“Nước hằng sống” chính là Đức Giêsu

“Nước hằng sống” chính là Đức Giêsu

Trong kiếp nhân sinh của con người, phát sinh từ sự thiếu thốn, thèm muốn, mong mỏi và hy vọng được thỏa mãn, nên người ta thường khao khát một điều gì đó tốt hơn những gì đang sở hữu. Có những khát khao làm cho cuộc sống của con người tốt hơn sau khi đạt được. Nhưng cũng không thiếu gì những thỏa mãn làm cho tình trạng của con người trở nên tồi tệ hơn.

Trình thuật của thánh Gioan mà chúng ta vừa nghe cho thấy có một thứ khát khao mà theo lẽ thường thì ít ai nghĩ tới, đó là khát khao “Nước Hằng Sống”. Một khi đã được thỏa mãn niềm khát khao quan trọng nhất này, thì mọi khát khao khác cũng được trở nên dư đầy.

1. Cuộc gặp gỡ kỳ diệu

Bài Tin Mừng hôm nay gợi lại cho chúng ta cuộc gặp gỡ giữa Đức Giêsu và người phụ nữ Samari. Một cuộc gặp gỡ hiếm có và xem ra rất bất thường, hy hữu và đặc biệt giữa một bên là người Dothái, bên kia là người Samari.

Hy hữu, bất thường, bởi vì từ trước đến nay giữa người Samari và người Dothái không hề có sự liên lạc, giao thương và luôn trong trạng thái nghi kỵ, khinh khi. Ấy vậy mà hôm nay, Đức Giêsu là người Dothái, người phụ nữ là người Samari lại có buổi gặp nhau thân tình. Câu chuyện được khởi đi từ việc Đức Giêsu rời Giuđê để đi Galilê. Trên hành trình đó Ngài đã chọn con đường tắt, nhanh nhất để đi. Con đường đó phải băng qua làng Samari. Chính khi băng qua đây, mà Ngài gặp gỡ người phụ nữ Samari. Đây là cuộc gặp hy hữu và bất thường.

Cuộc gặp gỡ này cũng là một cuộc gặp gỡ đặc biệt vì: ban đầu, Đức Giêsu là người chủ động xin nước nơi chị phụ nữ Samari từ giếng Giacóp, Ngài lên tiếng: “Chị cho tôi xin chút nước uống!” (Ga 4,7). Người phụ nữ quá ngỡ ngàng bởi lẽ giữa người Dothái và Samari đã từ lâu, họ không đội trời chung, và người Samari luôn bị người Dothái khinh miệt, không thèm tiếp xúc… Nhưng Đức Giêsu đã đi bước trước để phá vỡ rào cản mà lâu nay vẫn trói buộc giữa hai bên, bằng việc Ngài bắt chuyện và chủ động xin nước uống. Hành động này của Đức Giêsu làm cho người phụ nữ không khỏi ngạc nhiên, vì thế, chị ta thốt lên: “Ông là người Dothái, mà lại xin tôi, một phụ nữ Samari, cho ông nước uống sao?” (Ga 4,9). Nhưng Đức Giêsu đã trả lời: “Nếu chị nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban, và ai là người nói với chị: ‘Cho tôi chút nước uống’, thì hẳn chị đã xin, và người ấy ban cho chị nước hằng sống” (Ga 4, 10); và như một sự tiệm tiến, Đức Giêsu đã nói trực tiếp chính Ngài là nguồn mạch nước hằng sống, thứ nước ấy uống vào sẽ không còn khát nữa. Khi nghe thấy thế, Người đàn bà đã tha thiết xin Đức Giêsu: “Thưa ông, xin ông cho tôi thứ nước ấy, để tôi hết khát và khỏi phải đến đây lấy nước” (Ga 4, 15).

Thật vậy, qua cuộc gặp gỡ này, Đức Giêsu đã làm một cuộc cách mạng. Cách mạng về khoảng cách địa lý, về vai vế để đi đến một cuộc cách mạng vĩ đại, đó là cách mạng tâm hồn. Nhờ cuộc cách mạng tâm hồn này, mà từ nay, giữa người Dothái và người Samari được sống và sống dồi dào khi thờ phượng Chúa không chỉ ở trên núi này hay núi nọ, mà ngay tại trong tâm của mình qua Thần Khí và sự thật.

2. Đức Giêsu là Nước Hằng Sống

Khi nói về cuộc cách mạng tâm hồn nơi chị phụ nữ trong câu chuyện Tin Mừng hôm nay, tưởng cũng nên nhắc lại: trước kia giữa người Dothái và người Samari, họ có chung một nguồn gốc. Nhưng do cuộc sống thay đổi và vì thời cuộc…, nên người Samari có những giao thương với ngoại bang, từ đó người Do thái cho là lai căng, thậm chí là bội giáo, và thường khinh thị, không muốn giao tiếp.

Nhưng hôm nay, Đức Giêsu đã vượt qua ranh giới của cái gọi là “ta và địch”, trong truyền thống để đến với anh chị em của mình. Khi Ngài chủ động đến với chị ta như thế, Đức Giêsu đã làm một cuộc cách mạng nhằm cải hóa tâm hồn chị. Tâm trạng và thái độ của người đàn bà này có thể nói là một cuộc diễn biễn tiệm tiến trong ân sủng và đức tin. Thật vậy, thoạt tiên, sự xuất hiện của Đức Giêsu trước mặt chị chẳng hơn gì một “tên Dothái”. Đây là lối nghĩ miệt thị nhau, vì đã có mâu thuẫn từ nhiều thế hệ. Nhưng sau đó, chị ta đã “thưa ông”. Tiếp theo, khi được Đức Giêsu mặc khải cho biết chị ta đã 5 đời chồng rồi, lúc đó, chị đã gọi Ngài là một vị “ngôn sứ” là Đấng “Mêsia”. Cuối cùng, chị đã tôn vinh Ngài là Đấng Cứu Độ trần gian.

Qua câu chuyện giữa Đức Giêsu và người phụ nữ bên bờ giếng Giacóp, Đức Giêsu đã mặc khải hai điều:

Trước tiên, Đức Giêsu mặc khải cho người phụ nữ biết rằng: Ngài chính là Đấng Kitô, là Mêsia mà muôn dân mong đợi từ lâu. Ngài chính là nguồn mạch phát sinh sự sống, nên gặp được Ngài là gặp được chính nguồn sự sống bất diệt: “Ai uống nước này, sẽ lại khát. Còn ai uống nước tôi cho sẽ không bao giờ khát nữa.Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời” (Ga 4, 13-14). Như vậy, Đức Giêsu chính là “Nước Hằng Sống”.

Thứ đến, Đức Giêsu mặc khải thêm: đã đến lúc không còn chuyện phân biệt rằng Thiên Chúa của tôi và Thiên Chúa của chị nữa. Không còn chuyện cùng một Thiên Chúa chúng ta thờ, nhưng lại chỉ thờ ở đây mà không thờ chỗ khác. Vì thế, Đức Giêsu cất tiếng nói: “Nhưng giờ đã đến – và chính lúc này đây, giờ những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật, vì Chúa Cha tìm kiếm những ai thờ phượng Người như thế” (Ga 4, 23).

Như vậy, điều mà Đức Giêsu đã mặc khải cho người phụ nữ khi xưa, cũng chính là điều mà Ngài muốn mặc khải cho chúng ta ngày hôm nay.

3. Sứ điệp Lời Chúa

Chúng ta đang sống trong một xã hội đề cao nhu cầu hưởng thụ. Thượng tôn vật chất… Tuy nhiên, vẫn còn đó những thiếu thốn khi trong nhà có nhiều tiền. Vẫn còn đó sự bất an, khi quyền lực có trong tay. Và, vẫn còn đó, một khoảng cách giữa người với người ngay trong cùng một căn nhà…

Vì thế, trong cuộc sống hiện thời, con người luôn khắc khoải và có những khát vọng như:

Khát vọng chân lý, công bằng khi phải đối diện với sự gian dối, bất công. Hoặc sống trong cảnh thù hận, ích kỷ…người ta khao khát tình thương, lòng bao dung, sự tha thứ. Còn sống trong chiến tranh, loạn lạc, đau khổ và bất an, thì người ta mong muốn có hòa bình, hạnh phúc và an vui…

Như vậy, con người vẫn luôn mong được hạnh phúc. Nhưng có biết bao người càng tìm càng mất. Tại sao vậy? Thưa, vì họ tìm và gắn bó vào những thực tại trần thế như: quyền, tiền, danh vọng, nhục dục… nên không bao giờ họ được khỏa lấp nỗi khát vọng trong sâu thẳm tâm hồn của mình. Tình trạng của người Phụ nữ bên bờ giếng là một minh họa. Chị ta ngồi ngay bên miệng giếng, nhưng tâm hồn vẫn khát. Chị ta cứ ngỡ rằng khi lao mình vào những thú vui nhục dục… thì sẽ được hạnh phúc. Không phải thế! Chị ta đã lầm khi đặt lý tưởng, mục đích của cuộc đời chị sai chỗ, nhầm đối tượng. Chỉ khi gặp được Đức Giêsu, chị ta mới hết khát và thỏa mãn. Thật vậy: “Chỉ trong Thiên Chúa mà thôi, hồn tôi mới được nghỉ ngơi yên hàn” (Tv 61,2). Hay như thánh Augustinô cũng phải thốt lên: “Lạy Chúa, Chúa dựng nên con cho Chúa, linh hồn con luôn khắc khoải cho đến khi được nghỉ yên trong Chúa”.

Thật vậy, theo bản năng của con người, ai trong đời mà lại không mong muốn đạt được chân, thiện, mỹ. Tuy nhiên, nhiều khi chúng ta cũng không khác gì Dân Itrael khi xưa. Luôn đi tìm những thứ nhất thời, mau qua. Họ được Chúa cứu và giải thoát ra khỏi cảnh nô lệ bên Aicập, nhưng không bao lâu, người ta lên tiếng trách mọc Chúa và nhớ những củ hành củ tỏi bên Aicập. Họ đã lầm! Đang có Chúa ở bên, nhưng vẫn không nhận ra.

Cũng vậy, khi chưa cảm nhận được Chúa thực sự, con người luôn sống hình thức và phụ thuộc vào những chuyện bên ngoài. Vì thế, vẫn còn đó những anh chị em sốt sắng đi lễ nhà thờ, nhưng sẵn sàng cãi vã to tiếng với những người sống chung quanh chỉ vì con chó, con mèo, hay mấy đứa trẻ chơi với nhau… Cũng vẫn còn đó khi làng này và làng bên kia có những khúc mắc từ lâu, nên hôm nay có lễ ở làng bên thì bên này làng tỏ vẻ ngần ngại không muốn đi, chỉ vì sự nghi kỵ trước kia lại nổi lên.

Mong sao, với sứ điệp Lời Chúa hôm nay, mỗi người chúng ta sẽ khao khát đi tìm chân lý, sự sống. Đi tìm chính Chúa và sống với Ngài. Đồng thời, chúng ta cũng bỏ qua khoảng cách kỳ thị để đến được với nhau. Bởi vì Chúa là Chúa của mọi người chứ không chỉ riêng ta.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con luôn biết vượt lên trên những rào cản của kỳ thị, ghét ghen, để xây dựng sự hiệp nhất. Luôn biết mở lòng ra để đón nhận chính Chúa vào trong cuộc đời, hầu chúng con đáng được hưởng hạnh phúc viên mãn. Amen.

Suy niệm của Jos. Vinc. Ngọc Biển

Cơn khát đam mê

Cơn khát đam mê

Người ta kể rằng: có một người thợ đào vàng chết và lên thiên đàng. Ngay ở cổng thiên đàng, thánh Phê rô hỏi:

– Ở trần gian con làm nghề gì?

– Anh ta thưa: Con làm nghề đào vàng.

– Thánh Phê rô nói: Trên thiên đàng đã có quá nhiều thợ đào vàng rồi.

– Anh ta đáp: Thưa ngài, xin cứ cho con vô, để con cai trị bọn nó, kẻo chúng tham lam mà gây náo loạn thiên cung, làm sao dẹp loạn.

– Nhờ dẻo miệng anh ta cũng được thánh Phê rô cho vào thiên đàng. Anh ta đảo một vòng thiên đàng thì quả thật có rất nhiều tay thợ đào vàng đang ở thiên đàng. Anh ta liền rỉ tai rằng: ở hoả ngục vừa phát hiện ra một mỏ vàng mới. Các anh mau xuống đó mà đào. Thế là một thoáng qua đi, các tay đào vàng đã bỏ thiên đàng, vác cuốc, vác xẻng nhảy bổ xuống hoả ngục tìm vàng. Nhìn quanh nhìn quẩn chỉ còn lại một mình, anh cũng cảm thấy đứng ngồi không yên. Anh liền xin phép thánh Phê rô cho anh xuống tham quan một vòng hoả ngục xem sao. Thánh Phê rô mới bảo anh: đừng có mà ảo tưởng. Chẳng có mỏ vàng nào ở hoả ngục đâu! Chỉ có sự chết mà thôi! Nhưng anh ta nói: thưa ngài, chính con là người phao tin đồn đó, nhưng biết đâu ở đó lại có vàng thật thì sao? Vì bọn kia đã ra đi mãi mà chẳng thấy đứa nào quay trở lại. Chắc là có vàng thật! Nói xong, anh liền nhảy luôn xuống hoả ngục. Thế là cả đống, cả chùm ở dưới hoả ngục. Lòng tham của con người thật khôn cùng, sẵn sàng hy sinh cả hạnh phúc đời đời để thoả mãn cái khát vọng thấp hèn trần gian mau qua.

Có thể nói, đói khát vàng bạc, giầu sang chỉ là một trong muôn vàn cơn đói khát đang hành hạ và giết chết hàng vạn người. Có biết bao cơn khát của đam mê lầm lạc, của thú vui xác thịt, của tiền tài danh vọng đã đẩy bao người vào hố sâu của vực thẳm. Càng ngụp lặn trong vực thẳm, càng làm cho họ trở nên điên rồ đánh mất nhân cách, đánh mất tính người. Họ đã lầm. Vì tất cả những thứ đó không bao giờ làm thoả mãn cơn khát trong lòng họ. Vì được voi đòi tiên. Vì lòng tham vô đáy. Họ chỉ bắt được bóng chứ không bắt được mồi. Giếng sâu của lòng tham chỉ làm cho con người thất vọng, chán chường. Con người vẫn khao khát một điều gì đó vượt lên những ảo ảnh trần gian.

Người thiếu phụ bên bờ giếng Giacob hôm nay cũng thế. Mỗi ngày, chị phải ra giếng kín nước. Nhưng uống nước này là tự đầy đoạ mình. Dù chưa nhận ra, nhưng chị vẫn thao thức và bị dày vò vì một cơn khát nào đó mà những mối tình trần tục đã không giải khát nổi, đã không làm dịu đi sự thèm khát chút nào, càng đi sâu vào biển tình, chị càng thấy thiếu thốn.

Thánh Gioan đã nói "vì chị đã có 5 đời chồng". Nói 5 đời chồng không có nghĩa là một mình thiếu phụ đã đi lập gia đình năm đời chồng liên tiếp. Nhưng có lẽ là 5 mối tình bất chính. Và cả người thứ sáu cũng không thực sự là chồng. Như vậy, chị đã quan hệ bất chính một lúc với sáu người đàn ông nhưng không ai thực sự là chồng của chị. Chị là một phụ nữ trắc nết, bị xóm ngõ khinh miệt, loại trừ, chị phải đi kín nước vào giữa trưa hè nắng thay vì ban sáng hay chiều hôm như bao phụ nữ khác. Chị đi vào giờ này là để tránh gặp hàng xóm láng giềng. Nhưng không ngờ chị lại gặp Chúa Giê su. Lần gặp này đã thay đổi vận mạng cuộc đời của chị. Chúa Giê su đã mở lối thoát cho chị thật nhẹ nhàng, khi Chúa nói: "Nếu chị nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban và ai là người nói với chị cho tôi xin nước uống, thì hẳn chị đã xin, và người ấy ban cho chị nước hằng sống. Ai uống nước này sẽ không còn khát nữa".

Chúa Giê su đã dẫn dắt chị đi từ ý niệm cụ thể vật chất đến siêu nhiên. Từ việc chính Chúa khát nước giữa trưa hè nắng đổ lửa đến một sự khát bỏng của tâm hồn khô cạn ơn thánh. Người thiếu phụ này hằng khao khát hạnh phúc và chị đã tìm sự thoả mãn trong lạc thú với nhiều người đàn ông một lúc, thế nhưng vẫn không thoả mãn cơn khát trong lòng chị.

Cuộc đời của thiếu phụ này là một thất bại dài đầy nghiệt ngã thất vọng. Cho đến khi gặp được Đấng Ky tô, chị ta mới nhận ra. "Còn ai uống nước tôi ban sẽ không bao giờ khát nữa". Nước Chúa ban là nước trường sinh. Nước này không có cặn bã của tham lam bất chính, của dục vọng đen tối, của đam mê lầm lạc. Nguồn nước ân thánh tinh khiết có khả năng chữa lành các thương tích của tâm hồn và làm hồi sinh những tâm hồn đang chết trong đam mê tội lỗi. Người ta nói trong thất bại thường có sự may mắn. Chị là người may mắn đầu tiên được lãnh nhận nguồn nước ân thánh đó. Thế là tâm hồn chị được tha thứ, được rửa sạch và đã khát, chị chẳng cần đến giếng Giacob và nước nữa, chị thoăn thoắt chạy vào thành báo tin cho dân làng biết có thứ nước hằng sống, nước trường sinh mà mọi người đang khao khát, đó là Đấng Ky tô là Thiên Chúa cứu độ, là Đấng Messia họ đang mong đợi. Vì chính Đấng ấy đã nói với chị: "Chính tôi là Đấng đang nói với chị đây".

Hôm nay Chúa viếng thăm người thiếu phụ Samaria và bà đã được tỉnh ngộ. Bà đã làm lại cuộc đời. Hằng ngày Chúa cũng đến thăm chúng ta qua thánh lễ, qua Lời Chúa và các bí tích, nhưng liệu chúng ta đã tìm được nguồn suối ân sủng của Ngài hay ta vẫn còn loay hoay ngụp lặn trong những ảo ảnh trần gian?

Mùa chay mời gọi chúng ta hãy tự kiểm điểm lại đời sống của mình: tôi đang khao khát những gì? Tôi đã tim được chúng chưa? Tôi thường tìm thoả mãn về những điều gì? Điều đó có giúp ta nên thánh hay đang huỷ hoại mình trong những cơn đói khát bất chính?

Lời Chúa vẫn mời gọi chúng ta: "ai uống nước này sẽ không còn khát nữa", chúng ta có tin và sống như thế hay không? Hay chúng ta vẫn đói khát của cải danh vọng, quyền thế để khi không được, chúng ta lại trách Chúa như dân Do Thái hồi ở Masa trong sa mạc năm xưa?

LM Tạ Duy Tuyền

Châu Á có cảm nhận được lợi ích trong chiều hướng thay đổi của Đức Thánh Cha?

Châu Á có cảm nhận được lợi ích trong chiều hướng thay đổi của Đức Thánh Cha?

Kagefumi Ueno từ Tokyo, Nhật Bản

Đức Phanxicô, người Mỹ Latinh đầu tiên và là tu sĩ Dòng Tên đầu tiên đảm nhận chức Giáo Hoàng vào tháng 3 năm ngoái, ngay lập tức chiếm được trái tim của nhiều người và tiếp tục gây ấn tượng mạnh mẽ.

Thế nhưng, tôi tin rằng sự nổi tiếng của vị tân giáo hoàng này còn có ý nghĩa thật sự lớn hơn sự mến phục nhiều người dành cho ngài.

Trong khi cải cách Vatican đầy tai tiếng rõ ràng là một vấn đề quan trọng, tôi lại bị thu hút vào việc dường như Đức Phanxicô đang bắt đầu một nhiệm vụ lớn hơn nhiều đó là đưa ra một thách thức văn minh nhắm vào thay đổi bản chất và văn hóa của Vatican vốn đã không còn tiếp xúc với tính đa dạng toàn cầu và quan điểm của người đương thời, hiện đại hóa và đa dạng hóa toàn thế giới Công giáo.

Trong khi làm như thế, Đức Thánh Cha nhấn mạnh đến cách mạng hóa nhận thức từ ba góc độ: tái xác định nhiệm vụ của Giáo hội, biến đổi từ cơ cấu tập trung quyền sang cơ cấu phân quyền và biến đổi từ “văn hóa loại trừ” sang “văn hóa hội nhập”.

Trong đó góc độ thứ hai là phân quyền có tầm quan trọng đặc biệt đối với Giáo hội ở Nhật và châu Á.

Trong nhiều thập niên qua, Giáo hội Công giáo cai quản toàn thế giới thông qua một mô hình châu Âu mà không cân nhắc đủ đến các nền văn hóa bản địa của mỗi vùng.

