Kinh truyền tin với Đức Thánh Cha: 8-1-2017

Kinh truyền tin với Đức Thánh Cha: 8-1-2017

VATICAN. Mặc dù trời giá lạnh, 20 ngàn tín hữu hành hương đã đến tham dự buổi đọc kinh Truyền Tin với Đức Thánh Cha trưa ngày 8-1-2017 tại Quảng trường Thánh Phêrô.

Trong bài huấn dụ ngắn trước khi đọc kinh Truyền Tin, ĐTC đã quảng diễn ý nghĩa bài Tin Mừng thuật lại biến cố Chúa Giêsu chịu phép rửa tại sông Giordan. Ngài nói:

”Hôm nay lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa, Tin Mừng (3,13-17) trình bày cho chúng ta cảnh tượng nơi sông Giordan: giữa đám đông hối nhân đến cùng thánh Gioan Tẩy Giả để nhận phép rửa cũng có cả Chúa Giêsu. Ngài cũng xếp hàng. Gioan muốn ngăn cản Ngài đừng làm như thế và nói: ”Chính tôi mới là người cần được Ngài rửa cho' (Mt 3.,14). Thực vậy Thánh Gioan Tẩy Giá ý thức khoảng cách lớn giữa thánh nhân và Chúa Giêsu. Nhưng Chúa Giêsu đến chính là để lấp đầy khoảng cách giữa con người và Thiên Chúa: nếu Ngài hoàn toàn là Thiên Chúa, thì hoàn toàn là con người, và Ngài kết hợp những gì đã bị phân rẽ. Vì thế, Chúa Giêsu xin Gioan làm phép rửa cho, để hoàn tất mọi công lý (Xc v.15), nghĩa là thực hiện kế hoạch của Chúa Cha, tiến qua con đường vâng phục và liên đới với con người yếu đuối và tội lỗi, con đường khiêm hạ và hoàn toàn gần gũi của Thiên Chúa vơi các con cái Ngài. Vì Thiên Chúa rất gần gũi chúng ta!

”Sau khi được Gioan làm phép rửa, Chúa Giêsu từ sông Giorđan bước lên, có tiếng Chúa Cha phán từ trên cao: ”Đây là con yêu dấu của Ta: đẹp lòng Ta mọi đàng” (v.17). Đồng Thời Thánh Linh, dưới hình chim bồ câu, đậu xuống trên Chúa Giêsu, và công khai khởi sự sứ mạng cứu độ của Người; Sứ mạng theo kiểu một người đầy tớ khiêm nhường và hiền lành, chỉ có sức mạnh của chân lý, như ngôn sứ Isaia đã tiên báo: ”Người sẽ không kêu to, không lên giọng,..[…] không bẻ gẫy cây sậy đã bị dập, không dập tắt tim đèn còn ngún; Người sẽ công bố công chính với sự thật” (42,2-3).

ĐTC nhận xét rằng: Đầy tớ khiêm hạ và hiền lành. Đó là đường lối của Chúa Giêsu và cách thức truyền giáo của các môn đệ Chúa Kitô: Loan báo Tin Mừng trong sự hiền lành và cương quyết, không kiêu hãnh hoặc áp đặt. Truyền giáo đích thực không bao giờ là chiêu dụ tín đồ nhưng là thu hút về cùng Chúa Kitô. Nhưng làm cách nào? thưa bằng chứng tá của chúng ta, đi từ sự kết hiệp mật thiết với Chúa trong kinh nguyện, trong sự thờ lạy và qua bác ái cụ thể, phục vụ Chúa Giêsu hiện diện nơi người bé nhỏ nhất trong số các anh em. Noi gương Chúa Giêsu, mục tử nhân lành và thương xót, được ơn thánh của Chúa linh hoạt, chúng ta được kêu gọi biến cuộc sống của mình thành một chứng tá vui mừng soi sáng con đường mang hy vọng và yêu thương”

Lễ này làm cho chúng ta tái khám phá hồng ân và vẻ đẹp là một dân được rửa tội, nghĩa là chúng ta là những tội nhân, nhưng đã được ơn thánh của Chúa Kitô cứu vớt, được thực sự tháp thập vào quan hệ con thảo của Chúa Giêsu với Chúa Cha, nhờ Thánh Linh, được đón nhận vào lòng Mẹ Giáo Hội, có khả năng được một tình huynh đệ vô tận và không có hàng rào nào.

Và ĐTC kết luận rằng: Xin Đức Trinh Nữ Maria giúp tất cả các tín hữu Kitô giữ cho ý thức luôn sinh động và biết ơn về phép rửa và trung thành tiến bước trên con đường mà bí tích tái sinh chúng ta đã mở ra, và luôn luôn khiêm tốn, hiền lành và cương quyết”.

Chào thăm

Sau khi ban phép lành cho các tín hữu, ĐTC cho biết ngài đã rửa tội ban sáng trước đó cho 28 trẻ em, và hôm thứ bảy vừa qua (7-1-2017), ngài đã rửa tội cho một dự tòng. Ngài nói: ”Tôi muốn cầu nguyện cho tất cả các cha mẹ trong mùa này đang chuẩn bị cho một người con mình chịu phép rửa hoặc mới được rửa tội. Tôi khẩn cầu Thánh Linh xuống trên họ và các con cái để bí tích này, đơn sơ và đồng thời rất quan trọng, được sống với niềm tin tưởng và vui mừng.

ĐGC cũng mời mọi người hiệp với ”Mạng kinh nguyện của Giáo Hoàng trên hoàn cầu”, phổ biến qua các mạng xã hội, những ý chỉ cầu nguyện mà ngài đề nghị mỗi tháng cho toàn Giáo Hội. Như thế việc tông đồ cầu nguyện được tiến hành và làm gia tăng niềm hiệp thông.

Sau cùng, ĐTC mời gọi mọi người ”nghĩ đến tất cả những người sống trên đường phố, đang bị lạnh, và nhiều khi chịu sự dửng dưng lãnh đạm. Tiếc là có phải người chết vì lạnh. Chúng ta hãy cầu nguyện cho họ và xin Chúa sưởi ấm tâm hồn chúng ta để có thể giúp đỡ họ.”

Thời tiết giá lạnh ở Italia đã làm cho 8 người chết (so với 53 người chết tại Ba Lan). Đức TGM Krajewski, Chánh sở từ thiện của ĐTC đã mở các nhà ngủ 24 tiếng đồng hồ để đón những người vô gia cư đến trú ngụ. Ai không muốn đến những nơi đó, thì có 2 chiếc xe minibus của sở này cho họ ngủ đêm. Ngoài ra, họ cũng được phát các túi ngủ ấm.

G. Trần Đức Anh OP 

Đức Thánh Cha rửa tội cho 28 hài nhi

Đức Thánh Cha rửa tội cho 28 hài nhi

VATICAN. Nhân lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa, 8-1-2017, ĐTC Phanxicô đã ban phép rửa tội cho 28 hài nhi và mời gọi các cha mẹ bảo tồn và làm tăng trưởng đức tin cho con cái.

Thánh lễ rửa tội bắt đầu lúc 9 giờ rưỡi và kéo dài 2 tiếng đồng hồ tại nhà nguyện Sistina trong dinh Tông Tòa. 28 hài nhi gồm 15 nam và 13 nữ, hầu hết là con của các nhân viên Vatican. Trong số các em nam, có 4 em mang tên thánh là Phanxicô.

Đây là lần thứ 4 ĐTC ban phép rửa tội cho các hài nhi tại Nhà nguyện Sistina, cũng là nơi được dùng làm mật nghị bầu giáo hoàng, và nổi danh với các bức bích họa của Michelangelo, được các du khách viếng thăm nhiều nhất trong số các tác phẩm nghệ thuật tại viện bảo tàng Vatican.

Phụ giúp ĐTC trong thánh lễ này có 3 Tổng Giám Mục, 1 GM và 13 giám chức khác, trước sự hiện diện của khoảng 300 người, trong đó có 56 cha mẹ của các em được rửa tội.

Bài giảng của ĐTC

Trong bài giảng vắn tắt, ĐTC ứng khẩu nhắc nhở các cha mẹ và những người hiện diện về ý nghĩa bí tích rửa tội và nói:

”Anh chị em đã xin đức tin cho con cái. Đức tin sẽ được ban trong phép rửa tội, nghĩa là cuộc sống đức tin, vì đức tin cần phải được sống, tiến bước trên con đường đức tin và làm chứng về đức tin. Đức tin không phải là đọc kinh Tin Kính những ngày chúa nhật trong thánh lễ mà thôi. Đức tin là tin chân lý: Thiên Chúa là Cha đã sai Con của Ngài và Thánh Linh làm cho chúng ta được sống.. Nhưng đức tin cũng là tín thác nơi Thiên Chúa và điều này anh chị em cần phải dạy cho con cái, bằng gương sáng và bằng cuộc sống của anh chị em. Đức tin là ánh sáng: trong nghi thức làm phép rửa, anh chị em sẽ nhận được cây nến sáng như thời đầu của Giáo Hội. Thời đó, phép rửa được gọi là sự soi sáng, vì đức tin soi sáng tâm hồn, làm cho thấy sự việc với một ánh sáng khác”.

ĐTC nhắc nhở rằng ”các cha mẹ có nghĩa vụ phải làm cho đức tin tăng trưởng, giữ gìn và làm cho đức tin trở thành chứng tá cho tất cả những người khác. Đó là ý nghĩa của nghi lễ này. Xin anh chị em đừng quên: Anh chị em đã xin đức tin, nghĩa vụ của anh chị em là giữ gìn và làm cho đức tin tăng trưởng, và trở thành chứng tá cho tất cả chúng tôi, cho cả các linh mục, giám mục nữa”.

”Hòa nhạc” của các hài nhi

Trong lúc ĐTC giảng có nhiều tiếng khóc của các hài nhi, ĐTC không hề phật ý hay khó chịu. Ngài gọi tiếng khóc của các em trong lúc ấy giống như một buổi hòa nhạc!.. và nói: cuộc ”hòa nhạc” này là vì các em đang ở trong một nơi không quen thuộc, vì các em phải thức dậy sớm hơn bình thường, và có lẽ em này cất tiếng khóc thì các em khác cũng bắt chước theo.. Chúa Giêsu cũng khóc như thế. Tôi thích nghĩ rằng bài giảng đầu tiên của Chúa Giêsu trong máng cỏ là tiếng khóc!”

Trong các ý nguyện được xướng lên trong phần Lời nguyện giáo dân, có một ý nguyện cầu cho các trẻ em đang chịu đau khổ, ”xin Chúa luôn khơi dậy những người nam nữ có khả năng cúi mình xuống trên các em với lòng yêu thương không biết mệt mỏi”.

G. Trần Đức Anh OP

Kinh nghiệm của một Linh mục Thừa sai Lòng thương xót

Kinh nghiệm của một Linh mục Thừa sai Lòng thương xót

Cha John Paul Zeller là một tu sĩ dòng Thừa sai Phanxicô Lời vĩnh cửu, do mẹ Angelica sáng lập. Cha cũng là một trong hơn 1000 Thừa sai Lòng thương xót, được Đức Thánh Cha Phanxicô sai đi khắp thế giới trong Năm Thánh, như các sứ giả của lòng thương xót. Các Thừa sai Lòng thương xót nhấn mạnh đến vài trò rao giảng về lòng thương xót và cụ thể lòng thương xót qua bí tích  giải tội. Trong một năm qua, cha John Paul đã sống những kinh nghiêm tuyệt vời về lòng thương xót. Chúa đã làm cha ngạc nhiên nhiều lần khi cha cảm nghiệm lòng thương xót Chúa dành cho một hối nhân trong tòa giải tội. Như một Linh mục, là khí cụ nhân danh Đức Kitô, có thể lau sạch sự dơ bẩn cặn bã của hàng thập kỷ nhờ phép tha tội trong bí tích, là một trong những điều vĩ đại nhất mà cha làm mỗi ngày. Sứ vụ của Thừa sai lòng thương xót giúp cha hiểu hơn về bí tích giải tội. Chúng ta cần biết, việc xưng tội thường xuyên giúp chúng ta tham dự hữu hiệu hơn vào hy tế hy sinh của Thánh lễ. Cha xưng tội mỗi 2 tuần vì cha nhận biết là mình không thể là một cha giải tội tốt nếu cha không phải là một hối nhân tốt. Sự thống hối của các tín hữu khi đến tòa giải tội giúp cha tự xét mình, tôi có thống hỗi về tội lỗi của mình không. Cha chứng kiến cách Chúa khiến một người ăn năn. Ăn năn là một phép lạ của ân sủng và đối với cha, mỗi khi một người quỳ xuống xưng tội, đó là phép lạ của ân sủng của Chúa.

Cha John Paul cầu nguyện để mình không bào giờ mỏi mệt là một Thừa sai của Lòng thương xót. Năm Thánh lòng thương xót đã kết thúc, nhưng như Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói, không có nghĩa là lòng thương xót cũng kết thúc, cha John Paul cũng nghĩ là các tín hữu không ngừng thương xót và ngừng thực hành các công việc thương xót tinh thần và thể lý. Lòng thương xót của Thiên Chúa tồn tại mãi mãi.

Mới chịu chức Linh mục được hơn 3 năm, cha John Paul gọi mình là Linh mục baby – em bé, nhưng cha tin rằng khi chính Linh mục yêu mến và thực hành việc xưng tội thì điều này được tỏ hiện qua cách các ngài dâng lễ và giảng Lời Chúa. Cha chia sẻ những kinh nghiêm của mình với các Linh mục về sự tha thứ và bí tích giải tôi: “Chúng ta cần những Linh mục can đảm giảng dạy cách rõ ràng về Tin mừng của Chúa Giêsu Kitô và các giáo huấn của Hội thánh. Tôi hy vọng các Linh mục mời gọi giáo dân lãnh nhận Bí tích hòa giải. Nếu chúng ta không giảng dạy về niềm vui của tha thứ mà Chúa Giêsu đã ban cho chúng ta trong các bí tích thì dân chúng sẽ không đến.” Cha John Paul cũng nhấn mạnh đến sự cần thiết của những Linh mục kiên nhẫn khi chờ đợi giáo dân đến xưng tội. Ngài nói: “Thiên Chúa rất kiên nhẫn với chúng ta, vì vậy chúng ta, là các Linh mục, cũng cần kiên nhẫn với dân Chúa. Nếu chúng ta ngồi và chờ đợi thì cuối cùng giáo dân sẽ đến. Chính cha thánh Gioan Maria Vianey làm chứng về điều này. Khi ngài mới đến làm cha sở xứ Ars, ngài đã ngồi ở tòa giải tội chờ các tín hữu đến xưng tội. Cuối cùng, dân chúng từ khắp châu Âu lũ lượt kéo đến xung tội với vị Linh mục thánh thiện này.”

