ chiều khi ngủ trưa dậy không thấy mẹ . Rồi con quen với cô giáo và bạn bè, đến ngày nghỉ mà cũng đòi đi học , làm mẹ có lúc đâm ghen với cô giáo. Nhưng mẹ tin là cô nhận xét đúng: con có tính hướng ngoại ,dễ hòa đồng, thích nghi môi trường tốt, năng động và độc lập. Với những tính cách như vậy, mẹ hy vọng con sẽ sớm coi trường cấp một như nhà mình.

Thực sự mẹ không lo lắng đến nỗi không ngủ được. Mẹ tin đứa con của mẹ . .. lớn rồi. Mẹ tin vào sự chuẩn bị gần như chu đáo trong thời gian qua. Còn điều gì để lo lắng nữa đâu? Mẹ không lo. Nhưng mẹ không ngủ được. Cứ nhắm mắt lại là mẹ dường như nghe tiếng đọc bài trầm bổng: Hằng năm cứ vào cuối thu – mẹ tôi âu yếm nắm lấy tay tôi, dẫn đi trên con đường làng dài và hẹp.

Cái ấn tượng ghi sâu mãi trong lòng một con người về cái ngày “hôm nay tôi đi học” ấy, mẹ muốn nhẹ nhàng cẩn thận và tự nhiên ghi vào lòng con, để một ngày kia, bất cứ một ngày nào đó trong đời, khi con nhớ lại, lòng con lại rạo rực những cảm xúc bâng khuâng xao xuyến. Ngày mẹ còn nhỏ, mùa hè nhà trường đóng cửa hoàn toàn, và ngày khai trường đúng là ngày đầu tiên học trò lớp Một đến trường gặp thầy mới, bạn mới. Cho nên ấn tượng của mẹ về buổi khai trường đầu tiên ấy rất sâu đậm. Mẹ còn nhớ sự nôn ao, hồi hộp khi cùng bà ngoại đi tới gần ngôi trường và nỗi chơi vơi hốt hoảng khi cổng trường đóng lại, bà ngoại đứng ngoài cánh cổng như đứng bên ngoài cái thế giới mà mẹ vừa bước vào.

Mẹ nghe nói ở Nhật, ngày khai trường là ngày lễ của toàn xã hội. Người lớn nghỉ việc để đưa trẻ con đến trường, đường phố được dọn quang đãng và trang trí tươi vui. Tất cả quan chức nhà nước vào buổi sáng ngày khai trường đều chia nhau đến dự lễ khai giảng ở khắp các trường học lớn nhỏ. Bằng hành động đó, họ muốn cam kết rằng, không có ưu tiên nào lớn hơn ưu tiên giáo dục thế hệ trẻ cho tương lai. Các quan chức không chỉ ngồi trên hàng ghế danh dự mà nhân dịp này còn xem xét ngôi trường, gặp gỡ với Ban giám hiệu, thầy, cô giáo và phụ huynh học sinh,để điều chỉnh kịp thời những chính sách về giáo dục. Ai cũng biết rằng mỗi sai lầm trong giáo dục sẽ ảnh hưởng đến cả một thế hệ mai sau, và sai lầm một li có thể đưa thế hệ ấy đi chệch cả hàng dặm sau này.

Đêm nay mẹ không ngủ được. Ngày mai là ngày khai trường lớp Một của con. Mẹ sẽ đưa con đến trường, cầm tay con dắt qua cánh cổng, rồi buông tay mà nói: “Đi đi con, hãy can đảm lên, thế giới này là của con, bước qua cánh cổng trường là một thế giới kì diệu sẽ mở ra”.

NgayDauTienDenLen

 

I. Phân tích và trả lời các câu hỏi

  1. Đêm trước ngày khai trường người mẹ và người con có những biểu hiện gì khác nhau? Hãy chỉ ra những câu văn thể hiện điều này?
  2. Theo em, tại sao người mẹ lại không ngủ được? Chi tiết nào chứng tỏ ngày khai trường để lại ấn tượng thật sâu đậm trong tâm hồn người mẹ?
  3. Có phải người mẹ đang trực tiếp nới với con không? Theo em, người mẹ đang tâm sự với ai? Cách viết này có tác dụng gì?
  4. Câu văn nào nói lên tầm quan trọng của nhà trường đối với thế hệ trẻ?
  5. Người mẹ nói: “Bước qua cánh cổng trường là một thế giới kì diệu sẽ mở ra”. Em hiểu thế giới kì diệu đó là gì?

