Gương mặt của hai vị tân Hiển Thánh Gioan XXIII và Gioan Phaolô II

Gương mặt của hai vị tân Hiển Thánh Gioan XXIII và Gioan Phaolô II

Phỏng vấn Đức Hồng Y Angelo Comastri và Đức Hồng Y Loris Francesco Capovilla

Chúa Nhật 27-4-2014 Đức Thánh Cha Phanxicô đã chủ sự thánh lễ phong Hiển Thánh cho Đức Gioan XXIII và Đức Gioan Phaolô II. Hiện diện trong thánh lễ cũng có Đức Biển Đức XVI, cũng như ngoại giao đoàn cạnh tòa thánh và nhiều giới chức đạo đời và mấy triệu tín hữu đến từ khắp nơi trên thế giới. Đây là biến cố chưa từng có vì là lần đầu tiên trong lịch sử dài hơn 2.000 năm của Giáo Hội hai Giáo Hoàng còn sống cùng hiện diện trong thánh lễ phong Hiển Thánh cho hai Giáo Hoàng khác. Thánh lễ đã được các đài truyền hình quốc tế chiếu trực tiếp để tín hữu toàn thế giới có thể theo dõi.

Sau đây chúng tôi xin gửi tới qúy vị và các bạn bài phỏng vấn Đức Hồng Y Angelo Comastri, giám quản Đền Thờ thánh Phêrô và thành phố Vaticăng là người đã sống gần Đức Gioan Phaolô II.

Hỏi: Thưa Đức Hồng Y Comastri, Đức Hồng Y có kỷ niệm nào về Đức Gioan Phaolô II? Làm sao ngài lại có thể trở lại quảng trường Thánh Phêrô sau vụ mưu sát hồi năm 1981?

Đáp: Lần đầu tiên tôi gặp Đức Gioan Phaolô II là khi tôi được chỉ định làm Giám Mục. Hồi đó vụ mưu sát đã xảy ra gần 10 năm trước rồi. Và tôi nhớ là khi đứng mặt giáp mặt với Đức Gioan Phaolô II tôi đã rất là cảm động. Bất thình lình tâm trí tôi như bị một màn sương che phủ và tôi đã không có câu hỏi nào trong trí. Đức Gioan Phaolô II nói: ”Đức Cha xúc động qúa! Xin hỏi tôi điều gì đi chứ”. Lúc đó tôi mới nói: ”Xem nào, vâng con xin hỏi Đức Thánh Cha: làm sao mà Đức Thánh Cha có thể trở lại quảng trường thánh Phêrô sau vụ mưu sát như vậy?” Tôi nhớ là Đức Gioan Phaolô II nhìn tôi mỉm cười và nói: ”Thật đã không dễ đâu”. Và tôi hỏi ngài: “Thế Đức Thánh Cha đã không sợ à?” Và ngài trả lời: ”Chắc chắn là tôi sợ chứ. Xin Đức cha nhớ là những người can đảm không phải là những người không sợ hãi, nhưng là người cho dù có sợ vẫn tiến tới để đưa sứ mệnh của họ tiến tới”. Và ngài nói thêm: “Sau vụ mưu sát người ta khuyên tôi nên mặc áo giáp chắn đạn dưới áo chùng… Nhưng tôi đã không muốn. Mạng sống của tôi ở trong tay Thiên Chúa”.

Hỏi: Tình yêu con thảo của Đức Gioan Phaolô II đối với Đức Maria có ảnh hưởng nào trên chứng tá sự thánh thiện của ngài, thưa Đức Hồng Y?

Đáp: Đức Gioan Phaolô II đã tâm sự rằng ngài đã khám phá ra sự sùng kính Đức Maria khi còn trẻ. Ban đầu xem ra lòng sùng kính Đức Mẹ – trong một cách nào đó – làm lu mờ quyền tối thượng của Chúa Kitô. Thế rồi khi đọc ”Khảo luận về lòng sùng kích đích thật đối với Mẹ Maria” của thánh Luigi Maria Grignion de Montfort, ngài hiểu ra rằng Đức Maria không làm cho chúng ta xa Chúa Giêsu, trái lại Mẹ dẫn đưa chúng ta tới với Chúa Giêsu. Và ngài cũng nói rằng chính Chúa Giêsu đã chỉ cho chúng ta con đường này, con đường của Mẹ Maria, khi từ trên thập giá Người đã nói với Gioan: ”Gioan, này là Mẹ con” và nói với Mẹ Maria: ”Này là con Mẹ”. Chúa Giêsu đã chỉ Mẹ Maria cho chúng ta như con đường để tới với Người bởi vì Mẹ Maria, bởi định nghĩa, là Đấng vâng lời. Là Đấng nói tiếng ”xin vâng”. Và bên cạnh Mẹ Maria, khi nhìn Mẹ Maria, chúng ta học được kiểu ”xin vâng” đó. Khi đó khẩu hiệu ”Totus tuus”, chương trình của Đức Gioan Phaolô II có nghĩa là ”Lậy Mẹ Maria, con hoàn toàn là của Mẹ để đi đến với Chúa Giêsu”.

Hỏi: Thưa Đức Hồng Y, Đức Hồng Y đã gần gũi Đức Karol Wotijla trong những lúc cuối cùng cuộc đời dương thế của ngài. Cả trong kiểu đối diện với thử thách cuối cùng người ta cũng đã trông thấy sự thánh thiện của Đức Gioan Phaolô II có đúng thế không?

Đáp: Tôi có một kỷ niệm rất sống động của cuộc gẵp gỡ cuối cùng với ngài: đó là ngày mùng 1 tháng 4 năm 2005, một ngày trước khi ngài qua đời. Tôi nhớ là tôi đã làm mọi chuyện với sự vội vã. Tôi đến sân San Damaso, lấy thang máy, đến phòng của Đức Giáo Hoàng và tìm thấy cha Stanislaw dẫn tôi vào phòng Đức Giáo Hoàng, đây là lần đầu tiên trong đời tôi vào phòng một vị Giáo Hoàng. Tôi thấy ngài ngồi dựa lưng vào mấy chiếc gối trong khi một bác sĩ chuyền dưỡng khí cho ngài vì ngài liên tục bị khủng hoảng nghẹt thở. Khi đó tôi nói: ”Thưa Đức Thánh Cha, con vừa bắt đầu công việc ngài đã giao cho, xin Đức Thánh Cha chúc lành cho con”. Và tôi thấy bàn tay phải của Đức Thánh Cha thò ra ngoài khăn trải giường, sưng rất to, giơ lên chúc lành nhưng rơi xuống. Khi đó tôi nói: ”Thưa Đức Thánh Cha, phép lành đã ra từ con tim và như thế là đủ cho con rồi”. Đó là kỷ niệm đẹp nhất mà tôi mang theo trong mình. Khi đó Đức Thánh Cha chăm chú nhìm tôi. Tôi còn thấy đôi mắt đó nhìn tôi: đôi mắt thanh thản, trong sáng… Tôi nhớ là khi ra khỏi phòng Đức Giáo Hoàng, tôi tự hỏi từ đâu nảy sinh ra sự thanh thản đó: nó nảy sinh từ sự kiện ngài chắc chăn đi găp Chúa. Nhưng đối với tôi cũng còn có một lý do khác nữa: ngài đã xác tín rằng đã hoàn toàn tiêu hao cuộc sống cho Chúa. Khẩu hiệu ”Totus tuus” ấy ngài đã thực hiện nó một cách tràn đầy: tất cả là của Mẹ Maria cho Chúa Giêsu.

Hỏi: Thưa Đức Hồng Y trong các năm qua Đức Hồng Y đã có thể đọc và thu thập hàng ngàn lời cầu mà tín hữu toàn thế giới đả để lại nơi mộ của Đức Gioan Phaolô II. Có cái gì đánh động Đức Hồng Y từ các chứng tá này?

Đáp: Điều đánh động tôi đó là tất cả chúng hướng về hai phía: hoặc đó là các gia đình cám ơn Đức Giáo Hoàng vì gương sống của ngài, các lời ngài nói, và chứng tá của ngài hay đó là các người trẻ cám ơn Đức Gioan Phaolô II vì niềm hăng say mà ngài đã thắp lên trong họ. Và đó là hai mối tình của Đức Gioan Phaolô II: gia đình và giới trẻ. Nhưng đồng thời chúng ta tất cả đều nhớ ngài như là vị Giáo Hoàng của giới trẻ. Ngoài ra các Ngày Quốc Tế Giới Trẻ là một trong các sáng chế của ngài để quy tụ người trẻ và thắp lên nơi họ lòng hăng say theo Chúa Giêsu.

Hỏi: Bây giờ chúng ta tất cả đều có thể khấn cầu Đức Gioan Phaolô II như là Thánh, tương quan giữa tín hữu và Đức Gioan Phaolô II sẽ thay đổi như thế nào thưa Đức Hồng Y?

Đáp: Tôi xin trả lời từ trên trước rồi từ dưới sau. Từ trên tôi nhớ tới một khẳng định của thánh nữ Têrêxa thành Lisieux: hai tháng trước khi chết thánh nữ tâm sự rằng: ”Tôi sẽ sống trên Trời để làm sự lành cho trái đất”. Tôi tin rằng Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, là người đã yêu thương Giáo Hội, giới trẻ, gia đình, nhân loại biết bao, sống trên Trời run rẩy như khi người còn sống trong ước muốn làm cái gì đó, làm sự lành, đem người ta đến với Chúa Giêsu. Như vậy nơi ngài chắc chắn có sự đam mê đó, ước muốn đó, bởi vì trên Trời sự thiện được khuyếch đại lên. Đàng khác, chúng ta nhớ tới ngài như là một vi Giáo Hoàng đã trao ban một chứng tá đức tin vĩ đại và một lòng can đảm sống đức tin lớn lao. Điều đánh động tôi nhất đó là sự can đảm này của Đức Gioan Phaolô II, sức mạnh tiến tới để chiến thắng mọi sợ hãi, như lời kêu gọi ngài đã đưa ra trong thánh lễ khai mạc sứ vụ Phêrô ngày 22 tháng 10 năm 1978: ”Đừng sợ hãi! Hãy mở ra, còn hơn thế nữa, hãy mở toang các cửa cho Chúa Kitô! Chúa Kitô biết trong trái tim con người có điều gì. Chỉ có Ngài biết mà thôi”. ”Đừng sợ hãi hãy mở toang cửa cho Chúa Kitô” Tôi tin rằng các lời này là kỷ niệm đẹp nhất về Đức Giona Phaolô II. Nó giống như một mũi tên chỉ đường, một dấu hiệu nói rằng ”Hãy đi đến với Chúa Giêsu”.

Sau đây là một vài nhận xét của Đức Hồng Y Capovilla, nguyên bí thư của Đức Gioan XXIII trong hơn 10 năm trời.

Hỏi: Thưa Đức Hồng Y, tại sao Đức Thánh Cha Phanxicô đã muốn tôn phong Hiển Thánh Đức Chân phước Giáo Hoàng Gioan XXIII năm nay mà không cần chứng nhận phép lạ thứ hai do lời bầu cử của người?

Đáp: Tôi không thể vào trong các ý định của Đức Thánh Cha. Tôi chỉ biết rằng xem ra Đức Thánh Cha muốn lấy lại không phải diễn văn của Đức Gioan XXIII, nhưng là linh hứng đến từ bên trên là triệu tập tất cả các Giám Mục, tất cả các Giáo Hội địa phương trên toàn thế giới, quy tụ bện nhau để lắng nghe, cầu nguyện, suy tư trong tình huynh đệ và tự hỏi xem chúng ta phải làm gì để con người thời đại của thế kỷ XXI đáp trả là lời mời gọi của Đức Thánh Cha Biển Đức XVI, là người đã nói: ”Công Đồng Chung Vaticăng II là ngôi sao dẫn đường của thế kỷ XXI”. Tuy nhiên đó không phải là lộ trình của một biến cố thôi, mà là lộ trình sứ điệp của Chúa Giêsu ”Niềm vui Phúc Âm”. Giáo Hội là một bà mẹ, xem xét con cái mình. Dọc dài các thế kỷ nếu thầy cần đề nghị người này người nọ nam hay nữ để mọi tín hữu kitô chú ý, thì Giáo Hội tự do làm điều đó và có Chúa Thánh Thần soi sáng con đường của Giáo Hội. Đức Thánh Cha Phanxicô đến gần cầm tay hướng dẫn chúng ta như một người cha người mẹ. Ngài không bắt buộc nhưng thuyết phục chúng ta. Ngài khÔng đem đến cho chúng ta sứ điệp và kinh nghiệm tại Argentina của ngài, nhưng đến nhân danh Chúa Giêsu và chỉ nói về Chúa Giêsu thôi.

Hỏi: Đức Hồng Y đã viết rằng Đức Gioan XXIII vị Giáo Hoàng tốt lành không gợi lên sự nuối tiếc nào, nhưng khích lệ nhìn tới trước, Đức Hồng Y có ý nói gì vậy?

Đáp: Tôi có ý nói rằng chúng ta không phải là những người giữ gìn một đền thánh, một thánh tích, một viện bảo tàng – chính Đức Gioan XXIII đã nói điều đó – nhưng chúng ta được mời gọi giữ gìn một ngôi vườn, nơi có các hạt giống của Ngôi Lời nhập thể; vun trồng một ngôi vườn và tạo thuận tiện cho một lễ Hiện Xuống mới, một lễ Vượt Qua mới, một mùa xuân mới, không phải chỉ là cho niềm vui của từng người, nhưng là cho toàn nhân loại. Chúng ta đang tiến bước chứ chưa tới đích. Đường còn dài. Chúng ta hiểu rằng mình có một kho tàng không phải chỉ để giữ gìn, mà còn để cống hiến cho toàn thế giới nữa. Phúc âm là Tin Mừng. Tin Mừng tôi là Con Thiên Chúa và Ngài không bỏ rơi tôi. Thật là hay đẹp, khi hầu như mỗi ngày nghe Đức Thánh Cha nói rằng Chúa Giêsu không khước từ ai hết, Ngài chờ đợi mọi người”.

Hỏi: Đức Hồng Y diển tả thời gian mười năm cộng tác với Đức Gioan XXIII như thế nào?

Đáp: Tôi đã không bao giờ cảm thấy mình là cộng sự viên cũng như bí thư của người. Tôi cảm thấy tất cả niềm vui được ở bên một người được Thiên Chúa gửi tới, hướng dẫn và đã ném các hạt giống. Ngài đã không thể thực hiện tràn đầy tất cả những gì có trong tâm hồn ngài, nhưng ngài đã để lại các hạt giống.

(SD 17-4-2014; 19-3-2014; 20-4-2014)

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Tường thuật thánh lễ phong thánh cho hai vị Giáo Hoàng Gioan XXIII và Gioan Phaolô II

Tường thuật thánh lễ phong thánh cho hai vị Giáo Hoàng Gioan XXIII và Gioan Phaolô II

Lễ phong thánh Đức Giáo Hoàng Gioan 23 và Gioan Phaolô 2

VATICAN. ĐTC Phanxicô đã long trọng tôn phong hai vị tiền nhiệm Gioan 23 và Gioan Phaolô 2 lên bậc hiển thánh, trước sự tham dự rất đông đảo của các Hồng Y, Giám Mục, LM và giáo dân đến từ các nước.

Chúa nhật 27-4-2014 thực là một ngày đặc biệt trong lịch sử Giáo Hội. Giới báo chí gọi là ”Chúa nhật 4 Giáo Hoàng”: lần đầu tiên hai vị Giáo Hoàng cùng được tôn phong hiển thánh trong một buổi lễ và lần đầu tiên hai vị Giáo Hoàng: một vị đương kim và một vị cựu, cùng hiện diện trong buổi lễ, Đức Phanxicô và Đức Biển Đức 16.

Buổi lễ diễn ra tại Quảng trường Thánh Phêrô được sự hiện diện của hàng trăm ngàn tín hữu hiện diện tại khu vực Đền Thờ và vùng phụ cận, không kể hàng chục ngàn người khác tham dự thánh lễ qua các màn hình khổng lồ được bố trí tại một số nơi ở Roma, cũng như tại Quảng trường trước Nhà Thờ chính tòa Milano, cách Roma khoảng 500 cây số. Theo đô trưởng Roma, Ông Ignazio Marino, hàng tỷ khán thính giả trên thế giới cũng theo dõi buổi lễ đặc biệt này qua truyền hình và các phương tiện truyền thông khác.

Trên thềm Đền thờ, bên trái lễ đài từ dưới nhìn lên, được dành cho 150 Hồng Y và 700 Giám Mục, còn bên phải được dành cho các vị Quốc trưởng, thủ tướng, các quan chức và đại sứ thuộc 120 phái đoàn chính thức của các nước và nhiều cơ quan quốc tế, các đại diện tôn giáo, Chính Thống, Anh giáo, và cả Hồi giáo.

Hàng ngàn tín hữu đã qua đêm tại khu vực cạnh Quảng trường Thánh Phêrô, để lúc gần 6 giờ sáng, vừa khi được phép, họ tiến ngay vào khu vực dự lễ. Bầu trời Roma mây dầy, nhưng phần lớn thời gian không có mưa, nên tránh được nhiều vụ cảm nắng.

Video Thánh Lễ phong thánh cho hai vị Giáo Hoàng

Sơ lược tiểu sử hai vị tân Hiển Thánh
– Đức Giáo Hoàng Gioan 23
Đức Gioan 23 tên đời là Angelo Giuseppe Roncalli, sinh ngày 25.11.1881 tại Bergamo, Bắc Italia, trong một gia đình 13 người con, Angelo là người thứ tư. Bé Angelo đã được rửa tội ngay ngày chào đời và đã sống thời thơ ấu trong bầu khí Đức Tin mạnh mẽ của gia đình và giáo xứ. Sau khi nhận lãnh bí tích Thêm Sức và rước lễ lần đầu năm 1889, Angelo gia nhập chủng viện Bergamo và theo học tại đây cho đến hết năm thần học thứ hai. Cũng trong thời gian này thầy bắt đầu viết một loạt nhật ký thiêng liêng kéo dài suốt cuộc đời, sau này được xuất bản với tựa đề Nhật ký của linh hồn. Từ năm 1901 đến 1905, thầy học tại đại chủng viện Roma và trong thời gian này, đã chu toàn bổn phận quân dịch bắt buộc. Ngày 10.08.1904, thầy Angelo Roncalli thụ phong linh mục tại nhà thờ Thánh Maria trên núi thánh ở quảng trường Nhân Dân trung tâm Roma. Nhiệm vụ đầu tiên của cha Roncalli là thư ký cho Đức Cha Giacomo Radini Tedeschi, tân GM Bergamo, tháp tùng Đức Cha trong các chuyến công du, phụ tá ngài trong mọi hoạt động mục vụ đồng thời, giảng dạy các bộ môn giáo sử, giáo phụ học và hộ giáo tại chủng viện giáo phận. Trong thế chiến thứ nhất, cha Roncalli bị tổng động viên tái nhập ngũ trong ngành quân y rồi tuyên úy các bệnh viện hậu phương. Sau thế chiến cha mở nhà sinh viên và được chỉ định làm linh hương chủng viện vào năm 1919.

Từ năm 1921, bắt đầu giai đoạn 2 trong đời cha Roncalli: giai đoạn phục vụ Tòa Thánh. ĐGH Benedetto XV gọi cha về bộ Truyền Giáo và 4 năm sau đó, 1925, Đức Pio XI chỉ định cha làm Kinh Lược tông tòa Bulgari và nâng cha lên hàng GM. Mười năm sau, Đức Cha được chỉ định làm Đại Diện Tông Tòa tại Thổ Nhĩ Kỳ và Hy Lạp. Những năm làm việc tại những môi trường thật khó khăn này đã giúp Đức Cha thu thập những kinh nghiệm hay đẹp, nhưng cũng đã làm cho Đức Cha chịu nhiều hiểu lầm đau khổ. Trong thời thế chiến thứ hai, Đức Cha đã cứu được nhiều người Do Thái nhờ tư cách ngoại giao. Năm 1953, Đức Cha Roncalli được nâng lên hàng HY và 5 năm sau đó, khi ĐGH Pio XII qua đời, HY đoàn đã bầu ĐHY Roncalli vào nhiệm vụ chủ chăn giáo hội hoàn vũ với tên gọi là Gioan 23. Suốt triều đại giáo hoàng của Ngài, Đức Gioan 23 đã được toàn thế giới yêu mến, xem là hình ảnh đích thật nhất của một chủ chăn nhân lành, đơn sơ nhưng can đảm, hiền hòa những đầy sáng kiến, nổi bật nhất là quyết định triệu tập Công Đồng chung Vatican II. ĐGH Gioan 23 qua đời chiều ngày 03.06.1963. Ngài được Đức Gioan Phaolo 2 tôn phong chân phước ngày 03.09 năm tháng 2000 tại quảng trường Thánh Phêrô.

– Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô 2

Karol Jozef Wojtyla sinh ngày 18.05.1920 tại Wadowice bên Ba Lan. Tuổi thơ của Karol mang nhiều tang tóc. Bà mẹ Emilia qua đời năm 1929, Karol vừa lên 9 tuổi, Năm 1932, đến lượt người anh trai bác sĩ Edmund và năm 1941, Karol mồ côi cha. Năm lên 9 tuổi, Karol được rước lễ lần đầu và lãnh bí tích thêm sức năm 18 tuổi. Năm 1938, sau khi hoàn tất bậc trung học tại Wadowice, Karol ghi danh vào trường đại học Jagellonica tại Cracovia. Năm sau 1939, quân Đức quốc xã xâm lăng đóng cửa các trường đạo học Ba Lan. Karol phải đi làm công nhân trong một xưởng đẽo đá rồi trong hãng hóa học Solvay để sống và để tránh khỏi bị lưu đày sang Đức. Đồng thời Karol cũng phát triển tài năng kịch nghệ bẩm sinh. Giữa bao nhiêu khó khăn cấm cản của quê hương Ba Lan bị quân Đức chiếm đóng, Karol khám phá ra ơn gọi tu trì và quyết định xin theo các khóa huấn luyện đào tạo linh mục lén lút tại Cracovia, do ĐTGM Adam Stefan Sapieha điều động.

