Ngày thứ hai chuyến viếng thăm Georgia của ĐTC Phanxicô

Ngày thứ hai chuyến viếng thăm Georgia của ĐTC Phanxicô

ĐTC Phanxicô nhận lễ vật trong thánh lể cử hành tại sân vận động Meskhi thứ bẩy 1-10-2016

Thứ Bẩy hôm qua là ngày thứ hai ĐTC viếng thăm mục vụ Georgia. Ngài đã có bốn sinh hoạt chính: chủ sự thánh lễ cho tín hữu tại sân vận động Meskhi, gặp gỡ các linh mục, tu sĩ nam nữ và chủng sinh trong nhà thờ Đức Mẹ hồn xác lên trời, gặp gỡ các bệnh nhân và nhân viên của các tổ chức bác ái của Giáo Hội công giáo tại trung tâm của dòng Camilliano, và thăm nhà thờ chính toà thượng phụ Svetyskhoveli. Sau đây là chi tiết các sinh hoạt của ĐTC.

Lúc 9 giờ rưỡi sáng ĐTC đã rời Toà Sứ Thần để đến sân vận động Meskhi để dâng thánh lễ cho tín hữu. Sân vận động này là một trung tâm thể thao đa dụng, mang tên cầu thủ Mikhail Miskhi năm 1988 được bầu làm cầu thủ túc cầu Georiga giỏi nhất của thế kỷ 20. Đuợc xây lại năm 2001 sân vận động có 27.000 chỗ ngồi, và là sân vận động lớn thứ hai trong nước, sau sân vận đông Boris Paichadze.

Tại Georgia các Giáo Hội kitô gồm Latinh, Armeni công giáo, Assiro-canđê, Tin lành baptist và Luther họp gặp gỡ nhau hàng tháng để thảo luận trao đổi ý kiến liên quan tới các vấn đề tôn giáo và tụ hạp nhau trong buổi cầu nguyện đại kết ngày 25 tháng giêng. Cũng có một Hội đồng các tôn giáo bao gồm 20 giáo hội. Đã có nhiều đại điện các giáo hội này hiện diện trong thánh lễ của ĐTC. Hiện diện trong thánh lễ cũng có đại diện chính quyền dân sự, đại diện của Toà Thượng Phụ Georgia, của Đức Thượng Phụ và Công Đồng Canđê, đông đảo đại diện Giáo Hội Armeni công giáo và các Giáo Hội kitô khác.

Giảng trong thánh lễ ĐTC đã quảng diễn ý nghĩa các bài đọc lễ kính thánh Teresa Hài Đồng Giêsu, và mời gọi mọi người hãy mở toang cánh cửa con tim và cuộc sống cho sự ủi an của Chúa, và chia sẻ sứ mệnh cấp thiết của Giáo Hội là là tiếp nhận và cống hiến sự an ủi của Thiên Chúa cho mọi người. Ngài nói:

** Sự an ủi mà chúng ta cần giữa các biến cố giao động của cuộc sống là chính sự hiện diện của Thiên Chúa trong con tim. Bởi vì sự hiện diện của Ngài trong chúng ta là suối nguồn của sự ủi an đích thực, tự do khỏi sự dữ nó đem đến hoà bình và làm cho niềm vui lớn lên. Vì vậy, nếu chúng ta muốn được an ủi cần phải dành chỗ cho Chúa trong cuộc sống. Và để Chúa có thể ở ổn định trong chúng ta, cần mở cửa cho Ngài vào, chứ không để Ngài đứng ở ngoài. Có những cánh cửa của sự ủi an cần phải để rộng mở luôn, bởi vì Chúa Giêsu thích vào qua ngã đó: đó là Phúc Âm đưọc đọc mỗi ngày và đem theo mình, lời cầu nguyện thinh lặng và thờ lậy, Xưng Tội, Thánh Thể. Chính qua các cánh cửa này mà Chúa vào và ban hương vị mới mẻ cho mọi sự. Nhưng khi cánh cửa con tim đóng kín, ánh sáng của Ngài không tới được và chúng ta ở trong bóng tối. Khi đó chúng ta quen với khuynh hướng bi quan, với các điều không chạy, với các thực tại sẽ không bao giờ thay đổi. Và kết cục chúng ta khép kín mình trong buồn sầu, dưới hầm của âu lo, một mình trong chính mình. Nhưng nếu chúng ta mở toanh các cánh cửa của sự ủi an, thì ánh sáng của Chúa vào được!

Tuy nhiên, ngôn sứ Isaia không chỉ nói Thiên Chúa sẽ an ủi chúng ta như một bà mẹ an ủi con thơ, ông còn thêm rằng Chúa sẽ an ủi trong thành Giêrusalem, là thành của Thiên  Chúa, trong cộng đoàn. Sự an ủi được tìm thấy trong Giáo Hội, là nhà của sự ủi an. Chính ở đây Chúa muốn an ủi. Là người sống trong Giáo Hội tôi có là người đem lại sự an ủi của Thiên Chúa không? Tôi có biết tiếp đón tha nhân như khách trọ, và an  ủi người mệt mỏi chán chường không? Cho dù có bị khổ đau khốn khó và khép kín, kitô hữu luôn luôn được mời gọi trao ban hy vọng cho người chịu trận, và hồi sinh người mất tin tưởng, đem ánh sáng của Chúa Giêsu, hơi ấm sự hiện diện của Ngài, sự nghỉ ngơi và tha thứ của Ngài tới cho biết bao người khổ đau, chịu thử thách, bất công và sống trong lo âu. Kitô hữu được mời gọi chia sẻ sứ mệnh của Giáo Hội là tiếp nhận và trao ban an ủi. Vì thế quen khép kín trong một môi trường giáo hội bé nhỏ thì không tốt. Cần phải chia sẻ các chân trời rộng rãi, các chân rộng mở cho niềm hy vọng, can đảm khiêm tốn ra khỏi chính mình.

Nhưng điều kiện để nhận đuợc sự an ủi của Thiên Chúa là trở nên con trẻ (Mt 18,3-4). Để tiếp nhận tình yêu của Thiên Chúa cần có con tim bé nhỏ: chỉ khi còn bé chúng ta mới được ở trên cánh tay của mẹ.

ĐTC nói tiếp trong bài giàng: Chúa Giêsu đã nói: “Ai trở nên như trẻ nhỏ là người lớn nhất Nước Trời” (Mt 18,4) Sự cao cả thực sự của con người là ở chỗ nó trở thành bé nhỏ trước Thiên Chúa. Không phải các tư tưởng cao siêu và học hành nhiều giúp hiểu biết Thiên Chúa, nhưng  là sự bé nhỏ và tin tưởng của con tim. Để là lớn trước Đấng Tối Cao, không cần phải chất chứa danh dự và uy tín, các của cải trần gian, nhưng là dốc đổ chính mình. Trẻ em là người không có gì để cho, và nhận tất cả. Nó giòn mỏng yếu đuối và tuỳ thuộc cha mẹ. Ai trở nên trẻ nhỏ thì nghèo chính mình, nhưng giầu Thiên Chúa.

Thật tốt cho chúng ta, nếu luôn biết nhớ rằng chúng ta luôn luôn và trước hết là con cái Thiên  Chúa: không phải chủ nhân của cuộc sống, nhưng là con cái của Thiên Chúa Cha, không phải là những người tự lập và tự đủ, nhưng là con luôn luôn cần được bồng ẵm trên tay, nhận tình yêu và sự tha thứ. Phúc cho các cộng đoàn kitô sống sự đơn sơ tinh tuyền này của Tin Mừng! Nghèo phương tiện, nhưng giầu Thiên Chúa. Phúc cho các chủ chăn không theo cái luận lý của thành công thế gian, nhưng theo luật của tình yêu: tiếp đón, lắng nghe và phục vụ. Phúc cho Giáo Hội không tín thác nới các tiêu chuẩn của chủ trương chức năng và hiệu quả có tổ chức, và không chú ý tới hình ảnh bề ngoài.

Kết thúc bài giảng ĐTC đã trích lại nhiều tư tưởng của thánh nữ Teresa Hài Đồng liên quan tới con đường thơ ấu thiêng liêng. Mở đwfu bài giảng ngài cũng  ngài đã lấy lại một câu thánh nữ Teresa viết trong các tác phẩm tự thuật: “Số phụ nữ yêu Thiên Chúa nhiều hơn nam giới rất nhiều”, và ĐTC ca tụng giá trị và vai trò của nữ giới tại Georgia gồm các thế hệ biết bao bà nội bà ngoại và người mẹ tiếp tục giữ gìn và thông truyền đức tin, đã được gieo vào lòng đất này bởi Nữ thánh Hài Đồng và đem nước mát sự ủi an của Thiên Chúa vào trong biết bao nhiêu tình trạng sa mạc và xung khắc của xã hội.

Trước khi ban phép lành cho mọi người ĐTC đã cám ơn ĐC Pasotto về lời chào nhân danh cộng đoàn Latinh, Armeni, và Assiro canđê, Đức thượng phụ Sako, các Giám Mục Canđê, ĐC Minassian, và những người từ Armenia tới, cũng như tín hữu đến từ khắp nước Georgia. Ngài cũng cám ơn các giới chức chính quyền, tín hữu Giáo Hội Armeni tông truyền và tín hữu các Giáo Hội khác, đặc biệt là đại diện Giáo Hội chính thống Georgia.

Lúc 12 giờ trưa ĐTC đã trở về Toà Sứ Thần Toà Thánh để dùng bữa trưa và nghỉ ngơi chốc lát trước khi đi gặp các linh mục tu sĩ nam nữ và chủng sinh vào ban chiều.

Lúc 3 giờ rưỡi chiều ĐTC đi xe tới nhà thờ Đức Mẹ hồn xác lên trời cách đó 9 cây số để gặp gỡ các linh mục tu sĩ nam nữ và chủng sinh. Đây là nhà thờ của Giáo Hội công giáo Latinh, do các cha dòng Capucino xây trên nền một hà thờ cũ hồi đầu thế kỷ XX với tài trợ của Bộ Truyền Giáo. Dưới thời cộng sản Liên Xô nhà thờ bị đóng cửa, sau đó bị trưng dụng làm công sở, rồi nhà chơi thể thao. Ngày 15 tháng 8 năm 1999 nhà thờ được tái thánh hiến bởi ĐTGM Giovanni Battista Re, hồi đó là Phụ tá quốc vụ khanh. Trong thư gừi nhân dịp này ĐGH Giaon Phaolô II viết: “Nhà thờ nhắc nhớ nỗi khổ đau của đất nước Georgia và các hy sinh của dân tộc công giáo… Tuy nhiên nhà thờ Đức Mẹ hồn xác lên trời giờ đây lại vươn lên như biểu tượng của niềm hy vọng mới cho Georgia”. Đức Gioan Phaolô II cũng đã viếng thăm nhà thờ trong chuyến công du Georgia trong hai ngày 8-9 tháng 11 năm 1999.

Giáo Hội công giáo Latinh hồi sinh sau thời kỳ bị bách hại khốc liệt. Tuy bé nhỏ nhưng có ảnh hưởng lớn vì các dấn thân trong lãnh vực giáo dục, y tế và bác ái xã hội. Sau khi chế độ cộng sản sụp đổ Giáo Hội đã bắt tay vào việc xây dựng các cơ sở hạ tầng và tái tổ chức cuộc sống. Đa số các linh mục là người nước ngoài. Linh mục bản xứ đầu tiên đưọc thụ phong năm 1998, sau đó có thêm 4 tân linh mục nữa. Hiện đang có 9 phó tế vĩnh viễn đang được đào tạo. Các nữ tu Thừa Sai bác ái của Mẹ Têresa là dòng đầu tiên đến hoạt động tại Georgia sau khi chế độ cộng sản sụp đổ. Tiếp đến có các cha dòng Camilliano, và từ năm 1994 có các cha Dòng Năm Dấu Thánh và từ vài năm nay có thêm các cha dòng Capucino.

ĐTC đã được ĐC Pasotto Giám quản tông toà tiếp đón, rồi ngài vào viếng Mình Thánh Chúa. Bên trong nhà thờ có 250 linh mục, tu sĩ và chủng sinh.

Buổi gặp gỡ đã diễn ra dưới hình thức chia sẻ chứng từ. Sau khi lắng nghe 4 chứng từ chia sẻ và ghi chép một số điểm được nêu lên ĐTC đã trả lời buông và khích lệ các linh mục tu sĩ nam nữ chủng sinh và giáo dân biết duy trì vững mạnh đức tin đã nhận được từ ông bà cha mẹ, sống và thông truyền nó. Duy trì ký ức để nó giúp lớn lên và sinh hoa trái. Ngài kể cho mọi người nghe chuyện một bà cụ già 80 tuổi người Armeni nhưng sống tại Georgia vẫy tay chào ngài. Khi nói chuyện bà cho biết bà đã đi xe bus 6-7 giờ để cố ý đến gặp ĐGH là người kế vị Thánh Phêrô. Hôm sau ngài lại gặp cùng bà cụ đó lại vẫy ngài. Ngài hỏi: “Ủa hôm qua tôi đã gặp bà rồi mà!”, bà nói : “Hôm nay con đi xe bus hai giờ tới để gặp ĐTC, người dại diện Chúa Giêsu. Ngài hỏi tại sao, bà cụ trả lời: “đức tin mà thưa cha”. Phụ nữ Georgia nổi tiếng là mạnh mẽ và có đức tin vững vàng đó là gia tài quý báu mà họ thông truyền cho con cháu. Gốc rễ đức tin của từng người là bà nội bà ngoại và mẹ chúng ta. Vì vậy cần nhớ lại quá khứ, có ký ức, can đảm sống trong hiện tại và hy vọng nơi tương lai.

ĐTC đã đặc biệt nhắn nhủ các linh muc tu sĩ nam nữ và chủng sinh hãy nhớ lại ơn gọi đời thánh hiến của mình, khi được Chúa Thánh Thần đánh động, như một linh mục trẻ đã chia sẻ. Cha kể lại rằng hồi còn bé có lần trông thây một linh mục cha nói với mẹ “Mai mốt con muốn trở thành như cái ông kia kià mẹ” Và khi lớn lên cha đã làm linh mục như lòng mong ước khi còn bé.

Ký ức ơn gọi giúp chúng ta vượt thắng các khó khăn cám dỗ trong cuộc sống và kiên trì trong ơn gọi. ĐTC khuyên các người sống đời thánh hiến đừng bao giờ quay lại đàng sau, nhưng kiên trì vững vàng tiến bước với các yêu đuối và tội lỗi của mình, với các khó khăn và chưóng ngại có thể gặp trong cuộc sống, các hiểu lầm, các thất bại, chán nản ngã lòng. Và nhất là phải xác tín rằng lòng thương xót Chúa lớn hơn tội lỗi của chúng ta.

Liên quan tới các khó khăn của cuộc sống hôn nhân, mà hàng giáo sĩ và tu sĩ thường gặp phải trong việc mục vụ gia đình, ĐTC khuyến khích các linh mục tu sĩ và toàn cộng đoàn phải tiếp đón, đồng hành và tìm mọi cách giúp các cặp vợ chồng gặp khó khăn cứu vãn hôn nhân của họ. Khi cha mẹ lục đục và muốn ly dị ly thân, Thiên Chúa và con cái đau khổ biết bao, vì như thế là làm nhọ hình ảnh của Thiên Chúa và gây thiệt hại cho con cái. Khi bị cám dỗ thấy một người đàn bà hay đàn ông khác trổi vượt hơn vợ hay chồng mình, cần phải xin Chúa giúp đỡ ngay để thắng vượt cám dỗ đó. Để duy trì hạnh phúc các cặp vợ chồng phải biết tiếp đón nhau, đồng hành với nhau, cùng nhau phân định và cùng nhau hội nhập. Có ba từ cần sử dụng liên tục là: xin phép, cám ơn và xin lỗi. Chúng cho phép cuộc sống gia đình tiến tới. Và ĐTC khuyên các cặp vợ chồng đừng bao giờ kết thúc ngày sống mà không làm hoà với nhau, với các cử chỉ hay lời nói đơn sơ, kể cả một cái vuốt ve trìu mến không lời. Các lục đục, khó khăn, bất hoà, hiểu lầm, cãi cọ là những điều bình thường có thể xảy ra trong gia đình. Dù có cãi nhau, đĩa bay chén bay, hay cái gì đi nữa, đừng bao giờ kết thúc ngày sống mà không làm hoà với nhau.