II. Bài tập về nhà

Viết một đoạn về một kỉ niệm đáng nhớ nhất trong ngày khai trường đầu tiên của mình.

 

 

References:

Aronson, D. J. (2016, February 28). Vietnam: Returning to a Country I Have Loved Since I Was 16 Years Old. Retrieved April 24, 2016, from http://www.huffingtonpost.com/dr-jane-aronson/vietnam-returning-to-a-co_b_9266508.html

 

                               

ĐTC khích lệ phong trào Canh Tân Đắc Sủng Thánh Linh mừng 39 năm thành lập

ĐTC khích lệ phong trào Canh Tân Đắc Sủng Thánh Linh mừng 39 năm thành lập

ĐTC Phanxicô chào tín hữu tham dự buổi gặp gỡ chung thứ tư 20-4-2016

VATICAN: ĐTC Phanxicô khích lệ các thành viên phong trào Canh tân đặc sủng Thánh Linh dấn thân làm chứng cho Lòng Thương Xót Chúa qua các hoạt động hòa giải và phục vụ tha nhân.

ĐTC đã đưa ra lời khích lệ trên đây trong điện tín, do ĐHY Pietro Parolin Quốc Vụ Khanh Toà Thánh ký, gửi ĐC Francesco Lambiasi GM Rimini, nơi Phong trào tổ chức mừng kỷ niệm 39 năm thành lập. ĐTC cầu mong cuộc gặp gỡ kỷ niệm này khơi dậy nơi các thành viên phong trào các quyết tâm phục vụ và làm chứng cho tình yêu cứu rỗi và sự dịu hiền của Chúa Kitô đối với mọi người. Ngài cũng ca ngợi sáng kiến của phong trào có khẩu hiệu là “Các căn lều của lòng thương xót” nhằm mục thực hiện các mục đích này.

ĐHY Rylko, Chủ tịch Hội Đồng Toà Thánh về giáo dân cũng gửi sứ điệp chúc mừng và cầu mong phong trào tiếp tục loan báo Tin Mừng Lòng Thương Xót Chúa cho mọi người, đặc biệt là giới trẻ và dân nghèo còn chưa biết tới sự dịu hiền của Thiên Chúa. ĐHY Angelo Bagnasco, Chủ tịch HĐGM Italia, cũng gửi sứ điệp chúc mừng phong trào. Ngài khẳng định rằng trong thế giới hiện nay khao khát sự thật và hiệp thông, trong bối cảnh xã hội đề cao dáng vẻ bề ngoài và cá nhân, không tin tưởng nhau và thiếu chiều kích cộng đoàn, linh đạo của phong trào Canh Tân Đặc Sủng Thánh Linh chứng minh cho thấy chỉ khi nắm tay nhau tiến bước, con người mới lớn lên trong lòng tin và xây dựng một xã hội công bằng và nhân bản hơn. Các điều này hướng chúng ta tới giá trị của gia đình, là cộng đoàn đầu tiên của con người và là Giáo Hội tại gia, có giá trị vô cùng quan trọng đối với cộng đoàn Kitô và toàn xã hội.

Trong sứ điệp của mình ĐTGM Rino Fisichella,  Chủ tịch Hội Đồng  Toà Thánh tái truyền giảng Tin Mừng, cũng khích lệ các thành viên phong trào tiếp tục lộ trình của họ không luôn đuợc hiểu biết, nhưng là con đường nên thánh, mà mọi kitô hữu đều được mời gọi tiến bước, để làm chứng cho tình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi.

Phong trào Canh Tân Đặc Sủng Thánh Linh công giáo nảy sinh tại Pittsburg bên Hoa Kỳ năm 1967, hiện nay lan tràn khắp nơi và có hàng chục triệu thành viên trên thế giới (SD 22-4-2016)

Linh Tiến Khải

Hãy nhớ đến Thầy

Hãy nhớ đến Thầy

Thánh lễ sáng thứ Năm, 21.04, tại nguyện đường Thánh Martha

VATICAN. “Kitô hữu là người, trong đời sống của mình, luôn ghi nhớ những cách thức và hoàn cảnh mà Thiên Chúa đã tỏ lộ ra. Chính việc ghi nhớ ấy sẽ củng cố hành trình đức tin của mỗi Kitô hữu.” Đây là suy tư chính yếu của Đức Thánh Cha Phanxicô trong bài giảng thánh lễ sáng thứ 5, 21.04, tại nguyện đường Thánh Martha.

