Lãng quên Thiên Chúa đẩy đưa con người tới bạo lực

Lãng quên Thiên Chúa đẩy đưa con người tới bạo lực

Chính việc lãng quên Thiên Chúa chứ không phải việc vinh danh Người làm nảy sinh ra bạo lực. Vì thế các tín hữu kitô và hồi giáo cần cùng nhau dấn thân cho tình liên đới, hòa bình và công lý, và mọi chính quyền phải bảo đảm cho các công dân và cộng đồng tôn giáo quyền tự do phụng tự đích thực.

Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói như trên với hàng chục ngàn tín hữu và du khách hành hương tham dự buổi tiếp kiến sáng thứ tư 3-12-2014 tại quảng trường thánh Phêrô. Như đã biết, Đức Thánh Cha mới viếng thăm mục vụ Thổ Nhĩ Kỳ ba ngày cuối tuần vừa qua, vì thế trong bài huấn dụ ngài đã chia sẻ với tín hữu các cảm tưởng và kinh nghiệm trong chuyến công du mục vụ này.

Đức Thánh Cha nói: Hôm nay chúng ta duyệt lại các chặng hành hương mà tôi đã đi từ thứ sáu cho tới Chúa Nhật vừa qua. Như tôi đã xin anh chị em chuẩn bị và đồng hành với nó bằng lời cầu nguyện, giờ đây tôi xin anh chị em cùng tôi cảm tạ Thiên Chúa vì việc thực hiện nó, và để cho nó sinh hoa trái trong cuộc đối thoại với các anh em chính thống và với các anh em hồi giáo, cũng như cho con đường hòa bình giữa các dân tộc.

Đức Thánh Cha đã cám ơn Tổng thống, Thủ tướng, Bộ trưởng tôn giáo cũng như các giới chức chính quyền khác của Thổ Nhĩ Kỳ đã tiếp đón ngài với lòng kính trọng và bảo đảm cho chuyến viếng thăm diễn ra trong trật tự. Ngài cũng cám ơn các Giám Mục của Giáo Hội công giáo Thổ Nhĩ Kỳ vì sự dấn thân của các vị, cũng như Đức Thượng Phụ Bartolomaios I vì sự tiếp đón thân tình. Chân phước Phaolô VI và Thánh Gioan Phaolô II đã viếng thăm Thổ Nhĩ Kỳ và Thánh Gioan XXIII, từng là Khâm Sứ Tòa Thánh tại Thổ Nhĩ Kỳ, từ Trời đã che chở chuyến hành hương của tôi, diễn ra tám năm sau chuyến viếng thăm của vị tiền nhiệm của tôi là Đức Biển Đức XVI. Vùng đất này thân thương đối với mọi kitô hữu, đặc biệt vì đã là nơi tông đồ Phaolô chào đời, và là nơi triệu tập bẩy Công Đồng và vì sự hiện diện của “Nhà Đức Maria” gần thành Êphêxô.

Tiếp đến Đức Thánh Cha đã kể lại diễn tiễn các ngày viếng thăm, Trong ngày đầu tiên ngài đã thăm lăng của ông Ataturk và gặp gỡ chính quyền Thổ. Thổ Nhĩ Kỳ là quốc gia có đa số dân theo Hồi giáo, nhưng Hiến pháp khẳng định tính chất đời của Nhà nước. Ám chỉ tình trạng bạo lực do các lực lượng hồi cực đoan gây ra đó đây trên thế giới, Đức Thánh Cha khẳng định:

Chính sự lãng quên Thiên Chúa chứ không phải việc vinh danh Người làm nảy sinh ra bạo lực. Vì thế tôi đã nhấn mạnh tầm quan trọng các tín hữu kitô và hồi giáo phải cùng nhau dấn thân cho tình liên đới, hòa bình và công lý, và khẳng định rằng mọi chính quyền phải bảo đảm cho các công dân sự tự do tôn giáo thực sự.

Trong ngày thứ hai tôi đã viếng thăm vài nơi biểu tượng của các tôn giáo khác nhau hiện diện tại Thổ Nhĩ Kỹ. Tôi đã làm điều đó và cảm nhận trong tim lời khẩn cầu Chúa, là Thiên Chúa trời đất, là Cha thương xót của toàn nhân loại. Trọng tâm ngày viếng thăm là buổi cử hành Thánh Thể trong nhà thờ chính tòa với sự tham dự của các Chủ Chăn và tín hữu của nhiều nghi lễ công giáo hiện diện tại Thổ Nhĩ Kỳ. Tham dự cũng đã có Đức Thượng Phụ Đại Kết, Đại diện Đức Thượng Phụ Apostolico, Tổng Giám Mục chính thống Siro và các giới chức Tin Lành. Chúng tôi đã cùng nhau khẩn nài Chúa Thánh Thần là Đấng ban sự hiệp nhất cho Giáo Hội: hiệp nhất trong đức tin, đức mến và hiệp nhất trong sự kết hợp chặt chẽ nội tâm. Trong sự phong phú của các truyền thống và cơ cấu của mình Dân Chúa được mời gọi để cho Chúa Thánh Thần hướng dẫn trong thái độ liên lỉ cởi mở, ngoan ngoãn và vâng phục.

Tiếp tục chia sẻ kinh nghiệm Đức Thánh Cha nói: Ngày cuối cùng của chuyến viếng thăm lễ thánh Anrê Tông Đồ đã cống hiến bối cảnh lý tưởng cho việc củng cố các liên hệ huynh đệ giữa Giám Mục Roma, Người Kế Vị thánh Phêrô và Đức Thượng Phụ Đại Kết Costantinopoli, theo truyền thống là Giáo Hội do thánh Anrê, em của Simon Phêrô thành lập. Đức Thánh Cha cho biết như sau:

Tôi đã cùng với Đức Thượng Phụ canh tân dấn thân theo đuổi con đường tiến tới việc thiết lập sự hiệp thông trọn vẹn giữa các tín hữu công giáo và chính thống. Chúng tôi đã cùng nhau ký một Tuyên ngôn chung là chặng cuối của con đường này. Đặc biệt ý nghĩa là hành động này đã được làm vào cuối buổi cử hành trọng thể Phụng vụ lễ thánh Anrê, mà tôi đã tham dự với niềm vui lớn, và nó đã được theo sau bởi phép lành của Đức Thượng Phụ Costantinopoli và Giám Mục Roma. Thật thế, lời cầu nguyện là nền tảng cho mọi cuộc đối thoại đại kết phong phú dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần.

Cuộc gặp gỡ cuối cùng là với nhóm các bạn trẻ tỵ nạn, được các tu sĩ Salesien tiếp đón.
Thật là điều rất quan trọng đối với tôi việc gặp gỡ vài người tỵ nạn Trung Đông, để bầy tỏ sự gần gũi của tôi và của Giáo Hội cũng như để nhấn mạnh giá trị của sự tiếp đón, mà Thổ Nhĩ Kỳ cũng rất dấn thân. Chúng ta hãy cầu nguyện cho tất cả các người di cư và tỵ nạn và để xóa bỏ các lý do gây ra thảm cảnh đau đớn này.

Anh chị em thân mến, Xin Thiên Chúa toàn năng và thương xót tiếp tục che chở dân nước và giới chức lãnh đạo chính trị và tôn giáo Thổ Nhĩ Kỳ. Ước chi họ có thể cùng nhau xây dựng một tương lai hòa bình, để Thổ Nhĩ Kỳ có thể diễn tả một nơi của sự sống chung hòa bình giữa các tôn giáo và các nền văn hóa khác nhau. Ngoài ra chúng ta cũng hãy cầu nguyện để qua sư bầu cừ của Đức Trinh Nữ Maria, Chúa Thánh Thần khiến cho chuyến công du này được phong phú và tạo thuận tiện cho lòng hăng say truyền giáo, để trong sư tôn trọng và đối thoại huynh đệ, loan báo cho tất cả mọi dân tộc rằng Chúa Giêsu là sự thật, hòa bình và tình yêu.

Đức Thánh Cha đã chào các đoàn hành hương đến từ Bắc Mỹ, các nước Âu châu cũng như từ Malyasia, Nigeria, Argentina, Mêhicô, Paraguay. Bolivia và Chile.

Ngài đặc biệt chào các thành viên phong trào Truyền giáo Phi châu do các Giám Mục hai giáo phận Piacenza Bobbio và Moroto hướng dẫn, các tham dự viên đại hội gia đình, các người tổ chức hang đá lưu động vùng Pavullo. Ngài cầu mong Mùa Vọng là thời gian thuận tiện giúp mọi người chuẩn bị cho lễ Giáng Sinh và dấn thân canh tân lòng gắn bó với Chúa Kitô và liên đới với các anh chị em túng thiếu.

Chào giới trẻ, người đau yếu và các đôi tân hôn, Ngài nhắc cho mọi người biết hôm qua Giáo Hội kính nhớ thánh Phanxicô Xaviê. Đức Thánh Cha cầu mong thánh nhân giúp các bạn trẻ sống đức tin nghiêm chỉnh, các người đau yếu tin tưởng nơi sự trợ lực của Chúa Kitô trong những lúc khổ đau, và các đôi tân hôn biết tận hiến cho nhau trong cuộc sống gia đình.

Buổi tiếp kiến đã kết thúc với Kinh Lạy Cha và phép lành toà thánh Đức Thánh Cha ban cho mọi người.

Linh Tiến Khải

LẦM LỖI VÀ SÁM HỐI

LẦM LỖI VÀ SÁM HỐI

Con người thường có những lỗi lầm. Lỗi lầm khiến con người trở nên xấu xa. Lỗi lầm càng nhiều thì xấu xa càng ghê sợ hơn. Thế nên, con người thường có khuynh hướng che giấu tội lỗi của mình. Đôi khi còn đóng kịch để che đậy bản tính xấu xa của mình. Sống giả dạng người tốt để đánh lừa anh em.

–Có đôi vợ chồng nọ, mới cưới nhau về được khoảng một tuần, anh nói với vợ rằng,

–Xin em hứa với anh là đừng bao giờ mở cái hộp này ra, bao lâu anh đang còn sống.
–Người vợ gật gù đồng ý.

–Sau bốn mươi năm sống chung, gia đình rất hạnh phúc. Một hôm ông đi vắng, bà ở nhà một mình, tò mò lấy cái hộp từ dưới chân giường ra, không hiểu là ông đã giấu cái gì trong hộp. Người vợ nghĩ rằng đã sống với nhau bốn mươi năm, cái gì cũng biết hết rồi, ngoài trừ cái hộp này.

–Bà liền mở hộp ra xem, và trong hộp có năm vỏ bia, và một trăm hai mươi lăm đồng, năm chục xu. Bà nghĩ rằng chỉ có vậy thôi mà sao ông bí mật thế.

–Khi Ông đi làm về, bà liền đến tự thú với ông. Và bà hỏi ông rằng, tại sao trong hộp lại có năm vỏ bia? Ông trả lời, năm vỏ bia là tượng trưng cho mỗi lần tôi làm lỗi với bà, thì tôi uống một lon. Người vợ thấy vậy cũng vui vui, vì nghĩ rằng, sống với nhau bốn mươi năm, mà ông chỉ làm lỗi với mình chỉ có năm lần, kể cũng qúa ít.

–Bà tiếp, vậy còn một trăm hai mươi lăm đồng, và năm chục xu thì sao?

–Ông đáp, "thì là tiền bán vỏ lon bia chứ gì. "

–Bà………."ố trời ơi!!!!!"

