Hội đồng Hồng Y cố vấn của Đức Thánh Cha nhóm họp

Hội đồng Hồng Y cố vấn của Đức Thánh Cha nhóm họp

Hội đồng Hồng Y cố vấn của Đức Thánh Cha nhóm họp

VATICAN. Hôm 12-9-2016, Hội đồng 9 Hồng Y cố vấn của ĐTC đã khai mạc khóa họp thứ 16 với mục đích giúp ngài cải tổ các cơ quan trung ương Tòa Thánh.

Điều hợp viên của Hội đồng là ĐHY Oscar Rodriguez Maradiaga, dòng Don Bosco, TGM giáo phận Tegucigalpa, Honduras, và trong đó cũng có ĐHY Pietro Parolin, Quốc vụ khanh Tòa Thánh. Vị đại diện cho Á châu là ĐHY Oswald Gracias, TGM giáo phận Mumbai, Ấn độ.

Khóa họp sẽ kéo dài đến thứ tư, 14-9 tới đây. ĐTC cũng tham dự ngoại trừ sáng thứ tư ngài bận tiếp kiến chung các tín hữu hành hương. Trong khóa họp thứ 15 hồi đầu tháng 8 vừa qua, Hội đồng đã bàn về vấn đề đại kết Kitô và đối thoại liên tôn.

Trong số những cải tổ được Hội đồng các HY Cố vấn đề nghị và được ĐTC quyết định và thi hành, có việc thành lập Bộ giáo dân, gia đình và sự sống, bắt đầu hoạt động từ đầu tháng 9 này, và Bộ ”Phục vụ phát triển toàn diện con người”, sẽ bắt đầu hoạt động từ đầu tháng giêng năm tới, và bao gồm thẩm quyền và hoạt động 4 Hội đồng: Công lý và Hòa bình, Cor Unum – Đồng Tâm, Mục vụ di dân và người lưu động, sau cùng là Mục vụ các nhân viên y tế.

Tiến trình cải tổ các cơ quan trung ương Tòa Thánh đã khởi sự từ tháng 10 năm 2013. Cho đến nay người ta chưa rõ khi nào sẽ có Tông hiến mới của ĐTC thay thế cho Tông hiến Pastor Bonus, Mục Tử nhân lành, do ĐGH Gioan Phaolô 2 ban hành ngày 28 tháng 6 năm 1988, chứa đựng các qui luật chung về các cơ quan trung ương Tòa Thánh (KP 11-9-2016)

G. Trần Đức Anh OP

Người cùi, người tị nạn ở Orissa tham dự lễ tạ ơn dịp phong thánh Mẹ Têrêsa

Người cùi, người tị nạn ở Orissa tham dự lễ tạ ơn dịp phong thánh Mẹ Têrêsa

các nữ tu Thừa sai bác ái

Bhubaneswar – Trong Thánh lễ cử hành ngày 11/09 tại nhà thờ chánh tòa Thánh Vính sơn ở Bhubaneswar, thủ phủ của bang Orissa, Ấn độ, đã có khoảng 2000 tín hữu đến từ nhiều nơi tham dự; trong đó cũng có các người cùi và tị nạn cư trú tại các cơ sở do các nữ tu Thừa sai bác ái điều hành.

Nữ tu Olivet, phụ trách các nữ tu Thừa sai bác ái miền Orissa, cũng đã nhân danh những người đau bệnh, trẻ mồ côi, những người hấp hối được chăm sóc tại các cơ sở của các nữ tu Thừa sai bác ái, cám ơn cộng đoàn. Chị cho biết là những người nghèo mong muốn tha thiết được hiện diện tại buổi lễ tạ ơn, vì “qua Mẹ Têrêsa mỗi người trong họ nhận ra Thiên Chúa chăm sóc họ”.

Đức Tổng Giám mục John Barwa, chủ sự Thánh lễ đã chia sẻ: “Mẹ thánh Têrêsa là gương mẫu cho mỗi người của thời đại hiện nay. Mẹ đã mang đến cho những người bị bỏ rơi, bị gạt bên lề xã hội, những người không được cứu chữa, không được tôn trọng, không được nhận biết, một nhân phẩm, qua việc phục vụ cách yêu thương, một sự dấn thân hoàn toàn, một sự trung thành và một tinh thần huynh đệ chân thật. Chứng từ của cuộc sống và mẫugương của Mẹ giống như ‘Mẹ của các người nghèo’ nói với tất cả , những người có đức tin cũng như không có đức tin, v có thể thấy cách rõ ràng, như thành phố được xây trên một ngọn núi được ghi lại trong Tin mừng”

Nữ tu Samuela, cũng thuộc dòng Thừa sai bác ái kết luận: “Chúng ta ở đây để tạ ơn Thiên Chúa bởi ánh sáng đã chiếu soi chúng ta và toàn thế giới, qua Mẹ Têrêsa. Người phụ nữ vĩ đại của thời đại chúng ta, sứ giả của Tin Mừng, cuộc sống được đánh dấu sâu đậm bởi tình yêu, và bây giờ là một vị thánh. Chúng ta chiêm ngắm Mẹ như một gương mẫu và một nguồn linh hứng”. (Fides 12/09/2016)

Hồng Thủy 

Tân Thống Phụ Dòng Biển Đức: Cha Gregory Polan

Tân Thống Phụ Dòng Biển Đức: Cha Gregory Polan

Tân Thống Phụ Dòng Biển Đức  Cha Gregory Polan

ROMA. Cha Gregory Polan người Mỹ đã được bầu làm Thống Phụ (Abate Primate) thứ 10 của Liên hiệp các chi dòng Biển Đức trên thế giới, với nhiệm kỳ 8 năm.

Cha là Viện Phụ Đan viện Biển Đức Conception ban Missouri Hoa Kỳ, đã được khoảng 250 Viện phụ và Bề trên dòng Biển Đức bầu lên hôm 10-9 vừa qua trong Đại hội ở Đan viện thánh Anselmo, Roma, kế nhiệm Cha Notker Wolf người Đức, vừa mãn nhiệm 16 năm.

Cha Gregory Polan sinh trưởng tại Chicago và nhập tập viện ở Đan viện Conception năm 1970, thụ phong LM 7 năm sau đó. Năm 1996, cha được bầu làm Viện Phụ của Đan viện này.

Cha Polan là một chuyên gia về thần học kinh thánh, giảng dạy tiếng Hy Lạp và Do thái tại Chủng viện thuộc Đan viện Conception. Cha cũng chuyên về âm nhạc.

Trong tư cách là Thống Phụ, cha Gregory Polan đại diện cho khoảng 22 ngàn Đan sĩ nam nữ dòng Biển Đức trên thế giới. Ngành nam của dòng này có hơn 7 ngàn Đan sĩ chia thành 21 chi dòng, họp thành một Liên hiệp. Ngành nữ của dòng có hơn 15 ngàn nữ Đan sĩ. (KNA 10-9-2016)

 G. Trần Đức Anh OP 

Cầu nguyện cho ơn hiệp nhất

Cầu nguyện cho ơn hiệp nhất

Thánh lễ thứ hai, 12-9-2016 tại nhà nguyện Thánh Marta

Sự chia rẽ đã phá hoại Hội Thánh và ma quỷ nỗ lực tấn công vào gốc rễ của sự hiệp nhất, gốc rễ của sự hiệp nhất là việc cử hành Thánh Lễ. Đó là lời mà Đức Thánh Cha Phanxicô chia sẻ trong Thánh lễ sáng nay tại Nhà nguyện Thánh Marta, nhân ngày lễ Danh thánh Mẹ Maria.

Giải thích thư của Thánh Phaolô tông đồ gửi tín hữu Cô-rin-tô, Đức Thánh Cha nói rằng, ma quỷ có hai vũ khí lợi hại để phá hoại Hội Thánh, đó là sự chia rẽ và tiền bạc. Những điều này xảy ra ngay từ thời đầu: những chia rẽ về tư tưởng và về thần học đã xâu xé Hội Thánh. Ma quỷ đã gieo rắc tham vọng và ghen tuông để chia rẽ. Sau cuộc chiến của chia rẽ thì tất cả bị hủy diệt, còn ma quỷ thì chạy trốn trong sung sướng. Trong khi đó, chúng ta trở nên trần trụi trong trò chơi của ma quỷ. Cũng có thứ chiến tranh nhơ bẩn tựa như khủng bố. Đó là những lời nói hành nói xấu trong các cộng đoàn. Đó là những thứ ngôn ngữ để giết hại.

Những chia rẽ trong Giáo Hội không để cho Nước Trời được lớn lên, không để cho Chúa được hiện diện như chính Ngài. Những chia rẽ là điều mà anh chị em đang thấy, sẽ thấy và lại thấy… Luôn có! Nhưng ma quỷ đi xa hơn sâu hơn. Chúng không chỉ tấn công vào cộng đoàn Kitô hữu, mà còn vào tận gốc rễ của sự hiệp nhất Kitô, là tấn công vào việc cử hành Thánh Lễ. Điều này đã xảy ra trong cộng đoàn Cô-rin-tô.

Nơi cộng đoàn Cô-rin-tô thời ấy, có sự phân biệt giữa người giàu và người nghèo trong việc cử hành Thánh Lễ. Đức Thánh Cha nói: Chúa Giêsu đã cầu nguyện cùng Chúa Cha về sự hiệp nhất, nhưng ma quỷ thì ra sức phá hoại.

Đức Thánh Cha nói: Cha nài xin anh chị em hãy làm tất cả những gì có thể để đừng phá hoại Hội Thánh với những chia rẽ về tư tưởng, tham vọng… Trên tất cả, hãy cầu nguyện và bảo vệ cội rễ hiệp nhất của Hội Thánh là thân thể Đức Kitô. Đó là, hàng ngày chúng ta cùng nhau hiệp dâng lễ hy sinh của Chúa Kitô trong Thánh Lễ.

Thánh Phaolô đã nói về sự chia rẽ giữa các Kitô hữu Cô-rin-tô hai ngàn năm trước… Những lời của thánh nhân vẫn thích hợp cho chúng ta hôm nay, cho Hội Thánh ngày nay. “Thưa anh em, về điều này, tôi chẳng khen anh em đâu, vì những buổi họp của anh em không đem lại lợi ích gì, mà chỉ gây hại…” Và “bất của ai ăn Bánh và uông Chén của Chúa cách bất xứng, thì cũng phạm đến Mình và Máu Chúa.”

Chúng ta hãy khẩn cầu cùng Thiên Chúa để Hội Thánh hiệp nhất, để không còn chia rẽ. Ơn hiệp nhất ở ngay trong cội rễ của Hội Thánh, là lễ hy sinh của Đức Kitô mà chúng ta cử hành trong Thánh Lễ hằng ngày.

Tứ Quyết, SJ

Thiên Chúa luôn chờ đợi và tha thứ cho chúng ta

Thiên Chúa luôn chờ đợi và tha thứ cho chúng ta

Đưc Thánh Cha chủ sự buổi đọc Kinh Truyền Tin trưa Chúa Nhật 24 Thường Niên

VATICAN. Trong buổi đọc Kinh Truyền Tin trưa Chúa Nhật, ngày 11 tháng 09,  Đức Thánh Cha Phanxicô nói rằng với ba dụ ngôn trong bài Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay, Đức Giêsu trình bày cho chúng ta gương mặt đích thật của Thiên Chúa. Ngài là một người cha với vòng tay rộng mở, đối xử với kẻ tội lỗi bằng sự dịu hiền và lòng xót thương.

Bài huấn dụ của Đức Thánh Cha

“Phụng vụ hôm nay đề nghị với chúng ta chương 15, Tin Mừng theo thánh Luca. Chương này nói về lòng thương xót, bao gồm ba dụ ngôn, qua đó Đức Giêsu đáp lại những lời xì xầm của các kinh sư và luật sỹ. Họ chỉ trích Đức Giêsu về những hành động của Ngài. Họ nói: ‘Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng’ (Lc 15, 2). Với ba dụ ngôn này, Đức Giêsu muốn mọi người hiểu rằng Thiên Chúa Cha muốn dành thái độ đón nhận, cảm thông và thương xót trước hết cho những người tội lỗi. Trong dụ ngôn thứ nhất, Thiên Chúa được miêu tả như vị mục tử sẵn sàng bỏ lại chín mươi chín con chiên để đi tìm con chiên bị lạc mất. Ở dụ ngôn thứ hai, Thiên Chúa được ví với người phụ nữ đánh mất đồng bạc, đã thắp đèn đi tìm cho kỳ được. Với dụ ngôn thứ ba, Thiên Chúa được miêu tả giống như người cha đón nhận và tha thứ cho đứa con hoang đàng bỏ nhà đi xa; hình ảnh người cha đã vén mở trái tim nhân hậu của Thiên Chúa được diễn tả nơi Đức Giêsu.