Đức tin là một hành trình mà khi hoàn tất cuộc hành trình ấy, người ta phải luôn ghi nhớ những giai đoạn đã từng trải qua. Ghi nhớ những điều tốt lành mà Thiên Chúa đã thực hiện trong suốt cuộc hành trình cũng như những thách đố, khó khăn, vì Thiên Chúa luôn đồng hành với chúng ta và không hề e sợ trước những tội lỗi xấu xa của chúng ta.

Hãy ghi nhớ Thiên Chúa đã cứu chuộc

Bài giảng của Đức Thánh Cha Phanxicô xoay quanh bài đọc một, thuật lại việc ông Phao-lô vào hội đường ở An-ti-ô-khi-a trong ngày sa-bát và bắt đầu rao giảng Tin Mừng. Ồng đã khởi đi từ khi một dân được tuyển chọn ngang qua Áp-ra-ham và Mô-sê, từ Ai-cập và Miền Đất Hứa cho đến khi Đức Giêsu xuất hiện. Lời rao giảng mang đậm tính lịch sử này của Phao-lô có một ý nghĩa nền tảng hết sức quan trọng, vì nó gợi nhắc lại những thời khắc nổi bật và những dấu chỉ về sự hiện diện của Thiên Chúa trong cuộc sống của nhân loại.

Đức Thánh Cha nói: “Hãy nhìn lại quá khứ để thấy Thiên Chúa đã cứu chuộc chúng ta như thế nào. Chúng ta hãy bước đi với trọn cả tâm trí trên con đường đong đầy những kỷ niệm và đến với Giêsu. Chính Đức Giêsu, trong thời khắc quan trọng nhất của cuộc đời – tối thứ 5 và thứ 6 Tuần Thánh – đã trao ban cho chúng ta Mình và Máu của Ngài. Đức Giêsu nói: ‘Anh em hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy.’ Tưởng nhớ Đức Giêsu. Hãy nhớ rằng Thiên Chúa đã cứu chuộc chúng ta như thế nào.

Thiên Chúa tôn trọng chúng ta

Giáo hội gọi Bí Tích Thánh Thể là ‘tưởng niệm’, cũng như trong Kinh Thánh, sách Đệ Nhị Luật được gọi là ‘sách tưởng nhớ của dân tộc Ít-ra-en’. Phần chúng ta, chúng ta cũng làm như thế trong đời sống cá nhân của mình, vì mỗi người chúng ta đã bước đi trên một con đường được Thiên Chúa đồng hành, có lúc gần gũi Thiên Chúa hoặc có những khi lại cách xa Ngài.

Thật là tốt cho tâm hồn Kitô hữu, nếu tôi biết ghi nhớ con đường của tôi, con đường của chính tôi: Thiên Chúa đã dẫn tôi đến đây như thế nào, Thiên Chúa đã cầm tay tôi mà dẫn dắt ra sao. Nhưng có nhiều lần tôi đã nói với Chúa: ‘Không, tránh xa con đi! Con không muốn!’ Thiên Chúa tôn trọng. Ngài trân trọng chọn lựa của ta. Nhưng để ghi nhớ, chúng ta phải nhớ về chính cuộc sống, chính chặng đường hành trình của chúng ta. Chúng ra phải tiếp tục điều này và hãy làm thường xuyên. Chính trong thời khắc đó, Thiên Chúa đã ban cho ta ân sủng và chúng ta thưa rằng: ‘Trong chặng đường vừa qua, con đã làm điều này, đã làm điều kia… Chúa đã đồng hành với con….’ Và như thế chúng ta sẽ tiến tới một cuộc gặp gỡ mới, một cuộc gặp gỡ đong đầy lòng biết ơn.

Nhớ về những điều tốt đẹp

Từ chính trái tim, phải nảy sinh một lời cảm tạ với Giêsu, Đấng đã không bao giờ mệt mỏi khi đồng hành với chúng ta trong suốt chiều dài của lịch sử cuộc đời. Có nhiều lần chúng ta đã đóng sập cánh cửa trước mặt Ngài. Đã bao nhiêu lần chúng ta giả vờ không trông thấy Ngài, không tin rằng Ngài đang ở với chúng ta. Đã bao nhiêu lần chúng ta từ chối ơn cứu chuộc mà Ngài mang đến … Nhưng Ngài vẫn ở đó chờ đợi chúng ta.