Cha John Paul chia sẻ về một ít lần trong Năm Thánh này, ngài đã xin lỗi công khai “nhân danh các Linh mục, những người đã “nặng tay hay dữ dằn với giáo dân trong tòa giải tội.” Trong những trường hợp người ta rời bỏ Giáo hội vì gặp phải những kinh nghiệm không hay khi trong tòa giải tội, cha đã xin họ tha thứ và khuyến khích họ trở lại. Cha nhận thấy nhiều người đã lau nước mắt và đi đến tòa giải tội. Cha chia sẻ ví dụ về một phụ nữ đã nhận lời xin lỗi nhân danh chồng của bà, người đã bỏ giáo hội Công giáo từ 25 năm trước, sau một lần đến xưng tội và bị cha giải tội la mắng ở tòa giải tội. Sau  khi xin người vợ số điện thoại của người chồng, cha John Paul đã điện thoại cho ông và xin ông tha thứ.

Cha John Paul chia sẻ: “Là các Linh mục, chúng ta rất cần kiên nhẫn và cảm thông với các giáo dân trong tòa giải tội." Cha nhớ lại một vị linh hướng đã nói với cha khi cha còn trong giai đoạn huấn luyện rằng “các Linh mục nên giống như các con sư tử trên tòa giảng nhưng lại như các con cừu hiền lành ở tòa giải tội.” (CNA 19/11/2016)

Hồng Thủy

Phân phát 50 ngàn cuốn sách ”Hình ảnh lòng thương xót”

Phân phát 50 ngàn cuốn sách ”Hình ảnh lòng thương xót”

VATICAN. Sở từ thiện của ĐTC đã phân phát 50 ngàn cuốn sách bỏ túi với tựa đề ”Hình ảnh lòng thương xót” (Icone di Misericordia) cho các tín hữu tham dự buổi đọc kinh truyền tin trưa ngày 6-1-2017 tại quảng trường Thánh Phêrô.

Cuốn sách này như quà tặng của ĐTC đã được 300 người vô gia cư, nhiều người thiện nguyện và các tu sĩ phân phát vào cuối buổi đọc kinh, như một thành quả nhỏ của Năm Thánh Lòng Thương Xót, và chứa đựng một số suy tư và kinh nguyện về Lòng Thương Xót vô biên của Thiên Chúa.

Hình ảnh Chúa Giêsu Thương Xót được trình bày qua 6 giai thoại Tin Mừng kể lại kinh nguyện của 6 người đã được tình yêu thương xót của Chúa biến đổi, đó là Ông Zakêu, Mathêu người thu thuế, người phụ nữ xứ Samaria, người trộm lành, sau cùng là Tông Đồ Phêrô.

Sau buổi đọc kinh, hơn 300 người vô gia cư đã được ĐTC tặng các hộp thực phẩm và nước uống (SD 6-1-2017)

G. Trần Đức Anh OP 

Đức Thánh Cha cử hành lễ Chúa Hiển Linh

Đức Thánh Cha cử hành lễ Chúa Hiển Linh

VATICAN. ĐTC mời gọi các tín hữu khám phá ra trong cái nhìn của Thiên Chúa có chỗ cho những người bị thương, người cơ cực, bị ngược đãi, người bị bỏ rơi!

Ngài đưa ra lời kêu gọi trên đây trong bài giảng thánh lễ cử hành sáng ngày 6-1-2017, tại Đền thờ Thánh Phêrô nhân lễ Chúa Hiển Linh, trước sự hiện diện của khoảng 8 ngàn tín hữu. Đồng tế với ĐTC có gần 30 Hồng Y, hơn 30 GM và gần 200 linh mục.

Trong bài giảng, sau khi phân tích tâm trạng của 3 vị Đạo Sĩ lên đường tìm kiếm và thờ lạy Chúa dưới sự hướng dẫn của ngôi sao, ĐTC nhận xét rằng: ”Họ được niềm hoài tưởng Chúa hướng dẫn… Niềm hoài tưởng ấy phát xuất từ tâm hồn tin tưởng, biết rằng Tin Mừng không phải là một biến cố của quá khứ nhưng của hiện tại.. Niềm hoài tưởng Thiên Chúa là thái độ phá vỡ sự xu thời nhàm chán và thúc đẩy chúng ta dấn thân đạt được sự thay đổi mà chúng ta ao ước và đang cần đến”.

ĐTC nói: ”Người tín hữu hoài tưởng, được niềm tin thúc đẩy, đi tìm kiếm Thiên Chúa, như các đạo sĩ, tại những nơi xa lạ nhất của lịch sử, vì trong tâm hồn họ biết rằng Chúa đang đợi họ tại đó. Họ đi tới khu ngoại ô, nơi biên cương, đến những nơi không được loan báo Tin Mừng, để có thể gặp gỡ Chúa tại đó; họ không thực hiện điều ấy với thái độ tự tôn, nhưng như một người hành khất không thể làm ngơ không biết đến đôi mắt của người mà Tin Mừng vẫn còn là thửa đất cần khám phá”. (SD 6-1-2017)

G. Trần Đức Anh OP

 

Đức Hồng Y Tagle của Manila sẽ rửa tội cho 400 trẻ em nghèo

Đức Hồng Y Tagle của Manila sẽ rửa tội cho 400 trẻ em nghèo

Manila – Ngày 14/01 tới đây, Đức Hồng Y Luis Antonio Tagle, Tổng Giám mục Manila, sẽ cùng với cha Matthieu Dauchez, giám đốc điều hành quỹ Tulay Ng Kabataan (TNK) và 10 Linh mục khác rửa tội cho 400 trẻ em từ các khu ổ chuột của thành phố Manila. Đức Hồng Y Tagle thỉnh thoảng cũng dành thời gian cho các trẻ em đang được TNK chăm sóc.

Cha Dauchez nói: “Thật là khó để mang các trẻ em bị thương tổn đến gần với Chúa, nhưng ngược lại, thật dễ dàng mang Thiên Chúa đến với các em qua các bí tích.”

Elise Cruse, người điều hành thông tin liên lạc của quỹ TNK, cho biết, TNK đang giúp các gia đình nghèo có thể tiếp cận không chỉ với những trợ giúp vật chất nhưng cả sự nuôi dưỡng tinh thần nhờ các bí tích. Cruse giải thích: “Các gia đình đang sống trong các khu ổ chuột và trên đường phố của thành phố Manila không chỉ dễ gặp nguy hiểm và đe dọa, nhưng họ còn không được lãnh nhận bí tích suốt thời gian dài. Chúng tôi nhận thấy rằng các gia đình nghèo khổ nghĩ là họ không thể đến lãnh nhận bí tích vì sự nghèo khổ của họ. Họ nghĩ là họ phải trả phí tổn, dù các bí tích được trao ban hoàn toàn nhưng không.” Cô cho biết thêm là những người nghèo còn không biết họ phải làm gì và làm như thế nào. TNK và RCAM nhắm thay đổi điều này bằng cách giúp cho nhiều trẻ em được rửa tội.

TNK giúp các trẻ em đường phố từ năm 1998. Mỗi năm có 1300 trẻ em được tiếp đón trong 24 trung tâm. Trong 18 năm qua, hàng ngàn trẻ em đã rời bỏ cuộc sống đường phố. (CBCP News)

Hồng Thủy

Kinh Truyền tin với Đức Thánh Cha lễ Hiển Linh

Kinh Truyền tin với Đức Thánh Cha lễ Hiển Linh

VATICAN. Trong buổi đọc kinh Truyền Tin với 30 ngàn tín hữu trưa ngày 6-1-2016, lễ Chúa Hiển Linh, ĐTC mời gọi mọi người hãy bước theo ánh sáng của Chúa Giêsu và mặc lấy ánh sáng của Người.

Lúc 12 giờ trưa, ĐTC xuất hiện tại một cửa sổ ở dinh Tông Tòa và ngỏ lời với các tín hữu ở Quảng trường Thánh Phêrô qua bài huấn dụ ngắn. Ngài giải thích ý nghĩa lễ Chúa Hiển Linh, nhất là sự kiện 3 Đạo sĩ được ngôi sao dẫn đường đến Bêlem thờ lạy Chúa Hài Đồng. Ngài nói:

”Trong đời sống chúng ta cũng có nhiều ngôi sao khác nhau, những ánh sáng chiếu sáng và hướng dẫn, chúng ta có nhiệm vụ chọn lựa và đi theo. Có những ánh sáng nhấp nháy, đến rồi đi, như những thỏa mãn nhỏ trong cuộc sống: chúng không đủ, vì chỉ kéo dài trong chốc lát và không để lại an bình mà chúng ta tìm kiếm. Rồi có những ánh sáng chóa mắt như đèn chiếu, của tiền bạc và thành công, hứa tất cả và tức khắc: những ánh sáng ấy thu hút, nhưng với sức mạnh của chúng, chúng chỉ làm mù và đưa những giấc mơ vinh quang tiến vào tối tăm dầy đặc. Trái lại, các Đạo Sĩ mời gọi chúng ta bước theo ánh sáng bền vững và dịu dàng, không tàn lụi vì không thuộc về thế gian này: nhưng đến từ trời và chiếu sáng trong tâm hồn. Ánh sáng chân thật này là ánh sáng của Chúa, hay đúng hơn, là chính Chúa Giêsu. Ngài là ánh sáng của chúng ta, ánh sáng không làm chóa mắt, nhưng đồng hành và mang lại niềm vui có một không hai. Ánh sáng này dành cho tất cả mọi người và kêu gọi mỗi người. Như thế chúng ta có thể nghe lời mời gọi của ngôn sứ Isaia gửi đến chúng ta hôm nay: Hãy trỗi dậy, hãy mặc lấy ánh sáng” (60,1). Vào mỗi đầu ngày, chúng ta có thể đón nhận lời mời gọi này: Hãy trỗi dậy, hãy mặc lấy ánh sáng”, hãy bước theo ngôi sao sáng của Chúa Giêsu, giữa bao nhiêu sao băng của trần thế!

ĐTC cũng giải thích rằng ”Ai muốn ánh sáng thì đi ra khỏi mình và tìm kiếm: không ở lại trong tình trạng khép kín, nhưng dấn thân.. Đời sống Kitô là một hành trình liên lỷ, gồm ánh sáng và tìm kiếm; một hành trình giống như hành trình của các Đạo Sĩ, tiếp tục tiến bước cả khi ngôi sao nhất thời biến mất. Trong hành trình ấy cũng có những cạm bẫy cần phải tránh, những chuyện tầm phào hời hợt, và theo tinh thần thế tục, cản bước tiến: những tính khí thay đổi ích kỷ làm tê liệt, những ổ gà bi quan, bóp nghẹt hy vọng. Những chướng ngại ngăn chặn những thầy thông luật như Phúc Âm hôm nay nói đến. Họ biết ánh sáng ở đâu, nhưng không lên đường. Kiến thức của họ là vô ích; biết rằng Thiên Chúa đã sinh ra thì vẫn chưa đủ, nếu không cùng với Ngài thực hiện Giáng Sinh trong tâm hồn”.

Trong phần chào thăm các tín hữu, ĐTC đặc biệt chúc mừng các cộng đoàn Giáo Hội Đông phương, mừng lễ Giáng Sinh ngày 7-1 theo lịch Giuliano. Ngài cũng nhắc đến đoàn tuần hành mặc y phục như Ba Đạo Sĩ và những người tháp tùng. Năm nay, đoàn tuần hành này được dành cho miền nam Umbria và nhắm phổ biến các giá trị liên đới và huynh đệ”. (SD 6-1-2017)

 G. Trần Đức Anh OP

Đức Thánh Cha khuyến khích những người làm mục vụ ơn gọi

Đức Thánh Cha khuyến khích những người làm mục vụ ơn gọi

VATICAN. ĐTC khích lệ những người dấn thân trong việc mục vụ ơn gọi biết lắng nghe, đón nhận những băn khoăn và khao khát của người trẻ.

Ngài bày tỏ lập trường trên đây trong buổi tiếp kiến sáng hôm qua, 5-1, dành cho 800 tham dự viên Hội nghị do Văn phòng toàn quốc Italia về mục vụ ơn gọi tổ chức trong những ngày này với chủ đề: ”Hãy đứng lên, tiến bước, và đàng sợ hãi”. Hiện diện tại buổi tiếp kiến cũng có Đức Cha Galantino, Tổng thư ký HĐGM Italia.

Trong bài huấn dụ, ĐTC nói đến hai đặc tính của những người mục vụ ơn gọi là lòng hăng say dấn thân và tinh thần nhưng không, phục vụ Giáo Hội và tôn trọng, tìm kiếm thiện ích của những người mà mình đồng hành trên con đường phân định ơn gọi.

Ngài cũng khẳng định rằng: ”Để đáng tín nhiệm và hòa hợp với người trẻ, cần dành ưu tiên cho việc lắng nghe, biết dành thời giờ cho việc đón nhận những câu hỏi và ước muốn của họ. Chứng tá của anh chị em càng có sức thuyết phục, nếu anh chị em, vui mừng và trong sự thật, biết kể lại vẻ đẹp, sự kinh ngạc và ngưỡng mộ của người đươc Thiên Chúa yêu thương, sống sự chọn lựa con đường sống của mình với lòng biết ơn, để giúp tha nhân để lại một vết tích đặc sắc trong lịch sử”.

ĐTC giải thích rằng ”điều này đòi anh chị em không được mất định hướng vì những quyến rũ bên ngoài, nhưng tín thác nơi lòng thương xót và sự dịu dàng của Chúa, hun nóng lòng trung thành của chúng ta trong việc chọn lựa theo Chúa và sự tươi mát của ”tình đầu” trong việc theo đuổi ơn gọi” (SD 5-1-2017)

G. Trần Đức Anh OP 

 

Đức Thánh Cha tiếp dân chúng các vùng bị động đất ở Italia

Đức Thánh Cha tiếp dân chúng các vùng bị động đất ở Italia

VATICAN. Sáng 5-1-2017, ĐTC đã tiếp kiến các giới chức chính quyền, giáo quyến và hàng ngàn người bị động đất ở miền Trung Italia hồi năm ngoái.

