Hai loại bách hại

Hai loại bách hại

Thánh lễ sáng thứ ba, 12.04, tại nguyện đường Thánh Marta

VATICAN. “Sự bách hại là lương thực hằng ngày của Giáo hội.” Đức Thánh Cha Phanxicô đã nhấn mạnh như trên trong bài giảng thánh lễ sáng thứ ba, ngày 12 tháng 04, tại Nguyện đường thuộc Nhà trọ Thánh Marta.

Đức Thánh Cha chia sẻ rằng: “Các Kitô hữu phải đối diện với hai loại bách hại. Loại thứ nhất, rõ ràng và dễ nhận thấy, là bách hại của các vị tử đạo, đã bị giết chết vì đức tin, giống như đã xảy ra với Thánh Tê-pha-nô, vị tử đảo tiên khởi, hay với các Thánh Anh Hài bị Hê-rô-đê sát hại. Ngày hôm nay cũng có rất nhiều Kitô hữu bị giết chết như thế, vì tin vào Đức Kitô. Loại thứ hai có vẻ lịch sự và ít bạo lực hơn, thường ẩn dưới lớp vỏ văn hóa, sự tiến bộ và tinh thần hiện đại. Nhiều Kitô hữu vẫn đang bị bách hại một cách ‘lịch sự’ như thế, vì muốn diễn tả giá trị cao cả của việc làm con Thiên Chúa.

Như vậy, vẫn còn tồn tại những cuộc bách hại đẫm máu: bị xé ra từng mảnh bởi một con dã thú để làm vui lòng khán giả đang ngồi xem trên đấu trường hay cho nổ tung một quả bom được gài sẵn ở lối ra nhà thờ. Nhưng cũng có những cuộc bách hại diễn ra cách lịch sự và có học thức dưới ‘tấm áo của văn hóa’: Họ sẽ giam lỏng bạn vào một góc tối của xã hội, đe dọa tước đi việc làm của bạn nếu bạn không tuân thủ luật lệ mà họ đặt ra là chống lại Thiên Chúa Tạo Hóa.”

Các vị tử đạo của đời sống thường ngày

Khởi đi từ trình thuật về cuộc tử đạo của thánh Tê-pha-nô được mô tả trong sách Công vụ Tông Đồ, theo phụng vụ của ngày hôm nay, Đức Thánh Cha nhận thấy thực tế rằng kể từ hai ngàn năm nay các cuộc bách luôn xảy ra trong lịch sử đức tin Kitô giáo:

“Tôi muốn nói rằng bách hại là lương thực hằng ngày của Giáo hội. Đức Giêsu cũng đã nói như thế. Khi làm một vòng tham quan Roma và đến Colosseo, chúng ta nghĩ tới các vị tử đạo đã bị những con sư tử hung hãn giết chết. Nhưng các vị tử đạo không chỉ có ở Colosseo và cũng không chỉ có vào thời điểm đó nhưng ngày hôm nay vẫn còn có các vị tử đạo. Mới ba tuần trước đây, những Kitô hữu đang cử hành lễ Phục Sinh với nhau ở Pakistan đã bị giết chết. Chắc chắn, họ được phúc tử đạo vì đang mừng mầu nhiệm Đức Kitô phục sinh. Và như thế, Giáo hội không ngừng bước đi với các vị tử đạo của mình.

Bách hại cách ‘lịch sự’

Cuộc tử đạo của Thánh Tê-pha-nô mở đầu cho một sự bách hại bài Kitô giáo rất khốc liệt ở Giê-ru-sa-lem. Điều ấy cũng tương tự với việc ngày hôm nay nhiều người không có tự do để tuyên xưng đức tin vào Đức Giêsu. Nhưng còn có một cuộc bách hại khác mà chúng ta ít khi nhắc đến. Đó là cuộc bách hại đội lốt văn hóa, được ngụy trang với vỏ bọc hiện đại và sự phát triển.

Tôi muốn nói cách mỉa mai rằng, đó là một cuộc bách hại có ‘giáo dục’. Cuộc bách hại ấy xảy ra không phải khi người ta tuyên xưng danh Đức Giêsu, nhưng là khi người ta muốn diễn tả giá trị của việc làm con cái Chúa. Đó là một cuộc bách hại chống lại Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa, nơi chính con người của những con cái Thiên Chúa. Nói cách dễ hiểu hơn, chúng ta nhận thấy rằng ngày nay, những cường quốc có quyền thiết định luật pháp để bắt buộc người khác phải đi trên con đường mà họ vạch ra. Khi một quốc gia không theo những luật pháp này, hay ít nhất không muốn có những luật pháp ấy trong hệ thống pháp luật của mình, ngay lập tức sẽ bị cô lập, bị cáo buộc và bị bách hại. Những bách hại đó tước mất đi sự tự do của con người, và ngay cả quyền chối từ của lương tâm.

Đây là sự bách hại của thế gian, tước mất tự do, trong khi Thiên Chúa ban cho chúng ta tự do để có thể làm chứng tá về Thiên Chúa Cha, Đấng tạo dựng nên chúng ta và làm chứng về Đức Kitô, Đấng đã cứu chuộc chúng ta. Cuộc bách hại ấy có một kẻ chủ mưu.

Đức Giêsu đã vạch mặt chỉ tên kẻ chủ mưu của loại bách hại có ‘giáo dục’ này, đó là tên thủ lĩnh thế gian. Những cường quốc muốn áp đặt những quan điểm, thái độ, luật lệ chống lại phẩm giá của con cái Thiên Chúa; bắt các tín hữu chống lại Đấng Hóa Công. Đây là cuộc chống đạo có quy mô lớn. Như thế đời sống của những Kitô hữu luôn có hai cuộc bách hại này. Nhưng Đức Giêsu đã hứa với chúng ta là sẽ không bỏ rơi chúng ta. ‘Anh em hãy cẩn thận. Đừng để rơi vào tinh thần thế gian. Hãy tỉnh thức luôn! Và hãy can đảm tiến về phía trước, vì Thầy luôn ở với các con.’”

Vũ Đức Anh Phương, SJ

Hiện tượng thờ ma quỷ ở Kenya

Hiện tượng thờ ma quỷ ở Kenya

Hội đồng Giám mục Kenya

Nairobi, Kenya – Tại một hội nghị chuyên đề thần học gần đây về những điều huyền bí và việc thờ ma quỷ, Đức cha Emmanuel Barbara của Malindi cho biết tình trạng thờ kính ma quỷ đang gia tăng nhanh chóng ở Kenya và nó có những ý nghĩa toàn cầu. Các người trẻ, cả Ki-tô hữu và không phải Ki-tô hữu, đạng bị cám dỗ về vấn đề này bởi được hứa hẹn các học bổng. Đức cha hy vọng Năm Thánh Lòng Thương xót sẽ giúp các tín hữu Công giáo giữ vững lòng tin.

Trong phần trả lời các câu hỏi sau đó, vài người đã yêu cầu các Giám mục Kenya chuyển từ việc nói về vấn đề này sang hành động để ngăn chặn việc thờ phượng này. Một tín hữu cho biết: “việc giáo dục để loại trừ điều này cho các tín hữu Công giáo còn thiếu.” Một người khác yêu cầu Đức cha cho những tài liệu cụ thể về vấn đề. Một tham dự viên dấu tên nói với báo Catholic News Service về việc những người đứng sau việc tuyển mộ người cho việc thờ cúng ma quỷ đã khai thác cách hiệu quả những người trẻ trong giới thất nghiệp, mù chữ và có vấn đề về trí tuệ.

Cha Clement Majawa, đang giảng dạy tại  đại học Công giáo Đông Phi cho rằng Giáo hội và chính quyền phải cảnh giác công chúng về tình trạng thật của việc thờ ma quỷ. Cha đề nghị các môn học về các xã hội tôn giáo huyền bí và tôn giáo truyền thống của châu Phi. Cha cũng đề nghị các tín hữu Công giáo cộng tác với bộ Giáo dục Kenya để phát triển chương trình học và có một đội ngũ tuyên úy và cố vấn sẵn sàng cho tình trạng thách đố này.

Vào năm 1999 đã có một cuộc điều tra của phủ tổng thống về vấn đề thờ cúng ma quỷ và kết quả cho thấy hiện tượng này xuất hiện trong các trường hoc, nhà thờ và ngay cả trong các văn phòng chính phủ.  (Catholic New Service 12/04/2016)

Hồng Thủy OP

 

Chứng tá can đảm của các nữ tu “Tiểu muội người nghèo”

Chứng tá can đảm của các nữ tu “Tiểu muội người nghèo”

Little Sisters of the Poor

Notre Dame, Indiana – Các nữ tu “Tiểu muội người nghèo” (Little Sisters of The Poor) đã được hoan nghênh chào đón nhiêt liệt trong thánh đường Thánh tâm ở Đại học Notre Dame. Các nữ tu đã được nhận giải thưởng Evangelium Vitae” – Tin Mừng Sự Sống – vào ngày 9 tháng 4 vừa qua vì những phục vụ nổi bật của họ cho sự sống con người. Huy chương này được trao hàng năm từ năm 2011 bởi trung tâm đạo đức và văn hóa của đại học Notre Dame. Những người được nhận giải thưởng được loan báo trên báo Chúa nhật “Tôn Trọng Sự Sống” và huy chương được trao vào mùa xuân. Giải thưởng Tin Mừng Sự Sống có kèm theo 10 ngàn Mỹ kim. Trước đây hội Hiệp sĩ Columbus và các “Nữ tu Sự Sống” đã nhận được giải này.

Các nữ tu “Tiểu muội người nghèo” điều hành 30 nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe và trợ giúp an sinh cho hơn 13 ngàn người lớn tuổi có thu nhập thấp.

Giải thưởng năm nay được trao chỉ 2 tuần sau khi Tòa án Tối Cao Hoa kỳ nghe những tranh luận trong vụ kiện của các nữ tu “Tiểu muội người nghèo”, các giáo phận Công giáo và các tổ chức khác, và các nhóm tôn giáo khác chống lại phán quyết liên bang yêu cầu hầu hết các chủ nhân, bao gồm chủ các cơ sở tôn giáo, cung cấp bảo hiểm sức khỏe cho người lao động bao gồm biện pháp tránh thai, triệt sản và thuốc phá thai – ngay cả khi các bảo hiểm như vậy gây nên những xung đột về mặt đạo đức cho các chủ nhân.

Sự hoan nghênh bất thường dành cho sự kiên các nữ tu được giải thưởng đã bùng nổ trước đó, trong bài giảng của Đức Cha Kevin C. Rhoades ở Fort Wayne-South Bend trong Thánh lễ trước khi giải thưởng được trao. Ngài so sánh chứng tá của các nữ tu như chứng tá của các Tông đồ trong bài sách Tông đồ Công vụ, khi các ngài được gọi ra trước Công nghị, một tòa án tôn giáo, và được yêu cầu ngừng giảng dạy nhân danh Chúa Giê-su. Đức cha nói: “Trong Thánh lễ này, có một cộng đoàn các nữ tu hiện diện với chúng ta, những người đối diện với một phán quyết bất công, đã đứng lên, và hành động của họ đã nói những lời Thánh Phê-rô và các Tông đồ đã nói: ‘Chúng tôi phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời con người.’”. Đức Cha cám ơn về chứng tá can đảm của các nữ tu. Sự hoan hô nhiệt tình bùng nổ trong nhà dòng đông nghẹt các sinh viên của đại học Notre Dame. Đây được xem như là phản ứng lại thông báo của ban lãnh đạo của đại học vào ngày 5 tháng 3, sẽ trao huân chương “Laetare” năm 2016 của đại học cho phó Tổng thống Joe Biden và cựu Chủ tịch Quốc hội John Boehner; cả 2 đều là người Công giáo.

Huân chương Laetare, được trao lần đầu vào năm 1883, là giải thưởng lâu đời và uy tín nhất được trao cho các người Công giáo Mỹ để nhìn nhận những đóng góp xuất sắc cho Giáo hội và xã hội. Trong quá khứ, trong số những người đã được trao giải có cố Tổng thống John F. Kennedy, Dorothy Day và Đức Hồng Y Joseph Bernadin.

Vài thành viên của đại học Notre Dame đã phản đối mạnh mẽ về quyết định trao huân chương cho phó Tổng thống Joe Biden vì ông đã không đồng ý với giáo huấn của Hội thánh về phá thai và hôn nhân. Cha John I. Jenkins, chủ tịch của đại học Notre Dame giải thích là 2 nhân vật trên không được trao giải vì lập trường chính trị của họ, nhưng vì những đóng góp và cống hiến cho văn minh. Tuy vậy, Đức cha Rhoades, Giám mục bản quyền cho biết ngài đã nói với cha Jenkins là việc vinh danh bất cứ viên chức ủng hộ phá thai, dù người đó đã có những đóng góp tích cực trong việc phục vụ công cộng. Trong tuyên bố hôm 14 tháng 3, Đức cha đã viết: “Giáo hội không ngừng kêu gọi các công chức, đặc biệt là các người Công giáo, về nghĩa vụ lớn lao và rõ ràng phải phản đối bất cứ đạo luật nào hỗ trợ và tạo điều kiện phá thai hay làm mất đi ý nghĩa đích thực của hôn nhân. Tôi không đồng ý với việc trao giải thưởng cho những người vì đóng góp xuất sắc cho Giáo hội và xã hội mà không trung thành với nghĩa vụ này.”

Trong bài giảng hôm 9 tháng 4 Đức cha cũng nói: “Rao giảng bằng cuộc sống của chúng ta, bằng chứng tá của chúng ta là cần thiết và đòi sự can đảm…. Phải có một sự nhất quán giữa điều chúng ta tuyên xưng và cách sống của chúng ta, và điều này không chỉ bao gồm cuộc sống của chúng ta mà cả đời sống của cộng đoàn chúng ta, của giáo phận và giáo xứ, của các trường và đại học Công giáo, các cơ sở y tế và các cơ sở Công giáo khác.”

Sau Thánh lễ, huân chương “Tin Mừng Sự sống” được trao cho nữ tu Loraine Marie Maguire, giám tỉnh tỉnh dòng Hoa kỳ của dòng “Tiểu muội người nghèo”, đại diện cho các nữ tu. Cũng có sự hiện diện của khoảng hơn mươì nữ tu và các người hưu trí trong các cơ sở do các nữ tu phụ trách. Nữ tu Loraine Marie Maguire nói, các nữ tu Tiểu muội được khen ngợi ngoài những lời nói, còn nhận giải thưởng. Chị cám ơn các người cư trú trong các nhà của các nữ tu vì đã tạo nên sứ vụ của các nữ tu và  qua đó các nữ tu được giải thưởng. Chị kể lại là các nữ tu đã đối mặt với nhiều thử thách trong cuộc chiến pháp luật, nhưng cũng nhận nhiều ân sủng và sự yêu thương trợ giúp, và đã đạt đến một tầm mức mới của đức tin và đức cậy vào sự quan phòng của Thiên Chúa. Theo chị, nhờ lời cầu nguyện, các nữ tu vượt qua những tháng khó khăn vừa qua. Lời cầu nguyện là thiết yếu để có thể bày tỏ sự chấp nhận và tôn trọng với những người có niềm tin khác chúng ta trong khi vẫn làm chứng về sự thật. Mẹ kêu gọi những người ủng hộ đang có mặt tại bữa tiệc xem xét “cam kết chung của chúng ta với Tin Mừng sự sống trong ‘Năm Thánh Lòng Thương xót’ bằng cách làm theo sự khuyến khích của Giáo hoàng Phanxicô: chiêm ngắm chăm chú hơn vào lòng thương xót để chúng ta có thể trở thành một dấu chỉ hiệu quả hơn của hoạt động của Chúa Cha trong cuộc sống của chúng ta.” (Catholic News Service 11/04/2016)

Hồng Thủy OP

Đức Thánh Cha kêu gọi bãi bỏ án tử hình và tha nợ quốc tế

Đức Thánh Cha kêu gọi bãi bỏ án tử hình và tha nợ quốc tế

Đức Thánh Cha kêu gọi bãi bỏ án tử hình và tha nợ quốc tế

VATICAN. ĐTC Phanxicô tái kêu gọi các vị lãnh đạo chính quyền các quốc gia bãi bỏ án tử hình và tha nợ quốc tế.