Điểm chung của cả ba dụ ngôn này là điều được diễn tả ngang qua các động từ có ý nghĩa chung vui với nhau, mở tiệc ăn mừng. Không phải khóc than, buồn sầu nhưng là chung vui với nhau và mở tiệc mừng. Người mục tử đã mời bạn bè, hàng xóm lại và nói: ‘Xin chung vui với tôi, vì tôi đã tìm được con chiên của tôi, con chiên bị mất đó’ (Lc 15, 6).  Người phụ nữ cũng mời bạn bè, hàng xóm lại và nói: ‘Xin chung vui với tôi, vì tôi đã tìm được đồng quan tôi đã đánh mất’ (Lc 15, 9). Cũng vậy, người cha nói với đứa con cả: ‘Chúng ta phải ăn mừng, phải vui vẻ, vì em con đây đã chết mà nay lại sống, đã mất mà nay lại tìm thấy’ (Lc 15, 32). Ở hai dụ ngôn đầu, Đức Giêsu muốn nhấn mạnh đến sự vui mừng. Niềm vui ấy lớn đến nỗi khiến cho người ta phải chia sẻ với ‘bạn bè và hàng xóm’. Trong dụ ngôn thứ ba, điểm quan trọng là tiệc mừng. Tiệc mừng ấy xuất phát từ trái tim giầu lòng thương xót của người cha và lan tỏa đến khắp mọi người trong nhà. Tiệc mừng mà Thiên Chúa dành cho những ai biết ăn năn trở lại với Ngài thật am hợp biết bao với tâm tình mà chúng ta đang trải nghiệm trong Năm Thánh Lòng Thương Xót này. Chúng ta đều dùng một thuật ngữ chung ‘năm toàn xá’!

Với ba dụ ngôn này, Đức Giêsu trình bày cho chúng ta gương mặt đích thật của Thiên Chúa, là người cha với vòng tay rộng mở, đối xử với kẻ tội lỗi bằng sự dịu hiền và lòng xót thương. Dụ ngôn cảm động nhất, vì diễn tả tình yêu vô biên của Thiên Chúa, là dụ ngôn về người cha chạy ra ôm cổ người con trai bị lạc mất và hôn lấy hôn để. Như vậy, điểm đánh động ở đây không phải là câu chuyện buồn về một chàng thanh nhiên trẻ bị rơi vào cảnh suy đồi, nhưng chính là những lời nói đầy xác quyết của anh: ‘Thôi, ta đứng lên, đi về cùng cha’ (Lc 15, 18). Con đường về nhà là con đường của hy vọng và của một đời sống mới. Thiên Chúa luôn chờ đợi chúng ta bắt đầu cuộc hành trình trở về. Ngài đợi chờ chúng ta với niềm hy vọng. Ngài trông thấy ta khi ta còn ở mãi đằng xa. Ngài chạy ra ôm chầm lấy ta, hôn lấy hôn để và sẵn sàng tha thứ hết mọi tội lỗi. Thiên Chúa là như thế đó! Cha của chúng ta đáng yêu như thế đó! Sự tha thứ của Thiên Chúa xóa bỏ quá khứ lầm lỗi và tái sinh chúng ta trong tình yêu. Quên đi quá khứ chính là điểm yếu của Thiên Chúa. Mỗi khi Ngài ôm lấy ta và tha thứ cho ta là Ngài quên hết quá khứ, chẳng còn nhớ gì nữa. Thiên Chúa lãng quên quá khứ lỗi lầm. Khi chúng ta phạm tội nhưng biết ăn năn và trở về với Thiên Chúa, Ngài sẽ chẳng bao giờ quở mắng hay trách phạt, vì Thiên Chúa cứu độ và tái đón nhận ta vào nhà với niềm vui và tiệc mừng. Chính Đức Giêsu, trong bài Tin Mừng hôm nay, đã nói: ‘Trên trời ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối, hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần phải sám hối ăn năn’ (Lc 15, 7). Tôi muốn hỏi anh chị em một điều: Anh chị em có bao giờ nghĩ rằng mỗi khi chúng ta đi xưng tội là trên trời tràn ngập niềm vui và mở tiệc mừng hay không? Anh chị em có bao giờ nghĩ như thế chưa? Thật là đẹp biết bao!

Điều này mang lại cho chúng ta niềm hy vọng lớn lao, vì với ân sủng của Thiên Chúa chúng ta có thể tiếp tục đứng dậy mỗi khi té ngã trước mọi tội lỗi dù tội đó trầm trọng đến mấy đi nữa. Không có ai là hết phương cứu chữa; chẳng có ai mà không được cứu độ! Bởi vì Thiên Chúa không bao giờ ngừng muốn những điều tốt đẹp cho ta, ngay cả khi ta phạm tội! Xin Đức Trinh Nữ Maria, Chốn Náu Nương cho những ai tội lỗi, làm nảy sinh trong tâm hồn chúng ta niềm xác tín giống như đã nảy sinh trong trái tim của người con hoang đàng: ‘Thôi, ta đứng lên, đi về cùng cha và thưa với người: Thưa cha, con thật đắc tội với cha’ (Lc 15, 18). Bằng cách đó, chúng ta có thể làm vui lòng Thiên Chúa và niềm vui của Ngài sẽ trở thành niềm vui cũng như tiệc mừng của chúng ta.”

Tiếp đến, Đức Thánh Cha đã đọc Kinh Truyền Tin và ban phép lành tòa thánh cho mọi người.

Sau Kinh Truyền Tin, Đức Thánh Cha nói: “Tôi mời gọi anh chị em hãy cầu nguyện đặc biệt cho Gabon, đang trải qua những giây phút khủng hoảng chính trị trầm trọng. Tôi phó thác vào tay Thiên Chúa toàn năng các nạn nhân của những vụ đụng độ cũng như gia đình của họ. Tôi hiệp lời với các Giám mục của đất nước Phi châu mến yêu để mời gọi các bên chấm dứt mọi hình thức bạo lực và cùng nhau thăng tiến lợi ích chung. Tôi khuyến khích tất cả mọi người xây dựng hòa bình trên tinh thần tôn trọng luật pháp, trong đối thoại và tình huynh đệ.

Hôm nay tại Karaganda, ở Kazakhstan, Giáo hội đã tôn phong chân phước cho linh mục Ladislao Bukowinski. Ngài đã bị sát hại vì đức tin. Trong suốt cuộc đời, cha đã bày tỏ tình yêu dạt dào cho những người yếu đuối và nghèo khổ nhất. Chứng tá của cha là kết tinh của những công việc bác ái về tinh thần cũng như thể xác.”

Tiếp đến, Đức Thánh Cha gởi lời chào thân ái đến tất cả các tín hữu ở Roma và khách hành hương đến từ Italia cũng như các quốc gia khác.

Cuối cùng Đức Thánh Cha chúc tất cả mọi người ngày Chúa nhật tốt lành và Ngài cũng không quên xin mọi người cầu nguyện cho Ngài.

Vũ Đức Anh Phương SJ

 

Đức Thánh Cha tiếp kiến chung nhân dịp Năm Thánh: 10-9-2016

Đức Thánh Cha tiếp kiến chung nhân dịp Năm Thánh: 10-9-2016

Đức Thánh Cha tiếp kiến chung nhân dịp Năm Thánh

VATICAN. Trong buổi tiếp kiến 30 ngàn tín hữu hành hương sáng ngày 10-9-2016, ĐTC phê bình ảo tưởng của nhiều người ngày nay, tưởng rằng mình có thể được giải thoát nhờ sức riêng của mình.

Đây là buổi tiếp kiến chung đặc biệt trong Năm Thánh mỗi tháng một lần vào một buổi sáng thứ bẩy. Trong bài huấn giáo, ĐTC đã nói về đề tài ”Lòng thương xót và ơn cứu chuộc, dựa trên thư thứ I của thánh Phêrô, đoạn 1 (1,18-21): Thiên Chúa cứu chuộc chúng ta trong máu của Chúa Giêsu Con của Ngài.

ĐTC nhận xét rằng ”Dường như con người ngày nay không thích nghĩ mình được giải thoát và cứu độ nhờ sự can thiệp của Thiên Chúa; họ có ảo tưởng về tự do của mình như sức mạnh để đạt được mọi sự. Nhưng thực tế không phải như vậy. Bao nhiêu ảo tưởng đã được bán đi dưới danh nghĩa tự do và bao nhiêu thứ nô lệ mới người ta tạo nên ngày nay nhân danh một thứ tự do giả tạo! Chúng ta cần Thiên Chúa Đấng giải thoát chúng ta khỏi mọi hình thức dửng dưng, ích kỷ và tự mãn”.

ĐTC xác quyết rằng ”Nhờ sự chết và phục sinh của Ngài, Chúa Giêsu Kitô, Con Chiên không vết tỳ ố, đã chiến thắng sự chết và tội lỗi để giải thoát chúng ta khỏi sự thống trị của chúng. Người là Con Chiên đã bị sát tế vì chúng ta, để chúng ta có thể đươc một cuộc sống mới với ơn tha thứ, yêu thương và vui mừng”.

ĐTC cũng nhận xét rằng ”Chắc hẳn cuộc sống đặt chúng ta trước thử thách và nhiều khi chúng ta đau khổ vì những thử thách ấy. Nhưng trong những lúc đó, chúng ta được mời gọi hướng nhìn Chúa Giêsu chịu đóng đanh, Người đang chịu đau khổ vì chúng ta và với chúng ta, như bằng chứng chắc chắn Thiên Chúa không bỏ rơi chúng ta. Dầu sao chúng ta không bao giờ được quên rằng trong lo âu và bách hại, cũng như trong những đau khổ hằng ngày, chúng ta luôn được giải thoát nhờ bàn tay thương xót của Thiên Chúa, Đấng nâng chúng ta lên cùng Người và dẫn chúng ta đến một đời sống mới”.

ĐTC cũng nhắc nhở rằng: ”Tình thương của Thiên Chúa thật là vô biên: chúng ta có thể khám phá những dấu hiệu luôn mới mẻ chỉ cho chúng ta thấy sự quan tâm của Chúa đối với chúng ta, và nhất là ý Chúa muốn đến với chúng ta và đi trước chúng ta. Toàn thể cuộc sống của chúng ta, tuy bị mong manh vì tội lỗi, vẫn được đặt dưới cái nhìn của Thiên Chúa, Đấng yêu thương chúng ta” (SD 10-9-2016)

G. Trần Đức Anh OP 

Đức Thánh Cha tiếp các Giám Mục xứ truyền giáo

Đức Thánh Cha tiếp các Giám Mục xứ truyền giáo

Đức Thánh Cha tiếp các Giám Mục xứ truyền giáo

VATICAN. ĐTC khích lệ các GM tại các xứ truyền giáo cảm nghiệm và biểu lộ lòng thương xót của Thiên Chúa trong sứ vụ Giám Mục của mình.

Ngài bày tỏ lập trường trên đây trong buổi tiếp kiến sáng 9-9-2016 dành cho 94 GM thuộc các xứ truyền giáo, đang tham dự khóa bồi dưỡng do Bộ truyền giáo tổ chức tại Giáo Hoàng Học Viện Thánh Phaolô ở Roma, cho đến ngày 16-9 tới đây. Hiện diện tại buổi tiếp kiến cũng có ĐHY Fernando Filoni, Tổng trưởng Bộ truyền giáo, và các chức sắc của Bộ.

Trong số các tham dự viên, có 6 GM Việt Nam, đó là Đức Cha Nguyễn Tấn Tước, Phú Cường, Đức Cha Nguyễn Văn Hai, GM Vĩnh Long, Đức Cha Nguyễn Hùng Vị, GM Komtum, Đức Cha Trần Văn Toản, Phụ tá Long Xuyên, và Đức Cha Nguyễn Hồng Sơn, Phụ tá Bà Rịa, Đức Cha Đỗ Mạnh Hùng, Phụ tá Sàigòn.

Huấn từ của ĐTC

Nhắc đến khóa học của các GM diễn ra trong Năm Thánh lòng thương xót, ĐTC nói rằng: ”Mỗi GM đích thân cảm nghiệm thực tại lòng thương xót của Chúa, và trong tư cách là đại diện ”Vị Đại Mục tử của đoàn chiên” (Dt 13,20), Giám Mục được kêu gọi biểu lộ bằng cuộc sống và sứ vụ Giám Mục, tình phụ tử của Thiên Chúa, lòng từ nhân, sự ân cần, lòng thương xót, sự dịu dàng và đồng thời biểu lộ thế giá của Chúa Kitô, Đấng đã đến để hiến mạng sống và làm cho tất cả mọi người thành một gia đình duy nhất, được hòa giải trong tình yêu của Chúa Cha”.

 ĐTC nhắc nhở các GM thuộc các xứ truyền giáo rằng: ”Theo hình ảnh vị Mục Tử nhân lành, anh em được mời gọi chăm sóc đoàn chiên và đi tìm các con chiên, nhất là những chiên ở xa xăm hoặc lạc đường; tìm kiếm những thể thức mới để loan báo, đi gặp gỡ con người, giúp đỡ những người đã nhận hồng ân bí tích rửa tội tăng trưởng trong đức tin, để các tín hữu, cả những người ”nguội lạnh” hoặc không thực hành đạo, tái khám phá niềm vui đức tin và sự phong phú truyền giáo (EG 11). Vì thế, tôi khuyến khích anh em đi gặp cả những con chiên chưa thuộc đoàn chiên của Chúa Kitô”.