Hóa ra tình yêu vẫn có những phản bội. Phản bội vì yếu đuối. Phản bội vì nông cạn. Phản bội có thể xảy đến khi mình thiếu tự chủ, mất kiểm soát tình cảm dễ dẫn đến phản bội với nhau. Nhưng nếu phản bội mãi mà không nhận ra sai lỗi của mình thì thật bất hạnh cho mình và cho gia đình. Điều quan yếu là biết sám hối và đứng dậy sau những lần vấp ngã. Dẫu có muộn màng vẫn hơn. Dẫu có tái phạm vẫn còn sửa chữa vì không cố tình ở lỳ trong tội lỗi.

Thánh Gioan B là sứ giả của Thiên Chúa. Ông đến để sửa lại lỗi lầm cho con người. Ông đi trước Chúa để uốn lại lòng dân. Ông dọn lại những gồ ghề trong tâm hồn con người bởi những tham sân si. Ông đưa ra phương án sửa lại lỗi lẫm bằng việc sám hối ăn năn.

Sám là thú nhận lỗi lầm, Hối là hứa từ nay không tái phạm.  Sám Hối là thú nhận lỗi lầm, và hứa không tái phạm. Sám hối là hành động của bản thân biết nhìn ra tội lỗi của mình mà sửa đổi, mà canh tân. Không có sám hối sẽ không có những cuộc canh tân làm thay đổi đời sống và môi trường sống. Chính nhờ sám hối và bản thân được thăng tiến, mỗi trường cũng được đổi thay thêm xinh đẹp hơn.

Sám hối là động lực giúp con người hoàn chỉnh bản thân mình. Nhờ sám hối mà ta chỉnh tu lại con người mình thêm xinh đẹp hơn. Madalena đã từng sám hối để từ bỏ con người trắc nết mà biến đổi trở thành người đi theo Chúa. Augutino đã từng sám hối để bỏ đường rộng thênh thang chiều theo tính xác thịt mà biến đổi trờ thành một đại thánh cho Giáo hội. Có rất nhiều những con người đã đổi đời nhờ sám hối mà chỉnh tu lại lối đi của mình theo đường lối Thiên Chúa.

Xin Chúa giúp chúng ta biết nhìn lại những yếu đuối của bản thân mà sám hối ăn năn. Xin giúp chúng ta can đảm thực hiện hành vi sám hối bằng việc thú nhận tội lỗi của mình và tuyên hứa từ nay không tái phạm. Xin Chúa nâng đỡ sự yếu hèn của chúng ta và giúp chúng ta hoàn chỉnh mình mỗi ngày thêm giống Chúa hơn nhờ cuộc canh tâm sám hối từng ngày. Amen

Lm.Jos Tạ Duy Tuyền

Đức Thánh Cha ký tuyên ngôn chung chống nạn nô lệ mới

Đức Thánh Cha ký tuyên ngôn chung chống nạn nô lệ mới

VATICAN. Sáng ngày 2-12-2014, ĐTC Phanxicô đã cùng với các vị lãnh đạo tôn giáo khác, ký tuyên ngôn chung bày tỏ quyết tâm cộng tác loại bỏ vĩnh viễn hình thức nô lệ mới trước năm 2020.

Cùng ký vào tuyên ngôn còn có Đức Giáo Chủ Liên hiệp Anh giáo Justin Welby, các vị lãnh đạo Chính Thống, Phật giáo, Ấn giáo và Hồi giáo đến từ nhiều quốc gia. Sáng kiến lịch sử này do tổ chức gọi là Global Freedom Network (Mạng tự do trên thế giới), đề xướng. Tổ chức này nhắm loại trừ nạn buôn người và các hình thức nô lệ mới trên thế giới ngày nay. Hòa Thượng Thích Nhất Hạnh cũng được mời tham dự nhưng bị đột quỵ nên Ni Sư đệ tử là Thích Nữ Chân Không, 76 tuổi, đã đi dự thay.

Lễ nghi ký tuyên ngôn chung diễn ra lúc 11 giờ 15 sáng tại trụ sở của Hàn lâm viện Tòa Thánh về các khoa học ở Nội thành Vatican.

Lên tiếng trong dịp này, sau khi cám ơn tất cả các vị lãnh đạo tôn giáo và những người hiện diện, ĐTC khẳng định rằng: ”Được sự tuyên xưng tín ngưỡng soi sáng, chúng ta họp nhau nơi đây do một sáng kiến lịch sử và để thực hiện một hành động cụ thể: tuyên bố chúng ta sẽ cộng tác với nhau để loại trừ tai ương kinh khủng là sự nô lệ tân thời dưới tất cả mọi hình thức của nó.

”Sự bóc lột thể lý, kinh tế, tính dục và tâm lý người nam, người nữ, trẻ em nam nữ, hiện đang xiềng xích hàng triệu ngừơi trong tình trạng vô nhân đạo và tủi nhục. Mỗi người đều là hình ảnh của Thiên Chúa. Thiên Chúa là tình thương và tự do, Đấng hiến thân trong cac quan hệ giữa con người với nhau… Bất kỳ quan hệ kỳ thị nào đều không tôn trọng xác tín cơ bản theo đó người khác cũng là người như chúng ta, và hành động đó là một tội ác. Và bao nhiêu lần có những tội ác kinh khủng!

ĐTC nói thêm rằng “Vì thế chúng ta tuyên bố nhân danh tất cả và từng người rằng nạn nô lệ tân thời, trong tuương quan với nạn buôn người, cưỡng bách lao động, mại dâm và buôn bán cơ phận, là tội ác xúc phạm đến nhân loại. Các nạn nhân thuộc mọi giai tầng, nhưng nhất là những người nghèo khổ và dễ tổn thương nhất trong các anh chị em của chúng ta.

”Nhân danh họ chúng ta kêu gọi các cộng đoàn của chúng ta hãy hành động, để hoàn toàn loại bỏ mọi sự tước đoạt tự do của cá nhân với mục đích bóc lột con người và thương mai; nhân danh họ chúng ta đưa ra tuyên ngôn này.

ĐTC ghi nhận rằng mặc dù có những cố gắng lớn của nhiều người, tệ nạn nô lệ tân thời tiếp tục là một tai ương kinh khủng trên thế giới, kể cả dưới hình thức du lịch.. Tội ác này nấp sau những thói quen bề ngoài và được chấp nhận, nhưng trong thực tế, các nạn nhân của chúng ở trong tình trạng mại dân, buôn người, cưỡng bách lao động, làm việc như nô lệ, cắt chặt cơ phận, bán cơ phẩn và tiêu thụ ma túy, bắt trẻ em làm việc. Nó nấp sau cánh cửa thánh đường, nhưng nơi đặc biệt, trên các đường phố, trong xe cộ, xưởng thợ, đồng quê, thuyền cánh cá và nhiều nơi khác..

ĐTC kết luận rằng: Chúng tôi kêu gọi tất cả những người có tín ngưỡng, các vị lãnh đạo, chính quyền, xí nghiệp, mọi người nam nữ thiện chí, hãy quyết liệt hỗ trợ và tham gia các phong trào chống nạn nô lệ tân thời dưới mọi hình thức”

”Được sự nâng đỡ của các lý tưởng trong tín ngưỡng và các giá trị nhân bản chung, tất cả chúng ta có thể và phải giơ cao ngọn cờ các giá trị tinh thần. .. Tôi cầu xin Chúa ban cho chúng ta ngày hôm nay ơn được hoán cải chính mình thành tha nhân của mỗi người không phân biệt ai, luôn tích cực giúp đỡ những người chúng ta gặp trên đường. (SD 2-12-2014)

G. Trần Đức Anh OP

Vatican Radio

Đức Thánh Cha tiếp kiến Hội Đồng Giám Mục Thụy Sĩ

Đức Thánh Cha tiếp kiến Hội Đồng Giám Mục Thụy Sĩ

VATICAN. Sáng 1-12-2014, ĐTC Phanxicô đã tiếp kiến 11 GM của 6 giáo phận tại Thụy Sĩ và ngài kêu gọi Giáo Hội tại nước này nỗ lực duy trì đức tin sinh động tại quê hương mình.

Hiện diện tại buổi tiếp kiến cũng có hai cha Bề trên của hai Đan viện biệt hạt cổ kính, Einsiedeln của dòng Biển Đức và Saint-Maurice của dòng Kinh sĩ thánh Augustino.

Trong bài huấn dụ trao cho các GM, ĐTC nói đến sự kiện năm tới đây, 2015, Đan viện Saint-Maurice sẽ mừng kỷ niệm 1.500 năm đời sống tu trì liên tục, không hề bị gián đoạn, đây là một sự kiện ngoại thường trong toàn Âu Châu. Ngài viết: ”Anh em thân mến, anh em có trách nhiệm lớn lao và đẹp đẽ duy trì đức tin sinh động tại đất nước anh em. Nếu không có niềm tin sinh động nơi Chúa Kitô phục sinh, thì những thánh đường và đan viện đẹp đẽ sẽ dần dần trở thành bảo tàng viện, và tất cả những công trình đáng ca ngợi và các tổ chức sẽ mất hồn, và chỉ để lại mội trường chung quanh trống rỗng và những con người bị bỏ rơi”.

Ám chỉ đến một số vùng tại Thụy Sĩ, có những giáo dân chống đối Giám Mục và muốn điều khiển Giáo Hội, buộc các chủ chăn phải chiều ý họ, ĐTC khẳng định rằng: ”Sứ mạng được ủy thác cho anh em là chăn dắt đoàn chiên, theo những hoàn cảnh, đi trước, đi giữa và đi sau họ. Dân Chúa không thể tồn tại mà không có các vị mục tử là các GM và linh mục; Chúa đã ban cho Giáo Hội hồng ân là sự kế truyền các Tông Đồ, để phục vụ sự hiệp nhất trong đức tin và để đức tin được thông truyền trọn vẹn (Xc LG 49). Đó là một hồng ân quí giá, với đoàn thể tính từ đó mà ra, nếu chúng ta biết làm cho hồng ân ấy trở nên hữu hiệu, để cao giá trị của nó để nâng đỡ nhau, để sống và dẫn dắt những người được ủy thác cho chúng ta đến cùng Chúa..”.

Trong bài huấn dụ trao cho các GM Thụy Sĩ, ĐTC cũng nhắc nhở các vị tiếp tục nỗ lực huấn luyện các chủng sinh, vì điều này có liên hệ tới tương lai Giáo Hội. Ngài viết: ”Giáo Hội cần những LM ngày càng đạt được sự quen thuộc vững chắc với Truyền Thống và Giáo huấn của Hội Thánh, để cho mình được gặp Chúa Kitô, và trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa, dẫn đưa con người trên những nẻo đường của Chúa (Xc Ga 1,40-42). Để được vậy, cần dạy cho các chủng sinh càng ngày càng ở trước mặt Chúa, đón nhận Lời Chúa, nuôi dưỡng mình bằng Thánh Thể, làm chứng về giá trị cứu độ của bí tích hòa giải và tìm kiếm những ”điều thuộc về Chúa Cha” (Xc Lc 2,49).

ĐTC viết thêm rằng: ”Trong đời sống huynh đệ các chủng sinh tìm được một sự nâng đỡ hữu hiệu đứng trước cám dỗ co cụm vào mình hoặc sống tiềm thể, và họ cũng tìm được thuốc giải độc chống lại sự cô đơn nhiều khi nặng nề. Tôi mời gọi anh em quan tâm đến các linh mục của mình, dành thời giờ cho họ, nhất là những LM đã rời xa hoặc quên ý nghĩa tình phụ tử của Giám Mục, hoặc nghĩ rằng mình chẳng cần Giám Mục. Một cuộc đối thoại khiêm tốn, chân thành và huynh đệ nhiều khi giúp một cuộc khởi hành mới”.