 Trong sứ điệp gửi Hội nghị quốc tế do Phong trào Pax Christi Hòa bình của Chúa Kitô và Hội đồng Tòa Thánh Công lý và Hòa bình cùng tổ chức ở Roma từ ngày 11 đến 13-4-2016 này, ĐTC viết:

 ”Tôi mời gọi tất cả quí vị hiện diện tại Hội nghị này hãy hỗ trợ 2 lời thỉnh cầu mà tôi đã gửi đến các vị lãnh đạo các nước, trong Năm Thánh này, đó là bãi bỏ án tử hình tại nơi nào vẫn còn, cùng với sự ân xá, và hủy bỏ hoặc điều chỉnh lại nợ nần quốc tế qua sự quản trị có thể chấp nhận được dành cho các nước nghèo nhất”.

 Hội nghị quốc tế vừa nói có chủ đề là ”Bất bạo lực và Hòa bình công chính: góp phần vào quan niệm của Công Giáo về bất bạo động và sự dấn thân cho bất bạo động”.

 Trong sứ điệp ĐTC nhấn mạnh một điểm thiết yếu, đó là: ”trong tư cách là Kitô hữu, chúng ta biết rằng chỉ khi nào coi những người đồng loại như anh chị em với nhau, chúng ta mới có thể vượt thắng chiến tranh và xung đột. Giáo Hội không ngừng lập lại rằng điều ấy có giá trị không những trên bình diện cá nhân, nhưng cả trên bình diện các dân nước, đến độ Giáo Hội coi cộng đồng quốc tế như ”gia đình các dân nước”.

 ĐTC viết thêm rằng ”Trong tư cách là Kitô hữu chúng ta cũng biết rằng chướng ngại lớn cần loại bỏ để có gia đình các dân nước chính là chướng ngại do bức tường dửng dưng lãnh đạm dựng lên. Tin tức thời sự gần đây cho chúng ta thấy, khi tôi nói về bức thường, thì đó không phải là ngôn ngữ chỉ nghĩa bóng, nhưng đó là một thực tại đau buồn. Thực tại dửng dưng, không những chỉ liên hệ đến con người, nhưng cả môi trường tự nhiên, với những hậu quả nhiều khi đau thương về mặt an ninh và hòa bình xã hội.

 ĐTC cũng nhận xét rằng: ”Sự dấn thân vượt thắng sự dửng dưng chỉ thành công, nếu chúng ta có khả năng sử dụng lòng từ bi thương xót. Lòng thương xót được biểu lộ qua tình liên đới 'chính trị', vì tình liên đới tạo nên thái độ luân lý và xã hội đáp ứng hữu hiệu sự ý thức về những tai ương thời nay và sự lệ thuộc lẫn nhau giữa đời sống cá nhân, cộng đoàn gia đình, địa phương và hoàn cầu” (SD 11-4-2016)

 G. Trần Đức Anh OP 

Truyền giáo dưới ánh sáng các giáo huấn của Đức Thánh Cha Phanxicô

Truyền giáo dưới ánh sáng các giáo huấn của Đức Thánh Cha Phanxicô

Mexico City – Các bề trên Tổng quyền và cố vấn của nhiều hội đoàn tông đồ truyền giáo đã họp nhau tại trụ sở của các Thừa Sai Guadalupe ở thành phố Mexicô từ ngày 5-9 tháng 4  vừa qua. Đây là cuộc họp thường kỳ được tổ chức hai năm một lần. Chủ đề của khóa họp năm nay là Sắc lệnh “Missio ad gentes” (Đến với muôn dân) trong bối cảnh hậu Tông huấn “Evangelii Gaudium” (Niềm Vui Tin Mừng) và Thông điệp “Laudato si”.

 

Đã có 43 nhà truyền giáo của 22 hội đoàn tham dự khóa họp. Họ làm quen với nhau, suy tư về sứ vụ truyền giáo trong thế giới hôm nay, và cùng tìm ra những cách thế để thi hành sứ vụ truyền giáo chung với nhau. Điểu nổi bật và đánh động trong buổi họp này là tính phổ quát của sứ vụ truyền giáo ngày nay, với sự hiện diện của các tham dự viên đến từ khắp 5 châu, trong đó số các thành viên đến từ “vùng truyền giáo” gia tăng hơn trước. Không chỉ có các nhà truyền giáo của các hiệp hội của Âu châu và Mỹ châu đang truyền giáo ở Phi châu và Á châu, nhưng còn có thành viên của các hiệp hội truyền giáo từ Á châu như Ấn độ, Thái lan, Philippin, Nam Hàn và Nigiêria.

 

Cha Jack Lynch thuộc Hội truyền giáo hải ngoại Scaboro đã đưa ra những điểm suy tư liên quan đến những thách đố đối với sứ vụ mà hai tài liệu của Đức Thánh Cha Phanxicô đã trình bày, đặc biệt liên quan đến đời sống nội tâm của các hội đoàn truyền giáo, cũng như cách thức thực hành sứ vụ. Cha đặt câu hỏi: Những cách thức sống nào giáo huấn của Đức Thánh Cha Phanxicô mời gọi chúng ta? Chúng ta được mời gọi hoán cải về điều gì khi thực hiện việc truyền giáo? Câu trả lời nằm trong những chọn lựa và thực hành đơn giản nhất như quan tâm bảo vệ môi trường trong cuộc sống hàng ngày của mỗi người, khi chúng ta xây nhà cửa, di chuyển con người và vật dụng, sử dụng nước và năng lượng tái chế.

 

Các nhóm đã nghiên cứu để làm thế nào tháp nhập các vấn đề vào việc huấn luyện truyền giáo để phát triển một tu đức truyền giáo liên kết với những giáo huấn này. Việc huấn luyện ở chủng viện cũng là một chủ đề vì điều này cũng ảnh hưởng đến những thử thách mới trong sứ vụ truyền giáo, đặc biệt liên quan đến người nghèo, đến ngôi nhà chung của chúng ta. Các tham dự viên cũng đề nghị những phương thức hợp tác chung giứa các hội đoàn trong việc huấn luyện và sứ vụ.

 

Các ý kiến sẽ được thu thập và gửi đến các hội đoàn để suy tư và quyết định. Một ủy ban thư ký cũng được thành lập để tiếp tục việc suy tư các vấn đề trong 2 năm tới, cho đến kỳ họp sẽ được tổ chức tại trụ sở của các Thừa sai Columban ở Hồng Kông vào tháng 4 năm 2018. (Asia News 10-4-2016)

 

Hồng Thủy OP

 

Các tiến sĩ luật đã đóng kín tâm hồn trước Lời Chúa và trước cuộc sống của tha nhân

Các tiến sĩ luật đã đóng kín tâm hồn trước Lời Chúa và trước cuộc sống của tha nhân

VATICAN. Các tiến sĩ luật kết án người khác đã chống lại Lời Thiên Chúa. Họ khép kín tâm hồn trước những lời loan báo của các ngôn sứ. Đối với họ, cuộc sống của tha nhân chẳng có gì đáng phải bận tâm, chỉ có khuôn khổ của lề luật và những phép tắc mới là điều quan trọng. Đây chính là nội dung bài giảng của Đức Thánh Cha Phanxicô trong thánh lễ sáng thứ hai, ngày 11 tháng 04, tại nguyện đường Thánh Marta.  

Trọng tâm bài giảng được Đức Thánh Cha triển khai từ bài đọc một trích sách Công vụ Tông Đồ, thuật lại việc các tiến sĩ luật kết án ông Tê-pha-nô bằng những lời phỉ báng, vì họ không địch nổi lời lẽ khôn ngoan mà Thần Khí đã ban cho ông. Bấy giờ, họ mới xui mấy người phao lên rằng: “Chúng tôi đã nghe hắn nói lộng ngôn xúc phạm đến ông Mô-sê và Thiên Chúa.” Đức Thánh Cha nhận xét rằng: “Tâm hồn họ đã đóng kín trước chân lý của Thiên Chúa và chỉ bám lấy sự đúng sai theo lề luật. Nhưng khi chỉ biết đến sự chính xác của lề luật, của những con chữ, họ không tìm được lối đi nào khác ngoài sự dối trá, dựng lên chứng gian và giết chết người khác. Có lần, Đức Giêsu đã từng khiển trách họ bởi thái độ này, vì ‘cha ông họ đã giết các ngôn sứ’, còn chính họ lại là những người xây lăng cho các ngôn sứ ấy. Nhưng các vị tiến sĩ của lề luật, của chữ nghĩa này thật ra là những người hoài nghi hơn là đạo đức giả: ‘Nếu chúng tôi được sống vào thời cha ông chúng tôi, chắc chắn chúng tôi sẽ không làm việc đó.’ Và như thế, họ đã phủi sạch tay mình và tự xét mình là những người trong sạch. Nhưng tâm hồn họ lại đóng kín trước Lời Chúa, trước chân lý và trước sứ giả của Thiên Chúa, là những người thông truyền lời loan báo đến Dân Người.

Tôi cảm thấy đau buồn khi đọc một đoạn nhỏ trong Tin Mừng theo thánh Mát-thêu, thuật lại việc Giuđa hối hận, đến gặp các thượng tế và nói rằng: ‘Tôi đã phạm tội nộp người vô tội.’ Và Giuđa muốn trả lại tiền. Nhưng các thượng tế đáp: ‘Can gì đến chúng tôi. Mặc kệ anh!’ Trái tim họ đã thật sự khép kín trước người đàn ông đáng thương này. Giuđa đã ăn năn hối hận nhưng không biết phải làm gì để chuộc lỗi. Và điều mà anh nhận được là một câu nói lạnh nhạt: ‘Mặc xác anh!’ Giuđa đã ném số bạc vào Đền Thờ và ra đi thắt cổ. Các thượng tế đã làm gì khi Giuđa thắt cổ? Phải chăng họ đã nói: ‘Ôi, tôi nghiệp anh quá’? Không. Họ không tỏ ra thương xót nhưng ngay lập tức đề cấp đến số bạc Giuđa đã bỏ lại: ‘Không được phép bỏ vào quỹ Đền Thờ, vì đây là giá máu.’… Theo luật thì chúng ta phải làm như thế này, như thế nọ, như thế kia…. Ôi, những vị tiến sĩ của chữ nghĩa!  

Đối với các vị tiến sĩ ấy, mạng sống của một con người chẳng có nghĩa lý gì, sự ăn năn hối hận của Giuđa chẳng hề quan trọng. Điều duy nhất quan trọng với họ là khuôn khổ của lề luật, là những từ ngữ, chữ nghĩa và tất cả những gì mà họ đã xây đắp lên. Đây chính là sự chai cứng trong tâm hồn họ. Nhưng những người có con tim chai đá và mù tối ấy đã không thắng nổi chân lý mà Tê-pha-nô đang nói. Vì thế, họ tìm những nhân chứng giả để có thể kết án ông.

Kết cục của Tê-pha-nô cũng giống như bao vị ngôn sứ khác, và cũng giống như Đức Giêsu. Và đây cũng chính là điều không ngừng được lặp lại trong lịch sử của Giáo hội. Lịch sử ấy nói với chúng ta về bao nhiêu người đã bị giết hại, bị kết án cho dẫu là hoàn toàn vô tội: bị kết án với lời của Thiên Chúa, vì bị cho rằng đã chống lại Lời Thiên Chúa. Chúng ta hãy nghĩ đến việc săn phù thủy hay nghĩ đến thánh Gioana thành Arc (Jeanne d'Arc) của nước Pháp, nghĩ đến rất nhiều người khác đã bị đưa lên dàn hỏa thiêu. Họ bị xử tử vì, theo các thẩm phán, không hành xử đúng với Lời Chúa. Gương của Đức Giêsu vẫn còn đó. Khi Ngài một mực trung tín và vâng phục Lời của Cha, Ngài đã phải chết treo nhục nhã trên thập giá. Với tất cả sự dịu dàng, từ tốn, Đức Giêsu đã nói với hai môn đệ trên đường Emmaus: ‘Ôi kẻ khờ dại, chậm tin các điều các Ngôn Sứ đã nói!’ Phần chúng ta, ngày hôm nay, chúng ta cũng hãy nài xin Thiên Chúa, với cùng một sự dịu dàng, từ tốn ấy, đoái xem đến những ngu muội lớn cũng như nhỏ trong tâm hồn chúng ta. Xin Chúa chăm nom, vỗ về chúng ta và nói với chúng ta rằng: ‘Ôi, kẻ khờ dại và chậm tin’ và sau đó, xin Chúa bắt đầu giải thích mọi sự cho chúng ta.”

Vũ Đức Anh Phương, SJ

 

Chúng ta hãy thông truyền sức mạnh của Thiên Chúa Phục Sinh

Chúng ta hãy thông truyền sức mạnh của Thiên Chúa Phục Sinh

Đức Thanh Cha chủ sự buổi đọc Kinh Lạy Nữ Vương Thiên Đàng trưa Chúa Nhật, ngày 10-04

VATICAN. Trong buổi đọc kinh Lạy Nữ Vương Thiên Đàng trưa Chúa Nhật, ngày 10-04, với vài chục ngàn tín hữu và du khách hành hương năm châu, Đức Thánh Cha Phanxicô nói rằng: Đức Kitô thực sự đã phục sinh! Sự hiện diện của Đức Giêsu phục sinh làm biến đổi tất cả. Ngày hôm nay, Giáo hội không ngừng ca vang lời loan báo chan chứa niềm vui ấy.

Sau đây là bài huấn dụ của Đức Thánh Cha:

“Tin Mừng ngày hôm nay thuật lại lần hiện ra thứ ba của Đức Giêsu phục sinh với các môn đệ, bên bờ biển hồ Galilea, với sự khắc họa của mẻ cá lạ (Ga 21, 1-9). Trình thuật Tin Mừng được lồng ghép vào bối cảnh cuộc sống sinh hoạt hằng ngày của các môn đệ. Họ đã trở về quê quán, trở về với công việc đánh cá sau những ngày buồn thảm thê lương với cuộc khổ nạn, cái chết và phục sinh của Đức Giêsu. Các môn đệ cảm thấy thật khó để có thể hiểu những gì vừa mới xảy ra. Trong khi tất cả dường như đã đặt dấu chấm hết, thì một lần nữa, Đức Giêsu lại ‘đi tìm’ các môn đệ của mình. Lần này, Ngài gặp các ông ở gần biển hồ. Các ông đã trải qua một đêm vất vả trên thuyền nhưng không bắt được gì cả. Những tấm lưới trống không, trong một ý nghĩa nào đó, giống như một sự lượng định về kinh nghiệm của các môn đệ với Thầy Giêsu: các ông đã gặp Giêsu, đã bỏ tất cả mọi sự để theo Người, đầy tràn hăng say và hy vọng… nhưng cuối cùng thì sao? Các ông đã thấy thầy sống lại nhưng sau đó lại nghĩ rằng: ‘Thầy đến nhưng rồi thầy cũng sẽ bỏ chúng ta … Mọi chuyện chỉ như một giấc mơ.’