Hiện diện tại Đại thính đường Phaolô 6 có 800 người thuộc tổng giáo phận Spoleto-Norcia, 500 người từ giáo phân Rieti, và 500 người khác bị động đất đang tạm trú ở Roma. Ngoài ra có các vị thị trưởng, xã trưởng và chính quyền 4 miền Marche, Umbria, Lazio và Abruzzo cùng với các GM giáo phận liên hệ.

Trước buổi tiếp kiến, lúc 11 giờ có nghi thức rước Thánh Giá Ngày Quốc Tế giới trẻ vào đại thính đường. Thánh giá này từ ngày thứ tư lễ tro, 1 tháng 3 tới đây, sẽ được rước tới các giáo phận bị động đất, và kết thúc ngày 25-3-2017 tại Đền thánh Đức Mẹ Loreto, nơi sẽ diễn ra buổi canh thức miền để cầu cho ơn gọi.

ĐTC đã tiến vào Đại thính đường lúc 11 giờ rưỡi để bắt đầu buổi tiếp kiến. Ngỏ lời với mọi người sau chứng từ của một gia trưởng bị động đất, và một cha sở ở địa phương, ngài đã ứng khẩu chia sẻ đau khổ và tái bày tỏ tình liên đới với các nạn nhân và cùng cầu nguyện với các tín hữu cho những người đã bị thiệt mạng, cũng như những người bị thương còn được điều trị. Ngài nhấn mạnh đến sự ”tái thiết tâm hồn trước khi tái tạo nhà cửa”: ”Tái thiết là nhu cầu cấp thiết và để tái thiết chúng ta cần có con tim và đôi tay, tay của chúng ta và của tất cả mọi người..” ĐTC cũng nhận xét rằng ”không có chỗ cho lạc quan ở đây, nhưng có chỗ cho hy vọng. Lạc quan là một thái độ hữu ích nhất thời, nhưng không có thực chất. Ngày nay cần có hy vọng để tái thiết và điều này chúng ta thực hiện bằng đôi tay”.

ĐTC cũng nhận xét rằng: ”Các vết thương sẽ lành, nhưng các vết sẹo vẫn còn suốt đời và sẽ là một kỷ niệm về lúc đau thương này”.

Các cuộc động đất ngày 24-8-2016, 26 và 30-10-2016 ở miền trung Italia đã làm cho 300 người chết, 40 ngàn người không còn gia cư. Nhiều thánh đường bị hư hại hoặc bị phá hủy hoàn toàn, trong đó có Vương cung thánh đường thánh Biển Đức ở Norcia, nơi sinh của thánh nhân.

Thứ bẩy, 14-1 tới đây, tại nguyện đường nhà trọ thánh Martha nơi ngài cư ngụ, ĐTC sẽ rửa tội cho 8 hài nhi con cái của các nạn nhân bị động đất. (SD 5-1-2017)

G. Trần Đức Anh OP

 

Phỏng vấn cha tân Bề trên tổng quyền dòng Tên Arturo Sosa

Phỏng vấn cha tân Bề trên tổng quyền dòng Tên Arturo Sosa

Ngày 18 tháng 10 năm vừa qua Tổng tu nghị Dòng Tên đã bầu cha Arturo Sosa Abascal người Venezuela làm Bề trên tổng quyền thứ 30 của Dòng. Cha Sosa sinh năm 1948, khấn trọn năm 1982, đã từng là cố vấn và đại diện cho các nhà và các cơ sở liên giám tỉnh của dòng tại Roma.

Hỏi: Thưa cha, cha có thể cho biết thân thế của cha, cha đã trở thánh linh mục dòng tên như thế nào, và từ vài tháng nay cha là Bề trên tổng quyền của Dòng.

Đáp: Để biết tôi là ai thì chỉ cần chú ý tới hai nguồn hiện tại là gia đình tôi và trường của dòng Tên tại Caracas, nơi tôi đã theo học từ bậc tiểu học cho tới trung học, là đủ, nghĩa là từ khi tôi lên 5 tuổi cho  catới khi 17 tuổi. Gia đình tôi đã sinh sống tại Venezuela từ ba đời, nhưng ông ngoại tôi là người gốc vùng Santander bên Tây Ban Nha, di cư sang châu Mỹ Latinh. Chúng tôi có 6 anh em, tôi là anh cả. Sau đó là đến hai em gái, một em trai hiện sống bên Hoa Kỳ và hai em gái kế. Tất cả các em gái đều sống tại Venezuela. Gia đình tôi là một gia đình thực hành đạo, có một bà dì nữ tu, và một ông anh họ tu sĩ dòng Tên. Chính trong gia đình mà tôi đã học cầu nguyện và rộng mở cho người khác. Ngay từ ngày còn bé cha tôi thường cho tôi đi theo trong các cuộc du hành của ông trên toàn nước Venezuela. Ông là trạng sư,  kinh tế gia và là một thương gia buớc vào làm chính trị. Ông đã là bộ trưởng tài chánh trong vòng một năm trong chính phủ chuyển tiếp, sau khi chế độ độc tài của tổng thống Marcos  Perez Jiménes cáo chung. Hầu như trong suốt thế kỷ XIX Venezuela đã trải qua các chính quyền độc tài, và trong thập niên 1950 dấn thân của cha tôi là tạo ra các không gian dân chủ. Và trong gia đình tôi đã học biết rằng không ai có thể tự cứu thoát một mình. Nếu chúng ta muốn hạnh phúc, thì phải góp phần vào việc xây dựng hạnh phúc của quốc gia.

Hỏi: Và nguồn khác mà cha nhắc tới trên đây là gì, thưa cha?

Đáp: Nó cũng quan trọng như nguồn thứ nhất vậy. Tại trường thánh Ignazio, nơi tôi đã theo học hầu như 13 năm, từ năm 1953 cho tới năm 1966, đã có rất đông các tu sĩ dòng Tên trẻ, và chúng tôi ở trường từ sáng cho tới chiều, từ thứ hai cho tới thứ bẩy. Sau tuần học các tu sĩ dẫn chúng tôi đi thăm các nhà thương hay đi dạo ngoài đồng quê để tiếp xúc với các nông dân. Tôi nhớ tới các năm này như một môi trường rất là sáng tạo. Tôi cũng đã là thành viên của một hiệp hội thánh mẫu, và hồi đó thú thật là tôi chơi các môn thể thao như bóng đá, bóng bầu dục và bóng rổ rất dở. Sau khi mãn trung học tôi đã cảm thấy là để góp phần tốt hơn cho thiện ích của tất cả mọi người  tôi phải gia nhập dòng Tên. Và thế là ngày 14 tháng 9 năm 1966, ít ngày trước khi lên 18 tuổi, tôi đã xin nhập dòng.

Hỏi: Như vậy các năm huấn luyện đã ra sao và các năm sau đó cha đã làm gì?

Đáp: Việc chuẩn bị tôi ấy à? Đó là việc đào tạo huấn luyện của dòng Tên theo các chặng: các năm nhà tập, chương trình học triết học và thần học tại đại học công giáo Andres Bello trong thủ đô Caracas, rồi một thời gian tại Trung tâm Gumilla do các tu sĩ dòng Tên điều khiển nhằm trợ giúp các hợp tác xã tiết kiệm và tín dụng tại miền trung Venezuela, rồi theo học thần học tại Roma trong trường Chúa Giêsu và đại học giáo hoàng Gregoriana giữa các năm 1974-1977, là năm tôi được thụ phong Linh Mục. Nhưng tôi đã trở về Venezuela để học bổ túc về thần học, trong khi tôi dọn luân án tiến sĩ về các khoa học chính trị tại đại học chính của thủ đô Caracas. Đây là môn tôi đã dậy tại trung tâm Gumilla cũng như tại đại học Andres Bello, đặc biệt là lịch sử các tư tưởng. Trong gần 20 năm tôi cũng đã là giám đốc nguyệt san “Sic” của dòng Tên. Từ năm 1996 tới 2004 tôi đã là bề trên giám tỉnh của dòng tại Venezuela, và sau cùng là viện trưởng đại học công giáo Táchira từ năm 2004 cho tới năm 2014. Năm 2014 cha Bề trên tổng quyền đã gọi tôi về Roma để đặc trách các nhà quốc tế của dòng, nơi có 400 tu  sĩ dòng Tên làm việc dưới quyền của ngài.

Hỏi: Thưa Cha, sự kiện lần đầu tiên trong lịch sử của dòng một linh mục không phải ngưòi âu châu được bầu làm Bề trên tổng quyền có ý nghĩa gì?

Đáp: Đây chắc chắn là hoa trái của sự thay đổi đang xảy ra trong toàn Giáo Hội, và là một dấu chỉ của tính cách công giáo của nó, cũng như trong biến cố bầu Đức Bergoglio làm Giáo Hoàng. Tuy nhiên, tôi muốn nhấn mạnh một dữ kiện lịch sử rất quan trọng, không thể chối cãi được: đó chính là tinh thần truyền giáo quảng đại của Âu châu đã cho phép điều này, và tạo thuận tiện cho việc hội nhập văn hoá, là nét đặc thù của các tu sĩ dòng Tên và của các cứ điểm truyền giáo do các tu sĩ điều khiển. Tiến trình này đã kéo dài một thế kỷ rưỡi, và ngày nay đã đưa dòng tới chỗ là một thực tại đa văn hóa, nhập thể vào trong hàng chục nền văn hóa khác nhau, để giúp con người và các xã hội trở thành nhân bản hơn, bằng cách chỉ cho thấy Chúa Giêsu Kitô, dung nhan của Thiên Chúa. Đây là một sự phong phú khổng lồ đối với các tu sĩ dòng Tên và tất cả mọi Giáo Hội. Chẳng hạn như Giáo Hội châu mỹ latinh là một Giáo Hội rất sinh động, nhưng thường bị trình bầy một cách bất công, bị san bằng trên nền thần học giải phóng, là nền thần học cũng hay bị giới thiệu một cách chế nhạo như là mác xít: đây là một trung gian của đức tin kitô, mà tôi đã định nghĩa là không thể được, trong một bài viết hồi thập niên 1970.

Hỏi: Thưa cha, sức khoẻ của dòng Tên hiện nay ra sao? Nó đã mất đi phân nửa các tu sĩ so với nửa thế kỷ trước, chỉ còn lại vài trăm thầy, mà trước đây đông hơn nhiều. Và việc đào tạo hiện như thế nào?

Đáp: Số tu sĩ không phải là một tiêu chuẩn để phán đoán sức khỏe của các tu sĩ dòng Tên: ngay từ đầu thánh Ignazio đã nói tới “một hội dòng tối thiểu”. Chúng tôi thích phẩm chất hơn, và không có nghi ngờ là sự nghiêm ngặt  của việc đào  tạo của chúng tôi ngày nay còn lớn hơn xưa kia rất nhiều. Chắc chắn rồi, tôi không chối cuộc khủng hoảng mạnh mà chúng trôi đang trải qua bên Âu châu và bên Hoa Kỳ, chính yếu là vì phong trào tục hóa và cuộc khủng hoàng dân số. Việc đào tạo hàn lâm và tinh thần thiêng liêng phải chú ý tới sự kiện có nhiều chuyên viên gia nhập dòng. Và môi trường đào tạo cũng khác xưa rất nhiều, và mở rộng ra trong lãnh vực tâm lý, các khoa học xã hội, các lãnh vực khoa học. Cả đối với việc nâng cao trình độ văn hóa chung cũng cần phải thổi không khí  vào các tu sĩ, xưa kia vốn rất đông. Và tôi phải hãnh diện nói rằng ơn gọi của tôi là nhờ các tu sĩ rất nhiều, nhờ các tu sĩ giáo tập, giáo sư, cũng như nhờ các tu sĩ trẻ chưa là linh mục. Rất nhiều lần tôi câm nín trước kinh nghiệm về Thiên Chúa của các anh em này, là các tu huynh không linh mục. Tôi đặc biệt nhớ tới một thầy suốt đời làm việc trong một nông trại chăn nuôi gia súc: thầy đã là một người chiêm niệm. Tuy nhiên, cần nhớ rằng hình thức lý tưởng của dòng Tên là  hình thức của các tu sĩ khấn, tức các tu sĩ đã tới lời khấn thứ bốn, ngày nay chiếm đa số, so với các trợ sĩ không khấn nó, và so với các tu sĩ kinh viện, đang còn trong thời kỳ đào tạo, và với các tu huynh.

Hỏi: Thưa cha tại sao dòng Tên lại không có nhánh nữ vậy?

Đáp: Đã có rất nhiều nữ tu, và họ là các nữ tu đã lấy hứng từ tinh thần tu đức của thánh Ignazio, họ chia sẻ tinh thần tu đức đó. Và tôi muốn nói thêm rằng không có phụ nữ thì một cách đơn thuần sẽ không thể nghĩ tới sứ mệnh của dòng Tên được. Đàng khác, ở nguồn gốc của các tu sĩ dòng Tên đã có một nhóm những người nam đã đuợc truyền chức quyết định sống một kiểu thánh hiến mới: cùng nhau sống như là các bạn đường và phục vụ Giáo Hội hoàn vũ.

Hỏi: Nghĩa là một dòng nảy sinh để đứng ở hàng tiền đạo tại các vùng biên giới. Thế ngày nay dòng đang ở đâu và di chuyển như thế nào? Đâu là các biên giới của dòng Tên hiện nay thưa cha Bề trên tổng quyền?

Đáp: Chúng tôi là các thừa sai và các biên giới, như trong suốt lịch sử của dòng chúng tôi cho thấy, thì nhiều lắm: giáo dục, truyền thống cũng như bình dân, phục vụ người di cư tỵ nạn, hoạt động trong lãnh vực rất rộng lớn của việc tranh đấu cho công bằng xã hội,  và đào tạo dấn thân chính trị. Cùng với cuộc sống tu sĩ đây là một trong các đam mê của tôi: đó là chiến đấu và chiêm niệm, để dùng lại kiểu nói của vài thập niên trước.