Gia đình ngày nay bị tấn công bởi biết bao nhiêu tư tưởng thực dân như ý niệm về giống. Phải bảo vệ gia đình chống lại các ý thức hệ thực dân đó, và chạy đến với hai bà Mẹ: Mẹ Maria là Mẹ Chúa Giêsu và là Mẹ chúng ta và Mẹ Giáo Hội. ĐTC nói:

Chúa Giêsu thích làm cho Giáo Hội tiến tới với hai phụ nữ: đó là Mẹ của Ngài, Mẹ Thiên Chúa cũng là Mẹ chúng ta và Hiền Thê của ngài là  Giáo Hội. Với hài bà mẹ này Giáo Hội tiến tới vững vàng. Chúa yêu thích làm cho Giáo Hội tiến tới như thế và phụ nữ là những người thông truyền đức tin và bảo vệ đức tin. Các đan sĩ Georgia thường nói: khi gặp các tấn công hay khổ đau khốn khó, tín hữu cần chạy đến trú ẩn đưới áo choàng của Mẹ Maria. Đức Maria là mẹ, Giáo Hội là mẹ. Với hai bà mẹ này chúng ta tiến bước vững vàng trong cuộc sống đức tin.

Vấn đề sau cùng được ĐTC nhắc đến là vấn đề đại kết. Hãy để các khó khăn thần học cho các thần học gia thảo luận. Chúng ta hãy sống cởi mở, sống tình bạn, cộng tác với nhau trong các việc bác ái. Đừng muốn hoán cải người khác, không được chiêu dụ các tín đồ chính thống. Họ là anh em của chúng ta. Vì các lý do lịch sử và nhiều lý do phức tạp khác chúng ta rơi vào tỉnh trạng hiện nay, nhưng hãy biết chấp nhận nhau, sống thân hữu với nhau, đồng hành với nhau, cầu nguyện cho nhau và cùng nhau hoạt động bác ái, không lên án. Đó là sống đại kết.

ĐTC đặc biệt cảnh cáo các linh mục tu sĩ chủng sinh và tín hữu chống lại tinh thần trần tục. Chúa Giêsu đã là người cương quyết và mạnh mẽ chống lại tinh thần thế tục này, và trong bữa Tiệc Ly đã xin Thiên  Chúa Cha bảo vệ các môn đệ khởi tình thần trần tục. Tóm lại cần phài duy trì vững mạnh đức tin đã nhận lãnh được từ thế hệ ông bà cha mẹ, giữ gìn, sống, và thông truyền nó cho những người khác, và biết chạy đến ẩn náu dước bóng áo choàng của Mẹ Maria.

ĐTC đã cùng mọi người đọc một kinh Kính Mừng. Tiếp đến cộng đoàn hát kinh Lậy Cha và ĐTC lãnh phép lành toà thánh cho mọi người.

Linh Tiến Khải

Đức Thánh Cha kêu gọi Chính Thống Georgia đẩy mạnh đại kết

Đức Thánh Cha kêu gọi Chính Thống Georgia đẩy mạnh đại kết

Đức Thánh Cha kêu gọi Chính Thống Georgia cùng đẩy mạnh đại kết

TBILIBI. Trong cuộc gặp gỡ các vị lãnh đạo Chính Thống Georgia chiều ngày 1-10-2016, ĐTC mời gọi Giáo Hội này cùng Công Giáo đẩy mạnh đại kết.

Hoạt động cuối cùng của ĐTC tại Georgia là cuộc viếng thăm Nhà thờ chính tòa của Tòa Thượng Phụ Chính Thống ở thành Mtshkheta là cố đô của Georgia, cách thủ đô Tbilisi 22 cây số về hướng tây bắc. Phong cảnh tại đây thật là thơ mộng, giữa núi non và hai dòng sông Aragvi và Mktvari.

Nhà thờ chính tòa Svetyskhoveli (nghĩa đen là ”Cây cột ban sự sống”) là trung tâm tinh thần của Giáo Hội Chính Thống Georgia. Theo lưu truyền ở địa phương, chiếc áo chùng của Chúa Kitô được giữ tại thánh đường này. Tại đây hàng năm vào ngày 1-10 có cử hành lễ đặt áo chùng thánh của Chúa, và tất cả các GM mới được truyền chức tại đây, bất luận các vị thuộc giáo phận nào.

Thánh đường hiện nay được xât cất hồi thế kỷ thứ 11, trên di tích của nhà thờ chính tòa cũ có từ thế kỷ thứ 4. Qua dòng lịch sử, Nhà thờ này bị phá hủy và tái thiết nhiều lần.

Khi ĐTC đến nhà thờ chính tòa ngài được chính Đức Thượng Phụ Ilia II đón tiếp và hướng dẫn đến mộ thánh Sidonia, theo truyền thống, thánh nhân đã được an táng với chiếc áo chùng của Đấng Chiu Đóng Đanh. Tại đây ĐTC đã thắp lên ngọn nến sáng để bày tỏ lòng tôn kính.

Hiện diện trong thánh đường cũng có thủ tướng Georgia, các chức sắc của Giáo Hội Chính Thống Georgia, một số GM Công Giáo và đại diện các Giáo Hội Kitô khác, cùng với chính quyền dân sự và đại diện ngoại giao đoàn, giới trí thức văn hóa.

Trong lời chào mừng ĐTC, Đức Thượng Phụ Ilia 2, 83 tuổi, Giáo chủ Chính Thống Georgia, giải thích lịch sử thánh Sidonia được an táng tại nhà thờ này và chiếc áo cùng của Chúa Giêsu. Ngài cũng nói lịch sử thăng trầm của Georgia, bao nhiêu đau khổ vì những cuộc xâm lăng, những cuộc tử đạo của hàng trăm tín hữu vì không muốn chà đạp Thánh Giá Chúa.

Diễn văn của ĐTC

Tiếp lời Đức Thượng Phụ, ĐTC đi từ hình ảnh chiếc áo chùng không đường khâu của Chúa Giêsu để mời gọi các tín hữu dấn thân trên con đường tìm về hiệp nhất. Ngài nói:

”Mầu nhiệm chiếc áo chùng không đường khâu, được dệt từ trên xuống dưới” (Ga 19,23) đã lôi kéo sự chú ý của các tín hữu Kitô ngay từ đầu. Một Giáo Phụ thời xưa, thánh Cipriano thành Cartagine, đã khẳng định rằng trong chiếc áo không bị phân chia của Chúa Giêsu xuất hiện ”mối dây hòa hợp, liên kết không thể tách rời”, sự hiệp nhất đến từ trên cao, nghĩa là từ trời, từ Chúa Cha, và tuyệt đối không thể bị xâu xé” (De catholicae Ecclesiae unitate, 7). Chiếc áo chùng thánh, mầu nhiệm hiệp nhất, nhắn nhủ chúng ta cảm thấy đau đớn sâu xa vì những chia rẽ giữa các tín hữu Kitô qua dòng lịch sử: đó là những xâu xé thực sự gây ra cho thân mình Chúa, nhưng đồng thời, sự hiệp nhất từ trên cao, tình yêu của Chúa Kitô đã tập họp chúng ta và ban cho chúng ta không những chiếc áo của Ngài, nhưng cả chính thân mình Ngài, thúc đẩy chúng ta đừng cam chịu, và Chúa nêu gương cho chúng ta (Xc Rm 12,1): khích lệ chúng ta có lòng bác ái chân thành và cảm thông nhau, hàn gắn những chia rẽ, nhờ một tinh thần huynh Kitô trong sáng. Tất cả những điều đó đòi một con đường kiên nhẫn, cần phải vun trồng sự tín nhiệm nhau và lòng khiêm tốn, không sợ hãi và cũng không nản chí, trái lại trong niềm vui tươi chắc chắn mà niềm hy vọng Kitô cho chúng ta nếm hưởng trước. Niềm hy vọng ấy khích lệ chúng ta tin rằng những đối nghịch có thể chữa lành và những chướng ngại có thể bị loại bỏ, đồng thời mời gọi chúng ta không bao giờ từ bỏ cơ hội gặp gỡ và đối thoại, bảo tồn và cải tiến những gì đã có. Ví dụ tôi nghĩ đến cuộc đối thoại hiện nay trong Ủy ban hỗn hợp quốc tế và những cơ hội trao đổi phúc lợi khác”.

Giã từ Đức Thượng Phụ Ilia 2 và các chức sắc, ĐTC đã về tòa Sứ Thần Tòa Thánh ở thủ đô Tbilisi để dùng bữa tối và qua đêm.

Sáng chúa nhật 2-10-2016, ĐTC sẽ giã từ Georgia vào lúc 8 giờ 10, để bay sang thủ đô Baku của Cộng hòa Azerbaigian và viếng thăm đến chiều tối cùng ngày trước khi đáp máy bay về Roma, dự kiến vào lúc 10 giờ đêm.

G. Trần Đức Anh OP

Đức Thánh Cha Phanxicô thăm Georgia Azerbaijan – điểm báo 01/10/2016

Đức Thánh Cha Phanxicô thăm Georgia  Azerbaijan – điểm báo 01/10/2016

Đức Thánh cha thăm Georgia

– Trang mạng của Radio ECO DEL CAUCASO viết về ngày thứ nhất trong chuyến viếng thăm của Đức Thánh Cha Phanxicô, đã nhấn mạnh ý kiến của Đức Thượng phụ Ilia. Ngài gọi đây là chuyến viếng thăm lịch sử, khẳng định tình yêu thương huynh đệ giữa hai Giáo hội và nói rằng có những điểm chung và tất cả theo đuổi việc tiến gần đến hiệp nhất.

 Tất cả các cơ quan báo chí đều nói về chuyến viếng thăm của Đức Thánh cha và viết rằng vấn đề bầu cử đã không nằm trong Top News trong một ngày (30/09/2016).

– Cơ quan báo chí GIORGIA ON LINE có hai bào báo về chuyến viếng thăm với hình ảnh chính thức: Bài thứ nhất nhấn mạnh những lời Đức Thượng phụ gọi Đức Thánh Cha Phanxicô “người anh em yêu quý”. Bài báo cũng dành chỗ cho niềm hy vọng rằng có một tinh thần xây dựng mới giữa hai Giáo hội, với sự trợ giúp của Thiên Chúa.

Bài báo thứ hai trình bày về vấn đề chính trị, cuộc gặp gỡ giữa Đức Thánh cha và Tổng thống, trưng dẫn những lời của Đức Thánh Cha Phanxicô định nghĩa Georgia là cầu nối giữa Châu Âu và châu Á. Sau đó bài báo trích dẫn bài diến thuyết của Tổng thống, ông đã cám ơn Tòa Thánh về sự gần gũi với các vấn đề toàn vẹn lãnh thổ và bày tỏ hy vọng là từ nay cộng đồng quốc tế sẽ chú ý nhiều hơn đến đất nước này. Như thế báo này có cái nhìn tích cực về chặng đầu của chuyến viếng thăm của Đức Thánh Cha.

– Cơ quan báo chí SPUTNIK –GEORGIA chú trọng nói với giới trẻ. Báo này theo dõi mọi diễn tiến của chuyến viếng thăm này; có bài về cuộc phỏng vấn một thần học gia Công giáo; các hình ảnh của Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II vào năm 1999; một bảng câu hỏi online về ý nghĩa chuyến viếng thăm của Đức Thánh Cha, trong đó 31% dân số nói chuyến viếng thăm này như là một “dấu chỉ”, một sự kiện hàng đầu của đất nước; 18% xem đó như là một sứ điệp chính trị của Vatican gửi cho thế giới, 4% nhìn thấy đây là một biến cố thánh thiêng cá nhân … và 46% không quan tâm đến cuộc viếng thăm này.

– Các nhật báo ON LINE

Báo CIVIL .GE chuyên về chính trị thì dành 2 bài cho cuộc viếng thăm: một bài về cuộc gặp với Đức Thượng phụ và bài khác về cuộc gặp với Tổng thống Giorgi Margvelashvili, trong đó nhấn mạnh các lời của Đức Thánh Cha về sự chung sống hòa bình giữa các dân tộc và các quốc gia trong vùng là điều kiện không thể thiếu và tiên quyết cho sự phát triển lâu dài.

Báo CAUCAS PLUS đăng trên trang nhất tấm hình lớn của Đức Thánh cha và tổng thống: và điều được nhấn mạnh là Georgia được Đức Thánh cha định nghĩa là cầu nối giữa các dân tộc. (SD 01/10/2016)

Hồng Thủy

Đức Thánh Cha viếng thăm tòa Thượng Phụ Chính Thống Georgia

Đức Thánh Cha viếng thăm tòa Thượng Phụ Chính Thống Georgia

Đức Thánh Cha viếng thăm tòa Thượng Phụ Chính Thống Georgia

TBILISI. ĐTC bày tỏ lòng quí chuộng Giáo Hội Chính Thống Georgia và kêu gọi từ bỏ những thành kiến đối với nhau, cùng trở thành những loan báo Tin Mừng của Chúa.

Giã từ phủ tổng thống, ĐTC đã đến tòa Thượng Phụ lúc gần 5 giờ chiều giờ địa phương, và được Đức Thượng Phụ Ilia II tiếp đón.

Đức Thượng Phụ năm nay 83 tuổi (1933) thụ phong GM năm 1963 khi được 30 tuổi, và làm Viện trưởng thần học viện ở thủ đô Tbilisi, rồi làm GM giáo phận Sukhumi cho đến khi được bầu làm Thượng Phụ hồi năm 1977. Ngài từng làm Chủ Tịch Hội đồng đại kết các Giáo Hội Kitô ở Genève Thụy Sĩ, nhưng năm 1997, dưới sức ép mạnh mẽ của phe thủ cựu, cho rằng tổ chức này chịu ảnh hưởng quá mạnh của Tin Lành, nên Thánh Hội đồng của Chính Thống Georgia buộc lòng phải lui khỏi Hội đồng đại kết. Nhóm thủ cựu này cũng đã biểu tình chống đối cuộc viếng thăm của ĐTC tại Georgia.

Sau khi hội kiến riêng với Đức Thượng Phụ Ilia II, ĐTC đã gặp chung với phái đoàn của hai bên và khoảng 10 đại diện của giới học giả và văn hóa.

Diễn văn của ĐTC

Lên tiếng trong dịp này, ĐTC nói:

”Thật là một niềm vui lớn lao cho tôi và một ơn đặc biệt được gặp Đức Thượng Phụ và các vị TGM, GM, thành viên của Thánh Hội đồng. Tôi chào thăm thủ tướng và các vị đại diện của giới học giả và văn hóa..”

Tiếp đến, ĐTC nhắc đến sự kiện Đức thượng phụ Ilia II là người đã viết lên một trang sử mới trong quan hệ giữa Chính Thống Georgia với Giáo Hội Công giáo khi đến viếng thăm lần đầu tiên tại Vatican. Trong dịp đó, Đức Thượng Phụ và GM Roma đã trao đổi nụ hôn bình an và hứa cầu nguyện cho nhau. Từ đó nhiều quan hệ và trao đổi đã được tăng cường, các cuộc viếng thăm của các đại diện Tòa Thánh tại Georgia, các sinh viên Chính Thống Georgia nghiên cứu tại thư viện Vatican và học hỏi tại các Đại học Giáo Hoàng ở Roma, và các tín hữu Georgia hiện diện ở Roma, với một thánh đường và có sự cộng tác với cộng đoàn Công giáo địa phương. Và – ĐTC nói – ”nay tôi đến đây như một người hành hương và một người bạn, tôi đến phần đất được chúc phúc này trong lúc các tín hữu Công Giáo cử hành cao điểm của Năm Thánh Lòng Thương Xót.”

ĐTC cũng nhận xét rằng Giáo Hội Chính Thống Georgia vốn ăn rễ sâu nơi lời giảng của các Tông đồ đặc biệt là Thánh Anrê, và Giáo hội Roma, được xây dựng trên cuộc tử đạo của thánh Phêrô Tông Đồ, ngày hôm nay cả hai Giáo Hội được ơn canh tân tình huynh đệ Tông Đồ tươi đẹp, nhân danh Chúa Kitô và vinh danh của Chúa, Phêrô và Anrê là anh em với nhau.. Người Anh em, Đức Thượng Phụ rất thân mến, chúng ta hãy để cho mình được Chúa Giêsu nhìn, để cho lời mời gọi của Chúa thu hút, từ bỏ những gì cầm giữ chúng ta để cùng nhau trở thành những người loan báo sự hiện diện của Chúa”.