Chiến tranh chấm dứt, thầy Karol tiếp tục việc học tại đại chủng viện Cracovia và tại phân khoa thần học đại học Jagellonica cho đến khi thụ phong linh mục ngày 01.11.1946. Sau đó cha được gửi sang Roma tiếp tục học tiến sĩ thần học. Năm 1948, cha trở về quê hương làm phụ tá trong các giáo xứ phụ cận Cracovia, linh hướng sinh viên, giảng dạy các bộ môn thần học luân lý đạo đức tại đại chủng viện Cracovia và tại phân khoa thần học Lublino. Tháng 7 năm 1958, ĐGH Pio XII chỉ định cha làm GM phụ tá Cracovia. Tháng giêng năm 1964, Đức Cha Wojtyla được ĐTC Phaolo VI chỉ định làm TGM Cracovia và 3 năm sau đó, 1967, nâng lên hàng HY. ĐC tham gia các hoạt động của Công đồng chung Vatican 2, cộng tác vào việc soạn thảo hiến chế Vui Mừng và hy vọng. Khuôn mặt và hoạt động của ĐC nổi bật lên trong môi trường Giáo hội Ba Lan đang nằm trong kềm kẹp của xã hội cộng sản bấy giờ.

Ngày 16.10.1978, ĐHY Wojtyla được HY đoàn bầu lên làm Giáo Hoàng với tên hiệu là Gioan Phaolo 2 và chính thức nhậm chức ngày 22 tháng 10 sau đó. Ngày 13.05.1981, ĐGH Gioan Phaolo 2 đã bị mưu sát nhưng thoát chết nhờ bàn tay che chở của hiền mẫu Maria. Ngài đã tha thứ cho kẻ mưu sát mình và ý thức là đã được ban cho một cuộc sống mới, người đã miệt mài hoạt đông phục vụ không biết mỏi mệt. Chưa có vị Giáo Hoàng nào đã viếng thăm gặp gỡ với tín hữu nhiều như Đức Gioan Phaolo 2. Ngài qua đời lúc 21 giờ 37 ngày 02.04.2005 tại dinh tông tòa trong nội thành Vatican. Lễ phong chân phước cho Đức Gioan Phaolo 2 đã được vị kế nhiệm là ĐGH Benedetto XVI, từng là cộng sự viên của ngài trong nhiều năm trời, chủ sự tại quảng trường thánh Phêrô ngày 01.05.2011.

Thánh Lễ

Lúc quá 9 giờ 30, Đức nguyên Giáo Hoàng Biển Đức 16 tiến vào địa điểm hành lễ, giữa tiếng vỗ tay chào mừng của mọi người. Ngài ngồi ở ghế đầu dành cho các Hồng Y, phía sau đã có 700 GM trong phẩm phục đồng tế ngồi sẵn.

Các tín hữu cũng cảm động vỗ tay như vậy khi tổng thống Italia, ông Giorgio Napolitano, và phu nhân đến chào ngài, khi đến khu vực dành cho các vị nguyên thủ quốc gia.

10 giờ kém 5 phút, trong khi ca đoàn và mọi người hát kinh cầu các thánh, đoàn 150 Hồng Y đồng tế bắt đầu tiến từ bên trong đền thờ Thánh Phêrô tiến ra lễ đài, đi trước là các vị Thượng Phụ và TGM trưởng của các Giáo Hội Công Giáo nghi lễ Đông phương. Đi sau cùng là ĐTC Phanxicô. Ngài xông hương bàn thờ xong và tiến lại chào vị tiền nhiệm Biển Đức 16 của ngài, trước khi tiến đến bái kính tượng Đức Mẹ và đến ngai tòa.

Nghi thức phong hiển thánh bắt đầu với 3 lần ĐHY Angelo Amato, Tổng trưởng Bộ Phong Thánh, nhân danh toàn thể Giáo Hội xin ĐTC ghi tên hai chân phước Gioan 23 và Gioan Phaolô 2 vào Sổ Bộ các thánh. Sau lời thỉnh cầu thứ I, ĐTC mời gọi toàn thể các tín hữu cầu xin Thiên Chúa toàn năng nhờ Đức Giêsu Kitô, Đức Trinh Nữ Maria và các thánh, nâng đỡ chúng ta bằng ơn thánh điều mà chúng ta sắp thực hiện. Sau lời thỉnh cầu thứ hai, ĐTC mời gọi cộng đoàn hát kinh Cầu Xin Chúa Thánh Linh. Sau lời xin thứ 3 của ĐHY Tổng trưởng Bộ Phong thánh, ĐTC đã tuyên đọc công thức phong thánh:

”Để tôn vinh Chúa Ba Ngôi cực thánh, để tuyên dương đức tin Công Giáo và tăng tiến đời sống Kitô, với quyền bính của Chúa Giêsu Kitô, của các thánh Tông Đồ Phêrô và Phaolô và của Chúng Tôi, sau khi suy nghĩ chín chắn, nhiều lần khẩn cầu ơn phù trợ của Chúa và lắng nghe ý kiến của nhiều anh em chúng tôi trong hàng Giám Mục, chúng tôi tuyên bố và xác định Chân Phước Gioan 23 và Gioan Phaolô 2 là Hiển Thánh, và chúng tôi ghi tên các ngài vào sổ bộ các Thánh và qui định rằng trong toàn thể Giáo Hội, các Ngài được được tôn kính với lòng sùng mộ nơi Các Thánh. Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần

ĐTC vừa dứt lời, cộng đoàn vỗ tay nồng nhiệt và ca đoàn cùng cộng đoàn ca bài Jubilate Deo (Hãy tung hô Chúa, hãy hát mừng Chúa), trong khi đó, thánh tích của hai vị tân hiển thánh được rước lên cho ĐTC hôn kính trước khi đặt trên một giá nhỏ phía trước bàn thờ. Thánh tích của Đức Gioan 23 là một mảnh da của Người, và của Đức Gioan Phaolô 2 là một ống nhỏ đựng máu của thánh nhân.

Trong bài giảng sau bài đọc Tin Mừng bằng tiếng la tinh và hy lạp, ĐTC đã diễn giải bài Tin Mừng về việc Thánh Tôma tông đồ được Chúa Giêsu Phục Sinh mời gọi động chạm đến những vế thương để tin và đừng cứng lòng nữa. ĐTC nói đến lòng can đảm của hai vị thánh Giáo Hoàng không hổ thẹn về những vết thương của Chúa, ngoan ngoãn tuân theo Chúa Thánh Linh trong việc hướng dẫn Dân Chúa, và ĐTC đặc biệt cầu xin Đức Gioan Phaolô 2, vị Giáo Hoàng của gia đình, hướng dẫn hành trình của Thượng Hội đồng GM về gia đình.

Toàn văn bài giảng của ĐTC

”Nơi trọng tâm chúa nhật kết thúc Tuần Bát Nhật Phục Sinh này, mà Đức Gioan Phaolô 2 đã muốn gọi là Chúa Nhật Lòng Thương Xót Chúa, có những vết thương vinh hiển của Chúa Giêsu Phục sinh.

”Chúa đã tỏ các vết thương ấy lần đầu tiên khi Ngài hiện ra với các Tông Đồ, chính buổi chiều tối ngày sau ngày sabát, ngày Phục sinh, nhưng chiều tối hôm ấy không có tông đồ Tôma; và khi nhưng vị khác kể lại với ông là đã thấy Chúa, ông trả lời là sẽ không tin nếu không nhìn thấy và động chạm đến các vết thương của Ngài. 8 ngày sau, Chúa Giêsu lại hiện ra tại Nhà Tiệc Ly, giữa các môn đệ, và có cả Tôma; Ngài ngỏ lời với ông và mời ông chạm đến các vết thương của Ngài. Bấy giờ con người chân thành ấy, con người quen đích thân kiểm chứng, liền quỳ xuống trước Chúa Giêsu và thưa: ”Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa của con!” (Ga 20,28).

”Những vết thương của Chúa Giêsu là cớ vấp phạm đối với đức tin, nhưng chúng cũng là điều kiểm chứng niềm tin. Vì thế nơi thân thể của Chúa Kitô Phục Sinh, những vết thương ấy không biến mất, nhưng tồn tại, vì những vết thương ấy là dấu chỉ trường tồn về tình thương của Thiên Chúa đối với chúng ta, và chúng không thể thiếu được để tin nơi Thiên Chúa. Không phải để tin Thiên Chúa hiện hữu, nhưng để tin rằng Thiên Chúa là tình thương, là lòng từ bi, trung tín. Thánh Phêrô, nhắc lại Ngôn sứ Isaia, đã viết cho các tín hữu Kitô: ”Từ những vết thương của Người, anh chị em được chữa lành” (1 Pr 2,24; Xc Is 53,5).

”Đức Gioan 23 và Gioan Phaolô 2 đã can đảm nhìn những vết thương của Chúa Giêsu, động chạm đến những bàn tay bị thương và cạnh sườn của Chúa bị đâm thâu qua. Các vị đã không hổ thẹn vì thân thể của Chúa Kitô, không vấp phạm về Chúa, về thập giá của Ngài Is 58,7); không hổ thẹn vì thân mình của người anh em (Xc 58,7), vì nơi mỗi người đau khổ, các vị nhìn thấy Chúa Giêsu. Hai vị là những người can đảm, đầy ơn táo bạo (parresía) của Chúa Thánh Linh, và đã làm chứng cho Giáo Hội và thế giới về lòng từ nhân của Thiên Chúa, về lòng từ bi của Chúa. Các vị đã là những linh mục, giám mục và giáo hoàng của thế kỷ 20. Các vị đã sống những thảm trạng, nhưng không để chúng lướt thắng. Nơi các vị, Thiên Chúa mạnh mẽ hơn; niềm tin nơi Chúa Giêsu Đấng Cứu Chuộc con người và là Chúa tể của lịch sử mạnh mẽ hơn; nơi các vị sự gần gũi từ mẫu của Mẹ Maria mạnh mẽ hơn. Nơi hai vị là những người chiêm ngắm các vết thương của Chúa Kitô và là chứng nhân về lòng từ bi của Chúa có một ”niềm hy vọng sinh động”, cùng với một ”niềm vui khôn tả và vinh hiển” (1 Pr 1,3.8). Niềm hy vọng và niềm vui mà Chúa Kitô phục sinh ban cho các môn đệ của Ngài, và không ai và không gì có thể làm cho họ bị thiếu những hồng ân ấy. Niềm hy vọng và niềm vui phục sinh, được thanh luyện qua cái lò từ bỏ, loại trừ sự gần gũi tội lỗi cho đến tột cùng, đến độ cảm thấy buồn nôn vì chén đắng. Đó chính là niềm hy vọng và niềm vui mà hai vị Thánh Giáo Hoàng đã lãnh nhận như hồng ân từ Chúa phục sinh và tiếp đến, các vị đã trao tặng dồi dào cho Dân Chúa, và được lòng biết ơn đời đời của họ.

”Niềm hy vọng và niềm vui này được cảm nghiệm trong cộng đoàn đầu tiên của các tín hữu ở Jerusalem, như sách Tông đồ công vụ kể lại (Xc 2,42-47). Đó là một cộng đoàn trong đó nòng cốt của Tin Mừng được sống thực, nghĩa là tình thương, lòng từ bi, trong đơn sơ và huynh đệ.

”Và đó là hình ảnh Giáo Hội mà Công đồng chung Vatican 2 đã có trước mắt. Đức Gioan 23 và Gioan Phaolô 2 đã cộng tác với Chúa Thánh Linh để phục hồi và canh tân Giáo Hội theo dạng thức nguyên thủy, dạng thức mà các thánh qua các thế kỷ đã mang lại cho Giáo Hội. Chúng ta đừng quên rằng chính các thánh đã làm cho Giáo Hội tiến bước và tăng trưởng. Trong việc triệu tập Công đồng chung Vatian 2, Đức Gioan 23 đã chứng tỏ một thái độ ngoan ngoãn đối với Chúa Thánh Linh, đã để cho Chúa hướng dẫn, và đối với Giáo Hội, Người là một vị mục tử đối với Hội Thánh, một vị hướng đạo được hướng dẫn. Đó chính là một sự phục vụ cao cả Người dành cho Giáo Hội; Người là một vị Giáo Hoàng ngoan ngoãn tuân theo Chúa Thánh Linh.

”Trong việc phục vụ Dân Chúa, Đức Gioan Phaolô 2 là vị Giáo Hoàng của gia đình. Chính Người đã có lần nói là muốn được nhắc nhớ đến như vị Giáo Hoàng của gia đình. Tôi vui lòng nhấn mạnh điều đó trong lúc chúng ta đang sống hành trình Thượng HĐGM về gia đình và với các gia đình, một hành trình mà từ trời cao, chắc chắn Người đang tháp tùng và hỗ trợ. xin cả hai vị tân Hiển Thánh Mục Tử của Dân Chúa chuyển cầu cho Giáo Hội, để trong hai năm hành trình Thượng HĐGM này, Giáo hội ngoan ngoãn tuân theo chỉ dạy của Chúa Thánh Linh trong việc phục vụ mục vụ gia đình. Xin cả hai thánh nhân dạy chúng ta đừng coi các vết thương của Chúa Kitô như cớ vấp phạm, tập trung vào mầu nhiệm từ bi của Chúa, luôn hy vọng, luôn tha thứ, luôn yêu thương”.

Lời nguyện phổ quát và chào thăm

Trong phần lời nguyện phổ quát bằng 5 thứ tiếng Tây Ban Nha, Arập, Anh, Hoa, và Pháp, cộng đoàn đã cầu xin Chúa cho vẻ đẹp của đời sống mới luôn rạng ngời trong Giáo Hội và cho mỗi người nhận biết Chúa Giêsu Phục Sinh và hằng sống; cầu xin Chúa Cha đổ Thần Trí trên các tội nhân và những người lầm lạc trong tâm hồn và trong đêm tối được gặp Chúa Phục Sinh; cầu cho những người mới được tái sinh nhờ ơn thánh của các nhiệm tích Vượt Qua được Chúa giữ gìn trong sự thánh thiện và qua hoạt động của họ, mọi người thấy được công việc của Chúa Giêsu Phục Sinh và hằng sống. Ý nguyện thứ tư: nhờ lời chuyển cầu của Thánh Gioan 23, xin Chúa Cha lôi kéo tư tưởng và quyết định của các vị thủ lãnh các dân nước ra khỏi cái vòng oán thù và bạo lực, và để Chúa Giêsu Phục Sinh và hằng sống chiến thắng trong các quan hệ của con người với nhau. Sau cùng, nhờ lời chuyển cầu của thánh Gioan Phaolô 2, xin Chúa Cha luôn khơi lên nơi những người thuộc giới văn hóa, khoa học và chính quyền lòng say mê bênh vực phẩm giá con người và để Chúa Giêsu Phục Sinh và hằng sống được phụng sự nơi mỗi người.

Trong phần rước lễ, 70 phó tế đã mang Minh Máu Thánh đến cho các HY, GM đồng tế, trong khi 700 LM và phó tế khác phân phát Mình Thánh Chúa cho các tín hữu tại Quảng trường cũng như tại đường Hòa giải.

Cuối thánh lễ, ĐTC đã chủ sự phần đọc kinh Lạy Nữ Vương Thiên Đàng. Trong bài huấn dụ ngắn trước đó, ngài nồng nhiệt chào thăm và cám ơn các Hồng Y, đông đảo các GM và LM đến từ các nơi trên thế giới. Ngài cũng cám ơn các phái đoàn chính thức đến từ bao nhiêu nước, đến đây để tôn kính hai vị Giáo Hoàng đã góp phần không thể xóa nhòa cho chính nghĩa phát triển các dân tộc và hòa bình. Ngài không quên cám ơn chính quyền Italia về sự cộng tác quí giá, cũng như thân ái chào thăm các tín hữu thuộc giáo phận Bergamo và Cracovia nguyên quán của hai vị Giáo Hoàng và tất cả các tín hữu tham dự trực tiếp hoặc qua các phương tiện truyền thống thánh lễ phong thánh này.

Thánh lễ kéo dài 2 giờ 10 phút và kết thúc lúc 12 giờ 10. ĐTC đặc biệt chào thăm Đức nguyên Giáo Hoàng Biển Đức 16 trước khi chào các vị trưởng phái đoàn của các nước.

G. Trần Đức Anh OP, Mai Anh

Lòng thương xót Chúa

Lòng thương xót Chúa 

Mercy dinive St Faustina

Ngày 30-04-2000, theo mặc khải của Lòng Thương Xót Chúa, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã chọn CN thứ 2 sau lễ Phục Sinh làm ngày để kính Lòng Thương Xót Chúa. Lễ này phát xuất từ sứ điệp mà Chúa đã ban cho thánh nữ Faustina, người môn đệ của Lòng Thương Xót, và là người đồng hương của Đức Chân Phước Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, đã được ngài tôn phong hiển thánh vào ngày 30-04-2000. Mừng lễ kính Lòng Thương Xót Chúa năm nay càng đặc biệt hơn, khi Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã chọn ngày này để tuyên thánh cho hai vị tiền nhiệm của ngài là Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII, và Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Đức Giáo Hoàng của Lòng Thương Xót. Hai vị tân hiển thánh được tuyên phong trong ngày hôm nay cũng chính là thể hiện của Lòng Thương Xót Chúa dành cho nhân loại chúng ta, vì qua đời sống của các Ngài, chúng ta nhận ra được Lòng Thương Xót của Chúa.  

Hòa với niềm vui chung của toàn thể Giáo hội, chúng ta hãy cùng nhau tìm hiểu về Lòng Thương Xót Chúa và hãy khám phá ra Lòng Thương Xót Chúa được thể hiện như thế nào trong cuộc đời của chúng ta. 

I.      LÒNG THƯƠNG XÓT CHÚA TRONG KINH THÁNH

1. Cựu ước: 

Khi diễn tả về Lòng Thương Xót Chúa, các sách Cựu ước có 2 cách diễn tả đặc biệt, mỗi cách đều có sắc thái khác nhau: 

Trước hết là thuật ngữ “Hesed”, giống đực, thuộc về lý trí, là thái độ sâu sắc của lòng tốt. Khi “Hesed” được thiết lập giữa hai cá nhân, ngoài việc họ muốn tốt cho nhau, họ còn tin tưởng nhau, và thầm hứa trong lòng sẽ trung thành với nhau. Cựu ước dùng từ “Hesed” để nói về Thiên Chúa trong khi thiết lập giao ước với dân Israel. Điều đáng lưu ý là thuật ngữ này chỉ dành cho Thiên Chúa chứ không dành cho dân. Nói một cách chính xác hơn, dân không thể có được “Hesed”, nghĩa là không có được lòng tốt sâu sắc, không có điều gì đáng tin tưởng và cũng không có sự trung thành; chỉ Thiên Chúa và một mình Thiên Chúa mà thôi. 

Thuật ngữ thứ hai để nói về Lòng Thương Xót trong Cựu ước là “Rehamim” thuộc về giống cái, nó bao hàm tình yêu của người mẹ dành cho đứa con của mình, vì từ “Rehamim” xuất phát từ danh từ “Rehem”, nghĩa là tử cung, nơi người mẹ nuôi nấng đứa con khi nó mới được thành hình. Về phương diện tâm lý, “Rehamim” phát sinh một loạt cảm xúc, kể cả lòng tốt và sự dịu dàng, kiên nhẫn và thông cảm cho đối tượng, nghĩa là sẵn sàng tha thứ. Cựu ước đã quy cho Thiên Chúa tất cả những đặc tính này khi dùng thuật ngữ “Rehamim” để nói về Ngài. Chúng ta đọc thấy trong sách Isaia: “Có người mẹ nào quên được đứa con của mình đã mang nặng đẻ đau? Cho dù nó có quên đi nữa, thì Ta, Ta cũng chẳng quên ngươi bao giờ” (Is 49:15). 

Vì vậy Cựu ước diễn tả Thiên Chúa vừa như người cha luôn trung thành, luôn mong muốn những điều tốt đẹp cho con mình; vừa như người mẹ luôn bảo vệ, chở che, thông cảm, tha thứ cho đứa con. 

2. Tân ước:

Trong Tân ước, Lòng Thương Xót Chúa được diễn tả rõ nét nhất trong dụ ngôn “người cha nhân hậu”. Đó là mầu nhiệm của Lòng Chúa Thương Xót. Câu chuyện này thể hiện Tình Cha đối với đứa con hoang đàng. Đứa con đó không chỉ được phục hồi quyền làm con mà còn được tiếp tục thừa kế gia sản của người cha dù đã ăn chơi phung phí hết phần gia sản riêng. Ăn năn và trở về, nhận lỗi và xin lỗi, tất cả lại trở về nguyên trạng của người con. Tình Chúa quá bao la và kỳ diệu! 