Trong bài huấn dụ, ĐTC cũng kêu gọi các GM quan tâm đến các giáo dân, khuyến khích, đồng hành và khích lệ các sáng kiến và nỗ đang có để duy trì niềm hy vọng và đức tin được luôn sinh động…

Các GM cũng cần chú ý đến việc đào tạo LM trong những năm ở chủng viện, và không quên đồng hành với họ trong việc thường huấn sau khi chịu chức. ”Anh em hãy cống hiến cho các linh mục một tấm gương cụ thể và hữu hình. Khi có thể anh em cũng hãy cố gắng tham dự với họ những giai đoạn chính trong việc huấn luyện, luôn chăm sóc cả chiều kích bản thân nữa”.

Chống chia rẽ

Sau cùng ĐTC cảnh giác các GM ”làm sao để những hoạt động mục vụ mà anh em cổ võ không bị thương tổn hoặc bị tiêu tán vì những chia rẽ hiện có hoặc có thể xảy ra. Chia rẽ là võ khí mà ma quỉ có trong tay nhiều nhất để phá hủy Giáo hội từ bên trong. Hắn có hai võ khí, nhưng cái chính yếu là chia rẽ; võ khí kia là tiền bạc. Ma quỉ đi vào qua các túi và phá hủy bằng miệng lưỡi, với những lời nói hành nói xấu gây chia rẽ, và thói quen nói hành nói xấu là tập quán ”khủng bố”. Kẻ nói hành nói xấu là một ”tên khủng bố” ném bom để phá hủy. Xin anh em vui lòng chiến đấu chống chia rẽ vì đó là một trong những võ khí của ma quỉ để phá hoại Giáo Hội địa phương và Giáo hội hoàn vũ. Nhất là những khác biệt vì các sắc tộc khác nhau trong cùng một lãnh thổ không được xen vào các cộng đồng Kitô đến độ ảnh hưởng trên thiện ích của các tín hữu. Giáo Hội luôn được kêu gọi vượt lên trên những sắc thái bộ lạc, văn hóa, và GM là nguyên lý hữu hình của tình hiệp nhất, có nghĩa vụi không ngừng xây dựng Giáo Hội địa phương trong tình hiệp thông của tất cả các phần tử của mình” (SD 9-9-2016)

 G. Trần Đức Anh OP

Sự ngạc nhiên tốt đẹp: cha Lombardi bình luận cuốn sách mới về ĐGH Biển đức XVI

Sự ngạc nhiên tốt đẹp: cha Lombardi bình luận cuốn sách mới về ĐGH Biển đức XVI

Nguyên GH Biển đức XVI

Ngày hôm nay, cuốn sách “Biển đức XVI. Những cuộc trò chuyện cuối cùng” sẽ được phát hành bằng tiếng Ý trên toàn thế giới.

Cuốn sách thuật lại các cuộc phỏng vấn của ký giả người Đức Peter Seewald với Đức Giáo hoàng danh dự, bao gồm những giai đoạn quan trọng trong cuộc đời của ngài, từ thời niên thiếu dưới chế độ Đức quốc xã, việc khám phá ơn gọi, những năm khó khăn trong chiến tranh, phục vụ ở Vatican và mối liên kết chặt chẽ với thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II cho đến cuộc bầu Giáo hoàng và quyết định từ nhiệm. Đức Giáo hoàng danh dự cũng nói về Đức Giáo hoàng Phanxicô, bày tỏ sự ngạc nhiên và rồi vui mừng vì việc bầu Đức Phanxicô chứng tỏ rằng Giáo hội sống động, linh hoạt và không cứng nhắc trong những chương trình và điều này đáng khen ngợi và khuyến khích.

Cha Federico Lombardi, nguyên là Giám đốc Phòng báo chí Tòa Thánh và đương kim chủ tịch Hội đồng quản trị Quỹ Joseph Ratzinger-Benedetto XVI của Vatican đã nhận định:  cuốn sách mới thuật lại cuộc phỏng vấn với Đức Biển đức XVI, được phát hành bằng các thứ tiếng khác nhau, chắc chắn đối với nhiều người là một ngạc nhiên, nhưng chúng ta có thể nói đó là một sự ngạc nhiên tốt đẹp.”

Cha Lombardi phân tích: “Một ngạc nhiên theo nghĩa là, Đức Biển đức đã đưa ra một chọn lựa rõ ràng là dành đời mình cho cuộc sống cầu nguyện và suy tư. Có lẽ chúng ta không chờ đợi việc xuất bản một cuộc trò chuyện mới, dài, với một ký giả. Một ngạc nhiên tốt đẹp, vì, vượt qua sự ngạc nhiên ban đầu, việc đọc cuốn sách cách thong thả giúp chúng ta nhận ra những viên ngọc rất quý giá và có giá trị lớn lao, những viên ngọc hữu ích và thú vị. Những viên ngọc quý giá, theo tôi, có 2 điều, nằm trong phần I và chương cuối của phần III của cuốn sách”. Theo cha, hai điều quan trọng là: chứng tá của Đức Biển đức trong giai đoạn cuối đời và lý do ngài từ chức.

Cha Lombardi nhận định: “Điều đầu tiên và chính yếu là kinh nghiệm thiêng liêng cảm động của vị Giáo hoàng danh dự cao tuổi “trong hành trình đạt đến sự hiện diện của Thiên Chúa. Tóm lại, Đức Biển đức XVI nói cách bình thản về việc ngài đang sống thế nào trong chiêm niệm và cầu nguyện giai đoạn cuối cùng của cuộc sống. Thánh Gioan Phaolô II đã cho chúng ta chứng tá quý giá về cách ngài chịu đựng trong đức tin sự đau đớn nặng nề của bệnh tật. Đức Biển đức XVI cho chúng ta chứng tá của con người của Thiên Chúa, tuổi già chuẩn bị cho cái chết. Ngài nói với cung giọng khiêm nhường và của con người trong nhận biết sự yếu đuối thể lý làm cho ngài khó mà luôn luôn ở mãi được, như ngài mong muốn, trong “đỉnh cao của tinh thần”. Ngài nói với chúng ta về mầu nhiệm lớn lao của Thiên Chúa, về những câu hỏi lớn đã theo ngài trong đời sống thiêng liêng và tiếp tục theo ngài, và có thể là ngày càng trở nên lớn hơn, giống như sự hiện diện của sự dữ trong thế giới. Ngài nói với chúng ta đặc biệt về Chúa Giêsu Kitô, tâm điểm thật sự của cuộc đời của ngài mà ngài “thấy ngay trước mặt” ngài, “luôn luôn vĩ đại và mầu nhiệm”, và sự thật là bây giờ ngài tìm thấy “rất nhiều lời của Tin Mừng, vì sự cao cả và nghiêm trọng của các lời này, khó khăn hơn ngài nhận thấy trong quá khứ”.

Đức Giáo hoàng già yếu sống sự tiếp cận với ngưỡng cửa của mầu nhiệm “không rời bỏ sự chắc chắn của nền tảng của đức tin và lưu lại, và như thế nói là “đắm mình trong đức tin”. “Chúng ta nhận ra rằng cần phải khiêm tốn, nhận ra là nếu người ta không hiểu lời Kinh thánh, người ta phải chờ đợi cho đến khi Thiên Chúa mở ra cho chúng ta hiểu biết.

Đức Biển đức nói cách thanh thản về cái nhìn về cuộc sống quá khứ của ngài và “gánh nặng tội lỗi”, về hối tiếc đã không làm đủ cho người khác, nhưng cả sự tin tưởng vào tình yêu của Thiên Chúa, về thực tế là vào giây phút gặp gỡ “ngài sẽ cầu nguyện xin được Thiên Chúa khoan dung với sự đau khổ của ngài” và với sự xác tín rằng trong cuộc sống vĩnh cửu “ngài sẽ thật sự được về nhà””.

Cha Lombardi nói về khía cạnh quan trọng thứ hai: “Bên cạnh viên ngọc thật sự nền tảng này, từ một cấp độ khác – thấp hơn nhưng nổi bật – được đánh giá cao, đó là câu trả lời rõ ràng và bình thản cho tất cả những suy đoán vô căn cứ về lý do ngài từ chức vụ Giáo hoàng, giống như là do gặp phải những khó khăn từ các bê bối và các âm mưu. Được những câu hỏi của ký giả Seewald gợi lên, chính Đức Biển đức XVI đã quyết định làm rõ vấn đề, theo cách chúng ta hy vọng dứt khoát, ngài nói về hành trình phân định mà qua nó ngài đến trước Thiên Chúa với quyết định, và với sự thanh thản ngài đã thông báo và thực hiện mà không có sự phân vân và không bao giờ hối tiếc. Ngài khẳng định là quyết định được đưa ra không phải do áp lực của các vấn đề bức xúc, nhưng đúng hơn, chỉ khi những vấn đề này đã được khắc phục về cơ bản. “Tôi đã có thể phải từ chức chính vì những vấn đề đó đã trở lại bình an”. Đây không phải là một cuộc rút lui dưới áp lực của những sự kiện hay một cuộc trốn chạy vì không đủ khả năng đối phó với nó”.

Theo cha Lombardi, những lời của Đức Biển đức vừa trả lời cho những đồn thôi vô căn cứ về quyết định của ngài, vừa cho thấy tính hợp lý và thuyết phục của nó. Khi ngài thấy không còn thích hơp cho việc thi hành trách nhiêm điều hành Giáo hội vì những lý do thể lý và tâm lý thì việc từ chức là nghĩa vụ và bình thường. Cha cũng nhận xét, có thể việc biện phân của Đức Biển đức trong trường hợp này sẽ giúp cho các vị kế nhiệm một khả năng chọn lựa  dễ dàng theo.

Cha Lombardi cũng đưa ra một số đề tài thú vị khác như: suy tư của Đức Biển đức về việc tham dự Công đồng Vatican II, việc cộng tác với thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II, suy tư thần học, vv.

Cha Lombardi kết luận: Ngay cả cái nhìn về triều đại Giáo hoàng, trong những điểm sáng và giới hạn của ngài, sáng suốt và thanh thản, giống như thích hợp với những ai “đếm tháng ngày của mình” đã học được cách nhìn vào các sự kiện của thế giới này với “sự khôn ngoan của trái tim” (x. Tv 90), và có thể phó thác cuộc đời và hoạt động cho Thiên Chúa với sự tin tưởng”. (RV 09/09/2016)

15 triệu khách hành hương đến Rome trong 9 tháng đầu Năm Thánh Lòng thương xót

15 triệu khách hành hương đến Rome trong 9 tháng đầu Năm Thánh Lòng thương xót

Pilgrim in jubilee year 2016

Hôm 07/09 vừa qua, Hội đồng Tòa Thánh Tái Truyền giảng Tin mừng đã cho biết có hơn 15 triệu khách hành hương đi qua cửa Năm Thánh trong vòng 9 tháng đầu Năm Thánh Lòng thương xót.

Cha Eugene Sylva thuộc Hội đồng chia sẻ với đài Vatican về kinh nghiệm của các khách hành hương trong Năm Thánh Lòng Thương xót. Cha nhận xét là con số khách hành hương trong hai tháng 7 và 8 thật là ngạc nhiên một cách kỳ diệu, vì các du khách thường tránh đến Roma trong  cái nắng thiêu đốt của mùa hè. Theo cha, “đây là bằng chứng lòng thương xót đang chạm đến trái tim của nhiều người trên khắp thế giới và soi sáng cho họ đến và đi qua Cửa Thánh để nhận hồng ân của thời gian không thể tin được này và để gặp Đức Thánh Cha Phanxicô, cũng là điều quan trọng”.

Cha Sylva cũng lưu ý việc  Đức Thánh Cha Phanxicô đã nhắc nhớ Giáo hội về sứ vụ lòng thương xót trong Năm Thánh và chính trên đó Giáo hộ được thành lập; đó là điều mà trong những cách thế nhỏ nhặt chúng ta có thể thể hiện và chia sẻ lòng thương xót, dù là bị bó buộc trong phòng bệnh hay trong nhà dưỡng lão. Đức Thánh Cha đã làm gương qua thực hành các ngày Thứ Sáu của lòng thương xót. Ngài muốn thực hành cách riêng tư để có kinh nghiệm cá nhân thực sự với một nhóm người. Nhưng qua chúng ta, nhiều người có thể được nhìn thấy việc ngài làm và theo gương ngài, vì các việc thiêng liêng và cụ thể của lòng thương xót rất quan trọng trong Năm thánh này.