ĐTC ca ngợi lòng can đảm của nhân dân Georgia, luôn trỗi dậy sau vô số thử thách.. và ngài nói thêm rằng:

”Người anh em rất thân mến, để Tin Mừng mang lại hoa trái, ngày nay chúng ta cũng được yêu cầu liên kết kiên vững hơn với Chúa và hiệp nhất với nhau. Nhiều vị thánh của đất nước này khuyến khích chúng ta đặt Tin Mừng lên trên mọi sự và loan báo Tin Mừng như trong quá khứ và hơn nữa, không để mình bị ràng buộc vì những thiên kiến và cởi mở đối với sự mới mẻ ngàn đời của Thiên Chúa. Ước gì những khó khăn không trở thành chướng ngại, nhưng khích lệ chúng ta biết nhau nhiều hơn, chia sẻ nhựa sống đức tin, tăng cường cầu nguyện cho nhau và cộng tác trong tình bác ái tông đồ để làm chứng tá chung, để tôn vinh Thiên Chúa và phục vụ hòa bình trên trái đất.”

G. Trần Đức Anh OP

Đức Thánh Cha bắt đầu viếng thăm Cộng hòa Georgia

Đức Thánh Cha bắt đầu viếng thăm Cộng hòa Georgia

Đức Thánh Cha bắt đầu viếng thăm Cộng hòa Georgia

TBILISI. Chiều ngày 30-9-2016, ĐTC cổ võ sống chung hòa bình giữa các dân tộc tại Cộng hòa Georgia đồng thời tôn trọng công pháp quốc tế về chủ quyền của mỗi người.

Ngài đưa ra lời kêu gọi trên đây trong buổi gặp gỡ Tổng thống, các giới chức chính quyền, cũng như đại diện các tầng lớp xã hội và văn hóa của cộng hòa Georgia. Đây là hoạt động đầu tiên của ngài trong chuyến viếng thăm thăm Cộng Hòa Georgia và Azerbaigian trong 3 ngày cho đến chiều tối chúa nhật 2-10 tới đây.

Đây là chuyến viếng thăm thứ 16 của ĐTC tại nước ngoài và là phần thứ 2 trong cuộc viếng thăm miền Caucase. Phần đầu ngài đã thực hiện tại Cộng hòa Armeni từ ngày 24 đến 26-6 năm nay. Cả 3 quốc gia này đều có con số tín hữu Công Giáo ít ỏi, nhưng qua các cuộc viếng thăm này, ĐTC muốn cổ võ những quan hệ đại kết, hòa bình và hòa giải giữa các dân tộc. Nói khác đi ngài muốn thi hành một sứ mạng hòa bình và hiệp nhất, như nhận xét của ĐHY Pietro Parolin, Quốc vụ khanh Tòa Thánh.

ĐTC đã rời Roma lúc 9 giờ 25 và đến phi trường thủ đô Tbilisi của Georgia lúc 15 giờ chiều (13 giờ giờ Roma). Cùng đi với ngài có đoàn tùy tùng 30 người và 70 ký giả quốc tế.

Vài nét về Georgia

Cộng hòa Georgia chỉ rộng 70 ngàn cây số vuông với dân số 4 triệu rưỡi dân cư trong đó gần 84% là tín hữu Chính Thống giáo, khoảng 10% theo Hồi giáo, số tín hữu Công giáo là 112 ngàn người, tương đương với 2,5% dân số toàn quốc. Họ sống tại thủ đô Tbilisi và miền nam của Georgia, đa số thuộc nghi lễ la tinh và Armeni, nhưng cũng có một cộng đoàn nhỏ các tín hữu nghi lễ Canđê. Tổng cộng tại nước này, Công Giáo có 32 giáo xứ, 2 GM, 28 LM triều và dòng (14+14), hai tu huynh và 37 nữ tu. Ngoài ra có 12 đại chủng sinh và 2 tiểu chủng sinh. Giáo Hội Công Giáo ở Georgia chỉ có 2 trường mẫu giáo và một trường cao đẳng.

Giáo Hội Chính Thống Georgia có khoảng 4 triệu tín hữu. và là một đối tác khó khăn trong quan hệ với Công Giáo và cả đối với các Giáo Hội chính thống khác. Chính Thống Georgia đã từ chối tham dự Công đồng Liên chính thống giáo hồi cuối tháng 6 năm 2016 ở đảo Creta bên Hy Lạp, giống như Giáo Hội Chính Thống Nga.

Gặp gỡ chính quyền

Từ trên máy bay bước xuống, ĐTC đã được tổng thống Giorgi Margvelashvili cùng với phu nhân chào đón cùng với Đức Thượng Phụ Ilia II và một số quan chức và chức sắc, đặc biệt là hai vị GM Công Giáo, một thuộc nghi lễ la tinh và một thuộc nghi lễ Armeni. 2 em bé trong y phục cổ truyền của Georgia dâng tặng ĐTC một rổ nho, một sản phẩm nổi bật của nước này. Sau nghi thức chào cờ, duyệt qua hàng quân danh dự và giới thiệu các thành phần hai phái đoàn, ĐTC đã vào phòng khánh tiết hội kiến với Tổng thống, trước khi về phủ tổng thống vào lúc 3 giờ rưỡi để chào thăm chính thức.

Tổng thống Margvelaschivili của Georgia năm nay 47 tuổi (1969), đậu tiến sĩ triết học, nguyên là viện trưởng Học viện công vụ, rồi làm bộ trưởng giáo dục, tiếp đến làm phó thủ tướng. Sau cùng ông đắc cử tổng thống cách đây 3 năm.

Sau khi gặp gỡ tổng thống và gia đình ông, ĐTC đã tiến ra khuôn viên danh dự tổng thống để gặp gỡ 400 người gồm các quan chức chính trị và tôn giáo, ngoại giao đoàn, cũng như đại diện các tầng lớp xã hội dân sự và văn hóa.

Trong lời chào mừng ĐTC, tổng thống cám ơn sự ủng hộ của Tòa Thánh dành cho đất nước Georgia, đặc biệt trong thời kỳ bị Nga tấn công hồi năm 2008. Ông cũng nhắc đến những quan hệ giữa Vatican, Giáo Hội Công Giáo và Georgia qua dòng lịch sử và đề cao vai trò của Georgia không những thuộc về nền văn minh Âu Châu, nhưng còn là một trong những nước kiến tạo nền văn minh này. Sau cùng ông cho biết 20% lãnh thổ của Georgia vẫn còn bị chiếm và 15% dân chúng là người tị nạn. Những vùng bị những người gốc Nga chiếm đóng. Dầu vậy, Georgia không tìm kiếm sự đụng độ, nhưng chị tìm con đường đưa rất nước được giải phóng khỏi sẹ chiếm đóng của ngoại bang và tiến đến hòa bình!

Diễn văn của ĐTC

Lên tiếng sau lời chào mừng của tổng thống Cộng hòa Georgia, ĐTC đã đề cao lịch sử ngàn đời và nền văn hóa cổ kính của đất nước này. Georgia như chiếc cầu thiên nhiên giữa Âu và Á châu, một bản lề giúp cho việc giao thông và tương quan giữa các dân tộc được dễ dàng, khiến cho việc thương mại và đối thoại giữa các dân tộc cũng như sự đối chiếu tư tưởng và kinh nghiệm giữa các thế giới khác nhau có thể thực hiện được.

 ĐTC nhắc đến sự kiện Georgia đã tuyên bố độc lập từ 25 năm nay, hoàn toàn tìm lại tự do, nền độc lập này đã xây dựng và củng cố các cơ chế dân chủ và tìm kiếm những con đường để bảo đảm sự phát triển bao gồm mọi người và có đặc tính chân thực. Tất cả những điều đó đã diễn ra với nhiều hy sinh mà nhân dân Georgia đã can đảm đương đầu để đảm bảo cho mình tự do hằng ao ước.

ĐTC khẳng định rằng: ”Sự tiến bộ chân thực và lâu bền như thế có một điều kiện tiên quyết không thể thiếu được, đó là sự sống chung hòa bình giữa các dân tộc và các quốc gia trong vùng. Điều này phải phải gia tăng tâm tình quí chuộng lẫn nhau, những tâm tình đó không từ bỏ sự tôn trọng chủ quyền của mỗi nước trong khuôn khổ quốc tế công pháp. Để mở ra những con đường đưa tới một nền hòa bình lâu bền và môt sự cộng tác thực sự, cần ý thức rằng những nguyên tắc quan trọng để có tương quan công bằng và vững bền giữa các quốc gia đều nhắm phục vụ cho sự sống chung cụ thể, có trật tự và hòa bình giữa các dân nước. Thực vậy, tại quá nhiều nơi trên thế giới, dường như người ta theo đuổi thứ tiêu chuẩn khiến có khó lòng duy trì những khác biệt hợp pháp và những tranh biện luôn có thể xảy ra trong một bối cảnh đối chiếu và đối thoại trong đó lý trí, sự ôn hòa và tinh thần trách nhiệm được trổi vượt. Đây là điều rất cần thiết trong bối cảnh lịch sử hiện nay, trong đó không thiếu những trào lưu cực đoan bạo lực lèo lái và bóp méo những nguyên tắc dân sự và tôn giáo để dùng chúng phục vụ cho những ý đồ đen tối muốn thống trị và gây chết chóc”.

ĐTC nhấn mạnh rằng ”Tất cả cần quan tâm trước tiên tới số phận của con người cụ thể và kiên nhẫn hết sức cố gắng tránh để cho những khác biệt biến thành bạo lực, nhắm khơi lên những đổ vỡ lớn lao cho con người và xã hội. Bất kỳ sự phân biệt nào về chủng tộc, ngôn ngữ, chính trị hoặc tôn giáo, không để bị lạm dụng để biến thành cái cớ biến những khác biệt thành xung đột và biến những xung đột thành những thảm trạng khôn cùng, sự phân biệt ấy có thể và phải là nguồn mạch làm cho mọi người được thêm phong phú và có lợi cho ích chung. Điều này đòi mỗi người phải tận dụng tất cả những đặc điểm của mình, nhất là có thể sống an bình nơi quê hương của mình hoặc được hồi hương tự do, nếu vì lý do nào đó họ đã phải buộc lòng rời bỏ quê hương. Tôi cầu mong rằng các vị hữu trách chính trị tiếp tục quan tâm đến tình cảnh của những người ấy, dấn thân tìm kiếm những giải pháp cụ thể, kể cả ở bên ngoài những vấn đề chính trị chưa được giải quyết. Điều ấy cũng đòi phải có sự nhìn xa trông rộng và can đảm nhìn nhận thiện ích đích thực của các dân tộc và quyết tâm theo đuổi thiện ích ấy một cách khôn ngoan. Điều tối cần thiết là nghĩ đến những đau khổ của con người để quyết tâm theo đuổi hành trình xây dựng hòa bình, con đường kiên nhẫn và vất vả nhưng cũng là con đường có sức thu hút và mang lại tự do”.”

Giã từ tổng thống và các giới chức chính quyền, ĐTC đã tới tòa Thượng Phụ Chính Thống Georgia để viếng thăm.

G. Trần Đức Anh OP

Các Giám mục Công giáo Canđê kêu gọi hòa bình cho vùng Trung đông

Các Giám mục Công giáo Canđê kêu gọi hòa bình cho vùng Trung đông

Người tị nạn Iraq

Irbil, Iraq – Trong thượng hội đồng hàng năm diễn ra từ ngày 22-27/9, các Giám mục Công giáo Canđê đã kêu gọi hòa bình cho vùng Trung đông và việc giải phóng các khu vực đang bị Nhà nước Hồi giáo chiếm giữ, để những người di tản có thể trở về quê nhà của họ.

Các tín hữu Canđê nằm trong số khoảng 120 ngàn Kitô hữu bị “bứng rễ” khỏi quê nhà khi Nhà nươc Hồi giáo chiếm Mosul và bình nguyên Ninivê ở Iraq vào mùa hè năm 2014.

Trong tuyên ngôn cuối cùng công bố vào buổi bế mạc thượng hội đồng, 20 Giám mục từ Iraq, Iran, Syria, Liban, Hoa kỳ, Canada và Úc đã bày tỏ tình liên đới của họ với Đức cha Antoine Audo của Aleppo, Syria. Các Đức cha kêu gọi “chấm dứt chiến tranh ở Syria và cùng ngồi lại với nhau để đối thoại xây dựng, tìm ra một giải pháp chính trị ôn hòa để gìn giữ đất nước và dân tộc”.

Về vấn đề các Linh mục và đan sĩ đã rời Giáo phận hay đan viện mà không có phép di cư chính thức, các Giám mục nhấn mạnh rằng việc rời bỏ quê nhà đó “đang làm nổi lên những nghi ngờ giữa các tín hữu.” Theo đó, tuyên ngôn chỉ thị là các Linh mục và đan sĩ phải “rời Giáo phận hiện tại (ở nước ngoài) ngay lập tức.” Tuyên ngôn viết tiếp: “Chúng tôi có thể đón nhận họ miễn là có một Giám mục Canđê có thể tiếp đón họ sau một hay hai tháng phục chức. Trong khi đó, các Linh mục nên gặp các Giám mục để hợp thức tình trạng của họ trước khi bắt đầu sứ vụ mục tử của họ.”

Thượng hội đồng đã chọn 3 ứng viên Giám mục cho Giáo phận San Diego để gửi lên Đức Giáo hoàng Phanxicô. Đức cha Shlemon Warduni phục vụ như Giám mục tạm thời của Giáo phận này từ khi Đức cha Sarhad Jammo nghỉ hưu.

Tuyên ngôn cũng nói đến việc Giáo hội Canđê sẽ bắt đầu tiến trình phong thánh cho các vị tử đạo Công giáo ở Iraq từ 2003, trong đó có Đức Tổng Giám mục Faraj Rahho, cha Ragheed Kani, bốn phó tế và một nữ tu. (CNS 29/09/2016)

Hồng Thủy

Đức Thánh Cha tố giác các thế lực kéo dài chiến tranh Syria

Đức Thánh Cha tố giác các thế lực kéo dài chiến tranh Syria

Đức Thánh Cha tố giác các thế lực kéo dài chiến tranh Syria

VATICAN. ĐTC tái tố giác những thế lực theo đuổi lợi lộc đen tối kéo dài chiến tranh tại Syria, Iraq, tàn phá các đất nước này.

Ngài bày tỏ lập trường trên đây dành cho 80 người thuộc 40 tổ chức từ thiện Công Giáo quốc tế và các tham dự viên khác tại khóa họp thứ 5 do Hội đồng Tòa Thánh Cor Unum (Đồng Tâm), triệu tập hôm 29-9-2016, tại Roma, để kiểm điểm tình hình và đẩy mạnh công cuộc cứu trợ các nạn nhân tại Siria và Irak.

ĐTC nói: ”Mặc dù nhiều cố gắng đã được thực hiện trong các lãnh vực khác nhau, lý lẽ của võ khí và đàn áp, những lợi lộc đen tối và bạo lực tiếp tục tàn phá hai nước ấy và cho đến nay, người ta không biết chấm dứt những đau khổ làm kiệt quệ và những vi phạm liên tục chống lại các quyền con người. Những hậu quả thê thảm của cuộc khủng hoảng ấy hiện nay trở nên tỏ tường, vượt lên trên các biên cương của vùng ấy. Hiện tượng di cư trầm trọng là biểu tượng tình trạng ấy”.

ĐTC cũng cảnh giác rằng ”bạo lực sinh ra bạo lực và chúng ta có cảm tưởng đang bị cuốn vào cái vòng bất lực và ù lỳ bất động mà dường như người ta không có lối thoát. Sự ác đang vây hãm lương tâm và ý chí như thế phải đặt câu hỏi cho chúng ta. Tại sao con người tiếp tục theo đuổi những lạm quyền, trả đũa và bạo lực, dù có những thiệt hại lớn lao cho con người, cho gia sản và môi trường như thế? Chúng ta hãy nghĩ đến vụ tấn công mới đây chống loại đoàn xe cứu trợ nhân đạo của LHQ..

Trong bối cảnh đau thương đó, ĐTC ca ngợi hoạt động của ”những người dấn thân giúp đỡ các nạn nhân và bảo tồn phẩm giá của họ, công việc ấy chắc chắn là một phản ánh lòng thương xót của Thiên Chúa, và tự nó là một dấu chỉ chứng tỏ sự ác có giới hạn và không có tiếng nói cuối cùng. Đó là một dấu chỉ hy vọng lớn mà tôi cùng với anh chị em, cám ơn bao nhiêu người vô danh đang cầu nguyện và âm thầm chuyển cầu cho các nạn nhân xung đột, nhất là các trẻ em và những người yếu thế nhất, cũng như hỗ trợ công việc của anh chị em”.