Kết quả là khoảng cách giữa giáo huấn Công giáo và các nền văn hóa địa phương đôi khi mang lại khó khăn cho Giáo hội tại Mỹ Latinh và châu Á.

Dường như Đức Thánh Cha đang xem xét ý tưởng ủng hộ đặc điểm này của Giáo hội trong mỗi vùng, thậm chí là phải giảm bớt quyền lực của giáo hoàng và Vatican.

Điều này báo hiệu một động thái xa rời châu Âu và Rôma trong thế giới Công giáo, và Đức Thánh Cha đã bắt đầu đưa ra hai thách thức theo chiều hướng này.

Thứ nhất là đưa quan điểm Dòng Tên vào lối tư duy của Vatican. Bằng cách thuyết phục giới giáo sĩ thay đổi thói quen phung phí và bênh vực người nghèo, Đức Phanxicô đang đưa vào Vatican văn hóa tiết kiệm và vị tha ‘hoang sơ’ của Dòng Tên.

Thách thức thứ hai nằm trong việc hội nhập quan điểm Mỹ Latinh. Quan điểm “bênh vực người nghèo quan trọng hơn là quá ám ảnh với những nguyên tắc gia đình” được Đức Thánh cha Phanxicô ủng hộ, chưa từng được nghe nói từ các vị tiền nhiệm, vốn là người châu Âu và do đó không biết được thực trạng tai hại của “nạn nghèo khổ đích thực”.

Là người Mỹ Latinh và hiểu rõ cảnh nghèo khổ cùng cực, Đức Phanxicô đã mang quan điểm Mỹ Latinh vào Vatican và đã bắt đầu thu hẹp khoảng cách tâm lý giữa Rôma và nơi đó.

Đức Thánh Cha Phanxicô có nỗ lực giảm khoảng cách giữa châu Á với Rôma như thế không?

Chúng ta phải đánh giá từ lời nói và việc làm sau này của ngài, nhưng có những yếu tố tích cực.

“Hội nhập văn hóa” là từ được dùng để miêu tả cách Giáo hội Công giáo truyền bá đức tin bằng cách cho nó lọt qua màn chắn văn hóa bản địa trước để làm cho nó quen thuộc với người địa phương hơn trong các vùng khác nhau trên thế giới.

Đây là ý tưởng được linh mục Valignano ủng hộ cách đây 4 thế kỷ. Ngài là vị thừa sai Dòng Tên được cử sang Nhật, tại đây ngài đã tìm cách thực hiện ý tưởng này.

Mặc dù nỗ lực của ngài bị thất bại do sắc lệnh chống Kitô giáo của chế độ Tokugawa Shogunate (chính quyền quân sự Nhật thời phong kiến) và ý tưởng này dần dần biến mất từ khi ngài qua đời, Đức Phanxicô mang ADN Dòng Tên có thể cởi mở hơn với việc Á hóa Giáo hội tại Á châu thông qua hội nhập.

Từ “Á châu” đó có nghĩa gì?

Để tham khảo, chúng ta hãy xem xét cuộc thảo luận diễn ra trong Thượng Hội đồng Giám mục Á châu được tổ chức tại Rôma năm 1998.

Tại cuộc họp đó, nhiều tham dự viên châu Á than phiền rằng đạo Công giáo vẫn không phù hợp với các văn hóa châu Á, thể hiện thiếu hội nhập.

Chẳng hạn, đức tổng giám mục của Osaka chỉ ra Kitô giáo được nuôi dưỡng ở phương Tây mang đặc điểm của xu hướng quá thiên về người cha, nhị nguyên giữa da trắng và da đen, trong khi người châu Á tìm kiếm một nữ thần làm mẹ tất cả.

Lời bình luận này của một tổng giám mục Dòng Tên trùng với suy nghĩ của một chủng sinh và là vai chính trong cuốn tiểu thuyết Deep River của tác giả Công giáo Endo Shusaku.

Trong câu chuyện này, người chủng sinh chỉ ra đạo Công giáo châu Âu mang đặc điểm xác định rõ, lập luận và xem nhẹ tự nhiên quá đáng vốn xa lạ với người Nhật.

Tuy nhiên, khi châu Á nêu lên những quan điểm như thế vào năm 1998 đã bị Vatican cố tình làm ngơ.

Đức Phanxicô bày tỏ ý định ưu tiên viếng thăm châu Á trong năm nay và năm sau.

Ngài sẽ phản ứng như thế nào trước những tiếng nói bất mãn ở châu Á chưa được giải quyết là vấn đề khơi lên thích thú vô tận từ quan điểm văn minh.

Cuộc chiến gay go giữa “trung tâm” và “ngoại biên” và giữa “phổ quát” và “địa phương” là đề tài muôn thuở luôn ám ảnh bất kỳ nền văn mình nào. Đức Thánh Cha Phanxicô là hiện thân của vùng “ngoại biên”, là tu sĩ Dòng Tên đến từ Mỹ Latinh, ngài sẽ mang lại cho các Giáo hội ở châu Á và châu Phi cơ hội vàng để thuyết phục Rôma chấp nhận đặc điểm riêng của các Giáo hội này.

Đức Thánh Cha Phanxicô phản đối mô hình lấy Rôma làm trung tâm vốn tồn tại hơn 1,700 năm nay. Thách thức của ngài có vững hay không sẽ phụ thuộc vào chiều sâu của lòng tin về đa dạng hóa và hiện đại hóa thế giới Công giáo của ngài.

Nguồn: Hội nói tiếng Anh ở Nhật (ESUJ)

Giáo sư Kagefumi Ueno của Đại học Kyorin ở Tokyo là nhà bình luận và là cựu đại sứ Tòa Thánh

DÕI BƯỚC THEO CHÚA

DÕI BƯỚC THEO CHÚA

Người ta kể rằng năm ấy dù mới lên mười tuổi, cậu Chai-san đã được bố cho đi theo một đoàn lữ hành phải vượt cao nguyên trùng điệp với những đỉnh đồi, những ngọn núi vừa hùng vĩ vừa thơ mộng. Đêm đến đoàn lữ hành trú ngụ trong những chiếc lều vải thô sơ. Một đêm nọ cậu bé Chai-san cảm thấy có một sức mạnh từ bên trong thúc đầy cậu trốn ra khỏi lều. Và kìa, giữa miền núi cao, bầu trời đầy trăng sao lấp lánh như bao trùm lấy cậu. Một cảm giác hạnh phúc nhẹ nhàng xâm chiếm tâm hồn Chai-san. Cậu có cảm tưởng như cả vũ trụ xinh đẹp này đã được tạo dựng để ban tặng cho cậu, và nó đang nâng tâm hồn cậu lên với Đấng Tạo Hóa.

Bỗng chốc bầu khí yên tĩnh và an bình bị xáo trộn vì tiếng gọi của người cha: “Chai-san, mày trốn đi đâu rồi? Trở vào lều đi”. Chai-san miễn cưỡng trở vào lều và tiếc nuối nói với cha: “Bố ơi, bầu trời trăng sao đẹp quá chừng!”.

Thưa anh chị em,

Trong truyền thống Thánh Kinh cũng như trong hầu hết các tôn giáo, núi cao thường được xem như là nơi gặp gỡ giữa trời và đất, giữa Thần Linh và con người. Những mạc khải quan trọng trong Kinh Thánh đều diễn ra trên núi cao. Môsê đã được kêu mời lên núi Sinai để gặp gỡ Giavê Thiên Chúa và đón nhận lề luật cho Dân Chúa. Êlia đã ròng rã 40 đêm ngày lên núi Horeb để gặp Chúa. Êlisê cũng lên núi Carmel để gặp Chúa. Và Chúa Giêsu cũng khởi sự đời công khai bằng 40 đêm ngày chay tịnh trên núi cao, rồi trong ba năm sứ vụ, Ngài vẫn thường lặng lẽ một mình lên núi để cầu nguyện cùng Cha Ngài.

Trong Tin Mừng hôm này, Chúa Giêsu đã đưa ba môn đệ thân tín nhất lên núi Thabor để tỏ vinh quang của Ngài cho các ông. Từ trên núi cao, Phêrô, Giacôbê, Gioan đã nhận ra được con người và sứ mệnh của Chúa Giêsu. Từ trên đỉnh cao, các ông thấy vinh quang của ngài như một lời hứa được thực hiện, như thành tựu của một sứ mệnh, như đích điểm của một con đường, con đường thập giá dẫn đến vinh quang.

Thế nhưng, thưa anh chị em, người ta không lên núi cao để ở lại đó, mà là để nhìn rõ hơn con đường phải đi. Đối với Chúa Giêsu, con đường phải đi đó chính là con đường lên Giêrusalem với cuộc tử nạn đang chờ đợi Ngài. Và Ngài đã xuống núi để giáp mặt với cuộc đời, để tiếp tục hành trình xuyên qua khổ nạn và cái chết thập giá. Từ trên núi cao, Chúa Giêsu cũng muốn đưa ba môn đệ thân tín của Ngài trở lại cuộc đời, trở lại với những thử thách, chống đối đang chờ đợi trước mắt các ông.

Thật vậy, cuộc tỏ vinh quang của Chúa Giêsu trên núi đã xảy ra sau khi Phêrô tuyên xưng: “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”. Lời tuyên xưng này lại gắn liền với lời Chúa Giêsu loan báo cuộc Thương Khó của Ngài và kèm theo lời mời gọi: “anh em hãy bỏ mình, vác thập giá đi theo Thầy” (Mt 16,24). Vậy là đúng vào lúc các môn đệ đã nhận ra Chúa Giêsu là Đức Kitô, là Đấng Cứu Thế, thì trước mắt các ông hình ảnh một Đấng Cứu Thế oai hùng lẫm liệt theo các ông quan niệm, bắt đầu tan biến, để hiện ra một Đấng Cứu Thế đau khổ, bị đày đọa, bị khai trừ, bị giết chết. Hình ảnh đó thật là khó hiểu đối với các môn đệ, vì lòng tin của các ông còn mộc mạc, phàm tục. Cho nên, chẳng lạ gì, Phêrô đã lên tiếng khuyên can Chúa Giêsu đừng đi theo con đường đau khổ đó làm gì. Nhưng thật không may cho ông, vì Chúa Giêsu cứ khăng khăng một mực, lại còn quay sang mắng ông: “Satan, cút đi!”. Vì ông đã tự đồng hóa với Satan cám dỗ Chúa trong sa mạc.

Rồi bây giờ thì lại cũng chính Phêrô đã dám đề nghị cắm lều ở lại trên núi Thabor, vì ở đây sướng quá, khỏi phải đi qua con đường đau khổ mà ông đã khuyên can Thầy. Nhưng rồi, mở mắt ra, ông thấy chỉ còn một mình Chúa Giêsu trên đỉnh núi. Ánh sáng rực rỡ đã tan biến, và Chúa Giêsu còn đánh thức các ông dậy, giục các ông xuống núi, đi lên Giêrusalem với Ngài để chịu tử nạn như Thầy đã báo trước.

Chính trong giờ phút biến hình rực rỡ vừa rồi, ông Môsê và ngôn sứ Elia đã đàm đạo với Chúa Giêsu về “cuộc ra đi” Ngài sắp hoàn thành tại Giêrusalem, và tiếng Chúa Cha phán: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hết lòng quý mến. Các ngươi hãy vâng nghe lời Ngài”. Lời đó chính là để công nhận, để tán thành bước đường vượt qua đau thương của Chúa Giêsu, và mời gọi các môn đệ hãy đi theo Thầy. Vì thế, mấy Thầy trò lại xuống núi. Và Phêrô cũng như các môn đệ khác phải đi theo sau Thầy qua con đường khổ nạn thập giá mới đến ánh sáng vinh quang Phục Sinh.

Anh chị em thân mến,

Không phải hông có lý do mà phụng vụ năm nào cũng đặt bài Tin Mừng Chúa hiển dung sáng láng hôm nay vào giữa Mùa Chay. Giáo Hội muốn đưa chúng ta lên núi, hé mở cho chúng ta chiêm ngưỡng một chút vinh quang phục sinh của Chúa Giêsu, để chúng ta thêm tin tưởng vào Ngài, để chúng ta có những giây phút nghỉ ngơi lấy sức trước khi xuống núi, trở về với cuộc sống bình thản trên các nẻo đường phẳng lặng hay đầy sóng gió đưa đến núi Can-vê. Chúng ta cần được Chúa đến gần, đưa tay đập vào người như “đã đến gần, vỗ vào người các môn đệ”, để thức tỉnh chúng ta, để chúng ta biết chuẩn bị sẵn sàng đón nhận mọi gian nan đau khổ trên đường đời.

Con đường Thương Khó của Chúa khởi đầu từ khi Ngài xuống núi. Rồi đây, Ngài cũng sẽ biến hình “không còn hình tượng người ta nữa”, để dạy chúng ta biết phải đi qua con đường thập giá mới đến vinh quang khải hoàn sống lại. Trong ngôn ngữ La-tinh, người ta chơi chữ: “Per crucem ad lucem”, nghĩa là “qua thập giá đến ánh sáng”. Qua Thứ Sáu Tử Nạn mới đến Chúa Nhật Phục Sinh. Đường thánh giá không dừng lại ở nấm mồ, nhưng mở ra trong niềm vui tưng bừng của ngày sống lại. Đó là quy luật của muôn đời.

Thưa anh chị em,

Trong cuộc hành trình đức tin của chúng ta, cũng có những giây phút chúng ta được đưa lên núi cao để gặp Chúa, núi cao của Thánh lễ, núi cao của những giờ phút dành cho việc cầu nguyện. Nhưng chúng ta không lên núi để ở đó mãi, mà là để trở lại với cuộc đời với muôn thử thách, đắng cay, với những gặp gỡ từng ngày. Chấp nhận cuộc sống với tinh thần lạc quan, chấp nhận chiến đấu mà không buông xuôi bỏ cuộc, sống như thể là tiếp tục con đường Chúa Giêsu đã đi qua. Chấp nhận những người anh em chúng ta gặp gỡ trên đường đi, chấp nhận những khác biệt, những bất toàn của người anh em cùng đồng hành, sống như thể là dõi bước theo đường Chúa đã đi qua.

Xin ánh sáng Phục sinh của Đức Kitô luôn dẫn bước chúng ta trên đường, để chúng ta biết đón nhận và sống trọn từng phút giây cuộc sống. Xin ánh sáng Phục Sinh của Đức Kitô chiếu dọi và hướng dẫn cuộc hành trình đức tin của chúng ta được tiếp tục trên dấu chân của Ngài.

Veritas Radio

MẮT ĐỨC TIN, MẮT CỦA TRÁI TIM

MẮT ĐỨC TIN, MẮT CỦA TRÁI TIM

Có nhiều điều ta nhìn mà không thấy. Ví dụ: tình yêu, tình bạn, tình mẫu tử. Ta chỉ thấy những dấu hiệu của tình yêu như: sự âu yếm, quà tặng, sự quên mình. Còn chính tình yêu thì ta không thấy. Điều chính yếu thì vô hình. Ta chỉ thấy được bằng trái tim.

Có nhiều điều ta chỉ thấy bề mặt mà không thấy bề sâu. Ví dụ như con người. Khi nhìn một người, ta chỉ thấy diện mạo, hình dáng bên ngoài. Ít khi ta thấy được tâm tư tình cảm của người khác, kể cả những người thân yêu sống kề cận bên ta. Linh hồn người ta không ai thấy bao giờ. Vì linh hồn thiêng liêng. Ta chỉ thấy được bằng đức tin.

Chúa Giêsu xuống thế làm người đã trở nên giống như một người phàm. Người che giấu thần tính vinh quang sáng láng trong một thân xác nghèo hèn, bình thường. Không ai nhận ra thần tính của Người. Ngay cả các môn đệ luôn luôn kề cận bên Người.

Hôm nay, khi Chúa tỏ mình ra các ông chới với ngỡ ngàng. Lòng các ông tràn ngập niềm vui khi nhìn thấy vinh quang của Chúa Giêsu. Thần tính vinh quang phát lộ rực sáng. Và nhân tính được tôn vinh. “Diện mạo Chúa Giêsu chói lọi như mặt trời và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng”.

Thần tính Chúa Giêsu biểu lộ chứng thực Người là Thiên Chúa ẩn mình. Thì ra manh áo đơn sơ của bác thợ mộc che giấu cả một nguồn ánh sáng chói lọi. Tấm thân dân dã nghèo hèn lại là chiếc bình chứa đựng Ngôi Hai Thiên Chúa cao sang.

Ánh sáng thần tính rọi vào nhân tính đem lại cho ta bao niềm hi vọng. Vì nhân tính của Chúa Giêsu gánh lấy cả nhân loại trên mình, nên ánh sáng thần linh cũng soi rọi cả vào chúng ta, vào thế giới tăm tối của tội lỗi, yếu hèn, vào thân xác rã rời mệt mỏi của ta.

Ánh sáng ấy cho tôi hiểu rằng, Thiên Chúa đang ẩn tàng trong vạn vật. Người ở nơi thâm sâu nhất của hữu thể tôi như thánh Augustinô đã cảm nghiệm: “Người ởi bên trong, còn tôi ở bên ngoài”.

Người ẩn tàng trong mọi quan hệ, trong mọi niềm vui, trong mọi tình bạn, trong mọi tình yêu. Bởi vì hạnh phúc là gì nếu không phải đi tìm cái cốt lõi, là nguồn mạch của hạnh phúc, là chính Thiên Chúa hằng sống.

Ánh sáng ấy ngầm nói với tôi rằng: Vinh quang Thiên Chúa như hạt giống đang vùi chôn trong lòng tất cả mọi anh em sống quanh tôi. Vinh quang ấy đang bị che khuất đàng sau những mái tranh thô sơ, những thân thể gầy guộc, những ánh mắt mệt mỏi lờ đờ.

Nhận thức ấy thôi thúc tôi trở về tìm Chúa trong đáy lòng mình. Càng bóc đi lớp vỏ tội lỗi, dung nhan Thiên Chúa càng hiện rõ. Càng chìm sâu vào nội tâm thinh lặng, tôi càng tới gần Chúa.

Nhận thức ấy giúp tôi kính trọng anh em vì anh em là những cung thánh đền thờ nơi Thiên Chúa ngự trị, là những vườn ươm hạt mầm thần linh, là những bình sành chứa đựng kho tàng cao quý.

Như thế, sống Mùa Chay là thực hiện một hành trình nọi tâm: trở về đáy lòng mình để gặp được Chúa.

Ăn chay là đến với anh em bằng thái độ kính trọng, là bảo vệ hạt mầm thần linh đang đâm chồi nảy lộc trong các tâm hồn.

Chương trình hành động trong Mùa Chay là tiếp tay đem ánh sáng thần linh của Chúa Kitô soi chiếu vào những mảnh đời tăm tối, những thân phận hẩm hiu. Sao cho dung nhan nhân loại chói ngời ánh sáng nhân phẩm, ánh sáng văn hoá, ánh sáng lương tâm và ánh sáng thần linh.

Như thế ta đang công tác vào việc biến hình thế giới. Như thế ta đang bước theo chân Chúa Kitô, đưa nhân loại vào hành trình phục sinh.

Lạy Chúa Kitô, xin ban cho con đức tin mạnh mẽ để con nhìn thấy Chúa trong anh em. Xin ban cho con trái tim bén nhạy để con nhìn thấy những thực tại vô hình. Amen.

ĐTGM. Ngô Quang Kiệt

Vinh Quang

VINH QUANG

Để chuẩn bị chương trình cứu độ loài người, Thiên Chúa đã chọn ông Abram làm tổ phụ một dân tộc. Vào thời điểm đó, ông Abram và bà Sara còn hiếm muộn, vì tuổi đã cao mà chưa có con nối dòng. Thiên Chúa đã ban lời hứa: “Ta sẽ làm cho ngươi nên một dân lớn, Ta sẽ ban phúc cho ngươi, cùng làm vinh danh ngươi, ngươi sẽ được diễm phúc.” (St 12,2). Tổ phụ đã bước đi trong niềm tin phó thác và một lòng tin tưởng tuyệt đối vào sự quan phòng của Thiên Chúa. Theo lệnh Chúa, ông bà đã rời quê hương xứ sở đi đến miền đất Chúa hứa. Ông Abram đã trải qua biết bao thử thách thăng trầm. Ông vâng lệnh Chúa một cách vô điều kiện, ngay cả khi Thiên Chúa muốn ông hiến dâng đứa con trai độc nhất làm hy tế. Qua sự trung tín, Abram đã được Thiên Chúa đổi tên thành Abraham. Abraham trở nên tổ phụ của tất cả những người có niềm tin vào Thiên Chúa duy nhất. Ông đã được Thiên Chúa đoái hoài ban cho có con đàn, cháu đống nối dòng trải qua muôn thế hệ từ đời nọ tới đời kia.

