Đức Thánh Cha ca ngợi tấm gương can đảm của Chân Phước Rother

Đức Thánh Cha ca ngợi tấm gương can đảm của Chân Phước Rother

VATICAN. ĐTC ca ngợi tấm gương can đảm của Chân phước LM Stanley Francis Rother tử đạo người Mỹ, được tôn phong chân phước sáng ngày 23-9-2017 tại thành phố Oklahoma, Hoa Kỳ.

Ngỏ lời với các tín hữu vào cuối buổi đọc kinh Truyền Tin trưa chúa nhật 24-9-2017 tại Quảng trường thánh Phêrô, ĐTC nói:

”Hôm qua, 23-9, tại thành phố Oklahoma, Hoa kỳ, đã có lễ phong chân phước cho Cha Stanley Francis Rother, LM thừa sai, bị giết vì sự oán ghét đức tin, cha hoạt động loan báo Tin Mừng và thăng tiến con người, bênh vực những người nghèo nhất tại Guatemala. Ước gì tấm gương anh dũng của cha giúp chúng ta trở thành những chứng nhân can đảm của Tin Mừng, dấn thân bênh vực phẩm giá con người”.

Cha Stanley Rother đến truyền giáo tại Guatemala năm 1968, phục vụ các thổ dân bản xứ ở Santiago Atillan, dịch Kinh Thánh ra thổ ngữ Tzutuhil của thổ dân Maya, thiết lập một đài phát thanh Công Giáo đầu tiên, và một nhà thương nhỏ, dấn thân để các trẻ em thổ dân được giáo dục tốt đẹp hơn.

Ngày 28-7 năm 1981, ít lâu trước khi làn sóng bạo lực chống các thổ dân bùng nổ, cha Stanley Rother bị các dân quân cực hữu bắn vào đầu, lúc ấy cha mới được 46 tuổi đời.

Lễ phong chân phước cho cha Stanley được ĐHY Angelo Amato, Tổng trưởng Bộ Phong thánh chủ sự, trước sự hiện diện của 50 GM, 200 LM, 200 phó tế và 20 ngàn tín hữu ngồi đầy trung tâm Hội nghị Cox ở Oklahoma City. Đây là lễ phong thánh tử đạo đầu tiên tại Hoa Kỳ.

Trong bài giảng thánh lễ, ĐHY Amato nhận định rằng: ”Tuy cái chết của chân phước Stanley Rother làm cho chúng ta đau buồn, nhưng cũng mang làm cho chúng ta vui mừng được ngưỡng mộ lòng từ nhân, quảng đại và can đảm của Cha như một vĩ nhân trong đức tin.. Tại Guatemala Cha luôn được nhớ đến như một hình ảnh vinh hiển cuộc tử đạo của Chúa Kitô, một ngọn đuốc sáng chân thực về hy vọng Giáo Hội và thế giới”.

ĐHY Amato cũng đề cao tấm gương tha thứ của vị chân phước và nói rằng: ”Được huấn luyện trong trường của Tin Mừng, Cha Stanley coi những kẻ thù như những con người. Cha không oán ghét, nhưng yêu thương. Cha không phá hủy, nhưng xây dựng. Đó là lời mời gọi của Chân Phước Stanley Francis Rother được kéo dài cho chúng ta ngày hôm nay, trở thành những chứng nhân và thừa sai của Tin Mừng. Xã hội ngày nay đang cần những người gieo vãi sự tốt lành” (CNS 24-9-2017)

G. Trần Đức Anh OP 

 

Ơn an ủi không phải là sự vui nhộn nhưng là bình an của Chúa

Ơn an ủi không phải là sự vui nhộn nhưng là bình an của Chúa

Thiên Chúa viếng thăm dân Ngài. Điều ấy rất quan trọng. Vì trong lịch sử cứu độ, mỗi lần Chúa viếng thăm, là mỗi lần Chúa giải phóng dân khỏi ách nô lệ. Mỗi lần Chúa viếng thăm, là mỗi lần Chúa cứu độ dân. Đức Thánh Cha chia sẻ như thế trong thánh lễ sáng nay tại nhà nguyện Marta.

Chúa viếng thăm dân Ngài

Mỗi lần Chúa viếng thăm chúng ta, là Người ban cho chúng ta niềm vui, ban cho chúng ta ơn an ủi. Điều ấy làm cho chúng ta vui mừng. Vâng, chúng ta khóc lóc đau thương, nhưng giờ đây, Chúa an ủi chúng ta và ban cho chúng ta ơn an ủi. Ơn an ủi không phải chỉ là một lúc nào đó mà thôi, nhưng là ơn trong đời sống của người tín hữu. Toàn bộ Kinh Thánh chỉ cho chúng ta điều ấy.

Có điều cần thiết là chúng ta cần chờ đợi giây phút Chúa viếng thăm mỗi người chúng ta. Bởi vì, tuy có những lúc mạnh yếu khác nhau, nhưng Chúa luôn giúp chúng ta cảm thấy và nhận biết rằng, Chúa luôn hiện diện bên ta, luôn ban ơn an ủi thiêng liêng, luôn ban cho chúng ta niềm vui.

Hy vọng là nhân đức bé nhỏ

Do đó, đợi chờ trong hy vọng có lẽ là nhân đức “khiêm tốn nhất trong các nhân đức”. Đức cậy có lẽ là luôn là “nhân đức bé nhỏ”. Tuy bé nhỏ, nhưng kỳ thực, đức hy vọng tựa như than hổng ẩn kín dưới lớp tro. Nhìn thì có vẻ như đống tro tàn, nhưng thực ra là than hồng rực cháy bên trong. Thế nên, các Kitô hữu luôn sống trong sự hiện diện của Chúa, hướng về cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa. Nếu Kitô hữu không sống như thế, thì họ đang đóng kín cuộc sống, và sẽ không biết mình phải làm gì.

Tuy nhiên, chúng ta cần biết nhận ra đâu là ơn an ủi. Bởi lẽ, có những thứ an ủi giả tạo, vì chúng dường như muốn níu kéo chúng ta ở lại trong niềm an ủi nào đó, nhưng kỳ thực là đang lừa dối chúng ta. Ơn an ủi đích thật mang lại cho chúng ta loại niềm vui không thể mua bán đổi chác.

An ủi và bình an

Ơn an ủi của Thiên Chúa chạm vào tâm hồn chúng ta, biến đổi con tim chúng ta, thúc đẩy linh hồn chúng ta mạnh mẽ trong đức mến, đức tin, đức cậy, cũng như giúp chúng ta biết khóc lóc vì tội lỗi bản thân. Chúng ta cũng hãy nhìn vào Chúa Giêsu trong cuộc Thương Khó. Hãy khóc cùng Chúa Giêsu. Ơn an ủi của Thiên Chúa nâng linh hồn chúng ta hướng về những điều trên Trời, những điều thuộc về Thiên Chúa. Ơn an ủi của Thiên Chúa ấp ủ chúng ta trong bình an của Chúa. Tất cả những điều vừa kể là niềm an ủi đích thực. Tuy nhiên, ơn an ủi không phải là điều gì đó vui nhộn. Sự vui nhộn không có gì là xấu cả, nếu điều vui nhộn ấy là tốt đẹp, vì chúng ta đều là con người, và chúng ta cũng cần vui nhộn. Nhưng ơn an ủi ở đây thì khác điều gì đó vui nhộn, vì ơn an ủi được ban cho chúng ta, giúp chúng ta cảm thấy và nhận biết sự hiện diện của Chúa, giúp chúng ta khám phá ra rằng: Đây chính là Chúa.

Chúng ta hãy cầu nguyện, hãy tạ ơn Chúa. Tạ ơn Chúa vì Chúa vượt xa ngàn trùng đến viếng thăm chúng ta, vì Chúa đã vác Thập Giá vì chúng ta. Tạ ơn vì Chúa giúp chúng ta tiến về phía trước trong hy vọng. Chúng ta cần gìn giữ ơn an ủi đã nhận được. Ơn ấy được ban trong giây phút nào đó, lúc mạnh lúc không, nhưng đều để lại dấu vết. Chúng ta hãy nhận biết ơn ấy và khắc ghi những dấu vết. Ghi tâm khắc cốt giống như dân Israel đã nhớ biến cố Thiên Chúa giải phóng họ. Chúng ta hãy đợi chờ ơn an ủi, nhận biết ơn an ủi và gìn giữ ơn an ủi. Điều gì còn lại sau những giây phút được an ủi mãnh liệt? Đó là bình an. Cấp độ cao nhất của ơn an ủi chính là bình an.

Tứ Quyết SJ

Đức tin hướng dẫn hành động bác ái giúp nạn nhân bão lụt của Jim McIngvale

Đức tin hướng dẫn hành động bác ái giúp nạn nhân bão lụt của Jim McIngvale

Với đôi giày ống màu đen kiểu cao bồi, ông Jim McIngvale quan sát hàng dài 150 người đang đợi để gặp ông. Rồi với nụ cười, thỉnh thoảng chụp ảnh selfie với họ, ông hướng dẫn những nạn nhân của lũ lụt đang mệt mỏi này đến nhà kho đầy đồ đạc sạch sẽ, với cả thức ăn và nước uống. Cơn bão nhiệt đới Harvey với những trận mưa kéo dài đã gây thiệt hại rất lớn cho Hoa kỳ; hàng ngàn ngôi nhà bị hư hỏng và hàng trăm ngàn người mất nơi cư ngụ vì lũ lụt. Thành phố Houston của bang Texas, thành phố lớn thứ 4 của Hoa kỳ, đã bị tổn thất nặng nề. Giữa thành phố như biến thành sông ấy, nhiều cư dân bị lụt ở miền đông nam Texas đã tìm thấy hòn đảo cư trú tại các cửa hàng lớn bán đồ nội thất "Mattress Mack" của Jim McIngvale, nơi họ có thể lưu trú để chờ đợi đến khi có thể trở về nhà của họ. 400 người dân Houston trú ngụ trong một cửa hàng trưng bày rộng gần 50 ngàn mét vuông và 400 người khác được cư trú trong một cửa hàng khác.

Khi thành phố Houston bắt đầu bị lụt lội, ông McIngvale đã đăng trên internet lời mời bất cứ ai cần nơi cư trú. Ông còn đăng cả số điện thoại riêng để người ta có thể dễ dàng liên lạc với ông. Ông McIngvale cho biết: “chúng tôi bán các đồ nội thất dùng cho các rạp hát tại gia nơi người ta xem tivi, những người chạy lụt ngủ trên các đồ dùng này. Họ ngủ trên các ghế dựa ghế salông… Họ ngủ trên hàng trăm tấm nệm trong khắp cửa hàng, bất cứ nơi nào họ có thể tìm thấy một nơi thoải mái. Chúa chúc lành cho họ.” Ông McIngvale còn đưa xe tải đến các vùng lân cận để chở những người bị lụt đến cửa hàng của ông. Đây không phải là lần đầu tiên ông McIngvale mở cửa tiệm của mình tiếp đón người chạy lụt. Cách đây 12 năm, khi cơn bão Katrina gây ảnh hưởng đến thành phố Houston, và trong những trận lụt hồi năm ngoái (2016), ông McIngvale cũng đã mở các cửa tiệm để đón tiếp họ. Ông McIngvale cho biết những người tránh lụt tại các cửa hàng của ông có thể trú ngụ bao lâu họ cần ở đó. Ông cũng chia sẻ rằng rất nhiều người cũng đã mang các quà tặng, quyên góp đến các cửa tiệm của ông và các cửa tiệm này trở thành nơi thu nhận và phân phát đồ cứu trợ. Ông cảm thấy ấm lòng với các việc làm của cộng đồng dân chúng.

Ông Jim McIngvale được biết như một nhà từ thiện. Ông sống với khẩu hiệu: “Biết ơn về mọi thứ, không tư lợi điều gì.” 30 năm qua, cửa hàng trưng bày đồ nội thất luôn tổ chức tặng quà Giáng sinh với những đồ nội thất còn mới tinh dành cho các gia đình nghèo ở Houston. Ông McIngvale chia sẻ: “Giúp đỡ người khác là một bổn phận. Tất cả chúng ta có trách nhiệm về phúc lợi của cộng đồng chúng ta. Nếu chúng ta không chăm sóc cho các người dân anh em của chúng ta, thì chúng ta là loại người gì?” Đó là điều ông được dạy khi học ở trường Công giáo.

5 năm trước, khi các nữ tu dòng Đaminh ở Nashville đến thành phố Spring, Texas để lập trường trung học Công giáo Frassati, ông McIngvale đã tặng cho các nữ tu những thứ cần thiết cho tu viện mới thành lập. Sơ Anna Laura Karp, giám đốc các sinh hoạt của học sinh kể lại rằng, ông McIngvale bắt đầu trả lời điện thoại của sơ với các lời “Ngợi khen, Chúc tung và Rao giảng” – khẩu hiệu của dòng Đaminh. Ông McIngvale là một cựu học sinh của trường do dòng Đaminh phụ trách. Ông tin rằng chính nền giáo dục ông được hưởng từ trường của dòng Đaminh hướng dẫn cách ông điều hành công việc thương mại hiện nay.

Ông McIngvale xây dựng một nền văn hóa sự sống trong công việc của ông, đó là đặt con người và gia đình lên hàng đầu. Các phụ huynh cảm thấy thoải mái khi đưa con của cùng đến tiệm của ông mua sắm, vì nơi đây thật sự rất thân thiện với các trẻ em: có nơi cho các em nhảy trên các tấm nệm, có các con chim lớn và khỉ; đàng sau cửa tiệm có quầy cà phê, nơi mội người có thể ăn uống miễn phí mọi ngày. Không chỉ các khách hàng mới có thể ăn, nhưng là bất cứ ai cần một bữa ăn. Khu vực ăn uống cũng là nơi không dung điện thoại di động. Ông McIngvale giải thích rằng chúng ta không chỉ sống bằng cơm bánh, nhưng còn cần người đồng hành, cần hiện diện với người khác, nói chuyện trực diện, bởi vì chúng ta được tạo nên để sống trong cộng đồng.

Đối với ông McIngvale, trận bão Harvey là một vấn đề cho chúng ta vượt qua. Như là các công dân và các Kitô hữu, chúng ta sẽ vượt qua. Điều tốt lành sẽ chiến thắng sự xấu. Ông nói rằng ông sẽ tiếp tục giúp đỡ những người còn gặp khốn khó và kêu gọi mọi người vững niềm tin. Ông nói: “Cần 2 đến 3 năm để phục hồi thiệt hại. Đó là thời gian tốt cho giáo hội Công giáo sáng tỏ trong việc phục vụ cộng đồng. Tôi nghĩ người ta sẽ thấy rằng đây là cách người ta chờ đợi chúng ta là. Điều này không có gì lạ. Đây là cách chúng ta được chờ đợi là.” (Aleteia 05/09/2017)

Hồng Thủy

Có cái nhìn theo luận lý tình yêu thương xót của Thiên Chúa là Cha

Có cái nhìn theo luận lý tình yêu thương xót của Thiên Chúa là Cha

Thiên Chúa muốn mời gọi tất cả mọi người làm việc cho Nước Ngài và sau cùng Ngài muốn ban cho tất cả mọi người cùng phần thưởng như nhau, nghĩa là ơn cứu rỗi, cuộc sống vĩnh cửu. Ngài muốn chúng ta cũng có được cái nhìn thương xót quảng đại và con tim nhân lành như con tim của Ngài.