Tuy nhiên Lòng Thương Xót Chúa lại được thể hiện rõ nét nhất trong mầu nhiệm Tử nạn- Phục sinh của Đức Kitô. Thiên Chúa yêu con người đến nỗi thí mạng sống mình cho con người. Thiên Chúa yêu con người đến độ không còn giữ lại một chút gì, kể cả những giọt máu và nước cuối cùng. Trong khi kề cận với cái chết, Chúa Giêsu vẫn còn thực hiện Lòng Thương Xót qua việc cho tên trộm biết ăn năn hối cải được vào thiên đàng với Ngài; qua việc Ngài xin Chúa Cha tha thứ cho những người đã hành hình Ngài “Xin tha cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm”. 

Trong Tân ước, Lòng Thương Xót Chúa được thể hiện qua chính hành động của Chúa Giêsu. 

II.     KHÁM PHÁ LÒNG THƯƠNG XÓT

Khi đọc lại Thông Điệp về Lòng Thương Xót Chúa tôi thấy được hai điểm chính yếu của Lòng Thương Xót mà chính Chúa đã giải thích từ bức ảnh để phổ biến về Lòng Thương Xót Chúa: “Hai luồng tia sáng chỉ Nước và Máu đã vọt chảy từ lòng Thương Xót của Ta, lúc mà trái tim Ta bị lưỡi đòng đâm thấu trên thập giá. Những tia trắng biểu hiệu nước công chính thánh hóa các linh hồn. Những tia đỏ biểu hiệu máu ban Sự Sống cho các linh hồn, bênh vực, che chở các linh hồn trước sự xét sử công bình của Cha Ta. Phúc cho kẻ được sống dưới sự che chở của sự sống ấy vì họ sẽ phải lo sợ trước cơn thịnh nộ của Thiên Chúa” (TĐLTXC.299). 

Như vậy Máu và Nước từ trái tim Chúa Giêsu chính là thể hiện của Lòng Thương Xót Chúa. Máu là Sự Sống, Nước là sự Thánh hóa Chúa dành cho các linh hồn. Hai đặc tính này cũng chính là hai thuật ngữ để chỉ về Lòng Thương Xót Chúa trong Cựu ước. Máu là “Hesed”, là sự trung thành của Thiên Chúa, luôn muốn con người được sống. Nước là “Rehamim”, là tình yêu của Thiên Chúa được thể hiện qua sự dịu dàng, kiên nhẫn, thông cảm và tha thứ cho con người. 

III.   ĐÓN NHẬN LÒNG THƯƠNG XÓT CHÚA

Từ hai hình ảnh Máu và Nước thể hiện Sự Sống và ơn Thánh hóa Chúa dành cho các linh hồn biết tín thác vào Ngài, chúng ta hãy đón nhận Lòng Thương Xót Chúa. 

1. Đón nhận Sự Sống của Chúa

Tia màu đỏ từ trái tim Chúa là hình ảnh Máu ban sự sống. Lòng Thương Xót Chúa như ý chí của người cha luôn luôn mong muốn con mình  được sống. Đó không chỉ là sự mong muốn, mà còn là khả năng ban cho con người chúng ta sự sống và sống dồi dào. Sự sống đó được ẩn tàng trong Bí tích Thánh Thể, Bí tích của tình yêu. Chính vì vậy Bí tích Thánh Thể là thể hiện của Lòng Thương Xót Chúa một cách rõ nét nhất.

Chính Chúa Giêsu đã mặc khải cho thánh nữ Faustina: “Niềm vui lớn lao của Ta là được kết hợp với các linh hồn khi họ rước lễ. Ta đến với tâm hồn họ. Bàn tay Ta đầy những ơn sủng muốn ban cho họ. (TĐLTXC.1385). Vì vậy để đón nhận Lòng Thương Xót Chúa, mỗi người hãy biết đón nhận sự sống Chúa ban nơi Bí tích Thánh Thể. 

2. Đón nhận ơn tha thứ.

Tia màu trắng từ trái tim Chúa là hình ảnh Nước thánh hóa mọi tâm hồn nên trong sạch. Lòng Thương Xót Chúa như tình yêu của người mẹ luôn cảm thông, tha thứ mọi lỗi lầm cho đứa con. Thiên Chúa luôn yêu thương con người dù con người có tốt lành thánh thiện hay khi họ là những tội nhân xấu xa nhất, vì bản chất của Thiên Chúa là yêu thương. Nếu Thiên Chúa không yêu thương, Ngài không còn là Thiên Chúa nữa. Lòng Thương Xót của Chúa là sự hạ mình xuống để nâng con người tội lỗi lên chạm đến sự thánh thiện của Chúa. Tình yêu thương tha thứ đó được thể hiện trong Bí tích Giải tội, là nơi mà Thiên Chúa sẵn sàng trả lại cho chúng ta tất cả vẻ đẹp của một người con Chúa, và còn cho chúng ta quyền được thừa hưởng gia tài của Ngài chính là hạnh phúc Nước Trời. 

Chúa đã nói với chị Faustina: “Khi con đi xưng tội, Nước từ mạch xót thương tuôn ra từ Trái Tim trào xuống linh hồn con (1602). Trong tòa án Xót Thương, những phép lạ xảy ra không ngừng (1448). Hãy mở tâm hồn ra, Ta sẽ chiếu tràn ngập ánh sáng trong lòng con” (1725). Vì vậy để đón nhận Lòng Thương Xót Chúa hãy chạy đến với Bí tích Giải tội. 

IV.      THỰC THI LÒNG THƯƠNG XÓT

Ngoài việc chúng ta đón nhận Lòng Thương Xót Chúa qua Bí tích Thánh Thể và Bí tích Giải tội, vì ở nơi đó, tình yêu của Chúa được thể hiện một cách rõ nét và trọn vẹn nhất; chúng ta còn phải có bổn phận thực thi Lòng Thương Xót Chúa. Nếu chúng ta đón nhận Lòng Thương Xót qua việc đón nhận sự sống và ơn tha thứ, thì chúng ta cũng phải thực thi lòng thương xót qua việc trao ban sự sống và tha thứ cho người khác. 

1.  Trao ban sự sống.

Giống như Chúa Giêsu, chúng ta cũng phải làm cho những người bên cạnh chúng ta được sống và sống dồi dào. Chính vì vậy được phép giết chết người khác bằng bất cứ hình thức nào, kể cả những việc xúc phạm đến họ trong tư tưởng, lời nói cũng như việc làm. Hơn thế nữa chúng ta còn phải làm cho sự sống của họ được lớn mạnh bằng sự hy sinh, quên mình, chấp nhận thiệt thòi… Lúc đó chúng ta đang trao ban sự sống của mình cho người khác. 

2. Trao ban sự tha thứ:

Kế đến, như Lòng Thương Xót Chúa luôn chờ đợi và tha thứ cho chúng ta, chúng ta cũng phải biết tha thứ cho người khác. Trong bất cứ một tập thể nào, dù lớn hay nhỏ đều có thể xảy ra những va chạm. Những va chạm này nếu không có sự tha thứ thì sẽ dễ dẫn đến những đổ vỡ. Sự tha thứ không chỉ là bỏ qua những xúc phạm của người khác, mà còn phải là trả lại cho họ hình ảnh thuở ban đầu, như hình ảnh người cha nhân hậu đối xử với đứa con hoang đàng. 

Trong năm Phúc âm hóa gia đình này, việc trao ban sự sống và tha thứ cho nhau càng phải được thực hiện một cách tích cực hơn trong mỗi gia đình, để Lòng Thương Xót Chúa được thể hiện rõ nét trong mỗi gia đình.

Khi biết được Lòng Thương Xót Chúa luôn mong muốn chúng ta được sống, luôn chờ đợi để tha thứ cho chúng ta, nghĩa là Lòng Thương Xót không bao giờ muốn chúng ta bị diệt vong, chúng ta hãy mạnh dạn kêu xin Lòng Thương Xót Chúa: “Lạy Đấng toàn Chí thánh toàn năng hằng hữu, xin thương xót chúng con và toàn thế giới!”, “Kính lạy Máu và Nước đã trào tuôn từ Trái Tim Chúa Giêsu, xin thương xót gia đình chúng con!”.

LM. Thiện Duy

Chứng từ của một hành trình Phục Sinh

Chứng từ của một hành trình Phục Sinh

2 Popes

A. Chứng từ của một hành trình phục sinh

Chúa Nhật II Phục Sinh, lễ kính “Lòng Thương Xót Chúa”, ĐTC Phanxicô tuyên thánh cho hai vị Giáo Hoàng, Gioan XXIII và Gioan Phaolô II.

Câu chuyện về một thanh niên tật nguyền được diễm phúc gặp gỡ Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II thật cảm động.

Tony Melendez là một người Nicaragua, sinh năm 1962 và bị mất cả hai tay vì ảnh hưởng tai hại của một loại thuốc cảm cúm mà bà mẹ đã uống khi không biết là bà đang mang thai. Sau khi Tony được 1 tuổi, cả gia đình được ông ngoại bảo lãnh sang Los Angeles Hoa Kỳ, ở đây Tony học sử dụng mọi thứ bằng đôi chân, kể cả học đánh đàn ghita. Đến năm 16 tuổi, với cây đàn ghita, anh thường hát dạo ở một góc phố Laguna Beach để kiếm tiền cho gia đình. Anh cũng rất chán nản với tương lai đi ăn xin như vậy, và anh tự hỏi, "chẳng lẽ cuộc đời mình chỉ đi ăn xin như thế thôi hay sao?".

Rồi một ngày kia anh nhận được lá thư mời đến trình diễn cho Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II trong ngày Đại Hội Giới Trẻ vào tháng 9 năm 1987 ở Los Angeles. Trong cuộc họp mặt đó có trên 6,000 người trẻ từ khắp nơi đến tham dự.

Anh đã nhận lời trình diễn và cũng kể từ đó cuộc đời anh thay đổi. Sau khi trình diễn một bài do anh sáng tác, cả hội trường đứng dậy hoan hô anh, ngay cả Đức Giáo Hoàng cũng đứng dậy và đi đến tận bục trình diễn để hôn anh, và điều quan trọng là câu nói của Đức Gioan Phaolô II. Ngài nói, "Tony, con là một người thực sự can đảm. Con đang đem lại hy vọng cho mọi người ở đây. Cha ao ước con sẽ tiếp tục đem hy vọng cho tất cả mọi người".

Từ lúc đó trở đi, anh được mời đi lưu diễn ở nhiều nơi trong nước, và bất cứ ai trông thấy một thanh niên cụt hai tay nhưng vui vẻ dùng đôi chân đánh đàn và say sưa cất tiếng hát với những lời lẽ không than van, không cay đắng, không oán hờn thì tất cả mọi người đều ngập tràn hy vọng. Chính Tony, anh chia sẻ như thế này: "Có lúc tôi thực sự tin rằng tôi phải có đầy đủ chân tay, mắt mũi để yêu thương, để phục vụ, để lo lắng cho người khác. Tôi nghĩ là tôi cần những điều đó. Dĩ nhiên, có đôi tay thì giúp đỡ người khác dễ dàng hơn. Nhưng tình yêu thì không cần đôi tay. Để yêu thương ai đó, tất cả những gì bạn cần là con tim và để ý đến họ."

Với thân thể tật nguyền, Tony Melendez đã đem lại hy vọng cho những người thấy anh trình diễn. Đó là chứng từ của một hành trình phục sinh.

B. Ý nghĩa các vết sẹo

Trong mùa Phục Sinh, các bài đọc sách Tin Mừng và Công vụ Tông đồ thuật lại: mỗi lần Chúa Giêsu hiện đến với các môn đệ, Ngài đều trao ban bình an: “bình an cho các con” và “cho các ông xem tay chân và cạnh sườn” là những vết thương cuộc khổ nạn của Ngài.

Điều quan trọng được Thánh Kinh ghi nhận là thân xác phục sinh của Chúa Giêsu vẫn còn mang thương tích của cuộc khổ nạn, vẫn còn lỗ đinh ở chân tay và vết giáo đâm ở cạnh sườn. Tin Mừng phục sinh là Tin Mừng về các vết thương đã lành nay thành những vết sẹo.Tôma muốn sờ đến để biết chắc Thầy đã sống lại. Khi Chúa Phục Sinh mời gọi Tôma: “hãy đặt ngón tay vào lỗ đinh và hãy đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn”, chắc hẳn Tôma đã nhìn thật lâu những dấu đinh. Khi ấy, Tôma khám phá thật sâu một Tình Yêu.Tình yêu hy sinh mạng sống và đủ mạnh để lấy lại.Tình yêu khiêm hạ cúi xuống để chinh phục ông. Các vết sẹo của Thầy đã chữa lành vết thương hoài nghi của Tôma. Lòng ông tràn ngập niềm cảm mến tri ân.  Ông thoát ra khỏi sự cứng cỏi, khép kín, tự cô lập, để bước vào thế giới của lòng tin. Tôma đã tin vượt quá điều ông thấy. Ông chỉ thấy và chạm đến các vết sẹo của Thầy, nhưng ông tin Thầy là Chúa, là Thiên Chúa của ông.

Tại sao thân xác phục sinh của Chúa Giêsu vẫn còn mang các thương tích của cuộc khổ nạn? Các vết sẹo ấy có ý nghĩa gì đối với chúng ta?

1. Những vết sẹo giúp các môn đệ nhận ra Chúa

Chúa Giêsu phục sinh giúp các môn đệ nhận ra Ngài nhờ những vết sẹo. Ngài cho họ xem những vết sẹo ở tay và cạnh sườn. Những vết sẹo nói lên một điều quan trọng: Thầy chính là Đấng đã bị đóng đinh và đâm thâu; Thầy đã chết nhưng Thầy đã thắng được tử thần. Các môn đệ mặc dầu được tiên báo trước về cuộc Phục sinh (Mt 18,31-34), nhưng những tang tóc và lo sợ xâm chiếm hết tâm hồn họ lúc này. Cho nên để họ được an tâm và bình an hơn, Chúa nói: “hãy xem chân tay Thầy đây…”. Thân xác phục sinh của Chúa bây giờ vẫn còn mang những dấu vết của cuộc thụ nạn như các dấu đinh, lằn roi… Chúa bảo họ cứ sờ vào đó để khỏi còn phải nghi ngờ về bóng ma hay thần linh nào khác “Chính Thầy đây mà! Cứ rờ xem, ma đâu có xương thịt như anh em thấy Thầy có đây” (Lc 24,39); “Người đưa tay chân ra cho các ông xem” (Lc 24,40). Bàn tay mang dấu đinh là bàn tay nhen lửa và nướng cá bên biển hồ Tibêria. Bàn tay trao tấm bánh đời mình trong bữa Tiệc Ly bây giờ trao tấm bánh mình mới nướng cho môn đệ.(x.Ga 21,1-14).

Các Tông đồ đã thấy được thân xác vinh quang phục sinh của Chúa.

Thân xác Chúa phục sinh cũng là thân xác trước khổ nạn, nhưng nay không còn bị lệ thuộc vào không gian vào thời gian như thân xác trước nữa. Chúa ra khỏi mồ (Lc 24,3), Chúa vào giữa nhà các Tông đồ đang cửa đóng then cài (Ga 20,19), Chúa đi trên biển (Ga 21,7). Vì thế, thánh Phaolô gọi thân xác phục sinh của Chúa là thân xác thiêng liêng, chí thiện (1Cr 15,40). Thánh Thần tràn ngập trong thân xác ấy.Thân xác Chúa Kitô Phục Sinh được Kinh Thánh gọi là: bất tử (1Cor 15,53), bất diệt, linh thiêng (1Cor 15,44), bất khả thực (Kh 7,16), huyền diệu (Mt 28,1; Ga 20,19). Lanh lẹ (Lc 24,26). Chúa Kitô Phục Sinh đã cởi bỏ tất cả những yếu hèn của nhân loại như đói khát, mệt mỏi. Dù Chúa có ăn uống chút ít, song đó không phải là nhu cầu tự nhiên. Nhưng Chúa làm như vậy để các Tông đồ xác tín hơn rằng Ngài đã sống lại thật với cùng một thân xác trước kia.

2. Những vết sẹo là chứng tích của tình yêu cao cả

Thương tích trên thân thể phục sinh của Chúa Giêsu là một nhắc nhở rằng, Ngài là Thiên Chúa nhưng cũng là một con người như chúng ta, và Ngài đã chịu đau khổ để thông cảm với mọi đau khổ của loài người và để làm gương cho chúng ta.

Khi nhìn đến Chúa Giêsu với các thương tích của cuộc khổ nạn, chúng ta sẽ cảm thấy an ủi hơn, gần gũi hơn với Thiên Chúa và cố gắng vươn lên, không chìm đắm trong buồn sầu cay đắng, không tầm thường hóa cuộc đời trong tội lỗi và vững tin rằng, sự sống lại vinh hiển có giá trị hơn đời này gấp bao lần mà chính Chúa Giêsu đã mở đường đi về sự sống mới.

Qua cuộc khổ nạn mà các vết sẹo vẫn còn lưu lại trên thân thể, Chúa Giêsu Phục Sinh muốn nói với chúng ta rằng sự đau khổ, trong ý nghĩa tích cực là những hy sinh có giá trị cứu độ. Với các vết sẹo ấy, Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta rằng, đau khổ không là một bất hạnh cần phải lẫn tránh, mà tội lỗi gây ra đau khổ mới là điều xấu xa cần phải tránh xa.

Thiên Chúa đã yêu thương nhân loại đến nỗi ban chính Người Con Một; và Người Con Một đã yêu cho đến cùng, đã chịu khổ nạn với trái tim bị đâm thâu khi tự hiến trên thánh giá. Chúng ta cũng phải đáp trả sao cho cân xứng với tình yêu ấy.

Có câu chuyện “Trái tim có nhiều vết sẹo” diễn tả tình yêu chia sẽ trao ban qua những thương tích cuộc đời.

Một buổi chiều trong công viên, có một chàng trai đang chăm chú vẽ một trái tim. Trên khung giấy trắng dần dần hiện ra một trái tim thật đẹp, thật hoàn hảo khiến mọi người đứng xem đều trầm trồ khen ngợi.

Bỗng một ông lão đi đến. Ông trầm tư ngắm nghía bức tranh của chàng trai một hồi lâu, rồi lặng lẽ mượn bút vẽ một hình thoạt nhìn rất lạ, nhìn thật kỹ mới nhận ra đó là hình một trái tim…

Chàng trai ngạc nhiên nhìn trái tim ông lão vừa vẽ, nó bị chắp vá chằng chịt, nhưng rõ ràng vẫn là một trái tim. Trên trái tim ấy, có chỗ như bị khuyết lõm, có chỗ như bị cắt đi và được ghép nối bởi những mảnh to nhỏ khác nhau. Mọi người bắt đầu bàn tán và lắc đầu tỏ ý không hiểu ý nghĩa hình vẽ trái tim của ông lão.

Chàng trai thắc mắc:

– Cụ ơi! Cháu không hiểu vì sao ông lại vẽ trái tim như vậy? Làm sao trái tim lại mang nhiều vết sẹo và ráp nối như thế?

Ông cụ mỉm cười rồi nói:

– Đúng! Trái tim của ta có thể không hoàn hảo, nhưng nó là một trái tim thật sự. Đấy chỉ là do trái tim này đã có thời gian sống và trải nghiệm nhiều hơn trái tim của cậu. Hãy nhìn những dấu vết này! Tuy có nhiều thương tích nhưng tôi luôn tự hào về nó. Cậu biết không, khi tôi trao một mảnh tim của tôi cho một người thân, cha mẹ, anh chị, bạn bè và cả những người mà tôi tình cờ gặp được… thì ngược lại, họ cũng trao cho tôi một mảnh tim của họ để đắp vào chỗ trống ấy. Những mảnh tim này không hoàn toàn giống nhau: phần trái tim mà cha mẹ trao cho tôi bao giờ cũng lớn hơn phần tôi trao lại; con gái tôi dành cho tôi phần trái tim trong trẻo nhất; bạn đời tôi tặng cho tôi phần trái tim đẹp nhất và chung thủy nhất… Những mảnh tim ấy đã ghép vàp nhau và tạo thành những vết chắp vá của trái tim tôi. Chính điều này luôn nhắc tôi nhớ về những người tôi yêu dấu, những tình yêu mà tôi đã được chia sẻ trong đời…

Ông lão nói tiếp:

– Còn những vết lõm này là phần trái tim tôi trao đi mà chưa được nhận lại. Cậu biết đấy, tình yêu trao đi chẳng cần đến sự đền đáp. Dù những khoảng trống này nhiều lúc làm tôi đau đớn, nhưng cũng chính nhờ chúng mà tôi có động lực để khao khát được sống, và có niềm tin vào một ngày mai tốt đẹp hơn. Chàng trai ạ, nhờ những mảnh chắp vá này mà trái tim của tôi có sức sống mãnh liệt, trưởng thành và cảm nhận cuộc sống trọn vẹn, sâu sắc hơn.

Đám đông im lặng, còn chàng trai không giấu được nỗi xúc động đang dâng trào trong lòng. Anh tự hào cầm bút cắt đi một mảnh trong trái tim hoàn hảo của mình và đắp vào một phần khuyết của trái tim ông lão. Đáp lại, ông lão cũng tặng anh một mảnh trái tim ông.