Dân tộc Dothái thuộc dòng dõi của Tổ phụ Abraham. Một dân tộc đã được Chúa yêu thương chăm sóc dẫn đường, nhưng cũng là một dân phải chịu nhiều sự đắng cay, khổ đau và thăng trầm nhất trong lịch sử nhân loại. Khoảng năm 1300 trước Công nguyên, dòng dõi con cháu của Tổ phụ Abraham đã rời nước Aicập để tiến vào Miền Đất Hứa. Năm 996 trước Công nguyên, Vua David đã chiếm hữu thành Giêrusalem và đặt làm thủ đô của vương quốc. Con của vua David là vua Salômôn đã xây dựng Đền thờ đầu tiên năm 950 B.C. để kính thờ Thiên Chúa. Năm 586 trước Công nguyên, Đền thờ Giêrusalem đã bị phá hủy bởi Vua Nebuchadezzar và dân chúng đã phải chịu cảnh lưu đầy tại Babylon. Năm 515 trước Công nguyên, con dân được trở về quê hương xứ sở để xây dựng lại Đền Thờ lần thứ hai. Khi Chúa Giêsu xuất hiện rao giảng Tin Mừng, Ngài đã tiên báo về sự sụp đổ của Đền thờ Giêrusalem. Vào năm 70, Đền thờ Giêrusalem đã bị tàn phá bình địa bởi Hoàng đế Titô và chỉ còn để lại bức tường than khóc ô nhục cho tới nay.

Trải qua 20 thế kỷ, dân tộc Dothái chịu trăm ngàn thách đố dưới sự chiếm đóng và đô hộ của nhiều quốc gia. Dân chúng phải đi tản mác khắp nơi trên thế giới. Mãi tới năm 1948, nước Dothái mới được công nhận là một nước độc lập và tự trị. Giêrusalem trở thành thủ đô của nước Dothái (State of Israel). Và nhờ sự quả cảm dũng lực của thần dân Dothái từ khắp mọi nơi trên thế giới, năm 1967, họ đã mở cuộc chiến tranh tấn công 6 ngày vào các nước lân bang của Israel, đã nới rộng và tái chiếm nhiều phần đất của tổ tiên thuở xưa. Gần 2.000 năm lưu lạc, giờ đây, dân tộc Dothái đã chính thức được sống trên phần đất mà các tổ phụ đã dựng xây. Miền đất đã ghi dấu tất cả những giai đoạn thăng trầm qua thời các tổ phụ, các quan án, các vua, các tiên tri và hình thành lịch sử Ơn Cứu Độ. Chính trên miền đất này, Chúa Giêsu đã xuất hiện rao giảng Tin Mừng cứu độ. Một ngày kia, Chúa đã đưa ba môn đệ lên núi Tabo và biến hình vinh quang trước mặt các ông. Thiên Chúa vẫn đoái thương con dân mà Người đã chọn: “Ta sẽ ban phúc cho ai chúc phúc ngươi, và chúc dữ cho ai chúc dữ ngươi. Mọi dân tộc trên mặt đất sẽ nhờ ngươi mà được diễm phúc.” (St 12,3).

Tất cả những lời giảng dạy uy quyền cùng với những phép lạ kèm theo đã chứng thật Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa. Chúa đã hạ mình nhập thể mặc lấy thân xác loài người để cư ngụ giữa chúng ta. Chúa biến hình là trở về tình trạng nguyên thủy của Đấng là trung gian vạn vật. Chúa đã muốn mạc khải bản tính Thiên Chúa cho các môn đệ. Người đã tỏ hiện vinh quang cao cả đích thực: “Người biến hình trước mặt các ông: mặt Người chiếu sáng như mặt trời, áo Người trở nên trắng như tuyết.” (Mt 17,2). Chúa biến hình là để củng cố niềm tin và khai mở mầu nhiệm về sự sống vĩnh cửu cho các Tông đồ. Nhưng rồi Chúa Giêsu không dừng lại trong sự biến hình vinh quang sáng láng, Ngài còn phải xuống núi dấn thân hoàn tất con đường thánh giá khổ đau để cứu độ nhân loại. Đây chỉ là một khoảnh khắc hé mở một niềm hy vọng vinh phúc bất diệt.

Cùng hiện diện với Chúa Giêsu, có ông Môsê và tiên tri Êlia và ba Tông đồ Phêrô, Gioan và Giacôbê đi theo Chúa. Phêrô sung sướng chìm đắm trong nguồn ân sủng cõi thiên đã muốn lưu lại trong cảnh giới thần tiên: “Lúc ông còn đang nói, thì có một đám mây sáng bao phủ các Ngài, và có tiếng từ trong đám mây phán rằng: ‘Đây là Con Ta yêu dấu rất đẹp lòng Ta, các ngươi hãy nghe lời Người.’” (Mt 17,5). Thiên Chúa Cha đã chứng nhận sứ mệnh cao cả của Chúa Giêsu Cứu Thế. Kinh nghiệm trên núi Taborê là nguồn hy vọng sáng ngời cho các tông đồ và cho chúng ta còn đang lữ hành dưới thế. Chúa Giêsu sẽ dẫn chúng ta qua con đường thập giá tới vinh quang. Chúng ta không thể đi con đường tắt để đạt được triều thiên vinh thắng. Các tông đồ đã xác tín con đường đi theo Chúa.

Trong Mùa Chay Thánh, chúng ta có cơ hội trở về nguồn để suy gẫm sứ vụ của Chúa Kitô. Ngài đã từng bước trải nghiệm những cám dỗ, những đau khổ và vinh quang. Con đường mòn Chúa đã đi loan báo tin mừng không đơn giản, dễ dàng. Cụ thể, Chúa đã phải trèo dốc, vượt đồi, lên non và với đôi chân trần rảo khắp các làng mạc và thành thị. Chúa không chỉ giảng dạy nơi hội đường, nhưng đã rong ruổi khắp chốn quy tụ từng nhóm nhỏ mời gọi sám hối đổi đời, dạy dỗ sự thật về Nước Trời và chữa lành bệnh hoạn tật nguyền cả thân xác và tâm hồn. Trong 3 năm giảng dạy, Chúa đã thi hành sứ vụ từ Galilê, miền Nazareth, qua ngả Samaria và xuống Giuđêa, trọng tâm là Giêrusalem. Khoảng cách từ Bắc xuống Nam rất xa xôi và núi non hiểm trở. Chúa đã tận dụng mọi cơ hội để cải hoá lòng người và uốn nắn trái tim của họ trong tình yêu.

Thánh Phaolô trong thư gửi Timôthêô đã mời gọi sự cộng tác loan truyền Tin Mừng cứu độ: “Con thân mến, con hãy đồng lao cộng tác với Cha vì Tin Mừng, nhờ quyền lực của Thiên Chúa.” (2 Tm 1,8). Phaolô tự nhận là đứa con đẻ non trong ân sủng cứu độ của Chúa, nhưng ông đã hết mình truyền rao chân lý mà ông đã lãnh nhận từ chính Chúa Kitô Phục Sinh. Cho dù đối diện với sự khó khăn, bị xua trừ, bắt bớ, đánh đập, tù đày và ngay cả sự chết, Phaolô vẫn một niềm tin tưởng và cậy trông vào sự sống trường sinh và vinh quang bất diệt mà Chúa Kitô sẽ thưởng ban. Tin Mừng cứu độ đã được tiếp tục truyền rao đến khắp cùng bờ cõi, những ai tin vào Chúa Kitô thì sẽ được lãnh ơn cứu độ.

Chúa Kitô đã đến trần gian và đã hoàn tất sứ vụ của Ngài. Ngài đã chiến thắng sự dữ và thần chết. Lời Tin Mừng của Chúa có uy lực giải thoát và dẫn đường chúng ta bước vào miền đất trường sinh. Chúng ta không còn phải tìm kiếm đâu xa, nhưng hãy trở về múc tận nguồn ơn cứu độ trong niềm tin vào Chúa Kitô, vào Thánh Kinh và đời sống Bí tích của Giáo Hội. Tin Mừng sẽ giải thoát và dẫn dắt chúng ta tới vinh quang sáng ngời. Thánh Phaolô viết: “Nhưng bây giờ mới tỏ bày bằng sự xuất hiện của Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu Chuộc chúng ta, Người đã dùng Tin Mừng tiêu diệt sự chết và chiếu soi sự sống, và sự không hư nát được tỏ rạng.” (2 Tm 1,10). Sự biến hình của Chúa Giêsu là dấu chứng kỳ diệu và là niềm hy vọng tuyệt đối cho mọi kẻ còn đang lữ hành giữa biển đời ô trọc này.

Lạy Chúa, vinh quang của Chúa chói lòa. Chúa là ánh sáng chiếu dọi vào thế gian u tối. Xin cho chúng con biết dõi theo ánh sáng của Chúa để tìm về nguồn an lạc và nguồn sống vinh phúc trường sinh.

Lm. Giuse Trần Việt Hùng

Nghe lời Người

Nghe lời Người

Sau khi được tiên báo về cuộc Thương khó Chúa Giêsu sắp phải trải qua, các môn đệ đã xuống tinh thần trầm trọng, thậm chí các ông còn ngần ngại đồng hành với Chúa lên Giêrusalem.

Tin mừng Nhất Lãm tường thuật lời loan báo về cuộc tử nạn. Chúa Giêsu đưa Nhóm Mười Hai đi lên Giêrusalem, dọc đường, Người nói với các ông: “Này chúng ta lên Giêrusalem, và Con Người sẽ bị nộp cho các thượng tế và kinh sư. Họ sẽ kết án xử tử Người, sẽ nộp Người cho dân ngoại nhạo báng, đánh đòn và đóng đinh vào thập giá và ngày thứ ba, Người sẽ chỗi dậy” (Mt, 17-19).

Theo tin mừng Luca và Maccô, các môn đệ không hiểu và sợ hãi khi nghe Thầy loan báo về cuộc thương khó. “Nhưng các ông không hiểu gì cả; đối với các ông, lời ấy còn bí ẩn, nên các ông không rõ những điều Người nói” (Lc 18,34); “Người dẫn đầu các ông. Các ông kinh hoàng, còn những kẻ theo sau cũng sợ hãi. Người lại kéo riêng Nhóm Mười Hai ra, và bắt đầu nói với các ông về những điều sắp xảy đến cho mình” (Mc 10,32).

Vì không hiểu nên sợ. Sợ nên không muốn đi. Phêrô kéo riêng Chúa ra mà ngăn cản và trách móc. Chúa trách mắng Phêrô, nhưng để giúp Phêrô cần có sự can thiệp của Chúa Cha. Vì thế, biến cố Biến Hình đã xảy ra (Mt 17,1-9).

Chúa đưa ba môn đệ lên núi Tabor. Biến Hình rực rỡ nhằm củng cố tinh thần cho các môn đệ sau khi Chúa loan báo cuộc khổ nạn.

1. Núi Tabor

Tôi được diễm phúc lên Núi Tabor. Từ khách sạn ở Nazareth xe đi qua những thung lũng với nhiều vườn cây ôliu, vườn chuối, vườn cam xanh tươi ngút mắt. Tabor là ngọn núi rất đẹp, nó đưa mình lên êm ả từ một cánh đồng cỏ xanh. Xe buýt chỉ đến chân núi, sau đó phải đổi xe chuyên leo núi. Lên dốc cao, đường ngoằn ngoèo theo vòng xoáy trôn ốc như đường Đèo Ngoạn Mục. Trời thật lạnh khoảng 4độ, gió thổi rét buốt trên đỉnh có độ cao 600m làm ai nấy run lên vì lạnh.

Núi Tabor có một ngoại hình rất cân đối. Núi mọc lên giữa cánh đồng như một bàn thờ giữa trời đất, giống như lễ đàn của các bộ lạc để tế thần minh. Lúc Chúa Giêsu đem ba môn đệ yêu quý lên đây, không gian phải rất im vắng. Chỉ có gió vi vu và mây nắng với rừng cây thắm một màu xanh hùng vĩ.

Núi tiêu biểu cho quyền năng và vinh quang của Thiên Chúa. Núi là nơi mặc khải những điều trọng đại như khi xưa Thiên Chúa hiển linh trên núi Sinai với Môsê, núi Khoreb với Êlia, núi Tabor với ba môn đệ. Từ đỉnh núi, nhìn về hướng nam là làng Naim, một thành cổ hiện tại người Ảrập sinh sống, nơi đây Chúa cho con trai bà goá sống lại. Nazareth, một thị trấn sầm uất về hướng tây và Biển hồ Galilê mênh mang phía đông. Tabor, ngọn núi thiêng tạo thành một tam giác đều. Cả ba nơi đều gắn liền với cuộc đời Chúa Giêsu: lớn lên, truyền đạo và hiển dung. Bên ngoài, phía trái Nhà thờ vẫn còn dấu vết tường đá tu viện các cha dòng Bênêđictô một thời Trung cổ huy hoàng.

Theo sử gia Josephus thì nhóm Nhiệt Thành (Zelot) đã chiến đấu với quân Roma tại đây vào năm 66tcn. Năm 1634 các thầy Phanxicô mới dành lại được ngọn núi này từ tay quân Thổ. Nhưng mãi gần 300 năm sau mới xây được Nhà thờ.

Nhà Thờ Hiển Dung xây dựng từ năm 1925 do các cha dòng Phanxicô phụ trách. Mặt tiền nhà thờ lối kiến trúc nổi bật với hai ngọn tháp vuông cao vút. Bên trong hai ngọn tháp này là hai nguyện đường nhỏ kính tổ phụ Môisen và Êlia. Một bức tranh tuyệt đẹp theo nghệ thuật mosaic phía trên bàn thờ vòm cung thánh. Chúa biến hình trong hào quang rực sáng. Hai bên có Môisen trên núi Sinai và Êlia trên núi Carmel. Phía dưới là ba môn đệ Phêrô, Gioan và Giacôbê.

2. Biến hình

Tường thuật biến cố biến hình, cả ba Phúc âm đều nhấn mạnh đến thái độ hoảng sợ của các môn đệ. “Thực ra, ông không biết phải nói gì, vì các ông hoảng sợ” (Mc 9,6); “Khi thấy mình vào trong đám mây, các ông hoảng sợ” (Lc 9,34); “Nghe vậy, các môn đệ kinh hoàng ngã sấp mặt xuống đất” (Mt 17,6). Và khi Phêrô “ngã sấp mặt xuống đất” thì Chúa đến chạm vào ông và bảo: “Chỗi dậy đi, đừng sợ”.

Các môn đệ không thể hiểu được hành trình của Đấng Cứu Thế sao lắm gian nan; kẻ theo Ngài làm sao không ngại ngùng sợ hãi cho được! (x. Mt 17,13-14; Mc 8,34; Mt 8,18; Mc 13,9; Lc 9,26).

Nếu người ta làm an toàn những viên thuốc đắng bằng vỏ bọc kẹo ngọt; Chúa Giêsu hoá giải tin cuộc khổ nạn bằng cuộc Biến Hình rực rỡ. Bọc kẹo chứ không bọc thuốc ngũ. Hoá giải chứ không gây mê. Chúa cho các môn đệ thấy trước một thoáng Phục Sinh trước Phục Sinh. Chúa cho cảm nếm một chút Thiên đàng. Các ông đã tưởng là Thiên Đàng nên Phêrô xin làm ba lều để an nhàn trên núi cao, ngũ yên trong hào quang, quên đi các bạn và các cuộc truyền giáo dưới chân núi. Các ông không biết rằng Thầy Giêsu chỉ lên đỉnh Tabor trong chốt lát rồi xuống núi chuẩn bị vác thập giá bước vào cuộc thương khó. Hai đỉnh núi Tabor và Calvariô không xa nhau lắm về mặt địa lý, nhưng lại là con đường vạn lý. Chúa Giêsu đã nối kết hai đỉnh núi bằng con đường tình yêu cứu độ.

Biến cố Chúa biến hình trên núi Tabor là một trong những biến cố đặc biệt. Nó trở nên như một ngôi sao sáng cho các môn đệ trong đêm tối của những gian nan thử thách. Biến cố ấy vẫn luôn ghi đậm trong ký ức của các môn đệ. Nó là một điểm tựa, là một trợ lực cho đức tin của các ngài trong suốt tiến trình theo Chúa Giêsu.

Câu chuyện Chúa Biến hình trên núi Tabor được đặt làm sườn cho cả văn kiện “Tông Huấn Vita Consecrata” (đời sống thánh hiến). Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II ban hành ngày 25.3.1996, đúc kết những thành quả của Thượng Hội Đồng Giám Mục tháng 10.1994. Tông Huấn trình bày vẻ đẹp của đời tu. Con đường tu đức được ví như một cuộc đi tìm cái đẹp (số 19),hướng tới sự chiêm ngưỡng nhan Chúa, chân phúc dành cho các tâm hồn trong trắng. Các Tu sĩ đã bị thu hút bởi vẻ đẹp của Chúa; họ mê say chiêm ngưỡng Chúa, để rồi phản chiếu khuôn mặt rạng rỡ của Ngài (số 27); sau khi lên núi chiêm ngắm Chúa Biến Hình, các môn đệ được mời hãy đi xuống núi để phục vụ (số 75); họ còn phải trèo lên một núi khác đó là núi Calvariô (số 14;40). Nhiều năm huấn luyện trong nhà dòng, người thanh niên nam nữ nhiều khi phải “sinh” ra bốn năm lần mới biến hình nên một Tu sĩ: từ ứng sinh, thỉnh sinh, tiền tập sinh, tập sinh, khấn sinh, nhiều năm sau mới khấn trọn đời và vẫn tiếp tục hành trình biến đổi đời mình nhờ gặp gỡ Chúa Kitô.

3. Nghe Lời Người

Người sống đời tận hiến cũng như người tín hữu, muốn được “biến hình” trong đời sống cũng như muốn được trở nên “con yêu dấu” của Thiên Chúa cần phải “vâng nghe lời Người”. Không chỉ nghe bằng tai bằng mắt mà còn nghe bằng hết tâm hồn cũng như bằng cả cuộc đời quy chiếu sống theo Đức Kitô.

Cả ba Phúc âm đều tường trình tiếng nói từ trời cao. Lời Chúa Cha như giới thiệu, chuẩn nhận Chúa Con và là lệnh truyền cho chúng ta. “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người” (Mt 17,5); “ Đây là Con yêu dấu của Ta. Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người” (Mc 9,6); “Đây là Con Ta, Người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người” (Lc 9,35).

Các ngươi hãy vâng nghe lời Người”. Đó là lệnh truyền của Chúa Cha, là điệp khúc kết luận của tiếng nói từ trời cao. Điệp khúc quan trọng vì cả ba Phúc âm đều nói đến. Lời của Chúa Kitô chính là chuẩn mực, là lề luật tuyệt đối mang lại ơn cứu độ cho nhân loại. Lời của Chúa Kitô là Lời Giao Ước vĩnh cửu cho con người được tham dự vào sự sống thần linh của Thiên Chúa Ba Ngôi.

Các ngươi hãy vâng nghe lời Người”, một phán quyết long trọng và công khai của Chúa Cha. Từ nay, vâng nghe Lời Chúa Kitô, chúng ta sẽ được biến hình với Chúa Kitô, cùng được hưởng vinh quang Phục sinh với Chúa Kitô.

Chẳng ai gặp Thiên Chúa thực sự mà lại không biến hình. Ðời sống kết hiệp thực sự với Thiên Chúa làm cho người Kitô hữu tỏa sáng rực rỡ. Biến hình không phải là trở thành cái gì khác mình, như Tôn Ngộ Không với các trò biến hoá. Biến hình là trở lại với cái tôi sâu thẳm của mình, tôi là con yêu dấu của Thiên Chúa. Từ khi chịu phép Thánh Tẩy, chúng ta đã bước vào một cuộc biến hình, từ từ và liên tục

Một nhà giáo dục nổi tiếng người Pháp đã tâm sự về cuộc đời của ông: Khi còn trẻ, tôi có tinh thần cách mạng và mỗi khi cầu nguyện, tôi luôn cầu xin Chúa một điều là: Lạy Chúa, xin ban cho con nghị lực để biến đổi thế giới này. Khi đã lớn tuổi và nhận thấy gần quá nửa đời người trôi qua mà tôi không thay đổi được một người nào hết, nên tôi đã thay đổi lời cầu nguyện của tôi như sau: Lạy Chúa, xin ban cho con nghị lực để biến đổi những người trong gia đình của con. Giờ đây tôi đã già nua và những ngày còn lại chỉ đếm được trên đầu ngón tay, nên lời cầu nguyện của tôi lại được thay đổi một lần nữa như sau: Lạy Chúa, xin ban cho con nghị lực để biến đổi chính mình con. Và ông kết luận: Nếu tôi biết cầu nguyện như thế này từ ngày còn trẻ thì tôi đã không uổng phí cả cuộc đời.

Mùa Chay Thánh là mùa chiến đấu thiêng liêng, giúp mỗi người sống sống chay tịnh và hy sinh, cầu nguyện và tập nhân đức, chế ngự và làm chủ bản thân. Đây là thời gian thánh giúp từng người sám hối canh tân bản thân dưới ánh sáng Lời Chúa và thực hành ăn chay cầu nguyện theo lời dạy của Chúa Giêsu.