ĐTC Phanxicô đã nói như trên với hàng ngàn tín hữu và du khách hành hương tham dự buổi đọc Kinh Truyền Tin trưa Chúa Nhật 24-9-2017.

Trong bài huấn dụ ĐTC quảng diễn ý nghĩa Phúc Âm kể lại đụ ngôn ông chủ vườn nho ra thuê thợ công nhật làm việc trong vuờn nho của ông. Dụ ngôn vườn nho diễn tả Thiên Chúa ban sáng ra thuê một nhóm thợ công nhật, và thoả thuận với họ giá cả là một đồng mỗi ngày. Đó là giá cả công bằng. Thế rồi ông cũng ra vào các giờ tiếp theo – 5 lần trong ngày đó ông ra ngoài cho tới chiều, để thuê thợ công nhật và thấy họ thất nghiệp.

Vào cuối ngày ông truyền trả lương một đồng cho tất cả mọi người, kể cả những người chỉ làm việc ít giờ. Đương nhiên là các người thợ được thuê đầu tiên than phiền, bởi vì họ nhận thấy họ cũng chỉ được trả có một đồng như những người đã làm việc ít hơn. Tuy nhiên, ông chủ nhắc cho họ biết rằng họ đã nhận tiền công như đã thoả thuận, thế rồi nếu ông muốn quảng đại đối với các người khác, thì họ không được ghen tương.

Thật ra, sự “bất công” ấy của ông có dụng ý khơi dậy nơi người nghe  dụ ngôn một bước nhảy về phẩm, bởi vì ở đây Chúa Giêsu không muốn đề cập tới công  việc làm và tiền công đúng đắn, nhưng là Nước Thiên Chúa. ĐTC giải thích sứ điệp dụ ngôn như sau:

Và sứ điệp là thế này: trong Nước Thiên Chúa không có người thất nghiệp, tất cả mọi người đều được mời gọi làm phần của mình; và sau cùng sẽ có phần thưởng đến từ sự công bằng của Thiên Chúa cho tất cả mọi người,  chứ không phải sự công bằng của con người – thật là may mắn cho chúng ta! – nghĩa là ơn cứu rỗi mà Chúa Giêsu Kitô đã chiếm được cho chúng ta bằng cái chết và sự sống lại của Ngài. Một sự cứu rỗi không phải vì đáng công, nhưng được trao ban: ơn cứu rỗi nhưng không. vì thế “những người sau cùng sẽ là những người đầu tiên, và những người đầu tiên sẽ là những người sau cùng” (Mt 20,16).

Tiếp tục bài huấn dụ ĐTC nói: với dụ ngôn này Chúa Giêsu muốn mở rộng con tim của chúng ta cho cái luận lý tình yêu thương của Thiên Chúa Cha, là Đấng nhưng không và quảng đại. Đây là việc để cho mình bị kinh ngạc và hấp dẫn bởi các “tư tưởng” của Thiên Chúa và các “đường lối” của ngài, như ngôn sứ Isaia đã nhắc nhở, chúng không phải là các tư tưởng của chúng ta và không phải là các đường lối của chúng ta (x. Is 55,8). Các tư tưởng của con người thường bi ghi dấu bởi các ích kỷ và các lợi lộc cá nhân, và các đường lốí chật hẹp xấu xa và quanh co của chúng ta không thể so sánh với các con đường rộng rãi thẳng tắp của Chúa. Ngài dùng lòng thương xót – đừng quên điều đó: Chúa dùng lòng thương xót, Ngài  tha thứ một cách rộng rãi, Ngài tràn đầy quảng đại nhân lành và  đổ chúng đầy tràn trên từng người trong chúng ta, Ngài mở ra cho tất cả mọi người các vùng đất mênh mông của tình yêu và của ơn thánh của Ngài; chỉ có chúng là có thể trao ban cho trái tim con người sự đầy tràn của niềm vui.

Chúa Giêsu muốn chúng ta chiêm ngưỡng cái nhìn của ông chủ đó, cái nhìn mà với nó ông nhìn từng ngưởi trong đám thợ chờ đợi việc làm, và mời gọi họ đi làm vườn nho của ông. ĐTC giải thích cái nhìn của Thiên Chúa như sau:

Đó là một cái nhìn tràn đầy chú ý, tốt lành, một cái nhìn kêu gọi, mời mọc đứng lên, bắt đầu bước đi, bởi vì muốn sự sống cho từng người trong chúng ta, muốn một sự sống tràn đầy, dấn thân, được cứu rỗi khỏi sự trống rỗng và bất động. Thiên Chúa không loại trừ ai hết, và Ngài muốn rằng từng người đạt tới sự viên mãn. Đó là tình yêu của Thiên Chúa chúng ta, của Thiên Chúa là Cha chúng ta.

Xin Mẹ Maria Rất Thánh giúp chúng ta đón nhận trong cuộc sống của mình cái luận lý tình yêu thương, giải thoát chúng ta khỏi yêu sách đáng được phần thưởng của Thiên Chúa và khỏi sự phán xét tiêu cực trên những người khác.

Tiếp đến ĐTC đã đọc Kinh Truyền Tin và ban phép lành toà thánh cho mọi người.

Sau Kinh Truyền Tin ĐTC nhắc tới lễ phong chân phước cho cha Stanley Francis Rother, linh mục thừa sai, bị giết bởi thù ghét tôn giáo vì công việc rao truyền Tin Mừng và thăng tiến nhân bản cho dân nghèo của cha bên Guatemala. ĐTC nói: ước chi gương sáng anh hùng của ngài giúp chúng ta là những chứng nhân can đảm của Tin Mừng, bằng cách dấn thân cho phẩm giá con người.

ĐTC đã chào tín hữu Roma và các đoàn hành hương đến từ nhiều nước khác nhau, đặc biệt ca đoàn Cứ điểm truyền giáo Italia tại Berne bên Thụy Sĩ, cộng đoàn phong trào Hiệp thông và giải phóng Roma   cũng như các tín hữu Villadossola, Offanengo và Nola. Sau cũng ngài chúc mọi người một ngày Chúa Nhật an lành và xin tín hữu đừng quên cầu nguyện cho ngài.

Linh Tiến Khải

 

Đức Thánh Cha tiếp Tổng tu nghị dòng Trappiste

Đức Thánh Cha tiếp Tổng tu nghị dòng Trappiste

VATICAN. ĐTC nhắn nhủ các đan sĩ nam nữ dòng Xitô Nhặt Phép trở thành những chứng nhân về sự siêng năng cầu nguyện, thanh đạm và hiệp nhất trong tình bác ái.

Ngài đưa ra lời kêu gọi trên đây trong buổi tiếp kiến sáng ngày 23-9-2017 dành cho 230 thành viên Tổng tu nghị của dòng, gồm hai ngành nam nữ, đang tiến hành chung tại Roma.

Dòng Xitô Nhặt Phép cũng gọi là dòng Trappiste hiện có 1990 nam đan sĩ thuộc 96 đan viện, ngành nữ của dòng có 1.453 nữ đan sĩ thuộc 69 đan viện, theo niên giám 2017 của Tòa Thánh.

Lên tiếng trong buổi tiếp kiến, ĐTC cám ơn Chúa vì sự hiện diện không thể thay thế được của các cộng đoàn đan tu, là một sự phong phú tinh thần và là một lời nhắc nhớ liên tục hãy tìm kiếm những ”sự trên cao” để sống đúng đắn những thực tại trần thế.

ĐTC cũng nhắc đến một đặc điểm của đời sống chiêm niệm là chuyên chăm cầu nguyện, thể hiện tình yêu đối với Thiên Chúa và phản ánh một tình yêu bao trùm toàn thể nhân loại. Ngài nói: ”Tôi nhắn nhủ anh chị em hãy coi trọng việc suy niệm Lời Chúa, đặc biệt là lectio divina (đọc và nguyện gẫm Lời Chúa), là nguồn mạch kinh nguyện và là trường dạy chiêm niệm. Là người chiêm niệm, đòi phải có một hành trình trung thành và kiên trì, để trở thành những người nam nữ cầu nguyện, ngày càng tràn đầy tình yêu đối với Chúa chiếm hữu và được biến thành bạn hữu của Chúa. Ở đây không có nghĩa là thành những người ”cầu nguyện chuyên nghiệp” theo nghĩa tiêu cực nhưng là những người yêu mến cầu nguyện, coi sự trung thành với các qui luật cầu nguyên như một phương thế để tiến triển trong tương quan bản thân với Thiên Chúa”.

ĐTC nhận xét rằng ngay từ đầu, các Đan sĩ Xitô nhặt phép vốn nổi bật về cuộc sống rất thanh đạm, vì xác tín rằng đó là một trợ lực hữu hiệu để tập trung vào điều thiết yếu và dễ dàng đạt tới niềm vui của cuộc gặp gỡ như hiền thê với Chúa Kitô. Yếu tố này vẫn còn giữ nguyên giá trị trong bối cảnh văn hóa ngày nay, một bối cảnh quá nhiều khi làm cho con người mong ước những của cải phù du và những ảo ảnh thiên đường giả tạo.

ĐTC đặc biệt nhấn mạnh sự hiệp nhất trong tình bác ái. Ngài nói: ”Đặc tính này là mô hình của gia đình dòng tu được kêu gọi theo sát Chúa Kitô trong chiều kích đời sống cộng đoàn, và được biểu lộ trước tiên trong mỗi cộng đoàn đan tu của anh chị em, trong một bầu không khi huynh đệ chân thành và nồng nhiệt, như lời Thánh Vinh: ”Đẹp và dịu dàng thay anh em sống chung một nhà” (Tv 133,1). Về điểm này, lời mời gọi của Thánh Biển Đức vẫn còn vang dội hợp thời: ”Ước gì đừng ai bị xao xuyến hoặc sầu muộn trong nhà của Chúa”.

ĐTC nói thêm rằng: ”Tôi nhắn nhủ anh chị em hãy thanh thản và thành thật tự hỏi mình về chất lượng chứng tá cuộc sống, về sự trung thành với đoàn sủng, và những điều ấy được sống thế nào trong các cộng đoàn đan tu của anh chị em, cũng như nơi mỗi cá nhân đan sĩ”. (Rei 23-9-2017)

G. Trần Đức Anh OP 

 

Đức Thánh Cha lo âu vì thái độ chống người di dân

Đức Thánh Cha lo âu vì thái độ chống người di dân

VATICAN. ĐTC bày tỏ lo âu và đau buồn vì những dấu hiệu bất bao dung, kỳ thị và bài người nước ngoài ở nhiều miền của Âu Châu, kể cả trong các cộng đoàn Công Giáo.

Ngài nói lên lập trường trên đây trong buổi tiếp kiến sáng ngày 22-9-2019 dành các vị Giám đốc toàn quốc về mục vụ di dân và tị nạn thuộc các nước Âu Châu về Roma tham dự cuộc gặp gỡ do Liên HĐGM Âu Châu tổ chức.

ĐTC nhận xét rằng thái độ bất bao dung, kỳ thị và bài người nước ngoài thường do sự nghi kỵ và sợ hãi người khác, sợ cái gì khác biệt và người ngoại quốc. Ngài nói: ”Điều làm tôi càng bận tâm hơn nữa là nhận xét đau buồn khi thấy các cộng đoàn Công Giáo chúng ta ở Âu Châu cũng không tránh được những phản ứng tự vệ và loại bỏ, được biện minh bằng một thứ ”nghĩa vụ luân lý” phải bảo tồn căn tính văn hóa và tôn giáo nguyên thủy.”

Bác bỏ lập luận đó, ĐTC nói: ”Giáo Hội phổ biến trong mọi đại lục là nhờ sự ”di cư” của các thừa sai xác tín về đặc tính hoàn vũ sứ điệp cứu độ của Chúa Giêsu Kitô, nhắm đến mọi người nam nữ thuộc mọi nền văn hóa. Trong lịch sử Giáo hội không thiếu những cám dỗ của chủ trương loại người khác và bảo vệ thành trì văn hóa, nhưng Chúa Thánh Linh luôn giúp chúng ta khắc phục những cám dỗ ấy, bảo đảm một sự liên tục cởi mở đối với người khác, sự cởi mở ấy được coi như một cơ hội cụ thể để tăng trưởng và được phong phú”.

ĐTC đề cao những khía cạnh tích cực của làn sóng nhập cư vào Âu Châu như cơ hội để thực thi đặc tính Công Giáo, phát triển tinh thần đại kết và liên tôn cũng như là cơ hội để loan báo Tin Mừng” (Rei 22-9-2017)

G. Trần Đức Anh OP

 

Ký hợp đồng giữa Bộ Truyền Thông và Dòng Tên

Ký hợp đồng giữa Bộ Truyền Thông và Dòng Tên

Roma. Sáng ngày 21-9-2017, một hợp đồng giữa Bộ Truyền Thông và Dòng Tên đã được ký kết tại trụ sở Bộ Truyền Thông ở Roma.

Ký hợp đồng này có Đức Ông Bộ trưởng Dario Edoardo Viganò và Cha Juan Antonio Guerrero Alves, Đại diện Bề Trên Tổng Quyền Dòng Tên đặc trách các tu sĩ của dòng hoạt động trong các cơ sở ở Roma.

Với Hợp đồng này, Dòng Tên bày tỏ sự sẵn sàng cộng tác với Bộ Truyền Thông trong sứ mạng tông đồ trong thế giới truyền thông.

Lên tiếng trong dịp này, Đức Ông Viganò nói: ”Chúng ta đang thực hiện một hành động vâng phục Đức Thánh Cha về những tiêu chuẩn do ngài ấn định. Sự cộng tác mới sẽ mang lại nhiều thành quả vì khi sống một sự phục vụ Giáo Hội, ta đi xa hơn sự thỏa mãn bản thân. Việc phục vụ vượt lên trên mỗi người chúng ta và tôi cầu mong chúng ta có thể sống nghề nghiệp ”theo cách thức của Thiên Chúa”: chúng ta không phải chỉ là những người chuyên nghiệp, nhưng là những người chuyên nghiệp giỏi được biến đổi trong kinh nghiệm về mầu nhiệm Thiên Chúa”.

Đức Ông Viganò chuyển lại sự cám ơn và hài lòng của ĐTC về hình thức mới trong sự cộng tác này trong tiến trình cải tổ.