Cha nhận định là Năm thánh cũng đưa ra một động lực mới cho việc tái truyền giảng Tin mừng. Cha nói: “Năm thánh này đang thúc đẩy chúng ta cùng với việc tái truyền giảng Tin mừng. Nó giúp chúng ta thấy kế hoạch mục vụ về những nơi kế tiếp sẽ đi và để buộc lại toàn bộ biện chứng của tình yêu và đức tin – và đức tin và tình yêu – đối với Đức Thánh Cha Phanxicô, là điều rất cần thiết trong việc chúng ta thực hiện cụ thể kế hoạch đó cho việc tái truyền giảng Tin mừng”. (RV 09/09/2016)

Hồng Thủy

Kinh nghiệm cầu nguyện trong lúc đau khổ của bà Jennifer Hubbard

Kinh nghiệm cầu nguyện trong lúc đau khổ của bà Jennifer Hubbard

Jennifer Hubbard 1

Đối với nhiều người, cầu nguyện thật là khó khăn trong những giờ phút đau khổ cùng cực tuyệt vọng. Lúc đó người ta thường không nhớ đến Thiên Chúa, hoặc có nhớ đến Ngài thì thường là kêu than oán trách, tại sao Chúa lại để điều này xảy ra với tôi. Nhưng đối với bà Jennifer Hubbard, một cộng tác viên của báo Magnificat, chính việc cầu nguyện đã giúp bà vượt qua được những giây phút khó khăn nhất trong cuộc đời của bà. Bà Hubbard và gia đình đã thật sự sống những giây phút thảm kịch vào tháng 12 năm 2012.  Hai em bé con của bà Hubbard đang học tại trường tiểu học Sandy Hook ở Newtown bang Connecticut. Một ngày, dân cư tại Newtown nhận tin báo, có một kẻ cầm súng vào trường tiểu học. Một vụ nổ súng đã xảy ra tại trường. Đã có 20 trẻ em và 6 người lớn bị thiệt mạng trong vụ nổ súng. Catherine Violet, con gái của bà Hubbard, là một trong số các nạn nhân; cô bé khi ấy mới chỉ 8 tuổi.

Khi nghe tin vụ nổ súng xảy ra tại trường học các con của mình đang theo học, bà Hubbard và chồng, giống như thân nhân của các học sinh và nhân viên của trường, vội vàng chạy đến trạm cứu hỏa và chờ đợi để nghe tin tức về các người thân yêu của họ. Trong lúc chờ nhận tin về hai con, bà Hubbard đã cầu nguyện xin Chúa đưa con gái Catherine của bà về nhà; bà cầu xin Chúa mà bà yêu kính gìn giữ con gái bà được bình an. Bà đã cầu nguyện để con gái bà sẽ xuất hiện tại trạm cứu hỏa bà đang chờ, nhưng sự việc không xảy ra như lời cầu xin của bà. Con gái Catherine của bà là một trong số các nạn nhân bị thảm sát. Thời gian dần qua, bà Hubbard nhận thấy là mình đã được Chúa đáp lời. Catherine đã về nhà. Chúa đã nhận lời cầu nguyện của bà và đưa con gái bà trở về nhà. Bà đã có hy vọng được nhìn thấy lại đứa con gái bé bỏng yêu quý của mình.

Bà Hubbard chia sẻ: “Tất cả chúng ta đều gặp phải những thử thách, tất cả chúng ta đều đối mặt với những thảm kịch. Thảm kịch của tôi là con gái của tôi bị giết. Thảm kịch của người khác có thể là kết luận của bác sĩ là ung thư đã ở giai đoạn cuối và không thể chữa trị. Khi chúng ta thực sự ở trong bóng tối của khó khăn đau khổ đó, việc cầu nguyện hướng sự chú ý của chúng ta về Thiên Chúa và cho phép sự bình an cư ngụ trong tâm hồn chúng ta bất chấp hỗn loạn cỡ nào đang vây quanh chúng ta.”

Theo bà Hubbard, những người đang gặp khó khăn về cầu nguyện thường là vì họ lo lắng là họ không thể làm được điều gì cụ thể, họ cảm thấy cầu nguyện không đủ giúp vượt qua khó khăn. Nhưng bà Hubbard nhận thấy là cầu nguyện chuẩn bị cho chúng ta quy hướng về Thiên Chúa và tình yêu của Người dành cho chúng ta, chống lại thử thách và khó khăn. Bà nói: "Bạn cầu nguyện với lòng tin tưởng rằng lời cầu nguyện của bạn sẽ được đáp lời, nhưng bạn cũng cầu nguyện với sự nhận thức là ý Chúa sẽ là điều tốt nhất”. Lời cầu nguyện không luôn được đáp trả như chúng ta chờ đợi.

Đối với bà Hubbard, lời cầu nguyện chân thành diễn tả một niềm hy vọng rằng một điều gì đó sẽ thay đổi. Đối với người cầu nguyện, có một vẻ đẹp là sự thay đổi diễn ra trong trái tim của người đó. Cầu nguyện và hy vọng đi đôi với nhau. Cầu nguyện là tiếp tục mối liên hệ đâm rễ sâu và cuộc đối thoại với người duy nhất có thể mang lại cho bạn sự hướng dẫn, ý nghĩa và bình an trong cuộc sống. Bà Hubbard cũng cảnh giác về sự nguy hiểm của không cầu nguyện: “Khi chúng ta không lắng nghe Thiên Chúa, khi chúng ta tự giải quyết vấn đề hay tìm câu trả lời mà chúng ta muốn Thiên Chúa đáp trả cho chúng ta, tôi nghĩ nó nguy hiểm. Khi chúng ta không lắng nghe Thiên Chúa, chúng ta chỉ hiếu chiến. Chúng ta đang đặt chúng ta trên Thiên Chúa. Không lắng nghe Thiên Chúa, tự giải quyêt vấn đề, chúng ta cảm thấy như chúng ta tự làm được. Người ta cố gắng và nhúng tay vào giải quyết một tình cảnh nhưng chỉ làm cho nó thành một mớ hỗn độn khủng khiếp. Không cầu nguyện, không lắng nghe Thiên Chúa, hay chỉ đầu hang trước bất cứ điều gì mình gặp phải, nó sẽ nắm giữ bạn lại, ngăn bạn nhìn thấy mục đích và đau khổ đó, bạn sẽ thất bại. Cầu nguyện là một lời đáp trả chứng tỏ bạn biết Thiên Chúa có một điều gì đó sẵn sàng cho bạn. (CNA 21/07/2016)

Hồng Thủy

 

Đức Thánh Cha cổ võ đối thoại liên tôn tại Mỹ châu

Đức Thánh Cha cổ võ đối thoại liên tôn tại Mỹ châu

Đức Thánh Cha cổ võ đối thoại liên tôn tại Mỹ châu

VATICAN. ĐTC đề cao vai trò của các tôn giáo trong việc chăm sóc căn nhà chung của nhân loại và ngài cổ võ các tôn giáo cộng tác với nhau trong lý tưởng này.

ĐTC bày tỏ lập trường trên đây trong buổi tiếp kiến sáng 8-9-2016, dành cho 200 tham dự viên hội nghị đối thoại liên tôn đầu tiên của Mỹ châu, nhóm tại Roma từ hôm 7-9-2016, với mục đích thiết lập Viện đối thoại liên tôn cho đại lục này. Hội nghị do Viện đối thoại liên tôn ở Buenos Aires Argentina cùng với Tổ chức các quốc gia Mỹ châu đứng ra phối hợp dưới sự giám sát của Hội đồng Tòa Thánh đối thoại liên tôn. Các tham dự viên đã bàn về việc bảo vệ căn nhà chung của nhân loại, theo thông điệp 'Laudato sí' của ĐTC Phanxicô.

Ngỏ lời trong buổi tiếp kiến, ĐTC nói: ”Các tôn giáo có một vai trò rất quan trọng trong việc thăng tiến sự chăm sóc và tôn trọng môi trường. Niềm tin nơi Thiên Chúa đưa chúng ta đến chỗ nhìn nhận Ngài trong thiên nhiên, kết quả tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta. Niềm tin ấy cũng kêu gọi chúng ta chăm sóc và bảo vệ thiên nhiên. Vì thế, các tôn giáo cần cổ võ một nền giáo dục chân chính, trên mọi cấp độ, giúp phổ biến thái độ trách nhiệm và quan tâm đối với những đòi hỏi của việc chăm sóc thế giới, và đặc biệt bảo vệ, thăng tiến và bênh vực các quyền con người” (LS 201).

Trong ý hướng đó, ĐTC cổ võ sự cộng tác liên tôn, dựa trên sự thăng tiến một nền đối thoại chân thành và tôn trọng nhau. Ngài nói: ”Nếu không có sự tôn trọng nhau thì sẽ không có đối thoại liên tôn: đó là nền tảng để có thể đồng hành và đương đầu với các thách đố. Cuộc đối thoại này dựa trên chính căn tính của mình và sự tín nhiệm lẫn nhau, nó nảy sinh khi ta có khả năng nhìn nhận người khác như một món quà của thiê Chúa và ta chấp nhận họ cũng có những điều để nói với ta”.

ĐTC nhấn mạnh rằng ”Mỗi cuộc gặp gỡ với tha nhân là một hạt giống nhỏ được gieo vãi; nếu nó được tưới gội chăm chỉ và tôn trọng, dựa trên sự thật, thì sẽ lớn thành cây xum xuê, với nhiều hoa trái, nơi mà tất cả có thể hưởng bóng mát và có thể nuôi dưỡng mình, không ai bị loại trừ, và tại đó mọi người sẽ trở nên thành phần của một dự án chung, liên kết những nỗ lực và khát vọng của mình”.

Sau cùng, ĐTC cũng cổ võ sự cộng tác của những tín hữu và những người thiện chí, những người không tín ngưỡng trong việc bảo vệ các quyền con người, chống lại những tai ương của thế giới chúng ta như chiến tranh và đói kém, nạn lầm than đang đè nặng trên hàng triệu ngừơi, cuộc khủng hoảng môi trường, bạo lực, tham ô, và sự suy đồi luân lý. cuộc khủng hoảng gia đình, và kinh tế, nhất là sự thiếu hy vọng”.

ĐTC không quên lên án sự lạm dụng tôn giáo để gây ra những hành vi tàn ác như khủng bố, gieo rắc sợ hãi và bạo lực, và vì thế có những người coi tôn giáo như là những tổ chức tạo nên tai gương trên thế giới. Cần phải cùng nhau quyết liệt lên án những hành động đáng kinh tởm như thế và xa tránh tất cả những gì tìm cách làm ô nhiễm các tâm hồn, chia rẽ và hủy hoại sự sống chung. Cần chứng tỏ các giá trị tích cực gắn liền với các truyền thông tôn giáo của chúng ta, để mang lại một động lực hy vọng vững chắc” (SD 8-9-2016)

G. Trần Đức Anh OP

Sự kiện lịch sử của Giáo hội Lào: lễ truyền chức Linh mục và phong chân phước

Sự kiện lịch sử của Giáo hội Lào: lễ truyền chức Linh mục và phong chân phước

Paolo Thoj Xyooj and Mario Borzaga

Viên chăn, Lào – Giáo hội Công giáo tại Lào đang vui mừng chuẩn bị cho hai sự kiện quan trọng trong lịch sử của Giáo hội tại đây.

Như hãng tin Fides đã loan tin, ngày 16/09 tại Savannakhet sẽ có lễ truyền chức cho 3 phó tế người Lào và ngày 11/12, Chúa nhật thứ II mùa Vọng, như Tòa Thánh quy định, tại Viên chăn sẽ có lễ phong chân phước cho 17 vị tử đạo, gồm có các Linh mục, tu sĩ và giáo dân đã hy sinh mạng sống tại Lào.

Đức Hồng y Orlando Quevedo, Tổng Giám mục Cotabato, đặc sứ của Đức Thánh cha Phanxicô sẽ chủ sự Thánh lễ phong chân phước ngày 11/12. Các vị tử đạo đã được Đức Thánh Cha Phanxicô nhìn nhận trong 2 án phong chân phước. Án thứ nhất có cha Mario Borzaga, thừa sai người Italia, thuộc dòng Hiến sĩ Đức Mẹ Vô nhiễm (OMI) và Paolo Thoj Xyooj, giáo lý viên đầu tiên của Lào; 2 vị đã bị giết bởi những kẻ thù ghét đức tin. Án thứ hai gồm có vị Linh mục người Lào đầu tiên, đó là cha Giuse ThaoTien và 14 vị khác, gồm 10 vị thuộc Hội thừa sai Parí (MEP) và Hiến sĩ Đức Mẹ Vô nhiễm (OMI), cùng với 4 giáo lý viên giáo dân người bản địa. 15 vị này bị giết giữa các năm 1954 và 1970 bởi các chiến binh cộng sản Pathet Lao.