Hỏi: Các tu sĩ dòng Tên có còn là các người đào tạo và các vị linh hướng nữa không, thưa cha?

Đáp: Có chứ. Ngày nay hơn bao giờ hết. Hiện nay việc phục vụ cuộc sống thiêng liêng này đã gia tăng các phương cách, các nơi chốn và con người. Các cuộc tĩnh tâm theo tinh thần của thánh Ignazio kéo dài một tháng hay cả một tuần không còn có thể làm nữa vì các tiết nhịp của cuộc sống thời đại. Và người ra đề nghị các hình thức khác trong cuộc sống thường ngày, có thể kéo dài tám hay chín tháng. Và giảng giải không phải chỉ có các tu sĩ dòng Tên và còn có nhiều người khác nữa, nữ giáo dân cũng như các nữ tu, nam giới và nữ giới. Sau Công Đồng Chung Vatican II, là một ơn sủng Chúa ban, chúng tôi nhậy cảm hơn rất nhiều đối với sự khác biệt của các ơn gọi và các ơn đến từ Thiên Chúa.

(Oss. Rom 21-12-2016)

Linh Tiến Khải

Đức Thánh Cha chủ sự Kinh Chiều I Lễ Mẹ Thiên Chúa

Đức Thánh Cha chủ sự Kinh Chiều I Lễ Mẹ Thiên Chúa

duc-thanh-cha-chu-su-kinh-chieu-le-me-thien-chua

VATICAN. Chiều ngày 31-12-2016, ĐTC Phanxicô đã chủ sự kinh chiều I lễ Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa và kinh Te Deum, Tạ Ơn Thiên Chúa, nhân dịp cuối năm dương lịch. Ngài đặc biệt kêu gọi giải quyết nạn thất nghiệp của giới trẻ.

Hiện diện tại Đền thờ Thánh Phêrô trong buổi hát kinh bắt đầu lúc 5 giờ chiều còn có 36 HY, đặc biệt là ĐHY Agostino Vallini, Giám Quản Roma, 7 GM phụ tá và 40 GM khác, 150 LM và khoảng 8 ngàn tín hữu.

Trong bài giảng sau bài đọc ngắn, ĐTC đã diễn giải mầu nhiệm Con Thiên Chúa xuống trần chia sẻ thân phận phàm nhân, gần gũi với tất cả những người phải chịu đau khổ, bị loại trừ. Ngài mời gọi các tín hữu dừng lại trước hang đá máng cỏ để khám phá Thiên Chúa đang mời gọi chúng ta tham dự vào công trình của Người, ”mời gọi chúng ta can đảm và quyết liệt đón nhận tương lai đang ở trước mặt chúng ta”.

ĐTC cũng nói rằng: ”Khi nhìn máng cỏ, chúng ta gặp khuôn mặt của thánh Giuse và Mẹ Maria đầy hy vọng và ước mong, đầy câu hỏi. Những khuôn mặt trẻ đang nhìn về đàng trước với nghĩa vụ không dễ dàng là giúp Chúa Hài Đồng tăng trưởng. Không thể nói về tương lai mà không chiêm ngưỡng những khuôn mặt trẻ trung ấy và đảm nhận trách nhiệm của chúng ta đối với những người trẻ”.

ĐTC phê bình sự mâu thuẫn này: ”Một đàng chúng kiến tạo một nền văn hóa ca tụng sự trẻ trung, làm cho nó vĩnh cửu, nhưng đồng thời lại kết án những người trẻ của chúng ta không cho họ có một không gian để thực sự hội nhập vào, và dần dần chúng ta gạt họ ra ngoài đời sống công cộng, buộc họ phải xuất cư hoặc phải ăn xin những công việc mà họ không có được, hoặc không để cho họ được đề ra những dự phóng cho ngày mai.. Chúng ta dành ưu tiên cho sự đầu cơ thay vì những công việc xứng đáng và chân thực, giúp người trẻ trở thành những người tích cực nắm vai chính trong đời sống xã hội chúng ta. Chúng ta mong đợi nơi người trẻ và đòi họ phải trở thành men tương lai, nhưng chúng ta lại kỳ thị họ, ”buộc họ phải gõ những cánh cửa tiếp tục khép kín”.

”Chúng ta được mời gọi đừng như người chủ quán trọ ở Bethlehem, đứng trước một đôi vợ chồng trẻ, nói rằng: ở đây không có chỗ. Không có chỗ cho cuộc sống, cho tương lai”.

Cuối kinh chiều, có nghi thức đặt Mình Thánh Chúa và hát kinh Te Deum tạ ơn Thiên Chúa. Sau đó, ĐTC đã tiến ra quảng trường thánh Phêrô viếng thăm và cầu nguyện hang đá lớn tại đây. (SD 31-12-2016)

G. Trần Đức Anh OP

Sứ điệp Đức Thánh Cha nhân Ngày Hòa Bình Thế Giới 1-1-2017

Sứ điệp Đức Thánh Cha nhân Ngày Hòa Bình Thế Giới 1-1-2017

su-diep-duc-thanh-cha-nhan-ngay-hoa-binh-the-gioi-1-1-2017

Ngày 1-1-2017 là Ngày Hòa Bình thế giới lần thứ 50 kể từ khi được Đức Chân Phước Giáo Hoàng Phaolô 6 thiết lập. Lần này có chủ đề là ”Bất bạo động: một đường lối chính sách hòa bình”.

 Văn kiện này được chia làm 7 đoạn lần lượt nói đến một thế giới bị phân hóa và phải chịu nạn bạo lực ”từng mảnh” bằng nhiều cách ở nhiều cấp độ khác nhau, gây ra những đau khổ lớn lao như chúng ta đang chứng kiến: chiến tranh tai nhiều nước và đại lục, nạn khủng bố, tọi pháp, những cuộc tấn công võ trang không lường trước được.. 

 ĐTC xác quyết bạo lực không phải là cách săn sóc thế giới chúng ta bị tan thành mảnh. Dùng bạo lực để đáp trả bạo lực cùng lắm chỉ dẫn tới những cuộc tản cư vì bị bó buộc và những đau khổ vô biên.

 ĐTC nhận xét rằng bất bạo động nhiều khi bị hiểu theo nghĩa một sự đầu hàng, không dấn thân và thụ động. Nhưng thực tế không phải như vậy… Vì sức mạnh của võ khí có tính chất lừa đảo… Trong khi những kẻ buôn bán võ khí hoạt động, thì có những người nghèo kiển tạo hòa bình, chỉ để giúp đã một người, giúp đỡ người khác, và hiến mạng sống của họ.

 ĐTC cũng xác tín rằng nếu nguồn mạch phát sinh bạo lực là tâm hồn của con người, thì điều căn bản là phải tiến bước trên con đường bất bạo động trước tiên ở trong gia đình.

 ĐTC xác quyết: ”Việc xây dựng hòa bình nhờ bất bạo động tích cực là yếu tố cần thiết và phù hợp với nỗ lực liên lỷ của Giáo Hội để giới hạn việc sử dụng võ lực, qua những qui luật luân lý, nhờ sự tham gia của Giáo Hội vào những công việc của các tổ chức quốc tế và nhờ sự đóng góp giá trị của các tín hữu Kitô vào việc ban hành các luật lệ ở mọi cấp độ”.

 Sau đây là toàn văn Sứ điệp Hòa bình của ĐTC, dịch từ nguyên bản tiếng Ý.

 1. Vào đầu năm mới, tôi gửi lời chân thành cầu chúc an bình tới các dân tộc và quốc gia trên thế giới, tới các vị Quốc Trưởng và Chính Phủ, cũng như các vị lãnh đạo các cộng đoàn tôn giáo và những tổ chức khác của xã hội dân sự. Tôi cầu chúc an bình cho mỗi ngừơi nam, nữ, trẻ em và cầu nguyện để hình ảnh và sự sống Thiên Chúa nơi mỗi người giúp chúng ta nhìn nhận nhau như những món quà thánh thiêng có một phẩm giá vô biên. Nhất là trong những tình trạng xung đột, chúng ta tôn trọng ”Phẩm giá sâu xa nhất” và biến bất bạo động thành một lối sống của chúng ta.

 Đây là Sứ điệp cho Ngày Hòa Bình Thế giới lần thứ 50. Trong sứ điệp đầu tiên, Đức Chân phước Giáo Hoàng Phaolô 6 đã ngỏ lời với tất cả các dân tộc, – không những với các tín hữu Công Giáo mà thôi,- với những lời thật rõ ràng: ”Sau cùng chúng ta thấy rất rõ rệt hòa bình là con đường duy nhất và chân thực của sự tiến bộ con người (không phải những căng thẳng của chủ nghĩa quốc gia tham vọng, không phải những chiếm đoạt bằng bạo lực, không phải những đàn áp đưa tới một trật tự dân sự giả tạo)”. Ngài cảnh giác trước ”nguy cơ tin rằng những tranh chấp quốc tế không thể giải quyết được bằng những con đường lý trí, nghĩa là bằng những cuộc thương thuyết dựa trên luật pháp, công lý, công chính, nhưng chỉ bằng những cuộc thương thuyết dựa trên sức mạnh làm cho đối phương nể sợ và gây chết chóc”. Trái lại, ngài trích dẫn thông điệp ”Hòa bình dưới thế” của vị tiền nhiệm là thánh Gioan 23, ca ngợi ”ý nghĩa và lòng yêu mến hòa bình dựa trên sự thật, công lý, tự do và tình thương”. Những lời này rất thời sự, ngày nay nó không kém phần quan trọng và cấp thiết so với cách đây 50 năm.

 Trong dịp này tôi muốn bàn về sự bất bạo động như một đường lối chính trị hòa bình và cầu xin Chúa giúp tất cả chúng ta kín múc nơi sự bất bạo động trong chiều sâu của tâm tình và những giá trị bản thân của chúng ta. Ước gì đức bác ái và bất bạo động hướng dẫn cách thức chúng ta đối xử với nhau trong các quan hệ giữa người với nhau, trong các quan hệ xã hội và quốc tế. Khi biết kháng cự lại cám dỗ báo thù, các nạn nhân của bạo lực có thể giữ vai chính đáng tín nhiệm hơn trong các tiến trình bất bạo động xây dựng hòa bình. Trên bình diện địa phương và thường nhật cho đến bình diện hoàn cầu, bất bạo động có thể trở thành cách thức đặc biệt trong các quyết định, các quan hệ, hành động và chính trị trong tất cả các hình thức của nó.

 ** Một thế giới bị phân tán

 2. Thế kỷ 20 vừa qua đã bị hai thế chiến chết chóc tàn phá, đã cảm nghiệm sự đe dọa của chiến tranh hạt nhân và một số lớn các cuộc xung đột khác, trong khi ngày nay, đáng tiếc là chúng ta phải đương đầu với một thế chiến từng mảnh kinh khủng. Không dễ biết thế giới hiện nay có bị bạo lực hơn hay kém so với trước kia, và các phương tiện truyền thông hiện đại và đặc tính di động của thời đại ngày nay có làm cho chúng ta ý thức hơn về bạo lực và quen thuộc với nó nhiều hơn hay không.

 Dầu sao, bạo lực này được thực thi từng mảnh, theo những thể thức và mức độ khác nhau, tạo nên những đau khổ kinh khủng mà chúng ta biết rõ: những cuộc chiến tranh tại nhiều quốc gia và đại lục; nạn khủng bố, tội phạm, và các cuộc tấn công võ trang không lường trước được; những lạm dụng mà người di dân và các nạn nhân nạn buôn người phải chịu; sự tàn phá môi trường. Với mục đích nào? Bạo lực có cho phép đạt tới những mục tiêu có giá trị lâu bền hay không? Tất cả những điều mà nó đạt được chẳng phải là khơi lên những vụ trả thù và các vòng xung đột chết chóc chỉ mang lại ích lợi cho một thiểu số ”các lãnh chúa chiến tranh” sao?

 Bạo lực không phải là sự chữa lãnh thế giới bị phân tán từng mảnh của chúng ta. Lấy bạo lực đáp lại bạo lực, cùng lắm chỉ đưa tới những tình trạng buộc lòng phải di cư và đau khổ vô biên, vì số lượng tài nguyên lớn lao được dành cho các mục tiêu quân sự và được rút khỏi những nhu cầu thường nhật của người trẻ, các gia đình gặp khó khăn, người già, bệnh nhân, và đại đa số dân trên thế giới. Tệ nhất, nó có thể đưa tới chết chóc, về thể lý và tinh thần, của nhiều người, nếu không phải là tất cả mọi người.

 ** Tin Mừng

 3. Cả Chúa Giêsu cũng đã từng sống trong thời bạo lực. Ngài dạy rằng chiến trường đích thực trong đó bạo lực và hòa bình đương đầu với nhau chính là tâm hồn con người: “Thực vậy, từ bên trong, tức là từ tâm hồn con người, xuất phát những ý hướng xấu xa” (Mc 7,21). Sứ điệp của Chúa Kitô, đứng trước thực tại ấy, mang lại câu trả lời hoàn toàn tích cực: Ngài rao giảng không biết mệt mỏi tình thương vô điều kiện của Thiên Chúa, Đấng đón tiếp và tha thứ, và dạy các môn đệ hãy yêu thương kẻ thù (Xc Mt 5,44) và giơ má bên kia (Xc Mt 5,39). Khi ngăn cản những kẻ cáo buộc người phụ nữ ngoại tình ném đá bà (Xc Ga 8,1-11) và trong đêm trước khi chịu chết, Ngài đã bảo Phêrô hãy xỏ gươm vào vỏ (Xc Mt 26,52), Chúa Giêsu vạch ra con đường bất bạo động, con đường mà Ngài đi tới cùng, tới thập giá, nhờ đó Ngài thực thi hòa bình và phá hủy sự thù nghịch (Xc Ep 2,14-16). Vì thế ai đón nhận Tin Mừng của Chúa Giêsu, thì biết nhận ra bạo lực mang trong mình và để cho lòng thương xót của Thiên Chúa chữa lành, nhờ đó họ trở thành dụng cụ hòa giải, theo lời khuyên của thánh Phanxicô Assisi: ”Hòa bình mà các con loan báo bằng miệng, các con hãy có hòa bình ấy dồi dào hơn nữa trong tâm hồn các con”.