 Về phần Cha Guerrero Alves, đại biểu của Dòng Tên, cha nói: ”Ơn gọi của dòng Tên là phục vụ Giáo Hội như Giáo Hội yêu cầu. Sự đóng góp của chúng tôi trong lãnh vực truyền thông làm cho chúng tôi hạnh phúc vì chúng tôi có thể góp phần vào những cuộc cải tổ mà ĐTC mong muốn”.

Đài Vatican được ĐTC Piô 11 thành lập ngày 11-2 năm 1931 và ngay từ đầu ngài ủy thác cho dòng Tên đảm trách. Đài lớn mạnh với thời gian và cho đến đầu triều đại của Đức Thánh Cha Phanxicô, Đài Vatican có 40 chương trình gồm 40 ngôn ngữ khác nhau, và có 21 LM tu huynh dòng Tên cộng tác. Vị Tổng Giám đốc và Giám đốc các chương trình, và nhiều trưởng chương tình đều thuộc dòng Tên.

Với cuộc cải tổ do ĐTC Phanxicô đề xướng, 9 cơ quan truyền thông của Tòa Thánh, trong đó có Đài Vatican, được gộp thành Bộ Truyền Thông (Segreteria per la comunicazione) và ngài Bổ nhiệm Đức Ông Viganò làm Bộ trưởng, cùng với các vị hữu trách mới. Dòng Tên không còn đảm trách đài nữa, và Hiệp định mới ký kết muốn mời gọi sự cộng tác của Dòng vào công tác truyền thông.

Hiện nay trong số các nhân viên của Đài Vatican, có 10 LM dòng Tên làm trưởng chương trình, phần lớn thuộc các nước Đông Âu và 3 LM phục vụ trong ban khác của đài. Ngoài ra có 4 số sinh viên dòng Tên đến thực tập và phục vụ một thời gian tại Đài, trong đó có một thầy người Việt.

G. Trần Đức Anh OP

Sống hy vọng và yêu thương hôm nay và ở đây

Sống hy vọng và yêu thương hôm nay và ở đây

Chúa gieo vãi con ở đâu con hãy hy vọng ở đó. Ở bất cứ đâu con cũng hãy xây dựng hoà bình, và đừng nghe lời những kẻ gieo vãi thù hận và chia rẽ. Hãy yêu thương con người. Hãy mơ ước một thế giới tốt đẹp hơn. Hãy có trách nhiệm đối với thế giới và sự sống của mỗi một người. Hãy xin Chúa ban cho con lòng can đảm không sợ hãi và tin tưởng nơi sự thật, trau dồi các lý tưởng, biết đứng dậy khi lầm lỗi, không cay đắng nhưng tin vào sự thiện làm nảy sinh ra một thế giới mới.

ĐTC Phanxicô đã khuyên người trẻ như trên trong buổi tiếp kiến chung sáng thứ tư 20.09.2017, về đề tài “Giáo dục hy vọng” .

Vì đề tài này ĐTC nói ngài tưởng tượng như đang nói chuyện với một người trẻ hay bất cứ ai đang rộng mở tâm trí muốn học hỏi. Ngài nói:

Thiên Chúa gieo vãi con ở đâu hãy hy vọng ở đó. Đừng đầu hàng đêm đen: hãy nhớ rằng kẻ thù đầu tiên cần khuất phục không ở ngoài, nhưng ở bên trong con. Vì thế, đừng dành chỗ cho các tư tưởng tiêu cực. Hãy tin vững vàng rằng thế giới này là phép lạ đầu tiên Thiên Chúa đã làm, và Thiên Chúa đã đặt để trong tay chúng ta ơn của các điềm lạ. Đức tin và niềm hy vọng đi đôi với nhau. Con hãy tin vào sự hiện hữu của các sự thật cao cả và đẹp đẽ nhất. Hãy tín thác nơi Thiên Chúa Tạo Hoá, nơi Chúa Thánh Thần hướng mọi sự tới thiện ích, trong vòng tay ôm của Chúa Kitô, là Đấng chờ đợi mọi người vào cuối cuộc đời họ. Đừng lo lắng nếu ngày nào đó trong cuộc sống xem ra là duy nhất đối với con khi trông thấy các mầu nhiệm cao đẹp nhất của đức tin: thế giới bước đi nhờ biết bao nhiêu người đã mở lối, đã xây  cầu, đã mơ ước và tin cậy, cả khi họ nghe thấy tiếng chế nhạo chung quanh.

Con đừng bao giờ nghĩ rằng cuộc chiến đấu con đang làm dưới thế này hoàn toàn vô ích. Đừng tin rằng sau cuộc đời này cuộc đắm tầu chờ đợi con: trong chúng ta đập nhịp một hạt giống của tuyệt đối. Thiên Chúa không gây thất vọng: nếu Ngài đã đặt để trong trái tim chúng ta một niềm hy vọng, thì Ngài muốn nó bẻ gẫy với mọi tước đoạt. Tất cả nảy sinh để nở hoa trong một mùa xuân vĩnh cửu.

** Tiếp tục bài huấn dụ ĐTC nói: Bất cứ ở đâu con cũng hãy xây dựng! Nếu con bị ngã xuống đất, hãy đứng dậy! Nếu con ngồi, hãy bước đi! Nếu sự chàm chán làm con tê liệt, hãy đuổi nó đi với các việc thiện! Nếu con cảm thấy trống rỗng và mất tinh thần, hãy xin Chúa Thánh Thần  lại có thể làm tràn đầy sự hư không của con.

Hãy tạo dựng hoà bình giữa con người, và đừng nghe theo tiếng nói của kẻ gieo vãi thù hận và chia rẽ.  Con người, dù có khác nhau tới mấy đi nữa, cũng đã được tạo dựng để sống với nhau. Trong các đối chọi, hãy kiên nhẫn: một ngày kia con sẽ khám phá ra rằng mỗi người đều nắm giữ một mảnh sự thật.

Hãy yêu thương con người. Hãy yêu thương họ từng người một. Hãy tôn trọng con đường của mọi người, dù nó xuôi chảy hay chông gai, bởi vì mỗi một người đều có lịch sử riêng để kể lại. Mỗi một trẻ em sinh ra là một hứa hẹn sự sống lại một lần nữa cho thấy nó mạnh mẽ hơn cái chết. Mỗi một tình yêu nảy sinh là một tiềm năng biến đổi ngưỡng vọng hạnh phú.

Chúa Giêsu đã giao cho chúng ta một ánh sáng chiếu soi trong đêm tối: hãy bảo vệ và chở che nó. Ánh sáng đó là kho tàng lớn nhất được giao phó cho đời con.

Hãy mơ tưởng một thế giới chưa trông thấy, nhưng chắc chắn sẽ tới. Niềm hy vọng tin tưởng nơi sự hiện hữu của một việc tạo dụng trải dài cho tới sự thành toàn vĩnh viễn, khi Thiên Chúa sẽ là tất cả trong mọi người. Những người có khả năng tưởng tượng đã trao tặng cho nhân loại các khám phá khoa học và kỹ thuật. Họ đã vượt các đại dương và đã bước đi trên các vùng đất chưa có ai đặt chân tới. Các người đã vun trồng các niềm hy vọng cũng là những người đã chiến thắng nô lệ và đem lại các điều kiện sống tốt đẹp hơn trên thế giới này. ĐTC nói thêm trong bài huấn dụ:

Con hãy có trách nhiệm đối với thế giới này và cuộc sống của mỗi một người. Mỗi một bất công chống lại một người nghèo túng là một vết thương mở rộng và giảm thiểu chính phẩm giá con người. Cuộc sống không kết thúc với sự hiện hữu và trong thế giới này sẽ có các thế hệ khác tiếp nối thế hệ của chúng ta, và biết bao nhiêu thế hệ khác nữa.

** Con hãy xin Thiên Chúa ban cho con ơn can đảm. hãy nhớ rằng Chúa Giêsu đã chiến thắng nỗi sợ hãi cho chúng ta: kẻ thù quấy phá nhất cũng không thể làm gì nổi chống lại đức tin. Và khi con cảm thấy sợ hãi trước vài khó khăn nào đó, hãy nhớ rằng không  sống nó cho chính mình. Trong Bí tích Rửa Tội cuộc sống của con đã được nhận chìm trong mầu nhiệm của Thiên Chúa Ba Ngôi, và con thuộc về Chúa Giêsu. Và nếu một ngày kia hoảng sợ xâm lấn con, hay con nghĩ rằng sự dữ quá lớn để có thể đương đầu, hãy đơn sơ nghĩ rằng Chúa Giêsu sống trong con. Chính Ngài, qua con, với sự hiền dịu của Ngài, muốn khuất phục mọi kẻ thù của con người: tội lỗi, thù hận, tội phạm, bạo lực.

Con hãy luôn luôn can đảm đối với sự thật, nhưng hãy nhớ rằng con không cao hơn ai hết. Nếu con có là người cuối cùng tin nơi sự thật đi nữa, đừng vì đó mà trốn chạy sự đồng hành của con người. Cả khi con có sống trong một tịch liêu tĩnh lặng, con cũng mang trong tim các nỗi khổ đau của mọi thụ tạo. Hãy là kitô hữu và hãy phó thác mọi sự cho Thiên Chúa trong lời cầu nguyện.

Hãy vun trồng các lý tưởng. Hãy sống cho điều gì đó cao vượt hơn con người. Và nếu một ngày kia các lý tưởng này có đòi hỏi con một giấy tính sổ đắt giá phải trả, đừng bao giờ ngừng giữ các lý tưởng đó trong tim. Sự trung thành có được tất cả.  

Nếu con lầm lỗi, hãy đứng lên: không có gì nhân bản hơn là phạm các lỗi lầm. Và chính các lỗi lầm ấy không được trở thành một nhà tù cho con. Con Thiên  Chúa đã đến không phải cho người lành mạnh, nhưng cho người đau yếu: vì vậy Ngài cũng đến cho con nữa. Và nếu con sẽ còn sai lầm nữa trong tương lai, đừng sợ hãi, hãy đứng lên! Thiên Chúa là bạn của con.

Nếu cay đắng đánh trúng con, hãy tin chắc chắn rằng trong tất cả mọi người con hoạt động cho sự thiện: trong sự khiêm nhường của họ có hạt giống của một thế giới mới. Hãy giao du  với những người đã giữ gìn được con tim như con tim của một trẻ thơ. Hãy học hỏi từ sự tuyệt diệu này, hãy vun trồng sự kinh ngạc. Hãy sống, hãy yêu.

ĐTC đã chào nhiều đoàn hành hương trong số 40,000 tín hữu hiện diện tại quảng trường thánh Phêrô, trong đó có hai đoàn hành hương Việt Nam, gồm các tín hữu đến từ Úc và Mỹ.

Trong số các đoàn hành hương nói tiếng Pháp ĐTC đặc biệt chào các nhóm Giáo Hoàng Truyền giáo do ĐC Patrick Le Gal hướng đẫn. Ngài cũng chào các đoàn hành hương  đến từ Anh quốc, Êcốt, Ailen, Đan Mạch, Na Uy, Ghana, Nigeria, Uganda, Australia, Ấn Độ, Indonesia, Philippines và Hoa Kỳ, cách riêng các tân chủng sinh trường Anh tại Roma và các bác sĩ và nhân viên y tế. Ngài khích lệ họ tôn trọng và che chở sự sống trước các thách đố cấp bách của xã hội ngày nay.

Trong số các nhóm tiếng Đức ngài chào các sinh viên trường Canisianum Innsbruck và các học sinh trung học Bad Essen, và xin họ làm chứng cho Chúa Kitô trong cuộc sống hàng ngày.

Chào các nhóm nói tiếng Bồ Đào Nha ĐTC nhắc tới các đoàn hành hương Brasil, nhóm các ân nhân, chuyên viên lịch sử in ấn bộ sách văn hoá “Bồ Đào Nha Công Giáo”.

Chào các đoàn hành hương Ba Lan ĐTC nói thứ hai vừa qua họ đã mừng lễ thánh Stanislao Kostka, bổn mạng các trẻ em và người trẻ. Gương sống của thánh nhận nhất quyết gia nhận dòng Tên dù cha mẹ không muốn, khích lệ giới phụ huynh và người trẻ đừng khép kín đối với tiếng Chúa mời gọi.

Ngài cũng chào nhóm quân nhân Solvac tham dự cuộc hành hương của các lực lượng quân đội, do ĐC Frantisek Rábek hưóng đẫn.

Trong tiếng Ý ngài đặc biệt chào các chủng sinh đại chửng viện quốc tế Maria Mẹ Giáo Hội ở Roma, các thừa sai dòng Consolata và các nữ tu dòng Đức Bà Maria, cũng như các nữ tu Biển Đức Vetralla. Ngài cũng chào các nhóm giáo xứ, tín hữu kính thánh Charbel Maklouf, các gia đình và giám đốc các doanh nghiệp Manager Italia, Liên hiệp thể thao, các thành viên Huynh đoàn Thánh Maria hồn xác lên trời Terravecchia Serra San Bruno. Ngài cầu mong chuyến viếng thắm mộ hai thánh Tông Đồ  củng cố ý thức thuộc gia đình Giáo Hội và khích lệ họ luôn phục vụ quảng đại hơn.

Chào các bạn trẻ người đau yếu và các đôi tân hôn ĐTC nhắc cho mọi người biết hôm nay lễ kính thánh sử Mátthêu Tông đồ. Sự hoán cải của thánh nhân là gương sáng cho người trẻ sống theo các tiêu chuẩn đức tin, người đau yếu tín thác mọi khổ đau cho Chúa và các cặp vợ chồng mới cuới sống theo luận lý của tình yêu trong cuộc sống gia đình.

Buổi tiếp kiến đã kết thúc với Kinh Lạy Cha và phép lành Toà Thánh ĐTC ban cho mọi người.

Linh Tiến Khải

Đức Thánh Cha tái lên án nạn lạm dụng trẻ em

Đức Thánh Cha tái lên án nạn lạm dụng trẻ em

VATICAN. ĐTC tái lên án nạn lạm dụng tính dục trẻ vị thành niên là tội ác, đồng thời mời gọi toàn thể Giáo Hội tích cực bài trừ tệ nạn này.

Ngài đưa ra lời kêu gọi trên đây trong buổi tiếp kiến sáng 21-9-2017, dành cho Ủy ban Tòa Thánh bảo vệ trẻ em gồm 18 người, nhóm họp tại Roma trong những ngày này dưới quyền chủ tọa của ĐHY Chủ tịch Sean O'Malley, cũng là TGM giáo phận Boston.

ĐTC khẳng định rằng ”Xì căng đan lạm dụng tính dục thực là một sự tàn hại kinh khủng cho toàn nhân loại, nó làm thương tổn bao nhiêu trẻ em, người trẻ và những người lớn dễ bị tổn thương tại tất cả các nước và trong mọi xã hội. Cả Giáo Hội cũng đã trải qua kinh nghiệm rất đau thương. Chúng ta cảm thấy tủi hổ vì những tội lạm dụng do các thừa tác viên thánh chức phạm, những người mà lẽ ra họ phải là những người đáng tín nhiệm nhất”.