Trong Thánh lễ truyền chức Linh mục vào ngày 16/09 sẽ có sự hiện diện của các Giám mục Lào của các địa phận Tông tòa Viên chăn, Luang Prabang, Savannakhet và Paksè. 3 phó tế sẽ được thụ phong Linh mục đến từ địa phận Tông tòa Luang Prabang

Đức cha Louis-Marie Ling Mangkhanekhoun, đại diện Tông tòa của Paksè nói với hãng tin Fides: “Đây là một thời khắc lịch sử cho Giáo hội chúng tôi, thật sự là một năm hồng ân. Chúng tôi thật vui mừng. Chúng tôi đã dấn thân trong việc chuẩn bị 2 sự kiện quan trọng này”. Đức cha cũng cho biết Giáo hội vui mừng vì Lào đang cởi mở và Giáo hội cũng được hưởng lợi ích từ chính sách này. Giáo hội cũng hy vọng sẽ cộng tác với chính quyền dân sự vì lợi ích của Giáo hội và của nhân dân Lào. Đức cha hy vọng các vị đại diện của Giáo hội Campuchia, cùng chung một Hội đồng Giám mục với Lào, cũng như các vị đại diện Giáo hội của các quốc gia láng giềng sẽ đến dự.

Đức cha kết luận: “Đối với chúng tôi, đây là một sự kiện hiêp thông trọng vẹn với Tòa Thánh và Giáo hội hoàn vũ. Chúng tôi cám ơn Đức Thánh cha Phanxicô đã cho phếp lễ phong chân phước cho các vị tử đạo được tổ chức tại Lào. Nó là một quà tặng lớn lao cho chúng tôi”. (Fides 08/09/2016)

Hồng Thủy

Mục vụ chăm sóc người khiếm thính của Giáo hội Tây ban nha

Mục vụ chăm sóc người khiếm thính của Giáo hội Tây ban nha

buổi cầu nguyện của người khiếm thính

Madrid, Tây ban nha – Trong Giáo hội Công giáo, ngôn ngữ nói là ngôn ngữ chính của phụng vụ. Các tín hữu đọc kinh Tin kính, hát kinh Vinh danh ngợi khen Thiên Chúa, cúi đầu khi nghe Linh mục đọc lời chúc lành cúôi Thánh lễ, vv. Nhưng đối với các tín hữu khiếm thính và bị điếc thì lại khác.

Cha Sergio Buiza, giám đốc mục vụ người khiếm thính của hội đồng Giám mục Tây ban nha cho biết nhiệm vụ của họ là “mang Tin mừng đến với số người bao nhiêu có thể”, dĩ nhiên bao gồm người điếc và khiếm thính. Cha là một trong các Linh mục cử hành Thánh lễ bằng ngôn ngữ ký hiệu tại một nhà thờ Công giáo ở Tây ban nha. Mỗi tuần cha dâng một Thánh lễ bằng ngôn ngữ ký hiệu tại nhà thờ chánh tòa Bilbao.

Tại Tây ban nha có khoảng một triệu người bị khiếm thính ở các mức độ khác nhau và bị mất thính giác hoàn toàn. Khoảng 1250 người trong số họ tham dự Thánh lễ mỗi tuần tại một trong 24 nhà thờ nơi có Thánh lễ dành cho họ. Tại các giáo xứ có mục vụ dành cho người khiếm thính, có đầy đủ các hoạt động như Thánh lễ, giáo lý, các nhóm Kinh Thánh, cử hành hôn phối và xưng tội. Tuy nhiên, cha Buiza cho biết, vấn đề lớn nhất chính là mỗi Giáo phận chỉ có một giáo xứ dành cho người khiếm thính, vì vậy những người này, trong đó có những người cao niên, phải di chuyển thật xa để đến nơi tham dự Thánh lễ.

Tháng 12 năm ngoái, hội đồng Giám mục Tây ban nha đã thông báo một chương trình mới được phối hợp với quỹ ONCE để gắn các vòng cảm ứng từ hay vòng nghe để giúp ngừoi khiếm thính. Các vòng này là những hệ thống âm thanh chuyển âm thanh thành một từ trường nhờ các máy trợ thính và các bộ xử lý cài đặt các “con ốc” (máy nghe nhỏ nhét vào tai) giúp nghe. Điều này ít nhất giúp cho những ai có những dụng cụ trợ thính như thế này có thể tham dự Thánh lễ đầy đủ hơn, nhưng nó không hữu ích đối với những người bị điếc hoàn toàn.

Giáo hội Tây ban nha đã hoạt động giúp cho các người khiếm thính từ hơn 50 năm nay. Có khoảng 173 người, dấn thân chăm sóc mục vụ cho người điếc. Nhiều người trong số họ bị điếc hay khiếm thính, bao gồm 140 giáo dân và 21 Linh mục. (CNA 08/09/2016)

Hồng Thủy

Đức Thánh Cha tiếp các Viện Phụ và Bề trên dòng Biển Đức

Đức Thánh Cha tiếp các Viện Phụ và Bề trên dòng Biển Đức

Đức Thánh Cha tiếp các Viện Phụ và Bề trên dòng Biển Đức

VATICAN. Sáng 8-9-2016 ĐTC tiếp kiến các Viện Phụ và Bề trên dòng Biển Đức thế giới, và ngài đề cao vai trò của ơn gọi chiêm niệm trong việc biểu lộ sự đáng tin cậy của sứ điệp Kitô.

Lên tiếng sau lời chào mừng của Đức Thống Phụ Notker Wolf của Liên hiệp các Đan viện Biển Đức, ĐTC nhắc lại rằng ”Đời sống đan tu là con đường tuyệt hảo để giúp cảm nghiệm kinh nghiệm chiêm nhiệm và biểu lộ kinh nghiệm ấy qua chứng tá bản thân và cộng đoàn.

”Thế giới ngày nay ngày càng chứng tỏ rõ ràng nhu cầu lòng thương xót. Lòng thương xót không phải là một khẩu hiệu hay là một công thức, nhưng là trọng tâm của đời sống Kitô và đồng thời là một lối sống cụ thể, là hơi thở linh hoạt những quan hệ giữa con người với nhau và làm cho chúng ta quan tâm hơn tới những người nghèo, liên đới với họ. Xét cho cùng, lòng thương xót biểu lộ sự đáng tin cậy của sứ điệp mà Giáo Hội gìn giữ và loan báo.

ĐTC nhận xét rằng ”thời nay, Giáo Hội được kêu gọi ngày càng chú ý đến điều thiết yếu, và các đan sĩ nam nữ do ơn gọi, giữ gìn một hồng ân và một trách nhiệm đặc biệt, đó là giữ cho các ốc đảo tinh thần được sinh động, nơi mà các vị mục tử và tín hữu có thể kín múc nơi các nguồn mạch lòng thương xót của Chúa”.

ĐTC không quên đề cao sự hiếu khách của các đan sĩ Biển Đức, qua đó, ”Anh chị em có thể gặp những tâm hồn bị lạc hướng hoặc xa lìa Giáo Hội, những người ở trong tình cảnh nghèo khổ trầm trọng về mặt nhân bản và tinh thần”…

”Tuy sống tách biệt với thế gian, nhưng khu nội cấm của anh chị em không hề khô cằn, trái lại, đó là một sự phong phú chứ không phải là một cản trở tình hiệp thông. Việc lao tác, hòa hợp với kinh nguyện, làm cho anh chị em tham gia vào công trình sáng tạo của Thiên Chúa và liên đới với người nghèo là những người không thể sống mà không làm việc”.

Đại Hội các Viện Phụ và Bề trên dòng Biển Đức tiến hành tại Đan viện Thánh Anselmo ở Roma từ ngày 3 đến 16-9 tới đây. Trong số khoảng 250 tham dự viên cũng có một số là người Việt.

Ngày 9-9-2016 này, Cha Notker Wolf, 76 tuổi, người Đức, chấm dứt nhiệm kỳ thứ 3 làm Thống Phụ (Abbas Primas), tổng cộng là 16 năm. Ngày 10-9-2016, Tổng hội sẽ bầu người kế vị đại diện cho hơn 20 ngàn đan sĩ nam nữ dòng Biển Đức trên thế giới.

Theo niên giám năm nay của Tòa Thánh, dòng nam Biển Đức hiện có 340 đan viện với khoảng 7.200 đan sĩ, họp thành 19 chi dòng, mỗi chi dòng có Viện Phụ Tổng Quyền riêng.

Các Đan viện Biển Đức tại Việt Nam thuộc chi dòng Subiaco, có trụ sở trung ương ở Roma và gồm có 80 đan viện ở các nước với gần 1.400 đan sĩ. Đây là chi dòng lớn nhất của dòng Biển Đức (SD 8-9-2016)

G. Trần Đức Anh OP 

Giám mục Hoa kỳ phản đối tài trợ nghiên cứu phôi nửa người nửa thú vật

Giám mục Hoa kỳ phản đối tài trợ nghiên cứu phôi nửa người nửa thú vật

US-Capitol Congress

Washington – Hội đồng Giám mục Hoa kỳ phản đối một đề nghị của Viện Y tế quốc gia (viết tắt là NIH) cho phép việc dùng quỹ liên bang tài trợ việc nghiên cứu trên các phôi thai một phần của người một phần động vật, được gửi cho cơ quan vào ngày 2 tháng 9.

Các Giám mục đã đưa ra những lý lẽ luân lý đạo đức và pháp luật để phản đối kế hoạch này. Các ngài nói rằng cuộc nghiên cứu như thế sản xuất ra những “cá thể” không hoàn toàn thuộc về chủng tộc loài người cũng như các chủng loại thú vật.

Nguyên tắc hiện tại của NIH cho việc nghiên cứu tế bào gốc của con người ngăn cấm đặc biệt việc đưa những tế bào gốc đa năng – những tế bào có khả năng sinh ra một số loại tế bào khác nhau – vào trong các phôi nang linh trưởng không phải con người, những tế bào ở giai đoạn đầu phát triển. NIH đề nghị tài trợ cho các nhà khoa học nghiên cứu những phôi như thế, được biết như các chimeras (những sinh vật bao gồm một hỗn hợp của các mô khác nhau về mặt di truyền, được hình thành bởi các quá trình như sự hợp nhất của các phôi mới hình thành, hoặc ghép, hoặc đột biến).

Thông cáo của các Giám mục nói rằng: trong khi kế hoạch kêu gọi xem xét lại một số đề xuất nghiên cứu của ủy ban lãnh đạo của NIH đưa ra, thì “điều căn bản là chính phủ liên bang sẽ bắt đầu mở rộng việc sử dụng tiền thuế đóng góp vào việc tạo ra và thao túng các “sinh vật mới” có sự hiện hữu mập mờ giữa con người và thú vật, như chuột và các loại”. Tài trợ cho việc nghiên cứu như vậy nghĩa là NIH phớt lờ luật cấm điều đó và cuộc nghiên cứu đó “hiển nhiên cũng phi đạo đức”.

Về phương diện luân lý đạo đức của vấn đề, các Giám mục quan tâm đến việc tiêu diệt các phôi thai được sử dụng như nguồn nguyên liệu cho việc nghiên cứu. Nhìn nhận lợi ích cho con người có thể đạt được qua việc dùng thú vật để nghiên cứu, tuy nhiên các Giám mục cũng nhấn mạnh rằng phẩm giá đặc biệt của con người đặt những giới hạn cho những điều có thể thực hiện trong lãnh vực nghiên cứu này một cách có đạo đức. Các Đức cha nói: “Ở đây có vấn đề luân lý chính yếu liên quan đến dự án này, bên cạnh vấn đề đã nghiêm trọng là khai thác phôi người như các xưởng chế tạo tế bào gốc để nghiên cứu. Vì nếu người ta không thể nói đến mức độ nào, các sinh vật được chế biến ra, nếu có, có tình trạng hay đặc tính của con người, người ta không thể quyết định những ràng buộc luân lý đối với sinh vật đó. Chúng tôi tin rằng việc sản sinh các sinh vật mới, mà đối với chúng, luân lý căn bản và các quy định luật pháp của chúng ta sẽ không tránh khỏi bối rối, thậm chí là mâu thuẫn, tự nó là một việc vô đạo đức. NIH nên cân nhắc kỹ lưỡng hơn vấn đề này và các vấn đề luân lý trước khi xem xét việc tài trợ cho nghiên cứu các chimera nửa người nửa thú vật.”

Các Đức cha cũng thêm rằng, về mặt luật pháp, tài trợ liên bang cho nghiên cứu như thế vi phạm tu chính Dickey-Wicker, là cấm việc dùng tiền thuế để sản sinh hay tiêu diệt các phôi thai người cho các thí nghiệm. Thông cáo kết luận: dự án sai lầm trầm trọng và đề nghị NIH rút lại dự án này. (CNS 06/09/2016)

Hồng Thủy 

Chúa Giêsu là dụng cụ lòng thương xót của Thiên Chúa Cha

Chúa Giêsu là dụng cụ lòng thương xót của Thiên Chúa Cha

ĐTC chào tín hữu trong buổi tiếp kiên chung sáng thứ tư 8-9-2016

Thiên Chúa không gửi Đức Giêsu Kitô Con của Ngài đến trần gian để đánh phạt người tội lỗi và tiêu diệt kẻ gian ác, nhưng để mời gọi họ hoán cải trở về với Ngài. Chúa Giêsu là dụng cụ lòng thương xót của Thiên Chúa Cha, Ngài đi gặp gỡ tất cả mọi người để trao ban sự an ủi và ơn cứu rỗi.