Những ký ức sẽ mang chúng ta đến gần Thiên Chúa. Nhớ về những việc tốt lành mà Thiên Chúa đã làm cho chúng ta. Qua hành động tái tạo dựng, Thiên Chúa đã ban cho chúng ta điều còn cao vượt hơn tình trạng huy hoàng xưa kia mà A-đam đã có trong lần tạo dựng thứ nhất. Bởi vậy, tôi khuyên anh chị em điều này, rất đơn giản: Hãy ghi nhớ! Hãy nhớ lại xem cuộc đời của tôi đã như thế nào, một ngày sống hôm nay của tôi ra sao và một năm vừa qua của tôi như thế nào? Hãy nhớ lại tương quan của tôi với Chúa. Hãy nhớ lại những điều tốt đẹp, cao cả mà Thiên Chúa đã thực hiện trong cuộc đời của mỗi người chúng ta.”

Vũ Đức Anh Phương, SJ

 

Chúa Giêsu không sợ bị ô uế bởi người tội lỗi cần đưọc chữa lành

Chúa Giêsu không sợ bị ô uế bởi người tội lỗi cần đưọc chữa lành

ĐTC Phanxicô chào tín hữu trong buổi tiếp kiến chung sáng thứ tư 20-4-2016

Lời Chúa dạy chúng ta phân biệt tội lỗi với kẻ có tội: không được hạ mình giàn xếp với tội lỗi, trong khi những người tội lỗi, nghĩa là tất cả chúng ta, đều giống những người đau yếu cần được săn sóc; và để săn sóc họ thì bác sĩ cần đến gần họ, viếng thăm họ và đụng tới họ. Và dĩ nhiên để được khỏi người bệnh phải thừa nhận mình cần đến thầy thuốc.

ĐTC Phanxicô đã nói như trên với hơn 60,000 tín hữu và du khách hành hương năm châu trong buổi gặp gỡ chung sáng thứ tư hôm qua. Trong bài huấn dụ ĐTC đã tiếp tục khai triển đề tài lòng thương xót dựa trên câu chuyện thánh sử Luca kể trong chương 7. Một lần kia Chúa Giêsu được một người biệt phái tên là Simone mời tới dự tiệc tại nhà ông. Trong khi họ dùng bữa, thì có một phụ nữ tội lỗi, mà cả thành phố đều biết tiếng, đến khóc trên chân Chúa Giêsu, lấy tóc lau chân Ngài rồi hôn và xức dầu thơm chân Chúa. Ông biệt phái Simone mời Chúa Giêsu đến nhà ông vì đã nghe nói về Chúa như một vị ngôn sứ lớn. Nhận xét gương mặt của hai nhân vật trong câu chuyện ĐTC nói:

Nổi bật sự so sánh giữa hai gương mặt: gương mặt của ông Simone, người nhiệt thành phục vụ Lề Luật, và gương mặt của người đàn bà tội lỗi. Trong khi người thứ nhất phán xét các người khác dựa trên các vẻ bề ngoài, thì người thứ hai chân thành diễn tả con tim của mình với các cử chỉ. Tuy là người đã mời Chúa Giêsu nhưng ông Simone không muốn bị liên lụy và để cho cuộc sống của ông bị lôi cuốn với vị Thầy; người phụ nữ trái lại, hoàn toàn tín thác nơi Chúa với tình yêu và sự tôn kính.

Ông biệt phái không nhận thức rằng Chúa Giêsu để cho mình bị các người tội lỗi làm ô uế. Ông nghĩ rằng nếu Ngài thực sự là một ngôn sứ, thì phải nhận ra các người tội lỗi và giữ họ ở xa để không bị ô uế, làm như thể họ là những người phong cùi. Đây là thái độ chuyên biệt của một kiểu hiểu tôn giáo và nó được viện lý bởi sự kiện Thiên Chúa và tội lỗi triệt để chống đối nhau. Nhưng Lời Chúa dạy chúng ta phân biệt tội lỗi với kẻ có tội: không được hạ mình giàn xếp với tội lỗi, trong khi những người tội lỗi, nghĩa là tất cả chúng ta, đều giống những người đau yếu cần được săn sóc; và để săn sóc họ thì bác sĩ cần đến gần họ, viếng thăm họ và đụng chạm tới họ. Và dĩ nhiên để được khỏi người bệnh phải thừa nhận mình cần đến thầy thuốc.