ĐTC cũng thẳng thắn nói rằng ”Lạm dụng tính dục là một tội ác đáng kinh tởm, hoàn toàn trái nước và mâu thuẫn với điều mà Chúa Kitô và Giáo hội dạy chúng ta.. Một lần nữa tôi lập lại rằng Giáo hội, ở mọi cấp độ, sẽ áp dụng các biện pháp một cách nghiêm ngặt nhất đối với những người đã phản bội ơn gọi và lạm dụng các con cái của Thiên Chúa. Các biện pháp kỷ luật mà các Giáo Hội địa phương đã chấp nhận phải được áp dụng cho tất cả những người làm việc trong các tổ chức của Giáo Hội. Tuy nhiên trách nhiệm đầu tiên chính là của các GM, LM, và tu sĩ là những ngừơi đã nhận ơn gọi từ Chúa, dâng hiến đời mình để phục vụ, cảnh giác bảo vệ tất cả những trẻ em, người trẻ và người lớn dễ bị tổn thương”. (Rei 21-9-2017)

G. Trần Đức Anh OP

 

Tự sắc mới lập Học Viện Gioan Phaolô 2 hôn nhân gia đình

Tự sắc mới lập Học Viện Gioan Phaolô 2 hôn nhân gia đình

VATICAN. ĐTC đã ban hành Tông thư tự sắc thành lập Giáo Hoàng Học Viện Gioan Phaolô 2 về hôn nhân và gia đình.

Tự sắc mới mang tựa đề ”Summa Familiae cura” (Săn sóc tối đa cho gia đình), mang chữ ký của ĐTC ngày 8-9 vừa qua và bắt đầu có hiệu lực từ ngày đăng trên báo ”Quan sát viên Roma” tức là từ ngày hôm qua 19-9-2017.

Học viện mới thay thế cho Giáo Hoàng Học Viện Gioan Phaolô 2 về Hôn nhân và gia đình được lập và hoạt động cạnh Giáo Hoàng Đại Học Laterano ở Roma. Lý do khiến ĐTC Phanxicô quyết định thành lập Học Viện mới vì ”sự thay đổi về nhân học và văn hóa, ảnh hưởng tới mọi khía cạnh của đời sống, đòi phải có một lối tiếp cận phân tích và khác, chứ không phải chỉ giới hạn vào những thực hành mục vụ và sứ mạng phản ánh những hình thức và kiểu mẫu quá khứ. Chúng ta phải là những người giải thích có ý thức và say mê về sự khôn ngoan đức tin trong một bối cạnh trong đó con người ít được nâng đỡ hơn so với trước đây, nhờ những cơ cấu xã hội, trong đời sống tình cảm và gia đình của họ. Vì thế, với chủ ý rõ rệt trung thành với giáo huấn của Chúa Kitô, với sự hiểu biết yêu thương và óc thực tiễn khôn ngoan, chúng ta phải nhìn thực tại gia đình ngày nay, với tất cả sự phức tạp, những điểm sáng và điểm tối”.

ĐTC cũng khẳng định rằng Học viện mới về hôn nhân và gia đình sẽ mở rộng lãnh vực quan tâm, theo những điều kích mới của công tác mục vụ và sứ mạng của Giáo Hội, cũng như tham chiếu những phát triển của các khoa nhân văn và nền văn hóa nhân học ngày nay trong lãnh vực rất quan trọng đối với nền văn hóa sự sống”.

Trong phần 2 của Tự Sắc, có 6 điều khoản qui định về vị thế pháp lý của Học Viện mới, tương quan với Huấn quyền và các cơ quan Tòa Thánh như Bộ giáo dục Công Giáo, Bộ Giáo dân, Gia đình và Sự sống, và Hàn lâm viện Tòa Thánh về sự sống (Rei 19-9-2017)

G. Trần Đức Anh OP 

 

Đức Thánh Cha kêu gọi các Giám Mục Nhật Bản

Đức Thánh Cha kêu gọi các Giám Mục Nhật Bản

TOKYO. ĐTC kêu gọi các GM Nhật Bản đẩy mạnh sứ mạng làm ”muối đất và ánh sáng” tại đất nước này mặc dù Giáo Hội tại đây chỉ là một cộng đoàn bé nhỏ.

Ngài bày tỏ lập trường trên đây trong thư gửi HĐGM Nhật nhân dịp cuộc viếng thăm của ĐHY Fernando Filoni, Tổng trưởng Bộ Truyền giáo, đến viếng thăm Giáo Hội tại Nhật bản trong 9 ngày, từ 17 đến 26-9-2017.

Sau khi nhắc đến tấm gương của các vị tử đạo và các vị tuyên xưng đức tin trong lịch sử Giáo Hội tại Nhật, ĐTC nhắn nhủ các GM nước này rằng:

”Anh em thân mến, những thách đố mà thực tại hiện nay đề ra cho chúng ta không thể làm cho chúng ta cam chịu và càng không thể nại tới một cuộc đối thoại hòa hoãn và làm tê liệt, cho dù một vài tình trạng khó khăn tạo nên nhiều lo âu”.

ĐTC nhắc nhở các GM Nhật quan tâm huấn luyện kỹ lưỡng cho các chủng sinh và tu sĩ, đồng thời coi các phong trào Giáo Hội đã được Tòa Thánh phê chuẩn như một trợ lực truyền giáo và đẩy mạnh việc làm chứng tá.

Trong những năm qua, HĐGM Nhật Bản đã phản đối và cấm một số Phong trào đã được Tòa Thánh chấp nhận, như Con đường Tân Dự Tòng, vì cho rằng các thành viên phong trào này quá hăng hái hoạt động truyền giáo, không hợp với tinh thần văn hóa của Nhật.

Theo một phóng sự hồi tháng 2 năm nay của báo Công Giáo Pháp La Croix, số tín hữu Công Giáo tại Nhật chỉ có 450 ngàn người, tương đương với 0,36% dân số 120 triệu người tại nước này. Các cuộc trở lại Công Giáo rất hiếm và cộng đoàn tại đây có nguy cơ tàn lụi. Trong năm ngoái, 2016, chỉ có 1 người trẻ gia nhập chủng viện. Trong số 1800 LM đang hoạt động tại Nhật, có 519 vị tức là gần 1 phần 3 là người nước ngoài. Cả nước có 13 giáo phận và 3 tổng giáo phận.

Cuộc viếng thăm của ĐHY Filoni, Tổng Trưởng Bộ Truyền Giáo

Về chương trình viếng thăm của ĐHY Filoni, Tổng trưởng Bộ truyền giáo, hôm 18-09-2017, ngài viếng thăm Đại chủng viện Fukuoka và cử hành thánh lễ tại đây. Thứ ba, 19-9, ĐHY Filoni đến Nagasaki, gặp gỡ các LM, tu sĩ và giáo dân, các tiền chủng sinh vào ban sáng, rồi cử hành thánh lễ ban chiều tại Nhà thờ chính tòa địa phương. Hôm sau, 20-9, ĐHY sẽ gặp các GM vùng Nagasaki trước khi đến Hiroshima, viếng đài kỷ niệm hòa bình và bom nguyên tử. Tại thành phố này, ĐHY Filoni cũng gặp các LM, tu sĩ và giáo dân, trước khi cử hành thánh lễ tại Nhà thờ chính tòa.

Trong những ngày sau đó, ĐHY sẽ viếng thăm và cử hành thánh lễ tại Sendai ở mạn bắc, nơi đã xảy ra nạn động đất và sóng thần. Thứ bẩy 23-9, ĐHY đến thủ đô Tokyo, cử hành thánh lễ, và hôm sau viếng thăm đại học Công Giáo Sofia, gặp các LM, tu sĩ, chủng sinh và cùng với các GM Nhật Bản cử hành thánh lễ tại Nhà thờ chính tòa thủ đô.

Thứ hai 25-9, ĐHY Filoni sẽ thuyết trình và trao đổi với các GM rồi ngày hôm sau lên đường trở về Roma.

Trong cuộc phỏng vấn dành cho hãng tin Fides của Bộ truyền giáo, Đức Cha Isao Kikuchi, dòng Ngôi Lời, GM giáo phận Niigata, nói rằng: ”Chúng tôi hy vọng cuộc viếng thăm của ĐHY Filoni là một khích lệ cho Cộng đoàn Công Giáo bé nhỏ của chúng tôi. ĐHY sẽ có dịp thấy và biết thực tại của Giáo Hội và xã hội Nhật Bản.”

”Trong số những thách đố chính Giáo Hội tại Nhật đang gặp phải có tình trạng xã hội tại đây ngày càng già nua và cả nhân sự của Giáo Hội cũng ở trong tình trạng đó, và nhiều khi gặp khó khăn trong việc điều hành các giáo xứ. Ngoài ra, số người Công Giáo nhập cư tại Nhật ngày càng gia tăng và việc săn sóc mục vụ cho họ trở thành một công tác cấp thiết và đòi nhiều cố gắng; tiếp đến chúng tôi chứng kiến tình trạng ơn gọi LM và tu sĩ giảm sút. Hiện tượng này có căn cội xã hội và nhân học, phản ánh thực tại trong xã hội Nhật Bản, việc thực hành đạo ngày càng giảm bớt trong đời sống vội vã của con người. Chúng tôi hy vọng cuộc viếng thăm của ĐHY Tổng trưởng Bộ truyền giáo giúp soi sáng trong hành trình của chúng tôi”. (Fides 16-9-2017)

G. Trần Đức Anh OP 

 

 

Đồng cảm và giúp đỡ những ai đang khổ đau

Đồng cảm và giúp đỡ những ai đang khổ đau

Đồng cảm, tiến đến, trở lại: Xin Chúa ban ơn sủng, để chúng ta có thể đồng cảm trước khổ đau của biết bao người, để chúng ta có thể tiến đến gần họ, và với đôi tay của mình, chúng ta đưa những anh chị em ấy trở lại với phẩm giá mà Thiên Chúa muốn ban cho họ. Đức Thánh Cha chia sẻ như thế trong thánh lễ sáng nay tại nhà nguyện Marta.

Lòng trắc ẩn

Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu động lòng thương, tiến lại gần và làm cho con trai duy nhất của bà góa thành Naim được sống lại. Trong Cựu Ước, những người bé nhỏ nhất là các cô nhi, quả phụ, những khách ngoại kiều, những người xa lạ. Chúng ta được mời gọi quan tâm chăm sóc những con người ấy, để giúp họ có thể hòa nhập vào xã hội. Chúa Giêsu là người có khả năng nhìn vào từng chi tiết của cuộc sống với trái tim từ bi thương xót. Chúa nhìn thấu trái tim con người.

Chạnh lòng thương, đồng cảm là sự rung cảm của con tim và không hề có chút gì mang tính loại trừ. Trong sự đồng cảm, trong lòng trắc ẩn, không có chỗ cho những thứ tựa như sự trừng phạt, cũng không có sự phân biệt kiểu như: Đúng là đồ tội lỗi nghèo hèn! Sự đồng cảm, lòng trắc ẩn thì bao gồm mọi người. Động lòng thương có nghĩa là cùng đau khổ, cùng sẻ chia nỗi đau với người khác.

Trong câu chuyện của bài Tin Mừng, Chúa nhìn đến, Chúa động lòng trắc ẩn, Chúa hướng tới bà góa ấy đang đau khổ vì mất đứa con duy nhất. Tại sao có cả một đám đông vây quanh mà Chúa không để tâm để ý? Bởi vì Chúa là Đấng từ bi thương xót. Bởi vì với Chúa, những con người bé nhỏ thì vô cùng quan trọng. Những con người bé nhỏ ấy luôn hiện diện trong trái tim Chúa. Bởi vì luôn luôn có mối dây liên kết giữa trái tim Chúa với những con người ấy.

Không nhìn từ xa

Từ lòng trắc ẩn, từ cái chạnh lòng thương ấy, Chúa tiến đến, Chúa tiếp cận những con người khổ đau. Bạn có thể thấy nhiều điều, nhưng bạn không đi tới. Còn Chúa thì khác, Người không nhìn từ xa nhưng Người đi tới và chạm vào thực tế của cuộc sống, thực tế của kiếp nhân sinh. Khi đến nơi, Chúa không nói: “Chào tạm biệt nhé, tôi sẽ tiếp tục hành trình của tôi”. Không. Chúa không nói thế. Chúa an ủi bà góa: Đừng khóc nữa! Chúa làm cho anh thanh niên sống lại. Chúa trao anh thanh niên cho bà mẹ. Như thế, việc của Chúa là chạnh lòng thương, là cứu chuộc con người, là đưa con người trở lại phẩm giá cao quý. Chúa đã tái sinh tất cả chúng ta.

Hãy làm như thế theo gương Chúa Kitô. Hãy đến với những ai đang cần, đừng giúp họ bằng cách đứng nhìn từ xa vì chê họ dơ bẩn. Đừng quên họ dơ bẩn vì họ thiếu nước, vì họ không được tắm. Chúng ta thường xem tin tức, đọc báo, nhưng hãy nhìn coi: các trẻ em ấy không có gì để ăn, các trẻ em phải trở thành chiến binh, các phụ nữ phải trở thành nô lệ. Chúng ta có thể nói: Ôi, thật là tệ hại! Ôi thật đáng thương những con người nghèo khổ! Sau đó chúng ta chuyển sang các trang khác, ví dụ các cuốn tiểu thuyết. Nếu chỉ như thế, thì không phải là một Kitô hữu.

Xin ơn biết cảm thương

Ngay bây giờ, tôi cần tự hỏi chính mình rằng: Tôi có lòng trắc ẩn hay không? Tôi có cầu nguyện về điều ấy không? Khi tôi thấy những con người khổ đau trên các phương tiện truyền thông, tôi có bị đụng chạm hay không, tâm hồn tôi có động lòng thương hay không? Nếu bạn không hề cảm thấy gì, nếu bạn không động lòng trắc ẩn, thì hãy xin Chúa tha thứ cho bạn với lời nguyện: “Lạy Chúa, xin ban cho con ơn biết chạnh lòng thương!”.

Với lời cầu nguyện, với những công việc phục vụ, là các Kitô hữu, chúng ta phải có khả năng giúp đỡ những ai đang đau khổ, để trả lại cho họ cuộc sống xã hội, trả lại cho họ cuộc sống gia đình, trả lại cho họ công ăn việc làm; nói ngắn gọn đó là cuộc sống thường ngày.

Tứ Quyết SJ

Cầu nguyện cho các nhà lãnh đạo, ngay cả khi họ xấu xa

Cầu nguyện cho các nhà lãnh đạo, ngay cả khi họ xấu xa

Các Kitô hữu luôn cầu nguyện cho các nhà lãnh đạo, ngay cả khi các vị lãnh đạo gặp phải sai lầm. Các vị lãnh đạo cũng phải cầu nguyện, vì nếu không, có nguy cơ họ chỉ khép kín trong lợi ích riêng của nhóm họ. Nhà lãnh đạo có lương tâm là người biết đặt mình trước người dân, đặt mình trước mặt Chúa, và biết cầu nguyện. Đức Thánh Cha chia sẻ như thế trong thánh lễ sáng nay tại nhà nguyện Marta.