Trong ánh bình minh ló dạng phía chân trời, Đức Giêsu đứng trên bãi biển nhưng các môn đệ không nhận ra đó chính là Đức Giêsu (câu 4). Ngài nói với những chàng ngư phủ đang mệt mỏi và thất vọng ấy: ‘Cứ thả lưới xuống bên phải mạn thuyền đi, thì sẽ bắt được cá’ (câu 6). Các ông đã tin và kết quả là có một mẻ cả dư đầy đến không thể tưởng tượng được. Ngay khi khi nhìn thấy mẻ cá ấy, Gioan nói với Phê-rô: ‘Chúa đó!’ (câu 7). Ngay lập tức, Phê-rô nhảy xuống biển và bơi vào bờ, đến với Đức Giêsu. Lời tuyên bố: ‘Chúa đó!’ chứa đựng tất cả mọi nhiệt huyết, hăng say của niềm tin tưởng phục sinh, tràn đầy niềm vui và ngỡ ngàng sung sướng. Điều ấy hoàn toàn đối lập với sự mất mát đau thương, với sự thất bại, bất lực đang chất chưa nơi tâm hồn của các môn đệ. Sự hiện diện của Đức Giêsu Phục Sinh làm biến đổi tất cả: Ánh sáng đã chiến thắng bóng tối, công việc đánh cá cả đêm tưởng chừng như vô ích nhưng lại trổ sinh hoa trái và chất chứa đầy hứa hẹn, sự mệt mỏi và cảm thấy bị bỏ rơi đã nhường chỗ cho một thôi thúc mới và cho một xác tín rằng Đức Giêsu đang ở với chúng ta.

Kể từ đó, chính tình cảm này đã không ngừng thôi thúc Giáo hội, thôi thúc Cộng Đoàn của Chúa Phục Sinh. Nếu thoạt nhìn chúng ta có thể cho rằng có đôi khi những tăm tối của sự dữ và nỗi vất vả của cuộc sống hằng ngày dường như chiếm ưu thế, nhưng Giáo hội xác tín rằng Đức Giêsu đã chiếu ánh sáng phục sinh vĩnh cửu trên những ai bước theo Ngài. Lời loan báo trọng đại về sự phục sinh thấm nhuần nơi tâm hồn các tín hữu một niềm vui sâu xa và một ánh lửa hy vọng không bao giờ tắt. Đức Kitô thực sự đã phục sinh! Ngay cả ngày hôm nay, Giáo hội cũng không ngừng ca vang lời loan báo chan chứa niềm vui này. Niềm vui và sự hy vọng tiếp tục tuôn chảy trong những con tim, trên gương mặt và trong từng lời nói, cử chỉ. Tất cả chúng ta, những Kitô hữu, được mời gọi thông truyền sứ điệp phục sinh đến tất cả những ai mà chúng ta gặp gỡ, đặc biệt là những người đang đau khổ, cô đơn; những người đang phải sống trong những điều kiện không an toàn, những bệnh nhân và những người bị gạt ra bên lề của xã hội. Chúng ta hãy làm cho ánh sáng của Đức Kitô Phục Sinh chiếu rọi đến hết mọi người một dấu chỉ về quyền năng thương xót của Thiên Chúa.

Xin Thiên Chúa đổi mới nơi chúng ra đức tin phục sinh. Xin Chúa giúp chúng ta luôn ý thức hơn về sứ mạng của chúng ta là ra đi rao giảng Tin Mừng và phục vụ anh chị em. Xin Chúa đổ đầy tâm hồn chúng ta Thần Khí, với lời chuyển cầu của Mẹ Maria, để cùng với toàn thể Giáo hội, chúng ta loan truyền sự vĩ đại của tình yêu Thiên Chúa và sự giàu có phong nhiêu nơi lòng thương xót của Ngài.”

Đức Thánh Cha chào mừng và kêu gọi

Sau Kinh Lạy Nữ Vương Thiên Đàng, Đức Thánh Cha đã gởi lời chào thân ái đến tất cả các tín hữu ở Roma và khách hành hương đến từ Italia cũng như các quốc gia khác.

Đức Thánh Cha cũng nói thêm: “Trong niềm hy vọng vào Đức Kitô Phục Sinh, một lần nữa tôi tái kêu gọi tự do cho tất cả những ai đang bị bắt bớ trong những khu vực xung đột vũ trang. Tôi tha thiết kêu gọi và cầu nguyện cách đặc biệt cho linh mục Tom Uzhunnalil, thuộc dòng Don Bosco, đã bị bắt cóc ở Aden, Yemen hôm 04 tháng 03 vừa qua.

Hôm nay ở Italia, người ta cũng mừng kỷ niệm Đại học Công giáo Thánh Tâm với chủ đề: ‘Trong một nước Ý của ngày mai, tôi sẽ ở đó.’ Tôi hy vọng rằng trường đại học lớn này tiếp tục thực hiện vai trò phục vụ quan trọng của mình đối với giới trẻ Italia, tiếp tục làm mới lại cam kết dấn thân của mình trong sứ mạng giáo dục và ngày càng cập nhật hơn nữa những nhu cầu của thời đại.”

Cuối cùng Đức Thánh Cha chúc mọi người ngày Chúa Nhật an lành và cũng xin mọi người đừng quên cầu nguyện cho ngài.

Vũ Đức Anh Phương, SJ

Nhân viên của cơ quan trợ giúp Công giáo kêu gọi Burundi không đe dọa Giáo hội

Nhân viên của cơ quan trợ giúp Công giáo kêu gọi Burundi không đe dọa Giáo hội

Oxford, Anh quốc – “Giáo hội tham gia vào việc xây dựng hòa bình bằng cách mang các cộng đoàn gần lại với nhau và giải thích cho các chính trị gia tầm quan trọng của đối thoại với người khác. Đồng thời giáo hội cũng đóng góp những trợ giúp quan trọng cho ngành nông nghiệp, giáo dục và các dịch vụ xã hội đa dạng, bao gồm chăm sóc sức khỏe, điều có lẽ sẽ gặp tình trạng bi đát nếu không có 101 bệnh viện và phòng khám của Giáo hội. Dân chúng sẽ đối diện với những khó khăn nếu các hoạt động của Giáo hội bị ngưng lại.” Patrick Nicholson, giám đốc truyền thông của tổ chức bác ái quốc tế nói với Catholic News Service như thế.

Burundi rơi vào tình trạng hỗn loạn vào năm 2015 sau khi tổng thống Pierre Nkurunziza tái cử lần thứ ba, một điều vi phạm hiến pháp trắng trợn. Chính quyền cấm các cuộc biểu tình và hạn chế các phương tiện truyền thông, và hàng ngàn người Burundi, bao gồm phó chánh án tòa án hiến pháp chạy sang các nước láng giềng.

Các Giám mục nói rằng hiến pháp quy định rõ ràng là các tổng thống không thể phục vụ quá hai nhiệm kỳ, nhấn mạnh là các phương tiện truyền thông nên được làm các công việc của họ và kêu gọi các người trẻ không được bạo động. Hội đồng Giám  muc đã nhận định là Burundi đang đứng ở ngã ba đường và tương lai của họ tùy thuộc vào sự đối thoại giữa các chính trị gia với lợi ích của đất nước, những người yêu quốc gia và các công dân hơn là lợi ích riêng tư của họ. Tuyên ngôn của Hội đòng Giám  muc viết: “tiếp tục các cuộc giết người và sự biến mất của những người mà thi thể họ được tìm thấy trong các mồ tập thể chỉ tạo nên những vấn đề với cộng đồng quốc tế và làm cho tình hình xấu đi bởi vì sẽ làm mất đi các viện trợ tài chính,”

Hôm 26 tháng 3, chủ tịch Quốc hôi đã tố cáo các Giám mục giữ một vai trò hoàn toàn chính trị chứ không phải là tinh thần, và ông nói chính quyền sẽ không nói chuyện với những kẻ ủng hộ khủng bố và các người nổi dậy, là những người đã tham gia vào tình trạng bất ổn của các tổ chức được bầu cách dân chủ. Ông kết án Giáo hội Công giáo đã tham gia vào hầu hết các cuộc khủng hoảng trên khắp đất nước từ khi những nhà truyền giáo đặt chân đến Burundi như là những nhà tiên phong của các thực dân Âu châu.” Ông đe dọa là nếu các lãnh đạo Giáo hội còn muốn tiếp tục sứ vụ chính của họ là truyền giảng Tin mừng thì họ phải thay đổi thái độ chống lại các thành viên của đảng phái chính tri.

Nicholson đã thăm Burundi vào ngày 5 tháng 4 và cho biết là cuộc khủng hoảng ở đây  căn bản là về chính trị và Giáo hội Công giáo chưa phài là mục tiêu. Ông nói: “Giáo hôi giữ vai trò phi chính trị để mang các bên lại gần nhau bằng đối thoại. Điều này không thể là lý do để chống lại Giáo hội”.

Hội đồng bảo an Liên hiệp quốc đang xem xét để triển khai các lính Liên hiệp quốc đến Burundi, nơi có hơn 600 người bị giết và 250 ngàn đã chạy trốn ra nước ngoài để thoát khỏi cuộc càn quét của lực lượng bán quân sự ủng hộ chính phủ.

(Catholic News Service 07/04/2016)

Hồng Thủy OP

Ý kiến của các vị lãnh đạo Giáo Hội về Tông huấn “Amoris Laetitia”

Ý kiến của các vị lãnh đạo Giáo Hội về Tông huấn “Amoris Laetitia”

Tông huấn Amoris Laetitia

Thứ sáu hôm qua, ngày 8 tháng 4, trong sự chờ đợi và giữa sự đồn đoán của các vị lãnh đạo Giáo hội, các thần học gia, các chuyên gia xã hội, đặc biệt là giới báo chí, và nhiều thành phần dân Chúa, Đức Thánh Cha Phanxicô đã ban hành Tông huấn hậu thượng hội đồng Giám mục “Amoris Laetitia” – Niềm Vui Yêu Thương – về gia đình. Tông huấn này là những suy tư đúc kết thành quả của hai Thượng Hội đồng Giám mục năm 2014 và 2015 về gia đình. Đức Thánh Cha không đưa ra những quy luật mới nhưng mời gọi xem xét lại cách cẩn thận các vấn đề liên quan đến mục vụ gia đình, đặc biệt, chú ý hơn đến ngôn ngữ và thái độ được dùng để giải thích giáo huấn và sứ vụ của Hội thánh cho những người không sống hoàn toàn theo giáo huấn này.

Nhiều vị lãnh đaọ Giáo hội trên khắp thế giới đã chào mừng và đón nhận Tông huấn này với thái độ tích cực, dù các ngài cũng nhận ra sự thất vọng của một số người. Điểm nổi bật của Tông huấn chính là “giọng văn” của lòng thương xót được thể hiện trong Tông huấn, như Đức Hồng Y Wilfrid Napier of Durban, của Nam Phi nhận định. Ngài nói: “Tông huấn kêu gọi các thừa tác viên hãy dịu dàng thân thiện trong cách các ngài gặp gỡ những người đang ở trong những tình cảnh khó khăn”, và cũng lưu ý là không có một cách thế tiếp cận phù hợp cho tất cả mọi trường hợp, và Giáo hội địa phương được mời gọi thích nghi giáo huấn của Thượng hội đồng cho những hoàn cảnh cụ thể.

Các Giám mục nhìn nhận đây là một văn kiện dài, nhưng như Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói, bạn không thể lướt qua nó, nhưng cần suy tư. Đức Tổng Giám mục Diarmuid Martin của Dublin gọi Tông huấn “Amoris Laetitia” là một bách khoa toàn thư, và giống như các bách khoa toàn thư, nhiều nội dung giá trị của nó bị bỏ qua bởi vì nguời ta chỉ quan tâm đến một hay hai khía cạnh. Ngài cho biết tài liệu này không phải là một sưu tập của những chương riêng rẽ, nhưng có một dây liên kết là: Phúc âm về gia đình đang bị thách đố và đòi hỏi, nhưng với ơn Chúa và lòng thương xót của Người, nó có thể đạt được và hoàn thành, làm phong phú và đáng giá.

Đức Cha Peter Doyle của Northampton, Anh quốc, Chủ tịch Ủy ban Hôn nhân gia đình của Hội đồng Giám mục Anh quốc và xứ Welsh, cũng là tham dự viên của Thượng hội đồng, lập lại ý tưởng của Đức Thánh Cha Phanxicô: “mỗi tình huống thì khác nhau và cần được tiếp cận với tình yêu, lòng thương xót và trái tim mở rộng”, để trả lời cho những người thất vọng vì tài liệu không đưa ra một giải quyết rõ ràng, phân định trắng đen. Ngài nhận xét: “Thông điệp chú trọng đặc biệt đến sự cần thiết của việc đồng hành với những nguời cảm thấy bị loại trừ và làm cho mọi người biết rằng họ được Thiên Chúa yêu thương, và đó là một tình yêu dịu dàng , nhưng cũng thách đố chúng ta thay đổi”.

“Tài liệu gói gọn cái nhìn của Đức Thánh Cha về Giáo hội như một bệnh viện dã chiến, điều trị các người bị thương tích và chờ đợi những người có nhu cầu”, là nhận xét của Đức Cha Pedro Maria Laxague, chủ tịch Ủy ban về Giáo dân và gia đình của Hội đồng Giám mục Ác-hen-ti-na. Đức cha nói: “Không có một gia đình tốt hay một gia đình xấu. Tất cả đều cần các quan tâm mục vu.” Ngài nói: Tông huấn đề cập đến các thực tại mà gia đình có thể gặp. Ngài cũng nói: Hôm nay Giáo hội đã tỉnh thức trước các thực tế của gia đình. Chúng tôi có thể đồng hành với các dạng gia đình như một giáo hội, một cộng đoàn trong mọi tình huống. Cũng trong ý tưởng này, cha Hugo Valdemar, phát ngôn của Tổng giáo phận Mexico khen ngợi văn kiện đã bao gồm các quan điểm khác nhau, cả những quan niệm bảo thủ, và cho phép các lãnh đạo Giáo hội công giáo địa phương vài cách biện phân để quyết định cách mở rộng cánh của Giao hội cho những ai bị gạt qua một bên theo truyền thống. Theo cha, “có một sự cởi mở nhưng trong truyền thống.”

Cha David Neuhaus, dòng Tên, đại diện Thượng phụ của cộng đoàn nói tiếng Do thái của tòa Thượng phụ Latin ở Giê-ru-sa-lem nhận đinh: những ai chờ đợi những tiêu đề ngon ngọt sẽ thất vọng. Văn kiện mời gọi mọi người đọc, suy tư và giúp cho các Linh mục và Giám mục nhận ra là không có ai ở bên ngoài sự chăm sóc của Giáo hội. Cha nói: “Không có ai ở bên ngoài Giáo Hội, không có vấn đề dù cho hoàn cảnh thế nào… bạn không thể mang sách luật ra và phán ‘anh phải đi ra ngoài lề’. Mọi người phải được cư xử cách tôn trọng và với tình yêu thương.”

Đức Tổng Giám mục Mark Coleridge of Brisbane nhận định là tài liệu này cũng là hướng dẫn quý giá cho các người làm công tác mục vụ đồng hành với các cặp hôn nhân. Một đàng văn kiện vẫn theo giáo huấn của Tin mừng và Giáo hội, đàng khác là những thực hành khôn ngoan, là kết quả của kinh nghiệm mục vụ lâu dài cho các đôi bạn và gia đình. Đức Tổng Giám mục Paul-Andre Durocher của Gatineau, Quebec, nói: “phương thức tiếp cận này đã được các nhân viên mục vụ và các Linh mục khuyến khích từ lâu nhung bây giờ nó được cung cấp một nền tảng thần học chắc chắn hơn.” Theo Đức cha, tài liệu mời gọi chúng ta theo các giáo huần của Thánh kinh va Hội thánh cách nghiêm túc đồng thời cũng đón nhân thực tế là các đôi đang gặp khó khăn. (Catholic News Service 8/4/20169

Hồng Thủy OP

Chúa Giêsu đem đến cho chúng ta tình yêu cứu rỗi canh tân cuộc sống

Chúa Giêsu đem đến cho chúng ta tình yêu cứu rỗi canh tân cuộc sống

Phái đoàn 160 tín hữu Việt nam Hoa Kỳ tham dự buổi tiếp kiến chung của ĐTC Phanxicô sáng thứ tư 6-4-2016

Chúa Giêsu đem đến cho chúng ta tình yêu cứu rỗi canh tân cuộc sốngi

Lòng thương xót của Thiên Chúa được Đức Giêsu thực hiện trong cuộc đời dương thế, đặc biệt qua cái chết hiến tế của Ngài. Trên thập giá Chúa Giêsu dâng lên Thiên Chúa Cha tội lỗi của toàn thế giới và các tội lỗi ấy được xóa bỏ. Tình yêu của Chúa Bị Đóng Đanh không biết các chướng ngại và không bao giờ cạn kiệt. Lòng thương xót Chúa xoá bỏ các bần cùng của chúng ta.