Giờ đây, trái tim của chàng trai đã có một vết sẹo. Tuy không còn hoàn hảo nữa, nhưng chàng trai cảm thấy trái tim mình đầy sức sống hơn bao giờ hết. Anh nhận ra sức mạnh và vẻ đẹp của trái tim không phải ở chỗ nó được giữ kỹ để không có một vết tích, tổn thương nào của cuộc đời mà trái lại, càng hòa nhập và biết chia sẻ, dám yêu, dám sống và sẵn sàng cho đi, trái tim của con người càng trở nên nhạy cảm, sâu sắc và đập mạnh mẽ hơn…

3. Những vết sẹo là dấu chứng của phục sinh

Thân xác Chúa Phục Sinh mang những vết sẹo cuộc khổ nạn. Những cái sẹo ấy sẽ ở mãi với Ngài trên thiên quốc. Những cái sẹo gợi lên những kỷ niệm buồn phiền, thất bại, đớn đau. Nhưng nếu không có những cái sẹo thì cũng chẳng có phục sinh. Chúa Giêsu vượt thắng sự chết, đập tan quyền lực của tử thần, Ngài phục sinh và bước vào một cuộc sống mới viên mãn hơn, vững bền hơn. Dẫu rằng vẫn còn đó những dấu vết của thương đau, những vết sẹo của bạo lực bất công, nhưng giờ đây Ngài đã khởi sự một sự sống bất diệt, vượt trên vòng lao lý của khổ đau, của giới hạn kiếp người, Ngài đã bước vào thế giới của niềm vui, của Tình Yêu!

Con người chúng ta, ai cũng thường mang những vết sẹo trên thân xác. Có những vết sẹo gợi lại cả một vùng trời kỷ niệm. Sống chiều kích Phục Sinh trong ý nghĩa trao ban và tận hiến chính là sống ý nghĩa “trái tim có nhiều vết sẹo”.

Nếu hiểu cuộc phục sinh của Chúa Giêsu là sự vượt qua nghịch cảnh để bước vào đời sống mới, thì mỗi khi một cá nhân hay một gia đình hoặc một tập thể vượt qua được những nghịch cảnh của đời mình, cũng có thể gọi đó là sự phục sinh! Trước khi thụ nạn, Chúa Giêsu đã từng nói với các môn đệ về những thống khổ như là nỗi đau quặn của một phụ nữ khi sinh nở, để sau đó có được niềm vui khi một mầm sống mới được khai sinh (Ga 16, 20-22).

Nhìn lại đời sống mình, chúng ta sẽ nhận thấy vô vàn sự Phục sinh. Rất nhiều những cuộc vượt qua nho nhỏ trong đời sống hướng tới Phục sinh. Khi một tình bạn, một tình yêu bị tan vỡ, chúng ta biết hàn gắn lại bằng yêu thương thì đó không phải là sự Phục sinh sao ?  Khi ta có kinh nghiệm về sự tha thứ, dẹp tan lòng thù hận, loại trừ sự oán ghét, đó là cuộc vượt qua phi thường …

Như mùa xuân sau đông tàn, Phục sinh mãi mãi vọt lên trong đời sống chúng ta những chồi lộc ân sủng, những sức sống tươi trẻ. Tin vào Đấng Phục Sinh là thắp lên ánh sáng mới, là đón nhận tình yêu mới cho mùa xuân tâm hồn.

Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

Bình an cho các con

Bình an cho các con

Chúa Nhật thứ hai Phục Sinh là Chúa Nhật kết thúc tuần bát nhật Lễ Phục Sinh. Bài Phúc Âm hôm nay trích từ Phúc Âm thánh Gioan có thể được xem như là một tổng kết về mầu nhiệm Phục Sinh và hơn nữa là một tổng kết cho con đường đức tin của các Tông đồ, của các đồ đệ Chúa.

Chúa Giêsu Phục Sinh hiện ra cho các Tông đồ, củng cố đức tin của họ với hồng ân Thánh Thần và sai các ngài ra đi với sứ mạng mà Chúa đã chuẩn bị các ngài trong suốt thời gian đến Phục Sinh: "Như Cha đã sai Thầy, thì giờ đây Thầy cũng sai các con ra đi".

Con đường đức tin của các Tông đồ từ ngày được gọi theo Chúa cho đến giây phút quan trọng được củng cố bởi quyền năng của Chúa Phục Sinh. Chọn theo con đường đức tin này như được gợi lại cho chúng ta chiêm ngắm nơi đoạn Phúc Âm Chúa Nhật hôm nay, trước hết chúng ta nhìn thấy các Tông đồ lo sợ thu mình lại trong căn phòng đóng kín, lo sợ trước những chống đối của những kẻ không tin Chúa, lo sợ trước mầu nhiệm thập giá mà Chúa đã trải qua và các ngài cũng sẽ phải trải qua, lo sợ trước sứ mạng tương lai mà họ đã nghe Chúa nói đến và đã được chuẩn bị để thi hành nhưng cảm thấy chưa đủ sức để thi hành. Nếu không có mầu nhiệm Phục Sinh, nếu không có quyền năng Chúa Phục Sinh đến đổi mới con người họ thì đức tin của các Tông đồ chưa được trưởng thành hoàn toàn đúng mức Chúa mong muốn để có thể làm chứng cho Chúa, chu toàn sứ mạng Chúa trao phó cho.

Trong bài Phúc Âm hôm nay, chúng ta được chứng kiến một cuộc thay đổi quan trọng trong đời sống các Tông đồ, chứng kiến một cuộc đổi mới và kiện cường đức tin nơi các Tông đồ, từ lo sợ đến được củng cố để ra đi bắt đầu sứ mạng. Trước khi Chúa Phục Sinh hiện đến, các Tông đồ đang sống trong lo sợ, đóng kín nơi chính mình và đóng kín trong căn phòng. Ai trong chúng ta đã không trải qua một giai đoạn thử thách này và cũng có thể là đang trải qua thử thách đức tin, đó là những giây phút đen tối bị cám dỗ mất đức tin vào Chúa về những nghịch cảnh xảy ra trong đời sống, về mầu nhiệm thập giá trong đời sống của mỗi người chúng ta.

Trong bộ phim có tựa đề là Dấu Ấn Thứ Bảy, có một đoạn đối thoại thật ý nghĩa:

Thần chết hiện ra trong dung mạo của một người phàm và đã đối thoại với một dũng sĩ, cuộc đối thoại đó như sau:

Trước hết Dũng sĩ bắt đầu:

Tại sao Thiên Chúa lại ẩn mình? Tại sao Ngài không xuất hiện mạc khải chính mình cho chúng ta biết? Tại sao Thiên Chúa không đưa tay Ngài ra và chạm đến chúng ta? Tại sao ít ra là Ngài nói vài lời với chúng ta?

Thần chết trả lời:

Nhưng Thiên Chúa đâu có làm điều đó được, không phải vậy sao? Ngài không chạm đến chúng ta, Ngài không nói, Ngài chỉ giữ im lặng.

Dũng sĩ tiếp:

Đành vậy, Thiên Chúa không làm điều gì như vậy, Ngài không chạm đến chúng ta, Ngài không nói chuyện với chúng ta. Đôi khi tôi nghi ngờ không biết Ngài có thật sự hiện hữu ở bên kia nữa không?

Thần chết trả lời:

Có thể Ngài không hiện hữu ở bên kia, có thể không ai hiện hữu bên kia cả, có thể là tất cả chúng ta chỉ hiện diện một mình nơi cõi đời này mà thôi. Dũng sĩ có bao giờ nghĩ như vậy hay không? Có lẽ Thiên Chúa không có đâu, chỉ có chúng ta sống cô đơn lẻ loi một mình trong thế giới này mà thôi.

Anh chị em thân mến!

Mẫu đối thoại trên đây có thể làm chúng ta suy nghĩ thêm. Các Tông đồ ngày xưa là những kẻ duy nhất được nghe Chúa nói, được sống với Chúa như với một con người cụ thể bằng xương bằng thịt, nhưng không phải vì thế mà các Ngài không bị thử thách, không bị lạc mất niềm tin vào Chúa khi Chúa trải qua cuộc khổ nạn, các Ngài phải tin vào Chúa là Con Thiên Chúa, là Đấng đã chết và đã phục sinh.

Chúa cho các Tông đồ và đặc biệt là Tôma, cũng như chúng ta đã đọc qua trong bài Phúc Âm hôm nay, được dịp may kiểm chứng một cách cụ thể: "Tôma, con hãy xỏ tay con vào đây". Chúng ta ngày hôm nay không thể nào được diễm phúc kiểm chứng như vậy, như cuộc đối thoại tưởng tượng giữa Dũng sĩ và Thần chết, nhưng như các Tông đồ ngày xưa, chúng ta cần tin vào Chúa để không còn sống trong lo sợ, để có đủ sức chu toàn sứ mạng của Chúa. Lời Chúa phán với Tôma cũng như cho chúng ta ngày hôm nay đó là: "Phúc cho những ai không thấy mà tin".

Xin Chúa ban cho chúng ta hồn ân Chúa Thánh Thần, xin Chúa ban cho chúng ta sự bình an của Ngài để củng cố chúng ta trong đức tin. Amen.

Veritas Radio

Củng cố đức tin

Củng cố đức tin

Có một chi tiết đặc biệt liên quan tới đoạn Phúc Âm vừa nghe, đó là cùng một đoạn Phúc Âm này đã được chọn để dùng cho Chúa Nhật thứ hai phục sinh cho ba năm liền A, B, và C, nghĩa là năm nào vào Chúa Nhật thứ hai phục sinh, chúng ta cũng đều đọc, nghe đoạn Phúc Âm này. Chi tiết này nói lên tầm quan trọng và ý nghĩa phong phú trong Mùa Phục Sinh. Chúa Giêsu Phục Sinh là trung tâm và là nguồn năng lực tái tạo cộng đoàn những đồ đệ của Chúa.

Ngay từ khởi đầu đoạn Phúc Âm, chúng ta được nhắc lại việc Chúa Giêsu hiện ra cho các tông đồ nhưng lại vắng mặt Thomas, và trong lần hiện ra này, Chúa đã ban cho các tông đồ sự bình an: "Bình an cho các con". Sự bình an này làm cho các tông đồ thực sự được vui mừng. Các tông đồ được vui vì thấy Chúa, rồi Chúa trao ban cho các tông đồ Chúa Thánh Thần, quyền năng tha tội và sai các ông ra đi làm chứng cho Chúa. Các tông đồ có thể nói được trong giai đoạn này – trong phần thứ nhất của đoạn Phúc Âm hôm nay – đã tin phần nào và đã chia sẻ cho Thomas: "Chúng tôi đã xem thấy Chúa", nhưng Thomas không tin và đòi kiểm chứng một cách cụ thể. Có thể nói, đây là giai đoạn thứ hai của cộng đoàn. Thái độ cứng lòng tin của Thomas đã gây chia rẽ hay làm yếu kém đi sức mạnh làm chứng của cộng đoàn cho Chúa Phục Sinh. Một cộng đoàn chia rẽ như vậy thì chắc chắn không thể nào có sự bình an, không thể nào có niềm vui để làm chứng cho Chúa Phục Sinh.

Cộng đoàn Kitô chúng ta ngày hôm nay là một cộng đoàn của những người tin Chúa Phục Sinh đã qui tụ lại. Chắc chắn Chúa Phục Sinh hiện diện ở giữa chúng ta, Ngài là trung tâm liên kết và nâng đỡ sự hiệp nhất của cộng đoàn chúng ta, Ngài là nguồn mạch của sự bình an và niềm vui của cộng đoàn chúng ta. Chúa Phục Sinh ban cho cộng đoàn các đồ đệ đầu tiên sự bình an, Chúa Thánh Thần và sức mạnh làm chứng cho Chúa. Đó là một cộng đoàn lý tưởng cho tất cả mọi cộng đoàn Kitô khác rải rác khắp nơi trên thế giới, qua muôn thế hệ. Đó là một cộng đoàn lý tưởng, trong đó niềm vui và sự bình an đã thay thế cho sự u buồn thất vọng: thấy Chúa các tông đồ đều vui mừng. Và niềm vui, sự bình an này luôn luôn là dấu chỉ cho sự hiện diện của Chúa. Nhưng vì là những con người cụ thể, như chúng ta đây, mỗi người đều có những giới hạn của mình và cộng đoàn của chúng ta, cộng đoàn của các môn đệ Chúa chắc chắn phải trải qua những thử thách, những trở ngại.

Sự vắng mặt, sự cứng lòng tin của Thomas, thái độ của Thomas, tất cả những điều đó đã góp phần hay ảnh hưởng trên sự hiệp nhất của cộng đoàn. Sự vắng mặt của chúng ta, sự cứng lòng tin của mỗi người chúng ta hay thái độ của chúng ta đối với Chúa Giêsu cũng như đối với anh chị em, thái độ đó cũng có ảnh hưởng trên sự hiệp nhất của cộng đoàn. Chúa Giêsu đã đáp lại khuyết điểm này của cộng đoàn các tông đồ để mang lại niềm vui và sự bình an, để trao ban sứ mạng qua việc Chúa đáp lại đòi hỏi của Thomas để biến đổi ông, và Thomas đã tin và tuyên xưng: "Lạy Chúa tôi, Lạy Chúa Trời tôi, Lạy Chúa và là Chúa Trời con". Và Chúa Giêsu dường như muốn cho các môn đệ của Ngài từ đó không nên thách thức như Thomas nữa: "Phúc cho những ai không thấy mà tin".

Cộng đoàn chúng ta hôm nay cần thực hiện lý tưởng của cộng đoàn Kitô tiên khởi của các đồ đệ. Hãy để cho Chúa Giêsu Phục Sinh qui tụ chúng ta lại trong tình yêu của Người, hãy đón nhận sự bình an của Chúa trong niềm vui nhờ ân sủng của Chúa Thánh Thần để làm chứng một cách xứng đáng cho Chúa. Nhưng như vừa nói chúng ta đây là những con người có giới hạn và Chúa Phục Sinh cũng đã hiểu như thế nên Ngài đã thiết lập và để lại cho chúng ta một phương thế để tái tạo sự hiệp nhất của cộng đoàn, để gìn giữ cộng đoàn được luôn hiệp nhất với Chúa và giữa mọi người với nhau, phương thế đó là bí tích Hòa Giải: "Các con tha tội cho ai thì trên trời cũng tha; các con cầm tội ai thì trên trời cũng cầm lại".

Không có phương pháp nhân loại nào khác có sức phục hồi và củng cố sự hiệp nhất cộng đoàn các môn đệ Chúa cho bằng phương thế siêu nhiên mà Chúa Giêsu đã thiết lập và muốn cho các tông đồ sử dụng, và chúng ta biết rất rõ phương thế đó là phương thế nào. Đó là sự tha thứ bí tích, và đó cũng là bí tích của sự tha thứ. Dĩ nhiên, để lãnh nhận bí tích tha thứ của Chúa để chúng ta được tha thứ và tha thứ cho nhau, để xây dựng lại sự hiệp nhất cộng đoàn các môn đệ Chúa, để làm cho cộng đoàn chúng ta có thể chu toàn sứ mệnh Chúa đã trao phó "Hãy làm chứng cho Thầy", thì mỗi người chúng ta cần hành động như Thomas, cần kiểm điểm lại đức tin của mình và loại bỏ đi những gì không phù hợp với đức tin trong nếp sống của chúng ta, để có thể khiêm tốn tuyên xưng mỗi ngày, mỗi giây phút: "Lạy Chúa, Lạy Chúa Trời con, Lạy Chúa, con tin Chúa là Thiên Chúa và Đấng Cứu Độ của con." Cần phải canh tân đức tin hàng ngày để đức tin của chúng ta được củng cố thêm mãi, để chúng ta có được sự bình an, niềm vui và sức mạnh làm chứng cho Chúa mọi nơi, mọi lúc.

Xin Chúa giúp mỗi người chúng ta canh tân đức tin và củng cố đức tin.

Veritas Radio

GẶP GỠ ĐỨC KITÔ PHỤC SINH

GẶP GỠ ĐỨC KITÔ PHỤC SINH

Trong suốt tuần Bát Nhật, từ đêm vọng Phục sinh tới hôm nay, Chúa nhật 2 Phục sinh, các bài đọc đã trình bày cho ta nhiều lần Đức Kitô phục sinh hiện ra. Từ những lần thấy Đức Kitô phục sinh hiện ra ấy, các môn đệ đã có những cảm nghiệm sau đây:

1. Cảm nghiệm đầu tiên là, Đức Kitô đồng hành với họ trên mọi nẻo đường.

Đức Kitô phục sinh không còn bị giới hạn trong không gian. Người có thể cùng lúc xuất hiện ở nhiều nơi khác nhau. Người xuất hiện trong vườn, gần mồ chôn Người. Người xuất hiện bên bờ hồ, nơi các môn đệ đang chài lưới. Người xuất hiện ở làng Emmau, cách Giêrusalem một quãng đường dài. Người xuất hiện trong phòng đóng kín cửa, nơi các môn đệ tụ họp. Sau này, Người còn xuất hiện ở mãi tận Damas, bên nước Syrira, nơi Phaolô lùng bắt người theo đạo. Không gian xa xôi không làm chậm bước Ngài. Không gian khép kín không ngăn được bước Ngài. Đức Kitô phục sinh ra khỏi mồ có mặt trên mọi nẻo đường của cuộc sống.

Đức Kitô phục sinh cũng không bị giới hạn trong thời gian. Người xuất hiện với Maria khi trời còn đẫm sương khuya. Người xuất hiện bên bờ hồ với các môn đệ khi bình minh vừa ló rạng. Người xuất hiện trong phòng tiệc ly ngay giữa ban ngày. Người xuất hiện ở Emmau khi trời sụp tối. Trong mọi lúc của cuộc đời, Đức Kitô luôn có mặt. Không có thời gian nào Người không ở bên ta.

Đức Kitô phục sinh không còn bị giới hạn, trong một cảnh ngộ cuộc sống nhất định. Trong vườn, Người xuất hiện như người làm vườn.. Bên những người chài lưới, Người xuất hiện như một bạn chài chuyên nghiệp, rành rẽ đường đi của đàn cá. Trên đường Emmau, Người xuất hiện như một khách hành hương, đồng hành với hai linh hồn buồn bã, e ngại đường xa. Người xuất hiện để khích lệ các môn đệ đang lo buồn sợ hãi. Người xuất hiện để soi chiếu niềm nghi ngờ tăm tối của Tôma.

2. Cảm nghiệm thứ hai là, Đức Kitô phục sinh khơi dây niềm bình an, tin tưởng.

Biết các môn đệ đang buồn sầu, bối rối, bấn loạn sau cái chết của Thầy, Đức Kitô phục sinh mỗi lần hiện ra, đều chúc các ông: "Bình an cho các con". Người còn thổi hơi vào các ông và nói: "Các con hãy nhận lấy Thánh Thần".

Cử chỉ thổi hơi nhắc cho ta nhớ lại việc sáng tạo. Khi ấy vũ trụ còn là một khối hỗn mang, vô định hình. Rồi Thần LinhChúa bay là là trên mặt nước. Nhờ đó mọi vật dần dần có hình hài vóc dáng, đi vào trật tự, ổn định.

Sau cuộc khổ nạn của Đức Kitô, tâm hồn các môn đệ cũng tan nát như một khối hỗn mang, vô định hình. Đức Kitô thổi hơi ban Thánh Thần trong một tạo dựng mới, đem lại trật tự ổn định, uốn nắn các môn đệ thành những con người mới, tràn đầy bình an của Chúa Thánh Thần. Sau khi gặp Đức Kitô phục sinh, Maria buồn bã trở nên vui tươi, hai môn đệ Emmau u sầu tuyệt vọng trở nên phấn khởi, các môn đệ chài lưới mệt mỏi rã rời được hồi phục sức lực, các môn đệ sợ sệt bối rối ẩn núp trong phòng được bình an, Tôma nghi nan bối rối được vững niềm tin mến. Đức Kitô phục sinh chính là niềm bình an cho các ông.

3. Cảm nghiệm thứ ba, cũng là cảm nghiệm quan trọng nhất, Đức Giêsu phục sinh làm cho cuộc đời có ý nghĩa.

Sau khi Đức Kitô bị hành hình, cả một bầu trời sụp đổ. Các môn đệ tuyệt vọng. Họ sống trong lo sợ, buồn bã, chán chường. Không, họ không còn sống nữa vì cuộc đời đối với họ chẳng còn ý nghĩa gì. Họ như đã chết với Thầy. Chỉ còn nỗi lo sợ, nỗi buồn, niềm tuyệt vọng sống trong họ thôi. Đức Kitô là linh hồn của họ. Linh hồn đã ra đi. Xác sống sao được.

Khi Đức Kitô phục sinh trở lại, những xác chết bỗng hồi sinh, những bộ xương khô bỗng chỗi dậy, mặc lấy da thịt, trở lại kiếp người, những trái tim nguội lạnh trở lại nhịp đập, ánh mắt nụ cười lại rạng rỡ tươi vui, vì cuộc sống từ nay có một linh hồn, cuộc sống từ nay có một ý nghĩa.

4. Cảm nghiệm cuối cùng là, Đức Kitô phục sinh sai họ đi loan báo Tin Mừng Phục sinh.

Đức Giêsu Phục sinh đã biến đổi toàn bộ cuộc đời các môn đệ. Đức Kitô phục sinh là Tin Mừng lớn lao trọng đại đem lại ý nghĩa cho cuộc đời. Nên các môn đệ không thể không loan báo Tin Mừng lớn lao đó. Maria lập tức chạy về loan tin cho các môn đệ, mời Phêrô và Gioan đến xem ngôi mộ trống. Hai môn đệ Emmau lập tức trở về Giêrusalem bât chấp trời đã tối đen. Phêrô chạy bay ra mồ dù còn sáng sớm và còn bị nỗi sợ người Do Thái ám ảnh. Và sau này, Phaolô, sau khi ngã ngựa, đã trở thành một người loan báo Tin Mừng không biết mệt mỏi.