Nếu không cầu nguyện

Trong bài đọc thứ nhất, thánh Phaolô khuyên ông Timôthê hãy cầu nguyện cho các nhà lãnh đạo. Trong bài Tin Mừng, có vị lãnh đạo biết cầu nguyện. Ông nài xin Thầy Giêsu cứu chữa cho người đầy tớ của ông đang bị đau ốm. Ông yêu mến người dân của ông, cho dù họ là người xa lạ. Ông yêu mến người đầy tớ, và thực sự ông rất lo lắng cho người ấy.

Viên sĩ quan ấy cảm thấy là cần cầu nguyện. Ông cầu nguyện không chỉ bởi vì ông yêu mến, nhưng còn vì ông hiểu rõ rằng, ông không làm chủ mọi sự. Ông biết có những người ở trên ông. Ông biết có ai khác truyền lệnh cho ông. Ông biết mình có những thuộc hạ và lính tráng, và ông cũng biết chính bản thân mình cũng thuộc quyền người khác. Vị sĩ quan này nhận thức rất rõ về bản thân, và ông cầu nguyện.

Nếu ông không cầu nguyện, có nguy cơ là ông chỉ tự khép kín nơi bản thân, nơi lợi ích nhóm của đảng phái, nơi những cái vòng luẩn quẩn không thể thoát ra. Nhưng không, ông cầu nguyện, ông nhận thức rõ thân phận con người của bản thân. Khi ấy, ông nhận thấy những vấn đề thực sự là gì, ông nhận thấy có Đấng có sức mạnh hơn ông. Ông nhận thấy Đấng có thể ban cho ông sức mạnh, một sức mạnh đến từ Thiên Chúa. Do đó, ông cầu nguyện.

Ơn khôn ngoan

Lời cầu nguyện của ông rất quan trọng, vì đó là lời cầu nguyện hướng về tha nhân, hướng về người dân, hướng về người thuộc hạ của ông. Có nhà lãnh đạo nọ, ngày nào cũng dành hai tiếng đồng hồ để cầu nguyện trong thinh lặng trước mặt Chúa, cho dù ông rất bận rộn. Cần phải biết cầu xin ơn sủng của Chúa để biết cai quản tốt như Vua Salomon đã làm. Vua đã không xin Chúa ban vàng bạc hay của cải, nhưng xin ơn khôn ngoan để biết cai quản.

Các nhà lãnh đạo cần cầu nguyện, cần xin ơn ấy, để họ có thể làm việc trong sáng trước mặt Chúa và vì ích lợi cho dân. Để họ không chỉ dừng lại trong lợi ích nhóm hoặc tư lợi. Nếu bạn không thể cầu nguyện, thì ít ra hãy làm hãy sống với lương tâm bạn. Có nghĩa là, đừng tự tham chiếu chính mình, đừng lấy mình làm trung tâm, đừng chỉ biết vun vén lợi ích cho nhóm mình, cho đảng phái của mình mà thôi.

Nếu khó cầu nguyện

Thánh Phaolô mời gọi các tín hữu cầu nguyện cho các nhà lãnh đạo, để mọi người dân được sống trong bình yên và trong tinh thần đạo đức. Tuy nhiên, nếu vị lãnh đạo làm điều gì đó mà ta không thích, hoặc vị lãnh đạo ấy chỉ biết lo cho đảng phải của ông ta, thì sao?

Có người nói: Tôi đã bỏ phiếu chọn ông ta. Người khác nói: Tôi đã không chọn người ấy. Thế nhưng, chúng ta đừng để vị lãnh đạo ấy một mình, chúng ta cần đồng hành với họ bằng lời cầu nguyện. Các Kitô hữu cần cầu nguyện cho các nhà lãnh đạo. Nhưng thưa cha, con phải cầu nguyện thế nào đây? Con phải cầu nguyện làm sao cho những kẻ lãnh đạo đã gây ra bao nhiêu điều tệ hại xấu xa? Nếu thế, con cần cầu nguyện nhiều hơn nữa, hơn nữa. Cầu nguyện để làm gì! Đó là để người dân có được cuộc sống bình yên tốt lành.

Xin anh chị em hãy dành ra năm phút, không nhiều hơn năm phút, để suy xét xem. Nếu là một nhà lãnh đạo, tôi tự hỏi: Tôi có cầu nguyện về những gì được trao cho tôi hay không, về quyền mà người dân trao cho tôi? Nếu không phải là nhà lãnh đạo, tôi tự hỏi: Tôi có cầu nguyện cho các vị lãnh đạo hay không? Cầu nguyện cho những vị tôi thích. Và với những vị lãnh đạo tôi không thích, tôi càng cần cầu nguyện nhiều hơn. Nếu tôi nhận thấy, bản thân không cầu nguyện cho các vị lãnh đạo, tôi có thể đi xưng tội về điều ấy. Tại sao tôi lại không cầu nguyện cho các vị lãnh đạo, trong khi đó là công việc của lòng xót thương.

Tứ Quyết SJ

Phần hai bài phỏng vấn ĐTC Phanxicô trên máy bay từ Colombia về Roma

Phần hai bài phỏng vấn ĐTC Phanxicô trên máy bay từ Colombia về Roma

Ngày 11 tháng 9 vừa qua trên chuyến bay từ Cartagena bên Colombia về Roma ĐTC Phanxicô đã dành cho các nhà báo quốc tế một cuộc phỏng vấn dài về nhiều vấn đề của Colombia cũng như các vấn đề quốc tế. Sau đây chúng tôi xin gửi tới quý vị nội dung phần hai bài phỏng vấn này.

Sau các câu hỏi của các nhà báo Cesar Moreno, José Mujica, Hernan Reyes, và Elena Pinardi, tới phiên anh Enzo Romeo.

Hỏi: Con xin chào ĐTC, con tiếp câu hỏi của chị Elena. Tại sao trong các bài diễn văn tại Colombia ĐTC đã lại nhiều lần nói đến việc cần phải làm hoà với Thụ tạo, tôn trọng môi sinh như điều kiện cần thiết để có thể tạo ra một nền hoà bình xã hội ổn định. Và chúng ta trông thấy các hậu quả cuả sự kiện khí hậu thay đổi cả tại Italia nữa. Con không biết ĐTC có biết tin không đã có nhiều người chết tại tỉnh Livorno vì nước lũ và bùn.

Đáp: Có… sau ba tháng rưỡi không có mưa…

Hỏi: Vâng đúng thế. Tại Roma thì có biết bao nhiêu là thiệt hại… vì thế chúng ta tất cả đều bị liên lụy trong tình trạng này. Nhưng mà tại sao lại có sự chậm trễ trong việc ý thức như vậy, nhất là từ phía các chính quyền, mà xem ra họ lại nhanh chóng đến thế trong các lãnh vực khác – luôn luôn liên quan tói vấn đề vũ trang: chúng ta đang trông thấy thí dụ như cuộc khủng hoảng của Đại Hàn, cả liên quan tới vấn đề này con cũng thích có được ý kiến của ĐTC…

Đáp: Tại sao? Tôi nhớ tới một câu trong Thánh Kinh Cựu Ước, tôi tin là của Thánh Vịnh: “Con người là một đứa ngu dại, là một tên cứng đầu không trông thấy”. Con con vật duy nhất của Thụ Tạo đặt chân vào cùng một cái lỗ là con người. Con ngựa và các con vật khác thì không làm điều đó. Có sự kiêu căng, sự tự đủ… “Không, nó không biết như vậy…” và rồi có ông thần Túi. Không phải chỉ liên quan tới Thụ Tạo mà thôi đâu, nhưng đối với biết bao nhiêu điều, biết bao nhiêu quyết định, biết bao nhiêu mâu thuẫn và vài mâu thuẫn này tuỳ thuộc tiền bạc. Hôm nay tại Cartagena tôi đã bắt đầu một đàng gọi nó là phần Cartagena nghèo nàn đáng thương. Nghèo nàn đáng thương. Đàng khác là phần du lịch, sang trọng và sang trọng vô chừng mực luân lý, chúng ta hãy nói thế. Mà những người đi tới đó họ không nhận ra điều này sao? Hay các chuyên viên phân tích, các nhà xã hội chính trị không nhận ra sao? “Con người là một kẻ ngu si” Thánh Kinh đã nói thế. Và như vậy khi người ta không muốn trông thấy, thì họ không trông thấy. Người ta chỉ nhìn từ một phía thôi. Tôi không biết, và liên quan tới Bắc Hàn tôi xin nói thật, tôi không hiểu, tôi thật sự không hiểu. Nhưng tôi tin là đối với điều tôi thấy thì có sự tranh giành lợi lộc vượt thoát khỏi tôi, tôi thực sự không giải thích được. Nhưng có điều khác quan trọng mà người ta không ý thức được. Tôi nghĩ tới Cartagena hôm nay. Nhưng đây là điều bất công và người ta có thể ý thức không? Đó là điều đến trong trí tôi. Xin cám ơn anh.

** Ông Burke nói: bây giờ tới phiên chị Valentina Alazraki.

ĐTC nói: A, chị trưởng nhóm…

Chị Valentina hỏi ĐTC ra sao, có đau không?

Đáp: Không, không đau, nó chỉ làm tôi bầm mắt thôi.

Hỏi: Nhưng chúng con lấy làm tiếc cả khi nó không làm ĐTC đau. Thưa ĐTC mỗi lần gặp giới trẻ tại bất cứ phần đất nào trên trái đất này ĐTC luôn luôn nói với họ: “Các bạn đừng để cho niềm hy vọng bị ăn trộm, đừng để mình bị lấy trộm đi niềm vui và tương lai”. Rất tiếc bên Hoa Kỳ luật của “những người mơ mộng” đã bị huỷ bỏ: chúng ta đang nói tới 800,000 người trẻ Mexico, Colombia, và của biết bao nhiều quốc gia khác. ĐTC không tin rằng với luật này, với việc huỷ bỏ này các bạn trẻ này mất đi niềm vui, niềm hy vọng và tương lại hay sao? Thề rồi lợi dụng lòng tử tế của ĐTC và của các đồng nghiệp, con không biết ĐTC có thể đọc một lời cầu nguyện nhỏ, có một tư tưởng nhỏ cho tất cả các nạn nhân động đất tại Mexico và của cuồng phong Irma không? Con xin cám ơn ĐTC.

Đáp:  Thật không…. vâng tôi hỏi không biết chị nói về luật nào thế. Tôi đã nghe nói tới luật này, nhưng tôi đã không thể đọc các bài viết và người ta đã quyết định như thế nào. Tôi không biết rõ luật này, nhưng mà trước hết tách rời người trẻ khỏi gia đình không phải là một điều cho kết quả tốt: không tốt cho người trẻ, cũng không tốt cho gia đình, Tôi nghĩ rằng  luật này không đến từ Quốc hội nhưng từ Ban hành pháp và nếu là như thế – nhưng mà tôi không chắc – thì có hy vọng là người ta nghĩ lại một chút. Bởi vì tôi đã nghe tông thống Mỹ nói chuyện: ông ta trình diện như một người bênh vực sự sống, và nếu ông là một người phò sự sống giỏi, thì ông hiểu rằng gia đình là chiếc nôi của sự sống, và phải bênh vực sự hiệp nhất của nó. Vì thế tôi muốn nghiên cứu kỹ lưỡng luật này. Nhưng đúng thật là khi người trẻ cảm thấy – nói chung trong trường hợp này hay trong các trường hợp khác – khi người trẻ cảm thấy họ bị khai thác, như trong biết bao nhiêu trường hợp, thì sau cùng họ cảm thấy không có hy vọng. Và ai ăn cắp niềm hy vọng ? Đó là ma tuý, các tuỳ thuộc khác, tự tử… Người trẻ tự tử là sự kiện rất mạnh, và nó xảy ra, khi họ bị giật khỏi các gốc rễ. Thật rất quan trọng tương quan của một người trẻ với các gốc rễ của họ. Ngày nay các người trẻ bị bứng gốc kêu cứu: họ muốn tìm trở lại gốc rễ của họ. Chính vì thế tôi nhấn mạnh rất nhiều trên cuộc đối thoại giữa các người trẻ và người già… bởi vì ở đó có các gốc rễ, và chúng ở xa hơn một chút, để tránh các xung khắc có thể có với các gốc rễ gần hơn như gốc rễ của cha mẹ. Nhưng giới trẻ ngày nay cần tìm lại được các gốc rễ. Bất cứ điều gì đi ngược lại các gốc rễ, thì ăn cắp niềm hy vọng. Tôi không biết tôi đã trả lời ít nhiều cho câu hỏi của chị chưa.

Hỏi: Họ có thể bị đầy khỏi Hoa Kỳ thưa ĐTC…

Đáp: Vâng, vâng: họ mất đi một gốc rễ… Đây là một vấn đề. Nhưng thật thế tôi không muốn có ý kiến liên quan tới luật này, bởi vì tôi đã không đọc nó và tôi không thích nói về điều mà tôi đã không nghiên cứu trước. Thế rồi chị Valentina là người Mexico và đất nước Mexico đã đau khổ biết bao nhiêu,  và với chuyện cuối cùng này tôi xin tất cả mọi người vì tình liên đới với chị trưởng nhóm – và có một anh trưởng nhóm khác nữa ở đầu kia – tôn xin một lời cầu nguyện cho quê hương của chị. Xin cám ơn.

** Ông Burke nói : Xin cám ơn ĐTC. Bây giờ tới phiên anh Fausto Gasparroni của hãng thông tấn ANSA

Hỏi : Thưa ĐTC, nhân danh nhóm các nhà báo nói tiếng Ý con muốn hỏi một câu liên quan tới vấn đề của người di cư, cách riêng sự kiện mà Giáo Hội Italia mới đây đã nói lên – chúng ta hãy nói như thế – một loại cảm thông đối với chính sách mới của chính quyền là thắt chặt vấn đề các cuộc khởi hành từ Libia và như vậy thắt chặt các vụ đổ bổ vào Italia. Người ta cũng viết rằng đã có một cuộc gặp gỡ của ĐTC với ngoại trưởng Gentiloni. Chúng con muốn biết đề tài này đã có thực sự được đề cập tới trong cuộc gặp gỡ này hay không, đã có cuộc gặp gỡ hay không và đề tài có được nói tới hay không, và nhất là ĐTC nghĩ gì về đường lối chính trị đóng các cuộc khởi hành này, cũng để ý đến sự kiện các người di cư ở trên đất Libia – như đã được các cuộc điều tra chứng minh – họ phải sống trong các điều kiện vô nhân, trong các điều kiện vô cùng bấp bênh. Con xin cám ơn ĐTC.