Lạy Chúa, Chúa đã dạy chúng con phải vâng nghe Con yêu dấu của Chúa; xin lấy lời hằng sống nuôi dưỡng đức tin của chúng con, nhờ vậy cặp mắt tâm hồn chúng con sẽ trong sáng để nhìn thấy vinh quang Chúa tỏ hiện trong cuộc đời chúng con. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con. Amen. (Lời nguyện Nhập lễ, Chúa Nhật II Mùa Chay).

Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

Xin Ơn Sống Mùa Chay

Xin Ơn Sống Mùa Chay

Mùa Phụng Vụ lại dẫn chúng ta đến một tâm tình khác, mùa có chút bi thương buồn bã hơn, nhưng lại là mùa chuẩn bị cho chúng ta đón nhận một món quà thật to lớn từ Thiên Chúa. Ngôi Hai Thiên Chúa đã xuống thế làm người. Việc Người trở nên đồng hóa với con người đã là một dấu chỉ vô cùng to lớn cho tình yêu mà Thiên Chúa dành cho nhân loại. Thế nhưng, ngay từ khi Người giáng thế, đã có biết bao dấu chỉ xảy đến gợi nhắc chúng ta về một sự hy sinh khác cao cả và vô cùng ý nghĩa mà Người sẽ tiếp tục thực hiện vì ơn cứu độ cho toàn thể con người. Từ Đông Phương xa xôi, các đạo sỹ lần theo ánh sao đêm để triều yết Hài Nhi. Trong số những món quà họ mang theo để biếu Người, có nhũ hương và mộc dược, thứ dùng để ướp xác người chết. Khi Người chịu phép cắt bì, ông Simêon đã nói về một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn Maria. Biến cố lạc mất Giêsu trong Đền Thờ năm 12 tuổi cũng nói về một cuộc chia ly nào đấy sẽ đến về sau. Khi khởi sự sứ mạng công khai, Gioan Tẩy Giả đã giới thiệu Giêsu như là “con chiên của Thiên Chúa”, một con vật bị đem đi sát tế để đền tội cho muôn người. Đỉnh cao của công cuộc cứu thể được thực hiện nơi Đức Giêsu là cái chết của Người. Nhưng đấy không phải là một cái chết bình thường. Ngoài những hàm oan và đau đớn, vốn là cái bề ngoài mà ta có thể thấy được nơi sự hy sinh của Đức Giêsu trên thập giá, cuộc Tử Nạn của Đấng Cứu Thế còn mang một ý nghĩa thiêng liêng cao vời, mà trong mùa chay này, chúng ta được mời gọi để trầm mình chiêm ngắm.

Mùa chay là mùa chúng ta được mời gọi để suy nghĩ về tình yêu, một tình yêu đích thực, trong suốt nhưng cũng có phần lạ kỳ nhất trong lịch sử nhân loại: tình yêu của Thiên Chúa dành cho từng người tội nhân chúng ta. Vì yêu thương chúng ta, vinh quanh lẫy lừng của một Thiên Chúa, Giêsu cũng chẳng màng chi đến. Ngài chấp nhận bị nộp vào tay người đời, bị xem là đồ bị nguyền rủa và xấu xa. Ngài đến để thi ân giáng phúc cho người ta, nhưng chính Ngài lại bị chính những người mình yêu bội phản và giết chết mình. Ấy vậy mà Ngài không hề buông ra một lời phản kháng, trái lại, còn an ủi, còn nói lời thứ tha. Khi yêu, người ta chẳng màng chi đến mình nữa. Tất cả những gì người ta làm chỉ nhắm đến hạnh phúc và tương lai tươi sáng của người mình yêu. Giêsu đã yêu mà không hề chiếm giữ, yêu mà vẫn tôn trọng tự do, Ngài chỉ mong chờ, chứ không bắt buộc người mình yêu phải yêu mình như thế. Chúng ta có cảm nghiệm được tình yêu này của Giêsu trong cuộc đời mình không?

Mùa chay cũng là mùa chúng ta được mời gọi để suy nghĩ về vinh quang thập giá của người môn đệ Chúa. Nếu như người đời vẫn quan niệm vinh quang là có thật nhiều của cải và quyền lực, được người khác tâng bốc và tung hô, có thể sai khiến được nhiều người, thì vinh quang của chúng ta – những người môn đệ Chúa là lấy phục vụ làm đầu, là dành phần hơn cho người khác, lãnh phần thiệt hại về phía mình. Vinh quang của thập giá không phải cố chiếm vị trí trọng tâm để người khác hướng về mình với sự ngưỡng mộ và ca khen, nhưng là âm thầm rút về đằng sau, hy sinh mà không đòi đền đáp, cho đi mà chẳng mong đáp đền. Vinh quang của thập giá hệ ở tình yêu và lấy sự tha thứ làm phương dược xoa dịu đi tất cả những oán hờn căm phẫn, những ác độc mưu toan. Ai trong chúng ta cũng mong muốn mình làm lớn, chẳng ai thích cúi mình, thích phục vụ. Người nào có thể quên đi lợi ích của mình vì người khác, ấy mới thật sự là một con người dũng mãnh và phi thường. Sẽ dễ hơn cho chúng ta để sống một cuộc đời hưởng thụ. Nhưng nếu chúng ta dám sống hai chữ “hy sinh”, ta mới thật sự là người đáng hưởng phúc lộc “vinh quang”. Chúng ta đang tìm kiếm vinh quang của Thiên Chúa hay vinh quang của người đời? Có bao giờ ta xác tín rằng “vinh quang của ta là thập giá Đức Kitô” chưa?

Thời gian mùa chay cũng mời gọi chúng ta hãy nhớ đến thân phận tro bụi của mình, nhớ đến cái kết cục thảm khốc mà ai cũng phải tiến đến là cái chết, nhớ đến những ảo tưởng và phù hoa mà tiền tài và danh vọng ở thế gian này bày vẽ trước mặt ta. Hãy suy nghĩ về cái chóng qua của một kiếp con người? Cũng tựa như những cánh hoa tươi trong vườn. Một thời hoa cũng thơm hương, gọi mời ong bướm muôn phương, nhưng rồi cũng có ngày hoa trở nên xơ xác. Cao sang mấy, danh vọng mấy, rồi có ngày chúng cũng sẽ trôi tuột khỏi bàn tay ta. Ta được mời gọi để hướng đến một điều gì đó bền vững hơn, chắc chắn hơn, một tài sản cao quý hơn trên Nước Thiên Đàng sau khi chết. Ta hãy tìm cách tích trữ của cải ấy qua đời sống cầu nguyện, qua những việc hy sinh và qua những việc bác ái.

Chúng ta hãy cầu xin Chúa ban ơn cho chúng ta, giúp chúng ta có được một sự chuẩn bị thật chu đáo trong mùa chay thánh này, để có thể đón chờ hồng ân cứu độ của Thiên Chúa.

Pr. Lê Hoàng Nam, SJ

NHỮNG CƠN CÁM DỖ

NHỮNG CƠN CÁM DỖ

Có nhiều người thắc mắc: Ăn chay là gì? Phải chăng là để dằn vặt thân xác, hành khổ con người cho Chúa vui lòng? Hỏi như vậy là chưa hiểu đạo, chưa hiểu hết ý nghĩa của việc ăn chay. Chúa đâu phải quá độc ác, bệnh hoạn, vui lòng khi thấy con người chịu khốn khổ. Ăn chay một phần để hy sinh đền tội, nhưng mục đích chính của việc ăn chay là để thao luyện tâm hồn chống lại quỷ dữ.

Ngày nay người ta quên sự có mặt của ma quỷ. Nhưng ma quỷ vẫn có đó và và vẫn tích cực hoạt động nhằm phá huỷ thế giới, tiêu diệt con người. Ma quỷ rất tinh ma xảo quyệt nên người ta khó nhận ra âm mưu, dấu vết của chúng.

Nhìn vào ba cuộc ma quỷ cám dỗ Đức Giêsu, ta thấy ma quỷ rất tinh khôn. Nó có kế hoạch, có chiến thuật, tấn công nhiều đợt, nhiều bước.

Thoạt tiên ma quỷ tấn công vào những bản năng sơ đẳng nhất nơi con người: bản năng sinh tồn, bản năng thống trị, bản năng đối nghịch. Những bản năng ấy gắn liền với những nhu cầu căn bản, chính đáng của con người.

Kéo chú ý của người ta vào những nhu cầu rồi, ma quỷ tiến bước thứ hai, đó là phóng đại những nhu cầu đó lên, làm cho người ta lầm tưởng rằng, đó là những nhu cầu cấp bách, phải thoả mãn ngay tức khắc.

Khi ta đã hoàn toàn mê mẩn vì cái bẫy nhu cầu, ma quỷ mới đẩy ta đến bước thứ ba, đó là tìm thoả mãn những nhu cầu theo ý riêng mình. Cách giải quyết đó ngược lại với ý muốn của Thiên Chúa. Mục đích sau cùng của ma quỷ là xúi giục ta phản loạn, không sống tâm tình người con hiếu thảo với Chúa, chống lại Chúa và sau cùng lìa xa Thiên Chúa.

Ông bà nguyên tổ đã rơi vào bẫy của ma quỷ nên đã không sống tâm tình của người con hiếu thảo, muốn lìa bỏ cha mình, muốn ngang bằng cha mình, muốn chống lại cha mình.

Chúa Giêsu, trái lại, đã sáng suốt vạch trần âm mưu của ma quỷ và kiên quyết sống tâm tình của người con hiếu thảo.

Khi ma quỷ phóng đại nhu cầu, muốn cho Chúa Giêsu tưởng rằng con người chỉ là vật chất, chỉ sống nhờ bánh vật chất, vật chất là tất cả đời sống. Chúa Giêsu đã sáng suốt chỉ cho ta thấy vật chất không phải là tất cả, bánh vật chất của trần gian là cần, nhưng bánh tinh thần của trời cao còn cần hơn.

Khi ma quỷ thúc giục Chúa Giêsu hãy thoả mãn tức khắc nhu cầu cảu mình, Chúa Giêsu đã biết kiên nhẫn chờ đợi. Khi ma quỷ khích Chúa Giêsu dùng quyền năng riêng của mình để thoả mãn nhu cầu, Chúa Giêsu đã từ chối. Người muốn vâng phục Đức Chúa Cha, tin tưởng phó thác vận mệnh trong tay Chúa Cha, để mặc Chúa cha quyết định.

Tuy đã thắng trong cuộc đọ sức đầu tiên, Chúa Giêsu vẫn tiếp tục bị ma quỷ cám dỗ trong suốt cuộc đời. Cơn dỗ khi đến từ những người tin theo Chúa, muốn tôn Chúa làm vua để được ăn no nê bánh vật chất, khi thì đến từ những người chống đối đòi xin phép lạ từ trời xuống. Có lúc ma quỷ mượng chính những người thân tín như Phêrô để ngăn cản Chúa Giêsu thực hành ý Chúa Cha. Có lúc ma quỷ dùng cái chết ghê sợ để uy hiếp tinh thần, mong Chúa Giêsu lùi bước để tìm ý riêng mình. Chúa Giêsu đã chiến thắng mọi cơn cám dỗ vì Người luôn tìm thánh ý Chúa Cha. Dù khi phải chiến đấu trong mồ hôi pha máu, Người vẫn nói: “Lạy Cha, xin đừng theo ý Con, xin vâng theo ý Cha mà thôi”.

Ma quỷ vẫn đang tiếp tục tạo nên những cơn cám dỗ. Và nhiều khi chúng ta đã mắc bẫy ma quỷ. Ta mắc bẫy ma quỷ khi mải mê đuổi theo những nhu cầu tiêu thụ quá đáng. Ta rơi vào âm mưu ma quỷ khi ta muốn có tất cả và có tức khắc. Ta hoàn toàn nằm trong vòng tay ma quỷ khi ta dùng mọi phương tiện để thoả mãn những nhu cầu, bất chấp ý Thiên Chúa.

Thay vì tuân phục ý Chúa, tôi luôn luôn bắt Chúa làm theo ý tôi. Thay vì vâng lời Chúa, tôi luôn luôn muốn sai bảo Chúa.

Mùa Chay này, Chúa kêu gọi tôi trở về với Chúa. Muốn trở về với Chúa, tôi phải chiến đấu chống lại ma quỷ. Muốn đủ sức chống lại ma quỷ, tôi phải luyện tập bỏ ý riêng mình và tìm vâng phục ý Chúa.

Hãy đặt ra cho mình một chương sống Mùa Chay bằng tăng cường hy sinh, cầu nguyện, ăn chay và làm việc bác ái.

Thiên Chúa Cha, Đấn giàu lòng thương xót đang chờ đón tôi trở về, và sẽ ban sức mạnh để tôi đủ sức chống lại mọi chước cám dỗ, nếu tôi biết sống trọn tình con thảo, tin cậy phó thác vào Người.

Lạy Thiên Chúa là Cha của con, xin đón nhận tâm hồn khiêm nhường sám hối của con.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1) Theo bạn, ngày nay ma quỷ còn hoạt động trong thế giới không? Nếu có, bạn cho một ví dụ.
2) Bạn thường thua hay thắng cuộc khi gặp phải cám dỗ. Thua, tại sao? Thắng, nhờ đâu?
3) Đâu là âm mưu của ma quỷ che dấu đàng sau những cơn cám dỗ?

ĐTGM Giuse Ngô Quang Kiệt

Cám dỗ

Cám dỗ

Chúng ta bắt đầu bước vào Mùa Chay Thánh, câu truyện của sách Sáng Thế Ký dẫn chúng ta trở lại sự khởi nguyên của dòng dõi loài người. Thiên Chúa sáng tạo con người từ bùn đất và thổi sinh khí ban cho con người có sự sống. Thiên Chúa đặt sẵn một mảnh vườn tuyệt đẹp để con người được vui hưởng hạnh phúc. Ngay từ giây phút đầu tiên, Thiên Chúa đã nhắc nhở hai ông bà tổ tiên Ađam và Evà về sự chọn lựa giữa sự sống và sự chết. Con rắn, biểu hiện của ma quỷ, đã cám dỗ lòng thèm khát của ông Ađam và bà Evà muốn trở nên giống Chúa qua sự hiểu biết về sự lành và sự dữ. Ma quỷ mon men dụ dỗ người đàn bà trước, Người nữ nói với con rắn: “Chúng tôi được ăn trái cây trong vườn; nhưng trái cây ở giữa vườn thì Thiên Chúa bảo: ‘Các ngươi đừng ăn, đừng động tới nó, nếu không sẽ phải chết.” (St 3,2-3). Bà Evà đã sa ngã nghe theo lời cám dỗ và cùng kéo lôi Ađam vào bẫy của ma quỷ. Ông bà đã chọn lựa sự bất tuân lệnh của Chúa và trong phút chốc sự ngây thơ vô tội đã biến mất.

Cám dỗ là sự ước muốn một hành động mà chúng ta có thể hưởng lạc ngay trong khoảnh khắc nhưng sau đó lại hối hận. Cám dỗ là hướng chiều về tội. Cám dỗ cũng là dịp hay cơ hội dẫn đến những ước muốn tò mò thực hiện những hành động xấu. Những đòi hỏi ước muốn của bản năng len lỏi vào mọi khía cạnh của cuộc sống. Chúng ta không thể nào thoả mãn tất cả mọi khao khát của lòng ham muốn hay dục vọng. Lòng ước muốn có thể là điều tốt hoặc xấu và điều phải hoặc trái. Chúng ta có quyền chọn lựa thái độ sống tốt. Dịp tội đưa dẫn chúng ta thoả mãn sự tò mò của tâm trí và đáp ứng những khao khát của ngũ quan thèm muốn. Vì nhùng nhằng với cơn cám dỗ, bà Evà bị rơi vào bẫy xập của ma quỷ. Người nữ thấy trái cây đẹp mắt, ngon lành và thèm ăn để nên thông minh. Bà hái trái cây ăn, rồi lại cho chồng, người chồng cũng ăn (x. St 3,6). Hậu quả của sự tò mò tìm kiếm những kinh nghiệm sống thực là: “Mắt họ liền mở ra và họ nhận biết mình trần truồng, nên kết lá vả che thân.” (St 3,7). Bài học kinh nghiệm sống đời giống như thế đã gây nên biết bao nhiêu thất bại nơi nhiều người. Thôi lỡ rồi!

Trong Kinh Lạy Cha, Chúa dạy chúng ta cầu xin: “Xin chớ để chúng con xa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ.” Chúng ta khó có thể tránh khỏi các cơn cám dỗ, vì nó xảy đến bất ngờ mọi nơi và mọi lúc dưới nhiều hình thức. Điều quan trọng là chúng ta phải biết tỉnh thức phấn đấu và thắng vượt. Thường thì các cơn cám dỗ đến rất nhẹ nhàng và xem ra hợp tình hợp lý. Nó đáp ứng đúng những nhu cầu đòi hỏi của lòng ao muốn thoả mãn thân xác và tâm linh. Muốn thắng các cơn cám dỗ, chúng ta cần tỉnh thức cầu nguyện và ăn chay hãm mình. Đôi khi chúng ta còn phải trốn chạy, người ta nói “đào vi thượng sách” là thế! Chúng ta phải biết lượng sức mình, nếu chúng ta coi thường mà cứ quanh quẩn trong thách đố, ma quỷ sẽ không buông tha cho chúng ta. Chúng ta thường đối diện với những cám dỗ về danh vọng, ham muốn quyền lực, đức công bằng, sự tham lam của cải vật chất, sự ghen tương, thù ghét và lòng ước muốn dâm dục.

Ma quỷ đã cám dỗ Chúa Giêsu về những ước muốn thoả mãn của ăn vật chất, quyền lực và danh vọng. Chúa Giêsu đã dứt khoát chống trả các chước cám dỗ một cách mau lẹ bằng cách dựa vào lời Kinh Thánh: “Nhưng Chúa Giêsu đáp lại: ‘Có lời chép rằng: ‘Người ta sống không nguyên bởi bánh, nhưng bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra.’” (Mt 4,4). Lời Chúa là lẽ sống và là khí giới vạn năng giúp chúng ta chiến đấu thắng vượt những cạm bẫy của ma quỷ. Với sức riêng, chúng ta khó vượt qua các mưu mô của quỷ dữ. Chúng ta cần phải cậy nhờ vào ơn Chúa và luôn tỉnh thức. Hằng ngày chúng ta đối diện với rất nhiều cơn cám dỗ. Trong khi lựa chọn thái độ sống là khi chúng ta chạm trán với sự cám dỗ giữa lành và dữ, tốt và xấu. Bảy mối tội đầu là bảy loại cám dỗ hay xuất hiện: tội kiêu ngạo, hà tiện, dâm dục, hờn giận, mê ăn uống, ghen ghét và lười biếng phụng thờ Thiên Chúa.

Tập trung hướng nhìn về Chúa và chỉ tôn thờ một mình Ngài. Chúa Giêsu thắng vượt các cơn cám dỗ dễ dàng bởi sự tỉnh thức và ăn chay nguyện cầu. Chúa đã dùng lời Kinh Thánh để đối đáp với những lạm dụng của ma quỷ: “Bấy giờ Chúa Giêsu bảo nó rằng: Hãy lui đi, hỡi Satan! Vì có lời đã chép: ‘Ngươi phải thờ lạy Chúa là Thiên Chúa ngươi, và chỉ phụng sự một mình Ngài.’” (Mt 4,10). Ma quỷ cũng thấu đạt lời Kinh Thánh, cũng khéo léo áp dụng, tuy nhiên không đúng nơi đúng chỗ và không có ý hướng ngay lành. Ma quỉ đã thất bại và bỏ cuộc. Lời Chúa là vũ khí rất lợi hại giúp chúng ta vượt thắng những mời mọc và khiêu khích của ma quỷ. Trong Mùa Chay Thánh này, chúng ta hãy cố gắng đọc, học hỏi, suy niệm và tin vào Lời Chúa. Nghi thức xức tro mời gọi: Hãy sám hối và tin vào Phúc Âm.

Lòng con người hay hướng chiều về điều dữ là do bởi bản tính mỏng giòn, ô nhiễm bởi tội nguyên tổ. Thánh Phaolô Tông đồ trong thở gửi giáo đoàn Rôma đã viết: “Anh em thân mến, cũng như do một người mà tội lỗi đã nhập vào thế gian, và do tội lỗi mà có sự chết, và thế là sự chết đã truyền tới mọi người, vì lẽ rằng mọi người đã phạm tội.” (Rm 5,12). Nếu ai nói rằng mình không bao giờ phạm tội, đó là người nói dối và lừa đảo chính mình. Đôi khi chúng ta chỉ xét mình một cách hời hợt bên ngoài và chỉ xưng thú một vài lỗi lầm quen thuộc. Thí dụ: Một năm chúng ta có cơ hội xưng tội vào Mùa Chay, khi vào toà cáo giải, có người xưng: Thưa cha, trong năm qua con có bỏ lễ Chúa Nhật 2 lần, xin hết. Có lẽ chúng ta chưa xét mình cho đủ. Không dám nhìn vào đời sống nội tâm và không biết cách xét mình. Chúng ta có thể xét mình bằng cách dựa vào 10 giới răn của Chúa và 6 điều răn của Hội Thánh. Chúng ta có thể xét mình về những tội trong tư tưởng, lời nói, việc làm và những điều thiếu sót. Chúng ta có thể xét mình về bổn phận đối với Chúa, với tha nhân và với chính mình. Càng xét mình kỹ, càng xưng thú rõ ràng và thật lòng ăn năn chừa cải, chúng ta mới có cơ hội thăng tiến trên đường nhân đức.