ĐTC Phanxicô đã nói như trên với hơn 70,000 tín hữu và du khách hành hương năm châu trong buổi tiếp kiến chung sáng thứ tư hôm qua. Trong hàng chục đoàn hành hương đến từ Hoa Kỳ cũng có nhóm 160 tín hữu Việt Nam đến từ nhiều thành phố khác nhau.

Trong bài huấn dụ ĐTC tiếp tục khai triển đề tài giáo lý lòng thương xót Chúa trong Tân Uớc, sau khi đã trình bầy phần Cựu Ước. ĐTC nói chính Chúa Giêsu đã thành toàn lòng thương xót ấy bằng cách thực hiện và luôn luôn thông truyền nó trong mọi lúc cuộc đời Ngài. ĐTC giải thích như sau

Khi gặp gỡ các đám đông, loan báo Tin Mừng, chữa lành người bệnh, tới gần các kẻ rốt hết, tha thứ cho người tội lỗi, Chúa Giêsu khiến cho tình yêu rộng mở cho mọi người trở thành hữu hình: không có ai bị loại trừ cả! Nó rộng mở cho mọi người, vô biên giới. Một tình yêu tinh tuyền, nhưng không, tuyệt đối. Một tình yêu đạt tột đỉnh trong Hiến Tế của Thập Giá. Phải, Tin Mừng thật sự là “Tin Mừng của Lòng Thương Xót”, bởi vì Chúa Giêsu là Lòng Thương Xót!

Tiếp tục bài huấn dụ ĐTC nói: tất cả bốn Phúc Âm đều chứng thực rằng trươc khi bắt đầu sứ vụ của mình, Chúa Giêsu đã muốn lãnh nhận phép rửa từ tay thánh Gioan Tẩy Giả (Mt 3,13-17; Mc 1,9-11; Lc 3,21-22; Ga 1,29-34). Biến cố này ghi dấu một hướng đi định đoạt cho tất cả sứ mệnh của Chúa Kitô. Thật thế, Ngài đã không được giới thiệu với thế giới trong ánh quang của đền thờ: Ngài đã có thể làm điều đó. Ngài đã không làm cho mình được loan báo bởi kèn trống: ngài đã có thể làm. Ngài cũng không đến trong y phục của một thẩm phán: Ngài đã có thể làm như thế. Trái lại, sau 30 năm sống ẩn dật tại Nagiarét, Chúa Giêsu đã đến sông Giordan cùng với biết bao nhiêu dân chúng và xếp hàng với các kẻ tội lỗi. Ngài đã không xấu hổ: Ngài ở đó với tất cả mọi người, với các người tội lỗi, để lãnh phép rửa. Như vậy cho tới khi bắt đầu sứ vụ của mình, đuợc thúc đẩy bởi tình liên đới và lòng cảm thương,  Ngài đã tự tỏ lộ ra như Đấng Cứu Thế nhận lấy gánh nặng của các điều kiện con người. Như chính Ngài đã khẳng định trong hội đường Nagiarét bằng cách tự đồng hóa với lời tiên trị Isaia: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì thế tôi đã được xức dầu thánh hiến và Ngài đã sai tôi đi đem tin vui cho người nghèo khó, loan báo cho người tù sự giải thoát, cho người mù được thấy, cho kẻ bị áp bức được tự do, và loan báo năm hồng ân của Chúa” (Lc 4,18-19). Tất cả những điều Chúa Giêsu đã làm sau khi rửa tội là việc thành toàn chương trình khởi đầu: đó là đem tới cho tất cả mọi người tình yêu thương của Thiên Chúa, tình yêu thương cứu rỗi. Chúa Giêsu đã không đem thù hận tới , ngài không đem tới sự sự thù nghịch: nhưng Ngài đã đem tới cho chúng ta tình yêu! Môt tình yêu lớn lao, một con tim rộng mở cho tất cả mọi người, cho tất cả chúng ta. Một tình yêu cứu rỗi.

Ngài đã trở thành gần gũi với những người rốt hết, bằng cách thông truyền cho họ lòng thương xót là sự tha thứ, niềm vui và cuộc sống mới. Chúa Giêsu, Người Con do Chúa Cha gửi tới, thưc sự là khởi đầu thời thương xót đối với toàn nhân loại. Những người đã hiện diện trên bờ sông Giordano đã không hiểu ngay tầm quan trọng  nơi cử chỉ của Ngài. Chính Gioan Tẩy Giả  cũng kinh ngạc về quyết định của Chúa (x. Mt 3,14). Nhưng Thiên Chúa Cha thì không! Ngài khiến cho tiếng của mình được nghe từ trên trời: “Ngươi là con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về con” (Mc 1,11). Như vậy, Thiên Chúa Cha xác nhận con đường mà Chúa Con đã đi như Đấng Cứu Thế, trong khi Chúa Thánh Thần xuống trên Ngài như chim bồ câu. Như thế con tim của Chúa Giêssu đập cùng nhịp với con tim của Thiên Chúa Cha và của Chúa Thánh Thần, bằng cách tỏ cho tất cả mọi người thấy rằng ơn cứu rỗi là hoa trái lòng xót thương của Thiên Chúa.

ĐCT nói thêm trong bài huấn dụ: Chúng ta có thể chiêm ngưỡng  một cách rõ ràng hơn mầu nhiệm cao cả của tình yêu đó, bằng cách nhìn lên Chúa Giêsu chịu đóng đanh. Trong Ngài là Đấng vô tội mà chết cho chúng ta là những kẻ có tội, Ngài khẩn nài Thiên Chúa Cha: “Lậy Cha xin tha cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm” (Lc 23, 34). ĐTC giải thích thêm như sau:

Chính trên thập giá Chúa Giêsu giới thiệu lên lòng thương xót của Thiên Chúa Cha tội lỗi của thế giới: tội lỗi của tất cả mọi người, tội của tôi, tội của bạn, tội  lỗi của các anh các chị. Và ở trên thập giá Ngài trình diện chúng với Thiên Chúa Cha. Và cùng với tội lỗi của thế giới tất cả mọi tội lỗi của chúng ta đều được xóa bỏ. Không ai bị loại ra ngoài lời cầu nguyện ấy của Chúa Giêsu. Điều này có nghĩa là chúng ta không phải sợ hãi nhìn nhận mình và xưng thú mình là kẻ có tội. Có biết bao lần chúng ta nói: “Nhưng ông này là một kẻ tội lỗi, ông ta đã làm điều này, điều nọ.. “ và chúng ta phán đoán người khác. Còn bạn thì sao? Từng người trong chúng ta đáng lý ra phải tự hỏi: “Phải, người này là một kẻ tội lỗi” Còn tôi? Tất cả chúng ta đều là người tội lỗi, nhưng tất cả chúng ta được tha thứ: tất cả chúng ta có khả thể nhận lãnh ơn tha thứ này là lòng thương xót của Thiên Chúa. Vì thế chúng ta không được sơ hãi nhận mình là kẻ có tội, xưng thú mình là người tội lỗi, bởi vì mọi tội đã được Con Thiên Chúa đem lên thập giá. Và khi chúng ta xưng thú  điều đó với lòng sám hối và tín thác nơi Chúa, thì chúng ta chắc chắn được tha thứ. Bí tích Hòa giải thời sự hóa sức mạnh của sự tha thứ phát xuất từ Thập Giá, và canh tân trong cuộc sống chúng ta ơn thánh của lòng thương xót, mà Chúa Giêsu đã chinh phục cho chúng ta. Chúng ta không được sợ hãi các bần cùng của chúng ta, mỗi người đều có các bần cũng riêng của mình. Quyền năng tình yêu của Đấng bị đóng đanh không biết tới các chướng ngại và không cạn kiệt. Đó là lòng thương xót xóa bỏ các bần cùng của chúng ta.

Anh chị em rất thân mến, trong Năm Thánh này chúng ta hãy xin Thiên Chúa ơn được sống kinh nghiệm quyền năng của Tin Mừng: Tin Mừng của lòng thương xót biến đổi, làm cho chúng ta bước vào trong con tim của Thiên Chúa, khiến cho chúng ta có khả năng tha thứ và nhìn thế giới với sự tốt lành hơn. Nếu chúng ta tiếp nhận Tin Mừng của Đấng chịu đóng đanh phục sinh, thì toàn cuộc sống chúng ta được nhào nặn bởi sức mạnh tình yêu canh tân của Ngài.

ĐTC đã chào các đoàn hành hương nói tiếng Pháp đến từ các nước Pháp, Bỉ, Canada và Togo bên Phi châu. Ngài cũng chào các đoàn hành hương đến từ các nước nói tiếng Anh như Anh quốc, Êcốt, Ailen, Đan Mạch, Hoà Lan, Na Uy, Kenya, Zimbabwe, Australia, Trung Quốc, Indonesia, Malaysia, Philippines, Thái Lan và Hoa Kỳ.

Ngài cũng chào các đoàn hành hương đến từ các nước nói tiếng Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha, trong đó có các nhóm đến từ các nước châu Mỹ Latinh.  ĐTC cầu chúc mọi ngưới có những ngày hành hương bổ ích, cảm nghiệm được tình yêu của Chúa, và được nhiều ơn lành của Chúa trong Năm Thánh Lòng Thương Xót. Ngài cũng chào các đoàn hành hương Slovenia và các nhóm nói tiếng A Rập..

Chào các nhóm Ba Lan ĐTC chúc mừng các độc giả và thân hữu của tuần báo Niedziela hành hương Roma nhân dịp mừng 90 năm thành lập. Cả ngày nay nữa đây là một ơn lớn của Chúa Quan Phòng ban cho Ba Lan, vì tuần báo tiếp tục cho tin tức về Giáo Hoji và là một nâng đỡ cho đất nước trong những lúc khó khăn của lịch sử. ĐTC cầu chúc tuần san tiếp tục sứ mệnh rao truyền Tin Mừng, củng cố đức tin của độc giả và sinh nhiều hoa trái trong đời sống. Ngài phó thác các thành công ây cho Chúa Giêsu Từ Nhân và Thánh Mẫu Nữ Vương Ba Lan  trong Năm Thánh Lòng Thương Xót này.

Sau cùng ngài chào các đoàn hành hương Ý đến từ nhiều giáo phận, giới trẻ, các người đau yếu và các đôi tân hôn, trước khi cất kinh Lạy Cha và ban phép lành Toà Thánh cho mọi người.

Linh Tiến Khải

Đức Thánh Cha viếng thăm Armenia, Giorgia và Azerbaigian

Đức Thánh Cha viếng thăm Armenia, Giorgia và Azerbaigian

Đức Thánh Cha viếng thăm Arméni, Giorgia và Azerbaigian

VATICAN. ĐTC sẽ đến viếng thăm Cộng hòa Armenia từ ngày 24 đến 26-6 tới đây, rồi sẽ viếng thăm miền Caucase vào cuối tháng 9 đầu tháng 10.

Thông cáo của Phòng Báo chí Tòa Thánh công bố hôm 9-4-2016 nói rằng: ”Nhận lời mời của Đức Tổng Thượng Phụ Karekin II của mọi người Arméni, của chính quyền dân sự và của Giáo Hội Công Giáo, ĐTC Phanxicô sẽ đến Armeni từ ngày 24 đến 26 tháng 6 tới đây. Đồng thời, đón nhận lời mời của Đức Thượng Phụ Ilia II, Giáo Chủ Chính Thống Giorgia, chính quyền và giáo quyền tại nước này cũng như tại Azerbaigian, ĐTC sẽ viếng thăm tại miền Caucase, viếng thăm hai nước này từ ngày 30-9 đến 2 tháng 10 năm nay.

Các ký giả tại Phòng báo chí Tòa Thánh đã hỏi cha Lombardi, Phát ngôn viên của Tòa Thánh, xem ĐTC có dừng lại ở miền Nagorno-Karabakh nơi đang xảy ra xung đột giữa người Armenia và Azerbaigian, hay không, cha đáp: ”Tôi chỉ thông tin là sẽ có hai cuộc viếng thăm, tại Armenia và Giorgia với Azerbaigian. Hiện thời không có cuộc viếng thăm nào khác” (SD 9-4-2016)

G. Trần Đức Anh OP

50 ngàn người dự tiếp kiến chung của Đức Thánh Cha: 9-4-2016

50 ngàn người dự tiếp kiến chung của Đức Thánh Cha: 9-4-2016

Hơn 50 ngàn người dự tiếp kiến chung của Đức Thánh Cha  9-4-2016

VATICAN. ĐTC kêu gọi các tín hữu quảng đại làm phúc cho người nghèo với lòng yêu mến, và đừng làm phúc để được người đời ca ngợi, ngưỡng mộ.

Ngài bày tỏ lập trường trên đây trong buổi tiếp kiến chung sáng thứ bẩy, 9-4-2016, dành cho hơn 50 ngàn tín hữu hành hương tại Quảng trường Thánh Phêrô. Đây là buổi tiếp kiến chung ngài thực hiện thêm mỗi tháng 1 lần vào sáng thứ bẩy. nhân dịp Năm Thánh Lòng Thương Xót.

Trong bài huấn giáo, ĐTC nói về đề tài ”Lòng thương xót và việc làm phúc”. Ngài giải thích rằng trong tiếng Hy Lạp, elemosina có nghĩa là từ bi thương xót. Việc làm phúc bao gồm tất cả sự phong phú của lòng từ bi thương xót. Và cũng như lòng thương xót có hàng ngàn con đường và cách thức khác nhau, việc làm phúc cũng được biểu lộ qua rất nhiều cách thức, để thoa dịu nỗi cơ cực của những người ở trong tình trạng túng quẫn.

ĐTC nhắc đến tầm quan trọng của việc làm phúc trong Kinh Thánh: hy tế và làm phúc là hai nghĩa vụ mà người đạo đức phải làm; như tấm gương của cụ già Tobia, sau khi nhận được một số tiền lớn, đã gọi con đến và dặn dò hãy làm phúc giúp đỡ những người nghèo.

Ngài nói thêm rằng: ”Chúa Giêsu đã để lại cho chúng ta một giáo huấn không thể thay thế được về việc làm phúc. Trước tiên, Chúa yêu cầu chúng ta đừng làm phúc để được người đời ca ngợi và ngưỡng mộ lòng quảng đại của chúng ta. Vẻ bề ngoài không đáng kể, nhưng là khả năng dừng lại để nhìn tận mặt người xin giúp đỡ. Vì thế chúng ta không được đồng hóa việc làm phúc với đồng tiền cho đi một cách vội vã, không thèm nhìn người và không dừng lại để nói chuyển, và hiểu rõ điều mà người nghèo thực sự cần. Đồng thời chúng ta phải phân biệt giữa người nghèo và những hình thức hành khất khác nhau không mưu ích cho người nghèo đích thực.