 Ngày nay, là môn đệ đích thực của Chúa Giêsu cũng có nghĩa là gắn bó với đề nghị của Ngài về bất bạo động. Như vị Tiền nhiệm Biển Đức 16 của tôi đã khẳng định, ”bất bạo động có tính chất thực tiễn, vì ý thức rằng trong thế giới có quá nhiều bạo động, quá nhiều bất công, và vì thế không thể vượt qua tình trạng này nếu không kháng cự nó bằng một điều lớn hơn: bằng tình yêu, bằng lòng từ nhân. Điều lớn hơn này đến từ Thiên Chúa”. Và Ngài mạnh mẽ nói thêm rằng: ”Sự bất bạo động đối với các tín hữu Kitô không phải chỉ là một thái độ chiến thuật, nhưng là một lối sống, là thái độ của người xác tín mạnh mẽ về tình yêu của Thiên Chúa và quyền năng của Ngài đến độ không sợ đối đầu với sự ác chỉ bằng võ khí tình thương và sự thật mà thôi. Lòng yêu thương kẻ thù chính là nòng cốt ”cuộc cách mạng Kitô giáo”. Chính lời dạy của Tin Mừng hãy yêu thương kẻ thù (Xc Lc 6,27) được coi như ”Đại hiến chương về sự bất bạo động Kitô giáo”: nó không hệ tại ”đầu hàng sự ác […] nhưng là đáp trả sự ác bằng điều thiện (Xc Rm 12,17-21), nhờ đó phá vỡ xiềng xích của bất công”.

 ** Mạnh hơn bạo lực

 4. Bất bạo động nhiều khi bị hiểu theo nghĩa một sự đầu hàng, không dấn thân và chỉ thụ động. Nhưng thực tế không phải như vậy. Khi Mẹ Têrêsa nhận giải Nobel Hòa Bình năm 1979, Mẹ đã tuyên bố rõ ràng sứ điệp của Mẹ là bất bạo động tích cực và nói: ”Trong gia đình chúng ta, chúng ta không cần bom đạn và võ khí, không cần tàn phá để mang lại hòa bình, nhưng cần ở với nhau, yêu thương nhau […] Và chúng ta có thể vượt thắng mọi sự ác trên thế giới”. Vì sức mạnh của võ khí có tính chất lừa đảo. ”Trong khi những kẻ buôn bán võ khí hoạt động, thì có những người nghèo kiến tạo hòa bình, chỉ để giúp đỡ một người, giúp đỡ người khác, và hiến mạng sống cho tha nhân. Đối với những người xây dựng hòa bình như thế, Mẹ Têrêsa chính là một biểu tượng, một hình ảnh của thời đại chúng ta”. Tháng 9 năm 2016, tôi đã được niềm vui lớn khi tôn phong Mẹ lên hàng hiển thánh. Tôi đã ca ngợi sự sẵn sàng của Mẹ đối với tất cả mọi người qua ‘sự tiếp đón và bảo vệ sự sống con người, sự sống chưa sinh ra và sự sống bị bỏ rơi và gạt bỏ. […]. Mẹ đã cúi mình trên những người kiệt lực, bị bỏ mặc cho chết bên vệ đường, Mẹ nhìn nhận phẩm giá mà Thiên Chúa đã ban cho họ; Mẹ đã lên tiếng với những người hùng mạnh của trái đất này, để họ nhìn nhận của họ trước những tội ác – trước những tội ác! – nghèo đói do chính họ tạo nên”. Đối lại, sứ mạng của Mẹ – qua đó Mẹ đại diện cho hàng ngàn người, đúng hơn là hàng triệu người – đi gặp các nạn nhân với lòng quảng đại và tận tụy, động đến và băng bó mỗi thân thể bị thương, chữa lành mỗi cuộc sống bị tan vỡ.

 Sự bất bạo động được thực hành với lòng tận tụy và phù hợp với niềm tin tạo nên những kết quả lạ lùng. Những thành công của Mahatma Gandhi và Khan Abdul Ghaffar trong việc giải phóng Ấn độ và của Martin Luther King Jr chống lại nạn kỳ thị chủng tộc sẽ không bao giờ bị quên lãng. Đặc biệt các phụ nữ thường là những người lãnh đạo bất bạo động, ví dụ như Leymah Gbowee và hàng ngàn phụ nữ Liberia, đã tổ chức những cuộc gặp gỡ cầu nguyện và phản đối bất bạo động (pray-ins) đạt được những cuộc thương thuyết ở cấp độ cao để kết thúc cuộc nội chiến thứ hai ở Liberia.

 Chúng ta không thể quên thập niên lịch sử được kết thúc với sự sụp đổ của các chế độ cộng sản ở Âu Châu. Các cộng đồng Kitô đã đóng góp bằng việc cầu nguyện liên lỷ và hành động can đảm. Họ đã thực hiện một ảnh hưởng đặc biệt đối với sứ vụ và giáo huấn của Thánh Gioan Phaolô 2. Suy tư về các biến cố năm 1989 trong Thông điệp Năm Thứ 100 (1991), vị tiền nhiệm của tôi đã nhấn mạnh rằng một sự thay đổi lịch sử trong đời sống các dân tộc, các quốc tộc và quốc gia được thực hiện ”nhờ cuộc chiến đấu hòa bình, chỉ dùng võ khí sự thật và công lý”.

 Hành trình chuyển tiếp chính trị này tiến về hòa bình đã thực hiện được nhờ ”sự dấn thân bất bạo động của những người, trong khi luôn luôn từ khước chiều theo quyền bính của sức mạnh, đã biết thỉnh thoảng tìm được những hìonh thức hữu hiệu để làm chứng cho sự thật”. Và Ngài kết luận: ”Ước gì con người học cách chiến đấu cho công lý mà không bạo động, từ bỏ cuộc đấu tranh giai cấp trong các cuộc tranh chấp nội bộ và chiến tranh trong các cuộc tranh chấp quốc tế”.

 Giáo Hội dấn thân thực hiện những chiến lược bất bạo động thăng tiến hòa bình tại nhiều nước, thậm chí yêu cầu cả các tác nhân bạo lực nhất trong cố gắng xây dựng một nền hòa bình công chính và lâu bền.

 Sự dấn thân này để bênh vực các nạn nhân bất công và bạo lực không phải là một gia sản riêng của Giáo Hội Công Giáo, nhưng của nhiều truyền thống tôn giáo, đối với họ, ”sự cảm thương và bất bạo động là điều thiết yếu và chỉ cho con đường sự sống”. Tôi mạnh mẽ lập lại rằng: ”Không có tôn giáo nào là khủng bố”. Bạo lực là một sự xúc phạm đến danh Thiên Chúa. Chúng ta đừng bao giờ mệt mỏi lập lại điều này: ”Không bao giờ danh Thiên Chúa có thể biện minh cho bạo lực. Chỉ có hòa bình là thánh thiêng. Chỉ có hòa bình là tháng, chứ không phải chiến tranh!”

 ** Căn cội tại gia của một nền chính trị bất bạo động

 5. Nếu nguồn mạch phát sinh bạo lực là tâm hồn của con người, thì điều căn bản là phải tiến bước trên con đường bất bạo động trước tiên ở trong gia đình. Đó là một thành phần niềm vui của tình thương mà tôi đã trình bày hồi tháng 3 năm nay trong Tông Huấn ”Amoris laetitia” (Niềm vui yêu thương), kết thúc 2 năm suy tư của Giáo Hội về hôn nhân và gia đình. Gia đình là lò tôi luyện không thể thiếu được trong đó đôi vợ chồng, cha mẹ, con cái, anh chị em học cách đả thông và chăm sóc nhau một cách vô vị lợi, và nơi mà những sầu muộn và thậm chí những xung đột phải được vượt thắng không phải bằng võ lực, nhưng bằng đối thoại, tôn trọng, tìm kiếm thiện ích cho người khác, từ bi và tha thứ. Từ bên trong gia đình niềm vui yêu thương lan truyền trên thế giới và tỏa lan trong toàn xã hội. Đàng khác, một nền luân lý đạo đức huynh đệ và sống chung hòa bình giữa con người và các dân tộc không thể dựa trên sợ hãi, bạo lực và khép kín, nhưng trên trách nhiệm, tôn trọng và đối thoại chân thành. Trong chiều hướng đó, tôi kêu gọi giải trừ võ trang, và cấm chỉ cũng như bãi bỏ các võ khí hạt nhân: việc dùng võ khí hạt nhân để đối phương nể sợ và sự đe dọa tàn phá lẫn nhau không thể tạo nên nền luân lý đạo đức huynh đệ. Tôi cũng khẩn thiết kêu gọi hãy chấm dứt sự bạo hành trong gia đình và những lạm dụng phụ nữ và trẻ em.

 Năm Thánh Lòng Thương xót, kết thúc hồi tháng 11 vừa qua, là một lời mời gọi hãy nhìn vào chiều sâu của tâm hồn chúng ta và để cho Lòng Thương Xót của Thiên Chúa đi vào. Năm Thánh đã làm cho chúng ta ý thức có đông đảo những người khác nhau và các nhóm xã hội bị đối xử dửng dưng, họ là nạn nhân của bất công và bị bạo hành. Họ thuộc ”gia đình” chúng ta, họ là anh chị em của chúng ta. Vì thế các chính sách bất bạo động phải bắt đầu từ trong 4 bức tường gia đình chúng ta để lan tỏa ra trong toàn thể gia đình nhân loại. Tấm gương của thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu mời gọi chúng ta thực hành con đường thơ ấu của tình thương, đừng đánh mất cơ hội nói một lời tử tế dễ thương, một nụ cười, bất kỳ cử chỉ nhỏ bé nào gieo vãi an bình và tình thân hữu. Một nền môi sinh học toàn diện cũng được hình thành bằng những cử chỉ đơn sơ thường nhật trong đó chúng ta phá vỡ đường lối bạo lực, bóc lột và ích kỷ”.

 ** Lời mời gọi của tôi

 6. Việc xây dựng hòa bình nhờ bất bạo động tích cực là yếu tố cần thiết và phù hợp với nỗ lực liên lỷ của Giáo Hội để giới hạn việc sử dụng võ lực, qua những qui luật luân lý, nhờ sự tham gia của Giáo Hội vào những công việc của các tổ chức quốc tế và nhờ sự đóng góp giá trị của các tín hữu Kitô vào việc ban hành các luật lệ ở mọi cấp độ. Chúa Giêsu đã trao tặng cho chúng ta một cuốn chỉ nam trong kế hoạch kiến tạo hòa bình qua Bài Giảng Trên Núi. 8 mối phúc thật (Xc Mt 5,3-10) phác họa mẫu mực của người mà chúng ta có thể định nghĩa là người có phúc, người tốt lành và chân chính. Chúa Giêsu nói: ”Phúc cho những người hiền lành, người có lòng thương xót, người xây dựng hòa bình, người có tâm hồn thanh thiết, những người đói khát sự công chính”

 ”Đây cũng là một chương trình và là một thách đố cho các nhà lãnh đạo chính trị và tôn giáo, các vị trách nhiệm các tổ chức quốc tế và những người điều khiển xí nghiệp, các phương tiện truyền thông trên toàn thế giới: đó là áp dụng các Mối Phúc Thật, qua đó họ thực thi trách nhiệm của mình. Một thách đố xây dựng xã hội, cộng đoàn hoặc xí nghiệp mà họ trách nhiệm theo thể thức của người xây dựng hòa bình; chứng tỏ lòng từ bi thương xót bằng cách từ chối gạt bỏ con người, từ chối gây thiệt hại cho môi trường và khước từ ý muốn chiến thắng bằng mọi giá. Điều này đòi phải có sự sẵn sàng ”chịu đựng xung đột, giải quyết nó và biến đổi nó thành một mắt xích liên kết trong tiến trình mới”. Hoạt động như thế có nghĩa là chọn lựa tình liên đới như một cách thức làm lịch sử và kiến tạo tình thân hữu xã hội. Sự bất bạo động tích cực là một cách thức để chứng tỏ rằng quả thực sự hiệp nhất thì mạnh mẽ và phong phú hơn xung đột. Tất cả trong thế giới đều có liên hệ mật thiết với nhau. Tuy có thể xảy ra là những tranh chấp sinh ra sầu muộn: nhưng chúng ta hãy đương đầu với chúng một cách xây dựng và bất bạo động, như thế ”những căng thẳng và đối nghịch (có thể) đi tới một sự hiệp nhất đa dạng sinh ra đời sống mới”, bảo tồn ”những tiềm năng quí giá của những lập trường đối nghịch nhau”.

 Tôi cam đoan rằng Giáo Hội Công Giáo sẽ đồng hành với mỗi cố gắng xây dựng hòa bình kể cả qua sự bất bạo động tích cực và có tinh thần sáng tạo. Ngày 1-1-2017 là ngày khai sinh Bộ mới, Bộ phục vụ phát triển nhân bản toàn diện, giúp Giáo Hội thăng tiến một cách ngày càng hữu hiệu ”những thiện ích khôn lường của công lý, hòa bình và bảo tồn thiên nhiên”, và sự quan tâm đối với những người di dân, ”những người túng thiếu, các bệnh nhân và những người bị gạt bỏ, những người ở ngoài lề, và các nạn nhân của những cuộc xung đột võ trang và những thiên tai, các tù nhân, những người thất nghiệp và các nạn nhân của bất kỳ hình thức nô lệ và tra tấn”. Mỗi hành động trong chiều hướng này, dù là bé nhỏ, đều góp phần xây dựng một thế giới không còn bạo lực, một bước tiến đầu tiên hướng về công lý và hòa bình.

 ** Kết luận

 7. Theo truyền thống, tôi ký Sứ điệp này ngày 8-12, lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm nguyên tội. Mẹ Maria là Nữ Vương Hòa Bình. Khi Con của Mẹ sinh ra, các thiên thần tôn vinh Thiên Chúa và cầu chúc hòa bình cho con người trên trái đất, những người nam nữ thiện chí (Xc Lc 2,14). Chúng ta hãy xin Đức Trinh Nữ hướng dẫn chúng ta.