Truyện minh hoạ: Có một thiếu phụ đem quần áo ra giếng chung để giặt nhưng vì sợ người ta thấy quần áo mình quá dơ bẩn, nên vội vàng giặt sơ sơ rồi gấp mang về phơi. Vì thế, quần áo không có cái nào sạch cả. Ngày nay, nhiều người cũng làm như thế trước mặt Chúa và trong toà cáo giải với linh mục. Vì sợ linh mục nghe biết tội mình quá ô uế, nên họ không dám xưng từng tội một và chỉ trình bày cách tổng quát. Họ giấu những tội trọng hay cố tình nói cho nhẹ bớt, nên linh hồn họ dơ vẫn hoàn dơ.

Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa đã xuống trần hy sinh chịu chết trên thập giá để cứu độ. Chúa có uy quyền để tha thứ mọi tội lỗi của chúng ta đã phạm. Vì như bởi tội không vâng lời của một người mà muôn người trở thành những tội nhân thế nào, thì do đức vâng lời của một người mà muôn người trở thành kẻ công chính cũng như thế (x. Rm 5,19). Chúa đến để cứu độ chứ không phải để luận phạt chúng sinh. Khi đi rao giảng Tin Mừng Nước Trời, Chúa Giêsu đã tha tội cho nhiều người: Chúa tha tội cho người đàn bà tội lỗi khi xức dầu chân Chúa, tha tội cho phụ nữ Samaria tại giếng Giacob, tha tội cho người bất toại và tha tội cho kẻ trộm bị đóng đinh cùng… Chúa cũng đã trao quyền tháo cởi cho Thánh Phêrô, các tông đồ và những người kế vị. Chúng ta tin tưởng vào quyền năng tha thứ của Chúa.

Lạy Chúa, bước vào Mùa Chay Thánh là chúng con bắt đầu bước vào mùa tập luyện. Xin cho chúng con biết can đảm xét mình và nhận diện tình trạng tâm hồn yếu đuối và tội lỗi. Chúng con là kẻ tội lỗi cần đến lòng thương xót của Chúa. Xin Chúa xót thương và tha thứ tội lỗi chúng con.

LM Giuse Trần Việt Hùng

Mùa Chay là thời gian thuận tiện giúp trở về với tình yêu của Thiên Chúa và tha nhân

Mùa Chay là thời gian thuận tiện giúp trở về với tình yêu của Thiên Chúa và tha nhân

Mùa Chay là thời gian thuận tiện để thay đổi hướng đi, tái chiếm lại khả năng phản ứng trước thực tại sự dữ luôn thách thức chúng ta. Nó là thời gian hoán cải trở về với tình yêu của Thiên Chúa và tha nhân, canh tân cá nhân và cộng đoàn, sống thái độ sự nhưng không và lòng thương xót của Chúa.

Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói như trên với 60,000 tín hữu và du khách hành hương trong buổi tiếp kiến sáng thứ tư hàng tuần 5-3-2014 tại quảng trường thánh Phêrô. Trong bài huấn dụ Đức Thánh Cha đã nói về Mùa Chay. Ngài nói: Thứ Tư lễ Tro hôm nay bắt đầu lộ trình Mùa Chay kéo dài 40 ngày dẫn đưa chúng ta tới Tam Nhật Phục Sinh, tưởng niệm cuộc khổ nạn, cái chết và sự phục sinh của Chúa là trọng tâm mầu nhiệm cứu độ của chúng ta. Ngài định nghĩa Mùa Chay như sau:

Mùa Chay là thời gian ”mạnh mẽ”, một điểm ngoặt có thể tạo thuận lợi cho từng người trong chúng ta thay đổi, hoán cải: chúng ta tất cả đều cần trở nên tốt lành hơn, thay đổi hướng lên cao, thay đổi cho sự thiện, và Mùa Chay giúp chúng ta làm điều đó. Và như thế chúng ta ra khỏi các tập quán mệt mỏi và việc làm quen lười biếng với sự dữ quấy phá chúng ta. Trong Mùa Chay Giáo Hội hướng tới chúng ta hai lời mời gọi quan trọng: ý thức sống động hơn về công trình cứu chuộc của Chúa Kitô, và sống bí tích Rửa Tội với nhiều dấn thân hơn.

Ý thức về các điều kỳ diệu mà Chúa đã làm đối với ơn cứu rỗi của chúng ta chuẩn bị tâm trí chúng ta cho một thái độ biết ơn đối với Thiên Chúa, về tất cả những gì Người đã ban cho chúng ta, về tất cả những gì Người đã thành toàn cho dân Người và cho toàn thể nhân loại. Từ đây phát xuất ra sự hoán cải của chúng ta: nó là câu trả lời biết ơn đối với mầu nhiệm tuyệt vời của tình yêu của Thiên Chúa. Khi chúng ta trông thấy tình yêu mà Thiên Chúa có đối với chúng ta, chúng ta cảm thấy muốn tới gần Người và đó là sự hoán cải.

Sống tận cùng bí tích Rửa Tội đó là lời mời gọi thứ hai. Nó có nghĩa là không để cho mình quen với các hoàn cảnh tồi tệ và bần cùng, mà chúng ta gặp khi đi trên các con đường thành phố và đất nước của chúng ta. Đức Thánh Cha giải thích điểm này như sau:

Có nguy cơ chấp nhận một cách thụ động vài cung cách hành xử và không kinh ngạc trước các thực tại buồn thương vây quanh chúng ta. Chúng ta quen với bạo lực, như thể nó là một tin dĩ nhiên thường ngày; chúng ta quen với các anh chi em ngủ ngoài đường, không có một mái nhà để trú ẩn. Chúng ta quen với các người tị nạn đi tìm tự do và phẩm giá, không được đón tiếp như đáng lý ra họ phải được đón tiếp. Chúng ta quen sống trong một xã hội yêu sách không cần Thiên Chúa, trong đó cha mẹ không dậy dỗ con cái cầu nguyện, cũng không dậy con cái làm dấu Thánh Giá.

Tôi xin hỏi anh chị em: con cái anh chị em có biết làm dấu Thánh Giá không? Hãy nghĩ tới điều đó. Các cháu của anh chị em có biết làm dấu Thánh Giá không? Anh chị em có dậy chúng làm dấu Thánh Giá không? Hãy nghĩ và trả lời trong thâm tâm anh chị em. Chúng có biết đọc Kinh Lậy Cha không? Chúng có biết cầu nguyện Đức Mẹ với Kinh Kính Mừng không? Hãy nghĩ và hãy tự trả lời. Sự quen thuộc với các thái độ không kitô và tiện lợi ấy làm tê liệt con tim của chúng ta!

Mùa Chay tới với chúng ta như thời gian quan phòng giúp thay đổi hướng đi, giúp chiếm lại khả năng phản ứng trước thực tại sự dữ luôn luôn thách thức chúng ta. Mùa chay được sống như thời gian của sự hoán cải, của sự canh tân cá nhân và cộng đoàn. Qua việc tiến tới gần Thiên Chúa và tin tưởng gắn bó với Tin Mừng. Như thế nó cũng cho phép chúng ta nhìn với đôi mắt mới các anh chị em khác và các nhu cầu của họ.

Vì thế Mùa Chay là thời gian thuận tiện để trở về vời tình yêu đối với tha nhân, một tình yêu biết lấy làm của mình thái độ nhưng không và xót thương của Chúa, là Đấng đã tự làm cho mình trở nên nghèo nàn để khiến cho chúng ta được giầu có” (2Cr 8,9). Khi suy niệm các mầu nhiệm chính của đức tin, cuộc khổ nạn, thập giá và sự sống lại của Chúa Kitô, chúng ta nhận ra rằng ơn Cửu Chuộc vô bờ đã được ban cho chúng ta là do sáng kiến nhưng không của Thiên Chúa. Chúng ta cảm tạ Thiên Chúa vì mầu nhiệm tình yêu bị đóng đinh của Người; đức tin đích thật, hoản cải và rộng mở con tim cho người anh em là các yếu tố nòng cốt giúp sống Mùa Chay. Trên con đường này chúng ta muốn khẩn nài sự chở che và trợ giúp của Mẹ Maria với lòng tin tưởng đặc biệt. Ước chi Mẹ là người đầu tiên tin nơi Chúa Kitô, đồng hành với chúng ta trong các ngày cầu nguyện sâu xa và sám hối để được thanh tẩy và canh tân chúng ta tiến tới việc cử hành mầu nhiệm vĩ đại của lễ Vượt Qua của Con Mẹ.

Bên cạnh các đoàn hành hương Bắc Mỹ và Âu châu có các đoàn hành hương Indonesia, Mehicô, Argentina và Brasil. Đức Thánh Cha đã chào tín hữu và chúc mọi người Mùa Chay thánh thiện.

Trong số các đoàn Italia Đức Thánh Cha chào nhóm các nữ tu y tá của Hiệp hội các Bề Trên tổng quyền dòng nữ, các vị thanh tra các trường công giáo đang tham dự phiện họp đo Liên Hiệp các học viện giáo dục Italia tổ chức tại Roma, nhóm các thanh nữ Thế Hệ Ba của phong trào Tổ Ấm. Khi nghe họ la lớn Đức Thánh Cha nói: ”Các cô gái này ồn ào qúa nhỉ. Ai cũng nghe thấy rồi.” Ngài chúc mọi người trẻ sống đức tin tươi vui và làm chứng cho tình yêu của Chúa đối với mọi người.

Vì lễ Tro đã khai mạc con đường Mùa Chay Đức Thánh Cha đặc biệt mời gọi các bạn trẻ sống thời gian ơn thánh này với tinh thần sám hối đích thật, trở về với Thiên Chúa Cha, là Đấng luôn giang tay chờ đón mọi người. Ngài khích lệ các anh chị em đau yếu dâng các khổ đau của họ để cầu nguyện cho ơn trở về của những người sống xa Thiên Chúa. Ngài xin các cặp vợ chồng mới cưới can đảm và quảng đại xây dựng gia đình họ trên đá tảng vững bền của tình yêu Thiên Chúa.

Buổi tiếp kiến đã kết thúc với Kinh Lạy Cha và phép lành tòa thánh Đức Thánh Cha ban cho mọi người.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio
 

Thiên Chúa hay thần tài?

Thiên Chúa hay thần tài?

Trong bài Phúc Âm Mt 6, 24-34 mà chúng ta nghe đọc trong Chúa Nhật 8 Thường Niên năm A, và trong dịp Tết Nguyên Đán, Đức Giêsu dùng ba ví dụ rất nên thơ gợi cảm để chỉ cho chúng ta thấy một sự lo lắng thái quá về đời sống vật chất là vô lý nếu như chúng ta còn tin có Thiên Chúa là Cha chúng ta. Ví dụ thứ nhất: chim trời không gieo, không gặt nhưng chúng vẫn được Cha trên trời nuôi sống. Ví dụ thứ hai: cuộc đời của mỗi người chúng ta có một quảng thời gian nhất định sống ở trần gian này, – điều đó chúng ta không thay đổi được, dù có lo lắng cũng chẳng kéo dài đời mình thêm một vài gang tấc! Và cuối cùng: hoa huệ ngoài đồng không làm lụng, không kéo sợi, thế mà dù vua Sa-lo-mon vinh hoa tột bậc cũng không mặc đẹp bằng nó. Kết luận của ba ví dụ là: nếu như Thiên Chúa quan tâm nuôi sống chim trời và ban áo mặc cho hoa đồng cỏ nội, thì lẽ nào Chúa lại không lo lắng cho con người hơn gấp bội sao? Kết thúc bài giảng, Chúa Giêsu tuyên bố: “Vậy đừng quá lo lắng về ngày mai. Ngày mai cứ để ngày mai lo. Ngày nào có cái khổ của ngày đó”.

Chúng ta đồng ý rằng lời Chúa Giêsu dạy chúng ta hôm nay thật là hấp dẫn. Có gì đáng mong ước hơn là có Cha Trên Trời lo lắng cho ta? Tuy nhiên, càng suy nghĩ và đi sâu vào thực tế, chúng ta càng thấy mọi sự chẳng đơn giản chút nào.

Những lo lắng chính đáng

Con người thời đại ta cũng như mọi thời đại, đều có trăm ngàn nỗi lo, và những nỗi lo chính đáng. Đừng nói gì xa xôi, chỉ nguyên những nhu cầu tối thiểu của cuộc sống đã làm điên đầu nhiều bậc cha mẹ gia đình: lo sao cho có cái ăn, cái mặc, cho căn nhà ở khỏi giột nát khi tới mùa mưa, cho con cái được học hành, cho có thuốc thang khi bệnh tật, cho giá cả đừng tăng vọt, mùa màng không thất thoát… Những nỗi lo như thế phát xuất từ trách nhiệm của mỗi người, đều chính đáng và đẹp lòng Chúa.

Chúa Giêsu không muốn cho chúng ta lười biếng hoặc sống vô trách nhiệm. Chim trời cũng phải vất vả tìm mồi. Có những thứ chim phải bay thật xa mới tới chỗ có thức ăn. Hoa huệ ngoài đồng cũng có khi phải đâm rễ len lỏi giữa sỏi đá để tìm chất nuôi sống. Đàng khác chính Chúa cũng nói rằng: “Ngày nào có cái khó, cái khổ của ngày đó”. Vậy khó nhọc, gian khổ là điều có thực, gắn vào thân phận con người.

Không những Chúa không muốn ta sống lười biếng, vô lo, vô trách nhiệm, mà còn muốn ta phải làm việc để cùng với Người hoàn hiện thế giới này và góp phần vào công cuộc cứu độ thế giới. Ngay lúc vừa mới dựng nên loài người, Thiên Chúa đã ra lệnh cho họ phải canh tác trái đất và làm chủ vạn vật. Trong dụ ngôn về những nén bạc (x. Mt 25, 15-25), Chúa Giêsu đã hỏi mỗi người đã dùng tài năng Chúa ban mà làm lợi cho Người được bao nhiêu, chứ không phải đã chôn giấu nó an toàn như thế nào. Thế thì ta có quyền và có bổn phận phải lo lắng, tính toán, phải có kế hoạch, phải phòng xa. Điều Chúa không chấp nhận là chúng ta lo lắng về đời sống vật chất như thể đó đã là cùng đích của đời sống, là tuyệt đối cho đời mình.

Thiên Chúa hay Thần Tài?

Câu then chốt nhất của bài Phúc Âm hôm nay là: “Tiên vàn hãy lo tìm kiếm Nước Chúa và đời sống công chính như Nguời đòi hỏi, còn các thứ kia (nghĩa là của cải vật chất), Người sẽ thêm cho.” Tiên vàn hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa: đây mới là vấn đề ưu tiên.

Nỗi lo số một của người môn đệ Chúa Giêsu là nước Thiên Chúa. Mọi sự khác cũng cần thiết. Nhưng không được đặt lên trên Nước Thiên Chúa. Phải dành ưu tiên cho Nước Thiên Chúa, rồi mới đến các thứ khác. Đó là trật tự phải tôn trọng. Nhưng đây không phải là vấn đề thời gian sau trước nhưng là vấn đề giá trị mà khi cần phải chọn lựa, ta phải biết đâu là thiết yếu đâu là thứ yếu.

Lời dạy của Chúa Giêsu là hệ trọng. Và nó cũng phù hợp với kinh nghiệm sống của chúng ta. Người ta thường lấy của cải vật chất làm ưu tiên số một và cho rằng của cải giàu sang sẽ giải quyết được mọi vấn đề của xã hội và của con người. Nhưng thực tế luôn luôn chứng minh rằng suy nghĩ và hành động như thế là sai lầm. Xã hội tư bản lấy sự sản xuất của cải hàng hoá dư dật và sự hưởng thụ tự do làm mục tiêu, và bắt mọi sự khác phải phục vụ cho mục tiêu ấy, nên đã rơi vào khủng hoảng về tinh thần, về lý tưởng sống. Và vì mục tiêu ấy, người ta khai thác các tài nguyên thiên nhiên một cách vô độ và ngày nay thiên nhiên quay lại “trả thù” con người, đe dọa cuộc sống trên trái đất. Ở các nước xã hội chủ nghĩa trước đây, theo lý thuyết người ta coi kinh tế là yếu tố quyết định mọi sự khác, và tuy vẫn nói kinh tế phải phục vụ con người, nhưng trên thực tế con người và các giá trị đạo đức bị chà đạp trầm trọng… Sau khi hàng loạt nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu sụp đổ, những nước khác đã quay sang kinh tế thị trường và cũng đang phát triển theo hướng phương Tây, liệu có tránh nổi những tiêu cực gắn liền vào tư bản chủ nghĩa không? Của cải vật chất là ông chủ không dễ gì khuất phục nổi. Tinh thần thường tỏ ra yếu đuối và không hấp dẫn bằng của cải giàu sang. Ở Việt Nam xã hội chủ nghĩa “thời mở cửa”, điều đó cũng đang được chứng minh.

Của cải là cần thiết. Nhưng của cải tự nó không mang lại hạnh phúc cho con người. Nó phải là một phương tiện, một người tôi tớ. Nhưng khốn thay, tên đầy tớ này rất có uy quyền, rất dễ trở thành ông chủ của con người, để con người phục dịch nó với bất cứ giá nào.

“Tiên vàn hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đời sống công chính như Người đòi hỏi”: Sống theo ưu tiên đó, có nghĩa là chúng ta vẫn phải làm việc, phải vất vả, phải lo lắng và biết tiên liệu, nhưng chúng ta sẽ không nô lệ vật chất, sẽ không bán rẻ lương tâm vì đồng tiền bát gạo, sẽ coi trọng con người hơn của cải và đặt các giá trị luân lý đạo đức lên trên các giá trị vật chất.

Sống theo ưu tiên của Nước Thiên Chúa, người Kitô hữu sẽ giữ được sự tự do thanh thoát và bình an ngay giữa những nhiệm vụ nặng nề nhất, vì họ biết có Chúa là Cha yêu thương cùng lo cho họ và với họ, và chỉ có Người mới đem lại cho họ niềm hạnh phúc đích thực mà họ hằng mong ước.

Lm Nguyễn Hồng Giáo


 

CÓ TIN, CÓ KHÁC

CÓ TIN, CÓ KHÁC

“Vai mang bị bạc kè kè. Nói quấy, nói quá chúng nghe rầm rầm”. “Bần cư náo thị vô nhân vấn. Phú tại sơn lâm hữu khách tầm”. “Có tiền mua tiên cũng được”. “Vạn sự phải có cái đầu tiên là tiền đâu?”. “Hạ tầng kiến trúc quyết định thượng tầng kiến trúc”. “Ai nắm hầu bao thì người ấy có quyền quyết định”. “Có thực mới vực được đạo”. “Nhất sĩ nhì nông, hết gạo chạy rông, nhất nông nhì sĩ”… Rất nhiều kiểu nói văn hoa hay dí dỏm của người xưa hay người đời nay như đã minh chứng sức mạnh to lớn, sức cuốn hút khó cưỡng của vật chất, tiền bạc. Chính Chúa Kitô cũng đã từng đặt đối trọng thần tài với Thiên Chúa khi dạy bảo: “Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi Tiền Của được” (Mt 6,24).

Dĩ nhiên, đã là người trong thân phận xác phàm thì không thể coi thường các điều kiện thể lý và vật chất. Pascal đã từng cảnh tỉnh rằng ai muốn sống như thiên thần thì sẽ có nguy cở trở thành loài vật. Để ban ơn cứu độ cho con người, Thiên Chúa đã chọn con đường vào trần gian, mang lấy thân nhục thể. Đã đón nhận xác đất vật hèn thì Con Thiên Chúa làm người chấp nhận bị điều kiện hoá bởi các quy luật sinh hoá lý mà trong đó vai trò của vật chất, tiền bạc không nhỏ chút nào. Ngay từ lúc khởi đầu công cuộc rao giảng tin mừng, chính Người cũng đã bị thần dữ cám dỗ về lãnh vực này (x.Mt 4,1-11).