Đáp : Trước hết cuộc gặp gỡ với Bộ trưởng Gentiloni đã là một cuộc gặp gỡ cá nhân và không liên quan tới đề tài này. Cuộc gặp gỡ đã xảy ra trước vấn đề. Vấn đề đã nảy sinh sau vài tuần, hầu như một tháng sau. Nghĩa là truớc khi có vấn đề.

Thứ hai, tôi cảm thấy có bổn phận biết ơn hai nước Italia và Hy Lạp, vì họ đã mở rộng con tim cho người di cư. Nhưng mở rộng con tim thôi không đủ. Vấn đề của người di cư là trước hết rộng mở con tim, luôn luôn rộng mở con tim. Vì đó cũng là một điều răn của Chúa dậy tiếp đón họ, « vì ngươi đã là nô lệ, di cư bên Ai Cập », Thánh Kinh nói thế. Nhưng một chính quyền phải diều hành vấn đề này với nhân đức riêng của người cai trị, nghĩa là với sự thận trọng. Nó có nghĩa là gì ? Trước hết : tôi có bao nhiêu chỗ ? Thứ hai : không chỉ tiếp nhận họ, nhưng phải sát nhập họ vào cuộc sống. Sát nhập họ. Tôi đã trông thấy biết bao nhiêu thí dụ – ở Italia này – các thí dụ hội nhập rất tốt đẹp ; Khi tôi đến thăm đại học Roma III, đã có 4 sinh viên hỏi tôi ; chị sinh viên cuối cùng đưa ra câu hỏi. Tôi nhìn chị, và gương mặt này tôi biết mà. Và chị là bạn trẻ gần một năm trước đến từ đảo Lesbo với tôi trong cùng chuyến bay. Chị đã học tiếng, và vì chị đã học môn sinh học tại nước của chị, nên chị đã xin được công nhận ngang hàng với chương trình tại Italia và đã tiếp tục học. Chị đã học tiếng Ý… điều này gọi là hội nhập. Trong một chuyến bay khác khi tôi từ Thụy Điển trở về,  tôi tin thế, tôi đã nói về chính sách hội nhập của Thụy Điển như một mô thức, và cả chính quyền Thụy Điển cũng đã nói : « Con số là thế này. Nhiều hơn thì tôi không thể nhận », bởi vì có nguy cơ không hội nhập. Thứ ba, có một vấn đề nhân đạo, là vấn đề mà anh đề cập tới. Nhân loại ý thức được các trại tập trung này, về các điều kiện mà anh nói tới trong sa mạc. Tôi đã trông thấy các hình chụp… Trước hết là các người khai thác bóc lột… Tôi tin rằng anh đã nói tới chính quyền Italia, chính quyền cho tôi cảm tưởng là đang làm tất cả cho các công tác nhân đạo là cũng giải quyết vấn đề mà họ không thể đảm trách. Nhưng con tim luôn rộng mở, thận trọng, hội nhập và gần gũi nhân đạo. Và có một điều cuối cùng, đây là điều tôi muốn nói và điều này có giá trị nhất là đối với Phi châu. Có trong tiềm thức tập thể của chúng ta một khẩu hiệu, một nguyên tắc : « Phải khai thác bóc lột Phi châu ». Hôm nay tại Cartegena  chúng ta đã trông thấy một thí dụ của việc khai thác bóc lột con người. Và một thủ tướng chính phủ đã làm và đã nói lên một sự thật rất đẹp : « Những người chạy trốn chiến tranh là một vấn đề. Nhưng có biết bao nhiêu người chạy trốn đói khát : chúng ta hãy đầu tư tại đó để cho họ lớn lên ». Nhưng trong tiềm thức tập thể có sự kiện là biết bao quốc gia phát triển sang Phi châu là để khai thác bóc lột. Và chúng ta phải lật ngược tình thế : Phi châu là bạn và cần được trợ giúp để lớn lên. Thế rồi có các vấn đề khác của chiến tranh đi theo các phe khác. Không biết với điều này tôi đã minh giải vấn đề chưa…

** Ông Burke nói còn một câu hỏi cuối cùng nữa của anh Xavier Le Normand.

Hỏi : Thưa ĐTC, hôm nay sau Kinh Truyền Tin ĐTC đã nhắc tới Venezuela. ĐTC đã nói rằng phải đẩy lui mọi loại bạo lực trong cuộc sống chính trị. Ngày thứ năm sau Thánh Lễ tại Bogota ĐTC đã chào 5 Giám Mục Venezuela. Chúng ta đều biết Toà Thánh đã và còn dấn thân rất nhiều cho một cuộc đối thoại tại nước này. Từ nhiều tháng qua ĐTC đã kêu gọi chấm dứt mọi bạo lực. Nhưng tổng thống Maduro một đàng đã có những lời lẽ rất bạo lực chống lại các Giám Mục, đàng khác ông cũng nói rằng ông đứng về phía ĐGH Phanxicô. Có thể có các lời lẽ mạnh mẽ hơn nữa và có lẽ rõ ràng hơn nũa không thưa ĐTC. Con xin cám ơn.

Đáp : Tôi tin rằng Toà Thánh đã nói rất mạnh và một cách rõ ràng. Điều mà tổng thống Maduro nói thì chính ông phải giải thích : tôi không biết tổng thống có gì trong trí ông. Nhưng Toà Thánh đã làm biết bao, đã gửi tới đó, trong nhóm làm việc của bốn nguyên tổng thống, đã gửi một Sứ Thần hàng đầu, rồi đã nói, đã nói với nhiều người, đã nói một cách công khai. Biết bao nhiêu lần trong Kinh Truyền Tin tôi đã nói về tình hình bằng cách luôn luôn tìm một lối thoát cho Venzuela và trợ giúp, bằng cách cống hiến trợ giúp để ra khỏi tình trạng này. Tôi không biết… nhưng xem ra rất khó, và điều đau lòng nhất là vấn đề nhân đạo : biết bao nhiêu người trốn chạy và khổ đau ; cũng có một vấn đề nhân đạo mà dầu sao đi nữa chúng ta cũng phải giúp giải quyết. Tôi tin rằng Liên Hiệp Quốc cũng phải lên tiếng để trợ giúp.

** Ông Burke nói : Thưa ĐTC con tin là chúng ta phải kết thúc. ĐTC hỏi : vì các dằn sóc của máy bay phải không ? Ông thưa : vâng.

ĐTC nói :

Người ta nói là có vài dằn sóc  và chúng ta phải đi về chỗ ngồi. Tôi cám ơn anh chị em, tôi cám ơn anh chị em rất nhiều vì công việc của anh chị em. Và một lần nữa tôi muốn cảm ơn gương sáng của nhân dân Colombia. Và tôi muốn kết thúc với một hình ảnh, hình ảnh đã đánh động tôi nhất nơi người Colombia, trong bốn thành phố tôi thăm viếng đã có đông dân chúng đứng hai bên đường chào đón. Điều đã đánh động tôi nhất là thấy các người cha, các bà mẹ giơ con lên cao cho chúng trông thấy Giáo Hoàng và để Giáo Hoàng chúc lành cho chúng. Như thể nói : « Đây là kho tàng của con, đây là niềm hy vọng của con, đây là tương lai của con. Con tin vào đó ». Điều đó đã đánh động tôi. Sự hiền dịu. Các đôi mắt của các người cha, các đôi mắt của các bà  mẹ. Rất đẹp. Rất đẹp ! Đây là một biểu tượng, biểu tượng của niềm hy vọng của tương lai. Một dân tộc có khả năng sinh con cái, rồi cho thấy chúng, làm cho chúng trông thấy như vậy, như thể để nói rằng : « Đây là kho tàng của tôi ». Đó là một dân tộc có niềm hy vọng và có tương lai. Xin cám ơn anh chị em rất nhiều.

** Ông Burke đại diện các nhà báo cám ơn ĐTC và chúc ngài nghỉ ngơi tốt.

Linh Tiến Khải

 

Phải luôn luôn tha thứ cho nhau

Phải luôn luôn tha thứ cho nhau

Với lòng thương xót vô bờ Thiên Chúa tha thứ cho chúng ta mọi tội lỗi vừa khi chúng ta chỉ tỏ lộ một dấu chỉ sám hối dù nhỏ bé đi nữa. Chính vì thế chúng ta cũng phải luôn luôn tha thứ cho nhau. Con người được tạo dựng nên giống hình ảnh của Thiên Chúa luôn luôn lớn hơn sự dữ nó phạm.

ĐTC Phanxicô đã nói như trên với hàng ngàn tín trong buổi đọc kinh Truyền Tin  trưa Chúa Nhật hôm qua.

Quảng diễn bài Phúc Âm kể lại dụ ngôn ông chủ quảng đại tha nợ cho người đầy tớ  van nài ông (Mt 18,21-35) ĐTC nói qua đó Chúa Giêsu không chỉ dậy chúng ta tha thứ, mà cũng thừa nhận rằng con người vì được tạo dựng nên giống hình ảnh của Thiên Chúa nên dù có phạm tội gây ra bất công, vẫn luôn luôn lớn lao hơn tội nó phạm. Thánh Phêrô hỏi: “Nếu người anh em phạm lỗi chống lại con, con phải tha cho họ bao nhiêu lần? Có phải  bẩy lần không?” (c. 21) Đối với thánh Phêrô thật đã là tột đỉnh tha cho cùng một người tới 7 lần; và đối với chúng ta có lẽ đã nhiều lắm, khi làm hai lần như thế. Nhưng Chúa Giêsu trả lời: “Thầy không bảo con bảy lần nhưng bẩy mươi lần bẩy” (.22) nghĩa là luôn luôn. Con phải tha thứ luôn luôn. Và Ngài xác nhận điều đó bằng cách kể lại dụ ngôn ông vua thương xót và người đầy tớ tàn ác, trong đó Ngài cho thấy sự không trung thực của người trước đó đã được tha nợ nhưng rồi lại khước từ tha thứ.

Ông vua của dụ ngôn là một người quảng đại, vì cảm thương nên tha một món nợ khổng lồ “mười ngàn nén bạc”- khổng lồ,  cho một đầy tớ van nài ông. Nhưng chính người đầy tớ ấy , vừa gặp một đầy tớ khác như anh nợ anh một trăm đồng – nghĩa là rất ít hơn nhiều – lại hành xử một cách không thương xót, bằng cách ném người đó vào tù. ĐTC nói:

Thái độ không trung thực của người đầy tớ này cũng là thái độ của chúng ta, khi chúng ta từ chối tha cho các người anh em của chúng ta. Trong khi ông vua của dụ ngôn là hình ảnh của Thiên Chúa là Đấng yêu thương chúng ta với một tình yêu giầu lòng thương xót như thế, đến độ tiếp đón, yêu thương và liên tục tha thứ cho chúng ta.

Ngay khi chúng ta được rửa tội Thiên Chúa đã tha thứ cho chúng ta, tha cho chúng ta một món nợ không thể trả được là tội nguyên tổ. Nhưng đây là lần đầu tiên. Rồi với một lòng thương xót vô bờ Ngài tha thứ cho chúng ta tất cả mọi lỗi lầm, vừa khi chúng ta cho thấy một dấu chỉ nhỏ của sự hối hận. Thiên Chúa là như thế: thương xót. Khi chúng ta bị cám dỗ khép kín con tim của mình với người đã xúc phạm đến chúng ta và xin lỗi chúng ta, chúng ta hãy nhớ tới các lời Thiên Chúa Cha trên trời nói với người đầy tớ không thương xót: “Ta đã tha tất cả món nợ cho ngươi vì ngươi van xin Ta. Ngươi lại không phải thương xót anh bạn của ngươi, như Ta đã thương xót ngươi hay sao?” (cc.32.33). Bất cứ ai đã sống kinh nghiệm niềm vui, sự an bình và tự do nội tâm, đến từ việc được tha thứ, thì tới lượt mình có thể rộng mở cho khả năng tha thứ.

Trong Kinh Lậy Cha Chúa Giêsu đã muốn đưa chính giáo huấn của dụ ngôn này vào. Ngài đã đặt trong tương quan trực tiếp sự tha thứ mà chúng ta xin với Thiên Chúa với sự tha thứ mà chúng ta phải trao ban cho các người anh em khác của chúng ta. “Xin tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con” (Mt 6,12). ĐTC giải thích điểm này như sau:

Sự tha thứ của Thiên Chúa là dấu chỉ tình yêu tràn bờ của Ngài đối với từng người trong chúng ta; đó là tình yêu để cho chúng ta tự do xa rời, như người con hoang đàng, nhưng chờ đợi chúng ta trở về mỗi ngày; đó là tình yêu hoạt động của người mục tử đối với con chiên lạc; đó là sự hiền dịu tiếp dón mọi người tội lỗi gõ cửa nhà Ngài.

 Thiên Chúa Cha trên trời, Cha chúng ta, tràn đầy tình yêu thương, tràn đầy tình yêu thương và muốn cống hiến nó cho chúng ta, nhưng Ngài không thể làm điều đó nếu chúng ta khép kín con tim cho tình yêu đối với các người khác.

Xin Đức Trinh Nữ Maria giúp chúng ta luôn luôn ý thức được sự nhưng không và vĩ đại của ơn tha thứ nhận được từ Thiên Chúa, để trở nên thương xót như Ngài, là Cha nhân từ, chậm giận và lớn lao trong tình yêu.

Tiếp đến ĐTC đã đọc Kinh Truyền Tin và ban phép lành toà thánh cho mọi người.

Sau Kinh Truyền Tin ĐTC đã chào tín hữu đến từ nhiều nơi trên thế giới, trong đó có đoàn hành hương La Plata của Argentina, các sĩ quan trường quân đội Colombia và các giáo lý viên vùng Rho.

Ngài cũng chào các tham dự viên cuộc chạy Con đường hoà bình qua nhiều nơi phụng tự của các Giáo Hội hiện diện tại Roma. Ngài cầu chúc sáng kiến văn hoá và thể thao này có thể tạo thuận tiện cho cuộc đối thoại, sự chung sống và hoà bình.

ĐTC cũng chào nhiều bạn trẻ đến từ đền thánh Đức Bà Loreto trung Italia, do các cha dòng Capucini tháp tùng. Họ bắt đầu với một ngày suy tư nguyện gẫm. Ngài nói: “các bạn đem hương thơm của Đền thánh Nhà Đức Mẹ đến cho chúng tôi, xin cám ơn”. Ngài cũng chào các thiện nguyện viên “Pro Loco” và những người đi bộ bắt đầu cuộc thi hôm qua tại Assisi và chúc họ đi bộ giỏi. Sau cùng ĐTC xin mọi người đừng quên cầu nguyện cho ngài.

Linh Tiến Khải

Đức Thánh Cha tiếp Tổng tu nghị dòng Thừa Sai Thánh Tâm

Đức Thánh Cha tiếp Tổng tu nghị dòng Thừa Sai Thánh Tâm

VATICAN. ĐTC khuyến khích các tu sĩ dòng thừa sai Thánh Tâm chứng tỏ nơi bản thân và các hoạt động của mình tình thương và sự dịu dàng của Thiên Chúa đối với những người bé nhỏ, rốt cùng, những người không được bảo về và bị gạt ra ngoài lề trên trái đất.