Trong số gần 8 triệu dân cư ở Thụy Sĩ, hiện có khoảng 43% là tín hữu Công Giáo, 33% theo Tin Lành và 1,8% theo Chính Thống giáo (SD 1-12-2014)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio
 

Cuộc hop báo của Đức Thánh Cha trên máy bay từ Thổ nhĩ kỳ về Roma

Cuộc hop báo của Đức Thánh Cha trên máy bay từ Thổ nhĩ kỳ về Roma

VATICAN. Trong cuộc họp báo trên máy bay chiều ngày 30-11-2014 ĐTC đã trả lời nhiều câu hỏi của giới báo chí và minh định ý nghĩa một số cử chỉ của ngài tại Thổ nhĩ kỳ.

Trong chuyến bay dài 2 giờ 40 phút từ Istanbul về Roma, như thường lệ ĐTC đã mở cuộc họp báo với sự tham dự của 65 ký giả quốc tế tháp tùng ngài.

– Trả lời câu hỏi của một nữ ký giả đài truyền hình Thổ nhĩ kỳ: tổng thống Erdogan đã nói nhiều về sự ghét bỏ Hồi giáo hiện nay còn ĐGH nói về sự ghét bỏ Kitô giáo ở Trung Đông, các nhóm thiểu số. Và ĐGH thường nhắc về việc đối thoại liên tôn, người ta có thể làm gì hơn nữa không? Theo ĐGH các vị lãnh đạo thế giới phải làm gì?

Trong phần trả lời, trước tiên ĐTC nói về sự ghét bỏ hồi giáo và nói rằng:

”Đúng vậy, đứng trước những vụ khủng bố, không những ở vùng Trung Đông, nhưng cả tại Phi châu nữa, người ta phản ứng và nói: ”Hồi giáo không phải như vậy!” Bao nhiêu tín hữu Hồi giáo cảm thấy bị xúc phạm vì những hành vi khủng bố nhân danh Hồi giáo như thế! Coran là một cuốn sách hòa bình, là một sách ngôn sứ hòa bình. Những vụ khủng bố không phải là Hồi giáo. Tôi tin như thế, và người ta phải nói thành thực rằng không phải mọi tín hữu đạo Hồi là những kẻ khủng bố, cũng như không thể nói mọi Kitô hữu là những người cực đoan, vì trong Kitô giáo cũng có những người cực đoan. Trong mọi tôn giáo đều có những nhóm nhỏ như vậy! Tôi đã nói với Tổng thống Erdogan: ”Thật là điều tốt đẹp nếu tất cả các vị lãnh đạo Hồi giáo – dù là lãnh đạo chính trị, tôn giáo hay các học giả – đều nói rõ ràng và lên án những vụ khủng bố với danh nghĩa Hồi giáo, vì việc nói rõ ràng như thế và lên án những hành vi khủng bố sẽ giúp đại đa số dân Hồi giáo.. Tất cả chúng ta đều cần một sự lên án của toàn thế giới, cả những người Hồi giáo nữa, chống lại những hành vi khủng bố”.

Về điều gọi là ghét bỏ Kitô hữu, Cristianofobia, tôi không muốn dùng cái từ có vẻ bọc đường như thế. Các tín hữu Kitô bị trục xuất khỏi Trung Đông. Đôi lần chúng ta đã thấy ở Irak, ở vùng Mossul, họ phải ra đi, bỏ lại mọi sự, phải trả thuế để được bảo vệ nhưng vô ích.. Và có khi họ bị trục xuất một cách khéo léo hơn, với những găng tay trắng như tại một số nước.

Sau cùng về vấn đề đối thoại liên tôn, có lẽ tôi đã có một cuộc nói chuyện rất đẹp theo nghĩa đó với Ông chủ tịch tôn giáo vụ Thổ Nhĩ Kỳ cùng với Ban của ông. Cả khi vị đại sứ mới của Thổ Nhĩ kỳ cạnh Tòa Thánh đến trình ủy nhiệm thư tại Vatican cách đây một tháng. Tôi đã thấy ông là một người ngoại thường, một người có lòng đạo đức sâu xa. Cả ông chủ tịch Tôn giáo vụ cũng cùng một trường phái. Cả hai đều nói: cuộc đối thoại liên tôn dường như đến đường cùng rồi, chúng ta phải tăng chất lượng, chúng ta phải đối thoại giữa những người tôn giáo thuộc các nguồn gốc khác nhau.

– Một nữ ký giả khác cũng người Thổ nhĩ kỳ thuộc hãng thông tấn của nước này, đã hỏi ĐGH về ý nghĩa sự kiện ngài giữ thinh lặng cầu nguyện 2 phút đồng hồ khi viếng Đền thờ Xanh của hồi giáo sáng thứ bẩy 29-11. Đó có phải là cách thức ngài ngỏ lời với Thiên Chúa không?

ĐTC đáp: ”Tôi đến Thổ Nhĩ kỳ như một người hành hương, chứ không phải như một du khách. Tôi đến đó với lý do chính là mừng lễ thánh Anrê Tông đồ và chia sẻ với Đức Thượng Phụ Bartolomeo. Nhưng khi tôi đến Đền thờ Hồi giáo, tôi không thể nào tự nhủ: ”A, bây giờ tôi là du khách!”. Tôi đã viếng Đền thờ tuyệt vời, và khi vị Mufti giải thích cho tôi nhiều điều, một cách rất dịu dàng, cả kinh Coran, cũng nói về Mẹ Maria và Gioan Tẩy Giả, ông giải thích cho tôi mọi điều, chính lúc ấy tôi cảm thấy cần cầu nguyện. Và tôi nói: ”Chúng ta hãy cầu nguyện một chút! và ông cũng đồng ý. Tôi đã cầu nguyện cho Thổ nhĩ kỳ, cho hòa bình, cho vị Mufti, cho tất cả, và cho cả tôi nữa vì tôi đang cần. Cầu nguyện cho hòa bình, xin Chúa chấm dứt chiến tranh.. Đó thực là một lúc cầu nguyện chân thành!

– Trong số giới báo chí tháp tùng ĐTC có một ký giả kỳ cựu người Nga là ông Alexey Bukalov, tín hữu Chính Thống: ông hỏi ĐTC xem sau cuộc viếng thăm này, sau cuộc gặp gỡ đặc biệt với Đức Thượng Phụ Chính Thống Constantinople, có viễn tượng nào với những cuộc tiếp xúc của Tòa Thượng phụ Chính Thống Mascơva hay không?

ĐTC kể rằng trong dịp Thượng HĐGM thế giới hồi tháng 10 vừa qua, có Đức TGM Hilarion đến Roma như đại biểu của Đức Thượng Phụ Kirill. Đức TGM đã muốn nói với tôi không phải với tư cách là đại biểu một Giáo Hội Kitô anh em tại Thượng HĐGM, nhưng với tư cách là Chủ tịch Ủy ban đối thoại Chính Thống và Công Giáo.

Trước tiên tôi muốn nói về quan hệ giữa Công Giáo với Chính Thống nói chung. Tôi tin rằng chúng tôi đang đồng hành với Chính Thống giáo. Các Giáo Hội này cũng có các bí tích và sự kế nghiệp các tông đồ, như Công Giáo, chúng ta đang đồng hành. Nhưng chúng ta phải đợi cái gì? Đợi cho các nhà thần học đồng ý với nhau sao? Tôi nghĩ là ngày đó sẽ không bao giờ tới. Tôi nghi ngờ về điều này. Các nhà thần học làm việc rất tốt, nhưng tôi nhớ điều mà Đức Thượng Phụ Athenagoras đã nói với Đức Phaolô 6: ”Chúng ta cứ tiến bước riêng, và chúng ta đặt tất cả các nhà thần học trên một hòn đảo!”. Tôi tưởng câu nói đó không phải là điều thật, nhưng Đức Bartolomeo nói với tôi: Không, đúng là Đức Athenagoras đã nói như vậy. Ta không thể chờ đợi điều ấy. Hiệp nhất là một hành trình. Đó là phong trào đại kết linh đạo: cầu nguyện với nhau, làm việc với nhau.. các công tác bác ái, giảng dạy chung với nhau… Và rồi cũng có phong trào đại kết bằng máu. Bao nhiêu là Kitô hữu đã bị giết, bao nhiêu là vị tử đạo, bắt đầu từ Uganda, cách đây hơn kém 50 năm, có lễ phong hiển thánh ở Uganda, một nửa là tín hữu Anh giáo và một nửa là Công Giáo. Các vị tử đạo của chúng ta đang nhìn chúng ta và kêu kêu: ”Chúng ta là một!”… Tôi tin rằng chúng ta phải tiến bước theo chiều hướng đó; chia sẻ các ghế giáo sư đại học chẳng hạn.
Về vấn đề quan hệ với Chính Thống Nga, ĐTC đáp: ”Tôi nói điều này, có lẽ có người không hiểu được, đó là các Giáo Hội Công Giáo nghi lễ đông phương có quyền được hiện hữu.!”

”Với Đức Thượng Phụ Kirill của Chính Thống Mascơva có lần tôi đã tỏ cho Đức Thượng Phụ biết ước muốn muốn gặp ngài và ngài cũng đồng ý. Tôi nói: ”Tôi đến nơi nào Đức Thượng Phụ muốn. Đức Thượng Phụ gọi tôi và tôi sẽ đi đến đó”. Cả Đức Thượng Phụ cũng ước muốn như thế. Nhưng trong thời gian gần đây có vấn đề chiến tranh. Tôi nghiệp ngài có bao nhiêu vấn đề tại Ucraina, và việc du hành và gặp gỡ với Giáo Hoàng bị liệt xuống hàng thứ yếu. Nhưng cả hai chúng tôi đều muốn gặp nhau và tiến bước. Đức TGM Hilarion đề nghị một cuộc họp nghiên cứu với ủy ban do Đức TGM ấy làm chủ tịch và bàn về vấn đề quyền tối thượng của Giáo Hoàng, vì cần tiếp tục yêu cầu mà Đức Gioan Phaolô 2 đã đưa ra: Xin hãy giúp tôi tim ra một hình thức quyền tối thượng mà chún gta có thể chấp nhận được”.

– Nữ ký giả của báo El Mundo, Tây Ban Nha, hỏi ĐTC về cử chỉ lịch sử ngài cúi đầu trước Đức Thượng Phụ Bartolomeo để xin chúc lành. ĐGH nghĩ gì về những lời phê bình của những người không hiểu cử chỉ cởi mở của ngài như vậy, nhất là những người bảo thủ vẫn nhìn cử chỉ ấy với thái độ nghi ngờ…

ĐGH đáp: Tôi muốn nói đây không phải chỉ là vấn đề từ phía Công Giáo chúng ta nhưng từ phía Chính Thống nữa. Trong Chính Thống giáo cũng có một số đan sĩ, đan viện đi theo chiều hướng đó. Ví dụ một vấn đề người ta đã thảo luận từ thời chân phước Phaolô 6 về ngày lễ Phục Sinh và cho đến nay giữa các Giáo Hội Kitô vẫn chưa có sự đồng thuận vì lễ Phục sinh là ngày trăng đầu tiên sau ngày 14 tháng Nissan, và điều này có nguy cơ là với thời gian, gần này chúng ta sẽ cử hành lễ Phục sinh vào tháng 8. Đức Chân phước Phaolô 6 đề nghị mừng lễ phục sinh vào 1 ngày nhất định, thí dụ một chúa nhật tháng 4. Đức Thượng Phụ Bartolomeo cũng can đảm đi theo chiều hướng này, nhưng cho đến nay vẫn chưa có sự đồng thuận.