Tiếp tục bài huấn dụ ĐTC nói: Giữa người biệt phái và phụ nữ tội lỗi, Chúa Giêsu đứng về phía người đàn bà tội lỗi. Tự do khỏi mọi thành kiến ngăn cản lòng thương xót tự diễn tả, Ngài để cho bà làm. Ngài, Đấng Thánh của Thiên Chúa, để cho bà sờ mó, mà không sợ bị bà làm ô uế. Chúa Giêsu tự do vì Ngài gần Thiên Chúa là Cha thương xót. Và sự gần gũi Thiên Chúa là Cha thương xót đó trao ban cho Chúa Giêsu sự tự do.

ĐTC giải thích thái độ của Chúa Giêsu như sau:

Còn hơn thế nữa, khi bước vào trong tương quan với người phự nữ tội lỗi, Chúa Giêsu chấm dứt tình trạng cô lập, mà sự phán xét không thương xót của ông biệt phái và của các người đồng hương đã khai thác bà – họ kết án bà: “Các tội của con đã được tha” (c.48). Người phụ nữ giờ đây có thể ra đi “bằng an”. Chúa đã trông thấy đức tin và sự hoán cải chân thành của bà, vì thế Ngài tuyên bố trước mặt tất cả mọi người: “Lòng tin của con đã cứu con” (c. 50). Một đàng cái giả hình của vị tiến sĩ luật, đàng khác là sự chân thành, lòng khiêm nhường và đức tin của người đàn bà. Tất cả chúng ta đều là những người tội lỗi, nhưng biết bao lần chúng ta rơi vào cám dỗ của sự giả hình, tìn rằng mình tốt lành hơn những người khác và chúng ta nói: “Hãy nhìn tội của bạn…” Trái lại chúng ta tất cả đều phải nhìn tội lỗi của mình, các sa ngã, các sai lầm của mình và nhìn lên Chúa. Đó là con đường của sự cứu rỗi: tương quan giữa “tôi” kẻ tội lỗi và Chúa. Nếu tôi cảm thấy mình công chính, thì không có tương quan này.

Đến đây một sự ngạc nhiên lớn hơn nữa tấn công tất cả mọi người cùng dự tiệc: “Ông này là ai mà cũng có quyền tha tội?” (c. 49). Chúa Giêsu không đưa ra một câu trả lời rõ ràng, nhưng sự hoán cải của người phụ nữ tội lỗi ở trước mắt tất cả mọi người, và chứng minh cho thấy nơi Ngài rạng ngời lên quyền năng lòng thương xót của Thiên Chúa, có khả năng biến đổi các con tim.

ĐTC nói thêm trong bài huấn dụ: Người đàn bà tội lỗi dậy cho chúng ta biết  mối dây liên kết giữa đức tin, tình yêu và lòng biết ơn. Bà đã được tha “nhiều tội” và vì thế bà yêu nhiều, “trái lại ai được tha ít thì yêu ít” (c. 47). Cả chính ông Simone cũng phải thừa nhận rằng người được tha nhiều hơn thì yêu nhiều hơn. Thiên Chúa đã đóng kín tất cả trong cùng một mầu nhiệm lòng thương xót; và từ tình yêu luôn luôn đi trước chúng ta này, chúng ta tất cả đều học biết yêu thương. Như thánh Phaolô nhắc nhớ chúng ta trong thư gửi tín hữu Êphêxô: “Trong Đức Kitô, nhờ máu người đổ ra, chúng ta được cứu chuộc, được thứ tha tội lỗi, theo ân sủng phong phú của Người. Người đã đổ nó ra phong phú trên chúng ta” (Ep 1,7-8). Trong văn bản này, từ “ân sủng” đồng nghĩa với từ thương xót, và được nói là “phong phú”, nghĩa là vượt qúa mọi chờ mong của chúng ta, để thực hiện chương trình cứu độ của Thiên Chúa đối với từng người trong chúng ta.

Anh chị em thân mến, chúng ta hãy biết ơn vì đức tin, chúng ta hãy cảm tạ Chúa vì tình yêu của Ngài lớn lao, và chúng ta không đáng được! Chúng ta hãy để cho tình yêu của Chúa Kitô đổ trên chúng ta: người môn đệ kín múc nơi tình yêu ấy và xây dựng trên đó; mỗi người trong chúng ta có thể được dưỡng nuôi bằng tình yêu này. Như thế trong tình yêu biết ơn này, tới lượt mình, chúng ta đổ trên các anh chị em khác, trong nhà của chúng ta, trong gia đình, trong xã hội ta thông truyền cho tất cả mọi người lòng thương xót của Chúa.