Hôm nay chính Đức Kitô Phục Sinh nói với các ông: "Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con".

Tất cả những người đã thấy Đức Giêsu Phục Sinh đều trở thành những sứ giả loan báo Tin Mừng Phục Sinh. Tất cả các môn đệ đều đã lấy máu mình mà làm chứng cho lời rao giảng. Vì Đức Kitô phục sinh là một Tin Mừng không thể không chia sẻ. Vì lệnh sai đi của Đức Kitô là một lệnh truyền không thể chống cưỡng. Như Thánh Phaolô sau này đã nói: "Khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng".

Hôm nay Đức Giêsu Phục Sinh cũng đang hiện diện bên ta. Người luôn ở bên ta trong mọi thời gian. Từ buổi bình minh khi ta mới chào đời cho đến lúc mặt trời chói lọi của tuổi thanh niên. Từ lúc xế chiều của đời xế bóng cho đến lúc bóng đêm tuổi già phủ xuống đời ta.

Người vẫn ở bên ta trong mọi không gian: trong nhà thờ, nơi trường học, ở sở làm, nơi giải trí, trong gia đình, trong chòm xóm.

Người vẫn ở bên ta trong mọi cảnh ngộ vui buồn của cuộc đời. Người ở bên em bé mồ côi đang khóc đòi vú me. Người ở bên em học sinh đang miệt mài đèn sách. Người ở bên cô thiếu nữ đau buồn vì bị tình phụ. Người ở bên chàng thanh niên lạc hướng giữa ngã ba đường. Người ở bên ngững cuộc đời bế tắc không lối thoát.

Chỉ cần quay đầu, dừng bước là gặp được Người. Hãy khao khát đón chờ Người. Hãy tỉnh thức lắng nghe tiếng bước chân Người. Bước chân Người rất nhẹ nhàng, không ồn ào. Đừng bỏ lỡ cơ hội gặp Người.

Gặp được Người, lòng ta sẽ bình an, linh hồn ta sẽ hồi sinh, cuộc đời ta sẽ sống, sống mãnh liệt, sống phong phú, sống dồi dào.

Lạy Đức Kitô Phục Sinh, con đang chìm trong cái chết dần mòn. Xin hãy đến và cho con được Phục Sinh với Người.

ĐTGM Giuse Ngô Quang Kiệt

Lòng Chúa Xót Thương

Lòng Chúa Xót Thương

Nếu tình yêu là bản tính của Thiên Chúa thì lòng thương xót là cách thức Chúa bày tỏ tình yêu, là dấu chỉ cho tình yêu vững bền của Ngài. Lòng thương xót nhìn kẻ tội lỗi, không oán giận, không trả thù bằng sự giận dữ hay chừng phạt, nhưng xót xa vì họ lầm đường lạc lối, xót xa vì họ đang đi đến hố diệt vong. Lòng thương xót tựa như ánh mắt của tình yêu, giúp người ta nhận ra nhu cầu của tha nhân để chia sẻ, cảm thông, nâng đỡ, xoa dịu hay chữa lành. Chúng ta có thể cảm nghiệm lòng thương xót của Chúa qua dọc dài lịch sử cứu độ.

Khởi từ tội lỗi của Adam, Chúa không đoạn nghĩa dứt tình với Adam. Chúa vẫn thương Adam và xót xa dường nào khi thấy Adam tủi hổ lẩn trốn trong vườn địa đàng. Adam là kẻ phản bội làm sao dám vác mặt gặp Chúa. Tội lỗi làm cho người ta mặc cảm, xấu hổ và lo sợ khi phải đối diện với sự thật. Thế nhưng Adam phần nào đã bớt đi sự sợ hãi, bớt đi áp lực tâm lý khi nghe tiếng gọi: "Adam, Adam ngươi đang ở đâu?". Âm thanh của tiếng gọi không mang âm sắc của giận dữ hay quở mắng, nhưng tiếng gọi vẫn thân thương dịu ngọt, có điều pha trộn chút âm điệu xót xa. "Phải chăng ngưoi đã ăn trái cây trong vườn mà ta đã cấm?".

Tội có thể được tha, nhưng hình phạt vẫn phải chịu. Nhưng ai là người phải chịu phạt thay cho tội Adam. Thiên Chúa không suy tính thiệt hơn. Không đắn đo suy xét. Ngay tức thời, lời hứa cứu độ đã được ban ra. Chính Ngôi Hai Thiên Chúa sẽ gánh lấy tội Adam và đền thay cho tội lỗi Adam. Có thể nói, lòng thương xót của Chúa được tỏ bầy cụ thể và rõ nét trong cuộc đời của Chúa Giêsu. Cả cuộc đời luôn sống vì người khác, luôn đi đến mọi hang cùng ngõ hẻm để thi ân giáng phúc. Cả trong những lúc đau khổ nhất của cuộc đời, Ngài vẫn không nghĩ đến mình: Ngài xót thương các bà mẹ thành Giêrusalem "đừng than khóc Ta nhưng hãy than khóc con cháu các người; Ngài xót thương những kẻ đã làm hại mình, vì "họ không biết việc họ làm"; Đỉnh cao của lòng thương xót đó là ơn tha tội và ban thưởng hạnh phúc trường sinh. Đó là đặc ân mà anh trộm lành được diễm phúc đón nhận đầu tiên từ cây thập giá: "ngay đêm nay ngươi sẽ ở trên thiên đàng với Ta".

Chính điểm này mà trong dịp giảng tĩnh tâm Giáo triều Rôma, Đức cố hồngY Phanxicô Nguyễn Văn Thuận đã nêu ra 10 điểm khiếm khuyết của Chúa Giêsu trong đó có sự hay quên: chỉ 1 câu nói thành thật với chính mình của tên trộm lành mà Chúa đã quên cả quá khứ tội lỗi của anh. Chỉ cần thấy bóng dáng thằng con trời đánh bỏ nhà đi hoang nay thất thểu trở về là người cha đã quên hết quá khứ đi hoang của người con. Lòng thương xót của Thiên Chúa là vậy. Một vì Thiên Chúa chậm bất bình và rất mực khoan dung mà vua Đavít đã từng nói lên rằng: Nếu Chúa chấp tội nào ai đứng vững. Tình yêu Chúa cao hơn tội lỗi chúng ta, đến nỗi có thể phủ lấp muôn vàn tội lỗi chúng ta.

Tác giả Ron Lee đã viết một câu chuyện trong cuốn "Một Thiên Chúa Tha thứ trong một thế giới không tha thứ" như sau:

Có một vị linh mục là một người rất yêu mến Chúa, nhưng ông luôn bị ám ảnh bởi một tội mà ông đã phạm trong quá khứ. Ngài đã ăn năn sám hối nhưng vẫn không bình an tâm hồn. Cho tới một hôm nghe nói có một phụ nữ trong giáo xứ hay được tiếp xúc và nói chuyện với Chúa trong giấc mơ. Vị linh mục không tin, nên muốn thử bà ta và nói: lần sau bà có nói chuyện với Chúa thì hỏi xem, tôi đã phạm tội gì? Thế là mấy ngày sau gặp lại, vị linh mục đã hỏi bà là Chúa đã nói gì? Bà trả lời: Chúa nói rằng: Ta chẳng còn nhớ gì nữa!

Bài Phúc âm hôm nay cũng cho chúng ta thấy khi hiện ra với các tông đồ, Chúa Giêsu không hề nhắc tới những chuyện đáng tiếc đã xảy ra: nơi Phêrô kẻ chối Chúa ba lần; nơi các tông đồ hèn nhát bỏ chạy nơi vườn Giệtsêmani; nơi Tôma kẻ bi quan, cố chấp luôn đòi sự kiểm chứng minh nhiên và cụ thể. Dường như Chúa đã quên hết và còn ban bình an cho các ông.

Hôm nay kính nhớ lòng thương xót của Chúa, Giáo hội mời gọi chúng ta nhận ra mình là một tội nhân đã được Chúa cứu chuộc bằng giá máu cực thánh, chúng ta hãy biết đền đáp tình yêu Chúa bằng sự hoàn thiện con người của mình như Cha chúng ta ở trên trời. Đồng thời chúng ta cũng dâng hy sinh, lời cầu nguyện cho các tội nhân được ơn trở về với Chúa.

Có lẽ đây là vấn đề mà những người Kitô hữu phải lo lắng quan tâm. Vì qua báo chí và các phương tiện truyền hình truyền thanh chúng ta không khỏi đau xót khi nhìn thấy một thế hệ trẻ sa đoạ, cuồng loạn và lạc mất hướng đi của đời người. Con số thống kê về sì ke, ma túy, mại dâm, phá thai, bệnh nhân nhiễm HIV hay Aid mỗi ngày một tăng theo cấp số nhân, mà một ai đó đã nói một cách mỉa mai rằng: những điều tốt thì không thấy tăng, nhưng tội phạm thì năm nào cũng được nghe câu nói quen thuộc: "năm nay cao hơn năm trước".

Có lẽ Chúa cũng đang cần những con người thanh sạch như như ông Lót trong thành Sôdôma. Ông đã bị dày vò bởi những cảnh đồi bại luân lý diễn ra hằng ngày quanh mình. Ông cố thuyết phục dân thành ăn năn hầu tránh cơn thịnh nộ của Thiên Chúa, nhưng không ai nghe ông. Rồi Abaraham cũng nài xin Chúa tha thứ nhưng lại không kiếm được 10 người công chính, thế là cả thành bị tiêu diệt.

Và hôm nay, Chúa đang cần có nhiều người như thánh nữ Faustina, biết dâng những hy sinh đau khổ của mình như lễ vật tôn thờ Thiên Chúa và cứu thế gian khỏi cơn thịnh nộ của Thiên Chúa. Biết phó dâng bản thân, gia đình và nhân loại cho lòng thương xót của Chúa. Ước gì mỗi người chúng ta hãy sám hối về lỗi phạm của mình và hãy dâng những hy sinh và lời cầu nguyện cho kẻ có tội được ơn trở về với Chúa. Nguyện xin Chúa là Đấng giầu long xót thương tha thứ và ban bình an cho mỗi người chúng ta. Amen.

LM. Giuse Tạ Duy Tuyền

Nỗi oan Tôma

Nỗi oan Tôma

Đối với phần đông tín hữu Việt Nam, danh xưng Tôma khơi gợi về một thái độ, rất riêng tư nhưng cũng rất điển hình, chẳng những không tích cực mà xem ra còn để lại nhiều tai tiếng. Gặp một tâm hồn cứng cỏi trước những biểu cảm của niềm tin, người ta đã khéo ví von “cứng lòng như Tôma”; thấy ai biểu lộ do dự hoặc nghi ngờ trước những sự kiện tôn giáo, người ta đã vội đưa vào gia phả “con cháu thánh Tôma”. Kể cũng oan.

Thật ra, đi liền với danh xưng Tôma lại là một bài học dẫn đến niềm tin, và cũng còn đó lời gọi sống sao cho mối phúc thứ chín, như người ta gọi về lời Chúa Giêsu kết thúc trang Tin Mừng hôm nay “Phúc cho kẻ không thấy mà tin”, được trở thành hiện thực trong đời mỗi Kitô hữu.

1. LẠY CHÚA TÔI, LẠY THIÊN CHÚA CỦA TÔI

Niềm tin của Tôma vào Đấng Phục Sinh là cả một chặng đường trong đó yếu tố trước hết chính là cộng đoàn: “Chúng tôi đã được thấy Chúa”. Chính vì chứng từ của cộng đoàn này mà Tôma đã tự vấn để rồi sau đó mới đi tới đức tin. Ngay việc các môn đồ hội họp vào ngày thứ nhất trong tuần cùng với lời chúc bình an của Đấng Phục Sinh, làm bối cảnh hình thành truyện Tôma, cũng cho thấy vai trò của cộng đoàn trong việc khai sinh đức tin nơi một người.

Nhưng yếu tố chủ động hơn phải được tìm thấy trong phản tỉnh của cá nhân ông. “Nếu tôi không thấy… tôi không tin”. Câu nói tự phát ấy đã trở thành tai tiếng khiến nhiều người nghĩ rằng Tôma là một kẻ cứng đầu cứng cổ, đòi hỏi, nghi ngờ. Nhưng thực ra, ông là người thực tiễn. Chính nhờ ông lên tiếng mà ta mới thấy rõ hơn thế nào là trăn trở của đức tin thuở ban đầu và thế nào là nỗ lực cá nhân làm cho niềm tin có được bản sắc riêng không thể lẫn với người khác. Nếu hôm trước Tôma đòi thấy mới tin, thì tám ngày sau, qua tiếp xúc cá nhân với Đấng Phục Sinh, ông đã tuyên xưng không phải bằng công thức chung nữa, mà bằng một cách rất riêng làm thành đỉnh cao tuyên tín Phục Sinh: “Lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa của tôi”.

Và niềm tin chỉ có thể đạt được kết quả khi có yếu tố quyết định chính là hồng ân Thiên Chúa, như một bao trùm từ khởi sự cho đến hoàn thành. Nguyện vọng của Tôma xem ra ngược ngạo, nhưng đã được Đức Giêsu thanh luyện, để cuối cùng khi dâng lời tuyên tín, cũng là lúc ông được dẫn vào một nhận thức mới mẻ hoàn toàn. Thay vì phải thấy mới tin, ông nhận ra rằng phải tin mới thấy trọn vẹn: thấy Đấng Phục sinh và con người Giêsu cũng là một, thấy Đấng Phục sinh rốt cuộc là Chúa và là Thiên Chúa của mình, và thấy niềm tin vượt lên tất cả sẽ trở thành hạnh phúc.

2. ĐỪNG CỨNG LÒNG, NHƯNG HÃY TIN

Chuyện lòng riêng của Tôma cũng là chuyện lòng chung của muôn lòng tín hữu. Từ nỗi oan Tôma, ngày nay người ta hiểu hơn rằng niềm tin không phải là một yếu tố đơn thuần, mà là một tổng hợp giữa ơn thánh và nghị lực con người, trong đó có cộng đoàn và mỗi cá nhân.

Chỉ dựa vào ơn thánh, người ta có nguy cơ rơi vào thái độ coi mọi sự là bởi Chúa nên không cần phải đào sâu tìm hiểu nữa. Có biết đâu tin như thế là không còn tin nữa, mà một cách nào đó đã là cả tin. Vì tin tất cả nên cả tin, hay vì cả tin nên tin tất cả? Chỉ dựa vào lý trí, người ta lại có nguy cơ khác là thái độ muốn giới hạn tri thức về thực tại và tiêu chuẩn của kinh nghiệm khả giác hoặc khả năng suy luận: những gì không hiểu, không đo lường sờ chạm, đều bị chối từ. Có biết đâu tin như thế cũng không còn là tin nữa, mà xem ra lại gần với sự bất tín! Nếu chỉ dựa vào cộng đoàn thôi, người ta còn có thêm một nguy cơ nữa là thái độ tiêu cực. Bên ngoài có vẻ ngoan ngùy, nhưng thực chất là dấu hiệu của một niềm tin hời hợt. Lúc đạo giáo hưng thịnh xem ra không có vấn đề, nhưng khi sự đạo phải bước vào thầm lặng thì biết đâu bởi vì dễ tin nên cũng dễ bỏ niềm tin trước bất cứ ai?

Thành ra, phải xem trường hợp Tôma như một kinh nghiệm, và cần xem chặng đường niềm tin của ông như một kinh điển cho niềm tin đang dấn bước đi trong cuộc sống. Đừng cứng lòng! Phải chăng là lời gọi hãy xa đi những thái độ không phù hợp, để chẳng những tránh được khủng hoảng, mà dường như còn nghe lại từng ngày lời ân cần đã một lần ngỏ với Tôma ở cuối chặng đường gặp gỡ: “Nhưng hãy tin!”

3. PHÚC CHO KẺ KHÔNG THẤY MÀ TIN

Cũng từ nỗi oan Tôma, tín hữu hôm nay cảm nhận hơn niềm vui trong đức tin của mình. Niềm vui của Tôma là được thấy Chúa nên tin, còn niềm vui của đời tín hữu lại là tin để được thấy Chúa. Tin như thế là một hạnh phúc.

Trong hạnh phúc ấy, sau này các tông đồ đã qui tụ cho Chúa những kẻ tin, và những kẻ tin sơ khai đã vui mừng cử hành niềm tin của mình một cách sống động, không những qua nghi thức phụng vụ, mà còn qua cách sống cộng đoàn biết chia sẻ và phục vụ lẫn nhau, và niềm hạnh phúc, cuối cùng, sẽ là sức mạnh chiến thắng.

Nhưng với kẻ tin hôm nay, tất cả vẫn còn ở phía trước. Bổn phận của ta là phải khổ công vun đắp niềm tin của mình sao cho thắm đượm hồng ân Thiên Chúa mà vẫn không quên nỗ lực đóng góp của con người, sao cho chan hòa với nhịp sống cộng đoàn mà vẫn không triệt tiêu bản sắc cá nhân. Và một khi niềm tin muốn khơi dậy niềm tin, thì cái bổn phận kia đã trở thành trách nhiệm loan báo hạnh phúc cho những người đồng thời.

Tuy nhiên, phải thú nhận rằng niềm tin hạnh phúc ấy còn lắm nhạt nhòa. Đó đây trong nhịp sống chung Giáo Hội cũng như trong nếp sống riêng mỗi tín hữu, vẫn có thể có những lúc ngại tin hoặc chậm tin vào điều mình không thấy. Nhất là phải hy sinh những hạnh phúc chính đáng thấy được để vươn đến một thứ hạnh phúc ở ngoài tầm nhìn khả giác. Quả là vất vả. Nhưng chính lúc ấy, Tôma xuất hiện như một người bạn tri âm, như một người thầy đã từng trải nghiệm. Và lời Đức Giêsu nói với ông lại trở thành lời vỗ về đem lại sức mạnh. Nghe trong mối phúc thứ chín có lời dặn dò: muốn thấy điều mình tin, hãy bắt đầu bằng cách tin điều mình không thấy; và chừng như cũng có lời ước hẹn:tin điều mình không thấy sẽ được thấy điều mình tin.

Ngày nay nỗi oan Tôma vẫn còn đó. Một mình ông chịu tai tiếng để sau này người ta biết đường mà tránh. Một mình ông chịu quở là cứng lòng tin để tín hữu hiểu rằng phải vượt trên những điều nhìn thấy mới gặp được lối đi hạnh phúc của niềm tin. Và như thế, liệu ta có thể bảo rằng nỗi oan Tôma là một nỗi oan hạnh phúc? Cùng với mầu nhiệm đức tin khi bánh rượu được truyền phép hôm nay, ta sẽ lặp lại lời tuyên xưng của Tôma. Để xin thêm đức tin cho những tấm lòng còn nghi ngại, củng cố đức tin cho những người đang yếu đuối, và xin được hạnh phúc cho mọi kẻ tin.

Đức Giám Mục Giuse Vũ Duy Thống

Lòng thương xót Chúa đối với thế giới là vô cùng vô hạn

Lòng thương xót Chúa đối với thế giới là vô cùng vô hạn

Chúa Nhật Lòng Thương Xót Chúa được tiếp liền sau Đại Lễ Phục Sinh, Phụng vụ Giáo hội mời gọi chúng ta cách đặc biệt, kể từ ngày 22 tháng Tư năm 2001 là sùng kính Lòng Thương Xót Chúa. Chính thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II, hôm nay Giáo hội tôn phong lên bậc hiển thánh muốn đáp lại ý muốn của Thiên Chúa cách minh nhiên được truyền lại cho vị thánh đồng hương của mình là Faustina Kowalska sứ điệp về lòng thương xót Chúa đối với thế giới là vô cùng vô hạn. Chúng ta cùng nhau thực hành lời khuyên của Chúa, để nhận được ơn tha thứ tội lỗi và mọi hình phạt, do đó, trong lời Ca nhập lễ hôm nay : ” Như những trẻ sơ sinh, anh em hãy khao khát sữa thiêng liêng tinh khiết, nhờ đó anh em sẽ lớn lên để hưởng ơn cứu độ. Allêluia“.

Tin Mừng chung cho cả ba năm Phụng vụ A,B,C được trích từ Phúc Âm theo Thánh Gioan (20, 19-31 ), tường thuật lại sự kiện Đức Giêsu phục sinh hiện ra gặp gỡ các tông đồ thật là cảm động. Cử chỉ trao ban bình an của Chúa cho các môn đệ, biến các ông từ những người đang lo sợ và kinh ngạc, trở nên những tác viên của Lòng Chúa Thương Xót. Chúa đưa đôi tay và cạnh sườn còn in những dấu tích của cuộc thương khó và nói với các ông: ” Bình an cho các con. Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con“. Nói thế rồi, Người thổi hơi và phán bảo các ông: “Các con hãy nhận lấy Thánh Thần, các con tha tội ai, thì tội người ấy được tha. Các con cầm tội ai, thì tội người ấy bị cầm lại” ( Ga 20, 21- 23). Chúa Giêsu trao phó cho các ông hồng ân “tha thứ các tội lỗi” diễn tả lòng xót thương vô bờ của Thiên Chúa đối với nhân loại, hồng ân này phát sinh từ những vết thương của đôi tay, đôi chân và nhất là của cạnh sườn Chúa bị đâm thâu qua. Đó là những vết thương hằn in trên cơ thể của Người lúc còn sống, ngay cả sau khi Phục Sinh. Những vết thương vinh quang, mà Tôma đã tận mắt chứng kiến tám ngày sau, thật không thể nào hiểu nổi và tin được lòng thương xót của Thiên Chúa : ” Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một của Ngài” (Ga 3, 16). Từ đó, một làn sóng tình thương nhân từ đổ xuống trên toàn thế giới.