 ”Tất cả đều mong ước hòa bình; bao nhiêu người hằng ngày kiến tạo hòa bình với những cử chỉ nhỏ bé và nhiều người chịu đau khổ và kiên nhẫn chịu đựng vất vả với bao nhiêu cố gắng để xây dựng hòa bình”. Trong năm 2017, chúng ta hãy dấn thân, bằng kinh nguyện và hoạt động để trở thành những người loại trừ bạo lực khỏi tâm hồn, khỏi lời nói và cử chỉ, và xây dựng cộng đoàn bất bạo động, chăm sóc căn nhà chung. ”Không gì là không có thể nếu chúng ta chạy đến cùng Thiên Chúa trong kinh nguyện. Tất cả có thể là những người xây dựng hòa bình”.

 G. Trần Đức Anh OP chuyển ý

Gần 4 triệu tín hữu tham dự các sinh hoạt của Đức Thánh Cha

Gần 4 triệu tín hữu tham dự các sinh hoạt của Đức Thánh Cha

gan-4-trieu-tin-huu-tham-du-cac-sinh-hoat-cua-duc-thanh-cha

VATICAN. Trong năm 2016, có gần 4 triệu tín hữu đã tham gia các buổi tiếp kiến, các buổi lễ và các buổi đọc kinh với ĐTC tại Vatican.

Trong thông cáo công bố hôm 29-12-2016, Phủ Giáo Hoàng cho biết con số 3 triệu 952 ngàn tín hữu tham dự các sinh hoạt của ĐTC tại Vatican không kể hàng triệu người khác gặp gỡ ngài trong các cuộc viếng thăm mục vụ tại Italia và nước ngoài như ở Mexico, đảo Lesvos bên Hy Lạp, Armeni, Ba Lan, Georgia, Azerbaigian và Thụy Điển.

Trong số những người gặp ĐTC tại Vatican, đông nhất là 1 triệu 650 ngàn người dự các buổi đọc kinh Truyền Tin và Kinh Lạy Nữ Vương Thiên Đàng tại Quảng trường Thánh Phêrô, 924 ngàn người dự các buổi cử hành phụng vụ, 762 ngàn người dự các buổi tiếp kiến chung thứ tư hằng tuần, và 446 ngàn người dự các buổi tiếp kiến đặc biệt trong năm thánh, thường là vào sáng thứ bẩy, mỗi tháng 1 lần. Ngoài ra có gần 170 ngàn người dự các buổi tiếp kiến đặc biệt của ĐTC (SD 29-12-2016)

 G. Trần Đức Anh OP

Bộ Phục vụ Phát triển nhân bản toàn diện bắt đầu hoạt động

Bộ Phục vụ Phát triển nhân bản toàn diện bắt đầu hoạt động

bo-phuc-vu-phat-trien-nhan-ban-toan-dien-bat-dau-hoat-dong

VATICAN. Từ chúa nhật 1-1-2017, Bộ Phục vụ phát triển nhân bản toàn diện bắt đầu hoạt động, chiếu theo quyết định của ĐTC, trong tự sắc công bố ngày 31-8-2016.

ĐTC đã bổ nhiệm ĐHY Peter Turkson, người Ghana, làm Bộ trưởng của cơ quan mới này. Ngài năm nay 68 tuổi, được Tòa Thánh bổ nhiệm làm TGM thành phố Cape Coast hồi năm 1992 và được thăng Hồng y hồi năm 2003. Năm 2009, ngài được ĐTC Biển Đức 16 bổ nhiệm làm Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh Công lý và Hòa Bình.

Bộ Phục Vụ phát triển nhân bản có thẩm quyền đặc biệt trong các vấn đề liên quan đến di dân, những người nghèo túng, các bệnh nhân và những người bị loại trừ, bị gạt là ngoài lề và các nạn nhân chiến tranh và thiên tai, các tù nhân, người thất nghiệp cũng như các nạn nhân của bất kỳ hình thực nô lệ và tra tấn.

Qui chế của Bộ mới được phê chuẩn thử nghiệm, theo đó, từ ngày 1-1-2017, thẩm quyền của 4 Hội đồng Tòa Thánh hiện nay sẽ tập trung vào Bộ Phục Vụ phát triển nhân bản toàn diện, đó là Hội đồng Tòa Thánh Công lý và Hòa bình, Cor Unum Đồng Tâm, mục vụ di dân và người lưu động, sau cùng là Hội đồng Tòa Thánh mục vụ các nhân viên y tế.

Kể từ ngày đó, 4 Hội đồng vừa nói sẽ ngưng hoạt động và bị bãi bỏ, cùng với các điều khoản từ số 142 đến số 153 của Tông Hiến Mục Tử Nhân Lành (Pastor Bonus).

Theo qui chế mới, trong Bộ tân lập có một Phân Bộ đặc biệt biểu lộ mối quan tâm của ĐTC đối với những người tị nạn và di dân. Thực vậy, ngày nay không thể có một dịch vụ phát triển nhân bản toàn diện mà không đặc biệt quan tâm đến hiện tượng di dân. Vì thế, phân bộ này được tạm thời ở dưới sự hướng dẫn trực tiếp của ĐTC (Qui chế, art, 1,4).

Trong thời gian qua, ĐTC đã bổ nhiệm hai vị phó tổng thư ký giúp ngài điều hành Phân Bộ di dân trong Bộ Phục vụ phát triển nhân bản toàn diện, để giúp ngài trong các vấn đề di dân và tị nạn.

Đó là Cha Michael Czerny, dòng Tên 70 tuổi, người Canada gốc Tiệp, chuyên gia về các vấn đề nhân quyền, và Cha Fabio Baggio, 51 tuổi, người Argentina, thuộc dòng Scarabrini, đã từng giúp ĐTC về mục vụ di dân, khi ngài còn làm TGM giáo phận Buenos Aires. (SD 29-12-2016)

 G. Trần Đức Anh OP 

Noi gương tổ phụ Abraham biết nhìn cuộc sống với đôi mắt đức tin

Noi gương tổ phụ Abraham biết nhìn cuộc sống với đôi mắt đức tin

dtc-phanxico-cho-con-ket-cua-ganh-xiec-liana-orfei-dau-tren-tay-trong-buoi-tiep-kien-sang-thu-tu-28-12-2016

Để tin thác phải biết nhìn với con mắt đức tin như tổ phụ Abraham đã tin vào điều không thể được, và hy vọng vượt quá các lý luận của con người, của sự khôn ngoan, cẩn trọng của thế gian,và điều thường được coi là lẽ phải. 

ĐTC Phanxicô nói như trên với 8,000 tín hữu tham dự buổi gặp gỡ chung sáng thứ tư trong đại thính đường Phaolô VI. Hôm thứ tư 28-12 cũng là buổi tiếp kiến chung cuối cùng trong năm 2016.

Trong bài huấn dụ ĐTC đã khai triển đề tài “Tổ phụ Abraham, cha của lòng tin và niềm hy vọng”. Ngài nói: Trong thư gửi giáo đoàn Roma thánh Phaolô nhắc cho chúng ta biết gương mặt của tổ phụ Abraham, để chỉ cho chúng ta con đường của lòng tin và niềm hy vọng. Thánh nhân viết về tổ phụ như sau: “Mặc dầu không còn gì để trông cậy, ông vẫn trông cậy và vững tin, do đó ông đã trở thành tổ phụ nhiều dân tộc” (Rm 4,18). “Vững vàng trong niềm hy vọng chống lại mọi hy vọng”: điều này khó phải không? Điều này mạnh mẽ: không có niềm hy vọng, nhưng tôi vẫn hy vọng. Tổ phụ Abraham của chúng ta là như thế.

Thánh Phaolô đang quy chiếu niềm tin qua đó tổ phụ Abraham tin vào lời Thiên Chúa hứa ban cho ông một người con trai. Đó đã thật là việc tín thác hy vọng “chống lại mọi hy vọng”, vì điều Chúa đang báo cho ông biết không thể thật được, bởi ông đã già và vợ ông thì không sinh sản – ông như gần trăm tuổi và vợ ông không sinh con. Bà không thành công… Nhưng Thiên Chúá đã nói điều đó và ông tin. Đã không có hy vọng trên bình diện nhân loại, vì ông đã già và vợ thì hiếm muộn: nhưng ông tin.

Khi tin tưỏng nơi lời hứa, tổ phụ Abraham lên đường, chấp nhận rời bỏ quê hương của mình và trở thành người ngoại kiều, hy vọng nơi người con không thể có mà Thiên Chúa đã hứa ban cho ông, mặc dù lòng dạ ba Sara đã như là chết.

ĐTC giải thích lòng tin của tổ phụ Abraham như sau:

** Abraham tin, lòng tin của ông mở ra cho một niềm hy vọng xem ra vô lý; nó là khả năng vượt quá các lý luận loài người, vuợt quá sư khôn ngoan và cẩn trọng của thế gian, vượt quá điều bình thường được coi là lẽ phải, để tin vào điều không thể được. Niềm hy vọng mở ra cho các chân trời mới, khiến cho có khả năng mơ mộng điều không thể tưởng tượng được. Niềm hy vọng khiến cho có khả năng bước vào trong cái tối tăm của một tương lai không chắc chắn để bước đi trong ánh sáng. Đức cậy thật là đẹp; nó cho chúng ta biết bao sức mạnh để bước đi trong đời.

Tiếp tục bài huấn dụ ĐTC nói: Nhưng đó là một con đường khó khăn. Và đến lúc, cả đối với Abraham nữa, đến lúc của cuộc khủng hoảng của chán nản. Ông đã bỏ nhà cửa, đất đai, bạn bè.. tất cả. Ông đã ra đi tới một xứ sở Thiên Chúa đã chỉ cho ông; thời gian qua đi. Vào thời đó làm một cuộc du hành không giống như ngày nay với máy bay – chỉ trong vòng 12, 15 giờ – nhưng hồi đó cần hàng tháng hàng năm – nhưng người con trai không tới, lòng dạ bà Sara vẫn đóng kín không sinh con.

Và tổ phụ Abraham, tôi không nói là mất kiên nhẫn, nhưng thở than với Chúa. Và chúng ta học được điều này nơi tổ phụ Abraham: thở than với Chúa là một kiểu cầu nguyện. Đôi khi giải tội tôi nghe nói: “Con đã than van với Chúa”, và tôi trả lời “Không, con cứ than van đi, Ngài là cha”. Và đây là một kiểu cầu nguyện: hãy thở than với Chúa. Điều này tốt. Abraham than thở với Chúa và nói: “Lậy Chúa,  con ra đi mà không có con cái, và người thừa tự gia đình con là Ê-li-e-de, một người Đa-mát." (Ông Eliede là người quản lý mọi sự). Ông Áp-ram nói thêm: "Chúa coi, Chúa không ban cho con một dòng dõi, và một gia nhân của con sẽ thừa kế con." Và đây có lời Chúa phán với ông rằng: "Kẻ đó sẽ không thừa kế ngươi, nhưng một kẻ do chính ngươi sinh ra mới thừa kế ngươi." Rồi Người đưa ông ra ngoài, hướng dẫn ông và nói: "Hãy ngước mắt lên trời, và thử đếm các vì sao, xem có đếm nổi không." Người lại phán: "Dòng dõi ngươi sẽ như thế đó! " Abraham một lần nữa tin, và vì thế, Chúa kể ông là người công chính.” (St 15,2-6).

Cảnh này xảy ra ban đêm, bên ngoài trời tối, nhưng trong con tim của Abraham cũng có tối tăm, nản lòng và khó khăn trong việc tiếp tục hy vọng vào một cái gì không thể được. Tổ phụ đã quá cao niên, xem ra không còn thời giờ cho một người con nữa và một người đầy tớ sẽ thay thế thừa hưởng tất cả.

** Abraham đang nói chuyện với Chúa,  cả khi Ngài hiện diện ở đó và nói chuyện với ông, nhưng xem ra Ngài xa xôi, như thể là không trung thành với lời Ngài nữa. Abraham cảm thấy cô đơn, già nua và mệt mỏi, cái chết gần kề. Làm sao để tiếp tục tín thác đây?

Tuy nhiên, sự thở than của ông đã  là một hình thức của lòng tin, là một lời cầu nguyện rồi. Mặc dù tất cả,  Abraham tiếp tục tin nơi Thiên Chúa và hy vọng rằng còn có cái gì đó có thể xảy ra. Nếu không, thì tại sao lại gọi hỏi Chúa, thở than với Ngài, nhắc cho Ngài nhớ tới các lời hứa?

Và ĐTC giải thích lòng tin như sau:

Lòng tin không chỉ là sự thinh lặng chấp nhận tất cả không đối đáp, niềm hy vọng không phải là sự chắc chắn đặt bạn vào trong an ninh không nghi ngờ và lưỡng lự. Có biết bao lần, hy vọng là tối tăm; nhưng chính ở đó hy vọng đưa bạn tiến tới. Tin cũng có nghĩa là chiến đấu với Thiên Chúa, cho Ngài thấy nỗi cay đắng của chúng ta, không giả bộ đạo đức. “Con đã tức giận với Thiên Chúa và con đã nói điều này, điều này, điều này…” “Nhưng mà Ngài là cha, Ngài đã hiểu con: hãy đi bằng an! Có sự can đảm này! Đó là niềm hy vọng. Và hy vọng cũng là không sợ hãi trông thấy thực tại như nó là, và chấp nhận các mâu thuẫn.

Như vậy Abraham hướng tới Thiên Chúa để Ngài giúp ông tiếp tục hy vọng. Thật là lạ lùng! Ông không xin một đứa con trai. Ông xin: “Xin giứp con tiếp tục hy vọng”, lời xin có niềm hy vọng. Và Chúa trả lời bằng cách nhấn mạnh lời hứa xem ra không thật của Ngài: không phải một đầy tớ thừa tự ông, nhưng chính một người con trai, do Abraham sinh ra. Không có gì thay đổi từ phía Thiên  Chúa. Ngài tiếp tục nêu bật điều đã nói và không cống hiến các điểm tựa cho Abraham, để ông cảm thấy được bảo đảm. Sự chắc chắn duy nhất của ông là tín thác nơi lời nói của Chúa và tiếp tục hy vọng.