Ngài đưa ra lời nhắn nhủ trên đây trong buổi tiếp kiến sáng hôm 16-9-2017 dành cho 85 thành viên Tổng tu nghị của dòng Thừa Sai Thánh Tâm là dòng cho Cha Jean Jules Chevalier người Pháp thành lập năm 1,854 với mục đích phổ biến lòng tôn sùng Thánh Tâm Chúa Giêsu và Mẹ Maria. Theo niên giám năm nay của Tòa Thánh, dòng hiện có 1,754 tu sĩ, trong đó có 1,265 LM, hoạt động tại 154 nhà trên thế giới. Tại Á châu, dòng này hiện diện tại Nam Hàn, Philippines, Nhật Bản, Ấn độ và Indonesia.

Trong bài huấn dụ, ĐTC nhắc đến mục tiêu vừa nói của dòng Thừa Sai Thánh Tâm và nói rằng ”để đạt tới mục đích đó, tôi mời gọi anh em, như tôi thường nhắc nhở cho những người thánh hiến, ”hãy trở về với mối tình đầu tiên và duy nhất”, hãy ngắm nhìn Chúa Giêsu Kitô để học với Chúa cách yêu mến với con tim nhân trần, tìm kiếm và săn sóc những con chiên bị lạc và bị thương, hoạt động cho công lý và tình liên đới với những người yếu thế và người nghèo, mang lại hy vọng và phẩm giá cho những người kém may mắn, đi tới bất kỳ nơi nào con người đang chờ đợi được lắng nghe và giúp đỡ.. Anh em hãy chứng tỏ nơi bản thân và các hoạt động của mình tình yêu say mê và dịu dàng của Thiên Chúa đối với những người bé mọn, những người rốt cùng, những người vô phương thế tự vệ và bị gạt ra ngoài lề”.

ĐTC nhận xét rằng trong dòng Thừa Sai Thánh Tâm có nhiều tu huynh: ”Tôi xin anh em đừng chiều theo sự ác của trào lưu duy giáo sĩ làm cho dân Chúa, nhất là những người trẻ xa lìa Giáo Hội.. Hãy sống với nhau một tình huynh đệ chân thành, đón nhận sự khác biệt và đề cao sự phong phú của mỗi người.. Đừng sợ tiếp tục và gia tăng tình hiệp thông với giáo dân cộng tác với anh em trong việc tông đồ, làm cho họ tham gia những lý tưởng và các dự phóng của anh em, chia sẻ với họ những phong phú về linh đạo xuất phát từ đoàn sủng của dòng anh em”. (Rei 16-9-2017)

G. Trần Đức Anh OP

 

Lễ giỗ ĐHY Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận

Lễ giỗ ĐHY Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận

Roma: Lúc 10 giờ sáng ngày 15-9-2017 lễ Đức Mẹ Sầu Bi, ĐHY Peter Turkson Tổng trưởng Bộ Phát Triển Nhân Bản Toàn Diện, đã chủ sự lễ giỗ ĐHY Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận trong nhà thờ Santa Maria della Scala (Đức Mẹ Cầu Thang) là nhà thờ hiệu toà nơi có mộ ĐHY Thuận.

Cùng đồng tế Thánh lễ đã có ba Hồng Y, hai Giám Mục vài Đức Ông và gần 60 Linh Mục Việt Nam và ngoại quốc, trong đó có những vị đến từ Hoa Kỳ, Pháp và vài nước Âu châu. Trong số người tham dự ngoài các thành viên Liên Tu Sĩ Roma cũng có một số tín hữu Việt Nam đến từ Hoa Kỳ và các nước Âu châu, cũng như nhân viên của Bộ và bạn bè thân hữu của ĐHY.

Giảng trong Thánh Lễ ĐHY Turkson cho biết năm nay Bộ tổ chức lễ giỗ ĐHY Thuận đúng ngày lễ Đức Mẹ Sầu Bi, vì cũng giống như Đức Mẹ ĐHY Thuận đã thông phần cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu trong suốt cuộc đời ngài, nhất là trong các năm bị giam cầm. Thánh Phaolô nói Chúa Kitô là niềm hy vọng và vinh quang của chúng ta. Sự hiện diện của Chúa nơi chúng ta sẽ thành toàn để chúng ta nên con cái Chúa.

Phúc Âm nói tới hạt rơi vào lòng đất bị chôn vùi chết đi để đơm bông hạt. Chính Chúa Giêsu cũng đã sống cái luận lý ấy của hạt lúa chết đi để trao ban sự sống mới. Mỗi khi lên rước Chúa Giêsu trong Thánh Lễ chúng ta cũng sống mầu nhiệm này cho đến ngày tái sinh về cùng Chúa như ĐHY Thuận.

ĐHY Turkson nói sắc lệnh của Bộ Phong Thánh công bố theo lệnh của ĐTC Phanxicô ngày mùng 4-5-2017 nhìn nhận các nhân đức anh hùng của ĐHY Thuận nói lên đầy đủ những gì ĐHY muốn nói. Vì thế ngài đã đọc lại sắc lệnh ấy cho mọi người nghe, trong đó có nêu bật vài nét độc đáo trong cuộc đời của ĐHY Thuận.

Ngay từ khi còn bé ĐHY Thuận đã chọn ba vị thánh làm gương mẫu cho đời sống thiêng liêng của ngài: thánh nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu mà ngài học được “con đường thơ ấu thiêng liêng”; thánh Gioan  Maria Vianney đấng đã dậy cho ngài các nhân đức khiêm nhường, kiên nhẫn và giá trị của sự cố gắng bền bỉ; và thánh Phanxicô Xaviê, vị Tông Đồ vĩ đại của châu Á, từ nơi vị thành này ngài học biết bình thản trước thành công hoặc thất bại.

ĐTC Biển Đức XVI đã đặc biệt nhớ đến vị Tôi Tớ Chúa trong thông điệp Spe salvi và đề cao vị Tôi Tớ Chúa như mẫu gương cầu nguyện đặc biệt trong các trường hợp tuyệt vọng không có lối thoát. Lắng nghe Thiên Chúa trong các năm tù tội bất tận đã trở thành sức mạnh hy vọng và biến ngài trở thành chứng nhân hy vọng. Trong suốt những năm sống kinh nghiệm đớn đau của cảnh giam cầm ĐHY đã kết hiệp các khổ đau của ngài với các khổ đau của Chúa Kitô, noi gương Đức Mẹ Sầu Bi, đứng gần bên Thập Giá Chúa.

Là người rất thông minh có trí nhớ sắc sảo, ăn nói lưu loát hấp dẫn, dí dỏm, rất dễ thương và hiền lành Đức Cha Thuận đã là một mục tử lôi cuốn. Năm 2000 Đức Cha Thuận đã được Đức Gioan Phaolô II mời giảng tĩnh tâm cho giáo triều Roma. Ngài cũng đã giảng tĩnh tâm cho nhiều HĐGM trong đó có HĐGM Ghana, và ĐHY Turkson cũng đã tham dự khi còn là Giám Mục trẻ.

Đức Cha Thuận được nâng lên làm Hồng Y ngày 21-2-2002. Chính Đức Gioan Phaolô II đã yêu cầu ngài soạn cuốn Toát yếu Học thuyết xã hội của Hội Thánh. ĐHY Thuận đã thành lập một uỷ ban để nhanh chóng làm việc. Với sự nhẹ nhàng và khôn ngoan ngài đã giúp vượt qua những bế tắc và gay go trong hành trình dài hơn tiên liệu. Và ĐHY đã bình thản trút hơi thở cuối cùng ngày 16-9-2002, sau một thời gian bị bạo bệnh.

Án phong Chân Phước và phong thánh đã được khởi sự ngày 22-10-2010 và cuộc điều tra giáo phận hoàn tất ngày 5-7-2013. Ngày 13-12-2016 Đại hội đặc biệt các nhà Thần học cố vấn đã đồng thuận trong việc thảo luận xem Vị Tôi Tớ Chúa có đạt mức nhân đức anh hùng không. Ngày 2-5-2017 các Hồng Y và các Giám Mục đã nhìn nhận rằng Vị Tôi Tớ Chúa đã thực hiện ở mức anh hùng các nhân đức đối thần, các nhân đức căn bản và các nhân đức khác đi kèm.

ĐHY Turkson chia vui với mọi người vì sự kiện này và xin cộng đoàn tiếp tục cầu nguyện cho tiến trình phong chân phước tiến triển nhanh chóng.

Sau phép lành cuối lễ ĐHY Turkson đã làm phép tượng Đức Mẹ La Vang, xông hương rước và đặt tượng Đức Mẹ  bên cạnh mộ cuả Đấng Đáng Kính HY Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận.

Linh Tiến Khải

Lễ Đức Mẹ Sầu Bi: Chiêm ngưỡng Chúa Giêsu vinh hiển trên thập giá

Lễ Đức Mẹ Sầu Bi: Chiêm ngưỡng Chúa Giêsu vinh hiển trên thập giá

Hãy cùng với Đức Mẹ đứng dưới chân thập giá để chiêm ngắm, chiêm ngưỡng Chúa Giêsu chiến thắng vinh hiển trên thập giá. Đức Thánh Cha chia sẻ như thế trong Lễ Đức Mẹ Sầu Bi sáng nay tại nhà nguyện Marta.

Cần đức tin để nhìn

Chúng ta hãy chiêm ngắm Mẹ của Chúa Giêsu. Chúng ta hãy chiêm ngưỡng dấu chỉ của chiến thắng, một dấu chỉ rất mâu thuẫn. Đó là Chúa Giêsu. Người chiến thắng vinh hiển, nhưng lại trên Thánh Giá, trên Thánh Giá. Điều này rất mâu thuẫn và không thể hiểu nổi… Chúng ta cần có đức tin để có thể hiểu được điều ấy. Cần có đức tin để có thể tiếp cận mầu nhiệm này.

Mẹ đứng đó

Mẹ Maria biết những điều ấy, và cả cuộc đời, Mẹ đã sống với tâm hồn đớn đau ấy. Mẹ đi theo Chúa Giêsu và nghe những lời bình phẩm mà người ta dành cho Chúa. Có những lần người ta khen tặng êm ai, có những lần người ta chống đối gay gắt. Nhưng phần Mẹ, Mẹ luôn bước theo Con của Mẹ. Đó là lý do mà chúng ta gọi Mẹ là người môn đệ đầu tiên. Và dấu hiệu của sự mâu thuẫn, duyên cớ vấp phạm, như Cụ già Simeon từng nói, tiếp tục đâm thâu tâm hồn Mẹ trong cuộc đời Mẹ.

Cho đến tận cùng, Mẹ đã ở đó, Mẹ đứng đó, lặng lẽ dưới chân thập giá, để nhìn Con của Mẹ. Có lẽ Mẹ cũng nghe những lời chê bai nhạo cười mà dân chúng nói: Hãy nhìn xem, kìa là mẹ của tên phạm pháp. Nhưng Mẹ vẫn đứng đó, trở nên đồng hình đồng dạng với Con của Mẹ.

Thinh lặng chiêm ngắm

Trong thinh lặng, những lời nói ngắn gọn bé nhỏ lúc ấy, giúp chúng ta chiêm ngắm và bước vào mầu nhiệm này. Vào lúc ấy, trong đức tin, Mẹ đã sinh ra chúng ta, Mẹ sinh ra Giáo Hội. Chúa Con nói với Mẹ: Này Bà, đây là các con của Bà. Chúa đã không gọi là Mẹ, mà lại gọi là Bà. Bà ấy, người phụ nữ ấy đứng đó đầy dũng cảm, để rồi nói một cách không chần chừ do dự: Đây là Con của tôi.

Chúng ta hãy dành thời gian để suy gẫm và chiêm ngắm đoạn Tin Mừng hôm nay. Chúng ta hãy để cho Chúa Thánh Thần nói với từng người chúng ta điều chúng ta đang cần.

Tứ Quyết SJ

Phần đầu bài phỏng vấn ĐTC dành cho các nhà báo trên chuyến bay Cartagena Roma

Phần đầu bài phỏng vấn ĐTC dành cho các nhà báo trên chuyến bay Cartagena Roma

Theo thông lệ ngày 11 tháng 9 vừa qua trên chuyến bay từ Cartagena bên Colombia về Roma, ĐTC Phanxicô đã dành cho các nhà báo quốc tế một cuộc phỏng vấn dài về nhiều vấn đề của Colombia cũng như các vấn đề quốc tế. Sau đây chúng tôi xin gửi tới quý vị nội dung phần đầu bài phỏng vấn này.

Mở đầu ông Greg Burke, giám đốc Phòng báo chí kiêm phát ngôn viên Toà Thánh, đã ngỏ lời cám ơn ĐTC dành thời giờ cho các nhà báo, tuy đã có một chuyến công du rất bận rộn mệt nhọc, rất vất vả đối với vài người, nhưng cũng là một chuyến viếng thăm có nhiều hoa trái. ĐTC đã nhiều lần cám ơn dân chúng vì những gì họ đã dậy cho ĐTC, chúng con cũng học hỏi được biết bao nhiêu điều từ các nền văn hoá gặp gỡ này, và chúng con cũng xin cám ơn ĐTC vì điều này. Đặc biệt dân nước Colombia, với quá khứ mới đây – và không phải chỉ với quá khứ mới đây – đã cống hiến cho chúng con vài chứng tá rất mạnh mẽ – các chứng tá cảm động về sự tha thứ và hoà giải. Tuy nhiên, nó cũng cho chúng con một bài học liên tục về sự tươi vui và niềm hy vọng, là hai từ ĐTC đã dùng rất nhiều lần trong chuyến công du này. Bây giờ chắc ĐTC muốn nói điều gì rồi chúng ta sẽ sang phần các câu hỏi của các nhà báo.

Đáp: Tôi xin chào và cám ơn các anh các chị về công việc của các anh các chị. Tôi thật cảm động về sự tươi vui, dịu hiền, trẻ trung và sự cao quý của nhân dân Colombia. Họ thật là một dân tộc cao quý, không sợ hãi nói lên điều họ cảm nghĩ, không sợ hãi cảm nhận và cho thấy điều họ cảm nhận. Tôi đã nhận ra như vậy. Đây là lần thứ ba đến Colombia, tôi nhớ thế, nhưng một Giám Mục đã nói: “Không đây là lần thứ tư, nhưng tôi đã chỉ đến Colombia cho các cuộc họp nhỏ”. Một lần và hai lần khác tại Bogota hay ba, nhưng tôi không biết Colombia một cách sâu rộng, Colombia mà người ta biết trên các đường phố. Và tôi cám ơn vì chứng tá của niềm vui, niềm hy vọng, sự kiên nhẫn trong đau khổ của dân tộc này. Họ đã làm ích cho tôi biết bao. Xin cám ơn.