Chúa Kitô Phục Sinh đã ban tặng cho nhân loại hồng ân tha thứ, những con người lầm lạc đang bị thống trị bởi quyền lực sự dữ, của ích kỷ và sợ hãi, tình yêu của Thiên Chúa tha thứ tất cả, hòa giải tất cả và tái tạo tâm hồn, mang lại cho chúng nhân niềm hy vọng . Đó là tình yêu có sức biến đổi con tim và ban tặng bình an. Thế giới ngày nay cần thiết biết bao lòng thương xót của ThiênChúa!

Hôm nay, Chúa nhật Lòng Thương Xót Chúa chúng ta cùng nhau lặp lại câu Thánh Vịnh mà suốt cả tuần Bát Nhật Phục Sinh toàn thế giới ca vang : “Hãy cảm tạ Chúa, vì Chúa hảo tâm, vì đức từ bi của Người muôn thủa” (Tv 117, 1). Quả thật : “Tình thương Chúa tồn tại muôn đời! “. Cái chết và sự sống lại của Chúa Kitô đã thay đổi tận căn số phận của nhân loại nói chung và mỗi người chúng ta nói riêng. Ðây là điều kỳ diệu trong đó được thể hiện trọn vẹn tình yêu thương xót của Thiên Chúa Cha, một tình yêu không ai hiểu thấu, Ðấng vì phần rỗi chúng ta, và để cứu chúng ta, Chúa đã nộp chính Con yêu.

Chúa Giêsu Kitô bị hành hạ và chịu đau khổ vì xót thương chúng ta, thật quá mọi mức độ có thể tưởng nghĩ được. Cả sau biến cố Phục Sinh của Con Thiên Chúa, Thập Giá nói lên và không ngừng nói về Thiên Chúa là Cha, Ðấng tuyệt đối trung thành với tình thương muôn đời của Ngài đối với con nguời. Tin vào tình thương này có nghĩa là tin vào lòng nhân từ của Thiên Chúa”( Dives in misericordia, số 7).

Hãy cảm tạ Chúa vì Chúa hảo tâm, một tình thương mạnh hơn sự chết và tội lỗi. Giờ đây, nhân loại vẫn đang tiếp tục được thừa hưởng tình thương và sự tha thứ của Thiên Chúa đổ ra từ những vết thương vinh hiển và từ trái tim của Chúa, nguồn mạch không bao giờ cạn.

Trái Tim của Chúa Kitô đã trao ban tất cả cho con người: sự cứu chuộc, ơn cứu rỗi, sự thánh hóa. Từ Trái Tim Chúa tuôn tràn sự dịu dàng, thánh nữ Faustina Kowalska thấy xuất phát ra hai tia sáng chiếu tỏa thế gian. Theo lời Chúa giải thích cho thánh nữ, “Hai tia sáng nầy tượng trưng cho máu và nước“. Máu nhắc lại hy tế trên đồi Golgotha và mầu nhiệm Thánh Thể; còn nước, theo hình ảnh phong phú của thánh sử Gioan, làm cho ta nghĩ đến bí tích Rửa Tội và hồng ân Chúa Thánh Thần (x. Ga 3, 5; 4, 14).

Lời kinh chúng ta vẫn đọc: “Lạy Chúa Giêsu, con tín thác vào Chúa“, diễn tả đúng thái độ mà chúng ta muốn có, để chúng ta đặt niềm tin tưởng và phó thác tuyệt đối vào tay Thiên Chúa, Ðấng cứu rỗi duy nhất của chúng ta ! Những tia sáng của lòng nhân từ Chúa ban lại niềm hy vọng, một cách đặc biệt, cho những ai cảm thấy mình bị đè bẹp dưới gánh nặng của tội lỗi.

Chúa Nhật Kính Lòng Chúa Thương Xót do chính thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II thiết lập. Ngài mất vào đúng vọng ngày Kính Lòng Chúa Thương Xót năm 2005. Hôm lại được tuyên phong hiển thánh đúng Đại Lễ này, ngài quả là vị thánh Giáo hoàng của lòng xót thương. Cùng với thánh Giáo hoàng Gioan XXIII nhân hậu hay tỏ lòng thương xót đối với mọi người, phần nào diễn tả thái độ nội tâm của ngài trước Thiên Chúa giàu lòng nhân hậu và hay thương xót.

Lạy Chúa, nhờ sự chết và sự sống lại của Chúa, Chúa đã mạc khải tình yêu của Thiên Chúa Cha cho chúng con, chúng con tin thác vào Chúa, chúng con lặp lại ngày lúc này với xác tín rằng: Lạy Chúa Giêsu, con tín thác vào Chúa, xin thương xót chúng con và thế giới.

Lạy Mẹ maria, Mẹ của lòng nhân từ hay thương xót, xin giúp chúng con là con cái Mẹ duy trì lòng tin vào Con Mẹ, Ðấng cứu chuộc chúng con. Lạy thánh Giáo hoang Gioan XXIII, thánh Gioan Phaolô II hôm nay hiển thánh và thánh nữ Faustina chúng con nhớ đến với hết lòng mộ mến, xin cũng trợ giúp chúng con. Xin cho chúng con được cùng với các thánh, hướng nhìn về Ðấng Cứu Chuộc, và lặp lại lời nguyện : “Lạy Chúa Giêsu, con tín thác vào Chúa“. Bây giờ và mãi mãi. Amen.

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

HÃY PHÓ THÁC TRONG VÒNG TAY THIÊN CHÚA!

HÃY PHÓ THÁC TRONG VÒNG TAY THIÊN CHÚA!

… Xin trích một đoạn thư của Đức Chân Phúc Giáo Hoàng Gioan XXIII (1958-1963) viết cho gia đình, đặc biệt nói về sức khoẻ của hiền mẫu là Bà Cố Marianna Mazzola Roncalli.

Đức Chân Phúc Giáo Hoàng Gioan XXIII có tên thật là Angelo Giuseppe Roncalli. Ngài chào đời tại làng Sotto il Monte gần Brusicco thuộc tỉnh Bergamo, miền Bắc nước Ý, ngày 25-11-1881. Năm 1933, Đức Giáo Hoàng Pio XI (1922-1939) chỉ định Đức Tổng Giám Mục Angelo Giuseppe Roncalli làm Khâm Sứ Tòa Thánh tại 3 nước Bulgari, Thổ-nhĩ-kỳ và Hy Lạp. Đức Tổng Giám Mục Roncalli thi hành sứ vụ trong vòng 11 năm từ 1933-1944.

Đức Tổng Giám Mục Angelo Giuseppe Roncalli dành cho Song Thân một tâm tình hiếu thảo rộng lớn, đặc biệt đối với hiền mẫu là bà cố Marianna Mazzola Roncalli.

Một năm sau khi đến Bulgari, nghe tin thân mẫu bị bệnh, Đức Tổng Giám Mục Roncalli vội vàng viết thư cho các bào tỷ của ngài. Lá thư đề ngày 18-3-1934 viết từ Sofia, thủ đô nước Bulgari:

Quý Chị kính yêu. Các Chị không cho em những tin tức tốt đẹp về sức khoẻ của Mẹ. Sức khoẻ của Mẹ khiến em lo âu. Thật thế, ở vào bát tuần, tuổi tác tự nó đã là bệnh tật. Em hy vọng rồi Mẹ cũng sẽ lướt qua được như hồi năm ngoái. Chỉ cần chút ít thuốc men và chăm sóc kỹ lưỡng thì Mẹ sẽ khoẻ lại. Xin Các Chị chu đáo lo cho Mẹ y như thể em cũng có mặt ở nhà và nhất là, xin Các Chị tận tình khuyến khích Mẹ để Mẹ vượt qua cơn đau yếu. Nhưng trước hết, chúng ta nên luôn ghi nhớ rằng, trên con đường lữ hành tiến về Nhà Cha trên Trời, chúng ta phải mở rộng tâm lòng cho sự tin tưởng và phó thác nơi lòng nhân hậu của THIÊN CHÚA. Phải tự nhủ rằng nếu Song Thân đã chu toàn nghĩa vụ dưỡng dục một đàn con đông đức như gia đình chúng ta, với không biết bao nhiêu là hy sinh cùng gian khổ, thì Song Thân không có gì phải lo sợ khi ra trình diện trước tòa Chúa. THIÊN CHÚA là Đấng đại lượng vô biên, thay vì trừng phạt lại thưởng công bội hậu cho Song Thân. Những yếu đuối cùng thiếu sót – mà ai ai cũng vấp phải – sẽ được rửa sạch và tha thứ nhờ việc kết hiệp những hy sinh nhỏ bé của chúng ta với Bửu Huyết của Đức Chúa GIÊSU KITÔ đã đổ ra và chết vì chúng ta.

Phải làm mọi cách để thân mẫu chúng ta được rước vào Thiên Đàng. Phần chúng ta cũng hy vọng sẽ gặp lại thân mẫu trên Thiên Quốc. Xin Các Chị luôn nhắc Mẹ hãy can đảm và đừng sợ hãi gì hết. Chỉ cần lập đi lập lại lời nguyện tắt: ”Lạy Đức Chúa GIÊSU Từ Bi! Lạy Đức Chúa GIÊSU, con yêu mến Chúa!”. Bấy nhiêu đó đủ rồi.

Vã lại, không có nghĩa Mẹ phải chết ngay bây giờ đâu. Trái lại, Mẹ phải được chữa trị để còn sống thêm lâu năm nữa. Sự hiện diện của Mẹ và của Cha trong gia đình mình thật cần thiết cho con cái cùng cháu chắt. Thế nhưng trước hết và trên hết, chúng ta cứ sống phó thác ngày qua ngày, không ưu tư cũng không lo lắng. Chính THIÊN CHÚA sẽ ban cho chúng ta những ơn cần thiết một khi chúng ta đặt trọn niềm tin tưởng nơi Ngài. Xin Các Chị thưa lại với Mẹ như vậy và sáng mai em sẽ dâng Thánh Lễ đặc biệt cầu nguyện cách riêng cho Mẹ. Thật ra mỗi buổi sáng, khi dâng Thánh Lễ lúc đến phần Kinh Tiền Tụng hát ”Sanctus Sanctus Sanctus – Thánh Thánh Thánh” em đều trông thấy Cha cùng Mẹ tiến lên bàn thờ đến đứng cạnh em cho tới phần Chịu Lễ.

Thương chúc mọi người giữ vững can đảm. Em ban phép lành cho toàn gia đình.

Trìu mến hôn từ biệt Quý Chị. Em của Các Chị.

Ký tên Angelo Giuseppe Roncalli, Tổng Giám Mục.

5 năm sau lá thư trên đây, Bà Cố Marianna Mazzola Roncalli được Chúa gọi về ngày 20-2-1939. Trước đó 4 năm, ngày 29-7-1935, Ông Cố Giovanni Battista Roncalli cũng êm ái từ giã cõi đời.

… ”THIÊN CHÚA là Đấng nhân từ và hay thương xót: Người thứ tha tội lỗi và cứu vớt trong lúc gian truân. Khốn thay những tâm hồn hèn nhát, những bàn tay rã rời, và người tội lỗi lập lờ nước đôi. Khốn thay quả tim nao núng vì không tin tưởng: chính vì vậy nó không được chở che. Khốn cho các ngươi, những kẻ mất kiên nhẫn, các ngươi sẽ làm gì khi THIÊN CHÚA đến thăm? Những ai kính sợ THIÊN CHÚA thì không ngang bướng bất tuân lời Người dạy. Và những ai kính mến Người thì giữ vững đường lối của Người. Những ai kính sợ THIÊN CHÚA thì tìm điều Người ưa thích, và những ai kính mến Người thì no thỏa Lề Luật. Những ai kính sợ THIÊN CHÚA thì chuẩn bị tâm hồn, và hạ mình xuống trước mặt Người. Chúng ta hãy phó thác trong vòng tay THIÊN CHÚA, chứ đừng phó mình trong tay phàm nhân, bởi vì Người cao cả thế nào thì cũng lân tuất như vậy” (Huấn Ca 2,11-18).

(”L'Ange Gardien””, Mai-Juin/2004, n.3, trang 41)

Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

Đức Thánh Cha khích lệ các Giám Mục Nam Phi đương đầu với các thách đố gia đình

Đức Thánh Cha khích lệ các Giám Mục Nam Phi đương đầu với các thách đố gia đình

VATICAN. Trong buổi tiếp kiến sáng 25-4-2014, dành cho 28 GM thuộc 3 nước miền nam Phi châu, ĐTC Phanxicô nhiệt liệt khích lệ các vị đương đầu với các thách đố về gia đình, sự giảm sút con số Linh Mục, và tình trạng luân lý sa sút.

Các GM thuộc 3 nước Nam Phi, Botswana và Zwaziland, họp thành một HĐGM miền nam Phi châu và các vị về Roma viếng mộ hai thánh Tông Đồ và thăm Tòa Thánh.

Trong bài huấn dụ bằng tiếng Anh trao cho các GM, ĐTC nhắc đến một số thách đố mục vụ nghiêm trọng mà các GM miền nam Phi châu đã trình bày cho ngài, ví dụ: các gia đình Công Giáo có ít con cái hơn, và điều này cũng ảnh hưởng trên con số ơn gọi LM và tu trì. Một số tín hữu Công Giáo chạy theo các nhóm giáo phái khác; các phụ nữ phá thai chịu nhiều âm hưởng và chấn thương do hành động này, tỷ lệ ly dị cao, kể cả nơi các gia đình Kitô, và các trẻ em thường lớn lên trong môi trường gia đình thiếu ổn định; ngoài ra còn có nạn bạo hành gia tăng chống phụ nữ và trẻ em.

ĐTC tái khẳng định tính chất thánh thiêng và bất khả phân ly của hôn nhân Kitô, hôn nhân này thường bị tan vỡ do sức ép kinh khủng đến từ thế giới trần tục, vì thế phải đào sâu đạo lý rõ ràng và nâng đỡ chứng tá của các cặp vợ chồng dấn thân. ĐTC viết: ”Hôn nhân Kitô là một giao ước yêu thương trọn đời giữa một người nam và một người nữ; hôn nhân này đòi những hy sinh đích thực để tránh những ý niệm ảo tưởng về tự do tính dục và thăng tiến sự chung thủy trong hôn nhân”.

ĐTC cũng đề cập đến mối quan tâm của các GM miền Nam Phi Châu trước sự sa sút của luân lý Công Giáo nơi tín hữu, trong đó có cả cám dỗ ngày càng mạnh chiều theo sự bất lương. Ngài viết: ”Đây là một vấn đề mà anh em đã nói đến trong tinh thần ngôn sứ qua tuyên ngôn mục vụ về nạn tham ô hối lộ. Như anh em đã nêu rõ: ”Tham ô là ăn cắp của người nghèo, làm thương tổn những người dễ bị tổn thương nhất, gây hại cho toàn thể cộng đoàn.. phá hủy sự lòng tín nhiệm của chúng ta”.

Trước tình trạng đó, Cộng đoàn Kitô được kêu gọi sống phù hợp với niềm tin, làm chứng về các nhân đức lương thiện và thanh liêm, để chúng ta có thể đứng trước mặt Chúa và những người láng giềng của chúng ta với đôi tay và tâm hồn thanh sạch (Cư. Tv 24,4), như men Tin Mừng trong đời sống xã hội.

Cộng hòa Nam Phi rộng gần 4 lần Việt Nam với hơn 1 triệu 220 ngàn cây số vuông và trong số hơn 51 triệu dân có 8% là tín hữu Công Giáo. Cộng hòa Botswana rộng gần 600 ngàn cây số vuông, nhưng dân số chỉ có hơn 2 triệu người, trong đó 5% là tín hữu Công Giáo. Sau cùng nước Swaziland chỉ có 1 triệu 400 ngàn dân cư trên một lãnh thổ rộng hơn 17 ngàn cây số vuông nằm gọn trong lãnh thổ của Nam Phi. Tại nước này cũng có 5% dân số là tín hữu Công Giáo (SD 25-4-2014).

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Đức Thánh Cha mời gọi làm chứng về niềm vui phục sinh

Đức Thánh Cha mời gọi làm chứng về niềm vui phục sinh

ROMA. ĐTC Phanxicô kêu gọi các tín hữu làm chứng về niềm vui được gặp gỡ Chúa Kitô Phục Sinh.

Ngài đưa ra lời nhắn nhủ trên đây trong bài giảng chiều ngày 24-4-2014 tại Nhà thờ thánh Ignatio Loyola của dòng Tên ở Roma, nhân lễ tạ ơn phong thánh San José de Anchieta, vị tông đồ của Brazil.

Hiện diện trong thánh lễ có 9 Hồng Y, 30 GM, đông đảo các tu sĩ dòng Tên, và các tín hữu, đặc biệt là người Brazil.

Thánh Anchieta thuộc dòng Tên, từ Tây Ban Nha, đến truyền giáo tại Brazil từ năm 19 tuổi đến khi qua đời năm 1586 lúc mới 52 tuổi đời.

Trong bài giảng, ĐTC nhắc đến sự tích người bất toại ngồi ăn xin ở cửa đền thờ, nhưng khi được chữa lành, ông ta đã chúc tụng Thiên Chúa và niềm vui của ông lây sang người khác. Đứng trước biến cố đó, dân chúng kinh ngạc chạy đến, và khi ấy thánh Phêrô đã loan báo sứ điệp cứu độ cho họ. ĐTC nói: ”Niềm vui vì được gặp gỡ Chúa Giêsu Kitô, niềm vui làm chúng ta sợ không dám đón nhận, niềm vui ấy hay lây sang người khác, và chính niềm vui ấy làm cho Giáo Hội tăng trưởng. Giáo Hội lớn mạnh không phải bằng những hoạt động chiêu dụ tín đồ, nhưng bằng sự thu hút. Chứng tá này của Giáo Hội nảy sinh từ niềm vui được đón nhận và rồi được biến thành lời loan báo. Không có niềm vui ấy, thì ta không thể thành lập một Giáo Hội, một cộng đoàn. Đó là một niềm vui tông đồ, lan tỏa”.

ĐTC cũng nhắc đến tấm gương của thánh San José de Anchieta, người đã hiến thân loan báo Tin Mừng nơi các thổ dân Brazil. Thánh nhân biết thông truyền điều mà Người đã cảm nghiệm về Chúa, điều mà Chúa đã thông ban cho thánh nhân trong những lần linh thao.. Thánh nhân đã có niềm vui lớn lao dường nào..”

ĐTC cũng nói rằng thánh de Anchieta đã sáng tác một bài ca rất hai dâng kính Đức Mẹ, gợi hứng từ thánh ca của Isaia đoạn 52, sánh ví người loan báo Tin Mừng như sứ giả loan báo hòa bình. ĐTC cầu xin Mẹ Maria, Ngừơi đã không sợ niềm vui, tháp tùng tất cả các tín hữu trong cuộc lữ hành, mời gọi mọi người hãy đứng dậy, từ bỏ sự bất toại của mình, để cùng nhau bước vào an bình và niềm vui mà Chúa Phục Sinh hứa cho chúng ta” (RG 24-4-2014).

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Chuẩn bị lễ phong thánh cho Đức Gioan XXIII và Đức Gioan Phaolô II

Chuẩn bị lễ phong thánh cho Đức Gioan XXIII và Đức Gioan Phaolô II

Trong những ngày vừa qua, bầu không khí ở Vatican đang trở nên sôi động vì dòng người kéo đến cũng như vì không khí chuẩn bị cho ngày lễ phong thánh cho hai vị Giáo Hoàng Gioan 23 và Gioan Phaolô 2. Phòng Báo Chí Tòa Thánh cũng đã mở các cuộc họp báo để giới thiệu một vài sự kiện quan trọng sẽ diễn ra trước và vào ngày lễ trọng đại này.

Trước ngày lễ phong thánh, sẽ có nhiều hoạt động bổ ích để giúp các tín hữu hướng về Chúa và về hai vị giáo hoàng khả kính này. Cha Walter Insero, Giám đốc văn phòng truyền thông của giáo phận Rôma cho biết sẽ có 2 sự kiện lớn diễn ra. Thứ nhất là cuộc gặp gỡ với giới trẻ vào lúc 20h30 ngày 22.4 tại nhà thờ Chánh Tòa Laterano, do Đức Hồng Y Agostino Vallini chủ sự. Các bạn trẻ sẽ nghe hai bài thuyết trình của Đức ông Slavomir Oder, thỉnh nguyện viên án phong thánh cho Đức Gioan Phaolô 2 và của cha Giovanni Giuseppe Califano, thỉnh nguyện viên án phong thánh cho Đức Gioan 23. Sau đó sẽ bài giáo lý của cha Fabio Rosimi, giám đốc chương trình mục vụ ơn gọi của Tòa Giám Quản Rôma.

Vào thứ bảy 26.4, đêm trước ngày lễ chính, từ lúc 21h, sẽ có 1 đêm canh thức cầu nguyện và các nhà thờ ở trung tâm Rôma đều mở cửa để các tín hữu có thể vào cầu nguyện và xưng tội, nghe những bài đọc sách thánh hay thủ bút của 2 vị Giáo Hoàng. Có 11 nhà thờ dự tính sẽ tổ chức sinh hoạt mục vụ với nhiều ngôn ngữ khác nhau.