ĐTC đã chào nhiều đoàn hành hương khác nhau. Trong các nhóm nói tiếng Pháp ngài chào nhóm các Phó tế giáo phận Mans, và các trẻ em giúp lễ giáo phận Périgueux, do các Giám Mục hướng dẫn hành hương Roma; chủng viện Ars và nhóm Niềm vui Tin Mừng Grenoble, cũng như nhiều tín hữu đến từ Bỉ. Ngài cầu mong mọi người biết noi gương Chúa Giêsu từ nhân tiếp  nhận nhau với lòng thương xót.

Chào các nhóm nói tiếng Anh đến từ Croatia, Na Uy, Thuỵ Điển, Australia, Singapore, Đài Loan, Philippines và Hoa Kỳ, ĐTC xin Chúa phục sinh chúc lành cho họ và gia đình họ.

Trong số các đoàn hành huơng nói tiếng Đức ĐTC chào các chủng sinh đại chủng viện liên giáo phận Sankt Lambert ở Burg Lantershofen, cũng như các thành viên và thân hữu tổ chức Ecclesia Mundi. Ngài chúc mọi người biết đáp trả lại tình yêu của Chúa với tình yêu để biến đổi thế giới.

Chào các nhóm nói tiếng Tây Ban Nha ĐTC đã xin mọi người cầu nguyện cho các nạn nhân động đất tại Ecuador trong lúc đớn đau này.

Trong các đoàn hành hương nói tiếng Bồ Đào Nha ngài chào tín hữu cộng đoàn Obra de Maria và cầu mong mọi người lớn lên trong tình bạn với Chúa Giêsu và làm chứng tá cho lòng thương xót Chúa.

ĐTC cũng chào các tín hữu Ucraina và Bielosussia tham dự đại hội quốc tế kỷ niệm 30 năm ngày nổ lò nguyên tử Chernobyl. Ngài xin mọi người cầu nguyện cho các nạn nhân và cám ơn những người đã cứu giúp họ, cũng như tất cả các sáng kiến nhằm thoa dịu các khổ đau và các thiệt hại do vụ nổ gây ra.

ĐTC cũng kêu gọi cầu nguyện và trợ giúp nhân dân Ukraine đang đau khổ vì chiến tranh và bị thế giới lãng quên. Ngài nhắc lại sáng kiến đề nghị lạc quyên trên toàn Âu châu vào ngày Chúa Nhật 24 tháng 4 này để trợ giúp Ucraina và cám ơn trước về sự đóng góp quảng đại của mọi người.

Ngoài ra ĐTC cũng chào phái đoàn hành hương Nga thuộc giáo phận thánh Clemente Saratov, do ĐGM Clemens Pickel hướng dẫn.

Trong các nhóm nói tiếng Ý ĐTC đã chào nhiều đoàn hành hương do các Giám Mục giáo phận hướng dẫn và cầu chúc họ làm chứng cho lòng thương xót Chúa cũng như phát huy tinh thần  truyền giáo trong các cộng đoàn giáo xứ. Bên cạnh đó ngài cũng chào các bác sĩ tham dự đại hội âu châu về “liệu pháp chống đau và các săn sóc công hiệu khác”, các nữ tu thuộc Liên hiệp các bề trên tổng quyền dòng nữ Italia, các thành viên phong trào tông đồ và tổ chức “Giúp sống” tỉnh Terni.

Chào các bạn trẻ, người đau yếu và các đôi tân hôn ĐTC nhắc cho mọi người biết thứ năm là lễ nhớ thánh Anselmo thành Aosta, GM tiến sĩ Giáo Hội. Xin gương sống của thánh nhân thúc đẩy các bạn trẻ trông thấy nơi Chúa Giêsu từ nhân vị Thầy của cuộc đời họ; xin thánh nhân bầu cử cho người đau yếu trong những lúc khổ đau được thanh thản và bình an trong mầu nhiệm thập giá; và xin cho giáo lý cùng lời giảng dạy của thánh nhân giúp các đôi tân hôn trở thành các nhà giáo dục con cái họ biết sống khôn ngoan.

Buổi tiếp kiến đã kết thúc với Kinh Lạy Cha và phép lành toà thánh ĐTC ban cho mọi người.

Linh Tiến Khải