Và ĐTC kết luận rằng: ”Tóm lại làm phúc là một cử chỉ yêu thương đối với những người chúng ta gặp; đó là một cử chỉ chân thành quan tâm đến với những người tới gần chúng ta và xin giúp đỡ. Sự giúp đỡ ấy được thực hiện trong âm thầm, nơi mà chỉ có Thiên Chúa thấy và hiểu giá trị của hành vi đã làm. Vậy chúng ta hãy đón nhận lời thánh Phaolô Tông Đồ: ”Bằng mọi cách tôi đã tỏ cho anh chị em thấy rằng những người yếu cần được giúp đỡ bằng cách làm việc như thế, nhớ lại lời Chúa Giêsu đã nói: Cho đi thì hạnh phúc hơn là nhận lãnh!” (Cv 20,35; Xc 2 Cr 9,7) (SD 9-4-2016)

G. Trần Đức Anh OP

Tông Huấn mới của Đức Thánh Cha: ”Amoris laetitia”

Tông Huấn mới của Đức Thánh Cha: ”Amoris laetitia”

Tông Huấn mới của Đức Thánh Cha Amoris laetitia

VATICAN. Tông Huấn mới của ĐTC Phanxicô đã được công bố trong cuộc họp báo sáng 8-4-2016, tại Phòng báo chí Tòa Thánh. Văn phòng Tổng thư ký Thượng HĐGM cũng cho phổ biến một bản tóm lược văn kiện dài 268 trang này, như dưới đây:

Tông Huấn hậu Thượng HĐGM mang tựa đề ”Amoris laetitia” (Niềm vui Yêu thương”) mang chữ ký ngày 19-3, lễ trọng kính Thánh Giuse, một ngày không phải là tình cờ. Văn kiện này đúc kết thành quả của hai Thượng HĐGM về gia đình do ĐTC Phanxicô triệu tập trong năm 2014 và 2015, những bản tường trình đúc kết của hai công nghị này được trích dẫn nhiều, cùng với các văn kiện và giáo huấn của các vị Giáo Hoàng tiền nhiệm, và nhiều bài giáo lý của chính ĐGH Phanxicô về gia đình. Nhưng như đã xảy ra với các văn kiện khác của Huấn Quyền, ĐGH cũng dùng những đóng góp của các HĐGM trên thế giới (như Kenya, Australia, Argentina..) và những trích dẫn của các nhân vật quan trọng như Martin Luther King, hoặc Erich Fromm. Đặc biệt một trích dẫn từ cuốn phim ”Bữa ăn của Babette” mà ĐGH còn nhớ để giải thích ý niệm nhưng không.

Tiền đề

Tông huấn gây ấn tượng vì chiều dài và sự phân chia, gồm 9 chương với 325 đoạn. Văn kiện mở đầu với 7 đoạn dẫn nhập nêu bật sự ý thức về đề tài phức tạp, đòi phải đào sâu. Văn kiện khẳng định rằng những phát biểu của các nghị phụ tại Thượng HĐGM là một khối quí giá (AL 4) cần được bảo tồn. Theo chiều hướng đó, ĐGH viết ”Không phải tất cả những tranh luận đạo lý, luân lý hoặc mục vụ đều phải được giải quyết với sự can thiệp của huấn quyền”. Vì thế đối với một số vấn đề, ”tại mỗi nước hoặc miền có thể tìm kiếm những giải pháp hợp với văn hóa hơn, chú ý đến những truyền thống và những thách đố địa phương. Thực vậy, ”các nền văn hóa rất khác nhau và mỗi nguyên tắc chung (…) cần được hội nhập vào văn hóa địa phương, nếu muốn được tuân giữ và áp dụng” (AL 3). Nguyên tắc hội nhập văn hóa này thực là quan trọng cả trong cách thức đặt và hiểu các vấn đề, vượt lên trên những vấn đề tín lý đã được Huấn Quyền của Giáo Hội định tín, đến độ không thể ”hoàn cầu hóa chúng”.

Nhưng nhất là ĐGH khẳng định ngay và rõ ràng rằng cần ra khỏi sự đối nghịch vô bổ giữa một bên là lo lắng vì thay đổi và bên kia là sự áp dụng đơn thuần các qui luật trừu tượng. Ngài viết: ”Các cuộc thảo luận nơi các cơ quan truyền thông hoặc trong các sách báo và thậm chí giữa các thừa tác viên của Giáo Hội đi từ một ước muốn vô độ thay đổi mọi sự mà không có suy tư đầy đủ hoặc nền tảng, tới thái độ chủ trương giải quyết mọi sự bằng cách áp dụng các quy luật tổng quát hoặc rút ra những kết luận thái quá từ một số suy tư thần học” (AL 2).

* Chương I: ”Dưới ánh sáng Lời Chúa”

Sau khi đặt những tiền đề trên đây, ĐGH trình bày suy tư của ngài từ Kinh Thánh với chương đầu tiên, được khai triển như một suy tư về Thánh Vịnh 128, có đặc tính phụng vụ hôn lễ Do thái cũng như của Kitô giáo. Kinh Thánh ”nói đến những gia đình, các thế hệ, các chuyện yêu thương và khủng hoảng gia đình' (Al 8), và từ dữ kiện ấy người ta có thể suy tư gia đình không phải như một lý tưởng trừu tượng, nhưng như ”một nghĩa vụ 'thủ công' (AL 16) được diễn tả một cách dịu dàng (AL 28) nhưng ta cũng gặp thấy tội lỗi ngay từ đầu, khi tương quan tình thương biến thành sự thống trị (Xc AL 19). Khi ấy Lời Chúa ”không tỏ ra là một hệ luận của những luận đề trừu tượng, nhưng như một người bạn đồng hành đối với các gia đình đang gặp khủng hoảng hoặc trải qua đau khổ nào đó, và chỉ cho họ mục tiêu của hành trình” (AL 22).

* Chương II: ”Những thực tại và các thách đố của gia đình”

Từ lãnh vực Kinh Thánh, tiến qua chương II, ĐGH cứu xét tình trạng hiện nay của các gia đình, chân đạp đất (AL 6), kín múc rộng rãi từ các bản tường trình chung kết của hai Thượng HĐGM và đương đầu với nhiều thách đố, từ hiện tượng di dân cho đến ý thức hệ phủ nhận sự khác biệt phái tính, gọi là lý thuyết gender; từ nền văn hóa tạm bợ cho đến não trạng bài trừ sinh sản và ảnh hưởng của các kỹ thuật sinh học trong lãnh vực truyền sinh; từ tình trạng thiếu nhà ở và công ăn việc làm cho đến nạn dâm ô và lạm dụng trẻ em; từ sự chú ý đến những người khuyết tật, đến sự tôn trọng người già; từ sự phá hủy gia đình bằng luật pháp, cho đến nạn bạo hành phụ nữ. ĐGH nhấn mạnh sự cụ thể, là một con số cơ bản của Tông Huấn. Và chính sự cụ thể và thực tiễn tạo nên sự khác biệt cơ bản giữa ”những lý thuyết” giải thích thực tại và các ”ý thức hệ”.

Trích dẫn Tông Huấn Familiaris consortio, ĐGH Phanxicô khẳng định rằng ”một điều lành mạnh là để ý đến thực tại cụ thể, vì ”những yêu cầu và tiếng gọi của Chúa Thánh Linh cũng vang dội cả trong những biến cố lịch sử”, qua đó, ”Giáo Hội có thể được hướng dẫn để hiểu biết sâu xa hơn về mầu nhiệm khôn lường hôn nhân và gia đình” (AL 31). Nếu không lắng nghe thực tại thì không thể hiểu những đòi hỏi của hiện tại cũng như những tiếng gọi của Thánh Linh. ĐGH nhận xét rằng cá nhân chủ nghĩa thái quá làm cho con người ngày nay khó hiến thân cho tha nhân một cách quảng đại (XC AL 33). Đây là hình chụp thật đúng về tình trạng: ”Người ta sợ cô đơn, muốn một không gian được bảo vệ và chung thủy, nhưng đồng thời người ta cũng gia tăng lo sợ bị kẹt trong một tương quan, khiến cho sự thỏa mãn những khát vọng cá nhân của họ bị đình trệ” (AL 34).

Sự khiêm tốn của óc thực tế giúp ta không trình bày ”một lý tưởng thần học quá trừu tượng về hôn nhân, như thể hôn nhân được kiến tạo một cách giả tạo, xa rời tình trạng cụ thể và những khả thể thực sự của các gia đình như trong thực tế” (AL 36). Thái độ duy lý tưởng làm ta không cứu xét hôn nhân như thực chất của nó, nghĩa là ”một tiến trình năng động tăng trưởng và thành đạt”. Vì thế cũng chẳng cần tin rằng các gia đình chỉ được nâng đỡ ”bằng cách nhấn mạnh đến các vấn đề đạo lý, đạo đức sinh học và luân lý, không cổ võ họ cởi mở đối với ơn thánh” (AL 37). Khi mời gọi tất cả hãy tự phê bình về lối trình bày không thích hợp về thực tại hôn nhân và gia đình, ĐGH nhấn mạnh rằng cần dành chỗ cho việc huấn luyện lương tâm các tín hữu: ”Chúng ta được kêu gọi huấn luyện lương tâm, và đừng chủ trương thay thế lương tâm” (AL 37). Chúa Giêsu đã đề nghị một lý tưởng yêu sách nhưng ”ngài không bao giờ đánh mất sự gần gũi cảm thương với những người yếu đuối như người phụ nữ xứ Samaria hoặc người phụ nữ ngoại tình” (AL 38)

* Chương III: Cái nhìn hướng về Chúa Giêsu: ơn gọi của gia đình”

Chương III được dành cho một số yếu tố nòng cốt trong giáo huấn của Giáo Hội về hôn nhân và gia đình. Sự hiện diện của chương này thật là quan trọng vì trình bày một cách cô đọng trong 30 đoạn ơn gọi của gia đình theo Tin Mừng, như đã được Giáo Hội quan niệm trong thời gian, nhất là về đề tài bất khả phân ly, tính chất bí tích của hôn phối, sự truyền sinh và giáo dục con cái. Hiến chế Gaudium et Spes Vui Mừng và Hy Vọng, của Công đồng chung Vatican 2, thông điệp Humanae vitae, Sự sống con người của Đức Phaolô 6, Tông huấn Familiaris consortio về gia đình của Đức Gioan Phaolô 2 được trưng dẫn nhiều trong chương này.

Cái nhìn bao quát, và cũng bao gồm cả ”những tình trạng bất toàn”. Thực vậy chúng ta đọc thấy: ”Phân định về sự hiện diện những mầm mống của Lời” trong các nền văn hóa khác (Xc Ad Gentes, 11) có thể được áp dụng cho cả những thực tại hôn nhân và gia đình. Ngoài hôn nhân tự nhiên đích thực còn có những yếu tố tích cực trong những hình thức hôn phối thuộc các truyền thống tôn giáo khác, tuy không thiếu những bóng đen” (AL 77). Suy tư cũng bao gồm các ”gia đình bị thương tổn”. Đứng trước những gia đình này, ĐTC trích dẫn bản tường trình chung kết Thượng HĐGM năm 2015, nói rằng ”Cần luôn luôn nhắc nhớ một nguyên tắc tổng quát: ”Các vị mục tử hãy biết rằng, vì lòng yêu mến sự thật, mình có nghĩa vụ phải phân định kỹ lưỡng các hoàn cảnh' (Familiaris consortio, 84). Cấp độ trách nhiệm không đồng đều trong mọi trường hợp, và có thể có những yếu tố hạn chế khả năng quyết định. Vì thế, trong khi cần trình bày đạo lý một cách rõ ràng, cần tránh những phán đoán không để ý đến sự phức tạp của các hoàn cảnh, và cần chú ý đến cách thức con người đang sống và đau khổ vì tình trạng của họ” (AL 79)

* Chương IV: ”Tình yêu trong hôn nhân”

Chương IV bàn về tình yêu trong hôn nhân và trình bày nó từ bài ca tình yêu của thánh Phaolô trong thư thứ I gửi tín hữu Corinto, đoạn 13, 4-7. Chương này là một bài chú giải thực sự quan tâm, chính xác, được gợi hứng và có đặc tính thơ phú về đoạn thư của thánh Phaolô. Chúng ta có thể nói đây là một sưu tập những mảnh trong diễn văn bình thường, quan tâm mô tả tình yêu của con người trong những hạn từ tuyệt đối cụ thể. Ta có ấn tượng mạnh vì khả năng cứu xét tâm lý nội tâm trong bài chú giải này. Sự sâu xa về tâm lý đi vào thế giới cảm xúc của các đôi vợ chồng – tích cực hoặc tiêu cực – và trong chiều kích lạc thú của tình yêu. Đây là một đóng góp hết sức phong phú và quí giá đối với đời sống của đôi vợ chồng theo tinh thần Kitô, cho đến nay ít có được trong các văn kiện trước đây của các vị Giáo Hoàng.

Theo thể thức của mình, chương này là một tiểu luận trong một khảo luận rộng lớn hơn, đầy ý thức sự đặc tính thường nhật của tình yêu là kẻ thù của mọi thái độ duy lý tưởng. ĐGH viết: ”Ta không được ném trên hai người vốn có những giới hạn, gánh nặng kinh khủng về nghĩa vụ họ phải diễn tả một cách hoàn hảo sự kết hiệp giữa Chúa Kitô và Giáo Hội của Ngài, vì hôn nhân như dấu chỉ bao hàm một ”tiến trình năng động, từ từ tiến bước với sự hội nhập tiệm tiến các hồng ân của Thiên Chúa” (AL 122). Nhưng đàng khác, ĐGH nhấn mạnh đặc biệt và quyết liệt về sự kiện “trong chính bản chất của tình yêu vợ chồng có sự cởi mở đối với sự chung cục” (AL 123), chính trong sự liên kết vui mừng và cơ cực, căng thẳng và nghỉ ngơi, đau khổ và giải thoát, thỏa mãn và tìm kiếm, khó chịu và khoái lạc” (AL 126) mà có hôn nhân.

Chương này kết luận với một suy tư rất quan trọng về ”sự biến đổi của tình yêu” vì ”sự kéo dài cuộc sống làm cho xảy ra điều không có trong các thời đại khác: tương quan thân mật và sự thuộc về nhau phải được bảo tồn trong 4, 5 hoặc 60 năm, và điều này bao hàm sự cần thiết phải tái chọn lựa nhau nhiều lần” (AL 163). Khía cạnh thể lý thay đổi và sự thu hút của tình yêu không giảm sút nhưng thay đổi: ước muốn tình dục với thời gian có thể biến thành ước muốn thân mật và ”đồng lõa”. ”Chúng ta không thể hứa với nhau có cùng những tâm tình suốt đời. Nhưng chắc chắn chúng ta có thể có một dự án chung bền vững, dấn thân yêu nhau và sống kết hiệp cho đến khi sự chết tách rời chúng ta, và luôn sống một sự thân mật phong phú” (AL 163)

* Chương V: “Tình yêu trở nên phong phú”

Chương này qui trọng tâm vào sự phong phú và sinh sản con cái trong tình yêu. Chương bàn theo thể thức linh đạo và tâm lý sâu xa về việc đón nhận một sự sống mới, về sự chờ đợi thai nghén, tình yêu của người mẹ và người cha. Nhưng cũng nói về sự phong phú nới rộng, nhận con nuôi, đón nhận sự đóng góp của các gia đình để thăng tiến ”một nền văn hóa gặp gỡ”, nền văn hóa sự sống trong gia đình theo nghĩa rộng, với sự hiện diện của các chú bác, cô dì, anh em họ, thân nhân họ hàng, bạn hữu. Tông huấn ”Niềm Vui Yêu Thương” không cứu xét gia đình chỉ có 1 người cha hoặc 1 người mẹ, vì ý thức rõ về gia đình như một mạng các quan hệ rộng rãi. Chính đặc tính thần bí của bí tích hôn phối có một đặc tính xã hội sâu xa (Xc AL 186). Và bên trong chiều kích xã hội ấy ĐGH đặc biệt nhấn mạnh vai trò đặc thù của tương quan giữa người trẻ và người già, cũng như tương quan giữa anh chị em như một sự thực tập để tăng trưởng trong quan hệ với tha nhân.