ĐTC cũng ghi nhận rằng ”ngoài những trợ giúp nhân đạo, điều mà anh chị em chúng ta ở Siria và Iraq đang cần hơn cả chính là hòa bình. Vì thế, tôi không mỏi mệt khi kêu gọi cộng đồng quốc tế cố gắng nhiều hơn và có những nỗ lực mới để đạt tới hòa bình cho toàn vùng Trung Đông.

”Chấm dứt xung đột cũng là điều nằm trong tay con người: Mỗi người chúng ta có thể và phải trở thành người xây dựng hào bình, vì mỗi tình cảnh bạo lực và bất công là một vết thương trong thân mình của toàn thể gia đình nhân loại”.

ĐTC không quên nghĩ đến các cộng đồng Kitô tại Trung Đông, đang đau khổ vì hậu quả của bạo lực và lo sợ nhìn về tương lai. Ngài nói: ”Giữa bao nhiêu tối tăm, các Giáo Hội ấy giương cao ngọn đèn đức tin, hy vọng và bác ái. Khi can đảm giúp đỡ những người đau khổ, không phân biệt ai, và hoạt động cho hòa bình và sự sống chung, các tín hữu Kitô Trung Đông ngày nay là dấu chỉ cụ thể về lòng thương xót của Thiên Chúa” (SD 29-9-2016)

G. Trần Đức Anh OP

 

Cái chết vô tội của Chúa Giêsu trên thập giá cúu rỗi mọi người

Cái chết vô tội của Chúa Giêsu trên thập giá cúu rỗi mọi người

ĐTC Phanxicô chúc lành cho một em bé trong buổi tiếp kiến chung sáng thứ tư 28-9-2916

Từ đầu cho đến cuối cuộc đời mình Chúa Giêsu đã vén mở Lòng Thương Xót, việc nhập thể vĩnh viễn và không thể lập lại tình yêu của Thiên Chúa Cha. Khi chết trên thập giá, vô tội giữa hai kẻ tội phạm, Ngài chứng nhận rằng ơn cứu rỗi của Thiên Chúa có thể đến với bất cứ ai, trong bất cứ điều kiện nào, cả trong điều kiện tiêu cực và đau đớn nhất. Chúa Giêsu thật sự là gương mặt lòng thương xót của Thiên Chúa Cha.

ĐTC đã nói như trên với hơn 60.000 tín hữu và du khách hành hương năm châu tham dự buổi tiếp kiến chung sáng thứ tư hàng tuần hôm qua. Trong số các phái đoàn hành hương đến từ Á châu cũng có nhóm 50 tín hữu giáo phận Vinh do ĐC Nguyễn Thái Hợp hướng dẫn.

Trong bài huấn dụ ĐTC quảng diễn đề tài sự tha thứ trên thập giá. Ngài nói: các lời Chúa Giêsu nói trong cuộc Khổ Nạn đạt tột đỉnh trong sự tha thứ. Chúa Giêsu tha thứ: “Lậy Cha xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23,34). Chúng không phải chỉ là lời nói, vì chúng trở thành một cử chỉ cụ thể trong việc tha thứ cống hiến cho “người trộm lành” ở bên cạnh Ngài. Thánh sử Luca kể lại vỉệc hai người có tội bị đóng đanh với Chúa Giêsu, và hướng tới Ngài với hai thái độ trái nghịch nhau.

Người thứ nhất nguyền rủa Ngài, như dân chúng đã nguyền rủa Ngài, như các thủ lãnh của dân làm, nhưng người đàn ông đáng thương này, bị thúc đẩy bởi sự thất vọng nói: “Ông không phải là Đấng Kitô sao? Hãy cứu chính mình và cứu chúng tôi nữa!” (Lc 23,39). Tiếng kêu này làm chứng cho sự âu lô của con người trước mầu nhiệm của cái chết và ý thức thê thảm rằng chỉ có Thiên  Chúa có thể là câu trả lời giải thoát: vì thế không thể nào nghĩ rằng Đấng Cứu Thế, Đấng Thiên Chúa gửi đến lại có thể ở trên thập giá, mà không làm gì để tự cứu lấy mình. Họ đã không hiểu điều này. Họ đã không hiểu mầu nhiệm hiến tế của Chúa Giêsu. Và ĐTC giải thích:

Nhưng trái lại, Chúa Giêsu đã cứu thoát chúng ta bằng cách ở lại trên thập giá. Chúng ta tất cả đều biết rằng thật không dễ “ở lại trên thập giá”, trên các thập giá bé nhỏ của cuộc sống mỗi ngày. Nhưng Ngài, trên thập giá lớn này, trên sự khổ đau lớn lao này, đã ở lại như vậy, và trên đó Ngài đã cứu chúng ta; trên đó Ngài đã cho thấy sự toàn năng của Ngài, và trên dó Ngài đã tha thứ cho chúng ta.

Và trên đó thành toàn việc trao ban tình yêu thương của Ngài và nảy sinh ra ơn cứu rỗi luôn mãi cho chúng ta. Khi chết trên thập giá, vô tội giữa hai kẻ tội phạm, Ngài chứng nhận rằng ơn cứu rỗi của Thiên Chúa có thể đến với bất cứ ai, trong bất cứ điều kiện nào, cả trong điều kiện tiêu cực và đau đớn nhất. Ơn cứu rỗi của Thiên Chúa là cho tất cả mọi người, không ai bị loại trừ. Nó được cống hiến cho tất cả. Vì thế Năm Thánh là thời gian của ân sủng và lòng thương xót đối với tất cả mọi người, tốt lành cũng như ác độc, những người khỏe mạnh cũng như những người đau khổ. Anh chị em hãy nhớ tới dụ ngôn Chúa Giêsu kể về lễ cưới của con một người quyền thế của trái đất: khi các kẻ đã được mời không muốn đến dự tiệc, ông nói với các đầy tớ: “Hãy ra ngoài các ngã tư đường và tất cả những người tìm thấy hãy mời vào dự tiệc cưới (Lc Mt 22,9). Tất cả mọi người đều được mời: người tốt cũng như kẻ xấu.  Giáo Hội không phải chỉ cho các người tốt, hay những người xem ra là tốt, hoặc tin là mình tốt; Giáo Hội là cho tất cả mọi người, cả một cách ưu tiên cho những người xấu, bởi vì Giáo Hội là lòng thương xót. Và thời gian của ân sủng và lòng thương xót này nhắc nhớ chúng ta rằng không có gì có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên  Chúa (x. Rm 8,39). Với người bị đóng đinh trên giường bệnh nhà thương , với người sống bị nhốt trong một nhà tù, với tất cả những ai bị kẹt trong bẫy của chiến tranh, tôi xin nói: hãy nhìn Đấng bị đóng đanh; Thiên  Chúa ở với chúng ta, Ngài ở với chúng ta trên thập giá và Ngài tự hiến cho tất cả mọi người như Đấng Cứu Độ, cho tất cả chúng ta. Với những người đau khổ nhiểu tôi xin nói Chúa Giêsu đã bị đóng đanh cho anh chị em, cho chúng ta, cho tất cả mọi người. Hãy để cho sức mạnh của  Tin Mừng thấm nhập con tim anh chị em và an ủi anh chị em, trao ban cho anh chị em niềm hy vọng và sự chắc chắn thâm sâu rằng không có ai bị loại trừ khỏi ơn tha thứ của Ngài. Nhưng anh chị em có thể hỏi tôi: “Thưa cha, xin hãy nói cho con biết cái người đã làm những điều xấu xa nhất trong đời, có khả thể được tha thứ không?” Có chứ! Có: không ai bị loại trừ khỏi ơn tha thứ của Thiên Chúa. Họ chỉ phải sám hối đến gần Chúa Giêsu và với ước muốn được Ngài ôm vào vòng tay”

ĐTC nói tiếp trong bài huấn dụ: Đó đã là kẻ bất lương thứ nhất. Người thứ hai là “ông trộm lành”. Các lời ông nói là một mẫu gương sám hối tuyệt vời, một giáo lý tập trung nơi việc học xin lỗi Chúa Giêsu. Trước hết ông huớng tới bạn của ông: “Mày không kính sợ Thiên Chúa gì cả sao, mày là người đã bị kết án cùng một hình phạt?” (Lc 23,40). Như thế ông ta đã nêu bật điểm khởi hành của lòng sám hối: đó là việc kính sợ Thiên Chúa. Nhưng không phải sự sợ hãi Thiên Chúa, không! Không phải sự sợ hãi, nhưng là lòng kính trọng phải có đối với Thiên Chúa, bởi vì Ngài là Thiên Chúa. Đó là sự kính trọng hiếu thảo, vì Ngài là Cha.

Người trộm lành nhắc tới thái độ nền tảng rộng mở cho sự tin tường nơi Thiên Chúa: ý thức về sự toàn năng và lòng lành vô tận của Ngài. Chính sự kính trọng tin tưởng này giúp dành khoảng không cho Thiên Chúa và tín thác nơi lòng thương xót của Ngài.

Thế rồi người trộm lành tuyên bố sự vô tội của Chúa Giêsu, và công khai xưng thú lỗi lầm của mình: “Chúng ta chịu như thế này là xứng đáng với việc đã làm. Còn ông này đâu có làm điều dữ nào” (Lc 23.24).

Như vậy Chúa Giêsu ở đó trên thập giá để ở với các người có tội: qua sự gần gũi ấy Ngài cống hiến cho họ ơn cứu rỗi. Điều gây vấp phạm cho các thủ lãnh và ông trộm thứ nhất, cho những người ở đó và chế nhạo Chúa Giêsu, điều này trái lại là nền tảng đức tin của ông trộm lành. Và như thế người trộm lành trở thành chứng nhân của Ơn Thánh; điều không thể nghĩ tới đã xảy ra: Thiên Chúa đã yêu thương tôi đến độ đã chết trên thập giá cho tôi. Chính đức tin của người này là hoa trái ơn thánh của Chúa Kitô: đôi mắt của ông chiêm ngắm nơi Đấng bị đónh đanh tình yêu của Thiên Chúa đối với ông, là kẻ tội lỗi nghèo nàn. Đúng thế, ông đã là kẻ ăn trộm, đã là một kẻ trộm, đã ăn trộm suốt đời. Nhưng sau cùng, hối lỗi vì những điều mình đã làm, khi nhìn Chúa Giêsu tốt lành và thương xót như vậy, ông đã thành công ăn trộm cả nước trời nữa: ông này thật là một người ăn trộm giỏi!

ĐTC nói thêm trong bài huấn dụ: Người trộm lành sau cùng trực tiếp hướng tới Chúa Giêsu, bằng cách khẩn nài sự trợ giúp của Ngài: “Lậy ông Giêsu, xin hãy nhớ tới tôi khi Ngài vào nước của Ngài” (Lc 23,42).  Ông gọi tên Ngài, “Giêsu” với lòng tin cậy và tuyên xưng ý nghĩa của  tên gọi là “Chúa cứu”. Đó là tên của Chúa Giêsu. Ông ta xin Chúa Giêsu nhớ tới mình. Có biêt bao là dịu dàng và nhân bản trong kiểu diễn tả này! Đó là nhu cầu của con người không bị bỏ rơi, mong ước  Thiên Chúa luôn luôn gần gũi nó. Trong cách thức này một người bị kết án tử trở thành gương mẫu của kitô hữu tín thác nơi Chúa Giêsu. Một người bị kết án tử là mẫu gương cho chúng ta, một mẫu gương cho một người, cho một kitô hữu tín thác nơi Chúa Giêsu, và cũng là gương mẫu của Giáo Hội biết bao lần khẩn nài Chúa trong phụng vụ bằng cách nói: “Xin Chúa hãy nhớ … Xin Chúa hãy nhớ tới tình yêu của Chúa …”

Trong khi ông trộm lành nói tới tương lại: “Khi nào Ngài sẽ vào trong nước của Ngài”, thì câu trả lời của Chúa Giêsu không phải chờ đợi, Ngài nói ở thì hiện tại: “hôm nay con sẽ ở cùng ta trên thiên đàng” (v. 43). ĐTC giải thích:

Trong giờ trên thập giá, ơn cứu rỗi của Chúa Kitô đạt tột đỉnh của nó là lời Ngài hứa  với ông trộm lành vén mở việc thành toàn sứ mệnh của Ngài: đó là cứu các người tội lỗi. Mở đầu sự vụ của mình trong hội đường ở Nagiarét Chúa Giêsu đã công bố “sự giải thoát cho người tù tội” (Lc 4,18); tại Giêricô trong nhà người thu thuế tội lỗi Dakêu Ngài đã tuyên bố rằng “Con Người – nghĩa là Ngài –  đến để kiếm tìm và cứu vớt những gì đã hư mất” (Lc 19,9). Trên thập giá, hành động cuối cùng xác nhận việc thực hiện chương trình cứu độ. Từ đầu cho tới cuối cuộc đời Ngài đã mạc khải Lòng Thương Xót, đã mạc khải sự nhập thể vĩnh viễn và không thể lập lại tình yêu thương của Thiên  Chúa Cha. Chúa Giêsu thật sự là gương mặt lòng thương xót của Thiên Chúa Cha. Và ông trộm lành đã gọi Ngài bằng tên “Giêsu”. Đây là một khẩn cẩu ngắn gọn, và tất cả chúng ta có thể làm biết bao lần trong ngày: “Giêsu”, “Giêsu”, một cách đơn sơ. Và xin anh chị em hãy làm như thế suốt ngày.

ĐTC đã chào các đoàn hành hương đến từ nhiều giáo phận của các nước Âu châu, Bắc Mỹ cùng như châu Mỹ La tinh. Từ Phi châu có các đoàn hành hương Algeria, Nam Phi, trong khi từ Á châu có các nhóm hành hương Brunei, Ấn Độ, Indonesia, Malaysia, Nam Hàn, Nhật Bản và Việt Nam.

Ngài cầu chúc chuyến hành hương Roma và việc bước qua Cửa Thánh đem lại cho họ cũng như gia đình họ nhiều phước lành và ơn tha thứ của Thiên Chúa.

Trong số các nhóm hành hương cũng có tín hữu vùng bị động đất đo ĐC Giovanni D’ Ercole hướng dẫn, phái đoàn tham dự viên Tuần gia đình Italia, các tín hữu tổng giáo phận Potenza và những người bị sa thải mất việc làm đo ĐGM sở tại hướng dẫn. Ngài cầu mong giới hữu trách tìm ra giải pháp cho vấn đề việc làm. Ngoài ra cũng có các tham dự viên tổng tu nghị của các nữ tu dòng ba Capucino Thánh Gia, hiệp hội người già đi xe đạp, nhiều đoàn hành hương giáo phận khác, cũng như giới trẻ, người đau yếu và các đôi tân hôn. ĐTC cầu mong thánh Vinh Sơn de Paoli

kích thích giới trẻ biết thực hiện các dự án tương lai trong cuộc đời ho, người đau yếu biết nhìn lên Chúa Kitô chịu đóng đanh để thánh hiến các khổ đau của mình, và các đôi tân hôn luôn biết rộng mở cho ơn sự sống và trợ giúp người nghèo.

Buổi tiếp kiến đã kết thúc với Kinh Lậy Cha và phép lành toà thánh ĐTC ban cho mọi người.

Linh Tiến Khải

Tòa Thánh triệu tập khóa họp V về khủng hoảng Syria và Iraq

Tòa Thánh triệu tập khóa họp V về khủng hoảng Syria và Irak

Tòa Thánh triệu tập khóa họp thứ 5 về khủng hoảng Syria và Iraq

ROMA. Ngày 29-9-2016, khóa họp thứ 5 các cơ quan từ thiện Công Giáo về cuộc khủng hoảng ở Siria và Irak sẽ khai diễn ở Roma và do Hội đồng Tòa Thánh Cor Unumm (Đồng Tâm), tổ chức.

 Tham dự khóa họp có 80 người, thuộc 40 cơ quan từ thiện Công Giáo cùng với các đại diện của hàng GM địa phương, các dòng tu hoạt động trong vùng, cũng như hai vị Sứ Thần Tòa Thánh tại Siria và Irak.

 Các tham dự viên sẽ gặp ĐTC lúc 9 giờ rưỡi tại Dinh Tông Tòa, trước buổi tiếp kiến chung của ngài dành cho các tín hữu hành hương. Sau đó mọi người sẽ đến Thính đường Gioan Phaolô 2 của Đại học Giáo Hoàng Urbaniana để họp.