– Trong phần còn lại của cuộc họp báo, ĐTC đã trả lời những câu hỏi liên quan một số đề tài khác như ý định viếng thăm Irak. Ngài tái khẳng định ý muốn đến viếng thăm nước này nhưng bây giờ không thể vì cuộc viếng thăm này sẽ tạo ra vấn đề an ninh cho chính quyền.

ĐTC cũng tái xác nhận nhận xét của ngài, theo đó nhân loại đang sống chiến tranh thứ ba từng mảnh. Có những lý do thù nghịch nhưng cũng có những lý do kinh tế, thần tiền bạc được đặt ở trong trung tâm các vấn đề đó chứ không phải con người. Sự buôn bán võ khí thật là kinh khủng và ngày nay là công nghệ thịnh hành nhất. Ai đã bán võ khí cho Siria có lẽ chính là những kẻ bây giờ tố cáo Siria sở hữu các võ khí đó. Và về các loại võ khí hạt nhân, tôi đã nói rằng nhân loại vẫn chưa học bài học.

Về việc kỷ niệm 100 năm cuộc diệt chủng Arméni sắp được cử hành trong năm 2015, ĐTC nhắc đến lá thư mà tổng thống Erdogan đã viết về vấn đề này: một số người đã phê bình ông vì đã chưa nhìn nhận những gì đã xảy ra, nhưng vẫn luôn có những bước tiến tích cực, những cử chỉ nhỏ xích lại gần. Chúng ta phải cầu nguyện cho sự hòa giải các dân tộc và ngài cầu mong biên giới giữa Thổ Nhĩ Kỳ và Arméni được mở ra.

Ký giả của hãng tin AP Hoa Kỳ hỏi ĐTC về Thượng HĐGM vừa qua và những đoạn trong tài liệu chung kết cởi mở đối với những người đồng tính luyến ái.. ngài nhắc lại rằng: Thượng HĐHM là một hành trình, nói không phải là một nghị viện, nhưng là một không gian được bảo vệ để Chúa Thánh Linh có thể nói. Cả bản tường trình chung kết cũng không chấm dứt hành trình đó. Phúc trình chung kết cũng chỉ là một tường trình tạm thời, vì nó sẽ trở thành tài liệu Lineamenta, tài liệu đề cương, cho Thượng HĐGM vào tháng 10 năm tới. Tài liệu này được gửi tới các HĐGM để thảo luận và gửi những đề nghị thay đổi, và dựa vào đó để soạn một tài liệu làm việc khác, và Thượng HĐGM năm tới sẽ thảo luận. Không thể lấy ý kiến của một người, hoặc một dự thảo. Cần phải nhìn Thượng HĐGM trong toàn bộ.

G. Trần Đức Anh OP –  Vatican Radio

 

Tường thuật ngày thứ ba chuyến Đức Thánh Cha Phanxicô viếng thăm Thổ Nhĩ Kỳ

Tường thuật ngày thứ ba chuyến Đức Thánh Cha Phanxicô viếng thăm Thổ Nhĩ Kỳ

Sáng Chúa Nhật 30 tháng 11 hôm qua Đức Thánh Cha đã chỉ có ba sinh hoạt :đó là cuộc gặp gỡ Đại Rabbi Thổ Nhĩ Kỳ Isak Hadeva, tham dự Thánh lễ kính thánh Anrê Tông Đồ, Bổn Mạng Giáo Hội Chính Thống, trong nhà thờ thánh Giorgio của Tòa Thượng Phụ Costantinopoli và gặp gỡ các bạn trẻ di cư trong vườn tru sở đại diện Tòa Thánh. Sau đây là chi tiết các sinh hoạt của Đức Thánh Cha.

Lúc 7 giờ rưỡi sáng Đức Thánh Cha đã dâng thánh lễ riêng tại trụ sở đại diện Tòa Thánh tại Istanbul. Sau đó lúc 9 giờ Đức Thánh Cha đã tiếp kiến Đại Rabbi Thổ Nhĩ Kỳ Isak Hadeva. Đại Rabbi Hadeva đã được bầu làm ”Hashambashi” vào tháng 12 năm 2002. Tước hiệu ”Hahambashi” gồm từ Thổ ”thủ lãnh” và từ do thái ”khôn ngoan”. Biến cố người Do thái sang sinh sống tại Thổ Nhĩ Kỳ bắt đầu từ thời tòa án dị giáo bên Tây Ban Nha năm 1492. Vào đầu thế kỷ XIX người số người Do thái tại Thổ Nhĩ Kỳ được 100 ngàn. Nhưng với các cuộc di cư sang Mỹ và sang Israel con số này giảm sút rất nhiều. Hiện nay cộng đoàn do thái tại Thổ Nhĩ Kỳ chỉ bao gồm 25 ngàn người và là cộng đoàn do thái lớn thứ hai trong một nước hồi giáo, sau cộng đoàn do thái bên Iran. Đa số tín hữu do thái sống tại Istanbul, nhưng cũng có một số sống tại Izmir. Đại Rabbi Isak Hadeva đã gặp Đức Thánh Cha Biển Đức XVI trong trụ sở Tòa Thánh ở Istanbul hồi năm 2006.

Sau khi tiếp vị đại Rabbi Isak Hadeva Đức Thánh Cha đi xe tới Tòa Thượng Phụ Đại Kết nằm cách đó 5 cây số để tham dự thánh lễ kính Thánh Anrê Tông Đồ, Bổn Mạng Giáo Hội Chính thống Costantinopoli, do Đức Thượng Phụ Bartolomaios I chủ sử trong nhà thờ thánh Giorgio.

Nhà thờ thánh Giorgio tọa lạc ngay bên cạnh Tòa Thượng Phụ đã có từ năm 1720 nhưng không có mái tròn, theo lệnh của nhà nước Thổ kể từ năm 1453 khi thành phố bị đế quốc Ottoman đánh chiếm, vì chỉ có các đền thờ hồi giáo mới có quyền có các tháp theo truyền thống hồi. Nhà thờ có giá trị nghệ thuật tông giáo rất lớn. Ngai của Đức Thượng Phụ được chạm trổ bằng ngà thuộc thời Bisantin sau này. Nhà thờ cất giữ một số thánh tích của vài thánh nữ được tôn kình nhất trong thành Costantinopoli cổ xưa như thánh Eufemia vùng Calcedonia. Nhà thờ cũng cất giữ một phần xương các thánh Gregorio Thần học gia và thánh Gioan Kim Khẩu, được giao trả cho Đức Thượng Phụ Bartolomaios I ngày 27 tháng 11 năm 2004.

Phụng vụ kính thánh Anrê Tông Đồ đã bắt đầu lúc 9 giờ rưỡi sáng. Phụng vụ giữ một vai trò rất quan trọng trong đời sống Giáo Hội chính thống, vì nó diễn tả thần học. Chính nhờ thần học trong phụng vụ mà Giáo Hội chính thống sống còn và duy trì được căn tính của mình giữa bao nghịch cảnh lịch sử, như dưới thời đế quốc Ottoman kéo dài từ năm 1453 cho tới năm 1921. Phụng vụ thánh bisantin chung cho tất cả mọi Giáo Hội theo truyền thống bisantin, chính thống cũng như công giáo của Hy lạp, và vùng Trung Đông, Đông Âu và Nam Italia. Cũng giống như việc cử hành của các Giáo Hội Đông Phương, việc cử hành Phụng Vụ Bisantin hướng về phía Đông, là phía mặt trời mọc, biểu tượng cho Chúa Kitô. Vị linh mục chủ tế và tín hữu hướng về phía Đông, nơi một ngày kia Chúa Kitô sẽ tới trong vinh quang của Người. Thánh phụng vụ bissantin gồm ba phần: việc chuẩn bị của linh mục, bánh rượu; phụng vụ của các Tân tòng tức phụng vụ Lời Chúa, và phụng vụ của các tín hữu.

Đức Thánh Cha đã được Đức Thượng Phụ Bartolomaios I tiếp đón và đưa vào bên trong nhà thờ. Bài đọc một trích từ thư thứ I thánh Phaolô gửi tín hữu Côrintô chương 4 câu 9 tới 16 đề cập tới các gian nan khốn khó và khổ đau mà thánh Phaolô và các cộng sự viên của mgài phải chịu vì Đức Kitô. Phúc Âm là trình thuật chương 1 thánh Gioan kể lại ơn gọi của Gioan và Anrê. Anrê giới thiệu anh mình là Phêrô với Chúa Giêsu. Thánh lễ đã được cử hành bằng tiếng Hy lap.

Đức Thánh Cha đã đọc Kinh Lạy Cha bằng tiếng Latinh. Vào cuối buổi cử hành phụng vụ Đức Thượng Phụ đã đọc diễn văn bằng tiếng Hy Lạp. Ngài nói:Thưa Người Anh em rất thánh và rất yêu mến trong Chúa Kitô, Phanxicô, Giám Mục của Roma Cổ Xưa. Chúng tôi vinh danh và chúc tụng Thiên chúa Ba Ngôi đã khiến cho chúng tôi có được niềm vui vì sự hiện diện của Đức Thánh Cha năm nay trong dịp lễ kính nhớ Thánh Anrê Tông Đồ, Vị Đầu Tiên Được Gọi, Người thành lập Giáo Hội chúng tôi. Với tình yêu sâu xa và vinh dự lớn lao chúng tôi ôm hôn Đức Thánh Cha và trao ban nụ hôn của hòa bình và tình yêu: ”Ân sủng và bình an của Thiên Chúa Cha chúng ta và của Chúa Giêsu Kitô ở cùng Ngài” (Rm 1,7). ”Thật thế, tình yêu của Chúa Kitô thôi thúc chúng ta” (2 Cr 14-15).

Đức Thượng Phụ đã nhắc tới cuộc gặp gỡ của hai người mới đậy tại Giêrsuralem, nhân kỷ niệm 50 năm cuộc gặp gỡ của Đức Athenagoras và Đức Gioan Phaolô VI tại Thánh Địa. Chính nhờ cuộc gặp gỡ ấy mà dòng lịch sử đã đôi hướng, các con đường song song, và đôi khi đối nghịch nhau, của các Giáo Hội chúng ta đã gặp nhau trong ước mơ chung tìm lại sự hiệp nhất đã đánh mất, tình yêu nguội lạnh đã được thắp sáng lên và ý chí làm tất cả những gì có thể để sự hiệp thông trong đức tin và Chén Thánh chung được tái mạnh mẽ. Từ đó mở ra con đường tiến về Emmaus, dài và đôi khi cam go, có Chúa vô hình đồng hành và tự mạc khải cho chúng ta ”trong việc bẻ bánh” (Lc 24,25). Tất cả các người kế vị các vị hướng đạo được linh hứng đó đã đi trên con đường này, bằng cách thành lập, chúc lành và nâng đỡ cuộc đối thoại của tình yêu và sự thật giữa các Giáo Hội chúng ta, nhằm cất đi các chướng ngại chồng chất suốt một ngàn năm trong các tương quan giữa chúng ta, cuộc đối thoại giữa các anh em, chứ không phải một thời giữa các đối thủ, với sự chân thành, bằng cách phân phát lời chân lý, nhưng cũng tôn trong nhau như anh em.