 ĐTC Phanxicô đã nói như trên với hơn 50.000 tín hữu và du khách hành hương năm châu trong buổi tiếp kiến chung sáng thứ tư hôm qua.

Trong bài huấn dụ ĐTC giải thích đoạn Phúc Âm thánh Mátthêu trong chương 11 kể lại sự kiện thánh Gioan Tiền Hô – đang ở trong ngục –  gửi các môn đệ tới hỏi Chúa Giêsu: “Thầy có phải là Đấng phải đến hay chúng tôi còn phải đợi ai khác?” (Mt 11,3). Thánh nhân đang sống trong một lúc tối tăm… Gioan âu lo chờ đợi Đấng Cứu Thế và trong lời giảng dậy của mình thánh nhân đã miêu tả Người với các mầu sắc mạnh mẽ như một thẩm phán sẽ tái lập Nước Thiên  Chúa và thanh tẩy dân Ngài, thưởng công cho người tốt lành và đánh phạt các kẻ gian ác. Thánh nhân giảng như sau: “Cái riù đã đặt sát gốc cây: bất cứ cây nào không sinh quả tốt đều bị chặt đi và quăng vào lửa” (Mt 3,10). Giờ đây Chúa Giêsu đã bắt đầu sứ mệnh công khai của Ngài với một kiểu khác biệt. Gioan đau khổ và trong hai cái tăm tối – trong cái tăm tối của ngục thất, trong cái tăm tối của phòng giam và trong cái tăm tối của con tim thánh nhân không hiểu kiểu thi hành sứ mệnh này, nên muốn biết có đúng thật Ngài là Đấng Cứu Thế hay còn phải đợi một người khác.

Và câu trả lởi của Chúa Giêsu ban đầu xem ra không đáp ứng câu hỏi của thánh Gioan Tiền Hô. Thật thế, Chúa Giêsu nói: “Hãy về thuật lại cho Gioan những điều mắt thấy tai nghe: “Người mù xem thấy, kẻ què đi được, người cùi được sạch, kẻ điếc nghe được, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng. Và phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi” (Mt 11,4-6).  Đó là câu trả lởi của Chúa Giêsu. ĐTC giải thích:

Ở đây ý của Chúa Giêsu trở thành rõ ràng: Ngài trả lời Ngài là dụng cụ cụ thể lòng thương xót của Thiên Chúa Cha, đi gặp gỡ tất cả mọi người đem theo sự an ủi và ơn cứu rỗi, và trong cách thế đó biểu lộ sự phán xử của Thiên Chúa. Các người mù, người què, người phong cùi, người điếc chiếm hữu trở lại phẩm giá của họ, trong khi Tin Mừng được loan báo cho các người nghèo. Và điều này trở thành tổng hợp hoạt động của Chúa Giêsu, qua đó Ngài khiến cho hoạt động của chính Thiên  Chúa trở thành hữu hình và có thể sờ mó được.

Tiếp tục bài huấn dụ ĐTC nói: Sứ địêp mà Giáo Hội nhận từ trình thuật này trong cuộc sống của Chúa Kitô rất rõ ràng. Thiên  Chúa không gửi  Con của Ngài đến trần gian để đánh phạt người tội lỗi và tiêu diệt kẻ gian ác, nhưng để mời gọi họ hoán cải, để khi trông thấy các dấu chỉ lòng lành của Thiên Chúa họ có thể tìm ra con đường trở về, như Thánh vịnh nói: “Ôi lậy Chúa nếu như Ngài chấp tội, nào có ai đứng vững được chăng? Nhưng Chúa vẫn rộng lòng tha thứ, để chúng con biết kính sợ Ngài” (Tv 130,3-4).

Công lý mà Gioan Tiền Hô đặt ở trung tâm lời rao giảng của mình, ở nơi Chúa Giêsu được biểu lộ ra trước hết như là lòng thương xót. Và các nghi ngờ của Vị Tiền Hô chỉ diễn tả trước sự kinh ngạc mà Chúa Giêsu sẽ dấy lên sau đó với các hành động và lời nói của Ngài. Và khi đó ngưòi ta hiểu kết luận câu trả lời của Chúa Giêsu: “Phúc cho người nào không vấp ngã vì tôi” (c. 6). Gương mù gương xấu có nghĩa là “chướng ngại”. Vì thế Chúa Giêsu cảnh cáo một nguy cơ đặc biệt: nếu chướng ngại cho việc tin là các hành động lòng thương xót của Ngài, thì điều này có nghĩa là người ta có một hình ảnh sai lầm về Đấng Cứu Thế. Trái lại, phúc cho những ai trước các cử chỉ và lời nói của Chúa Giêsu, vinh danh Thiên Chúa Cha ở trên Trời. ĐTC lưu ý mọi người như sau:

Lời cảnh cáo của Chúa Giêsu luôn luôn thời sự: cả ngày nay nữa người ta cũng xây dựng các hình ảnh về Thiên Chúa ngăn cản việc hưởng nếm sự hiện diện thực sự của Ngài. Vài người cắt ra một lòng tin “tự làm lấy”, giản lược Thiên Chúa vào không gian hạn hẹp của các ước muốn và xác tín của riêng mình. Nhưng niềm tin này không phải là việc trở về với Chúa là Đấng tự tỏ hiện, trái lại, nó ngăn cản Ngài khiêu khích cuộc sống và lương tâm của chúng ta. Kẻ khác nữa thì giản lược Thiên Chúa vào một thần tuợng giả; họ dùng danh thánh Chúa để biện minh cho các lợi lộc riêng, hay tệ hơn cho sự thù hận và bạo lực. Đối với các người khác nữa thì Thiên  Chúa chỉ là nơi ẩn núp tâm lý trong đó họ được trấn an trong những lúc khó khăn: nó là một niềm tin khép kín trong chính nó, không thể thấm ướt được trước sức mạnh tình yêu thương xót của Chúa Giêsu là Đấng thúc đẩy chúng ta tiến tới với các anh em khác. Có những người khác nữa chỉ coi Chúa Kitô như  là một thầy dậy tốt của các giáo huấn luân lý đạo đức, một trong biết bao nhiêu bậc thầy trong lịch sử. Sau cùng, có người bóp nghẹt niềm tin nơi một tương quan thuần tuý duy thân tình với Chúa Giêsu, mà huỷ bỏ sức thúc đẩy truyền giáo có khả năng biến dổi thế giới và lịch sử. Chúng ta các kitô hữu chúng ta tin nơi Thiên Chúa của Đức Giêsu Kitô, và ưóc muốn của Ngài là ước muốn lớn lên trong kinh nghiệm sống động của mầu nhiệm tình yêu Ngài.

Vì thế chúng ta hãy dấn thân đề đừng đặt bất cứ chướng ngại nào trươc hành động thương xót của Thiên Chúa Cha, nhưng hãy xin ơn có một đức tin lớn lao  để chúng ta cũng trở thành các dấu chỉ và dụng cụ của lòng thương xót.

ĐTC đã chào nhiều đoàn hành hương hiện diện: các nhóm nói tiếng Pháp đến từ Phap, Thụy Sĩ, Bỉ, Libăng và đặc biệt từ Senegal, do ĐC Paul Abel Mamba hướng dẫn. Ngài nhắc cho biết hôm nay là lễ Sinh Nhật Đức Mẹ và mời gọi mọi ngưòi biết kinh ngạc về các việc thương xót Chúa Giêsu làm trong cuộc sống của mình để hoán cải và trở thành những người sống lòng thương xót.

ĐTC cũng chào các đoàn hành hương nói tiếng Anh đến từ Anh quốc, Êcốt, Malta, Australia, Hong Kong, Indonesia, Nhật Bản, Philippines, Singapore, Sri Lanka, Canada và Hoà Kỳ. Ngài cầu mong năm thánh là dịp giúp họ sống tươi vui an bình và là thừa sai lòng thương xót Chúa trong gia đình và cộng đoàn.

Trong số các đoàn hành hương nói tiếng Đức và Hoà Lan ĐTC đặc biệt chào các tín hữu Passau do ĐC Stefan Oster hướng dẫn. Họ khiến ngài nhớ tới đền thánh Đức Bà Altoeting.

Ngài cũng chào các đoàn hành hương  Bồ Đào Nha, Mozambic và Brasil, đặc biệt các nhóm đến từ các giáo phận Faro, Funchal, Maputo và Aparecida do các GM hướng dẫn. Ngài cầu mong chuyến hành hương Roma trong Năm Thánh Lòng  Thương Xót củng cố niềm tin của họ nơi Chúa Kitô.

Với các tín hữu Ba Lan ĐTC mời gọi rộng mở con tim cho tình yêu và sự tha thứ của Chúa, cũng như trở thành dụng cụ lòng thương xót của Chúa giữa lòng xã hội.

ĐTC cũng chào nhiều đoàn hành hương Ý đặc biệt đến từ các giáo phận Alife-Caiazzo, Chiavari, Tricarico, do các Giám Mục hướng dẫn, cũng như các chủng sinh Verona và các tham dự viên Trại hè đo HĐGM Ialia tổ chức. Ngoài ra cũng có các trẻ em lãnh bí tích Thêm Sức giáo phận Verona, và các đoàn hành hương Frosinone, Livorno và các thành viên Liên hiệp đi xe đạp vùng Legnanese. Ngài cầu mong chuyến hành hương Roma củng cố đức tin và đem lại cho họ và các thân nhân đã qua đời nhiều hoa trái thiêng liêng của Năm Thánh Lòng Thương Xót.

Chào các bạn trẻ, ngưòi đau yếu và các đôi tân hôn ĐTC nói chúng ta vừa cử hành lễ phong hiển thánh cho Mẹ Têresa Calcutta. Uớc chi các bạn trẻ trở thành các tông đồ của lòng thương xót như Mẹ, người đau yếu cảm thấy sự gần gủi của Mẹ trong những lúc khổ đau, và các cặp vợ chồng mới cưới biết khẩn cẩu Mẹ giúp họ sống quảng đại chú ý tới những người yếu đuối nhất.

Buổi tiếp kiến đã kết thúc với Kinh Lạy Cha và phép lành toà thánh  ĐTC ban cho mọi người.

Linh Tiến Khải

Thánh lễ tạ ơn Lễ Phong Thánh cho Mẹ Têrêsa

Thánh lễ tạ ơn Lễ Phong Thánh cho Mẹ Têrêsa

Thánh lễ tạ ơn Lễ Phong Thánh cho Mẹ Têrêsa

VATICAN. Sáng thứ hai 5-9-2016, ĐHY Pietro Parolin, Quốc vụ khanh Tòa Thánh, đã chủ sự thánh lễ tạ ơn nhân dịp lễ phong hiển thánh cho Mẹ Têrêsa Calcutta.

Đồng tế với ĐHY có hơn 30 Hồng Y, GM, gần 200 Linh mục, trước sự hiện diện của hơn 10 ngàn tín hữu tại Quảng trường thánh Phêrô, trong đó có đông đảo các nữ tu thừa sai bác ái.

Hôm qua, cũng là lễ kính thánh nữ Têrêsa Calcutta và là ngày giỗ lần thứ 19 (1997) của Mẹ.

Bài giảng của Đức Hồng Y

Trong bài giảng thánh lễ, ĐHY Quốc vụ khanh nhấn mạnh bí quyết cuộc sống và hoạt động của Mẹ Têrêsa là lời Chúa Giêsu như được công bố trong bài Tin Mừng của ngày lễ: ”Thật, Thầy bảo các con, tất cả những gì các con làm cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Thầy, là các con làm cho Thầy” (Mt 25,40).

”Mẹ Têrêsa đã khám phá nơi những người nghèo, khuôn mặt của Chúa Kitô, 'Đấng đã trở nên nghèo vì chúng ta để làm cho chúng ta trở nên giàu có nhờ cái nghèo của Ngài' (Xc 2 Cr 8,9). Mẹ đã đáp lại tình yêu vô biên của Chúa bằng một tình yêu vô biên đối với người nghèo.. Tình yêu Chúa Kitô thúc bách chúng ta” (2 Cr 5,14).

ĐHY Parolin cũng nhận xét rằng: ”Mẹ Têrêsa đã có thể trở thành một dấu dấu chỉ rất sáng ngời về lòng từ bi thương xót, như ĐTC đã nói trong bài giảng lễ Phong thánh: 'Lòng từ bi thương xót đối với Mẹ là 'muối' mang lại hương vị cho mỗi hoạt động của Mẹ và là 'ánh sáng' chiếu sáng bóng đêm của những người không còn nước mắt để khóc sự nghèo khổ của họ', vì Mẹ đã để cho mình được Chúa Kitô soi sáng, Chúa Kitô được thờ lạy, yêu mến, chúc tụng trong Thánh Thể, như chính Mẹ đã giải thích: ”Cuộc sống của chúng ta phải liên tục được nuôi dưỡng bằng Thánh Thể, vì nếu chúng ta không có khả năng nhìn thấy Chúa Kitô dưới hình bánh, thì chúng ta cũng không có thể khám phá Chúa dưới những vẻ khiêm hạ của những thân thể tiều tụy của người nghèo” (Xc Teresa di Calcutta, L'amore che dissetta, p.16).