 Bài thuyết trình dẫn nhập do Đức Ông Giampietro Dal Toso, Tổng thư ký Hội đồng Tòa Thánh Cor Unum, trình bày, tiếp đến là diễn văn của ông Staffan de Mistura, Đặc phái viên của LHQ về Siria; rồi phần trình bày “Cuộc điều nghiên thứ 2 về câu trả lời của các cơ quan Giáo Hội đối với cuộc khủng hoảng nhân đạo tại Irak và Siria trong niên khóa 2015-2016 do Hội đồng Cor Unum thực hiện. Sau cùng là diễn văn của ĐHY Parolin, Quốc vụ khanh Tòa Thánh.

Ban chiều 29-9-2016, sau phần cập nhật thông tin của hai vị Sứ thần Tòa Thánh tại Irak và Syia, các tham dự viên sẽ họp trong các nhóm nhỏ để bàn về những khía cạnh cụ thể trong việc cộng tác giữa các cơ quan khác nhau dấn thân ở Trung Đông.

Mục đích khóa họp này là để kiểm điểm hành trình cứu trợ Công Giáo cho các nạn nhân ở hai quốc gia, thảo luận về tình hình khó khăn hiện nay và xác định những điểm ưu tiên cần thực hiện; các tham dự viên cũng phân tích tình hình các cộng đoàn Kitô ở Irak và Siria sống trong chiến tranh, và cổ võ sự hợp lực giữa các giáo phận và dòng tu, cũng như các tổ chức khác của Giáo Hội.

Ngoài các hoạt động ngoại giao, Tòa Thánh cũng tham gia các chương trình cứu trợ nhân đạo, trợ giúp hơn 9 triệu người trong niên khóa 2015-2016, với 207 triệu Mỹ kim trong năm ngoái (2015) và 196 triệu mỹ kim trong năm nay.

Từ năm 2011 đến nay, chiến tranh ở Siria và Irak đã làm cho hơn 300 ngàn người chết và 1 triệu người bị thương. Hiện thời hơn 13,5 triệu người cần được giúp đỡ tại Syria và hơn 10 triệu người tại Iraq, Số người di tản nội địa Irak là 3,4 triệu và tại Syria là 8 triệu 700 ngàn người. Ngoài ra có 4 triệu 800 ngàn người tị nạn Siria đang sống tại các nước Trung Đông (SD 27-9-2016)

G. Trần Đức Anh OP 

Tòa Thánh lo ngại về khả năng vũ khí hạt nhân của Bắc hàn

Tòa Thánh lo ngại về khả năng vũ khí hạt nhân của Bắc hàn

tập trận chung giữa hải quân Nam hàn và Hoa kỳ

Vatican City – Đức Giáo hoàng Phanxicô và Vatican lo ngại về những căng thẳng đang tiếp diễn trên bán đảo Triểu tiên liên quan đến các cuộc thử vũ khí hạt nhân của Bắc hàn.

Trong thông cáo báo chí ngày 27/9, ông Greg Burke, phát ngôn viên Tòa Thánh khẳng định lập trường của Vatican, như đã được Đức ông Antoine Camilleri, Thứ trưởng Bộ ngoại giao Tòa Thánh đã giải thích trong đại hội của Cơ quan năng lượng hạt nhân quốc tế (viết tắt là IAEA) tổ chức tại Viên cùng ngày 27/9.

Đức ông Antoine Camilleri nói: “Chúng tôi theo dõi với quan tâm sâu sắc về tình hình ở Cộng hòa dân chủ nhân dân Triều tiên”, tên chính thức của Bắc Hàn. Trong bản dịch tiếng Ý của bài phát biểu của Đức ông Camilleri được in trên báo của Vatican có viết: “Tòa Thánh ủng hộ những nỗ lực không ngừng của cộng đồng quốc tế để bắt đầu lại những thương thuyết về việc giải trừ vũ khí hạt nhân và cho phép IAEA thực hiện lại vai trò kiểm tra quan trọng tại nước này.” Đức ông nhận định là “hòa bình và sự ổn định của khu vực” và sự toàn vẹn của nghị quyết quốc tế về không phát triển vũ khí hạt nhân đang bị đe dọa.

Hồi đầu tháng 9 năm nay, Bắc hàn đã thử hạt nhân lần thứ năm và là lần mạnh nhất từ trước tới nay, và cũng ẩn ý là có thể có lần thứ sáu.

Cơ quan báo chí quốc tế ghi nhận là Bộ Quốc phòng của Nam hàn loan tin hôm 12/ 9 là Nam hàn và cơ quan tình báo Hoa kỳ tin rằng Bắc hàn có khả năng kích nổ một thiết bị hạt nhân bất cứ lúc nào tại một trong các đường hầm ở khu thử nghiệm hạt nhân chính của quốc gia này ở Punggye-ri, nơi năm vụ thử hạt nhân trước đây được thử nghiệm. Các quan chức của Bộ từ chối đưa ra những bằng chứng cụ thể về khả năng của một vụ thử hạt nhân khác.

Nam hàn không có vũ khí hạt nhân và dựa vào Hoa kỳ để ngăn cản Bắc hàn. Hoa kỳ có hơn 28 ngàn quân đồn trú tại Hoa kỳ và hàng chục ngàn quân ở Nhật bản.

Đáp trả những cuộc thử hạt nhân của Bắc hàn, hải quân Hoa kỳ và Nam hàn đã tập trận chung và các cuộc tập trận này được xem như biểu dương lực lượng. (CNS 27/09/2016)

Hồng Thủy

 

Hành hương là một “cách thế loan báo Tin mừng mới”

Hành hương là một “cách thế loan báo Tin mừng mới”

Holy Land pilgrimage

Jerusalem – Hành hương là một “cách thế loan báo Tin mừng mới”, bởi vì việc đi đến những nơi thánh theo bước của Chúa Kitô có thể mang lại “một sự hồi sinh đức tin”. Bất cứ ai đi hành hương, sẽ khám phá rằng họ “đã nhận được lời mời gọi từ Thiên Chúa, một ơn gọi từ Chúa Thánh Thần”. Điều này đang trở nên cần thiết cho Âu châu và cho Tây phương nói chung, nơi “Kitô giáo và tôn giáo đang khủng hoảng trầm trọng”, Đức cha Giacinto-Bouló Marcuzzo đã nói với hãng tin Á châu như thế.

Đức cha cho biết là nhiều khách hành hương đã thay đổi nhờ những chuyến đi hành hương và giúp họ thấy cuộc sống qua đôi mắt Kinh thánh. Hành hương cũng là nguồn của các ơn gọi, của việc tái khám phá đức tun và lời gọi đến với Thiên Chúa. Nhưng con đường này cần có người đồng hành. Các cuộc hành hương xây dựng, đào tạo con người nếu chúng được chuẩn bị tốt, nếu có người hướng dẫn, để suy tư về các kinh nghiệm.

Bên canh việc tìm hiểu và khám phá, hành hương cũng là một nguồn thu nhập thiết yếu cho dân Chúa ở thánh địa. Theo thống kê mới đây, ít nhất 30% cộng đoàn địa phương – ở Jerusalem và Bêlem sống nhờ ngành du lịch tôn giáo. Sự giảm sút các khách hành hương trong những năm gần đây đã ảnh hưởng tồi tệ đến kinh tế và sống còn của các Kitô hữu.

Theo Sobhy Makhoul, chưởng ấn của Tòa thượng phụ Maronít, khi có các cuộc hành hương, ít nhất 30% có việc làm đều đặn. Khi các cuộc hành hương giảm, 30% đó sẽ bị thất nghiệp và do đó trực tiếp hay gián tiếp, họ sẽ di cư.

Con số khách hành hương năm nay giảm 70% do nhiều lý do như vấn đề an ninh, các cuộc tấn công, tình hình kinh tế và khủng hoảng tôn giáo ảnh hưởng đặc biệt đến châu Âu.

Đức cha Marcuzzo cho biết thời gian này thường là thời điểm tốt nhất trong năm để hành hương đến Đất thánh nhưng tình hình vẫn đang giảm đi, điều đó cho thấy có sự khủng hoảng. Tuy có sự hồi phục trở lại nhưng vẫn còn kém xa quá khứ. Theo Đức cha, bên cạnh những lý do an ninh và kinh tế, chúng ta phải nhận là có sự xa cách tôn giáo dần dần ở các quốc gia hay châu lục (đầu tiên là châu Âu, rồi đến Bắc Mỹ). Ngài nói: “Châu Âu không còn tin vào các cuộc hành hương.”

Cuộc khủng hoảng hành hương ở châu Âu được bu lại bởi sự phát triẻn của các khách hành hương Á châu như Philippines, Nhật, Hàn, và cả Trung quốc và Việt nam. Đức cha nói: “Đặc biệt đối với các tín hữu Trung quốc, sự tái khám phá trở nên mạnh mẽ và sâu sắc hơn. Không giống như người châu Âu đã quen với các câu chuyện và nới chốn được kể trong Kinh thánh, đối với các tín hữu Trung quốc, mọi thứ đều mới”. Đối với các tín hữu Trung quốc và Việt nam, nó thật sự là một khám phá với lòng biết ơn. Người ta có thể nhìn thấy sự ngạc nhiên của đức tin, các yếu tố nhập thể trên gương mặt họ.

Cũng còn một thứ ngăn trở giới hạn số khách hành hương, đó là các Kitô hữu gốc Ả rập gặp vấn đề với việc đến Israel.  (Asia News 27/09/2016)

Hồng Thủy

Trở lại Công giáo nhờ mạng lưới “Truyền hình lời vĩnh cửu” của mẹ Angelica

Trở lại Công giáo nhờ mạng lưới “Truyền hình lời vĩnh cửu” của mẹ Angelica

Arne và Barbara Sahlstrom

Ông bà Arne và Barbara Sahlstrom đều sinh trưởng trong các gia đình Tin Lành Luther người Thụy điển, nhưng họ không thực hành đạo. Trước khi trở thành bác sĩ, Arne Sahlstrom đã học văn chương Anh và Pháp. Còn Barbara học về giọng hát tại nhiều thành phố khác nhau của Thụy điển. Khi đến học ở thành phố Upsala, cô đã gặp Arne và hai người đã thành hôn với nhau. Sau đó, Arne đã tiếp tục học chuyên về kỹ thuật giải phẫu còn Barbara trở thành giáo sư về giọng hát và là một thành viên trong dàn hợp xướng.

Năm 1989, Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã viếng thăm Thụy điển. Cả hai ông bà đều bị ngạc nhiên ấn tượng về nhân vật này, về con người của ngài. Không lâu sau cuộc viếng thăm này, mẹ của Barbara bị ung thư. Chính lúc đó, Barbara bắt đầu cầu nguyện và cô đã tìm thấy một cuốn Kinh thánh. Dù cho khi còn là một bé gái, từ lúc lên 5 cho đến khi lên 8, Barbara thường đến trường ở nhà thờ Tin lành mỗi Chúa nhật và được nghe đọc Kinh thánh, nhưng vì khi lớn lên, tự cô không bao giờ đọc Kinh thánh, nên cô không thể phân biệt sự khác nhau giữa Cựu ước và Tân ước.

Tháng 7 năm 2001, ông Arne được bổ nhiệm đến làm việc ở Saudi Ả rập, một đất nước hầu hết là dân theo Hồi giáo và được coi là quốc gia của Hồi giáo, nơi các tôn giáo khác không được phép có các sinh hoạt tôn giáo, ngay cả các sách Kinh thánh cũng bị cấm ở nước này. Nhưng chính ở đây, bà Barbara bắt đầu tìm hiểu trên mạng internet về các chương trình tôn giáo. Nhờ đó bà biết được mạng lưới “Truyền hình lời vĩnh cửu” do mẹ Angelica thành lập tại Hoa kỳ. Đây là một mạng lưới truyền hình Công giáo toàn cầu được truyền qua các kênh truyền hình của các Giáo phận của nhiều nước trên thế giới. Mạng lưới truyền hình này truyền chiếu Thánh lễ mỗi ngày, còn có Đàng thánh giá, lần hạt Mân Côi, các sự kiên Công giáo quan trọng tại giáo triều Roma và trên toàn thế giới. Chương trình của mạng lưới truyền hình cũng gồm có chương trình giáo lý dành cho người lớn và trẻ em.

Ngày qua ngày, bà Barbara xem các chương trình nói về đạo Công giáo mà mẹ của bà rất thích và bà cũng xem lại với ông Arne chồng của bà. Khám phá Công giáo là một sự ngạc nhiên lớn lao đối với bà Barbara. Bà chia sẻ: “Chúng tôi chưa bao giờ nghe về lòng thương xót vô bờ bến của Thiên Chúa, chưa bao giờ được biết tình yêu của một Thiên Chúa, Đấng vô cùng gần gũi với chúng ta: Thiên Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, Đấng cư ngụ trong linh hồn chúng ta. Cho đến lúc đó,Thiên Chúa được trình bày cho chúng tôi mà chúng tôi biết đến là một Thiên Chúa thật là xa xôi. Giờ đây chúng tôi cũng biết giáo lý về luyện ngục.

Sau đó ông bà Sahlstrom đã quyết định chuyển đến sinh sống ở Bahrain và Dubai. Ở đó họ đã tìm thấy giáo xứ Công giáo thánh Phanxicô, nơi có Thánh lễ được cử hành vào ngày thứ sáu thay vì ngày Chúa nhật, vì thứ 6 là ngày cầu nguyện của người Hồi giáo còn Chúa nhật lại là ngày lao động ở quốc gia này. Cha Eugene Mattioli đã giúp hai vợ chồng học hỏi về Công giáo và đào sâu lịch sử của Giáo hội. Bà Barbara giải thích: “Đây thật là một hành trình thật vui. Mọi thứ thu hút chúng tôi. Điều chúng tôi đặc biệt thích chính là tầm quan trọng Giáo hội Công giáo dành cho mối liên hệ giữa đức tin và lý trí. Khi Đức Hồng Y Joseph Ratzinger được bầu làm Giáo hoàng vào năm 2005, ông bà Arne và Barbara đặc biệt vui mừng, vì đối với họ, đây là một chúc lành thật sự. Họ thấy trong kiến thức thần học, phụng vụ, thánh nhạc và nhạc phụng vụ của ngài, cách thức ngài diễn tả, sự khiêm nhường vô cùng và sự đơn giản của ngài, các cuốn sách tuyệt vời của ngài, vv. bàn tay của Thiên Chúa.

Trong năm 2005, ông bà Sahlstrom đã đào sâu kiến thức đức tin và phụng vụ, và cuối cùng họ đã tiến đến bước cuối cùng là hiệp thông trọn vẹn với Giáo hội Công giáo. Chính Đức giám mục Anders Arborelius và một số linh mục Opus Dei là những người đã giữ vai trò chính trong việc giúp ông bà tìm thấy con đường của họ.

Sau những tìm tòi khám phá để đến với Giáo hội, ông bà nói rằng Thiên Chúa đã đến gần với họ qua nghệ thuật, âm nhạc, hội họa và kiến trúc. Ông bà chia sẻ: Khi thăm một vài nhà thờ, “dù cho chúng tôi hầu như không hiểu gì, chúng tôi đã dành một thời gian dài để chiêm ngắm các pho tượng, nơi Đức Trinh nữ Maria mỉm cười nhìn bạn. Nhiều lần chúng tôi ngồi xuống cầu nguyện giữa sự thanh vắng và im lặng đó”. (CNA 15/09/2016)

Hồng Thủy

ĐHY Parolin kêu gọi tái tạo phẩm giá người nghèo ở Colombia

ĐHY Parolin kêu gọi tái tạo phẩm giá người nghèo ở Colombia

Đức Hồng Y Parolin kêu gọi tái tạo phẩm giá con người ở Colombia

BOGOTÀ. ĐHY Pietro Parolin, Quốc vụ khanh Tòa Thánh, kêu gọi nhân dân Colombia, tái tạo phẩm giá những người đau khổ, để đảm bảo tương lai tốt đẹp hơn cho đất nước.

Ngài đưa ra lời kêu gọi trên đây trong bài giảng tại buổi phụng vụ Lời Chúa ở thành Cartagena de Indias, chiều ngày 26-9-2016, nhân dịp ký kết hiệp định hòa bình giữa chính phủ Colombia và phiến quân ”Lực lượng Võ trang cách mạng Colombia”, gọi tắt là FARC. Hiện diện tại buổi lễ có tổng thống, lãnh tụ phiến quân, nhiều vị quốc trưởng, thủ tướng chính phủ và cựu quốc vương Juan Carlos của Tây Ban Nha, và 2.500 khách mời, tất cả đều mặc áo trắng.