Hiện diện trong buổi họp báo, cha Lombardi, Phát Ngôn Viên Tòa Thánh và cũng là Tổng Giám Đốc Đài Phát Thanh Vatican, chia sẻ một vài chi tiết đáng ghi nhớ rằng ngày phong thánh là ngày lễ Lòng Thương Xót Chúa. Đây cũng là ngày phong chân phước cho Đức Gioan Phaolô 2 (vào 1.5.2011). Thánh lễ phong thánh này sẽ do Đức Thánh Cha Phanxicô chủ sự tại quảng trường thánh Phêrô lúc 10h sáng. Sẽ có khoảng 1000 vị đồng tế, trong đó có nhiều Hồng Y và Giám Mục. Ít nhất có 700 linh mục phụ trách việc trao Mình Thánh Chúa ngay tại khuôn viên quảng trường thánh Phêrô và hàng trăm thầy Phó Tế khác trao Mình Thánh Chúa tại đường Hòa Giải kế đó cho giáo dân tham dự thánh lễ.

Để giúp các tín hữu có thể tham dự thánh lễ phong thánh, tại khu vực Fori Imperiali gần Hý Trường Colosseo, quảng trường Nhân Dân và quảng trường Đền Thờ Đức Bà Cả sẽ bố trí các màn hình khổng lồ. Quảng trường thánh Phêrô có thể tiếp nhận khoảng 100 ngàn người và 1 con số tương tự tại quảng trường Piô 12 cũng như đường Hòa Giải gần đó. Theo chính quyền thành Rôma, có khoảng 300 ngàn tín hữu đến từ Ba Lan, đông đảo các tín hữu từ tỉnh Bergamo bắc Ý quê hương của ĐGH Gioan 23. Tại quảng trường thánh Phêrô, có 5 ngàn chỗ dành cho các tín hữu Ba Lan và 5 ngàn chỗ dành cho các tín hữu đến từ quê hương của ĐGH Gioan 23. Để việc truyền thông có thể diễn ra cách tốt đẹp, sẽ có 9 vệ tinh thuộc hệ thống Eutelsat, cộng thêm các vệ tinh đã dùng trong dịp thế vận Opimpic mùa đông ở Sochi truyền hình trực tiếp lễ phong thánh trên toàn thế giới. Đài Sky sẽ có 15 máy thu hình theo kỹ thuật 4K. Người ta có thể theo dõi sự kiện qua kênh youtube và facebook.

Các bức hình thêu hai vị Giáo Hoàng sẽ là những bức đã được trưng bày trong dịp phong chân phước của các ngài. Đồ đựng thánh tích của Đức Gioan Phaolô 2 cũng là đồ đã dùng trong lễ trong chân phước, còn đồ đựng thánh tích của Đức Gioan 23 thì sẽ được làm tương tự, vì khi ngài được phong chân phước, mộ của ngài vẫn chưa được cải táng. Trong thánh lễ, hai người được nhận phép lạ do sự chuyển cầu của Đức Gioan Phaolô 2 đều có mặt. Đức Gioan 23 thì được miễn chuẩn phép lạ vì theo Đức đương kim Giáo Hoàng Phanxicô, Công Đồng Chung Vatican II mà Đức Gioan 23 triệu tập đã là một phép lạ rồi. Sau thánh lễ, các tín hữu hành hương sẽ được đi vào viếng mộ hai vị tân hiển thánh trong đền thánh Phêrô. Trong những ngày này, nhân viên Tòa Thánh đang sửa chữ “chân phước” thành chữ “thánh” trên mộ của hai vị.

Cho đến nay, một nguồn tin từ chính quyền Rôma cho biết là sẽ có khoảng 5 – 7 triệu người. Tuy nhiên theo cha Lombardi, con số này có thể là hơi quá, vì toàn bộ số dân tại Rôma cũng chỉ có khoảng 3 triệu 700 ngàn người. Vấn đề con số các tín hữu hành hương đến Vatican để dự lễ phong thánh vẫn còn là một vấn đề bỏ ngõ, và không ai có thể biết được con số chính xác là bao nhiêu. Người ta chỉ có thể dự đoán được là hầu như các con đường lớn dẫn đến Vatican đều sẽ chật kín người. Theo báo Cộng Hòa, trích thuật nguồn tin từ chính quyền thành Rôma, 85% khách sạn và nhà trọ ở Rôma và cả những khu vực chung quanh Rôma, đã được đăng ký chỗ trong thời gian trước và sau lễ phong thánh cho hai vị Giáo Hoàng.

Khi được hỏi về sự hiện diện của Đức nguyên Giáo Hoàng Biển Đức 16 trong thánh lễ, cha Lombardi trả lời rằng đây là điều mà mọi người mong đợi. Tòa Thánh đã gửi lời mời nhưng ngài chưa trả lời. Chắc phải đợi đến lúc cận ngày, rồi tùy thuộc vào việc ngài có muốn tham dự, và sức khỏe của ngài có cho phép ngài hay không vì chắc chắn đây là một thánh lễ kéo dài với nhiều nghi thức phức tạp.

Thứ hai ngày 28.4, cũng tại quảng trường Thánh Phêrô, Đức Hồng Y Angelo Comastri sẽ chủ sự thánh lễ tạ ơn. Giới truyền thông sẽ có hai trung tâm làm việc: ở ngay trước quảng trường thánh Phêrô và tại cuối đường Hòa Giải. Từ hai nơi này, các chuyên viên có thể quay lấy cảnh từ trên không. Từ bây giờ, đã có hàng trăm phái viên đăng ký tại phòng Báo Chí Tòa Thánh để được giúp đỡ theo dõi diễn tiến. Phòng Báo Chí Tòa Thánh đang lập chương trình một loạt các buổi sinh hoạt với các vị thỉnh nguyện viên án phong thánh, các sử gia về giáo hoàng, các chuyên gia về Công Đồng Vatican II, các chứng nhân phép lạ… để giúp các chuyên viên truyền thông đi sâu vào vấn đề hơn.

Quý thính giả có thể theo dõi buổi lễ Phong Thánh với phần thông dịch và bình luận trực tiếp bằng tiếng Việt tại:

– Link website: www.dongten.net/noidung/32396

Hoặc

– Link trực tiếp đã sẵn có trong website: www.youtube.com/watch?v=2qTuL5zCxDQ

Pr. Lê Hoàng Nam, SJ
 

Phản ứng của Báo Chí Tòa Thánh về cú điện thoại liên hệ tới người ly dị tái hôn

Phản ứng của Báo Chí Tòa Thánh về cú điện thoại liên hệ tới người ly dị tái hôn

VATICAN. Hôm 24-4-2014, Cha Lombardi, Giám đốc Phòng báo chí Tòa Thánh, cảnh giác giới báo chí đừng rút ra những hệ luận thổi phồng về cú điện thoại mục vụ của ĐTC.

Trong những ngày qua, báo chí ở Argentina cho biết ĐTC gọi điện cho một phụ nữ ly dị tái hôn ở nước này và cho bà được xưng tội rước lễ. Tin này được báo chí các nước đăng lại.

Trong thông cáo công bố ngày 24-4-2014, cha Lombardi nói rằng ”có nhiều cú điện thoại đã xảy ra trong khuôn khổ các quan hệ mục vụ riêng của ĐGH Phanxicô. Những cú điện thoại như thế tuyệt đối không phải là những hoạt động công cộng của ĐGH, nên không nên chờ đợi những thông tin hoặc bình luận từ phía phòng báo chí Tòa Thánh.”

”Bởi vậy, những điều đã được phổ biến về vấn đề này, rút khỏi khuôn khổ những quan hệ riêng, và sự phóng đại của các cơ quan truyền thông sau đó, không đáng tin cậy và là nguồn mạch gây ra những hiểu lầm và hoang mang.

”Vì vậy cần tránh rút từ vụ này những hệ luận liên quan tới giáo huấn của Giáo Hội.

Tin về việc ĐGH bảo rằng việc cho người ly dị tái hôn rước lễ lại làm cho cuộc tranh luận về vấn đề này bùng lên, nhất là trong viễn tượng Thượng HĐGM thế giới về gia đình vào tháng 10 năm nay.

Hồi tháng 9-2013, Phòng báo chí Tòa Thánh đã phải cải chính tin cho rằng ĐGH Phanxicô điện thoại cho một thanh niên đồng tính luyến ái người Pháp, để trả lời thư trong đó anh ta nói rằng mình bị giằng co giữa đức tin và xu hướng đồng tính luyến ái của anh. (Apic 24-4-2014).

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio
 

Dòng La San – Họp Tổng Công Hội lần thứ 45

Dòng La San – Họp Tổng Công Hội lần thứ 45

Dòng La San: Họp Tổng Công Hội lần thứ 45.

Roma (WHÐ 23-04-2014) – 88 sư huynh đại biểu thuộc các Tỉnh dòng La San (Dòng Anh Em Trường Kitô Giáo) tại 80 quốc gia trên khắp thế giới đã quy tụ về Roma để tham dự Tổng Công Hội lần thứ 45 của Dòng, diễn ra từ 22 tháng 04 đến 08 tháng 06 năm 2014 với chủ đề "Công trình này của Chúa cũng là công trình của anh em" ("This work of God is also yours").

Tham dự Tổng Công Hội này, các Công hội viên sẽ:

– lượng giá đời sống của Dòng và việc thực thi sứ mạng La San trong 7 năm qua, kể từ Tổng Công Hội lần trước (2007);

– duyệt lại Luật Dòng;

– bầu chọn Bề Trên Tổng Quyền mới cùng với Hội đồng Cố Vấn Trung Ương (Bề trên Tổng quyền La San hiện nay là sư huynh Álvaro Rodríguez Echeverría, người Costa Rica);

– định hướng sứ mạng La San trong những năm sắp tới.

Tính đến cuối năm 2013, Dòng La San trên thế giới có 1,003 trường học, với 4,288 Sư Huynh trong 699 cộng đoàn. Riêng tại Việt Nam, Dòng La San đã có mặt từ năm 1866. Năm 1896 Tỉnh Dòng Sài Gòn được thành lập và từ năm 1975 đổi tên thành Tỉnh dòng La San Việt Nam. Hiện nay Dòng La San Việt Nam có 93 tu sĩ trong 18 cộng đoàn hoạt động ở 7 giáo phận.

 

Minh Ðức – HĐGMVN

Khó xử về vụ căn hộ sang trọng của Hồng y Bertone

Khó xử về vụ căn hộ sang trọng của Hồng y Bertone

Hồng-y-Bertone

Hồng y người Italy sẽ dọn vào ở trong một căn hộ rộng 6500 sqare foot (600 mét vuông) tại Vatican trong bối cảnh trái ngược với lời kêu gọi về một “Giáo hội nghèo” của Đức Giáo Hoàng Phanxicô, nhật báo La Repubblica đưa tin hôm Chủ Nhật.

Hồng y Tarcisio Bertone là cựu Tổng trưởng Quốc vụ khanh Toà Thánh, tương đương chức thủ tướng của các quốc gia và bài báo cho biết, việc dọn vào ở trong một căn hộ sang trọng làm dấy lên điều khó xử khi Đức Phanxicô hối thúc các giáo sĩ cần phải sống khiêm hạ hơn.

Căn hộ còn có một sân thượng rộng 100 mét vuông, sát bên cạnh nhà khách St Martha, nơi Đức Phanxicô chọn làm nhà ở khi ngài từ chối sống trong biệt thự dành riêng cho các giáo hoàng.

Tờ La Repubblica cho biết căn hộ của Hồng y Bertone rộng gấp 10 lần căn hộ Đức Phanxicô đang ở và theo kế hoạch sẽ dọn vào đầu mùa hè này sau khi công tác xây dựng mở rộng hoàn tất.

Bản tin cho biết căn nhà bao gồm một căn hộ rộng 400 mét vuông trước đây là nơi sinh sống của người đứng đầu lực lượng hiến binh dưới thời Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II và một căn hộ khoảng 200 mét vuông từng là nơi ở của một Đức ông Vatican.

Thời gian Hồng y Bertone làm Tổng trưởng Quốc vụ khanh dưới thời Đức Giáo Hoàng Bênêdictô XVI đã gây nhiều chia rẽ nghiêm trọng tại bộ máy quản trị Vatican và các giáo sĩ cao cấp đã yêu cầu Đức Giáo Hoàng bãi nhiệm ông.

Ông bị chỉ trích là quá độc đoán và có mối liên hệ mật thiết với hệ thống chính trị nhếch nhác của Italy.

Ngay trước khi Đức Giáo Hoàng Phanxicô bãi nhiệm ông tháng Mười năm ngoái, Hồng y Bertone nói rằng ông là nạn nhân “những con sâu mọt” của hệ thống Vatican.

Tháng qua, Đức Phanxicô chấp thuận đơn xin từ chức của giám mục Limburg, Đức, người có nhiều tai tiếng vì lối sống xa hoa.

Giám mục Franz-Peter Terbartz-van Elst được giới truyền thông gắn biệt hiệu là “giám mục xa hoa” bị chỉ trích về nơi ở chính thức của mình gồm có cả bảo tàng, hội trường, nhà nguyện và những căn hộ riêng.

Dự án có giá trị 5.5 triệu euro nhưng chi phí đã tăng vọt lên 31 triệu euro (43 triệu USD), tất cả đều sử dụng nguồn thu từ thuế tôn giáo tại Đức.

Nguồn AFP

UCANEWS VN

Tại sao tìm Đấng Sống trong những gì mau tàn phai và chết đi?

Tại sao tìm Đấng Sống trong những gì mau tàn phai và chết đi?

Lời cảnh báo ”Sao các bà lại tìm Người Sống ở giữa các kẻ chết?” (Lc 24,5) giúp chúng ta ra khỏi các không gian đau buồn và mở ra cho chúng ta các chân trời của niềm vui và niềm hy vọng. Niềm hy vọng ấy chuyển dời các hòn đá lấp mộ và khích lệ loan báo Tin Mừng, có khả năng sinh ra cuộc sống mới cho tha nhân.

Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói như trên với hơn 90,000 tín hữu và du khách hành hương năm châu tham dự buổi gặp gỡ chung sáng thứ tư hàng tuần 23-4-2014 tại quảng trường Thánh Phêrô. Trong những ngày này nhiều tín hữu đã tuốn về Roma để chờ tham dự lễ phong Hiển Thánh cho Đức Gioan XXIII và Đức Gioan Phaolô II vào ngày Chúa Nhật 27-4-2014. Thứ tư 23-4-2014 cũng là lễ thánh Giorgio bổn mạng của Đức Thánh Cha. Các Đức Ông thuộc Phủ Quốc Vụ Khanh giới thiệu các nhóm hành hương đã nhân danh mọi người chúc mừng lễ Bổn Mạng Đức Thánh Cha.

Mở đầu bài huấn dụ Đức Thánh Cha nói: Anh chị em thân mến trong các ngày này chúng ta cử hành mầu nhiệm vĩ đại sự Phục Sinh của Chúa Giêsu trong niềm vui vượt qua. Đó là một niềm vui đích thật, sâu xa, dựa trên sự chắc chắn Chúa Kitô phục sinh không chết nữa, nhưng sống và hoạt động trong Giáo Hội và trong thế giới. Sự chắc chắn ấy ngự trị trong con tim của các tín hữu từ buổi sáng Phục Sinh đó, khi các phụ nữ đến mộ Chúa Giêsu và các thiên thần nói với họ: ”Sao các bà lại tìm Người Sống ở giữa các kẻ chết?” (Lc 24,5) Đức Thánh Cha giải thích ý nghĩa các lời này như sau:

Các lời này giống như một hòn đá mốc lịch sử; nhưng chúng cũng là một ”hòn đá làm vấp ngã”, nếu chúng ta không rộng mở cho Tin Mừng, nếu chúng ta nghĩ rằng một Giêsu chết ít gây khó chịu hơn một Giêsu sống! Trái lại, biết bao nhiêu lần trên con đường thường ngày chúng ta cần nghe nói với chúng ta: ”Sao bạn lại tìm Người Sống ở giữa các kẻ chết?” Biết bao nhiêu lần chúng ta cần nghe các lời này để được cứu thoát khỏi các tình trạng khó khăn hay tuyệt vọng.

Chúng ta cần các lời đó, khi chúng ta khép kín trong bất cứ hình thức ích kỷ hay tự mãn nào; khi chúng ta để cho mình bị quyến rũ bởi các quyền lực trần gian và các sự vật của trần gian này mà quên Thiên Chúa và tha nhân; khi chúng ta đặt các niềm hy vọng nơi các phù du trần tục, nơi tiền bạc, nơi thành công. Khi đó lời Chúa nói với chúng ta: ”Tại sao các con tìm Người Sống ở giữa các kẻ chết?” Tại sao con tìm ở đó cái không thể cho con sự sống? Phải! Có lẽ nó sẽ cho con sự vui vẻ trong một phút, một ngày, một tuần, một tháng… Rồi sau đó? ”Tại sao các con tìm Người Sống ở giữa các kẻ chết?” Câu này phải vào trong tim của chúng ta và chúng ta phải lập lại nó. Chúng ta hãy lập lại nó ba lần nhé? Chúng ta có cố gắng không? Tất cả nào: ”Tại sao các con tìm Người Sống ở giữa các kẻ chết?” To hơn: ”Tại sao các con tìm Người Sống ở giữa các kẻ chết?” ”Tại sao các con tìm Người Sống ở giữa các kẻ chết?” Hôm nay khi về nhà, chúng ta hãy nói lên câu đó trong con tim trong thinh lặng, hãy tự hỏi mình câu đó: ”Tại sao trong cuộc sống tôi lại tìm Người Sống ở giữa các kẻ chết?” Làm điều đó sẽ đem lại thiện ích cho chúng ta.

Nhưng không dễ rộng mở cho Chúa Giêsu. Nếu chúng ta lắng nghe, chúng ta có thể rộng mở mình cho Đấng trao ban sự sống, cho Đấng có thể ban cho chúng ta niềm hy vọng đích thật. Trong mùa phục sinh này, chúng ta hãy để cho mình lại được kinh ngạc vì cuộc gặp gỡ với Chúa Kitô Phục Sinh, và sống vì vẻ đẹp và sự phong phú trong sự hiện diện của Người.

Nhưng không dễ dàng. Không phải là điều tính trước việc chấp nhận sự sống của Đấng Phục Sinh và sự hiện diện của Người giữa chúng ta. Tin Mừng cho chúng ta thấy các phản ứng của tông đồ Tôma, của Maria Madalena và của các môn đệ. Toma đặt ra một điều kiện cho lòng tin, ông xin được sờ mó vào sự hiển nhiên là các vết thương. Bà Maria Madalena thì khóc, bà thấy Chúa nhưng không nhận ra Người, bà chỉ ý thức được đó là Chúa Giêsu khi nghe Người gọi tên bà. Các môn đệ làng Emmaus, bị trầm cảm và với các tâm tình của sự thất bại, đi tới chỗ gặp gỡ Chúa Giêsu bằng cách để cho người bộ hành bí ẩn đồng hành với họ. Mỗi người bởi các con đường khác nhau! Họ tìm Đấng sống giữa các người chết và chính Chúa sửa chữa lộ trình.

Còn tôi, tôi làm gì? Đâu là lộ trình tôi theo để gặp gỡ Chúa Kitô sống và phục sinh? ”Sao lại tìm Người Sống ở giữa các kẻ chết?” (Lc 24,5) Người sẽ luôn luôn ở gần chúng ta để sửa lại lộ trình, nếu chúng ta đã sai. ”Tại sao tìm Người Sống ở giữa các kẻ chết?” (Lc 24,5) Câu hỏi này làm cho chúng ta thắng vượt cám đỗ nhìn lại đàng sau, nhìn vào những gì của ngày hôm qua, và thúc đẩy chúng ta hướng tới tương lai.

Chúa Giêsu không ở trong mồ, Người là Đấng đã sống lại, Đấng Sống, Đấng luôn canh tân thân thể Người là Giáo Hội, và làm cho nó bước đi bằng cách kéo lôi nó đến với Người. ”Hôm qua” là mồ của Chúa Giêsu và của Giáo Hội, mồ của sự thật và của công lý; ”hôm nay” là sự phục sinh vĩnh cửu mà Chúa Thánh Thần thúc đẩy chúng ta tiến tới, bằng cách trao ban cho chúng ta sự tự do đích thật.

Hôm nay câu hỏi này cũng được đặt ra với chúng ta. Bạn, tại sao bạn tìm giữa các kẻ chết Đấng sống, và bạn tự khép kín trong chính mình sau một thất bại và bạn không còn sức để cầu nguyện nữa? Tại sao tìm giữa các kẻ chết Đấng sống, bạn là người cảm thấy cô đơn, bị các bạn bè bỏ rơi và có lẽ bị cả Thiên Chúa bỏ rơi nữa? Tại sao tìm giữa các kẻ chết Đấng Sống, bạn là người đã mất niềm hy vọng và cảm thấy bị tội lỗi của bạn cầm tù? Tại sao tìm giữa các kẻ chết Đấng Sống, bạn là người ngưỡng mộ vẻ đẹp, sự toàn thiện tinh thần, công lý, hòa bình?

Chúng ta cần nghe lập lại và nhắc nhở nhau lời cảnh báo của thiên thần! Lời cảnh báo này ”Tại sao các ngươi tìm Người Sống ở giữa các kẻ chết?” giúp chúng ta ra khỏi các không gian đau buồn và mở ra cho chúng ta các chân trời của niềm vui và niềm hy vọng. Niềm hy vọng ấy chuyển dời các hòn đá lấp mộ và khích lệ loan báo Tin Mừng, có khả năng sinh ra cuộc sống mới cho tha nhân. Chúng ta hãy lập lại câu hỏi đó! ”Tại sao các ngươi lại tìm Người Sống ở giữa các kẻ chết?” Anh chị em hãy coi, Người sống, Người ở với chúng ta! Đừng đi tới biết bao nhiêu nấm mồ mà ngày hôm nay chúng hứa hẹn với bạn điều gì đó, vẻ đẹp, nhưng rồi không cho bạn cái gì hết! Người sống! Chúng ta đừng tìm ở giữa các người chết Đấng sống.