Và dấu chỉ mà Thiên Chúa ban cho Abraham là một lời yêu cầu tiếp tục tin và hy vọng: “Hãy nhìn trời và đếm các vì sao… Dòng dõi ngươi sẽ như thế đó” (St 15,5). Lại một lời húa nữa, và một cái gì đó phải chờ đợi cho tương lai. Thiên Chúa đem Abraham ra ngoài lều, thật ra là ra khỏi các quan niệm hạn hẹp của ông, và chỉ cho ông thấy các vì sao. Để tin, cần phải biết nhìn với các con mắt của đức tin; không phải chỉ là các vì sao mà tất cả mọi ngưòi đều có thể nhìn thấy, nhưng đối với Abraham chúng phải trở thành dấu chỉ sự trung thành của Thiên Chúa. Đó là đức tin, đó là con đường của niềm hy vọng mà mỗi người phải đi. Nếu đối với cả chúng ta nữa chỉ còn lại khả thể duy nhất là nhìn các vì sao, thì khi đó là lúc tín thác nơi Thiên Chúa. Không có gì đẹp hơn. Niềm hy vọng không gây thất vọng.

** ĐTC đã chào các đoàn hành hương khác nhau và chúc mọi người một năm mới thánh thiện và hạnh phúc.

Chào các  nhóm nói tiếng Pháp ngài mời gọi họ tạ ơn Thiên Chúa vì tất cả mọi ơn lành Chúa đã ban cho trong năm sắp kêt thúc này. Xin Chúa gìn giữ chúng ta trong niềm hy vọng nơi các lời Chúa hứa, vững vàng trong đức tin và luôn biết chú ý tới nhu cầu của các anh chị em khác.

Chào các nhóm nói tiếng Anh ngài cầu chúc họ và gia đình giữ gìn niềm vui giáng sinh, và gặp gỡ Chúa nhập thể sống gần gũi con người trong lời cầu nguyện.

ĐTC cũng chào các nhóm hành hương nói tiếng Đức, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Ba Lan và cầu chúc mọi người không sợ hãi tiến bước trong tương lai với ánh sáng và phúc lành của Chúa trong năm mới.

Ngài cám ơn các tín hữu Ba Lan đã chúc mừng lễ và cầu nguyện cho ngài.

Chào các nhóm nói tiếng Ý ĐTC cám ơn các nam nữ nghệ sĩ đoàn xiệc Liana Orfei đã biểu diễn giúp vui mọi người. Vẻ đẹp bao giờ cũng đưa tới gần Thiên Chúa. Ngài cũng chào tín hữu vùng Supino và San’ Andrea delle Fratte ở Roma đem theo hình Mề đai phép lạ, sẽ được trưng bầy trong đền thờ thánh Phêrô cho mọi người kính viếng.

Chào các bạn trẻ, người đau yếu và các đôi tân hôn ngài nói lễ các thánh anh hài giúp mọi người sống vững mạnh niềm tin và ngắm nhìn Chúa Hài Nhi tự hiến mình cho nhân loại. Ước chi các bạn trẻ biết lớn lên như Chúa, tuân phục cha mẹ và sẵn sàng hiểu biết và sống theo ý Chúa;

ước chi các bệnh nhân hiểu ý nghĩa và giá trị của khổ đau; các đôi tân hôn duy trì tình yêu và sự tận hiến trong việc xây dựng gia đình và đừng bao giờ kết thúc ngày sống mà không làm hoà với nhau.

Buổi tiếp kiến cuối cùng trong năm 2016 kết  thúc với kinh Lạy Cha và phép lành toà thánh ĐTC ban cho mọi người.

Linh  Tiến Khải

Cuộc gặp gỡ giới trẻ Kitô Âu Châu ở Riga, Lettoni

Cuộc gặp gỡ giới trẻ Kitô Âu Châu ở Riga, Lettoni

cuoc-gap-go-gioi-tre-kito-au-chau-o-riga-lettoni

RIGA. Chiều ngày 28-12-2016, cuộc gặp gỡ giới trẻ Kitô Âu Châu lần thứ 39 do Tu viện đại kết Taizé tổ chức, sẽ khai diễn tại thành phố Riga, thủ đô Cộng hòa Lettoni và kéo dài đến ngày 1-1 sắp tới.   Tham dự sinh hoạt này có hơn 10 ngàn bạn trẻ Công Giáo, Tin Lành Anh giáo và Chính Thống tuổi từ 17 đến 35, đến từ các nước Âu Châu, đặc biệt từ các nước láng giềng như Ucraina, Bạch Nga và Liên bang Nga, Ba Lan.. Họ được tiếp đón trong các gia đình và các cộng đoàn giáo xứ ở địa phương. Đây là lần đầu tiên một nước cựu cộng sản Liên Xô đón tiếp cuộc gặp gỡ thuộc loại này.

Các vị lãnh đạo Kitô, trong đó có ĐTC Phanxicô, đã gửi sứ điệp chào thăm và khích lệ các bạn trẻ. ĐTC mời gọi họ, ”bằng lời nói và hành động”, hãy chứng tỏ sự ác không phải là tiếng nói cuối cùng trong lịch sử của chúng ta”. Ngài viết ”Ngày nay nhiều người bị chao đảo, thất vọng vì bạo lực, bất công, đau khổ và chia rẽ. Họ có cảm tưởng sự ác mạnh hơn mọi sự. Vì thế, đây là thời điểm thương xót cho tất cả và từng người, để không một ai c thể nghĩ mình xa lạ với sự gần gũi của Thiên Chúa và sức mạnh sự dịu dàng của Chúa”. ĐTC cầu chúc cho những ngày họp mặt này giúp người trẻ không sợ những giới hạn của mình, nhưng tăng trưởng trong niềm tín thác nơi Chúa Giêsu, Đấng tín nhiệm các bạn trẻ”.

Đức Cha Zbignevs Stankevics, TGM giáo phận Công Giáo Riga, ca ngợi sáng kiến của các tu sĩ Taizé bắc những nhịp cầu giữa các tôn giáo, các dân tộc và các nước. Ngài nói: “Trong một thời đại với những cuộc xung đột gia tăng và các bức tường được dựng lên, sự thúc đẩy tinh thần như vậy rất là quan trọng”.

Cả Đức TGM Janis Vanags của Tin Lành Luther ở thủ đô Riga, cũng chào mừng cuộc gặp gỡ giới trẻ Kitô tại đây là một ”biến cố tuyệt vời”. Ngài kêu gọi dân chúng địa phương tỏ ra hiếu khách đối với các bạn trẻ.

Cũng như những lần trước đây, tại Riga, ban sáng các bạn trẻ sinh hoạt tại các giáo xứ, ban chiều họ tập họp để cầu nguyện, ca hát thánh ca và chia sẻ suy tư. Ngoài ra họ cũng có những sinh hoạt văn hóa.

Để chuẩn bị cho những suy tư và trao đổi của giới trẻ tại cuộc gặp gỡ, Thầy Alois Loser, người Đức, tu viện trưởng Taizé, đã đưa ra 4 đề nghị theo chủ đề ”cùng nhau mở những con đường hy vọng”, lấy hứng từ cuộc gặp gỡ mới đây của giới trẻ Taizé ở Cotonou, thủ đô Benin bên Phi châu. (SD 26-12-2016)

G. Trần Đức Anh OP 

 

ĐHY Stanislaw Rylko, tân Giám Quản Đền Thờ Đức Bà Cả

ĐHY Stanislaw Rylko, tân Giám Quản Đền Thờ Đức Bà Cả

dhy-stanislaw-rylko-tan-giam-quan-den-tho-duc-ba-ca

VATICAN. Hôm 28-12-2016, ĐTC đã bổ nhiệm ĐHY Stanislaw Rylko người Ba Lan, làm tân Giám quản đền thờ Đức Bà Cả ở Roma.

Trước đó, ngài đã nhận đơn từ chức vì lý do tuổi tác của ĐHY Santos Abril y Castelló, 81 tuổi (1935), người Tây Ban Nha.

ĐHY Stanislaw Rylko năm nay 71 tuổi (1945), nguyên là Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh về giáo dân, trong 13 năm qua (2003).

ĐTC đã gộp Hội đồng Tòa Thánh về giáo dân, Hội đồng gia đình và sự sống thành một cơ quan mới là Bộ giáo dân, gia đình và sự sống. Ngài trao cho Đức tân Hồng Y Kevin Farrell, người Mỹ gốc Ai Len, làm tân Bộ trưởng của Bộ này. (SD 28-12-2016)

G. Trần Đức Anh OP

Tái lập lễ Giáng Sinh như lễ nghỉ tại Népal

Tái lập lễ Giáng Sinh như lễ nghỉ tại Népal

tai-lap-le-giang-sinh-nhu-le-nghi-tai-nepal

KATHMANDU. Chính phủ Népal đã quyết định tái lập lễ Giáng Sinh như lễ nghỉ chính thức, sau khi các tín hữu Kitô phản đối việc bãi bỏ lễ nghỉ này hồi tháng 4 năm 2016.

Trong dịp lễ Giáng Sinh vừa qua, các tín hữu Kitô Népal đã mừng lễ trọng thể, kể cả với những trang trí bên ngoài, và hàng ngàn những người không Kitô cũng tham dự các buổi lễ này. Cả bà tổng thống Bidya Devi Bhandari, cũng chủ tọa các buổi lễ mừng Giáng sinh như một khách mời. Bà chúc mừng các vị lãnh đạo Kitô và cầu mong rằng ”dịp lễ này có thể củng cố những tâm tình yêu mến và đoàn kết giữa các công dân Népal, và khích lệ mọi người tôn trọng hiến pháp, nhân danh một nước Népal an bình và thịnh vựơng”.

Thủ tướng Pushpa Kamal Dahal cũng cầu chúc tất cả các tín hữu Kitô Népal trong và ngoài nước ”được an bình, hạnh phúc, thịnh vượng, sức khỏe tốt, đoàn kết và huynh đệ”.

Hồi tháng 4 năm 2016, chính phủ Népal đã loại bỏ lễ Giáng Sinh ra khỏi danh sách các ngày lễ nghỉ toàn quốc, khiến cho các tín hữu Kitô phản đối. Bộ trưởng nội vụ Shakti Basnert bấy giờ giải thích rằng rằng ”Nhà Nước buộc lòng phải loại lễ Giáng Sinh ra khỏi danh sách các lễ công cộng để kiểm soát sự gia tăng các ngày lễ nghỉ toàn quốc. Dầu sao chúng tôi sẽ bảo đảm cho các công chức được nghỉ”.

Mục Sư Gahatraj, Tổng thư ký liên hiệp toàn quốc các Kitô hữu Népal, tố giác rằng: ”Các Kitô hữu chúng tôi không phải chỉ làm việc cho chính phủ. Nếu Lễ Giáng Sinh không phải là lễ nghỉ toàn quốc, thì các công nhân viên trong lãnh vực tư cũng không thể mừng lễ. Chính phủ đã dành cho Ấn giáo và các cộng đồng tôn giáo khác 83 ngày lễ nghỉ, nhưng không dành lễ nghỉ nào cho các tín hữu Kitô”

Trong 240 năm, Népal là một vương quốc Ấn giáo. Năm 2007, Népal có hiến pháp mới, xác định Nhà Nước trung lập về tôn giáo. Giáo hội Công Giáo tại nước này chỉ có gần 7.500 tín hữu trong tổng số hơn 30 triệu dân, họp thành một hạt Đại diện Tông Tòa. Đa số các tín hữu Kitô tại nước này theo các hệ phái Tin Lành. (SD, Avvenire 28-12-2016)

G. Trần Đức Anh OP

Đức Thánh Cha nhớ các vị tử đạo và chia buồn với dân tộc Nga

Đức Thánh Cha nhớ các vị tử đạo và chia buồn với dân tộc Nga

duc-thanh-cha-nhac-nho-cac-vi-tu-dao-va-chia-buon-voi-dan-toc-nga

VATICAN. Trong buổi đọc kinh Truyền Tin trưa ngày 26-12-2016, ĐTC mời gọi các tín hữu noi gương thánh Stephano tử đạo, trung thành tới Tin Mừng của Chúa Kitô và chống lại não trạng trần tục, Chia buồn với dân nước Nga.

Trong bài huấn dụ ngắn trước khi đọc kinh, với sự tham dự của hàng chục ngàn người, ĐTC nhắc đến lời Chúa Giêsu báo trước về sự bách hại mà các môn đệ sẽ gặp: ”Các con sẽ bị mọi người ghét bỏ vì danh Thầy” (v.22). Thế gian ghét các Kitô hữu vì cùng lý do họ đã ghét bỏ Chúa Giêsu, vì Ngài mang ánh sáng của Thiên Chúa và thế gian thích bóng tối để che đậy những công việc gian ác của họ. Vì thế có sự đối nghịch giữa tâm thức Tin Mừng và não trạng thế gian. Theo Chúa Giêsu có nghĩa là theo ánh sáng của Chúa, được chiếu sáng trong đêm Bethlehem, và từ bỏ những bóng tối của trần thế”.

ĐTC nhận xét rằng ”Vị tử đạo đầu tiên, Stephano, đầy Thánh Linh, đã bị ném đá vì tuyên xưng niềm tin nơi Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa. Con Duy Nhất của Thiên Chúa đến trần thế để mời gọi mỗi tín hữu chọn lựa con đường ánh sáng và sự sống. Đó là ý nghĩa sâu xa của việc Chúa đến giữa chúng ta. Khi yêu mến Chúa và vâng theo tiếng Chúa, thày Phó tế Stephano đã chọn Chúa Kitô là Sự Sống và Ánh sáng cho mỗi người…

** ĐTC nói thêm rằng: ”Ngày hôm nay cũng vậy, để làm chứng cho ánh sáng và chân lý, Giáo Hội đang chịu bách hại cam go tại nhiều nơi trên thế giới, đến độ tử đạo. Bao nhiêu anh chị em chúng ta đang chịu đàn áp, bạo lực, bị ghét bỏ vì danh Chúa Giêsu! Tôi nói với anh chị em một điều: các vị tử đạo ngày nay đông đảo hơn so với các vị tử đạo trong những thế kỷ đầu tiên. Khi chúng ta đọc lịch sử các thế kỷ đầu, ở Roma này, chúng ta thấy bao nhiêu sự tàn các chống các tín hữu Kitô; ngày nay cũng có sự tàn ác như thế chống các Kitô hữu. Hôm nay, chúng ta hãy nghĩ đến và gần gũi họ với lòng quí mến, cầu nguyện và cả khóc thương nữa. Hôm qua (25-12), các tín hữu Kitô bị bách hại ở Irak đã mừng lễ Giáng Sinh trong nhà thờ chính tòa của họ bị phá hủy: đó là một tấm gương trung thành với Tin Mừng. Mặc dù bị thử thách và nguy hiểm, họ đang can đảm làm chứng mình thuộc về Chúa Kitô và sống Tin Mừng, dấn thân giúp đỡ những người rốt cùng, và bị bỏ rơi nhất, làm điều thiện cho tất cả mọi người, không phân biệt ai, làm chứng về đức bác ái trong chân lý”.