Tiếp đến Đức Thượng Phụ nhắc tới truyền thống tốt lành đã có từ nhiều thập niên qua: đó là sự kiện hai Giáo Hội gửi các phái đoàn tham dự lễ Bổn Mạng của nhau tại Costantinopoli và Roma. Niềm tin chung nơi Đức Giêsu Kitô Cứu Thế đã được sống bởi các Nghị Phụ của hai Giáo Hội, tụ họp lại từ đông phương và tây phương trong các Công Đồng Chung, để lại như gia tài cho các Giáo Hội của chúng ta như là nền tảng không thể sụp đổ của sự hiệp nhất. Niềm tin mà chớng ta đã cùng nhau duy trì bên đông phương và bện tây phương đó trong một ngàn năm, chúng ta lại tái được mời gọi đặt làm nền tảng của sự hiệp nhất. Với thánh PhaolÔ chúng ta hãy vượt qua ”bằng cách quên đi những gì ở đàng sau và hướng tới những gì ở phía trước” (Pl 3,14)… Bởi vì sư trung thành của chúng ta với qúa khứ có ích gì, nếu nó không có nghĩa gì đối với tương lai? Khoe khoang những gì chúng ta đã nhận lãnh có ích gì, nếu tất cả những điều đó không được thể hiện ra trong cuộc sống đối với con người và thế giới ngày nay và ngày mai? ”Chúa Kitô vẫn luôn là một, hôm qua hộm nay và như vậy mãi mãi đến muốn đời” (Dt 13,8-9) Và Giáo Hội của Người đươc mời gọi có cái nhìn không phải hướng tới hôm qua, nhưng hướng tới hôm nay và ngày mai. Giáo Hội hiện hữu cho thế giới và con người chứ không phải cho chính mình. Nhưng khi nhìn vào hôm nay chúng ta không thể không lo âu cho ngày mai. ”Các trận chiến từ bên ngoài, lo sợ ở bên trong” (2 Cr 7,6). Nhận xét của Tông Đồ Phaolô cũng hoàn toàn có giá trị đối với chúng ta ngày nay. Bởi vì trong suốt thời gian chúng ta dấn thân trong các cuộc tranh cãi, thế giới sống nỗi sợ hãi sống còn và âu lo cho ngày mai. Làm sao nhân loại ngày nay bị xâu xé bởi các chia rẽ, xung đột và thù nghịch, đôi khi nhân danh Thiên Chúa, có thể sống sòn? Sự giầu có của trái đất sẽ được phân chia cách đồng đều ra sao để ngay mai nhân loại không sống kiếp nô lệ tồi tệ hơn? Các thế hệ mai sau sẽ tìm thấy hành tinh nào để ở, khi con người thời nay tham lam tàn phá nó không thương tiếc, và không thể sửa chữa được? Nhiều người ngày nay đăt hy vọng nơi khoa học. Những người khác hy vọng nơi chính trị, người khác nữa hy vọng nơi kỹ htuật. Nhưng không có ai có thể bảo đảm cho tương lai, nếu con ngưới khộng tiếp nhận sứ điệp của sự hòa giải, của tình yêu thương và của công lý, sứ điệp chấp nhận tha nhân, chấp nhận sự khác biệt, chấp nhận cả kẻ thù nữa. Giáo Hội Chúa Kitô là người đầu tiên đã giảng dậy gà sống sứ điệp đó có bổn phận áp dụng trước hết cho chính mình ”để thế giới tin” (Ga 17,12). Chính vì thế thôi thúc hơn bao giờ hết con đường tiến về hiệp nhất giữa những người kêu cầu danh của Đấng Vĩ Đại tạo dựng hòa bình. Chính vì thế trách nhiệm của kitô hữu chúng ta lớn hơn trước mặt Thiên Chúa, con người và Lịch sử.

Tiếp tục bài diễn văn Đức Thượng Phụ ca ngợi Đức Thánh Cha Phanxicô, tuy mới được bầu làm Thủ Lãnh Giáo Hội Roma nhưng đã giảng dậy với các diễn văn, nhưng nhất là với sự đơn sơ, khiếm tốn và tình yêu đối với mọi người. Ngài linh hứng sư tin cậy nơi những kẻ nghi ngờ, niềm hy vọng cho những kẻ thất vọng, sự chờ mong nơi những người trông đợi một Giáo Hội yêu thương tất cả mọi người. Và ngài cống hiến cho các anh em Chính thống niềm hy vọng trong thời ngài sự xích lại gần nhau giữa hai Giáo Hội cổ xưa sẽ tiếp tục được xây dựng trên các nền tảng vững chắc của truyền thống chung, đã luôn luôn tôn trong và thừa nhận trong thân mình Giáo Hội một quyền tối thượng của tình yêu, danh dự và phục vụ, trong khung cảnh của tính thượng hội đồng giám mục, để ”cùng một miệng và môt tim duy nhất” tuyên xưng Thiên Chúa Ba Ngôi và đổ đầy tình yêu của Người trên thế giới.

Kính thưa Đức Thánh Cha, hôm nay Giáo Hội Costantinopoli tiếp đón Ngài với tình yêu và danh dự, cũng như với sự thừa nhận sâu xa rằng mình mang trên vai một trách nhiệm đối vời hiện tại và tương lai. Với trách nhiệm đó chúng tôi đang cấp bách làm việc để chuẩn bị chu đáo cho Thánh Đại Công Nghị của Giáo Hội Chính Thống vào năm 2016. Chúng tôi xin lời cầu nguyện của Ngài cho sự thành công của nó. Rất tiếc sự bẻ gẫy ngàn năm hiệp thông thánh thể giữa các Giáo Hội chúng ta chưa cho phép việc triệu tập một Công Đồng Đại Kết, chúng ta hãy cầu nguyện để một khi sự hiệp thông trọn vẹn được tái lập, ngày trọng đại và quan trọng ấy không chậm đến. Cho tới nay chúng ta mới chỉ tham dự vào cuộc sống công nghị của nhau bằng cách gửi các quan sát viên, và chúng tôi cũng hy vọng có phái đoàn của Giáo Hội Công giáo tham dự Thánh Đại Công Nghị sắp tới của chúng tôi. Các vấn đề mà lịch sử dấy lên trước các Giáo Hội bắt buộc chúng ta phải thắng vượt cuộc tranh cãi và cộng tác với nhau chặt chẽ chừng nào có thể để đương đầu với chúng. Sự hiệp nhất mà chúng ta cổ võ đã đươc hiện thực trong vài miền qua sự tử đạo. Vì thế chúng ta hãy cùng nhau giơ tay ra cho con người thời đại, bàn tay của một Đấng duy nhất có thể cứu nó qua Thập Giá và sự sống Lại của Người.

Đáp lới Đức Thượng Phụ Bartolomaios Đức Thánh Cha Phanxicô nói khi còn là Tổng Giám Mục Buenos Aires ngài đã nhiều lần tham dự lễ nghi phụng vụ của cộng đoàn chính thống, nhưng buổi cử hành kính thánh Anrê Tông Đồ, Người đầu tiên trong những kẻ đươc kêu gọi và là em của thánh Phêrô, Bổn Mạng Tòa Thượng Phụ Đại Kết trong nhà thờ thánh Giorgio là một ơn đặc biệt Chúa ban. Gặp gỡ nhau, nhìn vào mặt nhau, trao đổi vòng tay ôm hôn bình an, cầu nguyện cho nhau là các chiều kích nòng cốt của con đường tiến tới chỗ tái lập sự hiệp thông trọn vẹn mà chúng ta đang hướng tới. Tất cả những điều đó đồng hành với cuộc đối thoại thần học. Một cuộc gặp gỡ đích thật luôn luôn là một cuộc gặp gỡ giữa các bản vị con người với một tên gọi, một gương mặt một lịch sử, chứ không phải chỉ là một đối chiếu các tư tưởng. điều này đặc biệt đúng đối với các kitô hữu, vì đối với chúng ta chân lý là con người của Đức Giêsu Kitô. Gương của thánh Anrê Tông Đồ, cùng với một môn đệ khác tiếp nhận lời Thấy Chí Thánh mời gọi: ”Hãy đến và xem” và ”ngày hôm đó họ ở lại với Người” (Ga 1,39) cho chúng ta thấy rõ ràng là cuộc sống và việc loan báo kitô là một kinh nghiệm bản thân, một cuộc gặp gỡ biến đổi với Đấng yêu thương chúng ta và muốn cứu rỗi chúng ta. Tông Đồ Anrê đã găp anh mình là Phêrô báo cho ông biết mình đã gặp Đấng Cứu Thế và dẫn ông tới với Chúa Giêsu. Cuộc đối thoại giữa các kitô hữu cũng không thể tránh cái luận lý của cuộc gặp gỡ cá nhân đó.
Không phải vô tình mà con đường hòa giải và hòa bình giữa các tín hữu công giáo và chính thống đã được khai mào bởi một vòng tay ôm hôn giữa các vị tiền nhiệm đáng kính của chúng ta là Đức Athenagoras và Đức Phaolô VI tại Giêrusalem cách đây 50 năm. Đức Thánh Cha cũng nhắc tới kỷ niệm 50 năm công bố Đức lệnh của Công Đồng Chung Vaticăng II về hiệp nhất ”Unitatis redintegratio”, mở ra một con đường mới cho cuộc gặp gỡ giữa các tín hữu công giáo và các anh em của các Giáo Hội và cộng đoàn kitô khác.
Với Sắc lệnh này Giáo Hội công giáo thừa nhận rằng các Giáo hội chính thống ”có các bí tích đích thật và nhất là nhờ sức mạnh của việc kế vị các Tông Đồ, Chức Linh Mục và bí tích Thánh Thể, qua đó vẫn còn hiệp nhất với chúng ta bởi các mối dây chặt chẽ” (UR 15). Tài liệu khẳng định rằng để trung thành giữ gìn truyền thống kitô tràn đầy và hoàn thành sự hòa giải giữa các tín hữu kitô đông phương và tây phương thật là rất quan trọng duy trì và nâng đỡ gia tài vô cùng phong phú của các Giáo Hội Đông Phương, không phải chỉ đối với các truyền thống phụng vụ và tinh thần, mà cả các luật lệ giáo hội đã được các nghị phụ các Công Đồng phê chuẩn để quy định cuộc sống của các Giáo Hội đó (UR 15-16).