Vấn đề đặt ra đó là vị trí chủ-tớ trong tương quan giữa con người chúng ta với của cải, tiền bạc. Của cải, tiền bạc vốn là tốt nhưng chúng chỉ tốt khi phục vụ con người, nghĩa là làm tôi con người. Chúng trở thành xấu khi con người đội chúng trên đầu trên cổ, xem chúng như những vị thần toàn năng. Rất nhiều câu ngạn ngữ nói đến ý tưởng này, chẳng hạn như “tiền bạc là tên đầy tớ tốt, nhưng là ông chủ tồi”… Chúng ta có thể nói rằng xưa lẫn nay người ta đều đồng thuận về chân lý này nghĩa là phải biết làm chủ tiền bạc, của cải. Thế nhưng trong thực tế thì dường như ngược lại. Chuyện để cho của cải, tiền bạc lôi kéo mình đến chỗ không hay, điều khiển mình làm những sự chẳng nên là chuyện không hiếm. Một thực tế nữa đó là những người thường lên tiếng khuyên dạy người ta cách thế làm chủ tiền của theo kiểu luân lý hay nói nôm na là dạy đời thì thường là những người đang sung túc, đủ đầy tiền của, không phải gánh chịu cảnh bán mặt cho đất, bán lưng cho trời ngày hai buổi, để kiếm cái ăn, cái mặc cho mình và gia đình. Chính vì thế mà biết bao văn chương chữ nghĩa về đề tài bạc tiền thoặt nghe rất dễ nhận nhưng chẳng làm thay đổi người nghe. Dòng đời xô bồ vẫn cứ chảy. Ma lực của đồng tiền vẫn cứ ngự trị cách này cách khác. Làm sao để đứng vững trước dòng xoáy của các nhu cầu cơm áo gạo tiền cũng như các phương tiện để sinh tồn và phát triển? Chúa Kitô cho chúng ta chiếc chìa khoá căn bản đó là lòng tin.

Đức tin tiên vàn là ân ban của Thiên Chúa. Đức tin cũng là sự đáp trả của con người trong tự do và hiểu biết. Chúa Kitô mời gọi chúng ta dùng trí khôn để suy xét, cân nhắc và chọn lựa giữa những điều hơn kém. Với trí khôn bình thường, người ta dễ dàng nhận ra phần hơn kém giữa mạng sống và của ăn, giữa thân xác và áo quần. Thế mà vẫn có đó nhiều người vì cơm áo mà đã phải thiệt thân. Lưới đã rách thì cố tìm mấy viên chì cũng chẳng được ích gì. Từ dữ kiện đời thường Chúa Kitô mời gọi chúng ta phân định phần thiệt hơn giữa sự sống đời này với sự sống đời đời, đồng thời mời gọi chúng ta hướng cái nhìn lên Đấng Toàn năng chí ái, Đấng đã cho chúng ta từ hư vô hiện hữu ở đời này.

Cần xác định rằng không một ai trên trần gian này tự quyết định hay phải trả một giá nào cho việc làm người, chào đời của bản thân. Không một ai tự mình làm người nhưng là được dựng nên, được tạo thành. Người có niềm tin nhìn nhận việc làm người của mình do Đấng toàn năng. Cách riêng Kitô hữu tin nhận Đấng Toàn Năng cũng là Người Cha chí ái. Vì yêu thương nên Thiên Chúa đã cho tôi làm người, chào đời. Không bao giờ Thiên Chúa bỏ rơi chúng ta. Chẳng có người mẹ nào quên được đứa con mình mang nặng đẻ đau. Cho dù thỉnh thoảng có một đôi người mẹ trần gian vô tâm với con của mình thì Thiên Chúa chẳng bao giờ bỏ quên chúng ta (x.Is 49,14-15). Tác giả Thánh Vịnh luận lý rằng nếu Thiên Chúa ghét bỏ bất cứ loài nào thì Người đã không dựng nên nó.

Chúa Kitô mời gọi chúng ta hãy nhìn xem hoa cỏ, chim trời để vững tin vào Thiên Chúa, Đấng luôn yêu thương, chăm sóc mọi loài, nhất là loài người. Có được niềm tin này thì Kitô hữu cho dù vẫn phải gắng công kiếm tìm sinh kế cho bản thân và tha nhân nhưng không quá “lo lắng” theo kiểu người chưa hoặc không nhận biết Thiên Chúa. Vẫn nỗ lực lao tác kiếm tìm của cải vật chất nhưng chúng ta phải biết sử dụng chúng để phục vụ sự sống, để phát triển tình yêu. Đây là nội hàm lời dạy của Chúa Kitô: “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người…” (Mt 6,33).

Chúng ta ra sức kiếm tìm vật chất, tiền của để làm gì? Trả lời rốt ráo câu hỏi trên theo ánh sáng mạc khải thì chúng ta sẽ biết cách kiếm tìm của cải đẹp lòng Thiên Chúa. Thử hỏi rằng đã có nét khác biệt nào giữa Kitô hữu và bà con lương dân hay người khác đạo trong cách thế kiếm tìm vật chất, của tiền cũng như cách thế sử dụng chúng? Thiết nghĩ đây là một cách thế biểu lộ niềm tin mang tính khả tín và cũng là một cách thế rao giảng tin mừng hữu hiệu ngay giữa môi trường sống của Kitô hữu chúng ta. Và sẽ không thừa khi đề cập đến một hiện thực đó là đã có nhiều anh em lương dân hay bà con khác đạo xa lánh, từ chối ánh sáng tin mừng chỉ vì các gương xấu của Kitô hữu trong vấn đề kiếm tìm và sử dụng của cải, tiền bạc.

Dùng niềm tin để biện minh cho lối sống thì ít thuyết phục hơn là dùng chính cuộc sống để minh chứng cho niềm tin.

Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa

Bí tích Xức Dầu Bệnh Nhân cho phép chúng ta sờ mó được lòng xót thương của Thiên Chúa đối với con người

Bí tích Xức Dầu Bệnh Nhân cho phép chúng ta sờ mó được lòng xót thương của Thiên Chúa đối với con người

Ngay từ thời các Tông Đồ Giáo Hội đã có thói quen ban bí tích Xức Dầu và cầu nguyện cho các bệnh nhân. Vị linh mục và các người có mặt đại diện cho toàn cộng đoàn kitô tụ tập chung quanh người bệnh và các thân nhân của họ để cầu nguyện cho họ, dưỡng nuôi đức tin và đức cậy của họ trong tình huynh đệ liên đới. Và chính Chúa Giêsu cầm tay chúng ta và nhắc nhở chúng ta rằng cả sự dữ và cái chết cũng không bao giờ có thể tách rời chúng ta ra khỏi Ngài.

Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói như trên trong buổi tiếp kiến chung hơn 40,000 tín hữu và du khách hành hương năm châu sáng thứ tư 26-2-2014 tại quảng trường thánh Phêrô. Chào mọi người ngài ca ngợi tín hữu can đảm, vì tuy tiên báo thời tiết cho biết trời mưa, nhưng họ vẫn đến tham dự buổi tiếp kiến đông đảo. Thật ra, sáng thứ tư trời tạnh ráo và có chút nắng ấm. Mở đầu bài huấn dụ Đức Thánh nói:

Anh chi em thân mến, hôm nay tôi muốn nói với anh chị em về bí tích Xức Dầu Bệnh Nhân, là bí tích cho phép chúng ta sờ mó được với đôi bàn tay lòng xót thương của Thiên Chúa đối với con người. Trong qúa khứ nó được gọi là ”Phép xức dầu tột cùng”, vì nó được hiểu như sự củng cố tinh thần trong giờ chết cận kề. Nhưng nói tới bí tích ”Xức dầu các bệnh nhân” giúp chúng ta trải rộng cái nhìn trên kinh nghiệm của tật bệnh và khổ đau, trong chân trời lòng xót thương của Thiên Chúa.

Có một hình ảnh kinh thánh diễn tả tất cả mầu nhiệm tỏa thoát ra từ bí tích Xức Dầu cho các bệnh nhân sự sâu thẳm của nó: đó là dụ ngôn người Samaritano nhân hậu, trong Phúc âm thánh Luca (Lc 10,30-35).

Mỗi lần chúng ta cử hành Bí tích này chính Chúa Giêsu, trong con người của vị linh mục, tới gần người khổ đau, người bệnh nặng hay người già cả. Dụ ngôn nói rằng người Samaritano nhân hậu săn sóc người khỗ đau bằng cách đổ dầu và rượu trên các vết thương của ông. Dầu khiến chúng ta nghĩ tới dầu được Giám Mục làm phép hằng năm trong Lễ Dầu ngày Thứ Năm Tuần Thánh, để xức cho các bệnh nhân. Trái lại, rượu là dấu chỉ của tình yêu thương và ơn thánh của Chúa Kitô, nảy sinh từ ơn sự sống Người ban cho chúng ta, và diễn tả tất cả sự phong phú của chúng trong cuộc sống bí tích của Giáo Hội.

Sau cùng, người khổ đau được tín thác cho chủ quán trọ, để ông có thể tiếp tục săn sóc cho mgười đó, mà không chú ý gì tới các chi phí. Vậy ai là chủ quản trọ? Đó là Giáo Hội, là cộng đoàn kitô, là chúng ta, trong thân xác và trong tinh thần, để chúng ta có thể tiếp tục đổ trên họ tất cả lòng xót thương và ơn cứu độ của Chúa một cách vô chừng mực.

Tiếp tục bài huấn dụ về bí tích Xức Dầu Bệnh Nhân, Đức Thánh Cha nói: lệnh truyền ấy được nêu bật một cách rõ rằng và chính xác trong thư của thánh Giacôbê, trong đó người dặn dò các tín hữu: ”Ai đau yếu thì hãy mời các kỳ mục của Hội Thánh đến; họ sẽ cầu nguyện cho người ấy sau khi xức dầu nhân danh Chúa. Và lời cầu nguyện được làm với lòng tin sẽ cứu người bệnh: Chúa sẽ nâng người ấy dậy; và nếu người ấy đã phạm tội, thì sẽ được Chúa thứ tha” (Gc 5,14-15). Đức Thánh Cha giải thích thêm như sau:

Như vậy, đây là một thực hành đã có từ thời các Tông Đồ. Thật thế, Chúa Giêsu đã dậy các môn đệ đặc biệt có lòng yêu thương các bệnh nhân và những người đau khổ như Ngài, và đã thông truyền cho họ khả năng và nhiệm vụ tiếp tục ban phát nhân danh Ngài và theo con tim của Ngài, sự xoa dịu và bình an, qua ơn thánh đặc biệt của Bí tích này. Tuy nhiên, điều này không được khiến cho chúng ta rơi vào chỗ tìm kiếm phép lạ một cách ám ảnh, hay rơi vào yêu sách có thể luôn luôn được chữa lành. Nhưng nó là sự gần gũi chắc chắn của Chúa Giêsu đối với người bệnh, cả đối với người già, bởi vì mỗi người già, mỗi người qúa 65 tuổi đều có thể nhận bí tích này: đó chính là Chúa Giêsu đến gần chúng ta. Nhưng khi một người bệnh nghĩ: ”Mình hãy mời linh mục đến”, thì người ta bàn lui bàn tới: – ” Không, không, đừng, vì ổng đem đến cái không may, thôi đừng gọi nữa”, hay: ”Như thế người bệnh sẽ hoảng sợ”. Tại sao vây? Tại vì người ta nghĩ rằng, khi có người đau và linh mục đến thì sau linh mục là nhà hòm đến: đâu có thật như vậy!

Vị linh mục đến để trợ giúp bệnh nhân hay người già: vì thế thật là quan trọng việc linh mục thăm viếng các bệnh nhân. Gọi linh mục đến để ngài xức dầu và chúc lành cho người bệnh chứ. Bởi vì Chúa Giêsu đến gần để nâng bệnh nhân dậy, ban cho họ sức mạnh, niềm hy vọng và trợ giúp họ. Và cũng để tha tội cho họ nữa. Đây là điều rất đẹp! Và xin anh chị em đừng nghĩ đó là điều cấm kị.

Bởi vì vấn đề đó là càng ngày người ta càng ít xin có thể cử hành Bí tích Xức Dầu Bệnh Nhân hơn. Lý do chính là ở chỗ trong biết bao gia đình Kitô, do ảnh hưởng của nền văn hóa và sự nhậy cảm ngày nay, người ta đi tới chỗ coi sự khổ đau và chính cái chết như là một điều cấm kị, như cái gì cần phải che dấu và nói đến càng ít càng tốt. Có đúng thật là sự khổ đau, bệnh tật và chính cái chết vẫn là một mầu nhiệm trong nhiều khía cạnh của chúng; nó vượt cao hơn chúng ta và trước nó các lời nói giảm đi. Đó cũng là điều cảm nhận được trong lễ nghi Xức Dầu, trong đó với một kiểu rất đơn giản và kính trọng người ta nói rằng: ”Vị linh mục đặt tay trên thân thể người bệnh, mà không nói gì”.

Anh chị em thân mến, thật là đẹp khi biết rằng trong lúc khổ đau và bệnh tật, chúng ta không cô đơn: thật ra, vị linh mục và những người hiện diện trong lễ nghi Xức Dầu Bệnh Nhân đại diện cho toàn cộng đoàn kitô, như là một thân mình duy nhất, quây quần chung quanh người đau khổ và các thân nhân của họ, dưỡng nuôi trong họ đức tin và đức cây, bằng cách nâng đỡ họ với lời cầu nguyện và hơi ấm huynh đệ. Nhưng sự ủi an lớn lao nhất đến từ sự kiện chính Chúa Giêsu hiện diện trong bí tích cầm tay chúng ta, vuốt ve chúng ta như Người đã làm với các bệnh nhân xưa kia. Người nhắc nhớ chúng ta rằng chúng ta thuộc về Người và không gì, kể cả sự dữ và cái chết – sẽ có thể tách rời chúng ta ra khỏi Người.

Chúng ta hãy có thói quen mời linh mục đến xức dầu cho các bệnh nhân – tôi không nói tới người bị cảm cúm ba bốn ngày là hết – nhưng khi có bệnh nặng – và cho cả các người già nữa, xin linh mục đến ban bí tích này cho họ, ban cho họ sự củng cố và sức mạnh của Chúa Giêsu để họ tiến bước.

Chào tín hữu các đoàn hành hương đến từ nhiều nước tây âu, bắc Mỹ và châu Mỹ Latinh, Đức Thánh Cha khuyến khích họ đừng bao giờ sợ hãi mời các linh mục đến ban bí tích Xức Dầu cho các thân nhân bị bệnh, vì đó là phương thế Thiên Chúa dùng để ban ơn thánh cho các bệnh nhân.

Cũng như thường lệ Đức Thánh Cha đã dành thời giờ chào và vuốt ve an ủi hàng chục bệnh nhân lớn nhỏ ngồi trên xe lăn, trước khi bắt tay và nói chuyện với những người được đừng hai bên khán đài và các cặp vợ chồng mới cưới. Ngài thường nói chuyện và trao đổi lâu với họ. Cặp nào cũng muốn ôm hôn Đức Thánh Cha, và dĩ nhiên là họ có nhiều hìmh rất đẹp với ngài.

Buổi tiếp kiến đã kết thức với Kinh Lạy Cha và phép lành tòa thánh Đức Thánh Cha ban cho mọi người.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Hội đồng Gia đình mới của Giáo hội có thể do một cặp vợ chồng đứng đầu

Hội đồng Gia đình mới của Giáo hội có thể do một cặp vợ chồng đứng đầu

Marco Tosatti cho Vatican Insider/La Stampa

Hội đồng Gia đình mới của Giáo hội có thể do một cặp vợ chồng đứng đầu thumbnail

Picture: Catholic San Francisco

La Croix (tờ báo Công giáo Pháp) phỏng vấn Đức Hồng y Rodriguez Maradiaga, chủ tịch ủy ban gồm 8 hồng y được Đức Thánh cha Phanxicô chọn làm cố vấn cho ngài về cải cách Giáo triều. Đức hồng y người Honduras, tổng giám mục Tegucicalpa, đã đưa ra cái nhìn tổng quan về bối cảnh chính quyền trung ương của Giáo hội trong tương lai. Đức hồng y nhấn mạnh ý tưởng thành lập một Thánh bộ đặc trách giáo dân (giáo dân hiện đang có một Hội đồng Giáo hoàng đại diện), và nhiều ý tưởng khác nữa.

“Giáo hội rõ ràng cần điều này. Chúng ta có Thánh bộ Giám mục, Thánh bộ Đời tu trì và Thánh bộ Giáo sĩ, nhưng giáo dân chỉ có Hội đồng Giáo hoàng mặc dù họ chiếm đa số trong Giáo hội. Chúng ta không thể tiếp tục như thế này được. Sau Công đồng Vatican II giáo dân chỉ có một văn phòng. Hội đồng Giáo hoàng bị hạn chế vì nó không có quyền pháp lý. Đây là lý do chúng ta cần có một Thánh bộ thật sự”.

Theo đức hồng y, trong Thánh bộ này cũng nên có một Hội đồng Giáo hoàng về gia đình, “đứng đầu là một cặp vợ chồng. Tại sao vậy? Đó sẽ là một dấu chỉ tuyệt vời. Và sẽ thật tuyệt khi có Thánh bộ Giáo dân trong Giáo hội. Tôi có thể nói với anh rằng Chúa Thánh Linh đang thúc đẩy theo hướng này. Ngày càng nhiều nam nữ giáo dân cùng nhận trách nhiệm làm lãnh đạo trong Giáo hội”.

Về số phận của Viện Giáo vụ (IOR) và khả năng xóa sổ viện này, Đức Hồng y Rodriguez Maradiaga nói “mọi thứ phụ thuộc vào các báo cáo. Nhưng chữa lành một người bệnh thì tốt hơn là đưa một người trở về từ cõi chết. Tôi nghĩ chúng ta cần tránh xóa bỏ bất kỳ cơ quan nào”.

Đức Hồng y Maradiaga còn nói về công tác của Ủy ban liên quan đến chính quyền trung ương của Giáo hội. Ngài cho biết ngài và 7 hồng y còn lại “hiện nay đã ghi chép lại tất cả những gì chúng tôi quan sát thấy nơi Văn phòng Quốc vụ khanh. Chúng tôi nhấn mạnh Quốc vụ khanh thực chất là thư ký của Đức Thánh Cha. Ngài không phải là thủ tướng hay tổng trấn”.

Đức Hồng y người Honduras, đã có rất nhiều cuộc phỏng vấn và dường như ngài được “ủy quyền” nói về cải cách, đề cập đến khả năng thành lập một tổ chức tài chính. “Nó có thể được gọi là văn phòng tài chính. Đây là một ý tưởng rất hợp lý và tôi tin rằng cần có một tổ chức như thế để giúp chúng ta có tổ chức hơn và phục vụ tốt hơn. Tài chính được phân chia giữa các cơ quan khác nhau. Chúng ta hiện có Văn phòng Quản trị tài sản tông tòa, Văn phòng Kinh tế Tòa Thánh, Văn phòng Quản lý thành phố Vatican, IOR…Có thể nhưng đây là một trong những việc chúng tôi đang thảo luận; đây có thể là ý tưởng để một người chịu trách nhiệm mọi thứ”.

Nguồn tin: Vatican Insider/La Stampa

UCANEWS VN

Việt Nam y án luật sư bất đồng chính kiến

Việt Nam y án luật sư bất đồng chính kiến

AFP và ucanews.com từ Hà Nội, Việt Nam

Việt Nam y án luật sư bất đồng chính kiến thumbnail

Luật sư và blogger Công giáo Lê Quốc Quân tại tòa phúc thẩm (ảnh AFP/Vietnam News Agency)

Phiên tòa khinh thường phản đối của quốc tế và biểu tình địa phương

Một trong những nhà bất đồng chính kiến ​​nổi bật nhất Việt Nam mất quyền kháng cáo án tù tội trốn thuế vào hôm thứ Ba, trong khi hàng chục người ủng hộ biểu tình bên ngoài tòa án phản đối nhà nước cộng sản đàn áp bất đồng chính kiến​​.

Đông đảo cảnh sát chung quanh tòa phúc thẩm Hà Nội nơi xử ý án hai năm rưỡi tù cho luật sư và blogger Công giáo Lê Quốc Quân. Ông bị kết án tháng Mười năm ngoái và các nhà vận động nhân quyền cho là có động cơ chính trị.

“Bị cáo không hối tiếc và thiếu thái độ tôn trọng hội đồng xét xử,” chánh án Nguyễn Văn Sơn cho biết, xác nhận án tù và khoản tiền phạt tương đương 57.000 USD.

Đường truyền truyền hình từ phòng quan sát phiên toàn ngay lập tức bị cắt sau khi tuyên án.

Trước đó luật sư nói với tòa rằng ông “hoàn toàn vô tội” trước cáo buộc chống lại ông.

“Tôi là nạn nhân của âm mưu chính trị. Tôi phản đối phiên tòa,” ông nói.

Ông Quân đang tuyệt thực 17 ngày nay, em trai ông cho biết, trông ông mệt mỏi và ốm yếu khi đứng trước vành móng ngựa và có lúc bị ngất khiến nhân viên an ninh phải đỡ ông đứng dậy.

Ông Quân bắt đầu tuyệt thực sau khi yêu cầu có cuốn Kinh Thánh và được gặp linh mục xưng tội của ông bị từ chối. Ông sẽ tiếp tục tuyệt thực nếu kháng cáo của ông bị phản bác, theo bản tin đài phát thanh dòng Chúa Cứu Thế Việt Nam.