Sau cùng, ĐTC mời gọi các tín hữu hãy vui mừng và can đản canh tân ý chí trung thành theo Chúa Kitô như vị hướng đạo duy nhất, kiên trì sống theo tinh thần Tin Mừng, và từ khước não trạng của những kẻ thống trị trần thế này”.

Chia buồn với dân nước Nga

Sau khi ban phép lành cho các tín hữu, ĐTC chia buồn với nhân dân Nga về vụ máy bay TU-154 chở 93 người đi Siria bị rớt. Ngài nói:

”Tôi chân thành chia buồn về tin máy bay Nga bị rớt ở Hắc Hải. Xin CHúa an ủi nhân dân Nga yêu quí và gia đình các hành khách trên máy bay: các ký giả, phi hành đoàn, ca đoàn nổi tiếng và ban nhạc của Quân Đội. Xin Mẹ Maria hỗ trợ công cuộc tìm kiếm hiện nay. Năm 2004, ca đoàn của Quân đội Nga đã trình diễn tại Vatican nhân dịp 26 năm Giáo Hoàng của thánh Gioan Phaolo 2: chúng ta hãy cầu nguyện cho họ”.

ĐTC cũng chào thăm các tín hữu hành hương và cầu chúc họ những ngày vui mừng và huynh đệ. Ngài không quên cám ơn tất cả những người đã gửi thiệp chúc mừng ngài trong dịp lễ này, nhất là món quà là những lời cầu nguyện cho ngài. (SD 26-12-2016)

 G. Trần Đức Anh OP 

Buổi đọc sứ điệp Giáng Sinh và ban phép lành toàn xá cho thành Roma và toàn thế giới

Buổi đọc sứ điệp Giáng Sinh và ban phép lành toàn xá cho thành Roma và toàn thế giới

dtc-phanxico-chu-su-buoi-doc-su-diep-giang-sinh-va-ban-phep-lanh-toan-xa-cho-thanh-roma-va-toan-the-gioi-trua-ngay-25-12-2016

Lúc 12 giờ trưa ngày 25 tháng 12, lễ Giáng Sinh, ĐTC Phanxicô đã chủ sự buổi đọc sứ điệp Giáng Sinh và ban phép lành toàn xá Urbi et Orbi cho dân thành Roma và toàn thế giới từ bao lơn chính giữa Đền Thờ Thánh Phêrô.

Trên thềm đền thờ thánh Phêrô có Đội cận vệ Thụy Sĩ và đại diện các binh chủng Italia đứng dàn hàng chào danh dự. Khi ĐTC xuất hiện trên bao lơn chính giữa đền thờ ban quân nhạc đã cử hành quốc thiều Vaticăng và quốc thiều Italia.

Trong sứ điệp ĐTC đã duyệt qua một số vùng vẫn còn có chiến tranh xung khắc, căng thẳng, khủng bố phá hoại, và chết chóc thương đau như: Siria, Thánh Địa, Iraq, Libia, Yemen, Nigeria, Cộng hoà dân chủ Congo, Nam Sudan, Đông Ucraina, Colombia, Venezuela, Myanmar và Đại Hàn. Ngài nêu bật quyền năng tình yêu của Chúa Giêsu Con Thiên Chúa nhập thể làm ngưòi để thiết lập vương quốc công lý và hoà bình.

Mở đầu sứ điệp ĐTC nói:

“Anh chị em thân mến, xin chúc anh chị em lễ Giáng Sinh an  lành! Hôm nay Giáo Hội sống trở lại sự kinh ngạc của Đức Trinh Nữ Maria, của thánh Giuse và các mục đồng Bếtlehem, khi chiêm ngắm Hài Nhi đã sinh ra nằm trong một máng cỏ: Chúa Giêsu Cứu Thế.

Trong ngày tràn đầy ánh sáng này, vang lên lời loan báo ngôn sứ: “Một trẻ thơ đã chào đời cho chúng ta, một người con đã được ban tặng cho chúng ta. Người gánh vác quyền bính trên vai, danh hiệu Người là Cố Vấn

kỳ diệu, Thần Linh dũng mãnh, người Cha muôn thuở, Thủ Lãnh hoà bình” (Is 9,5).

ĐTC nói tiếp:

Quyền bính của Hài Nhi này, Con của Thiên Chúa và của Đức Maria, không phải là quyền bính của thế giới này, dựa trên sức mạnh và giầu sang; đó là quyền bính của tình yêu. Đó là quyền bính đã tạo dựng trời đất, trao ban sự sống cho mọi thụ tạo: cho quặng mỏ, thảo mộc, thú vật; đó là sức mạnh lôi cuốn người nam và nguời nữ và khiến cho họ trở thành một thịt xác duy nhất, một sự hiện hữu duy nhất; đó là quyền năng tái sinh sự sống, tha thứ các lỗi lầm, giải hoà các thù địch, biến đổi sự dữ thành sự thiện. Đó là quyền năng của Thiên Chúa. Quyền bính này của tình yêu đã đưa Chúa Giêsu tới chỗ lột bỏ vinh quang của Ngài và làm người: nó sẽ dẫn đưa Ngài tới chỗ trao ban sự sống trên thập giá và sống lại từ cõi chết. Đó là quyền bính của việc phục vụ, tái lập trong thế giới vuơng quốc của Thiên Chúa, vương quốc của công lý và hoà bình.

Vì thế việc Chúa Giêsu giáng sinh được tháp tùng bởi tiếng hát của các thiên thần loan báo: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời cao và bình an dưới thế cho loài người Chúa thương” (Lc 2,14).

Ngày hôm nay lời loan báo này đi qua toàn trái đất, và muốn đến với tất cả mọi dân tộc, đặc biệt các dân tộc bị thương tích vì chiến tranh và các xung khắc ác liệt, và cảm nhận mạnh mẽ hơn ước mong hoà bình.

Tiếp đến ĐTC cầu chúc hoà bình cho nhiều vùng khác nhau trên thế giới.

Hoà bình cho các người nam nữ tại Siria bị hành hạ, nơi quá nhiều máu đã đổ ra. Nhất là trong thành phố Aleppo, là khu vực xảy ra các trận đánh tàn khốc trong các tuần qua, thật là cấp thiết bảo đảm sự trợ giúp và ủi an các thường dân kiệt quệ, bằng cách tôn trọng quyền nhân đạo. Đã đến lúc vũ khi im tiếng  vĩnh viễn, và cộng đồng quốc tế tích cực hoạt động để đạt được một giải pháp thương thuyết hầu  tái lập sự chung sống dân sự trong nước này.

Hoà bình cho các người nam nữ của Thánh Địa yêu quý, được Thiên Chúa tuyển chọn và ưu ái. Ước chi người Israel và người Palestine có can đảm và quyết tâm viết lên một trang sử mới, trong đó thù hận và báo oán nhường chỗ cho ý chí cùng nhau xây dựng một tương lai của sự hiểu biết nhau và hoà hợp. Ước chi các nuớc Iraq, Libia và Yemen, nơi các dân tộc đau khổ vì chiến tranh và các hành động khủng bố, tìm ra sự hiệp nhất và hoà hợp.

Hoà bình cho các người nam nữ trong các vùng khác nhau  của Phi châu, đặc biệt là Nigeria, nơi nạn khủng bố cuồng tín cũng khai thác cả các trẻ em để gieo kinh hoàng và chết chóc. Hoà bình cho Nam Sudan và trong Cộng hoà dân chủ Congo, để cho các chia rẽ được chữa lành, và tất cả mọi người thiện chí hoạt động bắt đầu con đường phát  triển và chia sẻ, bằng cách ưa chuộng nền văn hóa đối thoại hơn là cái luận lý của xung đột.

Hoà bình cho các người nam nữ đang gánh chịu các hậu quả của cuộc xung khắc tại miền đông Ucraina, nơi phải cấp thiết có một ý chí làm vơi nhẹ khổ đau của dân chúng và thực thi các dấn thân đã cam kết.

Chúng ta hãy khẩn nài hoà hợp cho nhân dân Colombia thân yêu, đang muốn can đảm bước đi trên con đường mới của đối thoại và hoà giải. Ước chi lòng can đảm ấy cũng linh hoạt nước Venezuela yêu dấu trong việc thực thi các bước cần thiết để chấm dứt các căng thẳng hiện nay và cùng nhau xây dựng một tương lai hy vọng cho toàn dân.

ĐTC cũng đã kêu gọi hòa bình cho vài nước Á châu như sau:

Hoà bình cho những ai trong nhiều vùng khác nhau đang phải đương đầu với các khổ đau vì các nguy cơ liên tục và các bất công còn tồn tại. Ước chi dân nước Myanmar có thể củng cố các nỗ lực để tạo thuận tiện cho sự chung sống hoà bình, và với sự trợ giúp của cộng đồng quốc tế, bảo đảm sự che chở cần thiết và trợ giúp nhân đạo cho những ai cần được cấp thiết trợ giúp. Ước chi bán đảo Triều Tiên có thể trông thấy các căng thẳng đàng trải qua trong một tinh thần cộng tác được canh tân.

Hoà bình cho ai đã mất một người thân vì các hành động khủng bố gieo sợ hãi và chết chóc trong trung tâm của biết bao nhiêu quốc gia và thành phố. Hoà bình – không phải bằng lời nói, nhưng bằng việc làm cụ thể – cho các anh chị em bị bỏ rơi và loại trừ, cho các anh chị em đau khổ vì đói khát, và cho các nạn nhân của bạo lực. Hoà bình cho các người di cư tỵ nạn, cho những ai ngày hôm nay là đối tượng của nạn buôn người. Hoà bình cho các dân tộc đang đau khổ vì các tham vọng kinh tế của ít người, và sự tham lam thèm khát của thần tiền đưa tới nô lệ. Hoà bình cho những ai đã bị ghi dấu bởi sự suy đồi xã hội và kinh tế, và cho những ai khổ đau vì các hậu quả của đông đất hay các tai ương thiên nhiên khác.

Hòa bình cho các trẻ em, trong ngày đặc biệt này, trong đó Thiên Chúa trở thành trẻ thơ, nhất là cho những ai bị lấy mất đi các niềm vui của tuổi thơ vì đói khát, chiến tranh và sự ích kỷ của người lớn.

Hòa bình cho tất cả những người thiện chí, làm việc mỗi ngày với sự kín đáo và kiên nhẫn, trong gia đình, ngoài xã hội, để xây dựng một thế giới nhân bản và công bằng hơn, được nâng đỡ bởi xác tín với hoà bình mọi sự đều có thể cho một tương lai thịnh vượng hơn cho tất cả mọi người.

Anh chị em thân mến “một hài nhi đã chào đời cho chúng ta, một người con đã được ban cho chúng ta”: đó là Hoàng Tử hoà bình”. Chúng ta hãy tiếp đón Ngài.

Tiếp đến ĐTC đã đọc kinh Truyền Tin và ban phép lành toàn xá cho mọi người.

Đức Hồng Y Sodano trưởng đẳng Linh Mục,  tuyên bố chủ ý Đức Thánh Cha ban Phép lành toàn xá cho tất cả các tín hữu hiện diện tại quảng trường Thánh Phêrô cũng như các anh chị em tín hữu trên toàn thế giới theo dõi qua các đài phát thanh, truyền hình; miễn là họ giữ các quy tắc và hội đủ các điều kiện luật định, nghĩa là xưng tội, rước lễ, cầu nguyện theo ý Đức Giáo Hoàng và từ bỏ mọi quyến luyến đối với tội lỗi.

Đức Thánh Cha đã đọc lời kinh xá giải và công thức ban phép lành toàn xá cho thành Roma và toàn thế giới.

– Xin các thánh tông đồ Phêrô và Phaolô là những vị, mà chúng tội dựa vào quyền bính và uy thế, cầu khẩn cho chúng ta trước Thiên Chúa. Amen.

– Nhờ lời cầu nguyện và công nghiệp  của Đức Trinh Nữ Maria, của Tổng lãnh thiên thần Micae, của thánh Gioan Baotixita, của các thánh tông đồ Phêrô Phaolô, cùng toàn thể các Thánh, xin Thiên Chúa toàn năng thương xót anh chị em, và xin Chúa Kitô tha tội cho anh chị em cùng dẫn đưa anh chị em về cõi trường sinh. Amen.

– Xin Thiên Chúa toàn năng lân tuất ban ân xá, tha thứ tất cả mọi tội lỗi của anh chị em, cho anh chị em được hưởng thời gian để làm việc đền tội thành tâm và có công hiệu, một tấm lòng thống hối và hoán cải đời sống, được ơn thánh và sự an ủi của Chúa Thánh Thần, cùng được sự kiên trì làm việc thiện cho đến cùng. Amen.

– Và tiếp theo là Phép lành của Đức Thánh Cha. Kính mời qúy vị thành tâm lãnh Phép lành toàn xá của Đức Thánh Cha.

Sau phép lành ĐTC đã chúc mừng lễ Giáng Sinh mọi người.  Ngài nói: Tôi xin gửi tới anh chị em lời chúc mừng lễ chân thành nhất của tôi, tới anh chị đến từ nhiều nuớc khác nhau hay nối liền qua radio và truyền hình và các phương tiện truyền thông khác.

Trong ngày vui này chúng ta tất cả được mời gọi chiêm ngắm Hài Nhi Giêsu là Đấng trao ban niềm hy vọng cho mọi người trên mặt đất. Với ơn thánh của Ngài chúng ta hãy ban tiếng nói và thể chất cho niềm hy vọng này, bằng cách sống liên đới và hoà bình. Xin chúc anh chị em lễ Giáng Sinh tốt lành.

Linh Tiến Khải