Tiếp tục bài phát biểu Đức Thánh Cha nhấn mạnh viêc tôn trọng nguyên tắc này như điều kiện chính yếu và song phương nhằm tái lập sự hiệp thông trọn vẹn. Nó không có nghĩa là người này quy phục người khác, cũng không phải là sự thu hút, nhưng là tiếp nhận mọi ơn mà Thiên Chúa đã ban cho từng người để biểu lộ cho toàn thế giới mầu nhiệm cứu độ lớn lao mà Chúa Kitô đã thực hiện qua Chúa Thánh Thần. Và Đức Thánh Cha khẳng định như sau:

Tôi muốn bảo đảm với từng người trong anh em rằng, để đạt tới đích ước mong của sự hiệp nhất trọn vẹn, Giáo Hội công giáo không có ý áp đặt bất cứ đòi hỏi nào, nếu không phải lá đòi hỏi tuyên xưng đức tin chung, và rằng chúng tôi sẵn sàng, dưới ánh sáng giáo huấn của Thánh Kinh và kinh nghiệm của ngàn năm thứ nhất, cùng nhau tìm kiếm các mô thức, qua đó bảo đảm sự hiệp nhất cần thiết của Giáo Hội trong các hoàn cảnh hiện nay: điều duy nhất mà Giáo Hội công giáo ước mong và tôi tìm kiếm như là Giám Mục Roma, là ”Giáo Hội chủ sự trong tình bác ái”, đó là sự hiệp thông với các Giáo Hội chính thống. sự hiệp thông này đã luôn luôn là hoa trái của tình yêu thương, tình yêu thương huynh đệ diễn tả mối dây tinh thần và siêu việt hiệp nhất chúng ta như các môn đệ của Chúa. Tiềp đến Đức Thánh Cha đề cập đến các vấn đề của thế giới đòi hỏi các kitô hữu phải có câu trả lời chung. Trước tiên là tiếng kêu của dân nghèo. Trong thế giới ngày nay có qúa nhiều người sau khổ vì thiếu dinh dưỡng trầm trọng, vì nạn thất nghiệp gia tăng, vì số phần trăm người trẻ không có công ăn việc làm cao, vì hiện tượng gạt bỏ bên lề xã hội gia tăng, có thể dẩn đưa tới nạn tội phạm và cả việc tuyển chọn các người khủng bố. Người trẻ không chỉ xin chúng ta trợ giúp vật chất cần thiết trong biết bao nhiêu hoàn cảnh, nhưng nhất là họ xin chúng ta giúp họ bảo vệ phẩm giá là người của họ, làm sao để họ có thể tìm lại được nghị lực tinh thần để đứng dậy và tài trở thành các tác nhân lịch sử của họ. Ngoài ra họ còn xin chúng ta chiến đấu, dưới ánh sáng Tin Mừng, chống lại các lý do cơ cấu gây ra cảnh nghèo túng: sự bất bình đẳng, thiếu nột việc làm xứng đáng, thiều đất canh tác, thiếu nhà ở, sự khước từ các quyền xã hội và công ăn việc làm. Như là kitô hữu chúng ta đựợc mời gọi cùng nhau đánh bại sự toàn cầu hóa thờ ơ, ngày nay xem ra đang thống trị, và xây dựng một nền văn minh tình thương và liên đới mới.

Tiếng kêu thứ hai là của nạn nhân các vụ xung đột trong biết bao nhiểu phần đầt của thế giới này. Tiếng kêu này chúng ta nghe vang lên rất rõ từ đây, vì vài quốc gia lân cận đang phải sống trong một cuộc chiến tàn khốc và vô nhân. Quấy phá hòa bình của một dân tộc, phạm tội bạo hành hay cho phép mọi loại bạo lực, đặc biệt chống lai các người yếu đuối không được bênh đỡ, là một tội rất trầm trọng chống lại Thiên Chúa, vì nó có nghĩa là không tôn trọng hình ảnh của Thiên Chúa nơi con người. Tiếng kêu của các nạn nhân chiến tranh thúc đẩy tín hữu công giáo va chính thống tiến bước nhanh trên con đường hòa giải và hiệp thông.

Tiếng kêu thứ ba là tiếng kệu của giới trẻ. Rất tiếc ngày nay có biết bao người trẻ sống không hy vọng, thất bại vì không tin tưởng và chịu trận. Nhiều người bị ảnh hưởng bởi nền văn hóa thống trị, chỉ tìm niềm vui trong chiếm hữu của cải vật chất và thỏa mãn các xúc cảm nhất thời. Các thế hệ mới sẽ không bao giờ chiếm hữu được sự khôn ngoan đích thực và duy trì sống động niềm hy vọng, nếu chúng ta không có khả năng đánh giá và thông truyền cho họ một nền nhân bản đích thực, vọt lên Tin Mừng và kinh nghiệm ngàn đời của Giáo Hội. Chính các người trẻ – và tôi nghĩ tới đông đảo các bạn trẻ chính thống, công giáo và tin lành tham dự các cuộc hội họp quốc tế do cộng đoàn đại kết Taizé tổ chức – họ xin chúng ta tiến bước tới sự hiệp thông trọn vẹn. Và như thế không phải là họ không biết các khác biệt còn chia rẽ chúng ta, nhưng bởi vì họ biết nhìn xa hơn, họ có khả năng tiếp nhận điều nòng cốt đã hiệp nhất chúng ta. Chúng ta đã ở trên đường tiến về sự hiệp thông trọn vẹn và có thể sống các dấu chỉ hùng hồn pua một sự hiệp nhất thực sự… Và chúng ta chắc chắn rằng dọc dài con đường này chúng ta được nâng đỡ bởi sư bầu cử của Tông Đồ anrê và anh Người là Phêrô, được truyền thống coi là các người thành lập các Giáo Hội Costantinopoli và Roma. Chúng ta hãy khẩn nài Thiên Chúa ban cho ơn lớn lao của sự hiệp nhất trọn vẹn và đừng quên Cầu nguyện cho nhau.

Tiếp đến Đức Thánh Cha và Đức Thượng Phụ đã lên bao lơn Tòa Thượng Phụ và ban phép lanh cho tín hữu. Đức Thánh Cha ban phép lành bằng tiếng Latinh, Đửc Thương Phụ ban phép lành bằng tiếng Hy lạp. Rồi hai vị hôn nhau và nắm lấy tay nhau giơ lên chào tín hữu.

Hai vi đã ký vào tuyên ngôn chung khẳng định ước muốn tiếp tục cùng nhau tiến bước để vượt thắng các chướng ngại còn chia rẽ hai Giáo Hội, cũng cố các nỗ lực thăng tiến sự hiệp nhất giữa mọi kitô hữu, nhất là giữa các tín hữu công giáo và chính thống; ủng hộ cuộc đối thoai thần học của ủy ban quốc tế do Đức Dimitrios và Đức Gioan Phaolô II thành lập cách đây 35 năm tại Fanar. Ủy ban đang thảo luận các vấn đề khó khăn nhất chia rẽ hai Giáo Hội cần được chú ý đào sâu.

Hai vi cũng bầy tỏ lo âu đối với tình hình tại Irak, Siria và toàn vùng Trung Đông, ước mong hòa bình và ổn định cũng như muốn thăng tiến giải pháp cho các xung đột qua sự đối thoại và hòa giải. Hai vị kêu gọi tất cả các giới hữu trách đối với số phận của các dân tộc gia tăng dấn thân hoạt động để cho những người khổ đau, gồm cả các tín hữu kitô, được ở lại trong quê hương của họ. Không thể chấp nhận một Trung Đông không có các kitô hữu đã tuyên xưng danh Chúa Giêsu trong hai ngàn năm qua. Xem ra người ta đã đánh mất đi giá trị của sự sống con người, và con người không còn quan trọng bị sát tế cho các lợi lộc khác, trước sự thờ ơ của nhiều người. Một chi thể khổ đau thì toàn thân mình khổ đau. đó là luật của cuộc sống kitô, vì cũng có sự đại kết trong khổ đau nữa. Máu các vi tử đạo là hạt giống của sức mạnh và sự phong phú của Giáo Hội, việc chia sẻ các khổ đau thường ngày cũng là một dụng cụ hữu hiệu của sự hiệp nhất. Tình hình khủng khiếp của vùng Trung Đông đòi buộc lời cầu nguyện và sự dấn thân của cộng đoàn quốc tế, cũng như tình liên đới của tất cả mọi người thiện chí. Tuyên ngôn cũng thừa nhận tầm quan trong của việc thăng tiến đối thoại với Hồi giáo, dựa trên sự tôn trọng và tình bạn. Tín hữu kitô và hồi giáo được mời gọi cùng nhau hoạt động cho công lý, hòa bình, tôn trộng phẩm giá và các quyền của mỗi người, đặc biệt tại các vùng ho đã chung sống hòa bình trong bao nhiêu thế kỷ qua và giờ đây chịu đau khổ vì các lầm lạc của chiến tranh. Tuyên ngôn mời gọi tất cả mọi vị lãnh đạo tôn giáo tiếp tục củng cố cuộc đối thoai liên tôn, và làm mọi sự có thể để xây dựng một nến văn hóa hòa bình và liên đới giữa mọi người và mọi dân tộc. Các vị đặc biệt cầu nguyện cho hòa bình tại Ucraina và kêu gọi các phe lâm chiến tìm đối thoại và tÔn trọng công pháp quốc tế, để chấm dứt xung khắc và cho nhân dân Ucraina được sống trong hòa hợp. Sau cùng hai vị phó thác tín hữu của mọi Giáo Hôi trên toàn thế giới cho Chúa Kitộ Cứu Thế, để họ là các chứng nhân không mỏi mệt của tình yêu Ngài, và nâng lời cầu xin Thiên Chúa ban ơn an bình, trong tình yêu và sự hiệp nhất cho toàn gia đình nhân loại.

Đức Thánh Cha và vài thành viên đoàn tùy tùng đã cùng với Đức Thượng Phụ dùng bữa trưa trên lầu ba. Sau đó ngài trở về trụ sở đại diện Tòa Thánh nghỉ ngơi chốc lát. Lúc 16 giờ chiều ngài chào 50 học sinh tỵ nạn của trung tâm Salesien trong vườn của trụ sở. Các em thuộc nhiều nước vùng Trung Đông cũng như Thỗ Nhĩ Kỳ và Phi châu, đại diện cho 600 em do các tu sĩ Don Bosco trông coi.

Đức Thánh Cha nói ngài biết các khổ đau và thiếu thốn mà các người ty nạn như các em phải chịu. Các em không chỉ mất mát vật chất, mà cả sự tư do, phải xa cách gia đình, mất đi môi trường cuộc sống và các truyền thống văn hóa và phải sống trong các điều kiện không thể chịu đựng nổi. Ngài kêu gọi cộng đồng quốc tế giúp giải quyết các cuộc xung đột, và nhắc nhở cho các vị lãnh đạo chính tri biết rằng đa số dân của họ ước mong hòa bình, cả khi họ không còn sức và tiếng để nói lên diếu đó. Ngài đánh giá cao các tổ chức bắc ái nhân đạo, trong đó có các tổ chức công giáo tại Thổ Nhĩ Kỳ, và chính quyền Thổ đã quảng đại tiếp đón và trợ giúp người ty nạn Siri và Irak. Giáo Hội công giáo, qua các tu sĩ Salesien, cũng tìm cách trơ giúp và lo lắng cho việc giáu dục đào tạo người tỵ nạn khắp nơi trên thế giới.

Lúc 16 giờ 15 giờ Đức Thánh Cha đã rời trụ sở đại diên Tòa Thánh để ra phi trường lấy máy bay về Roma. Tiễn chân Đức Thánh Cha có các giới chức chinh quyền đia phương, Đức Thượng Phụ Bartolomaios và các Giám Mục thuộc Hội Đồng Giám Mục thổ Nhĩ Kỳ. Máy bay đã cát cánh lúc 17 giờ và Đức Thánh Cha đã về tới phi trường Caimpino sau 2 giờ 40 phút bay, kết thúc ba ngày viếng thăm Thổ Nhĩ Kỳ.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio
 

LỜI CHÚA HỨA, LÒNG CON ẤP Ủ, ĐỂ CHẲNG BAO GIỜ BỘI NGHĨA BẤT TRUNG!

LỜI CHÚA HỨA, LÒNG CON ẤP Ủ, ĐỂ CHẲNG BAO GIỜ BỘI NGHĨA BẤT TRUNG

Câu chuyện xảy ra tại thành Roma vào năm 1620. Một thanh niên – tạm gọi Antonio – sống phóng túng và vô độ. Tính tình cộc cằn vũ phu khiến anh bị nhiều người oán ghét và trở thành kẻ thù chống lại anh. Họ hùa nhau tính chuyện thủ tiêu anh.