ĐHY Parolin nhắc đến sự gần gũi của ĐTC Phanxicô, mối quan tâm và khích lệ của ngài đối với tiến trình thương thuyết hòa bình, nhưng không can dự vào những giải pháp kỹ thuật chuyên môn để nhân dân Colombia tự do quyết định về vận mạng và tương lai của mình.

ĐHY Quốc vụ khanh cũng nói đến nghĩa vụ của Colombia bây giờ là thoa dịu nổi đau khổ của bao nhiêu người dân đã chịu tủi nhục và đàn áp vì bạo lực, phải giải trừ oán thù và thay đổi hướng đi lịch sử của mình hầu xây dựng một tương lai tốt đẹp hơn trong những cơ cấu công chính và vững chắc của mình”.

Ngài nói: ”Phương pháp chắc chắn nhấn để bắt đầu tương lai chính là tái tạo phẩm giá của người đang chịu đau khổ, và để làm như vậy, cần đến gần người đau khổ, không ngại mất thời giờ, đến độ đồng hóa với những người đau khổ. Nói khác đi nền hòa bình mà Colombia đang khao khát đi xa hơn sự thi hành một số cơ cấu hoặc hiệp ước, và qui trọng tâm vào việc tái tạo con người. Thực vậy chính trong những vết thương nơi tâm hồn con người, nơi có những nguyên do sâu xa của cuộc xung đột, đã làm tàn phá đất nước này”.

Cũng trong bài giảng, ĐHY Parolin mời gọi mọi người tín thác nơi Chúa và cầu xin ơn phù trợ của Người: ”Chỉ có Thiên Chúa mới có thể ban cho chúng ta sức mạnh để đương đầu với các vấn đề hiện nay, và nhất là khả năng đồng hóa với tất cả những người đan chịu đau khổ. Chính vì thế, chúng ta họp nhau nơi đây để cầu nguyện. Chúng ta coi biến cố này như một sự biểu lộ lòng tín thác của chính quyền và tất cả những người theo chúng ta, nơi sức mạnh của lời cầu nguyện dâng lên Thiên Chúa”

ĐHY giải thích rằng chúng ta cầu xin Chúa ban cho chúng ta lòng can đảm trong tình liên đới là điều cần thiết để, trong sự thật và công lý, lấp đầy những hố chia cách do bạo lực gây ra”.

Tổng thống Juan Manuel Santos và lãnh tụ FARC ông Rodrigo Echeverri đã ký hòa ước chấm dứt cuộc xung đột đẫm máu trong 52 năm, làm cho ít nhất 220 ngàn người chết và gần 7 triệu người phải di tản.

Tổng thống Manuel Santos nói rằng: ”Khi chấm dứt cuộc xung đột này, chúng ta kết thúc cuộc xung đột võ trang kỳ cựu nhất ở Tây Bán Cầu. Vì thế miền này và trái đất này vui mừng, vì bớt được một cuộc chiến tranh trên thế giới và đó là chiến tranh Colombia” (SD 27-9-2016)

G. Trần Đức Anh OP 

Cộng đoàn Công giáo bé nhỏ Azerbaijan vui mừng được Đức Phanxicô viếng thăm

Cộng đoàn Công giáo bé nhỏ Azerbaijan vui mừng được Đức Phanxicô viếng thăm

Logo chuyến viếng thăm Azerbaijan của Đức Giáo hoàng Phanxicô

Baku, Azerbaijan – Một tuần trước cuộc viếng thăm Azerbaijan của Đức Thánh Cha vào Chúa nhật ngày 2/10, hàng chục tín hữu Công giáo đã tụ họp dâng Thánh lễ tại nhà thờ Đức Mẹ Vô nhiễm, nhà thờ Công giáo duy nhất ở Azerbaijan, được xây dựng lại vào đầu thế kỷ 21 này sau khi bị quân đội Xô viết của chế độ độc tài Stalin phá hủy vào những năm 1930. Sau khi Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II thăm Baku vào năm 2002, ngài đã tặng cộng đoàn Công giáo địa phương mảnh đất đã được tổng thống Heydar Aliyev tặng cho ngài. Việc xây dựng nhà thờ được tài trợ bằng tiền nhuận bút từ các cuốn sách của Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II và từ cuộc bán đầu giá do Bộ Loan báo Tin mừng tổ chức.

Cộng đoàn Công giáo tại Azerbaijan rất nhỏ; theo số liệu của Vatican, có khoảng 500 người, định cư ở các vùng thành thị và nông thôn. Vì vậy các tín hữu Công giáo sẽ tập họp ở Baku để đón Đức Thánh Cha và cử hành Thánh lễ.

Anh Gabriel de Souza, 32 tuổi, chia sẻ với hãng tin Công giáo Hoa Kỳ vào hôm 25/9 vừa qua: “Chuyến viếng thăm của Đức Thánh Cha là một sự kiện lớn đối với người Công giáo ở Azerbaijan và chúng tôi mong đợi tiếp đón ngài; nhìn thấy ngài tận mắt và dâng lễ Chúa nhật với ngài thật là một phúc lành”. Anh nói thêm: “Chúng tôi kỳ vọng rất nhiều và chúng tôi tin rằng khi Đức giáo hoàng đến, ngài sẽ đưa ra một sứ điệp vĩ đại về nhân loại và hòa bình.”

Bà Victoria Joseph, một giáo dân 56 tuổi chia sẻ là bà chưa bao giờ được nhìn thấy một vị Giáo hoàng. Chuyến viếng thăm của Đức Phanxicô khiến cho cộng đoàn Công giáo nhỏ bé ở Azerbaijan cảm thấy quan trọng. Nó là một vinh dự và đặc ân lớn lao cho các tín hữu Công giáo.

Cha Vladimir Fekete, người đứng đầu miền Giám quản  Tông tòa tại Azerbaijan nhận định: “Chuyến viếng thăm của Đức Thánh Cha rất quan trọng, không chỉ cho nước Azerbaijan nhưng cho cả vùng Caucasus. Cha cho biết là Đức Thánh Cha nhắm đề cao sự đóng góp của các tín hữu Công giáo  cho hòa bình, tự do tôn giáo và hòa hợp liên tôn. Cha nói: “Nhờ cuộc viếng thăm của Đức Thánh Cha, đức tin Công giáo trong vùng này sẽ trở nên mạnh mẽ hơn. Nó cũng làm nổi bật vai trò toàn cầu của Vatican trong việc giải quyết các xung đột trong vùng và toàn cầu.”

Từ năm 1988, Azerbaijan và Armenia đã tranh chấp quyền kiểm soát vùng Nagorno-Karabakh, một vùng đất có phần lớn là người Armenia nhưng lại nằm gọn trong Azerbaijan. Đức Thánh Cha Phanxicô đã thăm Armenia vào cuối tháng 6. Trên chuyến bay về Roma, ngài nói là ngài hy vọng cổ vũ hòa bình giữa hai quốc gia. (CNS 26/09/2016)

Hồng Thủy

Vượt thắng sự sầu khổ bằng cầu nguyện

Vượt thắng sự sầu khổ bằng cầu nguyện

Thánh lễ tại nhà nguyện Marta, 27.09.2016

Điều gì xảy ra trong tâm hồn khi chúng ta đang trong sầu khổ? Đó là câu hỏi Đức Thánh Cha gợi ý trong thánh lễ sáng nay tại nhà nguyện thánh Marta, xoay quanh nhân vật ông Gióp. Đức Thánh Cha nhấn mạnh tầm quan trọng của thinh lặng và cầu nguyện trong việc vượt thắng những giây phút đen tối nhất.

Đức Thánh Cha phát triển bài giảng từ bài đọc trích sách Gióp. Ông Gióp rơi vào tình trạng bấn loạn vì ông đã mất hết mọi sự. Ông bị mất hết tài sản, thậm chí mất con cái. Giờ đây ông cảm thấy mất mát và cùng quẫn, nhưng ông không than trách Thiên Chúa.

Sớm hay muộn thì chúng ta cũng trải qua sự sầu khổ ghê gớm

Ông Gióp sống trong sự sầu khổ khủng khiếp và ông kêu gào lên Chúa, giống như đứa trẻ khóc nặng trước mặt cha mình. Ngôn sứ Giêrêmia cũng từng làm như thế, nhưng không bao giờ than trách Chúa.  

Sự sầu khổ là điều gì đó xảy ra cho tất cả chúng ta. Khi ấy linh hồn đang trong tối tăm, thất vọng, nghi ngờ, không muốn sống, không thấy ánh sáng ở cuối con đường, sự rối bời trong tâm trí… Sự sầu khổ này làm chúng ta cảm thấy linh hồn bị giày vò rằng: thất bại, thất bại, không muốn sống, chết đi còn hơn! Điều ấy đã xảy ra với Gióp. Ông thấy thà chết còn hơn là sống như thế này. Chúng ta phải hiểu những lúc tăm tối xảy ra cho linh hồn, những lúc ấy dường như ngừng thở. Dù mạnh hay không… tình trạng này xảy ra cho tất cả chúng ta. Cần hiểu được điều gì đang diễn ra trong tâm hồn chúng ta khi ấy.

Câu hỏi đặt ra là chúng ta có thể làm gì trong những giây phút đen tối ấy, những bi kịch xảy đến gia đình, bệnh tật… Có người nghĩ tới viên thuốc an thần… Những cách ấy chẳng giúp ích. Lời Chúa ngày hôm nay cho chúng ta thấy cách thế để đối diện với sự sầu khổ này, với sự tuyệt vọng này.

Khi chúng ta cảm thấy mất mát, hãy tha thiết khẩn cầu Thiên Chúa

Trong đáp ca Thánh Vịnh 87 có viết: “Ôi lạy Chúa, nguyện cho lời con thấu đến tai Ngài.” Chúng ta cần cầu nguyện, cầu nguyện van nài giống như Gióp: ngày đêm cầu nguyện để Chúa thấu tai.

Cầu nguyện giống như gõ cửa, gõ mạnh! “Vì tâm hồn con đau khổ ê chề, mạng sống con gần kề âm phủ. Con bị liệt vào số những kẻ đang bước xuống mồ, con đã trở nên như người tàn phế.” Đó chính là lời cầu nguyện. Chúa cũng dạy chúng ta phải làm thế nào để cầu nguyện trong những lúc khó khăn. “Ngài đã đặt con trong lỗ huyệt sâu, giữa chốn tối tăm, trong nơi vực thẳm. Cơn giận Chúa đè năng thân con…” Đây là lời cầu nguyện. Vì thế chúng ta phải cầu nguyện trong những giây phút tệ hại nhất, buồn khổ nhất. Đây chính là lời nguyện chân thực. Gióp đã trút hết nước mắt, trút hết cõi lòng giống như một đứa trẻ, giống như một người con trước mặt người cha.

Sau đó sách Gióp nói về sự thinh lặng của những người bạn. Đứng trước những con người đau khổ, “lời nói có thể gây tổn thương”. Những gì cần là sự gần gũi thân thiết, là cảm nhận tình thân, chứ không phải là những lời nói.

Thinh lặng, cầu nguyện và hiện diện, để thực sự có thể giúp đỡ người đau khổ

Khi một người đau khổ, khi một người đang trong sầu khổ, bạn phải nói ít bao nhiêu có thể và phải giúp đỡ trong thinh lặng, trong tình thân, trong cầu nguyện với Thiên Chúa là Cha.

Thứ nhất, nhận ra trong bản thân giây phút sầu khổ thiêng liêng, đó là lúc chúng ta đang trong tối tăm, thất vọng và đặt câu hỏi về nguyên do. Thứ hai, cầu nguyện cùng Thiên Chúa với Thánh Vịnh 87, dạy chúng ta về cầu nguyện trong thời khắc đêm đen. Hãy đến trước nhan thánh Chúa mà cầu nguyện. Thứ ba, khi đến gần người sầu khổ, người đau khổ về bệnh tật, về tâm hồn… thì hãy thinh lặng và là thinh lặng với đầy tình yêu mến, tình thân và sự quan tâm. Đừng nói dài dòng, vì vừa không giúp ích gì mà còn gây hại.   

Chúng ta hãy cầu cùng Thiên Chúa để Ngài ban cho chúng ta ba ơn. Ơn để nhận ra sự sầu khổ, ơn để cầu nguyện khi chúng ta rơi vào tình trạng sầu khổ, và ngay cả ơn để biết đồng hành với những ai đang sầu khổ.   

Tứ Quyết SJ

Cha Jose Luis Guerra tiếp cận và thay đổi các thành viên băng nhóm xã hội đen

Cha Jose Luis Guerra tiếp cận và thay đổi các thành viên băng nhóm xã hội đen

Dân chúng ở Monterrey- Mexico

Với chiếc áo Linh mục và dáng vẻ nghiêm chỉnh gọn gàng, cha Jose Luis Guerra nhìn không giống một thành viên của băng đảng xã hội đen chút nào. Tuy nhiên, vị Linh mục 34 tuổi, mới được nhận lãnh thánh chức Linh mục hồi tháng 8 vừa qua (2016), cha phó của Giáo xứ thánh Gioan Thánh giá ở quận Escobedo, tỉnh Nueva Léon ở miền bắc Mêxicô, khuấy động các đường phố của vùng ngoại ô lôi thôi lếch thếch của thành phố này với một băng đảng của chính mình; đó là “băng đảng của Chúa Kitô”. Cha Guerra đưa các lớp giáo lý và chứng tá của Chúa Kitô ra khỏi giáo xứ và đi vào vùng ngoại biên, nơi bị chiếm đóng bởi những người trẻ tuổi sống bên lề xã hội. Cha Guerra cũng là cố vấn của chương trình “Raza Nueva en Cristo” – “Cảnh sát mới trong Chúa Kitô” – một chương trình huấn luyện các thành viên cựu băng đảng và tiếp cận các nhóm theo cách riêng của họ và trên “lãnh địa” của họ – nghĩa là trên đường phố và sau khi trời tối. Các thành viên của phong trào biết ngôn ngữ xã hội đen nhưng bây giờ họ là những nhà loan báo Tin mừng và các giảng viên giáo lý cho các băng đảng. 

Việc đi ra vùng ngoại biên là một ví dụ của lời mời gọi các mục tử của Đức Giáo hoàng Phanxicô, để có mùi của chiên trong đàn của họ và lời mời gọi các tín hữu Công giáo đưa đức tin của họ đến những vùng ngoại biên. Đó cũng là một cách tiếp cận mới để nói đến các vấn đề băng nhóm trong một thành phố được biết như công nghiệp hóa và kinh doanh, nhưng trước đó cả thập kỷ đã bị băng hoại bởi các tổ chức tội phạm ngoài vòng kiểm soát và các bạo lực của các nhóm cung cấp ma túy. Cha Guerra cho biết có hàng trăm băng nhóm hình thành ở Monterrey. Các băng nhóm này lôi kéo phần lớn các người trẻ từ những gia đình bị tan vỡ hay những vùng bị thiệt thòi, bị  gạt ra ngoài lề xã hội. Nhiều khu vực, người dân ở đó là những công nhân có đồng lương thấp, sống trong những ngôi nhà chật chội tại một thành phố thường được xem là khu đô thị giàu nhất Mexico và một thành phố đầy những công xưởng sản xuất các đồ xuất khẩu.

Cha Guerra chưa bao giờ làm việc trên các đường phố, và lại càng ít giao tiếp với các với các thành viên băng đảng hơn nữa. Cha sinh ra trong một gia đình Công giáo trung lưu, học luật tại trường đại học địa phương và lo về pháp lý cho các doanh nghiệp và cũng làm việc cho chính phủ. Tuy vậy, kinh nghiệm mà cha đã trải qua khi còn là chủng sinh đã đặt cha trên một con đường khác. Cha cho biết, các chủng sinh sống và học hành trong một trị trấn nơi có những vấn đề của băng đảng và tội ác, họ dấn thân vào các chương trình của địa phương, cũng là một phần của kế hoạch loan báo Tin Mừng của giáo phận.  Khi là phó tế, cha đã hoạt động trong các ủy ban về xã hội và đã có một thời gian làm việc với những người vô gia cư không nhà không cửa. Việc nghiên cứu cuộc sống của họ đã giúp cha một phần trong việc tìm ra chân tướng rõ ràng của vấn đề cho Tổng Giáo phận Monterrey. Cha nhận ra là phần lớn những người vô gia cư ở Monterrey là những người di dân đến từ Trung Mỹ; họ đã vượt suốt chiều dài của nước Mexicô để đến Monterrey  nhưng họ không dám vượt qua tiếp 150 dặm cuối cùng để đến biên giới Hoa kỳ vì sợ các tổ chức bắt cóc và các tội phạm, có thể gây nguy hiểm cho sự sống của họ.