Đức Thánh Cha đã chào nhiều đoàn hành hương khác nhau. Ngoài các nhóm hành hương của các nước Bắc Mỹ và Tây Âu, còn có các đoàn đến từ các nước Mexico, Costa Rica, Colombia, Argentina và Brazil. Ngài đã đặc biệt chào các tân Phó tế trường Ai Len, thân nhân và bạn bè của các vị.

Ngài cũng cám ơn tất cả các trẻ em, giới trẻ, người già, các gia đình, các cộng đoàn giáo xứ và tu sĩ, cũng như các hiệp hội và phong trào đã gửi lời mừng lễ Phục Sinh, bầy tỏ lòng trìu mến và gần gũi đối với ngài. Đức Thánh Cha xin mọi người tiếp tục cầu nguyện cho ngài và việc phục vụ Giáo Hội của ngài.

Đức Thánh Cha cũng cho mọi người biết Chúa Nhật tới tại Alba có lễ phong Chân phước cho linh mục Giuseppe Girotti, dòng Đa Minh, bị Đức Quốc Xã thù ghét đức tin giết trong trại tập trung Dachau. Ngài cầu mong chứng tá kitô anh hùng và cuộc tử đạo của cha có thể khơi dậy ước muốn ngày càng gắn bó với Chúa Giêsu và Tin Mừng của Người hơn.

Chào các bạn trẻ ngài cầu mong họ luôn sống đức tin với nhiều hăng say và xác tín rằng chỉ có Chúa Giêsu mới cho phép mọi người đạt hạnh phúc đích thực và lâu bền thôi. Đức Thánh Cha khích lệ các người đau yếu tìm được sự ủi an cho các khổ đau của họ nơi Chúa Kitô phục sinh. Ngài nhắn nhủ các cặp vợ chồng mới cưới sống hôn nhân trong sự gắn bó với Chúa Kitô và các giáo huấn của Tin Mừng.

Buổi tiếp kiến đã kết thúc với Kinh Lạy Cha và phép lành tòa thánh Đức Thánh Cha ban cho mọi người.

Linh Tiến Khải- Vatican Radio

Phỏng vấn ông Marco Roncalli, chắt của Đức Gioan XXIII

Phỏng vấn ông Marco Roncalli, chắt của Đức Gioan XXIII

Chúa Nhật 27-4-2014, Đức Thánh Cha Phanxicô sẽ chủ sự thánh lễ tôn phong Hiển Thánh cho Đức Gioan XXIII và Đức Gioan Phaolô II. Giữa những người tham dự có bà con thân nhân của Đức Gioan XXIII, trong đó có ông Marco Roncalli, chắt của thánh Giáo Hoàng.

Sau đây chúng tôi xin gửi đến qúy vị và các bạn bài phỏng vấn ông. Marco Roncalli là nhà báo kiêm văn sĩ và là tác giả cuốn sách tựa đề ”Thánh Giáo Hoàng Gioan XXIII”, liên quan tới cuộc sống và tương quan của Đức Gioan XXIII với châu Mỹ Latinh.

Hỏi: Thưa ông Marco, đâu là nét nổi bật trong gương mặt của Đức Gioan XXIII, ”Vị Giáo Hoàng tốt lành”?

Đáp: Trước hết là sợi chỉ dẫn đường xuyên suốt lộ trình cuộc sống nhân bản và tinh thần của Đức Roncalli, là ngưỡng vọng liên tục sự thánh thiện mà chúng tôi đã chứng minh với các tài liệu. Có thể nói rằng nó lộ hiện từ năm này sang năm khác, tháng này qua tháng khác, mùa này sang mùa khác trong một bức thư, một trang nhật ký, một văn bản hay một ghi chú…

Nhưng chúng tôi cũng tìm ra ý thức rằng sự thánh thiện giả thiết thái độ ngoan ngoãn đối với Chúa Thánh Thần, để cho Thiên Chúa uốn nắn. Thế rồi chắc chắn là nó đã được tóm tắt trong các đề nghị thiên thần tỏa thoát ra từ cuốn ”Nhật ký tâm hồn” của ngài. Trong đó đã có dấu ấn đầu tiên là khẩu hiệu ngài chọn khi làm Giám Mục: đó là ”Obedientia et Pax Vâng lời và hòa bình”. Tôi tin rằng chính tại đây cần nhấn mạnh rằng đoạn này đã là tột đỉnh ý nghĩa toàn vẹn của cuộc tôn phong hiển thánh này: đó là sự gắn bó hoàn toàn với Tin Mừng, ý muốn sống trong sự thánh thiện, tìm kiếm nó như mục đích có thể đạt được, mà không coi nó là điều qúa xa vời. Phó thác cho ý muốn của Thiên Chúa cũng có nghĩa là rồi Thiên Chúa cho phép đạt các mục tiêu ấy, mà tự chúng trong quan niệm của Đức Roncalli, không phải là điều gì siêu phàm, nhưng ở tầm tay của tất cả mọi người, khi một người dấn thân hoàn toàn, nhưng cũng để cho Thiên Chúa uốn nắn.

Hỏi: Đức Thánh Cha Phanxicô đã muốn tôn phong hiển thánh cho Đức Roncalli và Đức Wojtila cùng một trật. Đây có phải là một sự lựa chọn chính xác không?

Đáp: Đây là điều đã xảy ra với chính Đức Gioan Phaolô II hồi năm 2.000. Ngài đã tôn phong Chân phước Đức Pio IX và Đức Gioan XXIII cùng một lần. Lần này Đức Thánh Cha Phanxicô tôn phong hiển thánh Đức Gioan XXIII và Đức Gioan Phaolô II. Có vài nhà bình luận lịch sử nói tới một loại cân bằng. Nhưng mà cân bằng trong nghĩa nào? Ý niệm về sự thánh thiện cũng có thể tới với chúng ta qua các nhậy cảm rất khác nhau. Bởi vì thật là vô ích chối cãi rằng hai vị Giáo Hoàng có hai kiểu sống, hai nhậy cảm và có lẽ cả hai cung cách sống sự thánh thiện khác nhau. Nơi Đức Gioan Phaolô II chiều kích thần bí xem ra được nhấn nạnh hơn, có lẽ được vun trồng trong tương quan của ngài với Thiên Chúa. Nơi Đức Roncalli có lẽ hiển nhiên hơn sự chồng lên nhau giữa chiều kích riêng tư và chiều kích công cộng. Dầu sao đi nữa trong cả hai trường hợp chắc chắn có cùng sự trung thành với Tin Mừng.

Hỏi: Ngay trong các ngày đầu tiên triều đại của Đức Gioan XXIII đã có các dấu chỉ khác nhau của sự mới mẻ, khiến cho nhiều quan sát viên kinh ngạc, có đúng thế không, thưa ông?

Đáp: Vâng, đã có các dấu chỉ rất mạnh mẽ: chẳng hạn như từ sự bình thường hóa giáo triều cho tới việc nới rộng con số các Hồng Y với Công Nghị tấn phong Hồng Y mới, là điều đã không được làm từ lâu. Và cả điều này nữa cũng lập tức trao ban một dấu chỉ mới rất mạnh, từ gương mặt của Đức Giovanni Battista Montini. Nhưng rồi tôi nghĩ tới các hình ảnh rất mạnh mẽ in sâu trong tâm trí của những người đã trông thấy chúng hồi đó, hay của những người đọc lại chúng ngày nay. Chẳng hạn như sự kiện Đức Gioan XXIII đến thăm các trẻ em trong nhà thương nhi đồng Chúa Hài Đồng Giêsu và các bệnh nhân trong các nhà thương ở Roma. Tôi nghĩ tới cuộc viếng thăm các tù nhân nhà tù Regina Coeli ngày lễ thánh Stefano, cũng như buổi lễ nhận nhà thờ chính tòa Gioan Laterano. Đức Gioan XXIII đã trở lại đây vào cuối tháng 11 năm 1958, khi ngài đến thăm đại chủng viện nơi ngài đã theo học.

Những gì ngài nói buông với các trẻ em giúp lễ cũng rất hay. Ngài không chỉ nhắc tới các năm đào tạo mà cũng nhắc tới các chủng sinh, và nói rằng ngài bối rối khi nghe người ta gọi ngài là ”Đức Thánh Cha”. Rồi ngài kết luận: ”Các con hãy cầu xin Chúa cho cha để Người ban cho cha ơn thánh thiện mà người ta gán cho cha. Bởi vì nói tới hay tin vào sự thánh thiện là một chuyện, còn có sống thánh không lại là chuyện khác”.

Hỏi: Thưa ông Marco, chúng ta cũng nhớ là ngày 25 tháng giêng năm 1959 khi Đức Gioan XXIII loan báo tại đền thờ thánh Phaolô ngoại thành rằng ngài muốn triệu tập Công Đồng Chung, chúng ta đang ở trong một thời đại lịch sử, trong đó các thần học gia tin rằng thời đại của Công Đồng phải được coi như là khép lại hoàn toàn, có đúng thế không?

Đáp: Vâng, đúng vậy. Bề ngoài cùng với ý nghĩ đó còn có định nghĩa về sự không thể sai lầm của Giáo Hoàng nữa. Có cần phải khiến cho 2.800 nghị phụ khắp nơi trên thế giới quy tụ về Roma không? Trái lại, đây chính là sức mạnh và lòng can đảm của Đức Gioan XXIII, khi đưa ra quyết định ngoại thường có tính cách cá nhân này, bởi vì ngài đã hỏi ý kiến của một vài cộng sự viên lập tức, chứ không đưa ra chương trình nghiên cứu dự án Công Đồng cách sâu rộng như bao Giáo Hoàng trước ngài đã làm. Ngài cũng đã cảm thấy được linh hứng và được củng cố bởi Đức Hồng Y Tardini và những vị khác. Việc Ngài loan báo triệu tập Công Đồng gây kinh ngạc và khiến cho nhiều Hồng Y câm nín khi nghe loan báo ngày 25 tháng Giêng năm 1959. Rồi từ đó trở đi, như qúy vị đã rõ, đó là con đường chuẩn bị, dài hơn thời gian họp Công Đồng, với các thời điểm quan trọng, với các sứ điệp qua đài phát thanh, qua đó Đức Gioan XXIII thực sự mời gọi toàn thể Giáo Hội suy tư về chính mình và trách nhiệm của mình đối với con người, và có thái độ sống mới. Chỉ cần nhớ tới vài câu của bài diễn văn nổi tiếng ”Gaudet Mater Ecclesia”, khi Công Đồng khai mở sau thời gian chuẩn bị. Tôi chỉ xin trích một câu thôi, điều này nhấn mạnh rằng Giáo Hội ưa thích dùng phương thuốc của lòng thương xót, là một từ khác nữa trong các từ rất thường được dùng trở lại trong các ngày đó.

Hỏi: Liên quan tới châu Mỹ Latinh đâu đã là âu lo đầu tiên của Đức Gioan XXIII đối với vai trò của Giáo Hội tại châu Mỹ Latinh?

Đáp: Âu lo của ngài cũng là những âu lo đối với các vùng khác của đại lục này: đó là nền hòa bình, hạnh phúc tinh thần và vật chất. Đương nhiên là trong ý thức Châu Mỹ Latinh là một vùng đất có nhiều nguy cơ vì chính sách cai trị của các chính quyền địa phương, và cũng vì sợ rằng với Cuba các nước này có thể chịu cùng số phận như thế. Tuy nhiên, cũng nên nhớ rằng Đức Cha Antonio Samorè, hồi đó là Thư ký phân bộ ngoại vụ Phủ Quốc Vụ Khanh, đã tham dự nhiều phiên họp của các đại diện các Hội Đồng Giám Mục Bắc và Nam Mỹ, và đã nghĩ ra các hình thức cộng tác mới trong công tác tông đồ. Và không phải là bí mật gì việc đôi khi ngài đã phải vất vả ”dung hòa” lập trường chiến thuật liên quan tới Châu Mỹ Latinh đối với các vị khác của Phủ Quốc Vụ KHanh Tòa Thánh. Và công việc phải làm bên Châu Mỹ Latinh thì bao la: ngày 24 tháng Giêng Đức Gioan XXIII viết trong nhật ký: ”Buổi tiếp kiến Đức Cha Samorè sáng nay đã cảm hóa và đưa tôi vào trong công việc rộng rãi đối với Châu Mỹ Latinh mà Phủ Quốc Vụ Khanh chú ý”. Ngày 13 tháng 8 năm 1962 Đức Thánh Cha Gioan XXIII cũng còn ghi: ”Đã tiếp: Đức Hồng Y Giám Quản xác nhận với tôi sự hài lòng của người đối với dự án tòa giám quản Laterrano. Đức Cha Samorè là người thường có cái nhìn về các điều kiện chính trị tôn giáo trong các nước khác trên thế giới, cách riêng Châu Mỹ Latinh. Đức Cha Luigi Centoz, Sứ Thần Tòa Thánh tại Cuba, đã rất là hay, giờ đây được nâng lên hàng Phó nhiếp chính của Giáo Hội công giáo Roma, khi trống ngôi Giáo Hoàng. Tôi đã cám ơn người rất nhiều về công việc phục vụ quý báu tại Cuba, nơi người đã vượt quá mọi chờ mong”.

Hỏi: Thưa ông, vào năm 1960 Đức Gioan XXIII đã gửi một sứ điệp lịch sử đọc bằng tiếng Bồ Đào Nha cho Brasil nhân dịp lễ khánh thành thủ đô Brasilia. Đức Gioan XXIII đã học ngôn ngữ của ông Camões là nhà thơ lớn nhất người Bồ Đào Nha, và ngài đã có các chú ý đặc biệt nào đối với Brasil?

Đáp: Brasil quốc gia mênh mông có thủ đô đã được Đức Gioan XXIII chào mừng. Nhưng trước đó ngày mùng 5 tháng Giêng năm 1959 vài nhà ngoại giao Brasil đã được ngài tiếp kiến. Ghi chú đầu tiên liên quan tới Brasil là ngày 21 tháng 7 năm 1959, khi Đức Gioan XXIII tiếp thủ tướng Nhật Nobosuke Kishi và ngài đã viết: ”Nhật Bản là quốc gia lớn đối với các lợi lộc của Nước Chúa Kitô: siêu dân số gây ấn tượng và di cư không lay chuyển. Brasil hầu như là quốc gia mênh mông duy nhất có khả năng nhận điều mà Nhật Bản không thể chứa đựng”… Rồi ngày 31 tháng 7 năm 1959 Đức Gioan XXIII tiếp Bộ trưởng Hải quân Brasil, Đô đốc Jorge Do Passo Mattoso Maia, phu nhân và đoàn tùy tùng. Ngày 7 tháng 9 Đức Cha Armando Lombardi Sứ Thần Tòa Thánh tại Brasil được Đức Gioan XXIII tiếp kiến. Ngày mùng 2 tháng Giêng năm 1960 đại sứ các nước Bolivia, Haiti, Venezuela cùng đại sứ Brasil đến gặp Đức Gioan XXIII, Và Đức Thánh Cha ghi trong nhật ký: ”Đại sứ Bolivia xin một Hồng Y cho nước mình”. Đây là điều sẽ được thực hiện dưới thời Đức Phaolô VI.

Ngài cũng dành mấy hàng cho Brasil trong nhật ký ngày 21 tháng 4 năm 1960: ”Hôm nay lễ Giáng Sinh tại Roma và là ngày khánh thành thủ đô Brasilia, thủ đô thứ ba của quốc gia mênh mông này, nơi có hơn 60 triệu tín hữu công giáo. Tối vừa qua tôi đã gửi một sứ điệp chúc mừng và phép lành bằng tiếng Bồ Đào Nha. Đại sứ Ribeiro Briggs Moacyr, trưa hôm nay sẽ đến đọc cho tôi nghe một sứ điệp đặc biệt của tổng thống, bầy tỏ lòng kính trọng Giáo Hoàng và Giáo Hội công giáo nhân danh quốc gia này. Tôi đã mời ông đại sứ cùng tôi đọc kinh Truyền Tin trong sự hiệp thông và cầu phúc lành của trời cao cho toàn nước Brasil”. Còn có một ghi chú khác ngày 1 tháng 8 năm 1960: ”Ôi, bầu trời tại một vài phần trên thế giới đen tối chừng nào! Và có biết bao bất an cho Hội Thánh! Chủ thuyết cộng sản tiếp tục sự len lỏi tai hại của nó: từ Brasil có các tin tức đớn đau liên quan tới vài Giám Mục hoạt động cho sự ly giáo”. Đó là vụ Đức Cha Carlos Duarte Costa, Giám Mục giáo phận Botacatù, bị vạ tuyệt thông năm 1964 vì đã thành lập ”Giáo Hội công giáo tông truyền Brasil”, bằng cách truyền chức bất hợp pháp 15 Giám Mục và một số linh mục. Mục sư tin lành Salomon Ferraz cũng đi theo và được phong Giám Mục, nhưng sau này sẽ thành lập một giáo phái riêng rẽ. Nhưng cuộc ly giáo thứ hai này được giải quyết êm thắm, khi Đức Cha Ferraz trở về với Giáo Hội công giáo tháng 12 năm 1959 và chức giám mục được thừa nhận. Tiếp theo đó nhật ký của Đức Gioan XXIII nhắc tới các cuộc gặp gỡ với các Giám Mục và giới chức ngoại giao đến từ Brasil.

(SD 18-4-2014; RG 21-4-2014)

Linh Tiến Khải – Vatican Radio
 

ĐỨC GIOAN XXIII VÀ ĐỨC GIOAN PHAOLÔ II LÀ CÁC NGƯỜI CÔNG CHÍNH

ĐỨC GIOAN XXIII VÀ ĐỨC GIOAN PHAOLÔ II LÀ CÁC NGƯỜI CÔNG CHÍNH

ROMA: Đức Gioan XXIII và Đức Gioan Phaolô II là các người công chính và việc tưởng niệm các vị là một phúc lành cho tất cả chúng ta.

Ông Elio Toaff, nguyên Rabbi trưởng Roma, đã khẳng định như trên liên quan tới lễ phong hiển thánh cho hai vị Giáo Hoàng lớn của Giáo Hội Công Giáo vào ngày 27-4-2014 tại Roma. Rabbi Toaff còn nhớ Dịp lễ Vượt Qua năm 1987 Đức Gioan Phaolô II đã viết thư cho ông để bầy tỏ các ước mong dấn thân của các tín hữu kitô và do thái cùng nhau tiến bước trên con đường của sự tự do, niềm tin, hy vọng và tươi vui trong tim và luôn nhớ rằng con người được tạo dựng nên giống hình ảnh của Thiên Chúa. Sách Talmud có nói rằng mỗi thế hệ đều biết tới 36 người công chính, và số phận của con người tùy thuộc nơi cung cách sống của họ, vì họ đem theo trong mình sự hiện diện của Thiên Chúa hơn những người khác. Họ công chính vì đã tận hiến cuộc đời phục vụ tha nhân và vinh quang của Thiên Chúa. Đức Gioan Phaolô II là người công chính vì các cử chỉ của ngài đã viếng thăm hội đường do thái ở Roma, traị tập trung Auschwitz và bức tường phía tây ở Giêrusalem.

Chúng là các cử chỉ can đảm cương quyết làm thành cột mốc lịch sử diễn tả lòng trìu mến chân thành của ngài và sự cảm thông đối với dân Israel cũng như đền bù đối với các khổ đau và các sai lầm trong dòng lich sử đối với dân Do thái, đạt tột đỉnh với nạn diệt chủng Shoah.

Trung tâm Simon Wiesenthal, là một trong những tổ chức quốc tế lớn nhất của người Do thái, cũng phổ biến bài viết ca ngợi Đức Gioan XXIII như là sức mạnh linh hoạt Công Đồng Chung Vatican II và thay đổi kiểu tín hữu công giáo nhìn các tôn giáo khác, đặc biệt là Do thái giáo. Rabbi Yizsac Adlerstein, giám đốc văn phòng liên tôn của trung tâm, ghi nhận rằng tài liệu Nostra Aetate về liên tôn của Công Đồng đã chấm dứt hàng thế kỷ bài Do thái giáo, và khiến cho tương quan giữa các tín hữu kitô và do thái ở trên bình diện tôn trong lẫn nhau. Trong khi rabbi Abraham Cooper, đồng giám đốc trung tâm, nhấn mạnh rằng Đức Gioan Phaolô II đã là vị Giáo Hoàng đầu tiên trong lịch sử viếng thăm Hội đường Do thái Roma, ôm hôn rabbi Elio Toaff và gọi tín hữu do thái là ”các người anh cả” của kitô hữu.

Ngoài ra Đức Gioan Phaolô II đã chinh phục trái tim của người Do thái, khi quyết định thiết lập ngoại giao với nước Israel và nhét lời cầu của ngài vào Bức Tường Khóc khi viếng thăm Giêrusalem, qua đó ngài công nhận máu của các thế hệ do thái đã đổ ra vì Kitô giáo và cầu xin ơn tha thứ. Đây là cử chỉ sẽ không bao giờ bị lãng quên (SD 19-4-2014).

Linh Tiến Khải – Vatican Radio