Trong bài giảng, ĐHY Quốc vụ khanh Tòa Thánh, cũng nhắc đến một trong những hình thức nghèo khổ đau thương nhất, đó là biết mình không được thương yêu, không được mong muốn và bị khinh rẻ. Đó là một thứ nghèo cũng hiện diện tại các nước và các gia đình không nghèo, và cả nơi những người thuộc giới có những phương tiện và khả năng, nhưng cảm thấy tâm hồn trống rỗng vì đánh mất ý nghĩa và hướng đi của cuộc đời, hoặc bị thất vọng, sầu muộn vì những liên hệ bị phá vỡ, vì cô đơn trầm trọng, vì cảm tượng bị mọi người quên lãng hoặc không còn ích lợi gì cho ai nữa”.

Mẹ Têrêsa cũng coi các thai nhi chưa sinh ra và bị đe dọa trong cuộc sống như ”những người nghèo nhất trong những người nghèo.. Từ đó mẹ đã can đảm bảo vệ những sự sống đang sinh ra, Mẹ nói thẳng thắn và có những hành động rõ ràng, là dấu chỉ sáng ngời về sự hiện diện của các Ngôn Sứ và Các Thánh, là những người không quì gối trước mặt ai ngoại trừ trước Đấng Toàn Năng”.

Sau cùng, ĐHY Parolin nhắc đến sự kiện khi Mẹ Têrêsa qua đời ngày 5-9-1997, thành phố Calcutta hoàn toàn bị mất ánh sáng trong vài phút dài. Mẹ Têrêsa trên trái đất này đã là một dấu chỉ minh bạch chỉ Trời Cao. Trong ngày Mẹ qua đời, Trời Cao muốn cống hiến một dấu ấn cho cuộc đời của Mẹ và thông báo cho chúng ta rằng một ánh sáng mới đã được thắp lên trên chúng ta. Giờ đây, sau khi được chính thức nhìn nhận sự thánh thiện, ánh sáng của Mẹ càng chiếu tỏa rạng ngời hơn. Ước gì ánh sáng không tàn lụi của Tin Mừng, tiếp tục chiếu sáng cho cuộc lữ hành trần thế của chúng ta và những con đường của thế giới khó khăn này” (SD 5-9-2016)

G. Tran Đức Anh OP 

Một nữ tu truyền giáo người Tây ban nha bị cướp và giết chết ở Haiti

Một nữ tu truyền giáo người Tây ban nha bị cướp và giết chết ở Haiti

Sister Isabel Sola Matas

Port-au-Prince, Haiti – Nữ tu Monica Joseph, Tổng phụ trách dòng Nữ tu Chúa Giêsu Đức Maria đã thông báo về cái chết của nữ tu Isa Solá Matas, 51 tuổi, gốc Barcelona, Tây ban nha, truyền giáo tại Haiti từ nhiều năm. Thông cáo viết: “Với sự đau buồn lớn lao, chúng tôi xin chia sẻ tin tức vừa nhận được từ Tình dòng Hoa kỳ. Nữ tu Isa Solá Matas đã bị giết ở Haiti trong một vụ cướp gần Nhà thờ Chánh tòa Port au Prince. Xin quý vị cầu nguyện cho chị Isa, cho gia đình của Chị, cho các nữ tu của chúng tôi ở Haiti, ở Hoa kỳ và Tây ban nha. Xin Chúa chúc lành cho quý vị”.

Theo tin tức thu được từ hãng tin Fides của Bộ truyền giáo, vụ sát hại đã xảy ra vào sáng ngày 2/9 giờ địa phương trong khi Chị Isa đang lái xe trên đường ở trung tâm thủ đô. Chị đã trúng 2 phát đạn, theo cảnh sát địa phương, có lẽ là từ những kể cướp, vì giỏ xách và các đồ dùng cá nhân của chị đã bị cướp.

Chị Isa đã dấn thân với những người khiêm tốn và nghèo khổ nhất của Haiti và đã thật sự sống cùng với họ sau trận động đất xảy ra năm 2010: chị giúp họ xây dựng lại nhà cửa, dấn thân như y tá và để làm dịu đi các đau khổ của những người đã bị mất tay chân trong trận động đất.

Haiti là nước nghèo nhất ở vùng Tây bán cầu, đánh dấu bởi sụ thiếu giáo dục, nghèo đói và tội phạm lan tràn. Từ lâu nước này bị tê liệt bởi một cuộc khủng hoảng chính trị và thể chế. Ngày 8/10/2010, Julien Kénord, điều hành cơ quan bác ái Thụy sĩ đã bị giết ở Port-au-Prince trong một vụ cướp. Ngày 24/4/2013, cha Richard E. Joyal, người Canada, thuộc dòng Đức Maria cũng đã bị giết trong vụ cướp tiền khi cha vừa rút từ ngân hàng. (Fides 3/9/2016)

Hồng Thủy

Đức Giáo hoàng mời 1500 người nghèo dùng bữa pizza

Đức Giáo hoàng mời 1500 người nghèo dùng bữa pizza

Pope invited 1500 poor people to eat pizza 1

Vatican – Hôm qua, ngày 4/9, nhân lễ tôn phong hiển thánh cho mẹ Têrêsa Calcutta, Đức Giáo hoàng Phanxicô đã quyết định mời 1500 người nghèo khổ dùng bữa trưa với món chính là pizza Napoletana, một loại pizza xuất phát từ thành phố Napoli (Naples).

Theo một thông cáo từ Vatican, các thực khách là “những người nghèo khổ, đặc biệt là những người trú ngụ tại các nhà của các nữ tu Thừa sai Bác ái của Mẹ Têrêsa; họ đến từ khắp nước Ý, gồm các nhà ở Milan, Florence, Naples và tất cả các nhà ở Roma. Họ đã di chuyển trên nhiều xe bus suốt đêm về Roma để dự lễ phong thánh Mẹ Têrêsa Calcutta. Trong Thánh lễ họ ngồi ở phần dành riêng cho họ, gần tượng Thánh Phêrô, nghĩa là phần trên của quảng trường Thánh Phêrô, thường được gọi là “Reparto San Pietro” (khu vực Thánh Phêrô).

Sau Thánh lễ, các vị khách này đã đi vào đại thính đường Phaolô VI tại Vatican để dùng bữa trưa, chủ yếu là pizza theo kiểu thành phố Naples. 250 nữ tu cùng với 50 tu huynh Thừa sai Bác ái của Mẹ Têrêsa, cùng với một số người tình nguyện đã phục vụ bữa ăn. Một đội ngũ gồm 20 đầu bếp đã chuẩn bị phần pizza với 3 lò nướng lớn. (RV 4/9/2016)

Hồng Thủy

Tường thuật lễ tôn phong hiển thánh cho Mẹ Teresa Calcutta

Tường thuật lễ tôn phong hiển thánh cho Mẹ Teresa Calcutta

Holy Mass and the canonization of Mother Teresa of Calcutta

Hoạt động thương xót không mỏi mệt của Mẹ Terexa Calcutta ở vùng ngoại biên các thành phố và cuộc sống giúp chúng ta luôn ngày càng hiểu rằng tiêu chuẩn hoạt động duy nhất của chúng ta phải là tình yêu thương nhưng không, tự do khỏi bất cứ ý thức hệ hay ràng buộc nào, và tuôn đổ trên tất cả mọi người, không phân biệt ngôn ngữ, văn hóa, chủng tộc hay tôn giáo. Mẹ Terexa thường nói: “Có lẽ tôi không nói tiếng của họ, nhưng tôi có thể cười”. Chúng ta hãy mang theo trong tim nụ cười của Mẹ và trao ban nó cho những ai chúng ta gặp trên đường đời, nhất là cho những người đau khổ.

Kính thưa quý vị thính giả, ĐTC Phanxicô  đã nói như trên trong bài giảng thánh lễ tôn phong hiển thánh cho Mẹ Terexa Calcutta, do ngài cử hành trước thềm Đền Thờ Thánh Phêrô lúc 10 giờ rưỡi sáng Chúa Nhật mùng 4 tháng 9 hôm qua.

 

Đại lễ phong thánh cho Mẹ Teresa Calcutta ngày 4 tháng 9-2016 -- Thuyết minh tiếng Việt Nam

Cùng đồng tế thánh lễ với ĐTC đã có khoảng 70 Hồng Y, 400 Tổng Giám Mục Giám Mục, 1,700 linh mục trong đó có 600 vị giúp ĐTC cho tín hữu rước lễ. Tham dự thánh lễ, ngoài ngoại giao đoàn cạnh Toà Thánh còn có phái đoàn đại diện của 20 quốc gia, do 13 quốc trưởng và thủ tướng hướng dẫn gồm các nước: Albania, nguyên Cộng hoà Jugoslavia Macedonia, Ấn Độ, Kosovo, Tây Ban Nha, San Marino, Đài Loan, Nigeria, Honduras, Italia, Vương quốc Monaco,  Hoà Lan, Ghana, Bosni Erzegovina, Panama, Hoa Kỳ, Áo, Croazia, Montenegro, Belize và 2 tổ chức quốc tế là Luơng nông quốc tế FAO và Lương thực thế giới PAM. Cùng tham dự thánh lễ có hơn 100,000 tín hữu, trong đó có 45.000 thành viên các tổ chức thiện nguyện về Roma mừng Năm Thánh Lòng Thương Xót. Đặc biệt cũng có 1,500 người nghèo, hành khất, vô gia cư, bị bỏ rơi được các nữ tu của Mẹ Terexa săn sóc trong các nhà ở Roma, Milano, Bologna, Firenze và Napoli.

Sau lời chào mở đầu thánh lễ của ĐTC ĐHY Angelo Amato Tổng trưởng Bộ Phong Thánh đã tiến lên xin ĐTC phong hiển thánh cho chân phước Têrexa Calcutta, và đọc tiểu sử của chân phước mà mọi người đều gọi là “Mẹ Têrêxa Caltutta”. Chân phước tên đời là Agnes Gonxha Bojaxhiu sinh ngày 26 tháng 8 năm 1010 tại Skopje, con của một gia đình gốc Albani. Hồi còn trẻ chị đã tham gia các sinh hoạt trong giáo xứ và ước mong tận hiến cuộc đời cho Chúa. Chị rời gia đình và được nhận vào dòng Đức Trinh Nữ diễm phúc Maria Loreto tại Rathfarnam bên Dublin Ai Len. Chi được gửi sang phục vụ bên Ấn Độ, vào nhà Tập và khấn dòng với tên gọi là Terexa. Trong 17 năm trời chị dậy học tại trường trung học Thánh Mary Bengali gần Calcutta.  Trên một chuyến xe lửa từ Calcutta đi Darieeling chị nghe tiếng Chúa Giêsu hấp hối trên thập giá nói “Ta khát” và trực giác được “ơn gọi trong ơn gọi”, thành lập một dòng du để “làm thoả mãn cái khát vô tận tình yêu thương và các linh hồn, mà Chúa Giêsu có trên thập giá, bằng cách làm việc cho ơn cứu rỗi và việc thánh hóa những người nghèo nhất trong những người nghèo. Chị lập dòng các nữ tu Thừa Sai Bác Ái, tiếp theo đó là dòng các Anh em Thừa Sai Bác Ái, các tổ chức giáo dân và Phong trào rộng mở cho các linh mục giáo phận.

Mẹ Terexa không quản ngại mệt nhọc tận hiến cuộc đời và sức lực cho việc loan báo Tin Mừng, qua nhiều hoạt động bác ái và trợ giúp những người rốt hết, không phân biệt giai tầng xã hội, tôn giáo và chủng tộc. Ở nền tảng mọi sáng kiến của Mẹ là việc cử hành Thánh Lễ, chầu Thánh Thể, cầu nguyện và có một tình yêu đại đồng thúc đẩy Mẹ trông thấy và phục vụ Chúa Giêsu nơi người nghèo.

Chứng tá tin mừng anh hùng của Mẹ khơi dậy sự khâm phục của của các giới chức lãnh đạo cao cấp nhất trong Giáo Hội cũng như trong thế giới đời. Năm 1979 Mẹ được giải thường Nobel Hoà Bình. Kiệt lực nhưng luôn luôn mạnh mẽ trong tinh thần Mẹ qua đời tại Calcutta ngày mùng 5 tháng 9 năm 1997 trong hương thơm thánh thiện.