Cha Guerra đã chọn lối tiếp cận các vấn đề của các băng nhóm cách mới mẻ và không đối đầu với họ. Cha bắt đầu với việc xác định cách thức cha đến với họ bằng những ngôn từ mà các băng nhóm sẽ hiểu và cố gắng giảm thiểu thiệt hại hơn là lôi họ ra khỏi các tổ chức thường làm những việc bất hợp pháp. Cha nói: “Băng đảng của Chúa Kitô” không triệt hạ các băng đảng hay đe dọa các nhóm” vì theo cha, những băng nhóm này như là “gia đình” và là một cấu trúc hỗ trợ cho các thành viên của nó. Do đó, việc xóa bỏ các băng nhóm là điều không thể, nhưng cha có thể mang lại những thay đổi. Cha chia sẻ: “Bạn muốn điều gì: một tên xã hội đen tàn bạo hung hăng hay một thành viên băng đảng được Tin mừng hòa và đang rao giảng Tin Mừng cho người khác? Họ vẫn là thành viên của băng đảng nhưng họ không còn là thành viên của các băng đảng tìm kiếm thêm thế lực; họ không liên quan đến bạo lực và không đánh nhau với các băng đảng khác”.

Cha Guerra bắt đầu hoạt động với các băng đảng từ tháng giêng, khi cha đi ra khỏi giáo xứ của cha và đi vào các con phố của thành phố Monterrey. Từ từ, dần dần, cha đã tìm thấy những thành viên băng đảng muốn nói chuyện với cha. Cha ý thức đó là một công việc nguy hiểm. Tuy nhiên,những người trẻ này có một sự cởi mở đáng ấn tượng khi một Linh mục đi ra và đến với họ, lắng nghe họ ở các góc phố. Cha chia sẻ cách cha đến với họ là: “đi vào trái tim của các thành viên băng đảng … Không phán xét, không định kiến và có thái độ sẵn sàng.” Cha cũng chia sẻ mục đích của chương trình “Cảnh sát mới trong Chúa Kitô” là giúp các cựu thành viên của băng đảng tìm được cơ hội làm việc hoặc nơi chốn để học hành, giúp cho họ cách tạo nên những cơ hội để thành công trong cuộc sống. Nhóm của cha cũng tổ chức các giải bóng đá và các cơ hội để có thể đồng hành với các thành viên băng đảng, nhưng cách tiếp cận chính vẫn là về tinh thần. Cha Guerra thường nói về việc biết được trái tim của những người cha phục vụ. Cha nói: “Bạn phải biết trái tim của các môn đệ để có thể lôi kéo thêm được nhiều môn đệ cho Chúa Giêsu; đây là khẩu hiệu của việc đi ra ngoại biên của tôi. Đi ra và chạm đến trái tim của những người trẻ này. Để làm điều này, bạn phải đi và nghe họ trên đường phố và trên những góc phố vào ban đêm, là những nơi họ hiện diện.” (CNS 16/09/2016)

Hồng Thủy

 

Tuần hành ở Mexico chống ý thức hệ “gender” và bảo vệ gia đình

Tuần hành ở Mexico chống ý thức hệ “gender” và bảo vệ gia đình

Đức Phanxicô và các trẻ em Mexico

“Tôi hợp ý với các giám mục của Mexico trong việc ủng hộ những dấn thân của Giáo Hội và xã hội dân sự vì gia đình và sự sống, tại thời điểm này các vị yêu cầu sự quan tâm đặc biệt về mục vụ và văn hóa trên toàn thế giới”, đó là những lời Đức Thánh Cha Phanxicô trong buổi đọc kinh Truyền tin trưa Chúa nhật 26/9, để bày tỏ sự ủng hộ của mình với hàng chục ngàn người Mexico tuần hành chống lại việc hợp pháp hóa hôn nhân đồng tính vào thứ bảy 25/9 tại thành phố Mêxicô.

Sau những cuộc tuần hành tại 122 thành phố trên toàn lãnh thổ vào ngày 10 /9 vừa qua, Mexico chứng kiến một thành công mới đầy ấn tượng của Mặt trận quốc gia vì Gia đình, được kết hợp bởi các hiệp hội khác nhau, có mục đích ngăn cản tổng thống Enrique Peña Nieto hợp pháp hóa hôn nhân đồng tính và áp đặt ý thức hệ giới tính cho học sinh vị thành niên.

Các người tuần hành đã yêu cầu tổng thống nhìn nhận hôn nhân giữa một người nam và một người nữ là nền tảng của gia đình; cổ võ việc ủng hộ chính sách về gia đình; quyền của phụ huynh giáo dục con cái theo sự tin tưởng của mình và các giá trị; quyền của các trẻ em mồ côi được nhận nuôi bởi một người cha và một người mẹ. 4 điểm này được bao gồm trong một dự luật do sáng kiến của dân chúng – được 200 ngàn người ký tên – đã được nộp tại Thượng viện vào tháng 2 vừa qua và đang đợi được thảo luận.

Fernando Guzman, một trong những người tổ chức của cuộc tuần hành đã miêu tả cuộc tuần hành như “một ngày vui mừng, mạnh mẽ và có ý nghĩa”, mà trong đó dân chúng Mexico đã có thể nhắc lại lời yêu cầu tổng thống mở cuộc đối thoại với Mặt trận quốc gia vì Gia đình. Ông nói thêm về ý thức hệ giới tính: “một đàng là sự tôn trọng hoàn toàn những người đồng tính, đàng khác là dạy các trẻ em rằng chúng không phải là nam hay nữ mà là những gì mà họ muốn.” Ông Guzman khẳng định: điều này là không đúng, nó ngược lại với điều 3 của hiến pháp và chống lại quyền giáo dục con cái của các phụ huynh.”

Hiện nay, hôn nhân giữa những người đồng tính chỉ hợp pháp ở một vài tiểu bang của Mexico. Nhưng năm ngoái Tòa án tối cao đã tuyên bố các hôn nhân đồng tính là vi phạm hiến pháp và dự án cải cách do Tổng thống Peña Nieto hướng dẫn đã bắt đầu như thế . Ý định của ông là sửa đổi điều 4 của Hiến pháp để nhìn nhận hôn nhân giữa các người đồng tính như một “nhân quyền”. Nhân dân Mexico tiếp tục bảo vệ quyền của những người không thể tự vệ, là các trẻ em, được lớn lên trong một gia đình được tạo nên bởi một người cha và một người mẹ. (Zenit 26/09/2016)

Hồng Thủy

Người nghèo là trang chính của Tin Mừng luôn rộng mở trước mọi người

Người nghèo là trang chính của Tin Mừng luôn rộng mở trước mọi người

Pope Francis arrives to celebrate a Jubilee mass for catechists, at the Vatican, Sunday, Sept. 25, 2016

Người nghèo là trang chính của Tin Mừng luôn rộng mở trước mọi người.Ông nhà giầu bị tật nguyền trầm trọng hơn ông Ladarô đầy vết thương, vì ông bị mù loà trong cuộc sống sung túc giầu sang của ông, nên không trông thấy ông Ladarô nghèo nằm ngay trước của nhà mình.

ĐTC Phanxicô đã nói như trên trong bài giảng thánh lễ Năm Thánh các Giáo lỳ viên cử hành trước thềm Đền thờ Thánh Phêrô lúc 10 giờ ruỡi sáng Chúa Nhật 25 tháng 9 hôm qua. Cùng đồng tế với ĐTC có 10 Hồng Y, 30 Giám Mục và 650 linh mục. Tham dự thánh lễ ngoài 15.000 giáo lý viên đến từ nhiều nước trên thế giới, kể cả Việt Nam, còn có  hơn 30 ngàn tín hữu và du khách hành hương năm châu.

Như chúng tôi đã loan tin, từ chiều thứ sáu 15.000 giáo lý viên năm châu đã bắt đầu tham dự chương trình cử hành Năm Thánh, với các bài thuyết trình tại 4 nhà thờ ở Roma theo các thứ tiếng Bồ Đào Nha, Pháp, Anh và Tây Ban Nha. Ngày thứ bẩy các giáo lý viên đã chầu Mình Thánh Chúa và lãnh bí tích Hoà Giải tại 3 thánh đường gần Đền thờ Thánh Phêrô, và đi theo lộ trình “theo vết các thánh và các chân phước huấn giáo” trong đó có cả chân phước Anrê Phú Yên giáo lý viên. Chiều thứ bẩy đã có buổi hát kinh chiều và trình bầy chứng từ tại Đền thờ Thánh Phaolô ngoại thành.

Các bài sách Thánh trong thánh lễ đã được tuyên đọc bằng các thứ tiếng Anh và Tây Ban Nha. Thánh vịnh và Phúc Âm đã đuợc hát bằng tiếng Ý.

Giảng trong thánh lễ ĐTC mời gọi các giáo lý viên không mệt mỏi loan báo Chúa Kitô phục sinh là trung tâm điểm của đức tin kitô, sống chứng tá niềm hy vọng đem lại niềm vui, biết nhìn xa thấy rộng vuợt quá sự dữ và các vấn đề, đồng thời nhận ra và chú ý tới biết bao Ladarô thời nay, mau mắn trợ giúp và đáp ứng các nhu cầu của họ.

Quảng diễn lời thánh Phaolô căn dặn Timôthê “duy trì giới răn của Chúa nguyên tuyền không thể khiển trách được” (1 Tm 6,14),  ĐTC nói thánh Phaolô chỉ nói đến một giới răn chứ không dặn phải chú ý tới nhiều điểm và nhiều khía canh. Xem ra ngài làm cho chúng ta gắn chặt cái nhìn vào điều nòng cốt của đức tin. Nòng cốt ấy là lời loan báo phục sinh: Chúa Giêsu đã sống lại, Chúa yêu bạn, Ngài đã trao ban cho bạn cuộc sống của Ngài; phục sinh, sống động Ngài ở bên cạnh bạn và chờ đợi bạn mỗi ngày. Áp dụng vào việc cử hành Năm Thánh các giáo lý viên ĐTC nói:

Trong Năm Thánh này của các giáo lý viên chúng ta được mời gọi không mệt mỏi đặt để ở hàng đầu lời loan báo chính yếu này của đức tin: Chúa đã sống lại. Không có các nội dung quan trọng hơn, không có gì vững chắc và thời sự hơn. Mỗi nội dung đức tin trở thành xinh đẹp, nếu gắn liền với trung tâm này, nếu được xuyên qua bởi mầu nhiệm phục sinh. Nếu bị cô lập hóa,  nó mất đi ý nghĩa và sức mạnh. Chúng ta được mời gọi luôn luôn sống và loan báo sự mới mẻ trong tình yêu của Chúa: Chúa Giêsu thực sự yêu thương bạn, như bạn là. Hãy dành chỗ cho Ngài, mặc dù có các thất vọng và các vết thương của cuộc sống, hãy để cho Ngài có khà thể yêu thương bạn. Bạn sẽ không bị thất vọng đâu!”.

Điều răn mà thánh Phalô nói tới khiến cho chúng ta suy nghĩ tới điều răn mới của Chúa Giêsu: “Các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con” (Ga 15,12). Chính trong khi yêu thương chúng ta loan báo Thiên Chúa-Tình Yêu: không phải do sức mạnh của việc thuyết phục, không bao giờ đưóc áp đặt sự thật, cũng không phải vì co cứng trong việc tuân giữ vài đòi buộc tôn giáo hay luân lý. Thiên Chúa được loan báo, khi chúng ta gặp gỡ các bản vị con người, chú ý tới lịch sử và con đường đời sống của họ. Vì Chúa không phải là một tư tưởng, nhưng là một Người sống động: sứ điệp của Ngài đi qua chứng tá đơn sơ và chân thật, với việc lắng nghe và tiếp nhận, với niềm vui dãi toả ra ngoài. Chúng ta không nói tốt về Chúa Giêsu, khi chúng ta buồn sầu; cũng không thông truyền vẻ đẹp của Thiên Chúa chỉ bằng các bài giảng hay. Thiên Chúa của niềm hy vọng được loan báo bằng cách sống Tin Mừng của tình bác ái ngày hôm nay, không sợ hãi làm chứng cho Ngài, cả với các hình thức mới mẻ.

ĐTC nói tiếp trong bài giảng thánh lễ Ngày Năm Thánh của các Giáo lý viên: Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay giúp chúng ta hiểu yêu thương có nghĩa là gì, nhất là giúp chúng ta tránh được vài nguy hiểm. Trong dụ ngôn có một người giầu, không nhận ra Ladarô, một người nghèo khổ “nằm trước cửa nhà ông” (Lc 16,20). Người giầu này, thực ra, không làm hại ai, cũng không bị nói là ngươi xấu. Nhưng ông có một tật nguyền lớn hơn tật nguyền của ông Ladarô, là người “đầy vết thương”: ông nhà giầu này bị mù trầm trọng, bởi vì ông không thể nhìn quá thế giới của mình, được làm bằng các bữa tiệc sang trọng và quần áo đẹp đẽ. Ông không trông thấy quá căn nhà của mình, nơi có Ladarô nằm, bởi vì ông không chú ý tới điều xẩy ra ở bên ngoài. Ông không nhìn với đôi mắt, bởi vì ông không cảm thấy trong con tim. Trong tim ông tinh thần thế tục đã bước vào và làm tê liệt linh hồn. Tinh thần thế tục giống như “một cái lỗ đen” nuốt trửng  sự thiện, dập tắt tình yêu, vì nó nuốt mọi sự trong cái tôi của mình. Khi đó người ta chỉ trông thấy các dáng vẻ bề ngoài, và không nhận ra tha nhân, vì người ta trở thành dửng dưng với mọi sự. Ai bị bệnh mù trầm trọng này, thì thường có các thái độ “mắt lé”: nhìn các người danh tiếng, có địa vị cao được thế giới ngưỡng mộ với lòng kính trọng, mà không thèm nhìn biết bao nhiêu Ladarô này nay, không thèm nhìn các người nghèo túng và các người đau khổ, là những người được Chúa ưu ái.

Nhưng Chúa nhìn kẻ bị thế giới lãng quên và gạt bỏ. Ông Ladarô là nhân vật duy nhất được gọi tên trong tất cả các dụ ngôn của Chúa Giêsu. Tên của ông có nghĩa là “Thiên Chúa trợ giúp”. Thiên Chúa không quên ông, Ngài tiếp nhận ông vào trong tiệc của Nước Ngài, cùng với tổ phụ Abraham, trong sự hiệp thông phong phú của tình yêu thương. Trái lại, ông nhà giầu trong dụ ngôn cũng không có cả một tên gọi nữa; cuộc sống của ông bị rơi vào quên lãng, bởi vì ai sống cho chính mình thì không làm nên lịch sử. Nhưng một kitô hữu phải làm nên lịch sử! Họ phải ra khỏi chính mình, phải làm lịch sử! Nhưng ai sống cho chính mình, thì không làm lịch sử. Sự vô cảm ngày nay đào sâu các vực thẳm luôn mãi không thể vượt qua được nữa. Và chúng ta, trong lúc này, đã bị rơi vào căn bệnh này của sự thờ ơ, của ích kỷ, của tinh thần thế tục.

ĐTC nói thêm trong bài giảng: Còn có một chi tiết khác nữa trong dụ ngôn, một đối kháng. Cuộc sống sung túc của người không tên này được miêu tả như phô trương: tất cả nơi ông đòi hỏi các nhu cầu và quyền lợi. Trái lại, cái nghèo của ông Ladarô được diễn tả với phẩm giá cao: từ miệng ông không thốt ra các lời than van, phản đối hay khinh rẻ. Áp dụng vào cuộc sống giáo lý viên ĐTC nói:

Đây là một giáo huấn có giá trị: như là các người phục vụ lời của Chúa Giêsu chúng ta được mời gọi không phô trương bề ngoài và không tìm vinh quang; chúng ta cũng không được buồn sầu và than van. Chúng ta không phải là các ngôn sứ loan báo tai ương, ưa thích phơi bầy các nguy hiểm hay lệch lạc; không phải là người sống trong các hầm trú môi trường của mình, bằng cách đưa ra các phán đoán cay đắng liên quan tới xã hội, Giáo Hội, liên quan tới mọi sự và mọi người, bằng cách gây ô nhiễm thế giới với sự tiêu cực. Khuynh hướng nghi ngờ than vãn không phải là của người quen thuộc với Lời của  Thiên Chúa.