Luật sư bào chữa Bùi Quang Nghiêm nói, phiên tòa với cáo buộc trốn thuế là một trò hề.

“Nếu hội đồng muốn xét xử ông Lê Quốc Quân vì những hoạt động của ông ta, thì quý vị không cần phải mang ông ra tòa vì tội trốn thuế,” ông nói.

Luật sư Quân năm nay 43 tuổi, đã viết hàng loạt chủ đề nhạy cảm trên blog, bao gồm các quyền dân sự, đa nguyên chính trị và tự do tôn giáo, bị giam giữ từ tháng 12 năm 2012.

Ông Lê Quốc Quyết, em trai luật sư Quân cho biết bên ngoài tòa án rằng gia đình đã không được phép tham dự phiên tòa.

Khoảng 150 người tụ tập bên ngoài tòa án la to “Tự do cho Lê Quốc Quân” và vẫy các biển hiệu kêu gọi thả ngay lập tức vị luật sư Công giáo, đã gây hỗn loạn giao thông vào giờ cao điểm.

Quy mô cuộc biểu tình là bất thường tại Việt Nam, nơi nhà chức trách kiểm soát chặt chẽ bất đồng chính kiến​​.

Hàng trăm người lưu thông trên đường bị kẹt trong cuộc biểu tình vào sáng sớm.

Việt Nam, quốc gia độc đảng, thường xuyên bị các tổ chức nhân quyền và chính phủ phương Tây lên án đàn áp bất đồng chính kiến và vi phạm tự do tôn giáo có hệ thống.

Hồi đầu tháng, tổ chức Phóng viên Không Biên giới cho biết Việt Nam chỉ xếp sau Trung Quốc số lượng các blogger bị giam giữ, với ít nhất 34 blogger hiện đang ngồi tù.

Đại sứ quán Mỹ tại Hà Nội cho biết hồi tháng Mười rằng phán quyết dành cho ông Lê Quốc Quân là một phần của xu hướng “đáng lo ngại” ở Việt Nam khi sử dụng luật thuế để bỏ tù những ai bày tỏ quan điểm chính trị một cách ôn hòa.

Trong bài đăng trên Facebook, nhóm vận động pháp lý Tù nhân Lương tâm cho biết: “Nhóm Công tác Liên hợp quốc về Giam giữ Tùy tiện đã xem xét vụ việc và yêu cầu chính phủ Việt Nam thả ông ngay lập tức.”

UCANEWS VN

Hội nghị Genève II và tình hình Syria

Hội nghị Genève II và tình hình Syria

Phỏng vấn Đức Tổng Giám Mục Mario Zenari, Sứ Thần Tòa Thánh tại Syria

Ngày 22-1-2014 Hội nghị Geneve II về Siria đã khai diễn tại Montreux và tiếp tục tại Genève và đã kết thúc ngày 31-1-2014. Sau mười ngày nhóm họp Hội nghị đã không đem lại kết qủa cụ thể nào, vì các lập trường hoàn toàn khác biệt và đối đầu giữa phái đoàn chính quyền Damasco và phái đoàn các lực lượng đối lập. Chính quyền Siria vẫn tiếp tục coi các lực lượng đối lập là các nhóm khủng bố phá hoại, còn các lực lượng đối lập nhất quyết đòi ông Bashar Al-Assad phải ra đi. Kết qủa cụ thể duy nhất là việc di tản các thường dân khỏi thành phố Homs, bị quân chính phủ bao vây từ nhiều tháng qua, phải sống trong cảnh đói khát của một thành phố bị bom đạn tàn phá sụp đổ tan hoang, hầu như không còn căn nhà nào lành lặn. Các chuyến xe bus chở thường dân đa số là phụ nữ người già và trẻ em đã bắt đầu rời Homs ngày mùng 6-2-2014 với 83 phụ nữ trẻ em và người già và hiện đang tiếp tục nhờ có cuộc ngưng bắn. Ba tấn đồ cứu trợ cũng sẵn sàng để được phân phát cho dân chúng tại Homs.

Sau đây chúng tôi xin gửi tới qúy vị và các bạn bài phỏng vấn Đức Tổng Giám Mục Mario Zenari, Sứ Thần Tòa Thánh tại Siria, dành cho phái viên Cecilia Ceppia của đài Vaticăng ngày mùng 8-2-2014.

Hỏi: Thưa Đức Sứ Thần Tòa Thánh, sau cùng thì đồ cứu trợ đã tới được với dân chúng bị bao vây tại Homs, và các thường dân được di chuyển khỏi thành phố, có đúng thế không?

Đáp: Vâng, cần ghi nhận cử chỉ thiện chí này của các phe lâm chiến. Cần nhớ rằng việc thương lượng này đã kéo dài nhiều tháng mà không thành công, ngay cả trong khuôn khổ hiệp đầu của cuộc thương thuyết tại Genève. Nhưng sau cùng hai bên đã đi tới kết luận tích cực này. Đây là bước tích cực đầu tiên, cả khi có tối thiểu, mở đường cho giải pháp dài của cuộc khủng hoảng nhân đạo cấp thiết và thảm trạng liên quan tới toàn dân nước Siria. Theo các thống kê của Liên Hiệp Quốc có 2,5 triệu người Siri đang cấp thiết chờ đợi đồ cứu trợ, chưa thể tởi được với họ, ít nhiều cũng như đối với 25.000 dân tại thành phố Homs. Vì vậy đường còn dài lắm.

Hỏi: Chính quyền Damasco đã cho biết là ngày mùng 8 tháng 2 bắt đầu phát các phẩm vật cứu trợ nhân đạo. Thật ra 3 tấn thực phẩm thuốc men và các dụng cụ cần thiết khác đã tới Homs rồi, chỉ chờ được phận phát cho dân thôi mà..

Đáp: Theo các tin tức tôi nhận được cũng cần tiếp tục di tản các thường dân khỏi Homs, trong đó tôi hy vọng là có một số kitô hữu, nhưng cách đây mấy giờ người ta cho biết là các kitô hữu đã không thể ra khỏi khu phố của họ. Và tôi nghĩ là người ta đã bắt đầu phân phát phẩm vật cứu trợ.

Hỏi: Việc ngưng bằn từng nơi để cho phẩm vật cứu trợ nhân đạo được chở tới cho dân chúng như tại Homs, có thể áp dụng được cho các nơi khác không thưa Đức Sứ Thần: chẳng hạn như Aleppo, hôm nay lại bị pháo kích khiến cho các thường dân chết dưới hàng tấn bom của quân đội mỗi ngày?

Đáp: Vâng, nó có thể là một thí dụ hay một thử nghiệm đầu tiên. Nếu nó thành công trong ba ngày, thì có thể lập lại tại Aleppo, là nơi cần kíp phải ngưng bắn, đôi khi một phần cũng được.

Hỏi: Thứ hai mùng 10 tháng 2 cuộc đàm phán tại Genève lại tiếp tục như Liên Hiệp Quốc đã cho biết, với sự hiện diện của chính quyền Damasco nữa. Nhưng sẽ khó mà tìm ra một giàn xếp, và nút thắt chính vẫn là sự chuyển tiếp chính trị, có phải thế không thưa Đức Sứ Thần?

Đáp: Việc tiếp tục các cuộc đàm phán cũng là một sự kiện tích cực. Cả khi không thể chờ đợi các phép lạ. Ước mong rằng tình trạng cứu trợ nhân đạo cũng đồng thời hiện diện trong các cuộc thương thuyết tìm một giải pháp chính trị. Cả hai việc phải đi đôi với nhau. Con đường còn rất dài, nhưng không được nản chỉ, cả hai phía cần tiếp tục đối thoại. Các tham dự viên cuộc hòa đàm không được quên các mong đợi của dại đa số dân Siria; họ đang chờ đợi một nước Siria mới, dân chủ hơn, biết tôn trọng nhân quyền và và các quyền tự do nền tảng hơn; và tất cả những điều này phải đạt được không phải với các phương tiện bạo động, mà với các giải pháp chính trị.

Trước đó ngày 29 tháng giêng Đức Tổng Giám Mục Mario Zenari cũng đã dành cho phóng viên Massimiliano Menichetti của đài Vaticăng về tình hình Siria và việc cứu trơ nhân đạo.

Hỏi: Thưa Đức Sứ Thần Tòa Thánh, Đức Sứ Thần có tin tức gì về cha D'Oglio và 12 nữ tu bị bắt cóc tại Maalula không?

Đáp: Chúng tôi không có tin gì về cha D'Oglio cả. Thỉnh thoảng có các lời đồn đại này kia, nhưng không thể lượng định xem chúng có thật hay không. Rất tiếc la cha đã bị bắt cóc 6 tháng nay rồi. Trong vài tuần nữa sẽ là 12 tháng hai linh mục khác đã bị mất tích trong vùng gần thành phố Aleppo, một vị là linh mục công giáo Armeni, vị kia là linh mục chính thống Hy lạp. Và ba tháng nữa là một năm hai Giám Mục chính thống bị bắt cóc. Rất tiếc là chúng tôi không có tin tức nào về các vị cả.

Liên quan tới 12 nữ tu chính thống bị bắt cóc tại Maalula, trái lại thỉnh thoảng có vài tin tức lọt ra. Xem ra chúng trấn an, người ta được biết ít nhiều là các nữ tu được đối xử tử tế tại nơi các chị bị giam giữ, trong một căn nhà tại tỉnh Abrud. Đây là một trường hợp hơi khác một chút. Thỉnh thoảng các nữ tu có thể điện thoại cho vài người hay vài nữ tu khác.

Hỏi: Như thế nước Siria bị rơi vào trong cơn xoáy thê thảm của các vụ bắt cóc. Chúng xảy ra rất nhiều, có đúng thế không thưa Đức Cha?

Đáp: Rất tiếc là đúng như vậy. Cũng cần phải trải rộng cái nhìn ra nữa: và sự kiện trở thành thực sự gớm ghiếc, bởi vì người ta nói tới hàng trăm người bị bắt cóc, bao gồm cả các gia đình nữa, và nếu người ta gộp cả mọi loại người bị bắt cóc và mất tích lại với nhau thì con số sẽ rất cao.

Hỏi: Vậy ai là những người bị bắt cóc thưa Đức Cha?

Đáp: Có loại tội phạm: nhiều người đã bị bắt cóc để tống tiền trong các làng mạc và thành thị, và rất tiếc chúng xảy ra hàng ngày. Thế rồi có loại bắt cóc chính trị: những người có vị trí quan trọng nào đó bị nhóm này hay nhóm kia bắt cóc, và có thể mai mốt họ được dùng để đổi chác cho nhau. Rồi cũng có những người bị bắt cóc và biến mất, mà người ta cũng chẳng biết các lý do.

Tôi muốn nói rằng việc bắt cóc các nhân vật của Giáo Hội cũng không có một lý do nào cả. Chúng ta hãy cầu nguyện để Chúa của lòng thương xót đánh động trái tim của tất cả những người chủ mưu, bởi vì chúng ta biết rằng gia đình các nạn nhân đau khổ biết chừng nào, vì không có tin tức gì liên quan tới thân nhân của họ cả. Tới nay họ đã mất tích bao nhiêu ngày, bao nhiêu tuần, và bao nhiêu tháng rồi… Các vụ bắt cóc là một tai họa do cuộc chiến này gây ra. Chúng tôi cầu mong trợ giúp tất cả những người bị bắt cóc và gia đình họ bằng lời cầu nguyện.

Hỏi: Trong tình trạng như vầy thì Giáo Hội đang làm gì thưa Đức Sứ Thần Tòa Thánh?

Đáp: Giáo Hôi đang thực thi một sứ mệnh gian khổ, trước hết là gần gũi với người dân, gần gũi với tất cả mọi người, tín hữu kitô cũng như tín hữu các tôn giáo khác. Bởi vì tất cả mọi người đều đau khổ vì các tai ương của chiến tranh, của nghèo đói, của gía lạnh, và các vụ bắt cóc. Điều đầu tiên mà Giáo Hội làm đó là hiện diện và gần gũi họ, chia sẻ các nỗi khổ đau của họ. Ngoài việc trợ giúp vật chất – trợ giúp một chút với những gì chúng tôi có thể cống hiến cho họ – nhưng nhất là trợ giúp tinh thần bằng sự hiện diện, chia sẻ thảm cảnh khủng khiếp, mà mọi người dân Siria đang phải sống hiện nay.

Hỏi: Thưa Đức Sứ Thần Tòa Thánh, trước khi Hội nghị hòa bình cho Siria được triệu tập tại Montreux, Đức Sứ Thần đã nhấn mạnh rằng: “Tất cả các phái đoàn phải đến tham dự hội nghị như đến gần đầu gường của một bà mẹ”, ám chỉ bà mẹ Siria. Đức Sứ Thần đánh gía Hội nghị này và các nỗ lực làm trung gian giữa các người chống đối tổng thống Al-Assad như thế nào?

Đáp: Ngay từ đầu người ta đã biết rằng Hội nghị này phải thắng vượt những chướng ngại không thể thắng vượt được. Tuy nhiên, cần phải làm mọi cố gắng. Sau ba năm các phe phái xa cách nhau và đánh nhau, mà giờ đây họ chịu ngồi vào chung một bàn hòa đàm, thì đã là một cái gì rồi. Mỗi bước nhỏ đều có giá trị nào đó. Như là tín hữu kitô nhưng cũng như là những người có niềm tin, chúng tôi phải tháp tùng các các cố gắng đó với lời cầu nguyện, bởi vì hơn bao giờ hết người ta nhận ra rằng cần phải có sự trợ giúp của Thiên Chúa để đạt được ơn hòa bình, được giao phó cho tinh thần trách nhiệm của con người. Không bao giờ được đánh mất sự tin tưởng, cả khi sẽ có các lúc rất rất là khó khăn. Cần phải tiến bước, nhất là đối với những gì liên quan tới khía cạnh nhân đạo. Không phải chỉ có người dân tội nghiệp của vùng Homs. Có khoảng 3,000 tới 3,500 người dân bị bao vây từ hơn một năm rưỡi nay trong đó có khoảng 60-65 tín hữu kitô với một linh mục, một tu huynh dòng Tên già người Hòa Lan đã lựa chọn ở lại với các anh chị em tội nghiệp bị bao vây này. Tuy nhiên, ngoài họ ra cũng có khoảng 2.5 triệu người phải sống tình cảnh tương tự, và bị cắt đứt khỏi các trợ giúp nhân đạo rất cấp thiết. Như thế, nếu hai bên có thể đồng ý với nhau để cho các trợ giúp nhân đạo được đem tới cho các anh chị em bị bao vây, từ phía này hay phía kia, thì cũng sẽ là một kết qủa đẹp lắm rồi!

(RG 29.31-1-2014; RG 4.8-2-2014)

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

TÌNH YÊU ĐÁP LẠI HẬN THÙ

TÌNH YÊU ĐÁP LẠI HẬN THÙ

Ngày Lễ Lá cho ta chứng kiến những đổi thay bất ngờ của cuộc đời và của lòng người. Dân chúng vừa mới hân hoan cầm cành lá đón tiếp Chúa đã lập tức quay lại la ó kết án Chúa. Chúa Giêsu vừa mới long trọng vào thành như một ông vua nay đã phải đứng trước toà Philatô như một tử tội. Giuđa vừa ăn chung một bánh, uống chung một chén với Thầy đã vội vàng ra đi nộp Thầy. Các môn đệ vừa mới ngồi đồng bạn với Thầy nay đã bỏ trốn. Phêrô vừa mới hăng hái thề sống chết bên Thầy đã mau chóng hèn nhát chối Thầy.

Những biến cố dồn dập, những đợt sóng thù hận giận dữ dâng cao đến tột đỉnh như muốn nghiền nát Chúa Giêsu. Nhưng Người vẫn luôn giữ được tâm hồn bình an thanh thản, thái độ quan tâm ân cần và trái tim chan chứa yêu thương.

Trước hết ta thấy Người thanh thản và chủ động bước vào cuộc Thương khó khi Người nói với các môn đệ: “Thầy ước ao dự bữa tiệc Vượt qua với các con”. Trước cái chết ai cũng run sợ. Nếu chết là hết thì cái chết thật là đáng sợ. Nhưng với Chúa Giêsu, chết là về cùng Chúa Cha. Người yêu mến Chúa Cha, khao khát kết hiệp với Chúa Cha, nên Người thanh thản bước vào cuộc khổ nạn để được về cùng Cha.

Quân lính hung hãn đến bắt Chúa Giêsu, nhưng Người vẫn hiền hoà không kháng cự. Bị vây bọc trong bầu khí sát máu, Người vẫn cư xử với lòng nhân hậu khoan dung. Không lo cho an nguy của bản thân, giữa lúc khó khăn khốn đốn vẫn mở rộng bàn tay nhân ái chữa lành vành tai bị đứt của người đày tớ vị thượng tế.

Khi Giuđa đến hôn mặt Chúa Giêsu, Người vẫn đối xử một cách lịch sự, tế nhị. Đối lại tội phản nghịch tày trời, Người chỉ nhẹ nhàng nhắc nhở, hy vọng đánh thức lương tâm người học trò mê tiền mà đi đến phản bội.

Lúc đang xét xử, dù phải chịu nhục nhã cay đắng, Người vẫn quan tâm đưa mắt nhìn Phêrô. Vị đại diện các môn đệ, sau khi chối Thầy, đã nhận được ánh mắt âm thầm của Thầy. Ánh mắt hiền dịu mà đau khổ. Ánh mắt trách móc thì ít mà tha thiết van xin thì nhiều. Ánh mắt nhân từ tha thứ đã khiến Phêrô ray rứt khôn nguôi.

Trên đường lên Núi Sọ, dù vai phải mang cây thánh giá nặng nề, dù bản thân yếu mệt và tủi nhục, Người vẫn còn đứng lại an ủi những người phụ nữ khóc lóc, an ủi đám dân đã tố cáo, đã kết án Người.

Trên thập giá, lúc đớn đau đã thấm vào đến tận xương tuỷ, lúc sức lực đã cạn mòn, Người vẫn còn quan tâm lắng nghe người trộm lành.

Còn hơn thế nữa, Người tha thứ cho những sĩ quan, những binh lính đã hành hàn. Người không chỉ tha thứ mà còn cầu nguyện xin Chúa Cha tha cho tất cả mọi người có dính líu vào việc xử án Người.

Tình yêu thương của Người là làn ánh sáng xé tan bóng đêm thù hận, chiếu soi cả những người ghét ghen. Tình yêu thương của Người giống như loài gỗ quý nhuốm cả hương thơm vào lưỡi búa đã đốn ngã nó (Fulton Sheen). Tình yêu của Người như đoá hoa sen. Bùn lầy có dậy lên cũng không nhiễm được vào đoá hoa tinh khiết thánh thiện. Tình yêu của Người là tình yêu nguyên tuyền không vẩn một chút oán hờn giận ghét, vượt lên trên tất cả những hận thù, nhỏ nhen, hèn nhát, phản bội. Giữa những hung hãn tàn bạo, Người vẫn yêu thương. Giữa những phản bội, Người vẫn tha thứ. Tình yêu của Người đã thắng.

Lạy Chúa Giêsu hiền lành và khiêm nhường trong lòng, xin uốn lòng con nên giống Trái Tim Chúa. Amen.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1. Thời nay người ta thay đổi tất cả thật nhanh chóng. Thay đổi quần áo, giầy dép, điện thoại và cả bạn bè, vợ chồng nữa. Bạn có bị cuốn theo nếp sống thay đổi nhanh chóng này không?
2. Tình yêu của Chúa Giêsu đã chiến thắng. Bạn hiểu điều này thế nào qua cuộc thương khó của Chúa?
3. Đạo Công giáo là đạo bác ái. Bạn sống đạo như thế nào khi bị phản bội, bị oan ức và thiệt thòi?

ĐTGM Giuse Ngô Quang Kiệt

Yêu “kẻ thù” như thế nào đây?

Yêu “kẻ thù” như thế nào đây?

Quả thật đã từng có nhiều ý kiến khác chiều, thậm chí có khi là trái chiều liên quan đến những lời dạy của Chúa Kitô về việc không chỉ “đừng chống cự lại kẻ ác” mà còn “giơ má kia cho người ta đánh” hoặc “phải yêu kẻ thù” (x.Mt 5,38-44).

“Kẻ thù ta đâu có phải là người, giết người đi thì ta ở với ai”. Lời một bài ca khá phổ biến này dường như được cảm hứng từ những lời Tin Mừng trên đây. Nếu nhìn nhận mọi người là anh chị em của mình thì hẳn sẽ không có chuyện giết hay ghét bỏ. Chỉ có ma quỷ mới là kẻ thù đích thực của chúng ta.

Trước hết chúng ta cần phân định rõ lời dạy của Chúa Kitô qua đoạn tin mừng Mt 5, 38-48 mà giáo hội cho trích đọc trong Chúa Nhật VII TN A. Nội dung chính lời dạy của Chúa Kitô là cần phải vượt qua cái giới hạn của đức công bình cũng như giới hạn của đức yêu thương theo luật Cựu ước.