* Chương VI: Một số viễn tượng mục vụ

Trong chương VI ĐGH đề cập đến một số con đường mục vụ hướng dẫn việc xây dựng gia đình vững chắc và phong phú theo kế hoạch của Thiên Chúa, trong phần này, Tông Huấn tham chiếu rộng gãi các tường trình chung kết của hai Thượng HĐGM và các bài huấn giáo của ĐGH Phanxicô và Gioan Phaolô 2. Ngài tái khẳng định rằng gia đình là chủ thể chứ không phải chỉ là đối tượng cần được rao giảng Tin Mừng. ĐGH nêu rõ rằng ”Các thừa tác viên thánh chức thường thiếu sự huấn luyện thích hợp để đối phó với những vấn đề phức tạp hiện nay của các gia đình” (AL 202). Một đàng cần phải cải tiến việc huấn luyện tâm lý tình cảm cho các chủng sinh và để gia đình họ can dự nhiều hơn vào việc huấn luyện về thừa tác vụ (Xc AL 203). đàng khác, ”một điều cũng có thể hữu ích là kinh nghiệm về truyền thống lâu dài của Đông Phương về các LM có gia đình” (AL 202).

Rồi ĐGH đề cập đến vấn đề hướng dẫn những người đính hôn trong hành trình chuẩn bị kết hôn, tháp tùng các đôi vợ chồng trong những năm đầu trong đời sống hôn nhận (kể cả đề tài sinh sản trách nhiệm), nhưng cả một số hoàn cảnh phức tạp, và đặc biệt là trong các cuộc khủng hoảng, với ý thức rằng ”mỗi cuộc khủng hoảng che đậy một tin mừng cần biết lắng nghe, cải tiến thính giác của trái tim” (AL 232). Phần này phân tích một số nguyên nhân gây ra khủng hoảng, trong đó có sự trưởng thành chậm về tình cảm (Xc AL 239).

Ngoài ra, chương này cũng nói về sự tháp tùng những người bị bỏ rơi, ly thân hoặc ly dị, và nhấn mạnh tầm quan trọng của việc cải tổ mới đây về các thủ tục nhìn nhận hôn phối vô hiệu. ĐGH nhấn mạnh sự đau khổ của các con cái trong những tình trạng xung đột và kết luận rằng: ”Ly dị là một điều bất hạnh, và con số các vụ ly dị gia tăng là điều rất đáng lo âu. Vì thế, chắc chắn nghĩa vụ mục vụ quan trọng nhất của chúng ta đối với các gia đình là củng cố tình yêu và giúp chữa lành các vết thương, làm sao để chúng ta có thể phòng ngừa sự lan tràn thảm trạng này trong thời đại chúng ta” (AL 246).

Tiếp đến ĐTC bàn đến những tình trạng hôn phối hỗn hợp và hôn phối khác đạo, tình trạng các gia đình có các con cái có xu hướng đồng tính luyến ái, ngài tái khẳng định sự tôn trọng đối với họ và phủ nhận mọi thứ kỳ thị bất công và mọi hình thức gây hấn hoặc bạo hành. Về phương diện mục vụ, điều quí giá là phần chót của chương này: ”khi tử thần đưa nọc độc của nó vào”, về đề tài mất những người yêu thương và tình trạng góa bụa.

* Chương VII: Củng cố việc giáo dục con cái

Chương 7 hoàn toàn dành cho việc giáo dục con cái: việc giáo dục con cái về luân lý, giá trị của hình phạt như một kích thích, sự thực tế kiên nhẫn, giáo dục về tính dục, thông truyền đức tin, và tổng quát hơn là đời sống gia đình như một bối cảnh giáo dục. Thật là hay sự khôn ngoan thực tiễn được diễn tả trong mỗi đoạn, nhất là quan tâm đến tính chất tiệm tiến và những bước tiến nhỏ ”có thể được hiểu, chấp nhận và đánh giá cao” (AL 271).

Có một đoạn đặc biệt ý nghĩa và có tính chất sư phạm cơ bản trong đó ĐGH Phanxicô khẳng định rõ ràng rằng ”Thái độ bị ám ảnh không có tính chất giáo dục và không thể có một sự kiểm soát tất cả những hoàn cảnh trong đó một người con có thể trải qua (…). Nếu một người làm cha mẹ bị ám ảnh muốn biết con mình đang ở đâu và kiểm soát mọi sự di chuyển của con, thì chỉ tìm cách thống trị không gian của đứa con mà thôi. Làm như thế họ không giáo dục con, không làm cho nó vững mạnh, không chuẩn bị con đương đầu với những thách đố. Điều quan trọng chính yếu là tạo nên nơi con cái, một cách yêu thương, những tiến trình trưởng thành tự do, chuẩn bị, tăng trưởng toàn diện, vun trồng sự tự lập đích thực” (AL 260)

Phần nói về sự giáo dục tính dục cũng rất quan trọng, mang tựa đề rất rõ ràng: ”Đồng ý về việc giáo dục tính dục”. Đây là điều cần thiết và ta tự hỏi xem ”các cơ sở giáo dục của chúng ta có đảm nhận thách đố ấy hay không (..) trong một thời đại mà người ta có xu hướng tầm thường hóa và làm cho tính dục trở nên nghèo nàn”. Việc giáo dục tính dục cần được thực hiện ”trong khuôn khổ một nền giáo dục về tình yêu, hiến thân cho nhau” (AL 280). ĐGH cảnh giác đối với những thành ngữ như ”tính dục an toàn” vì nó biểu lộ một thái độ tiêu cực đối với mục đích tự nhiên của tính dục là sinh sản, như thể sự kiện đứa con là một kẻ thù cần phải được bảo vệ để chống lại. Làm như thế người ta cổ võ sự gây hấn tự yêu thương mình thay vì một thái độ tiếp đón” (AL 283).

* Chương VIII: ”Tháp tùng, phân định và hội nhập sự yếu đuối”

Chương này là một lời mời gọi có lòng thương xót và phân định mục vụ trước những tình trạng không hoàn toàn đáp ứng điều mà Chúa đề nghị. Ở đây ĐGH dùng 3 động từ rất quan trọng, đó là ”tháp tùng, phân định và hội nhập” là những điều cơ bản trong việc đối phó với những tình trạng yếu đuối, phức tạp hoặc không hợp lệ. Vì thế ĐGH trình bày sự tiệm tiến cần thiết trong mục vụ, tầm quan trọng của sự phân định, các qui luật và hoàn cảnh giảm khinh trong việc phân định mục vụ, và sau cùng là điều mà ngài định nghĩa là ”tiêu chuẩn thương xót mục vụ”.

Chương 8 rất tế nhị. Để đọc chương này ta phải nhớ rằng ”nhiều khi công việc của Giáo Hội giống như công việc của một bệnh viện dã chiến” (AL 291). Ở đây ĐGH đón nhận thành quả suy tư của Thượng HĐGM về các đề tài tranh luận khác nhau. Ngài tái khẳng định ý nghĩa của hôn nhân Kitô giáo và thêm rằng ”những hình thức kết hợp khác hoàn toàn trái ngược với lý tưởng hôn nhân Kitô giáo, trong khi một số hình thức khác thể hiện lý tưởng ấy ít là một cách phần nào hoặc tương tự”. Vì thế Giáo Hội ”không quên đề cao giá trị của những yếu tố xây dựng trong những tình trạng chưa đáp ứng giáo huấn của Giáo Hội hoặc không đáp ứng nữa giáo huấn của Hội Thánh về hôn nhân” (AL 292).

Về sự phân định đối với những tình cảnh bất hợp lệ, ĐGH nhận xét rằng ”Cần tránh những phán đoán không để ý đến sự phức tạp của những hoàn cảnh khác nhau, và cần phải chú ý đến cách thức những người sống và chịu đau khổ vì hoàn cảnh của họ” (AL 296). Và ngài viết tiếp: ”Vấn đề ở đây là hội nhập tất cả mọi người, phải giúp mỗi người tìm ra cách thức riêng của họ để tham gia cộng đoàn Giáo Hội, để họ cảm thấy mình là đối tượng của một lòng thương xót không do công trạng, vô điều kiện và nhưng không” (AL 297). Và ”Những người ly dị đang sống một cuộc kết hiệp mới, chẳng hạn, họ có thể ở trong những tình trạng rất khác nhau, và không thể xếp loại hoặc khép họ trong những lời khẳng định quá cứng nhắc mà không để chỗ cho một sự phân định thích hợp về con người và về mục vụ” (AL 298).

Theo đường hướng đó, đón nhận những nhận xét của nhiều nghị phụ, ĐGH khẳng định rằng ”những tín hữu đã chịu phép rửa mà ly dị và tái hôn dân sự phải được hội nhập hơn vào các cộng đoàn Kitô trong những cách thức khác nhau có thể, tránh mọi hình thức gây gương mù gương xấu”. Sự tham gia của họ có thể được biểu lộ trong nhiều dịch vụ của Giáo Hội (..). Họ không nên cảm thấy mình bị tuyệt thông, nhưng có thể sống và trưởng thành như các phần tử sinh động của Giáo Hội (…). Sự hội nhập này cũng là điều cần thiết để chăm sóc và giáo dục con cái theo tinh thần Kitô giáo” (AL 299).

Tổng quát hơn, ĐGH đưa ra lời khẳng định rất quan trọng để hiểu hướng đi và ý nghĩa của Tông Huấn: ”Nếu để ý đến vô số những hoàn cảnh cụ thể khác nhau (…) thì có thể hiểu rằng không nên mong đợi từ Thượng HĐGM hoặc từ Tông huấn này một qui luật tổng quát mới thuộc loại giáo luật, có thể áp dụng cho mọi trường hợp. Chỉ có thể có một sự khuyến khích mới hãy phân định bản thân và mục vụ theo tinh thần trách nhiệm về những hoàn cảnh đặc biệt không giống nhau trong mọi trường hợp”, những hậu quả hoặc những công hiệu của một qui luật không nhất thiết phải luôn luôn như nhau” (AL 300). ĐGH khai triển một cách sâu rộng những đòi hỏi và đặc tính của hành trình tháp tùng và phân định trong sự đối thoại sâu rộng giữa các tín hữu và các vị mục tử. Với mục đích đó ngài nhắc nhở suy tư của Giáo Hội về ”những ảnh hưởng và hoàn cảnh giảm khinh” về sự qui trách và trách nhiệm những hành động, và dựa vào thánh Tôma Aquino, ngài dừng lại về tương quan giữa ”các qui luật và sự phân định” để khẳng định rằng: ”Đúng là các qui luật tổng quát trình bày một điều thiện hảo mà ta không bao giờ được phép không để ý hoăc coi nhẹ, trong cách diễn tả các qui luật tổng quát ấy, không thể tuyệt đối bao gồm mọi hoàn cảnh đặc thù. Đồng thời cần nói rằng chính vì lý do đó, điều thuộc về sự phân định thực hành đứng trước một hoàn cảnh đặc thù không thể đưa lên hàng một qui luật” (AL 304).

Trong phần chót của chương 8, ”tiêu chuẩn lòng thương xót mục vụ”, về sự mơ hồ, ĐGH mạnh mẽ khẳng định rằng ”Hiểu những hoàn cảnh ngoại lệ không bao giờ bao hàm việc che dấu ánh sáng lý tưởng trọn vẹn nhất và cũng không đề nghị ít hơn điều mà Chúa Giêsu cống hiến cho con người. Ngày nay điều quan trọng hơn một nền mục vụ về những thất bại, là cố gắng mục vụ để củng cố hôn nhân, cũng như phòng ngừa những tan vỡ” (AL 307). Nhưng ý nghĩa tổng quát của chương 8 và tinh thần mà ĐGH Phanxicô muốn đề ra cho việc mục vụ của Giáo Hội còn có thể tóm tắt rõ ràng trong những lời cuối: ”Tôi mời gọi các tín hữu đang sống trong những hoàn cảnh phức tạp hãy tín thác đến nói chuyện với các vị mục tử của mình hoặc với những giáo dân đang sống tận tụy với Chúa. Họ sẽ không luôn luôn tìm thấy nơi những vị ấy một sự khẳng định cách lý tưởng và những ước muốn của mình, nhưng chắc chắn họ sẽ nhận được một ánh sáng giúp họ hiểu rõ hơn điều đang xảy ra và họ có thể khám phá một hành trình trưởng thành bản thân. Và tôi mời các vị mục tử hãy thân ái lắng nghe trong sự thanh thản, với ước muốn chân thành đi vào thảm kịch của con người và hiểu quan điểm của họ, để giúp họ sống tốt đẹp hơn và nhìn nhận chỗ đứng của họ trong Giáo Hội” (AL 312). Về tiêu chuẩn lòng thương xót mục vụ, ĐGH Phanxicô mạnh mẽ khẳng định rằng: ”nhiều khi chúng ta bị mất mát và phải hy sinh nhiều khi dành chỗ trong mục vụ cho tình yêu thương vô điều kiện của Thiên Chúa. Chúng ta đặt bao nhiêu điều kiện cho lòng từ bi khiến cho nó không còn ý nghĩa cụ thể và ý nghĩa đích thực nữa, và đây là cách thức tệ nhất làm tan loãn Tin Mừng” (AL 311).

* Chương IX: Linh đạo hôn nhân và gia đình

 Chương 9 bàn về linh đạo hôn nhân và gia đình, ”được hình thành bằng hàng ngàn cử chỉ thực tế và cụ thể” (AL 315). ĐGH khẳng định rõ ràng rằng “những người có những ước muốn linh đạo sâu xa không được cảm thấy gia đình làm cho họ xa rời sự tăng trương trong đời sống Tinh Thần, nhưng gia đình là một con đường Chúa dùng để đưa họ đến tột đỉnh sự kết hiệp thần bí” (AL 316). Tất cả, ”những lúc vui mừng, an nghỉ hoặc lễ hội, và cả tính dục, được cảm nghiệm như một sự tham gia sự sống sung mãn của sự phục sinh của Chúa” (AL 317). Vì thế, Tông huấn nói về kinh nguyện dưới ánh sáng Phục Sinh, linh đạo tình yêu loại trừ người thứ ba, và tự do trong thách đố và khát vọng sống với nhau cho đến ”đầu bạc răng long”, phản ánh lòng trung tín của Thiên Chúa (Xc AL 319).

Và sau cùng linh đạo ”chăm sóc, an ủi và khích lệ”. ”Trọn cuộc sống gia đình là một đồng cỏ từ bi. ĐTC viết: Mỗi người, kỹ lưỡng vẽ và viết lên trong cuộc sống của người khác” (AL 322). Thật là một ”kinh nghiệm thiêng liêng sâu xa khi chiêm ngắm mỗi người yêu quí với đôi mắt của Thiên Chúa và nhận ra Chúa Kitô nơi người ấy” (AL 323)

Trong đoạn kết luận, ĐTC quả quyết: “Không có gia đình nào là một thực tại hoàn hảo và được kết thành một lần cho tất cả, nhưng đòi một sự tiến triển từ từ khả năng yêu thương của mình (…). Tất cả chúng ta được kêu gọi luôn cố gắng đi xa hơn chính mình, những giới hạn của mình và mỗi gia đình phải sống trong sự khích lệ liên tục như thế. Các gia đình chúng ta hãy tiến bước, chúng ta hãy tiếp tục bước đi! (…). Chúng ta đừng đánh mất hy vọng vì những giới hạn của mình, nhưng cũng đừng từ bỏ không tìm kiếm tình yêu và sự hiệp thông sung mãn đã được hứa cho chúng ta” (AL 325).

Tông Huấn kết thúc với một kinh nguyện dâng lên Thánh Gia Thất (AL 325).