Ai loan báo niềm hy vọng của Chúa Giêsu là người đem niềm vui và nhìn xa thấy rộng, có các chân trời, không có một bức tường khép kín họ, họ nhìn thấy xa, bởi vì họ biết nhìn xa hơn sự dữ và các vấn đề. Đồng thời họ nhìn rõ điều ở gần, bởi vì họ chú ý tới tha nhân và các nhu cầu của người khác. Ngày hôm nay Chúa hỏi chúng ta: trước biết bao Ladarô mà chúng ta trông thấy, chúng ta được mời gọi âu lo, tìm ra các con đường để gặp gỡ và giúp đỡ họ, mà không luôn luôn uỷ thác cho các người khác hay nói: “Ngày mai tôi sẽ giúp bạn. Hôm nay tôi không có giờ, ngày mai tôi sẽ giúp bạn”. Và điều này là một tội. Thời giờ mà chúng ta dành để cứu giúp các người khác là thời giờ dành cho Chúa Giêsu, là tình yêu tồn tại: nó là kho  tàng trên trời, mà chúng ta chiếm hữu ở đây trên trái đất này.

Kết luận, các giáo lý viên và anh chị em thân mến, xin Chúa ban cho chúng ta ơn luôn luôn được canh tân mọi ngày bởi niềm vui của lời loan báo đầu tiên: Chúa Giêsu đã chết và đã sống lại. Chúa Giêsu yêu thương chúng ta cách cá biệt! Xin ngài ban cho chúng ta sức mạnh sống và loan báo giới răn của tình yêu, bằng cách vượt thắng sự mù loà của vẻ bề ngoài và các nỗi buồn thế tục. Xin Ngài khiến cho chúng ta nhậy cảm với người nghèo, họ không phải là phần thêm vào Tin Mừng nhưng là một trang chính , luôn luôn rộng mở trước mắt mọi người.

Các lời nguyện giáo dân đã được đọc bằng các thứ tiếng Bồ Đào Nha, Pháp, Thái Lan, Đức, và Tầu cầu cho các nhu cầu của Giáo Hội và thế giới. Lời nguyện tiếng Thái xin Chúa mở mắt người mù, soi sáng tâm trí của những người không tin, hoán cải con tim của những người tội lỗi và làm nảy sinh ra các giáo lý viên và những người loan báo Tin Mừng cứu độ. Hàng trăm linh mục đã giúp ĐTC trao Mình Thánh Chúa cho tín hữu.

Trước khi kết thúc thánh lễ ĐTC nói ngày hôm kia tại Wuersburg bên Đức cha Engelmarr Unzeitig thuộc dòng Thừa Sai Marienhill đã được phong chân phước. Ngài đã bị giết trong trại tập trung Dachau do sự thù ghét đức tin; ngài đã lấy tình yêu chống lại thù hận, sự dịu hiền chống lại tàn ác. Cầu mong gương của ngài giúp chúng ta là các chứng nhân của tình bác ái và niềm hy vọng cả giữa các khốn khó.

ĐTC cũng hiệp ý với các Giám Mục Mexico trong việc ủng hộ dấn thân của Giáo Hội và xã hội dân sự cho gia đình và sự sống, đang cần sư lưu tâm mục vụ và văn hoá trên toàn thế giới. ĐTC cũng bảo đảm lời cầu nguyện của ngài cho dân nước Mêhicô để bạo lực chấm dứt. Trong các ngày vừa qua nó đã sát hại vài linh mục.

Hôm qua cũng là Ngày quốc tế người điếc. ĐTC gửi lởi chào tất cả mọi người điếc hiện diện và khích lệ họ góp phần cho một Giáo Hội và một xã hội ngày càng có khả năng tiếp đón mọi người hơn.

Sau cũng ĐTC đặc biệt chào và cám ơn các giáo lý viên vì dấn thân của họ trong Giáo Hội phục vụ việc loan báo Tin Mừng. Ngài xin Mẹ Maria trợ giúp họ kiên trì trên con đường đức tin và làm chứng bằng cuộc sống cho điều họ thông truyền trong giáo lý.

Tiếp đến ĐTC đã đọc Kinh Truyền Tin và ban phép lành toà thánh cho mọi người.

Linh Tiến Khải

Julia Greeley, một nô lệ ở Denver, trở nên gương mẫu của lòng thương xót

Julia Greeley, một nô lệ ở Denver, trở nên gương mẫu của lòng thương xót

julia-greeley-photo

Trên các đường phố của thành phố Denver tiểu bang Colorado, Hoa kỳ, vào cuối những năm 1800 và đầu những năm 1900, người ta rất quen thuộc với hình ảnh của một phụ nữ da màu đội một chiếc mũ mềm màu đen, mang đôi giày quá khổ, dùng chiếc khăn tay thấm nhẹ đôi mắt kém của mình, kéo chiếc xe kéo nhỏ màu đỏ. Đó là Julia Greeley, Thiên thần bác ái của Denver, đang mang thực phẩm, áo quần và sự khích lệ, đi phân phát cho các người nghèo và vô gia cư của thành phố

Greeley sinh ra trong một gia đình nô lệ ở Hannibal, Missouri giữa các năm 1833 và 1848; năm sinh của Greeley không được biết rõ bởi vì cô là con của một người nô lệ. Cô đã bị đối xử tàn tệ khủng khiếp. Một lần kia, khi người chủ đánh mẹ cô, ngọn roi đã vụt vào mắt phải của cô và làm nó bị hư. Sau tuyên ngôn giải phóng nô lệ của tồng thống Abraham Lincoln vào năm 1863, cô là một trong những người được tự do. Năm 1878, Greeley theo gia đình của William Gilpin, vị thống đốc đầu tiên của bang Colorado, nơi Greeley đang giúp việc, đến Denver. Làm việc trong môi trường quý phái thượng lưu, Greeley cũng quen biết với một số gia đình giàu sang có thế giá của Denver, nhưng trái tim của Greeley vẫn dành cho người nghèo; Greeley yêu thương họ. Sau khi nghỉ làm việc tại gia đình thống đốc, Greeley đã làm những việc lặt vặt khắp nơi trong thành phố. Greeley đã đến giáo xứ Thánh Tâm ở Denver và trở lại Công giáo vào năm 1878. Greeley là một giáo dân nhiệt thành, lãnh nhận Mình Thánh Chúa hàng ngày và trở thành một thành viên năng động của dòng Phanxicô tại thế vào năm 1901. Greeley có một lòng sùng kính Thánh Tâm cách đặc biệt.

Dù cho nghèo khổ, Greeley không cần thứ gì cho chính mình; Greeley dành nhiều thời gian của mình để giúp đỡ các gia đình nghèo khổ xung quanh. Khi  không còn thứ gì của mình để giúp đỡ, Greeley đi ăn xin, quyên góp quần áo, thực phẩm và các vật dụng khác để cho ngừoi nghèo. Greeley thường làm việc vào ban đêm, lết trên đôi chân cà nhắc, sau khi đã làm việc suốt ngày dài, để không làm phiền gây bối rối cho những người bà giúp đỡ, nhất là những gia đình da trắng nghèo. Greeley giúp các bé gái nghèo có bộ áo xứng đáng để rước Mình Thánh Chúa lần đầu; bà hiện diện bên những gia đình có người qua đời, hay tìm cha mẹ nuôi cho các trẻ mồ côi. Julia Greeley còn có lòng tha thứ, không thù oán người chủ nô lệ đã làm cho bà bị hư mắt. Bà nói rằng vết sẹo làm xấu mặt của bà nhưng không làm tâm hồn bà xấu. Khi phục vụ cho người nghèo khổ Greeley không bao giờ tra hỏi về niềm tin hay tôn giáo của họ. Tất cả những điều bà muốn làm là nâng dậy những ai đang chiến đấu và đau khổ như bà đã từng trải qua.

Julia Greeley qua đời ngày 7 tháng 6 năm 1918, ngày lễ Thánh Tâm Chúa Giêsu, hưởng thọ khoảng 80 tuổi. Bà Greeley đã được lãnh nhận các bí tích cuối cùng trước khi về bên Chúa. Vì bà sống trong một nhà trọ nên khi qua đời, thi hài của bà được đặt tại một giáo xứ Công giáo trong 5 tiếng đồng hồ và một dòng người không ngừng tuôn đến để bày tỏ sự kính trọng đối với một phụ nữ nổi tiếng và rất được yêu mến. Bà Greeley được chôn cất tại nghĩa trang núi Oliu.

Vì công việc bác ái của Greeley, một nhà văn đã gọi bà là “Hội Thánh Vinh sơn Phaolô một thành viên”; thánh Vinh sơn đã lập dòng các Nữ tử bác ái, và Greeley được ví như một người con của bác ái. Trong Năm Thánh Lòng thương xót, Julia Greeley được chọn làm mẫu gương của lòng thương xót cho địa phương. Ông David Uebbing, chưởng ấn của tổng Giáo phận Denver nhận xét: “Julia Greeley nổi bật bởi vì cô quá phi thường. Dù chỉ nhận được 10 đến 12 đô la mỗi tháng bằng việc nấu nướng và dọn dẹp nhà cửa, cô thường dùng nó để giúp những người nghèo khác. Điều đó thể hiện rất nhiều về lòng từ thiện của Greeley. Thêm vào đó, Greeley còn có lòng sùng kính sâu đậm với Thánh Tâm Chúa Giêsu, thể hiện qua việc mỗi tháng bà đi bộ đến 20 trạm cứu hỏa khác nhau của thành phố để phân phát phù hiệu, hình ảnh, các tài liệu về Thánh Tâm cho các lính cứu hỏa, cả Công giáo và không Công giáo. Điếu đó làm cho các công việc của lòng thương xót mà bà đã làm, cụ thể và thiêng liêng, là điều được mời gọi đặc biệt trong Năm thánh này, thật sống động.” Tờ Denver Post đã viết về di sản của Julia Greeley bao gồm “80 năm của một cuộc sống đáng giá… dấn thấn vô vị lơi… và thói quen cho đi và chia sẻ chính mình và những tài sản của mình”. (CNA 07/09/2016)

Hồng Thủy

 

Cha Christian Sieland ở Papua New Guinea vượt rừng sâu núi cao đến với giáo dân

Cha Christian Sieland ở Papua New Guinea vượt rừng sâu núi cao đến với giáo dân

Một Giám mục Papua New Guinea cử hành lễ ngoài trời

Trong khu rừng sâu thẳm vùng Melanesia, có một Linh mục Công giáo gốc Papua New Guinea trèo đèo lội suối, đi bộ hàng dặm trong rừng rậm để đến với đàn chiên sống ở những khu vực xa xăm hẻo lánh và để chăm sóc các giáo xứ nghèo khổ nhất vào các cuối tuần. Đó là cha Christian Sieland, thuộc Giáo phận Kundiawa, nước Papua New Guinea, một đất nước thuộc châu Đại dương, có 5 triệu dân. Để đến với giáo dân của mình, cha Sieland đã phải trèo qua những vùng đồi núi dốc đá đầy nguy hiểm.

Cha chia sẻ: Những người dân này sống ở một nơi có địa hình khó khăn và hiểm trở. Thiên Chúa đã đặt họ ở đó. Đó là nhà của họ. Tất cả các vật liệu được sử dụng để xây dựng nhà thờ đã được ông bà của họ vác trên vai di chuyển đến. Họ tự hào có sự hiện diện của Giáo Hội trong khu vực của họ. Nhiều người chỉ có một vài bộ quần áo hoặc chỉ có đủ tiền để sống hết tuần. Họ có thể nghèo, nhưng họ nhận biết tất cả các ơn lành Thiên Chúa ban cho họ. Họ không chết đói vì Thiên Chúa đã ban cho họ một mảnh đất màu mỡ, nơi hầu như có thể trồng tất cả mọi thứ. Họ không khát vì Thiên Chúa ban cho họ những dòng suối từ núi, sạch trong và tươi mát, ngay cạnh bên để có thể lấy nước từ đó… Khi bạn nhìn thấy đức tin đơn sơ nhưng đâm rễ sâu của họ và so sánh với đức tin của bạn được tô điểm với những bằng cấp, chứng chỉ, bạn sẽ quý trọng đức tin đơn sơ của ‘những người bé nhỏ’ này hơn”.

Cha Sieland khen ngợi lòng hiếu khách của những tín hữu Công giáo này. Cha kể lại: “Khi tôi, cha sở của họ, đến nhà thăm họ hoặc là ngủ trọ qua đêm, họ dọn cho tôi một đĩa đầy thức ăn, họ cho tôi ngủ trên giường tiện nghi nhất của họ và có mùng che muỗi. Sự chăm sóc và kính trọng họ dành cho một Linh mục làm tôi nhiều lần cảm động và ngay cả bối rối. Nhưng làm sao chúng ta có thể từ chối những cử chỉ hiếu khách từ những người có đức tin đơn giản như thế? Họ không có gì nhiều để ban tặng cho ta, nhưng những thứ nhỏ nhặt họ mang cho chúng ta là những thứ xuất phát từ sâu thẳm trong trái tim họ”.

Số tín hữu Công giáo của Giáo phận chiếm khoảng 30% trong tổng số 375 ngàn cư dân trong vùng. Giáo phận bao gồm vùng núi Wilhelm, là ngọn núi cáo nhất của Papua New Guinea với độ cao khoảng 4500 m. Vài vùng đất ở những khu vực vô cùng xa xôi đến nỗi người dân chưa bao giờ nhìn thấy một chiếc xe hơi.

Tại sao cha Sieland lại dấn thân phục vụ ở vùng đất xa xôi hiểm trở này? Cha suy tư về sứ vụ của mình như sau: “Động lực của tôi thật là đơn giản. Nếu tôi, một Linh mục được thụ phong, không đến với những người dân này, vậy thì ai sẽ đi? Không phải là tôi đã được thụ phong cho mục đích này sao, cụ thể là mang các bí tích đến cho người dân và nuôi dưỡng họ với thức ăn tinh thần, ví dụ như Lời Chúa, Thánh Thể? Không có Linh mục nghĩa là không có Thánh thể, không có xưng tội không có bí tích nào cả. Nếu tôi không đi, nghĩa là tôi đã cướp của họ quyền được lãnh nhận lương thực thiêng liêng mà Thiên Chúa đã ban. Tôi sẽ biện minh cho mình trước nhan Thiên Chúa về việc không “nuôi các con chiên của Người” như thế nào? Ngay cả khi chỉ có 10 người già cần được thăm viếng, tôi vẫn băng núi vượt sông để đến với họ”.

Cha cho biết là đã hơn 40 năm, kể từ khi độc lập vào năm 1975, chính quyền Papua New Guinea không đến thăm vùng này. Nhưng “Giáo hội đã ở đây từ khi những thừa sai đầu tiên của dòng Ngôi Lời bắt đầu rao giảng Tin Mừng cho dân chúng vào những năm đầu thập niên 1930 và 1940”. Số thừa sai châu Âu đang sút giảm đáng kể. Ngay cả với sự giúp đỡ của các thừa sai đến từ Uc, Ba lan, Ấn độ và Indonesia, hàng giáo sĩ địa phương vẫn không thể chăm sóc các vùng đất mà các người đi trước đã khai phá. 

Các giá trị truyền thống và phương Tây hiện đại đang đụng độ nhau và thế hệ trẻ có vẻ hơi bị lạc lối hay bối rối. Cha Sieland lo lắng là các giá trị truyền thống tốt đẹp tương tự với những giá trị Tin mừng đang biến mất dần và trong vòng 20 năm nữa nó sẽ mất hoàn toàn. Cha nói: “Một trong những thử thách lớn nhất đó là đánh mất các giá trị Tin mừng như trung thực, minh bạch, tôn trọng, yêu thương, dấn thân và cống hiến trong đời sống gia đình, hôn nhân, trong giáo xứ, nơi trường học cũng như ngoài trường học… Còn có những vấn đề xuất phát từ nền văn hóa Melanesi với quan hệ đa thê, sự xung đột giữa Kitô giáo và niềm tin truyền thống về ma thuật với những thực hành bạo lực và giết người. Giáo hội địa phương cố gắng hết sức để đối lai niềm tin này bằng cách giáo dục dân chúng và tiêu diệt sự mê tín, nhưng điều này không xảy ra trong một sớm một chiều nhưng cần có thời gian. (CNA 09/08/2016)

Hồng Thủy