** Câu hỏi đầu tiên là của anh Cesar Moreno nhân viên của đài phát thanh Radio Caracol.

Hỏi: Thưa ĐTC, trước hết con muốn cám ơn ĐTC, thay mặt cho tất cả các nhân viên  truyền thông Colombia  tháp tùng chúng ta trong chuyến viếng thăm này, cho mọi đồng nghiệp và thân hữu, đã đến trên quê hương chúng con, đã cho chúng con biết bao nhiêu sứ điệp hay đẹp, sâu sắc, và vì biết bao nhiêu yêu thương, gần gũi mà ĐTC đã chứng minh cho nhân dân Colombia thấy. Chúng con xin hết lòng cám ơn ĐTC. Câu hỏi của con là: ĐTC đã đến trong một quốc gia chia rẽ, qua con đường của tiến trình hoà bình, giữa những người chấp nhận hay không chấp nhận tiến trình này. Phải làm gì một cách cụ thể, đâu là các bước tiến phải làm để cho các phe chia rẽ xích lại gần nhau, để từ bỏ hận thù, để từ bỏ oán ghét? Nếu ĐTC trở lại Colombia trong 4 năm nữa, ĐTC nghĩ thế nào, ĐTC muốn trông thấy Colombia như thế nào?

Đáp: Tôi thích rằng ít nhất khẩu hiệu “Chúng ta hãy đi bước thứ hai”, ít nhất điều đó được thực hiện – Tôi đã nghĩ là các năm chiến tranh, tôi đã tính chúng là 60 năm, nhưng người ta nói với tôi là 54 năm chiến tranh du kích, ít nhiều là như vậy, và trong đó người ta  chồng chất lên biết bao nhiêu, biết bao nhiêu thù ghét, oán hận, biết bao nhiêu tâm hồn đau yếu; và bệnh tật không có lỗi, nó đến và bạn bị lây bệnh sởi. Và với các cuộc chiến du kích mà họ đã làm – chiến tranh du kích, các dân quân cũng như những người bên kia và cả nạn gian tham hối lộ nữa, biết bao nhiêu lần xảy ra trong quốc gia – đã phạm các tội xấu xa dấy lên sự thù hận đó… Nhưng đã có các bước tiến trao ban hy vọng, các bước tiến trong việc thương thuyết, và cuối cùng là việc ngưng bắn của lực lượng Quân đội giải phóng quốc gia: tôi xin cám ơn họ rất nhiều, rất nhiều vì điều đó. Nhưng còn có cái gì hơn nữa, mà tôi đã nhận ra, đó là ước muốn tiến tới trong tiến trình này, nó vượt xa hơn các cuộc thương thuyết  đang được làm và cần phải làm. Đó là một ước muốn tự phát, và trong đó có sức mạnh của dân chúng. Tôi hy vọng nơi điều này. Dân chúng muốn thở, nhưng chúng ta phải trợ giúp họ và trợ giúp họ với sự gần gũi, lời cầu nguyện và nhất là với sự cảm thông biết bao nỗi khổ đau bên trong tâm hồn của biết bao người dân.

** Ông Burke nói bây giờ tới phiên anh José Mujica của tờ El Tiempo Thời báo. Anh hỏi bằng tiếng Tây Ban Nha

Hỏi: Thưa ĐTC thật là một vinh dự được ở đây với ĐTC. Con tên là José Mujica, nhà báo của tờ El Tiempo bên Colombia và con cũng xin chào ĐTC nhân danh tất cả các nhà báo Colombia và giới truyền thông của quốc gia này. Colombia đã khổ đau trong nhiều thập niên vì bạo lực, chiến tranh, xung đột vũ trang và cả vì nạn buôn bán ma tuý nữa, nhưng các hậu quả của nạn gian tham hối lộ trong giới chức chính trị thật là tàn phá, y như chiến tranh vậy và cả khi nạn tham ô hối lộ là một thực tại mới, chúng con đã luôn luôn biết nó hiện hữu, giờ đây có thể trông thấy rõ ràng hơn, bởi vì không còn có các tin chiến tranh và xung đột vũ trang nữa. Phải làm gì trước tệ nạn này, và cho tới độ nào với các người thối nát, làm thế nào để trừng phạt họ và sau cùng có cần phải dứt phép thông công họ hay không?

Đáp: Anh đã đưa ra một câu hỏi, mà chính tôi cũng đã đặt ra biết bao lần. Và tôi đã đặt câu hỏi kiểu này: kẻ thối nát có được ơn tha thứ hay không? Tôi đã đặt câu hỏi như vậy đó. Và tôi đã đặt câu hỏi này, khi xảy ra một trường hợp trong tỉnh Catamarca bên Argentina – một trường hợp đối xử tàn tệ, lạm dụng và hãm hiếp một thiếu nữ và có liên quan tới các quyền bính chính trị và kinh tế của tỉnh này.

Tôi đã nghe nói tới một bài báo của nhà báo Frigerio đăng trên tờ “La Nacion” thời bấy giờ. Tôi đã viết một cuốn sách nhỏ gọi là “Tội lỗi và thối nát”. Chúng ta tất cả đều là những người tội lỗi, và chúng ta biết rằng Chúa gần gũi chúng ta, Ngài không mệt mỏi tha thứ cho chúng ta. Nhưng có sự khác biệt: Thiên  Chúa không bao giờ mệt mỏi tha thứ, nhưng người tội lỗi có khi hồi sinh và xin lỗi. Vấn đề đó là kẻ thối nát mệt mỏi khi xin lỗi và quên phải xin lỗi làm sao: đây là vấn đề nghiêm trọng. Đó là một tình trạng vô cảm đối với các giá trị, đối với sự phá hoại, đối với việc khai thác bóc lột con người. Họ không có khả năng xin lỗi. Và như là một việc kết án, do đó rất khó trợ giúp một người thối nát, rất khó. Nhưng Thiên Chúa có thể làm điều đó, và tôi cầu nguyện cho điều này.

** Ông Burke giới thiệu anh Hernan Reyes của tờ “Telam”.

Hỏi: Thưa ĐTC. Câu hỏi này là của nhóm các nhà báo tiếng Tây Ban Nha. ĐTC đã nói tới bước đầu tiên mà Colombia đã làm. Hôm nay trong Thánh Lễ ĐTC đã nói rằng một cuộc đối thoại giữa hai phe không đủ, mà cần phải đưa thêm nhiều tác nhân khác nữa vào trong cuộc đối thoại. ĐTC có nghĩ rằng có thể lập lại mô thức này của Colombia trong các xung đột khác trên thế giới hay không?

Đáp: Tháp nhập những người khác vào… cả ngày hôm nay nữa trong bài giảng tôi đã đề cập tới điều này bằng cách đi từ Phúc Âm. Tháp nhập các người khác: đây không phải là lần đầu tiên… trong biết bao cuộc xung đột đã có các người khác được tháp nhập vào cuộc đối thoại. Đây là một cách tiến tới, một kiểu chính trị khôn ngoan, phải không? Có sự khôn ngoan xin trợ giúp… Nhưng tôi tin rằng ngày hôm nay tôi đã muốn nhấn mạnh trong bài giảng – nó đã là một sứ điệp hơn là một bài giảng – tôi tin rằng các kiểu kỹ thuật chính trị ấy giúp ích; đôi khi chúng yêu cầu sự can thiệp của Liên Hiệp Quốc để ra khỏi cuộc khủng hoảng. Nhưng  một tiến trình hoà bình sẽ chỉ có thể tiến tới, khi nhân dân cầm nó trong tay. Nếu người dân không cầm nó trong tay, người ta có thể tiến tới một chút, người ta sẽ đi tới một giàn xếp… Đó là điều tôi đã tìm làm cho cảm thấy trong chuyến viếng thăm này: tác nhân của việc hoà giải hoặc là dân chúng hay người ta sẽ đi tới một điểm nào đó: nhưng khi một dân tộc nắm lấy việc tạo hoà bình trong tay, thì nó có khả năng làm tốt điều ấy. Và tôi sẽ nói rằng đó là con đường cao hơn.

** Tới phiên chị Elena Pinardi

Hỏi: Con xin chào ĐTC, trước hết chúng con muốn hỏi ĐTC có khoẻ không. Chúng con tất cả đã trông thấy ĐTC vập đầu vào xe díp, ĐTC có khoẻ không, có đau không ạ?

Đáp: Lúc đó tôi quay ra chào các trẻ em và tôi đã không trông thấy kính và bùm một cái…

Hỏi: Câu hỏi của con là: trong khi ở trên máy bay chúng ta bay gần cơn bão Irma. Sau khi đã gây ra bao tàn phá khiến cho hàng chục người chết và gây ra các thiệt hại khổng lồ tại các đảo thuộc quần đảo Caraibi và Cuba, người ta sợ rằng nhiều vùng rộng lớn trong tiểu bang Florida có thể bị ngập lụt. Sáu triệu người đã phải bỏ nhà cửa của họ. Sau trận bão Harvey hầu như đã có thêm 3 trận bão khác đồng thời đổ vào vùng này. Các nhà khoa học cho rằng việc hâm nóng các đại dương là một yếu tố góp phần khiến cho các cơn dông bão mùa này ngày càng mạnh hơn. Có trách nhiệm luân lý của các vị lãnh đạo chính trị khước từ cộng tác với các quốc gia khác để kiểm soát việc thải thán khi vào không trung hâm nóng trái đất hay không, bởi vì họ từ chối cho rằng khí hậu thay đổi là lỗi tại con người?

Đáp: Xin cám ơn chị. Tôi trả lời phần cuối cùng của câu hỏi để khỏi quên: ai chối điều này thì phải đi tới với các nhà khoa học và hỏi họ. Các khoa học gia đã nói rất rõ ràng. Các khoa học gia rất chính xác. Hôm trước khi có tin tức của chiếc tầu của Nga – tôi tin thế – chiếc tầu này đã từ Na Uy sang Nhật Bản hay Đài Loan và đã đi qua Bắc Cực, mà không có các tầu làm bể đá băng, các hình chụp cho thấy các mảng đá băng… nhưng bây giờ có thể đi qua Bắc Cực. Nó thật rõ ràng. Thật là rõ ràng. Khi tin này được một đại học tung ra – tôi không nhớ đại học này ở đâu – thì có một tin khác nói rằng: “Chúng ta chỉ còn có 3 năm nữa để quay lại đàng sau. Nếu không, thì các hậu quả sẽ kinh khủng”. Tôi không biết có thật “ba năm” hay không, nhưng nếu chúng ta không trở lại đàng sau, thì chúng ta sẽ chìm hết, điều này thật. Khí hậu thay đổi người ta trông thấy các hậu quả và các khoa học gia nói một cách rõ ràng con đường chúng ta phải theo. Và chúng ta tất cả đều có một trách nhiệm: tất cả mọi người. Mỗi người một phần trách nhiệm nhỏ, một phần trách nhiệm lớn hơn, một trách nhiệm luân lý phải chấp nhận, góp ý kiến hay lấy các quyết định… Và chúng ta phải làm điều đó một cách nghiêm chỉnh. Tôi tin rằng nó là một điều không thể đùa giỡn được: nó vô cùng nghiêm trọng. Và chị hỏi tôi đâu là trách nhiệm luân lý? Mỗi một người đều có trách nhiệm luân lý của mình. Cả các chính trị gia cũng có trách nhiệm của họ. Mỗi người đều có trách nhiệm của mình. Câu trả lời thứ hai thì có rồi.

Hỏi: Có người nhận thức rằng chúng ta đang đi tới thời tận thế như tả trong sách Khải Huyền với tất cả các biến cố khí quyển… ĐTC nghĩ sao?

Đáp: Tôi không biết… Tôi sẽ nói: thứ nhất, mỗi một người có trách nhiệm luân lý riêng của mình. Thứ hai, nếu một người hơi nghi ngờ rằng nó không thật, thì hãy đi hỏi các khoa học gia đi. Các khoa học gia rất rõ ràng. Những điều họ nói  không phải là các ý kiến trong không khí đâu. Chúng rất rõ ràng. Và rồi hãy quyết định. Và lịch sử sẽ phán xử các quyết định ấy.

Linh Tiến Khải

 

Đức TGM Leopoldo Girelli, tân Sứ Thần Tòa Thánh tại Israel

Đức TGM Leopoldo Girelli, tân Sứ Thần Tòa Thánh tại Israel

VATICAN. Hôm 13-9-2017, ĐTC đã bổ nhiệm Đức TGM Leopoldo Girelli, Đại diện không thường trú tại Việt Nam, làm tân Sứ Thần Tòa Thánh tại Israel, kiêm Khâm Sứ Tòa Thánh tại Palestine.

Cho đến nay, Đức TGM Girelli cũng là Sứ thần Tòa thánh tại Singapore, và tại Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN).

Đức TGM Girelli năm nay 64 tuổi, sinh ngày 13-3-1953 tại Bergamo, bắc Italia. Sau thời gian thụ huấn tại Trường Ngoại giao Tòa Thánh, ngài 13-7-1987, Cha Girelli bắt đầu được gửi đi phục vụ tại Tòa Sứ Thần ở Camerun, rồi New Zealand, Bộ ngoại giao Tòa Thánh, sau cùng ngài được gửi đi làm Tham Tán tại tòa Sứ Thần ở Washington, Hoa Kỳ.

Ngày 13-4-2006 ngài được thăng TGM và làm Sứ Thần Tòa Thánh tại Indonesia, trong thời gian sau đó, ngài kiêm nhiệm thêm các chức vụ Sứ Thần Tòa Thánh tại Đông Timor. Gần 5 năm sau, ngày 13-1-2011, ngài được bổ nhiệm làm Sứ thần Tòa Thánh tại Singapore, Khâm sứ tại Malaysia, Brunei, và Đại diện không thường trú tại Việt Nam.

Sau khi Malaysia thiết lập quan hệ ngoại giao với Tòa Thánh, Đức TGM Girelli, ngưng làm Sứ Thần tại đây và tại Đông Timor, và ngưng làm Khâm Sứ tại Brunei từ ngày 16-1-2013.

Trong nhiệm vụ này, Đức TGM Girelli đã ra vào Việt Nam hơn 70 lần.

Trong bài giảng tại thánh lễ khai mạc Đại hội Thánh Mẫu toàn quốc tại La Vang ngày 13-8-2017, Đức TGM Girelli nói rằng: ”Tự do tôn giáo không phải là một cái gì tùy tiện trong tay các nhà chức trách, nhưng tự do tôn giáo là một quyền trong tay của người dân. Nhiều người trên thế giới ước mong rằng quyền tự do tôn giáo ở Việt Nam phải được tôn trọng hơn, phải được thực thi đầy đủ hơn, và Hội Thánh Công Giáo phải được nhìn nhận như một nguồn thiện tích hơn là một vấn nạn cho đất nước”.

G. Trần Đức Anh OP