G. Trần Đức Anh OP chuyển ý

Giáo hội đang cần những vị thánh và những vị tử đạo của ngày hôm nay

Giáo hội đang cần những vị thánh và những vị tử đạo của ngày hôm nay

VATICAN. Họ là những vị thánh và là những vị tử đạo của cuộc sống thường ngày trong thời đại hôm nay. Nhờ quyền năng của Chúa Thánh Thần, họ giúp Giáo hội không ngừng tiến lên qua những lời chứng mạnh mẽ và can đảm về Chúa Giêsu Phục Sinh. Đây là nội dung bài giảng của Đức Thánh Cha Phanxicô trong thánh lễ sáng thứ Năm, ngày 07.04, tại nguyện đường Thánh Marta.

Kitô hữu là người có một đời sống chứng tá

Bài đọc một trích sách Công vụ Tông Đồ thuật lại lòng can đảm của Phê-rô. Sau khi chữa lành cho người bại liệt, Phê-rô đã công bố về sự phục sinh của Đức Giêsu trước Thượng Hội Đồng. Khi nghe những lời ấy, họ giận điên lên và muốn giết ông cùng các Tông Đồ. Mặc dù họ ngăn cấm không được giảng dạy về danh Đức Giêsu nhưng Phê-rô vẫn tiếp tục loan báo Tin Mừng, vì phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm. Một Phê-rô can đảm như thế hoàn toàn khác với Phê-rô nhút nhát trong tối thứ Sáu Tuần Thánh, lúc ấy ông đầy sợ hãi đến nỗi đã chối thầy đến ba lần. Bây giờ, Phê-rô đã trở thành một chứng nhân can trường. Như vậy, những chứng nhân Kitô giáo bước đi trên cùng một quan lộ với Đức Giêsu, thậm chí sẵn sàng hy sinh mạng sống của mình. Cách này hay cách khác, Kitô hữu là người có một đời sống chứng tá cho sự thật.

Sự thống nhất giữa đời sống với những gì chúng ta đã thấy và đã nghe thực sự là khởi điểm của lời chứng. Nhưng có một nét đặc biệt nơi lời chứng tá Kitô giáo. Bởi vì lời chứng ấy không chỉ là làm chứng nhưng luôn có hai khía cạnh. Khía cạnh thứ nhất là chúng ta làm chứng về Đức Kitô Phục Sinh và khía cạnh thứ hai chính là Chúa Thánh Thần. Không có Thần Khí thì cũng không có lời chứng về Đức Kitô. Lời chứng và chính đời sống Kitô giáo là một ân sủng Thiên Chúa đã ban cho chúng ta nhờ Thần Khí.

Những vị tử đạo ngày nay

Không có Chúa Thánh Thần, chúng ta không thể là chứng nhân. Chứng nhân là người đồng nhất mình với những gì mình nói, mình làm và với những gì mình đã được nhận lãnh, đó chính là Chúa Thánh Thần. Đây chính là sự can trường Kitô giáo và đây cũng chính là một chứng tá. Chúng ta có rất nhiều chứng tá của các vị tử đạo ngày nay. Họ là những người bị đánh đuổi và phải trốn chạy khỏi quê hương đất nước. Họ bị cắt cổ, bị bách hại, bị giết chết. Và họ đã can đảm tuyên xưng Đức Giêsu cho đến những hơi thở cuối cùng. Chúng ta cũng có chứng tá của rất nhiều Kitô hữu ngày nay. Mặc dù phải sống trong hoàn cảnh khó khăn khắc nghiệt nhưng họ vẫn mạnh mẽ xác tín rằng: ‘Tôi không làm việc này. Tôi không thể làm điều xấu cho người khác. Tôi không thể gian dối. Tôi không thể sống một cuộc sống nửa vời hai mặt. Tôi phải làm chứng.’ Lời chứng đó chính là dám nói những gì mà với đức tin, họ đã được thấy và được nghe. Hay nói khác đi, với Thần Khí, Đấng mà họ đã được lãnh nhận như quà tặng của Thiên Chúa, họ mạnh mẽ làm chứng về Đức Giêsu Phục Sinh.

Những vị thánh trong đời sống hằng ngày

Trong những giai đoạn lịch sử khó khăn, người ta thường nghe nói rằng: ‘Tổ quốc đang cần những anh hùng.’ Điều này rất đúng và hoàn toàn chính đáng. Nhưng tôi tự hỏi: ‘Giáo hội ngày hôm nay đang cần điều gì?’ Xin thưa: ‘Giáo hội đang cần những chứng nhân, đang cần những vị tử đạo.’ Giáo hội đang cần những chứng nhân, tức là những vị thánh, những vị thánh trong cuộc sống thường ngày. Họ là những người có một đời sống minh bạch, thống nhất với những gì họ nói, họ làm. Và họ sẵn sàng là những chứng nhân cho đến tận cùng, kể cả phải chết. Đây chính là những giọt máu sống động của Giáo hội. Đây cũng chính là những người giúp Giáo hội không ngừng tiến lên phía trước. Họ là những chứng nhân dám mạnh mẽ tuyên xưng Đức Giêsu đã phục sinh và Ngài đang sống. Họ đã làm chứng bằng chính đời sống tốt lành, thống nhất của mình, nhờ ơn của Chúa Thánh Thần, Đấng mà họ đã được lãnh nhận như một quà tặng của Thiên Chúa.

Vũ Đức Anh Phương, SJ

Đức Thánh Cha kêu gọi Công giáo và Methodist chứng tá bác ái

Đức Thánh Cha kêu gọi Công giáo và Methodist chứng tá bác ái

Đức Thánh Cha kêu gọi Công giáo và Tin Lành Methodist làm chứng tá bác ái

VATICAN. ĐTC Phanxicô kêu gọi các tín hữu Công Giáo và Tin Lành Methodist làm chứng tá chung về bác ái cụ thể, và giúp đỡ lẫn nhau.

Ngài đưa ra lời kêu gọi trên đây trong buổi tiếp kiến sáng 7-4-2016, dành cho phái đoàn Hội đồng Methodist thế giới, Methodist Âu Châu và Anh quốc, dưới sự hướng dẫn của ĐGM Oliveira và Mục Sư Powell. Phái đoàn đến Roma nhân dịp khánh thành Văn phòng Đại kết Methodist tại đây.

Trong lời chào mừng, ĐTC gọi việc thành lập văn phòng này là một dấu chỉ tăng cường quan hệ đại kết giữa Công Giáo và Methodist cũng như ước muốn chung vượt thắng những chướng ngại còn cản trở sự hiệp thông trọn vẹn giữa hai bên. Ngài cũng nhắc đến công cuộc đối thoại thần học giữa Công Giáo và Methodist trong gần 50 năm qua và văn kiện chung đang được chuẩn bị và sẽ được công bố vào cuối năm nay với tựa đề ”Ơn gọi nên thánh”.

ĐTC nhận xét rằng các tín hữu Công Giáo và Methodist có thể học hỏi nhau nhiều điều về ý nghĩa và cách thức sống sự thánh thiện. ”Tất cả chúng ta phải làm hết sức để các thành phần các giáo xứ của chúng ta gặp gỡ nhau thường xuyên, biết nhau qua những trao đổi đầy khích lệ và khuyến khích nhau trong việc tìm kiếm Thiên Chúa và ơn thánh của Người'.

ĐTC nhắc lại lời Mục Sư John Wesley, người khai sáng Tin Lành Methodist, trong thư gửi tín hữu Công Giáo Roma, viết rằng: các tín hữu Công Giáo và Methodist được kêu gọi giúp đỡ nhau trong bất kỳ điều gì .. dẫn đến Nước Chúa… Tuy chúng ta chưa thể suy nghĩ giống nhau trong mọi sự, nhưng ít là chúng ta có thể yêu thương giống nhau”.

ĐTC nói: ”Đúng vậy, chúng ta chưa thể nghĩ giống nhau trong mọi sự, và về những vấn đề liên quan đến các thừa tác vị thánh chứng và luân lý đạo đức vẫn còn nhiều công việc phải làm. Nhưng không có điều nào trong số những dị biệt ấy là chướng ngại cản trở, không cho chúng ta yêu thương giống nhau và làm chứng tá chung trước mặt thế giới. Đời sống chúng ta trong sự thánh thiện phải luôn bao gồm một việc phục vụ bác ái đối với thế giới; Công Giáo và Methodist phải cùng nhau dấn thân làm chứng vụ thể, trong nhiều lãnh vực, về lòng yêu mến đối với Chúa Kitô. Thực vậy, khi chúng ta cùng nhau phục vụ những người ở trong tình cảnh túng thiếu, thì tình hiệp thông của chúng ta gia tăng”.

Tin Lành Methodist hay cũng gọi là Phong trào Giám Lý do Mục Sư Anh Giáo John Wesley thành lập và tách rời khỏi Anh giáo từ năm 1784 và dần dần lan rộng ra các nơi trên thế giới. Tại Italia, giáo hội này chỉ có 7 ngàn tín đồ và hợp chung với Giáo Hội Tin Lành Valdesi thành một cộng đoàn với tổng cộng 45 ngàn tín hữu.

Hội đồng Methodist thế giới được thành lập năm 1881 qui tụ 80 hệ phái tại 133 quốc gia với khoảng 80 triệu tín đồ (SD 7-4-2016)

G. Trần Đức Anh OP

Kitô hữu sống sự hòa hợp của Thần Khí chứ không phải sự yên ổn do thỏa hiệp

Kitô hữu sống sự hòa hợp của Thần Khí chứ không phải sự yên ổn do thỏa hiệp

Thánh lễ sáng thứ ba, 06.04

VATICAN. “Không thể lẫn lộn sự hòa hợp ngự trị trong cộng đoàn Kitô hữu, là hoa trái của Thần Khí, với sự ‘yên ổn’ có được do dàn xếp, thương lượng thường che đậy đi những xung đột và chia rẽ bên trong. Một cộng đoàn được hợp nhất trong Đức Kitô cũng là một cộng đoàn tràn đầy sức mạnh và can đảm.” Đức Thánh Cha Phanxicô đã nhấn mạnh như trên trong bài giảng thánh lễ sáng thứ ba, ngày 05.04, tại nguyện đường thánh Marta.

Một lòng một ý, không ai phải thiếu thốn, mỗi người được phân phát tùy theo nhu cầu. Đó là bức tranh mà sách Công vụ Tông Đồ miêu tả lại. Từ bức tranh ấy, xuất hiện một từ có thể tổng hợp tất cả những tình cảm và lối sống của cộng đoàn Kitô hữu sơ khai, đó là: hòa hợp.

Tiền bạc – kẻ thù gây chia rẽ

Chúng ta có thể đồng thuận với nhau một tình trạng hòa bình nhất định nào đó. Nhưng sự hòa hợp là một ân sủng nội tâm chỉ có Chúa Thánh Thần mới thực hiện được. Và những cộng đoàn Kitô hữu sơ khai đã sống trong sự hòa hợp đó chứ không phải tình trạng yên ổn do thỏa hiệp. Có hai dấu hiệu của sự hòa hợp: không ai phải thiếu thốn và mọi sự đều là của chung. Điều ấy có nghĩa là gì? Họ sống với nhau chỉ có một lòng một ý, không ai coi bất cứ cái gì mình có là của riêng, nhưng đối với họ, mọi sự đều là của chung. Thật sự không ai trong số họ phải thiếu thốn. Sự hòa hợp đích thực của Chúa Thánh Thần lại có một sự liên hệ trái ngược rất mạnh mẽ với tiền bạc: tiền chính là kẻ thù của sự hòa hợp, tiền là sự quy kỷ. Vì thế, dấu hiệu của sự hòa hợp là mọi người biết cho đi tất cả những gì mình có, vì họ không còn thiếu thốn nữa.

Sự yên ổn do thỏa hiệp – một tình trạng mong manh

Sách Công vụ Tông Đồ kể lại rằng ông Banaba đã bán tất cả vườn tược của mình, lấy tiền đem đặt dưới chân các Tông Đồ. Nhưng ngay sau đó, câu chuyện thuật lại một chi tiết khác có phần trái ngược với lúc đầu. Chi tiết này không được nhắc đến trong bài đọc một hôm nay: Có một người tên là Khanania cùng với vợ là Xaphira bán một thửa đất. Hai ông bà giả vờ đã đưa tất cả số tiền cho các Tông Đồ, nhưng thật ra là giữ lại một phần tiền. Chọn lựa này đã khiến họ phải trả một giá rất cay đắng là cái chết. Thiên Chúa và tiền bạc là hai ông chủ mà những người tôi tớ phục vụ không được lẫn lộn. Và như thế, cũng rất có nguy cơ, người ta sẽ nhầm lẫn hòa hợp với sự yên ổn chóng qua do thỏa hiệp.

Một cộng đoàn có thể rất yên ổn, tốt đẹp; mọi sự đều suôn sẻ nhưng không hề có hòa hợp. Thật vậy, có lần tôi đã nghe được từ một vị Giám mục một điều khá lý thú: ‘Trong giáo phận, tình hình rất yên ắng. Nhưng nếu bạn chỉ cần đụng vào vấn đề này; vâng, chỉ cần đụng vào vấn đề này thôi, thì ngay lập tức chiến tranh sẽ bùng nổ.’ Đúng là một sự hòa hợp do thỏa hiệp! Và đó không phải là sự hòa hợp của Chúa Thánh Thần. Chúng ta gọi đó là sự hòa hợp giả tạo, giống như trường hợp của ông Khanania và vợ là bà Xaphira với tất cả những gì mà họ đã làm.

Thần Khí và ơn can đảm

Đức Thánh Cha kết thúc bài giảng bằng việc mời gọi mọi người cùng đọc lại sách Công vụ Tông Đồ về những Kitô hữu sơ khai và đời sống chung của họ: “Sẽ thật tốt nếu chúng ta biết cách để làm chứng tá trong những môi trường mà chúng ta đang sống. Sự hòa hợp của Chúa Thánh Thần mang lại cho chúng ta lòng quảng đại để không giữ bất cứ gì làm của riêng, cho dù có thiếu thốn. Sự hòa hợp ấy ban cho chúng ta một thái độ thứ hai: ‘Nhờ quyền năng mạnh mẽ Thiên Chúa ban, các Tông Đồ làm chứng Chúa Giêsu đã sống lại. Và Thiên Chúa ban cho tất cả các ông dồi dào ân sủng’. Điều này có nghĩa là các ông được ơn can đảm. Khi có sự hòa hợp trong Giáo hội, trong cộng đoàn thì sẽ có sự can đảm, can đảm để làm chứng về Thiên Chúa Phục Sinh.”

Vũ Đức Anh Phương, SJ

Một cộng đoàn Phanxicô mới được thành lập ở Smyrna

Một cộng đoàn Phanxicô mới được thành lập ở Smyrna

Cha M. Perry dòng Phanxicô

Istanbul –  “Làm chứng cho Tin Mừng bằng cách thúc đẩy đối thoại đại kết và liên tôn và đối thoại văn hóa theo phương pháp và tấm gương của thánh Phanxicô thành Assisi”, là tinh thần mà các tu sĩ Phanxicô dõi theo khi thành lập một cộng đoàn mới ở Smyrna, thuộc trung đông của Thổ nhĩ kỳ. Ban tổng cố vấn của dòng Anh em Hèn mọn, thường được gọi là Phanxicô, đã cho hãng tin Fides biết là Bề trên Tổng quyền, cha Michael A. Perry và Ban tổng cố vấn đã quyết định thành lập một cộng đoàn mới ở Smyrna để đồng hành với cộng đoàn hiện tại ở Istanbul. Cộng đoàn mới này là một cộng đoàn  quốc tế, bao gồm các tu sĩ đến từ mọi ngõ ngách của thế giới.