Thế nhưng, giữa cuộc sống ”dao búa” và ăn chơi trác táng ấy, anh Antonio vẫn giữ nguyên một thói quen lành thánh. Đó là việc anh thường xuyên xin lễ cầu cho Các Đẳng Linh Hồn trong Lửa Luyện Ngục. Anh đặc biệt có lòng thương xót các ngài. Anh muốn cứu giúp Các Đẳng Linh Hồn sớm được giải thoát khỏi nơi Đền Tội. Chính nghĩa cử bác ái đó đã cứu sống anh, cả hồn lẫn xác.

Một buổi tối, Antonio có chuyện phải đi về thành phố Tivoli, cách Roma khoảng 40 cây số về hướng đông bắc. Anh đi nhưng không biết mình đi vào hang kẻ thù. Bởi vì, kẻ thù biết rõ Antonio sẽ đi về hướng ấy, nên họ phục kích để giết anh. Họ núp trong một rừng cây nhỏ, mang đầy súng hỏa mai, chờ đợi giây phút Antonio đi ngang qua đó ..

Antonio cỡi ngựa bình thản nhắm thẳng hướng Tivoli. Khi gần đến nơi, anh bỗng trông thấy xác chết của một tử tội bị treo trên cây sồi. Động lòng trắc ẩn, anh cho ngựa dừng lại, đọc vài kinh cầu cho Linh Hồn kẻ quá vãng đáng thương. Bỗng chốc, tử thi hồi sinh, động đậy rồi rơi cái bịch xuống đất. Chưa hết, người chết từ từ tiến lại gần Antonio. Antonio thất kinh hồn vía đứng im như bị trời tròng. Người chết cầm lấy dây cương, bảo Antonio hãy xuống khỏi ngựa và đứng yên đó, chờ ông ta.

Antonio vô cùng ngạc nhiên, nhưng không hỏi lý do. Anh ngoan ngoãn xuống ngựa và giao cương ngựa cho người chết. Người chết lên yên và thúc ngựa chạy nhanh! Vừa tới khúc quẹo, bỗng có tiếng đạn bay vèo vèo. Những kẻ thù của Antonio bắn đạn hỏa mai xối xả vào tử thi khiến tử thi ngã gục và rơi khỏi ngựa. Trông thấy người cỡi ngựa té xuống đất, những kẻ bắn vội cao bay xa chạy. Họ nắm chắc đã giết chết Antonio!

Đứng xa xa, Antonio chứng kiến cảnh người chết lồm cồm đứng dậy và leo lên ngựa. Tử thi quay ngựa trở về chỗ Antonio đang đứng run lập cập và nói:

– Anh vừa nghe rõ những tiếng đạn hỏa mai nổ! Đó là tiếng đạn dành cho anh. Đúng ra anh rơi xuống hỏa ngục rồi! May mắn thay, Các Đẳng Linh Hồn nơi Luyện Ngục đã van xin được THIÊN CHÚA, Ngài cho phép tôi đến cứu sống anh, cả xác lẫn hồn, trong giờ phút nguy hiểm tột cùng này! Anh hãy ghi khắc công ơn trời bể ấy, bằng cách tiếp tục cầu nguyện cho Các Đẳng Linh Hồn, và còn hơn thế nữa, bằng cách thay đổi lối sống của anh.

Nói xong, tử thi trở lại chỗ cũ: treo lủng lẳng trên cây sồi. Về phần Antonio, khỏi cần phải nói, anh hoàn toàn hoán cải, thay đổi hẳn lối sống. Một thời gian ngắn sau đó, anh xin gia nhập một dòng tu và sống thánh thiện cho đến khi qua đời.

Câu chuyện minh chứng lời quả quyết của thánh Léonard de Port-Maurice (1676-1751):

– Các Linh Hồn phúc lành mà anh chị em cầu nguyện, hy sinh, làm việc thiện để xin ơn giải thoát các ngài khỏi Lửa Luyện Hình, sẽ từ Trời Cao xuống trần gian, để giúp đỡ hộ phù anh chị em trong những công việc thuộc đời này cũng như trong đời sống thiêng liêng.

Về phần thánh Augustino (354-430), ngài thường nói:

– Tôi luôn luôn nhớ cầu nguyện cho các người quá cố, để một khi các vị ấy được vào hưởng vinh quang muôn đời, đến phiên các ngài, các ngài sẽ nhớ cầu bầu cho tôi trước tòa THIÊN CHÚA Nhân Lành.

… ”Làm thế nào giữ được tuổi xuân trong trắng? Thưa phải tuân theo lời Chúa dạy. Lạy Chúa, con hết dạ kiếm tìm Ngài, xin chớ để con làm sai mệnh lệnh Chúa. Lời Chúa hứa, lòng con ấp ủ, để chẳng bao giờ bội nghĩa bất trung. Lạy Chúa, con dâng lời ca tụng, thánh chỉ Ngài, xin dạy cho con. Môi con hằng nhẩm đi nhắc lại, các quyết định miệng Ngài phán ra. Tuân theo thánh ý Ngài, con vui sướng hơn là được tiền rừng bạc bể. Con sẽ gẫm suy huấn lệnh Chúa truyền, đưa mắt nhìn theo đường lối Chúa. Con vui thú với thánh chỉ Ngài chẳng quên lời Ngài phán” (Thánh Vịnh 119, 9-16).

(Jacques Lefèvre, ”Les Âmes du Purgatoire dans la vie des Saints”, Editions Résiac, 1995, trang 41-42)

Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt
( Vietnamese Vatican Radio )

Đức Thánh Cha Phanxicô viếng thăm Thổ Nhĩ Kỳ: ngày thứ 2

Đức Thánh Cha Phanxicô viếng thăm Thổ Nhĩ Kỳ: ngày thứ 2

ISTANBUL. Trong ngày thứ hai viếng thăm Thổ Nhĩ Kỳ, ĐTC Phanxicô đã dành buổi sáng để viếng Đền thờ Hồi giáo, Bảo tàng viện thánh Sophia, và buổi chiều để cử hành thánh lễ cho các tín hữu Công Giáo, trước khi tham dự buổi cầu nguyện đại kết với Đức Thượng Phụ Chính Thống Bartolomaios I.

ĐTC đã đáp máy bay từ thủ đô Ankara bay tới thành phố Istanbul, một thành phố cổ kính với gần 14 triệu dân, cách thủ đô Ankara 450 cây số về hướng tây bắc và là thành phố duy nhất trên thế giới ở hai bên bờ Á châu và Âu châu.

Khi đã đến phi trường Istanbul, ngài được ông thị trưởng cùng với chính quyền và đặc biệt là Đức Thượng Phụ Bartolomaios tiếp đón. Liền đó ngài được hướng dẫn đi viếng Đền thờ Xanh của Hồi giáo cách đó 30 cây số.

Viếng Đền thờ Xanh

Tên chính thức của giáo đường này là ”Đền thờ Sultan Ahmet”. Đây là một trong những Đền thờ quan trọng nhất của Hồi giáo ở Istanbul được vua Ahmet I xây cất cách đây 400 năm (1609-1617) để làm nơi thờ phượng quan trọng nhất trong Đế quốc Ottoman. Thường thường các Đền thờ Hồi giáo chỉ có 4 tháp, nhưng Đền thờ này là nơi duy nhất có 6 tháp, và chỉ thua Đền thờ Ka'ba ở thánh địa La Mecca bên Arập Sauđi có 7 tháp.
Tại cửa Đền thờ, ĐTC đã được vị Đại Mufti và một Imam hướng dẫn. Tôn trọng tập tục của Hồi giáo, ĐTC cũng cởi giầy trước khi bước vào Đền thờ. Trong cuộc viếng thăm ngài cũng có một lúc thờ lạy Chúa trong thinh lặng.

Thăm Bảo tàng viện thánh Sophia

Tiếp đến ĐTC đã tới Bảo tàng viện thánh Sophia chỉ cách đó 1 cây số. Bên ngoài có hàng trăm tín hữu và dân chúng đứng chào ngài. Đây là lần đầu tiên trong cuộc viếng thăm Thổ Nhĩ kỳ có dân chúng như vậy. Họ mang những biểu ngữ và hô ”hoan hô ĐGH” khi ngài đến trước cửa Bảo tàng viện.

Nơi đây xưa kia là Vương cung thánh đường dâng kính Thiên Chúa là Đấng Khôn Ngoan, được hoàng đế Constantino xây cất năm 360 tại nơi trước đó là đền thờ của dân ngoại. Thánh đường hai lần bị hỏa hoạn phá hủy vào năm 404 và năm 532, nên hoàng đế Giustiniano đã cho xây lại để biến thành ”Vương cung thánh đường nguy nga nhất từ tạo thiên lập địa”. Hoàng đế ra lệnh thu thập trong các dinh của đế quốc những vật liệu quí giá và đá cẩm thạch đẹp nhất để xây thánh đường với 10 ngàn công nhân do 100 cai thợ điều khiển và đã hoàn thành sau gần 6 năm trời. Trong ngày khánh thành, hoàng đế Giustiniano đã thốt lên: ”Hỡi vua Salomon, tôi đã qua mặt ngài rồi!”.

Khi thành Constantinople bị Đạo binh thánh giá chiếm hồi năm 1204, Đền thờ thánh Sofia bị cướp mất những đồ trang trí quí giá, và 250 năm sau đó, khi thành này bị rơi vào tay đế quốc Ottoman, vua Mohammed II đã ra lệnh biến nhà thờ này thành Đền thờ Hồi giáo. Từ năm 1935, do lệnh của tổng thống Ataturk, Đền thờ thánh Sophia được biến thành bảo tàng viện.

ĐTC Phanxicô là vị Giáo Hoàng thứ 4 đến viếng thăm Bảo tàng viện này, lần chót là ĐGH Biển Đức 16 hồi tháng 11 năm 2006.

Khi đến Bảo tàng viện, ĐTC đã được ông tổng giám đốc tiếp đón và hướng dẫn trong cuộc viếng thăm dài nửa tiếng đồng hồ tại cựu thánh đường hùng vĩ và tráng lệ này.

Thánh lễ Công Giáo

Lúc gần 4 giờ chiều, ĐTC đã đến Nhà Thờ chính tòa Chúa Thánh Linh của Giáo hội Công Giáo ở địa phương để cử hành thánh lễ Công Giáo đầu tiên và duy nhất cho các tín hữu trong cuộc viếng thăm tại quốc gia này. Hàng trăm tín hữu nồng nhiệt chào đón ĐTC tại khuôn viên thánh đường.

Nhà thờ chính tòa Chúa Thánh Linh bắt đầu được dùng làm nơi thờ phượng từ gần 170 năm nay (1846). Tại bàn thờ thánh đường này có đặt thánh tích của một số vị thánh như thánh Linô, Giáo Hoàng tử đạo liền sau thánh Phêrô (67-69). Trong dịp lễ kính Gioan Kim Khẩu, bổn mạng của hạt đại diện Tông tòa Constantinople, ĐGH Lêo 13 đã tặng cho Nhà thờ chính tòa này hài cốt thánh Linô. Tại khuôn viên Nhà thờ chính tòa có tượng ĐGH Biển Đức 15 do người Thổ Nhĩ Kỳ dựng lên hồi năm 1919, khi ngài còn sống, để cám ơn nỗ lực của ĐGH bênh vực các nạn nhân Thổ Nhĩ Kỳ trong thế chiến thứ nhất. Ở bệ tượng có ghi hàng chữ: ”Kính tặng vị Đại Giáo Hoàng trong thảm trạng thế chiến, Đức Biển Đức 15, ân nhân của các dân tộc, không phân biệt quốc tịch, chủng tộc hoặc tôn giáo, như dấu chỉ biết ơn, Đông Phương”. Nhà Thờ này có thể chứa được 550 người.