Thiết tưởng cần nhìn nhận mặt tích cực của luật công bình “mắt đền mắt, răng đền răng, sưng đền sưng, bầm đền bầm…”. Luật này giúp hạn chế sự gia tăng mức độ báo thù mà thường theo bản năng người ta khó tự kiềm chế. Chuyện bị đánh gảy một cái răng thì đánh trả lại người ta gảy nguyên cả hàm vẫn còn nhan nhản ngay trong thời đại hôm nay. Nước này phóng vào lãnh địa nước kia mười quả đạn pháo thì nước kia sẽ phóng trả đủa lại không dưới mười quả, có khi là gấp ba, gấp bảy lần. Luật “mắt đền mắt, răng đền răng” dường như vẫn còn giá trị của nó. Tuy nhiên giới luật này không khử trừ sự ác, điều xấu cách tận căn mà nhiều khi dẫn đến tình trạng không lối thoát.

Chuyện thật như bịa theo ý cha Anthony de Mello: Có tay trộm choai choai lẻn vào khuôn viên nhà thờ lúc bốn giờ sáng, định cuỗm thứ gì đó. Chưa thu được chiến lợi phẩm gì thì bị “ông từ” đi đánh chuông phát giác. Hoảng quá cậu nhóc leo đại lên tháp chuông trốn tưởng rằng qua được mắt ông từ già. Nhưng rủi cho cậu nhóc là cặp mắt ông từ vẫn còn tinh. Ông từ kiên nhẫn ngồi dưới tháp chuông chờ có người đến thì la làng. Cậu nhóc đoán được ý ông từ đành làm liều nhảy đại xuống từ độ cao khoảng bốn mét (tầng cuối). Ai ngờ cậu nhóc nhảy xuống vấp phải ông từ khiến ông già trẹo một chân. Dù gảy chân nhưng ông từ vẫn ôm chặt cậu bé và la lớn tiếng. Người ta chạy đến và cậu nhóc bị tóm. Tất cả dẫn cậu nhóc vào cha xứ. Ngài hỏi cậu nhóc đã ăn trộm cái gì. Cậu ta thưa là chưa lấy được gì cả. Ngài phán tiếp: “thế thì theo luật “mắt đền mắt, răng đền răng”, ông từ được quyền leo lên tháp chuông và nhảy xuống để làm trẹo một chân cậu nhóc!” Mặt ông từ tái xanh.

Chúa Giêsu đã dùng lối nói “ngoa ngữ” dạy chúng ta dùng chính tình yêu, việc lành để giải hoá sự hận thù, diệt trừ sự dữ tận gốc rễ. Cần lưu ý rằng văn phong “ngoa ngữ” thường được sử dụng không phải cố ý dạy những gì được trình bày nhưng để nhằm nhấn mạnh ý tưởng muốn nói. Chẳng hạn khi dạy chúng ta rằng nếu mắt hay tay chân ta gây cớ cho ta phạm tội thì chặt chúng đi, Chúa Giêsu chỉ muốn nhấn mạnh đến việc dứt khoát tránh dịp tội chứ không biểu chúng ta móc mắt hay chặt chân, chặt tay (x.Mt 5,29-30). Hiểu được điều này thì chúng sẽ không thấy có sự mâu thuẩn giữa lời dạy và hành động của Chúa Giêsu. Trước mặt thượng tế Khanan, khi bị một thuộc hạ của thượng tế vả vào mặt thì Chúa Giêsu đã chất vấn: “Nếu tôi nói sai, anh hãy chứng minh xem sai ở chỗ nào; còn nếu tôi nói phải, sao anh lại đánh tôi?”(Ga 18,23). Khi dạy chúng ta “nếu bị ai vả má bên phải, thì hãy giơ cả má bên trái nữa” thì Chúa Giêsu chỉ muốn nhấn mạnh điều này: “đừng chống cự người ác”, nghĩa là đừng báo thù, kiểu ăn miếng trả miếng.

Tình yêu thì không có biên giới cả về mức độ lẫn đối tượng. Ăn cho, buôn so. Đã có tính toán, đã có hạn mức cố định thì sẽ chẳng còn là tình yêu. Đã yêu là yêu đến cùng. Xét về mức độ thì Chúa Kitô không chỉ minh định rõ ràng đó là sẵn sàng hiến thân vì người mình yêu mà Người còn thể hiện sự đến cùng trong tình yêu bằng cái chết trên thập giá. Để diễn tả sự đến cùng trong mức độ mến Chúa và yêu tha nhân thì Chúa Giêsu đã long trọng nhắc lại lời Cựu ước và nhấn mạnh thêm: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi…Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình” (Mc 12,30-31). Hạn từ “hết” đuợc lặp đi lặp lại và hạn từ “như chính mình” làm nỗi rõ tính vô biên của tình yêu.

Xét về đối tượng, luật Cựu ước đòi hỏi phải yêu thương người đồng bào, người đồng đạo. Luật còn dạy phải quan tâm đến người nghèo khổ, mẹ goá, con côi, khách ngụ cư, khách ngoại kiều. Chẳng hạn khi gặt lúa thì đừng gặt sát bờ, kiểu gặt sạch sành sanh, đừng mót các gié bị vương vải. Và khi hái nho cũng thế, không được lượm các quả rơi rụng…Tất cả những thứ ấy là để dành cho người nghèo, người khốn khổ… (x. Lv 19, 9-10). Tuy nhiên, dù trong luật không minh nhiên dạy phải ghét kẻ thù nhưng truyền thống và lối sống của dân Chúa xưa luôn có khoảng cách với người tội lỗi, với người bị xem là ô uế, với quân thù lân bang. Những hạng người trên tuy không bị ghét bỏ, nhưng thường không được xem là anh em, là người thân cận với người Do Thái. Một vị thông luật đã từng hỏi Chúa Giêsu rằng: “Ai là người thân cận của tôi?” Nhân dịp ấy Chúa Giêsu đã kể câu chuyện dụ ngôn “người Samaritanô nhân hậu” và qua đó khẳng định rằng chúng ta phải làm người thân cận với tất cả những ai đang cần đến lòng thương xót của chúng ta (x.Lc 10,25-37).

Ngoài trừ thần dữ, Kitô hữu chúng ta không xem ai là kẻ thù. Tuy nhiên vấn nạn đặt ra là làm sao có thể yêu những người xem chúng ta là kẻ thù nghịch đồng thời ngược đãi chúng ta và làm thế nào để thi ân cho người bách hại chúng ta? Làm sao có thể yêu được những người đang làm hại chúng ta cách cố tình và cách bất chính và bất công? Làm sao có thể yêu những người đang đàn áp, bóc lột kẻ nghèo hèn, đang bán nước cầu vinh, đang cao ngạo cho mình là duy nhất đúng kiểu như thần, như thánh trong khi đang làm cho tiền đồ dân tộc đi vào ngõ cụt…?

Nếu cho rằng yêu thuơng là một phạm trù thuộc tình cảm thì quả thật rất khó vượt qua tâm lý bình thường của kiếp người. Tuy nhiên cần lưu ý rằng yêu thương trên hết là một quyết định của ý chí tự do được biểu lộ cả bằng tình cảm và hành động. Không chỉ có những tình cảm trìu mến, quyến luyến mới phản ánh tình yêu mà ngay cả khi giận dữ, buồn phiền cũng có thể phản ánh tình yêu. Chuyện thương con cho roi cho vọt là chuyện như hiển nhiên mang tính quy luật. Không chỉ khi xúc động trước đoàn lũ đông đảo dân chúng như chiên không người chăn thì Chúa Giêsu mới tỏ bày tình yêu, cũng không phải khi Người rơi lệ trước cái chết của Ladarô thì mới là yêu, nhưng cả khi Chúa Giêsu buồn phiền trước lòng chai dạ đá của một số kinh sư và biệt phái cũng là vì yêu hay khi Người xung giận bện dây thành roi đánh đuổi những người đã biến Ngôi nhà Chúa thành nơi chợ búa, thành hang trộm cướp thì cũng là yêu thương vậy.

Yêu thương là không chỉ muốn mà còn phải nỗ lực làm điều tốt nhất cho người mình yêu. Trong niềm tin Kitô giáo thì mọi người đều là anh chị em với nhau. Đã là anh em, chị em với nhau thì trên bình diện tiêu cực, chúng ta không được phép loại bỏ nhau dù dưới bất cứ hình thức nào. Trên bình diện tích cực thì cần giúp nhau tồn tại, phát triển theo thánh ý Thiên Chúa để có hạnh phúc đích thực. Cách thế biểu lộ tình yêu có thể khác nhau tùy từng trường hợp nhưng luôn với ý hướng là để người mình yêu nên tốt hơn, nên hoàn thiện hơn. Có thể nói rằng cách chung đối với những người tội lỗi thuộc hàng bé mọn, yếu đuối, thì Chúa Giêsu thường bày tỏ lòng khoan dung, sự trìu mến, cử chỉ khích lệ, còn với những người tội lỗi thuộc hàng phận cao, quyền trọng mà cố chấp thì Người nghiêm khắc cách tỏ tường.

Với người này thì chúng ta biểu lộ tình yêu bằng cách thế này, người kia thì cách thế kia, nhưng xin đừng quên rằng chúng ta có thể và phải cầu nguyện cho tất cả mọi hạng người. Vâng lệnh Chúa Giêsu chúng ta hãy chân thành cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi chúng ta. Trước hết hãy cầu xin cho họ nhận ra lầm lỗi họ đã phạm và biết sám hối, ăn năn, thay đổi. Hãy cầu xin cho họ biết tìm cách khắc phục những hậu quả xấu đã gây ra cho tha nhân, cho xã hội… Có thể nói đây là bước khởi đầu của việc sống yêu thương “kẻ thù”, yêu thương những người làm hại chúng ta. Tiếp đến, hãy dùng ngôn ngữ mà rao truyền chân lý, vạch trần sự dữ để giúp người lạc lối trở về nẽo chính, đường ngay. Ngôn sứ Êdêkien đã từng nghe Thiên Chúa phán: “Nếu ngươi không báo cho kẻ gian ác biết tội lỗi của nó, không cảnh cáo nó từ bỏ lối sống xấu xa, để nó được sống, thì chính kẻ gian ác sẽ phải chết vì tội lỗi của nó, nhưng Ta sẽ đòi ngươi đền nợ máu nó” (x. Ed 3,18). Có thể có nhiều cách thế yêu thương, nhưng thiết tưởng dù yêu bằng cách thế nào đi nữa cũng không thể thiếu hai động thái trên đây.

Phải chăng đang có đó nhiều Kitô hữu, thậm chí là nhiều tu sĩ, linh mục, giám mục những tưởng rằng mình đã yêu “kẻ thù”, đã làm ơn cho người “làm hại mình”, nhưng thực ra chỉ yêu chính mình mà thôi?

LM. Giuse Nguyễn văn Nghĩa

THA THỨ

THA THỨ

Trong thời kỳ đầu của Phong trào Nhân quyền tại Montgomery, Alabama, đây là điểm sáng đích thực. Những người da đen tẩy chay dịch vụ xe buýt của thành phố, bởi vì có sự kỳ thị chủng tộc. Những người da trắng đã đáp lại bằng cách cho nổ bom những khu nhà của người da đen. Bầu khí sự thù hận bao trùm một cách nặng nề và căng thẳng. Mục sư Martin Luther King, Jr., đã giảng cho cộng đoàn người da đen trong khu phố của ông rằng sự hòa bình và sự tha thứ nằm trong tay của họ. Mục sư tiếp tục trình bày: Hành động quý báu của sự tha thứ luôn luôn được bắt đầu với những người bị lầm lạc.

Lời mời gọi sống Phúc Âm giữa đời là một thách thức đòi hỏi sự thắng vượt chính mình. Từ thời xa xưa, những lời dạy bảo về đức yêu thương và tha thứ đã được ghi chép trong sách Luật: “Đừng giữ lòng thù ghét anh em, nhưng hãy răn bảo họ công khai, để khỏi mang tội vì họ.” (Lv 19,17). Chữ ‘đừng’ đã được tác giả sách Lêvi dùng để khuyên răn đồng loại là ngưng theo đuổi sự dữ. Vì sự dữ sẽ sinh ra sự dữ. Sự báo qua oán lại sẽ không bao giờ được kết thúc. Chúng ta không thể dùng sự báo thù để tìm đạt sự công bình. Nếu chúng ta trả thù qua lại lẫn nhau mãi, thì chúng ta cũng chẳng khác gì cách cư xử của dân ngoại, họ không nhìn biết Thiên Chúa nhân lành. Trong kinh nghiệm sống đời, ai trong chúng ta cũng có lúc cảm thấy bực mình vì sự phản bội, đặt điều nói xấu, ngang trái và gây hại. Thái độ thù ghét là những phản ứng rất tự nhiên của lòng người. Nhưng sách Lêvi khuyên dạy chúng ta là đừng giữ lòng thù ghét nhưng hãy tha thứ và công khai răn bảo.

Đừng tìm báo oán là điểm son trong đời sống đạo: “Đừng tìm báo oán, đừng nhớ lại lời mắng nhiếc của kẻ đồng hương. Hãy yêu thương các bạn hữu như chính mình. Ta là Chúa.” (Lv 19,18). Đừng báo oán, không phải vì chúng ta sợ hãi, nhát đảm, yếu nhược hay bị áp chế, nhưng đây là một thái độ thực hành đạo bác ái yêu thương. Sự nhún nhường là một thái độ bao dung và tự chủ. Người ta vẫn thường nói rằng: Thắng mình khó hơn thắng vạn quân. Không phải ai cũng có thể dễ dàng thắng được sự ghen tuông, thù oán và bất công. Chịu nhường một bước để thắng hai bước, đó là thắng chính mình và thắng người khác. Biết tự kiềm hãm và làm chủ ý chí của mình là một trong những thành công trong việc đối nhân xử thế. Vì chúng ta biết rằng thái độ nóng nảy và giận dữ bốc đồng sẽ gây thiệt hại nhân cách và đổ vỡ tương giao. Tự ái vặt là đầu mối của nhiều phiền thức trong giao tế nhân sự và phá đổ các mối liên hệ.

Chúa Giêsu đã rao giảng tin mừng giải thoát vượt trên mọi lẽ thường tình: “Còn Thầy, Thầy bảo các con: Đừng chống cự với kẻ hung ác, trái lại, nếu ai vả má bên phải của con, thì hãy đưa má bên kia cho nó nữa.” (Mt 5,39). Sống theo Lời Chúa xem ra chúng ta sẽ bị thua thiệt nhiều. Chính Chúa Giêsu đã nêu gương chọn đi vào con đường khiêm hạ này. Một Thiên Chúa có uy quyền trên mọi loài đã cúi đầu chấp nhận mọi xỉ vả của con người. Chúng ta không thể nào hiểu thấu mầu nhiệm của sự đau khổ mà Chúa đã chịu. Nhẫn nhục chịu đựng để thắng vượt những bất công cần có sức mạnh nội tâm nhiệt thành. Trong đời sống thường ngày, chúng ta va chạm biết bao những thứ bực mình chung quanh qua lời nói và cách thế hành xử của những người khác. Cần phải biết kiên nhẫn cư xử và thắng vượt.

Một trải nghiệm gần gũi nhất là làm sao có thể đối xử tốt với các thành viên trong gia đình. Thí dụ: Chỉ cần một lời nói thiếu tế nhị, một thái độ ơ hờ và một tranh luận nhỏ nhoi cũng có thể gây nên sự. Người nói qua, kẻ nói lại chẳng ai chịu ai sẽ dễ gây bất hoà. Đôi khi có những câu chuyện vô cớ cũng làm ảnh hưởng tới bầu khí êm ấm của gia đình. Thật là không đáng! Chúa Giêsu khuyên chúng ta đừng chống cự với kẻ hung ác. Vậy những người vợ và người chồng hiền lương và những thành viên nhiệt tình trong gia đình, nhóm hội hay một cộng đoàn giáo xứ, có đáng để chúng ta phải chống cự lẫn nhau hay không? Ca dao tục ngữ dạy: Lời nói không mất tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau. Đừng bao giờ dùng những lời nói cộc cằn, thô lỗ và tục tĩu đối với tha nhân, nhất là những người trong gia đình thân tộc. Lời nói như con dao hai lưỡi, có thể xây dựng hoà bình và cũng có thể gây chiến tranh. Chúng ta biết chiến tranh bao giờ cũng gây thiệt hại và chỉ phá đổ.

Chúa Giêsu mở con đường yêu thương ngược dòng: “Còn Thầy, Thầy bảo các con: Các con hãy yêu thương thù địch các con, hãy làm lành cho những kẻ ghét các con và cầu nguyện cho những kẻ bắt bớ và vu khống cho các con.” (Mt 5,44). Lời của Chúa không chỉ để suy gẫm và chiêm ngắm, nhưng phải đem ra thực hành trong đời sống. Đây là một thách thức cam go, vì nó đi ngược với bản năng tự nhiên của con người. Trong tâm lòng của con người có thất tình: hỉ, nộ, ai, cụ, ái, ố và dục. Gieo hạt giống nào, chúng ta sẽ được gặt quả đó. Nếu chúng ta gieo sự yêu thương, tha thứ, chúng ta sẽ gặt được hoa trái an lạc và bình yên. Nếu chúng ta gieo hạt giận dữ và thù hằn, tim chúng ta sẽ cháy lửa cuồng si. Để thực hành các nhân đức, chúng ta hãy vun tưới những hạt giống yêu thương, bác ái, từ bi và khoan dung độ lượng. Con đường nhẫn nhục và tha thứ là con đường giải thoát. Tha thứ bỏ qua là cắt đứt dây xích của sự báo thù. Giải thoát chúng ta khỏi những ràng buộc của sự ăn miếng trả miếng. Tâm hồn chúng ta sẽ được tự do vui hưởng sự an vui tự tại.

Thánh Phaolô cảnh tỉnh: “Đừng có ai lừa dối mình. Nếu có ai trong anh em cho mình là người khôn ngoan ở đời này, thì kẻ ấy nên điên dại để được khôn ngoan.” (1 Cr 3,18). Thiên Chúa trao ban cho mỗi người một khả năng riêng biệt. Mỗi người đều có những khả năng để hỗ tương làm giàu cho cuộc sống chung xã hội. Ân huệ giống như các ly chứa có dung tích khác nhau. Người nhiều kẻ ít, ai cũng có một số vốn cần được sinh lợi. Mỗi người chúng ta đều có khả năng chuyên môn để phát triển. Những khả năng tiềm ẩn đã được phú bẩm cho mỗi cá nhân, chỉ cần có cơ hội nó sẽ phát triển. Chúng ta sẽ thoả mãn với những khả năng riêng đã nhận được. Biết rằng dù một số người có khả năng gọi là siêu việt như thần đồng, thì sự khôn ngoan của họ vẫn có giới hạn. Con người không phải là thần minh có thể hiểu thấu mọi sự. So với sự nhiệm mầu bao la của vũ trụ vạn vật, sự khôn ngoan của con người chỉ là hạt sương rơi.

Chẳng có ai hiểu thấu được sự vận hành tiến tới trong tương lai. Trong mọi cố gắng suy tư đi tìm về Chân, Thiện, Mỹ của vũ trụ, sự hiểu biết của con người vẫn chỉ là như mới khởi đầu. Phaolô nói tư tưởng của những kẻ khôn ngoan chỉ là hư không: “Lại có lời khác rằng: Chúa biết tư tưởng của những người khôn ngoan là hão huyền.” (1 Cr 3,20). Thiên Chúa cho tâm trí con người được tham dự vào việc tìm kiếm sự cao siêu của sự sống và vận hành của vũ trụ. Bao lâu con người còn biết đặt niềm tin vào sự hiện hữu của Thiên Chúa thì sự khôn ngoan học hỏi của họ sẽ tìm tới ánh sáng. Quan sát chiếc diều bay cao trên không trung là nhờ sợi dây nối với cột trụ dưới đất. Nếu chúng ta cắt đứt sợi dây nối, diều sẽ rơi xuống đất. Đặt niềm tin vào Thiên Chúa là nguồn gốc của mọi sự khôn ngoan ở đời. Sự khôn ngoan sẽ dẫn dắt chúng ta đến cùng đích và chung cục, đó chính là tình yêu nguồn ơn cứu độ.

Lạy Chúa, Chúa dạy chúng con yêu thương, tha thứ và cầu nguyện cho những kẻ bách hại, nguyền rủa và vu khống. Khó quá Chúa ơi. Mỗi lần chúng con bị người ta hiểu lầm, bịa chuyện và gây hại, chúng con lại muốn tìm cách báo thù. Xin cho chúng con biết nhẫn nhịn dõi theo từng bước chân của Chúa để học hỏi và đem ra thực hành từng ngày trong đời sống. Yêu thương là tất cả!

LM Giuse Trần Việt Hùng