Tiếp đến ĐTC đã cùng cộng đoàn hát kinh cầu các thánh. Rồi ngài đọc công thức tôn phong hiển thánh cho Mẹ như sau:

Để  vinh danh Thiên Chúa Ba Ngôi Chí Thánh, biểu dương đức tin công giáo và thăng tiến cuộc sống kitô, với quyền của Chúa Giêsu Kitô Chúa chúng ta và của hai Thánh Tông Đồ Phêrô Phaolô và của chúng tôi, sau khi đã suy nghĩ lâu dài và nhiều lần xin ơn Chúa trợ giúp và lắng nghe ý kiến của nhiều anh em trong Hàng Giám Mục, chúng tôi tuyên bố và định nghĩa là Thánh chân phước Terexa Calcutta và ghi tên người vào Sổ Bộ các Thánh và thiết định rằng người được tôn kính giũa các Thánh trong toàn thể Giáo Hội, nhân danh Cha và Con và Thánh Thần”.

Thánh tích của Mẹ đã được rước lên đặt bên trái bàn thờ. Đó là một cây thánh giá được ghép bằng nhiều mảnh gỗ phát xuất từ nhiều người và từ nhiều nơi khác nhau, nơi khổ đau tiếp tục nói lên tiếng rên “Ta khát” của Chúa Giêsu. Phần trước của thánh giá cũng bao gồm một mảnh gỗ của bàn quỳ toà giải tội, biểu tượng cho ơn tha thứ, mà hối nhân nhận được từ tình yêu của Thiên Chúa, và Mẹ Terexa coi họ là những người nghèo nhất trong những người nghèo. Thánh giá được viền vàng để nêu bật hai tình yêu lớn nhất của Mẹ đối với Chúa Giêsu và Người Nghèo. Chiếc hộp đựng thánh tích của Mẹ có hình một giọt nước để giải cơn khát của sự vô nghĩa của khổ đau trong cô đơn. Thánh giá được cắm trên một đế bảng sắt bẩn hư hại biểu tượng cho cái nhìn, mà xã hội có đối với người nghèo, nhưng họ lại được Mẹ yêu thương với tất cả tâm lòng và được Mẹ phục vụ trong các khu xóm ổ chuột bần thỉu tại Calcutta, vì họ là phương thế giúp kết hiệp với Chúa Giêsu.

Thánh giá được đặt trong một cái hộp hình trái tim phần bên trái có ba giải mầu xanh diễn tả chiếc áo dòng sari của Mẹ, cong xuống như lưng của Mẹ cúi xuống cầu nguyện, suy niệm và gù người phục vụ dân nghèo. Phần tim bên phải có hình mềm mại hơn mầu trắng diễn tả chiếc áo dòng của Mẹ vói hai chữ “Ta khát” Hai phần của trái tim tách rời nhau nhưng nối liền bởi một vòng tròn diễn tả sự năng động trong sứ mệnh của Mẹ, bắt đầu với sự mạc khải của Chúa Giêsu và được đưa tới chỗ thành toàn. Mầu xanh và mầu trắng cũng là mầu của Mẹ Maria, mà Mẹ Terexa rất tôn sùng và cầu khẩn với lời nguyện đẹp sau đây: “Lậy Mẹ Maria, Mẹ Chúa Giêsu, xin ban cho con Trái tim của Mẹ, xinh đẹp, trinh trong, vô nhiễm, tràn đầy tình yêu và khiêm tốn, để con có thể nhận lấy Chúa Giêsu trong Bánh Sự Sống, yêu Ngài như Mẹ đã yêu Ngài, và phục vụ Ngài như Mẹ đã phục vụ Ngài dưới gương mặt biến dạng của nhừng người nghèo nhất trong những người nghèo”.

Thánh lễ tiếp tục với Kinh Vinh Danh. Các bài sách Thánh đã được tuyên đọc bằng tiếng Anh và tiếng Tây Ban Nha, Thánh vịnh được hát bằng tiếng Ý, và Phúc Âm được hát bằng tiếng Latinh và tiếng Hy Lạp. Các lời nguyện giáo dân đã được đọc bằng các thứ tiếng Albani, Pháp, Bengali, Đồ Đào Nha và Tầu.

Giảng trong thánh lễ ĐTC đã quảng diễn ý nghĩa bài đọc một trích từ sách Khôn Ngoan liên quan tới điều Thiên Chúa muốn nơi con người, là sống đẹp lòng Ngài. ĐTC nói: Các tác nhân lịch sử luôn luôn là hai: một đàng là Thiên Chúa, đàng khác là con người. Nhiệm vụ của chúng ta là nhận thức được tiếng gọi của Thiên Chúa và đón nhận ý muốn của Ngài. Nhưng để có thể tiếp nhận và kiểm thực tiếng gọi của Chúa mà không lưỡng lự chúng ta phải hiểu điều gì làm đẹp lòng Ngài. Biết bao ngôn sứ loan báo điều đẹp lòng Chúa và đúc kết nó trong kiểu diễn tả này: “Ta muốn lòng thương xót chứ không cần của lễ” (Hs 6,6; Mt 9,13). ĐTC giải thích như sau:

Mọi công việc của lòng thương xót đều đẹp lòng Thiên Chúa, bởi vì trong người anh em, mà chúng ta giúp đỡ, chúng ta nhận ra gương mặt của Thiên Chúa, mà không ai trông thấy (x. Ga 1,18). Mỗi lần chúng ta cúi xuống trên các nhu cầu của các anh em khác, là chúng ta đã cho Chúa Giêsu ăn và uống; chúng ta đã cho Ngài mặc, nâng đỡ và viếng thăm Con Thiên Chúa (x. Mt 25,40). Như thế, chúng ta đưọc mời gọi diễn tả cụ thể điều chúng ta xin trong lời cầu nguyện và tuyên xưng trong đức tin. Không có cách nào khác ngoài tình bác ái: những ai phục vụ các anh em khác là những nguời yêu mến Thiên Chúa, dù không biết Ngài (x Ga 3,16-18; Gc 2,14-18). Tuy nhiên, cuộc sống kitô không chỉ là việc trợ giúp khi cần. Nó là tâm tình liên đới đẹp, nhưng sẽ khô cằn vì không có gốc rễ. Trái lại, dấn thân mà Chúa đòi hỏi là dấn thân của một ơn gọi bác ái, qua đó nguời môn đệ Chúa Kitô dùng chính cuộc sống mình để phục vụ và lớn lên mỗi ngày trong tình yêu. Phúc Âm nói đến “đám đông dân chúng đến với Chúa Giêsu” (Lc 14,25). Ngày hôm nay “đám đông” đó là thế giới thiện nguyện đang quy tụ ở đây nhân Mừng Năm Thánh Lòng Thương Xót. Anh chị em chính là những người theo Chúa và khiến cho tình yêu của Ngài trở thành cụ thể đối với từng người…. Các người thiện nguyện củng cố biết bao con tim, nâng đỡ biết bao bàn tay, lau khô biết bao nước mắt! Có biết bao tình yêu thương đã được đổ vào việc phục vụ dấu ẩn, khiêm tốn và vô vị lợi này!

Việc theo Chúa Giêsu là một dấn thân nghiêm chỉnh, đồng thời tươi vui. Nó đòi hỏi tính triệt để và lòng can đảm, để nhận ra Chúa nơi người nghèo nhất và phục vụ họ. Khi phục vụ các người rốt hết và cần được giúp đỡ vì tình yêu Chúa Giêsu, các người thiện nguyện không chờ đợi lời cám ơn hay ca ngợi nào. Họ từ chối mọi sự vì đã khám phả ra tình yêu đích thật. Như Chúa đã đến gặp tôi và cúi xuống trên tôi trong lúc thiếu thốn, tôi cũng đi gặp gỡ Ngài và cúi xuống trên những người đã mất đức tin hay sống như thể Thiên Chúa không hiện hữu, cúi xuống trên những người trẻ sống không giá trị và không lý tưởng, trên các gia đình gặp khủng hoảng, trên bệnh nhân và người tù, người di cư tỵ nạn, trên người yếu đuối và không được bênh đỡ trên thân xác cũng như trong tinh thần, trên các trẻ em vị thành niên bị bỏ rơi cho chính mình, cũng như trên các người già cả phải sống cô đơn.

Đề cập đến gương sống của Mẹ Terexa ĐTC nói:

Trong toàn cuộc đời mình Mẹ Teressa đã quảng đại phân phát lòng thương xót Chúa, sẵn sàng với tất cả mọi người qua việc tiếp đón và bảo vệ sự sống con người, sự sống chưa sinh ra cũng như sự sống bị bỏ rơi và gạt bỏ. Mẹ đã dấn thân bênh vực sự sống bằng cách không ngừng công bố rằng “ai chưa sinh ra là người yếu đuối nhất, bé nhỏ nhất, bần cùng nhất”. Mẹ cúi xuống trên trên những người kiệt lực bi bỏ chết bên lề đường, bằng cách thừa nhận phẩm giá mà Thiên Chúa đã ban cho họ. Mẹ đã làm vang lên tiếng nói của Mẹ giữa các người quyền thế của trái đất này, để cho họ nhận ra các lỗi lầm của họ trước các tội ác của nghèo đói do chính họ dã gây ra. Đối với Mẹ lòng thương xót đã là “muối” trao ban hương vị cho mỗi hoạt động của Mẹ, và là “ánh sáng” chiếu soi các tăm tối của biết bao người cũng đã chẳng còn nước mắt để khóc thương cho sự nghèo túng và nỗi khổ đau của họ.

Sứ mệnh của Mẹ trong các vùng ngoại biên của các thành phố và của cuộc sống tồn tại ngày nay như chứng tá hùng hồn sự gần gũi của Thiên Chúa với những người nghèo nhất giữa những người nghèo. Hôm nay tôi trao gương mặt biểu tượng này của phụ nữ và người được thánh hiến cho toàn thế giới thiện nguyện: ước chi Mẹ là mẫu gương sự thánh thiện của anh chị em! Ước chi người hoạt động của lòng thương xót không mỏi mệt này giúp chúng ta luôn ngày càng hiểu biết hơn rằng tiêu chuẩn hoạt động duy nhất của chúng ta là tình yêu nhưng không, tự do khỏi bất cứ ý thức hệ hay ràng buộc nào, và tuôn đổ trên tất cả mọi người, không phân biệt ngôn ngữ, văn hóa, chủng tộc hay tôn giáo! Mẹ Terexa thường nói: “Có lẽ tôi không nói tiếng của họ, nhưng tôi có thể cười”. Chúng ta hãy mang theo trong tim nụ cười của Mẹ và trao ban nó cho những ai chúng ta gặp trên đường đời, nhất là cho những người đau khổ. Như thế chúng ta sẽ mở ra cho biết bao người đã mất tin tưởng và đang cần sự cảm thông và lòng hiền dịu các chân trời của niềm vui và niềm hy vọng.

Trưóc khi đọc kinh Truyền Tin và ban phép lành cuối lễ cho mọi người ĐTC đã ngỏ lời cám ơn tất cả mọi người tham dự. Trước hết là các nữ tu Thừa Sai Bác Ái là gia đình thiêng liêng của Mẹ. Uớc chi thánh đấng sáng lập luôn trông chừng trên con đường của các chị và giúp các chị trung thành với Thiên Chúa, Giáo Hội và người nghèo. Tiếp đến ĐTC cám ơn các chính quyền hiện diện đặc biệt của các nước gắn bó nhất với gương mặt của vị Thánh mới, cũng như các phái đoàn chính thức và nhiều tín hữu hành hương đến từ các nước đó trong dịp hạnh phúc này. Xin Chúa chúc lành cho quốc gia của anh chị em.

ĐTC cũng chào và cám ơn các thiện nguyện viên và nhân viên lòng thương xót. Ngài phó thác họ cho sự che chở của Mẹ Teresa. Xin Mẹ dậy cho họ biết chiêm ngắm và thờ lậy Chúa Giêsu bị đóng đanh mỗi ngày để nhận biết và phục vụ Ngài nơi các anh chị em nghèo. Chúng ta cũng xin ơn này cho tất cả những ai hiệp nhất với chúng ta qua các phương tiện truyền thông khắp nơi trên thế giới.

ĐTC cũng muốn nhớ tới những người xả thân phục vụ các anh chị em phải sống trong các hoàn cảnh khó khăn và nguy hiểm, đặc biệt là biết bao nhiêu nữ tu không quản ngại hiến mạng sống mình cho tha nhân. Ngài xin mọi người đặc biệt cầu nguyện cho chi Isabel người Tay Ban Nha bị sát hại cách đây hai ngày trong thủ đô Haiti, một đất nước bị thử thách nhiều và ngài cầu mong các hành động bạo lực như thế chấm dứt và có nhiều an ninh hơn cho tất cả mọi người. Chúng ta cũng hãy nhớ tới các nữ tu khác mới đây đã là nạn nhân của bạo lực tại các nước khác. Chúng ta làm điều này bằng cách hướng lời cầu lên Đức Trinh Nữ Maria là Mẹ và là Nữ Vương các Thánh. Tiếp đến ĐTC đã cất Kinh Truyền Tin và ban phép lành cho mọi người

Sau thánh lễ 1,500 người nghèo đã được ĐTC đãi ăn trưa tại tiền sảnh đại thính đường Phaolô VI, do 100 nữ tu và 50 tu huynh Thừa Sai Bác Ái phục vụ.

Linh Tiến Khải