Ý tưởng thành lập cộng đoàn quốc tế này của cha Hermann Schalück, cựu Bề trên Tổng quyền của Dòng, đã xuất hiện trong chuyến viếng thăm Đức Bartholomew I. Vài năm sau, một cộng đoàn đầu tiên hoạt động cho đối thoại đại kết và liên tôn được xây dựng ở Istanbul. Nó làm chứng cho một cách sống loan báo Tin mừng, thúc đẩy đối thoại đại kết và liên tôn, hiệp thông với Giáo hội địa phương và cung cấp một hoạt động huấn luyện trường kỳ cho Dòng. 12 năm đã qua và bây giờ một cộng đoàn thứ hai xuất hiện.

Các tu sĩ Phanxicô ở Istanbul giải thích là “chiều kích rao giảng Tin mừng được sống chính yếu trong việc phát triển đối thoại đại kết và liên tôn. Những hoạt động thường niên bao gồm tuần cầu nguyện cho hiệp nhất, trao đổi và viếng thăm các anh em Hồi giáo trong tháng Ramadan, một khóa thường huấn về đối thoại đại kết và liên tôn đã được tổ chức 12 lần, một buổi họp mặt cầu nguyện theo tinh thần Assisi, cũng như các hoạt động khác tại Giáo hội địa phương. (Agenzia Fides 06/04/2016)

Hồng Thủy OP

 

Đức Thánh Cha Phanxicô cứu xét lời mời viếng thăm Canada

Đức Thánh Cha Phanxicô cứu xét lời mời viếng thăm Canada

Đức Thánh Cha Phanxicô cứu xét lời mời viếng thăm Canada

Ottawa, Ontario – Đức Tổng Giám Mục Luigi Bonazzi, sứ thần Tòa Thánh tại Canada cho biết là Đức Thánh Cha Phanxicô đang xem xét lời mời thăm  Canada, nơi mà các thổ dân mong đợi Ngài sẽ xin lỗi về vai trò của Giáo hội Công giáo trong việc điều hành các trường nội trú của người bản địa.

Vào năm ngoái, Ủy ban Sự thật và Hòa giải của Canada được thiết lập để điều tra những điều đã xảy ra trong các trường nội trú do chính phủ tài trợ, được điều hành bởi các tổ chức của các Giáo hội, trong đó Giáo hội Công giáo điều hành khoảng 60% số trường này. Nhiệm vụ của ủy ban là đưa ra một thu thập các thảm kịch của các trường nội trú dành cho người bản địa và kiểm tra hậu quả của chính sách kéo dài 130 năm đã phân chia 150 ngàn trẻ em bản địa khỏi gia đình của các em. Ủy ban hy vọng sẽ tạo dựng sự hòa giải giữa các thổ dân và phần còn lại của Canada. Ủy ban đã đưa ra 94 mời gọi hành động. Một trong số này là Đức Thánh Cha sẽ xin lỗi, ngay tại đất nước Canada, về vai trò của Giáo hội Công giáo trong việc điều hành các trường nội trú của người bản địa.

Marie Wilson, một thành viên của ủy ban, đã nói trong cuộc họp báo ở Ottawa ngày 20 tháng 3 rằng: “chúng tôi đã nghe nhiều người sống sót nói : ‘Giáo hội của tôi không xin lỗi tôi.’” Được hỏi là lời xin lỗi của Đức Thánh Cha có đủ không, bà nói: “Tôi chắc chắn là không đủ. Nó chỉ là một sự chuyển tiến thôi. Không có một điều gì là hoàn hảo cho mọi người, nhưng chúng tôi phải tiếp tục cố gắng.” Bà cũng nhận là nhiều Giám mục và các tổ chức Công giáo đã xin lỗi trong nhiều năm qua, nhưng 7000 nhân chứng làm chứng trước ủy ban Sự thật và Hòa giải là họ muốn một lời đáp của toàn thể. Bởi vì Giáo hội Công giáo ở Canada bao gồm nhiều giáo phận và thực thể, một đáp trả duy nhất của Công giáo là không thể.

Cựu thủ tướng Canada cũng đã thảo luận với Đức Thánh Cha Phanxicô  về vấn đề này khi ông gặp Đức Thánh Cha Phanxicô   tại Vatican vào năm ngoái. Chủ tịch quốc gia của Hiệp hội các thổ dân đã yêu cầu ông nêu vấn đề này với Đức Thánh Cha và yêu cầu ngài xin lỗi công khai.

Đáp lại lời mời gọi trong báo cáo của ủy ban Sự thật và Hòa giải, Hội đồng Giám mục Canada đã đưa ra một tài liệu, trong đó vạch ra các bước để hướng dẫn các Giám mục Công giáo sửa lại những sai lầm của quá khứ bằng một “dấn thân cụ thể để chữa lành những bất công kéo dài”. Các bước này bao gồm những cố gắng để đảm bảo là các tổ chức Công giáo trình bày một lịch sử chân thật về cuộc gặp gỡ với người bản địa, và các tác hại của việc bỏ qua hay coi nhẹ các điều ước.

Tài liệu cũng bao gồm việc thành lập các hoạt động tương tác với các cộng đồng bản địa, là phần của đối thoại hiệp nhất và liên tôn; hành động để cải tiến các dịch vụ y tế toàn diện; khuyến khích một phương thế phục hồi công lý để chống lại tỷ lệ bị bắt giam cao nơi các cộng đồng này; ủng hộ các cuộc điều tra quốc gia về số phụ nữ bản địa mất tích và bị giết; giúp đỡ các cộng đồng người bản địa xây dựng các chương trình giáo dục để phát triển văn hóa và kinh nghiệm của họ; và các Giám mục và các lãnh đạo Công giáo kêu gọi các giáo dân suy tư về tuyên ngôn của Liên Hiệp quốc về quyền của các dân bản địa để tuyên ngôn được ủng hộ và thực hiên. Các Giám mục nói là không có vấn đề trong việc tái khẳng định sự ủng hộ của họ về tuyên ngôn của Liên Hợp quốc. Các ngài  tuyên bố rằng: “tinh thần của tuyên ngôn này chỉ ra một con đường tiến tới hòa giải giữa người bản địa và những người không phải là bản địa ở Canada.” Hội đồng Giám mục cũng ra một tài liệu bác bỏ những ý niệm và nguyên tắc bất hợp pháp phản ánh trong học thuyết khám phá của thế kỷ 15. Học thuyết này đã được dùng để biện minh cho việc chiếm đất của người dân bản địa từ cuộc định cư ởBắc Mỹ của người châu Âu. (Catholic News Service 05/04/2016

Hồng Thủy OP

Kitô hữu sống sự hòa hợp của Thần Khí chứ không phải sự yên ổn do thỏa hiệp

Kitô hữu sống sự hòa hợp của Thần Khí chứ không phải sự yên ổn do thỏa hiệp

Thánh lễ sáng thứ ba, 06.04

VATICAN. “Không thể lẫn lộn sự hòa hợp ngự trị trong cộng đoàn Kitô hữu, là hoa trái của Thần Khí, với sự ‘yên ổn’ có được do dàn xếp, thương lượng thường che đậy đi những xung đột và chia rẽ bên trong. Một cộng đoàn được hợp nhất trong Đức Kitô cũng là một cộng đoàn tràn đầy sức mạnh và can đảm.” Đức Thánh Cha Phanxicô đã nhấn mạnh như trên trong bài giảng thánh lễ sáng thứ ba, ngày 05 tháng 04, tại nguyện đường thánh Martha.

Một lòng một ý, không ai phải thiếu thốn, mỗi người được phân phát tùy theo nhu cầu. Đó là bức tranh mà sách Công vụ Tông Đồ miêu tả lại. Từ bức tranh ấy, xuất hiện một từ có thể tổng hợp tất cả những tình cảm và lối sống của cộng đoàn Kitô hữu sơ khai, đó là: hòa hợp.

Tiền bạc – kẻ thù gây chia rẽ

Chúng ta có thể đồng thuận với nhau một tình trạng hòa bình nhất định nào đó. Nhưng sự hòa hợp là một ân sủng nội tâm chỉ có Chúa Thánh Thần mới thực hiện được. Và những cộng đoàn Kitô hữu sơ khai đã sống trong sự hòa hợp đó chứ không phải tình trạng yên ổn do thỏa hiệp. Có hai dấu hiệu của sự hòa hợp: không ai phải thiếu thốn và mọi sự đều là của chung. Điều ấy có nghĩa là gì? Họ sống với nhau chỉ có một lòng một ý, không ai coi bất cứ cái gì mình có là của riêng, nhưng đối với họ, mọi sự đều là của chung. Thật sự không ai trong số họ phải thiếu thốn. Sự hòa hợp đích thực của Chúa Thánh Thần lại có một sự liên hệ trái ngược rất mạnh mẽ với tiền bạc: tiền chính là kẻ thù của sự hòa hợp, tiền là sự quy kỷ. Vì thế, dấu hiệu của sự hòa hợp là mọi người biết cho đi tất cả những gì mình có, vì họ không còn thiếu thốn nữa.

Sự yên ổn do thỏa hiệp – một tình trạng mong manh

Sách Công vụ Tông Đồ kể lại rằng ông Banaba đã bán tất cả vườn tược của mình, lấy tiền đem đặt dưới chân các Tông Đồ. Nhưng ngay sau đó, câu chuyện thuật lại một chi tiết khác có phần trái ngược với lúc đầu. Chi tiết này không được nhắc đến trong bài đọc một hôm nay: Có một người tên là Khanania cùng với vợ là Xaphira bán một thửa đất. Hai ông bà giả vờ đã đưa tất cả số tiền cho các Tông Đồ, nhưng thật ra là giữ lại một phần tiền. Chọn lựa này đã khiến họ phải trả một giá rất cay đắng là cái chết. Thiên Chúa và tiền bạc là hai ông chủ mà những người tôi tớ phục vụ không được lẫn lộn. Và như thế, cũng rất có nguy cơ, người ta sẽ nhầm lẫn hòa hợp với sự yên ổn chóng qua do thỏa hiệp.

Một cộng đoàn có thể rất yên ổn, tốt đẹp; mọi sự đều suôn sẻ nhưng không hề có hòa hợp. Thật vậy, có lần tôi đã nghe được từ một vị Giám mục một điều khá lý thú: ‘Trong giáo phận, tình hình rất yên ắng. Nhưng nếu bạn chỉ cần đụng vào vấn đề này; vâng, chỉ cần đụng vào vấn đề này thôi, thì ngay lập tức chiến tranh sẽ bùng nổ.’ Đúng là một sự hòa hợp do thỏa hiệp! Và đó không phải là sự hòa hợp của Chúa Thánh Thần. Chúng ta gọi đó là sự hòa hợp giả tạo, giống như trường hợp của ông Khanania và vợ là bà Xaphira với tất cả những gì mà họ đã làm.

Thần Khí và ơn can đảm

Đức Thánh Cha kết thúc bài giảng bằng việc mời gọi mọi người cùng đọc lại sách Công vụ Tông Đồ về những Kitô hữu sơ khai và đời sống chung của họ: “Sẽ thật tốt nếu chúng ta biết cách để làm chứng tá trong những môi trường mà chúng ta đang sống. Sự hòa hợp của Chúa Thánh Thần mang lại cho chúng ta lòng quảng đại để không giữ bất cứ gì làm của riêng, cho dù có thiếu thốn. Sự hòa hợp ấy ban cho chúng ta một thái độ thứ hai: ‘Nhờ quyền năng mạnh mẽ Thiên Chúa ban, các Tông Đồ làm chứng Chúa Giêsu đã sống lại. Và Thiên Chúa ban cho tất cả các ông dồi dào ân sủng’. Điều này có nghĩa là các ông được ơn can đảm. Khi có sự hòa hợp trong Giáo hội, trong cộng đoàn thì sẽ có sự can đảm, can đảm để làm chứng về Thiên Chúa Phục Sinh.”

Vũ Đức Anh Phương, SJ

Đức Thánh Cha kêu gọi lạc quyên giúp Ukraine

Đức Thánh Cha kêu gọi lạc quyên giúp Ukraine

Đức Thánh Cha kêu gọi lạc quyên giúp Ukraine

LVOV. Tình hình dân chúng tại Ukraine ngày càng bi thảm khiến ĐTC phải lên tiếng kêu gọi lạc quyên trong các nhà thờ ở Âu Châu vào chúa nhật 24-4 tới đây để cứu trợ.

Ngoài ra, một sứ điệp liên đới của ĐTC cũng được Đức TGM Claudio Gugerotti, Sứ thần Tòa Thánh tại Ukraine, mang đến và công bố trong thánh lễ chúa nhật phục sinh cử hành tại miền Donetsk ở mạn đông Ukraine.

Trong số những người cần được trợ giúp có 800 ngàn người sống dọc theo con đường phân chia khu vực do chính phủ Ucraina kiểm soát và 2 triệu 700 ngàn người trong những vùng ở ngoài sự kiểm soát của chính phủ. Có nửa triệu người rất cần được trợ giúp về lương thực.

Nhu cầu trong lãnh vực y tế cũng rất lớn, nhất là các phụ nữ có thai và sinh con, trong khi nguy cơ lan tràn bệnh Sida và lao phổi rất trầm trọng, thiếu thuốc mê và insulin cho người bị bệnh tiểu đường. Nhiều cuộc giải phẫu được thực hiện mà không có thuốc mê.

1 triệu 300 ngàn người có nguy cơ không được nước trong lành để uống, trong khi khí đốt và điện thường bị cúp. 2 triệu 300 ngàn người thiếu thuốc men và săn sóc y tế. Có 200 ngàn trẻ em tị nạn trong những vùng ở Ucraina ngoài khu vực có xung đột.

Các tín hữu Công Giáo chiếm 10% dân số ở Cộng hòa Ukraine, và tuy là thiểu số bé nhỏ trong những vùng xung đột, họ có những cơ cấu hiệu năng và động viên để trợ giúp những người túng thiếu.

Đức Thánh Cha kêu gọi

Trưa chúa nhật 3-4-2016, vào cuối thánh lễ kính Lòng Thương Xót Chúa tại Quảng trường Thánh Phêrô, ĐTC đặc biệt nhắc đến các dân tộc đang khao khát sự hòa giải và hòa bình hơn ai khác, nhất là những người đang chịu hậu quả của bạo lực ở Ucraina: những người ở lại trong những vùng bị xáo trộn vì các hành vi thù nghịch làm cho nhiều ngàn người chết và hơn 1 triệu người phải đi lánh nạn vì tình trạng trầm trọng kéo dài. Trong số những người bị liên hệ có những người già và trẻ em. ĐTC nói:

”Ngoài việc liên lỷ nghĩ đến họ và tháp tùng họ bằng lời cầu nguyện, tôi cảm thấy cần quyết định cổ võ một sự trợ giúp nhân đạo cho họ. Với mục đích ấy, sẽ có một cuộc lạc quyên đặc biệt trong tất cả các nhà thờ Công Giáo ở Âu Châu chúa nhật 24-4 tới đây. Tôi mời gọi tất cả các tín hữu hiệp với sáng kiến này với sự đóng góp quảng đại. Cử chỉ bác ái này không những thoa dịu những đau khổ về vật chất, nhưng còn muốn bày tỏ sự gần gủi và liên đới của tôi và của toàn thể Giáo Hội. Tôi nồng nhiệt cầu mong cử chỉ này có thể mau lẹ thăng tiến hòa bình và tôn trọng công pháp ở phần đất đã bị thử thách đau thương rất nhiều như thế”.

Cha Lombardi, Giám đốc Phòng Báo chí Tòa Thánh cho biết Hội đồng Tòa Thánh Cor Unum, Đồng Tâm, là cơ quan bác ái của ĐTC, sẽ phối hợp và quản lý ngân khoản lạc quyên được để giúp đỡ dân chúng và người tị nạn Ukraine. (SD 3-4-2016)

G. Trần Đức Anh OP