Thánh lễ ĐTC cử hành mang sắc thái liên nghi lễ, bằng tiếng la tinh, nhưng cũng có những lời cầu nguyện bằng tiếng Arméni, Thổ Nhĩ Kỳ, Aramaico của nghi lễ Canđê, Siriac-Thổ nhĩ kỳ, tiếng Ý, Pháp, Anh và Tây Ban nha. Đồng tế với ĐTC có khoảng 50 linh mục, trước sự hiện diện của các tu sĩ nam nữ và giáo dân.

Đặc biệt Đức Thượng Phụ Chính Thống Bartolomaios I, Giáo Chủ Chính Thống Constantinople, Đức Thượng Phụ Ignace III Younan của Công Giáo Siria, và một số vị lãnh đạo khác của Kitô giáo như Tin Lành, Arméni Tông Truyền, cũng có mặt tại buổi lễ.

Bài giảng của ĐTC

Trong bài giảng ĐTC đã diễn giải về vai trò của Chúa Thánh Linh trong đời sống của Giáo Hội và các tín hữu:
Chúa Thánh Linh là linh hồn của Giáo Hội. Ngài ban sự sống, khơi dậy các đoàn sủng khác nhau làm cho Dân Chúa được phong phú và nhất là Ngài kiến tạo sự hiệp nhất giữa các tín hữu: từ nhiều người, Chúa biến họ thành một thân thể duy nhất, thân mình của Chúa Kitô. Toàn thể cuộc sống và sứ mạng của Giáo Hội tùy thuộc Chúa Thánh Linh; Ngài thực hiện mọi sự.

Như thánh Phaolô đã nhắc nhở chúng ta trong bài đọc thứ I hôm nay, chính việc tuyên xưng đức tin chỉ có thể thực hiện nhờ Chúa Thánh Linh soi dẫn: ”Không ai có thể nói ”Đức Giêsu là Chúa!” nếu họ không được Chúa Thánh Linh tác động” (1 Cr 12,3b). Khi chúng ta cầu nguyện, chính là vì Chúa Thánh Linh khơi dậy kinh nguyện trong tâm hồn chúng ta. Khi chúng ta phá vỡ cái vòng ích kỷ của mình, chúng ta ra khỏi chính mình và đến với tha nhân để gặp gỡ họ, lắng nghe, giúp đỡ họ, chính là Chúa Thánh Linh thúc đẩy chúng ta….

Chúa Thánh Linh cũng khơi dậy những đoàn sủng khác nhau trong Giáo Hội; bề ngoài điều này có vẻ là tạo nên sự xáo trộn, nhưng trong thực tế, dưới sự hướng dẫn của Ngài, điều ấy tạo nên một sự phong phú vô biên, vì Thánh Linh là thần trí hiệp nhất, nhưng không có nghĩa đồng nhất. Chỉ Thánh Linh mới có thể khơi lên sự khác biệt, đa dạng, và đồng thời kiến tạo sự hiệp nhất. Khi chúng ta muốn tạo ra sự khác biệt và khép kín mình trong những cục bộ và độc quyền của mình, thì chúng ta gây ra chia rẽ; và khi chúng ta muốn thực thi sự hiệp nhất theo những kế hoạch con người, thì rốt cuộc chúng ta tạo nên sự đồng nhất. Trái lại nếu chúng ta để cho Chúa Thánh Linh hướng dẫn, thì sự phong phú, khác biệt, đa dạng không bao giờ trở thành xung đột, vì Chúa thúc đẩy chúng ta sống sự khác biệt trong tình hiệp thông của Giáo Hội.

ĐTC nói thêm rằng:
Nhiều chi thể và đoàn sủng có một nguyên lý hòa hợp trong Thần trí của Chúa Kitô, Đấng mà Chúa Cha đã và còn tiếp tục sai đến để thực hiện sự hiệp nhất nơi các tín hữu. Chúa Thánh Linh làm cho Giáo Hội được hiệp nhất: hiệp nhất trong đức tin, trong đức ái, trong sự hòa hợp nội tâm. Hội Thánh và các Giáo Hội được mời gọi để cho Chúa Thánh Linh hướng dẫn, đặt mình trong thái độ cởi mở, ngoan ngoãn và vâng phục.

Đây là một viễn tượng hy vọng, nhưng đồng thời cũng là viễn tượng cơ cực, vì trong chúng ta luôn có cám dỗ chống lại Chúa Thánh Linh.. Ở lại trong tình trạng tĩnh và bất động thì dễ dàng và thoải mái hơn. Trong thực tế, Giáo Hội tỏ ra trung thành với Chúa Thánh Linh theo mức độ Giáo Hội không chủ trương điều hành và đòi Thánh Linh phải chiều theo ý mình. Và các tín hữu Kitô chúng ta trở thành những môn đệ chân chính, môn đệ thừa sai, có khả năng đánh động lương tâm, nếu chúng ta từ bỏ thái độ tự vệ và để cho mình được Thánh Linh hướng dẫn. Ngài chính là sự tươi mát, là óc sáng tạo và mới mẻ.

Thái độ tự vệ của chúng ta có thể được biểu lộ qua sự bám víu thái quá vào những ý tưởng, sức mạnh của mình, và thế là chúng ta rơi vào chủ thuyết tự cứu độ bằng sức riêng của mình, hoặc thái độ tham vọng và háo danh. Những thái độ tự vệ như thế ngăn cản không cho chúng ta hiểu rõ tha nhân và chân thành cởi mở đối với với họ. Nhưng Giáo Hội xuất phát từ lễ Hiện Xuống, được giao phó lửa của Thánh Linh, Đấng không làm đầy tâm trí bằng những ý tưởng, nhưng thiêu đốt tâm hồn; Giáo Hội được luồng gió của Thánh Linh thổi vào, luồng gió không thông truyền quyền lực, nhưng làm cho Giáo Hội có khả năng phục vụ trong yêu thương, một ngôn ngữ mà ai cũng có thể hiểu được.

Và ĐTC kết luận rằng: trong hành trình đức tin và đời sống huynh đệ của chúng ta, hễ chúng ta càng khiêm tốn để cho Thánh Linh của Chúa hướng dẫn, thì chúng ta càng vượt thắng được những hiểu lầm, chia rẽ và những tranh luận, chúng ta sẽ là dấu chỉ đáng tin cậy về sự hiệp nhất và an bình.

Cuối thánh lễ, Đức Cha Pelatre dòng Đa Minh, Đại diện Tông Tòa Istanbul của Công Giáo la tinh đã đại diện mọi người chào mừng và cám ơn ĐTC. Ngài nhắc đến cuộc viếng thăm của các vị Giáo Hoàng trước đây tại thánh đường này, đặc biệt là Đức Gioan 23 khi còn làm Khâm Sứ Tòa Thánh tại Thổ nhĩ kỳ. Cộng đoàn Công giáo địa phương đã vui mừng vì lễ phong hiển thánh cho Người và đã tổ chức nhiều sinh hoạt, trong đó có cả buổi thuyết trình của Đức Thượng Phụ Chính thống Bartolomaios.

ĐTC đã tặng cho Nhà Thờ chính tòa một chén lễ bằng bạc và một áo lễ.

Cầu nguyện đại kết

Sau thánh lễ Đức Thánh Cha đã đi xe tới Toà Thượng Phụ Phanar cách đó 5 cây số để tham dự buổi cầu nguyện đại kết và hội kiến riêng vời Đức Thượng Phụ Barlolomaios I.

Giáo Hội Chính Thống có khoảng 300 triệu tín hữu, đa số sống bên Đông và Bắc Âu, dọc theo các bờ biển đông bắc Địa Trung Hải và vùng Trung Đông, làm thành nhiều Giáo Hội Thượng Phụ tự trị khác nhau, nhưng liên kết với nhau trong tinh thần đức tin. Từ ”chính thống” được các kitô hữu sử dụng lần đầu tiên vào thế kỷ thứ IV để phân biệt giáo lý chính truyền với các giáo lý không chính truyền. Từ chính thống cũng ám chỉ vài Giáo Hội Đông phương tự tách rời vào thế kỷ thứ V sau cuộc tranh luận liên quan tới thiên tính của Chúa Kitô. Các Giáo Hội Chính Thống được hướng dẫn bởi một Thượng Phụ là tước hiệu của năm Giáo Hội đầu tiên là: Roma, Costantinopoli, Alessandria, Antiokia và Giêrusalem, được chính thức thừa nhận dưới thời hoàng đế Giustiniano (527-565). Tước hiệu này được ban cho Tổng Giám Mục Matscơva vào thế kỷ XVI, các Tổng Giám Mục Serbia và Bulgaria vào đầu thế kỷ XX và thủ lãnh của Giáo Hội Rumania vào giữa thế kỷ XX, trong khi thủ lãnh Giáo Hội Georgia được gọi là Thượng Phụ Catolicos. Sau cùng Giáo Hội Armeni Tông Truyền được lãnh đạo bởi một vị Catolicos. Hàng giáo phẩm chính thống gồm ba chức cổ xưa là phó tế, linh mục và giám mục.

Tòa Thượng Phụ Đại Kết là trung tâm cao nhất của Giáo Hội Chính Thống trên toàn thế giới. Đức Thượng Phụ Đại Kết là ”vị đầu tiên trong các vị bằng nhau” so sánh với các Thượng Phụ khác của Chính Thống giáo và quyền tối thượng của Costantinopoli diễn tả sự hiệp nhất của Chính Thống giáo và phối hợp các hoạt động của Chính Thống giáo. Tòa Thượng Phụ bao gồm Istanbul và bốn giáo phận khác tại Thổ Nhĩ Kỳ là Núi Athos, Creta Patmos và các đảo Dodecanneso và các giáo phận Trung Âu, Tây phương, Mỹ châu, Pakistan và Nhật bổn. Sau cùng là các vùng không trực tiếp thuộc quyền của các Thượng Phụ chính thống khác.

Từ bao thế kỷ qua trụ sở Tòa Thượng Phụ nằm cạnh nhà thờ Thánh Sophia. Sau khi thành Costantinopoli bị thất thủ vào tay người Hồi năm 1453, tòa Thượng Phụ được dời về khu phố Phanar từ năm 1601 cho tới nay.
Buổi phụng vụ đại kết đã diễn ra lúc sau 6 giờ chiều giờ địa phương. Ca đoàn hát thánh ca dẫn nhập trong khi Đức Thánh Cha và Đức Thượng Phu tiến vào nhà thờ. Bài đọc trích từ chương 8 sách ngôn sứ Dacaria miêu tả viễn ảnh ơn cứu độ thời Đấng Cứu Thế.

Ngỏ lời chào Đức Thánh Cha Đức Thượng Phụ nói chuyến viếng thăm của Đức Thánh Cha bắc một cây cầu biểu tượng nối liền Đông Tây và diễn tả tình yêu thương của Đấng chủ sự tình bác ái đối với người em, người đầu tiên đựơc Chúa gọi. Nó cũng tiếp nối các chuyến viếng thăm của các vị tiền nhiệm nhằm tái lập sự hiệp nhất trọn vẹn giữa các Giáo Hội. Nó là một sự kiện lịch sử chứa đựng nhiều cầu mong cho tương lai.

Từ bao thế kỷ nay đây là nơi các Thượng Phụ Đại Kết đã cử hành mầu nhiệm Thánh Thể và là nơi các vi tiền nhiệm đã sống, trong số đó có thánh Gregorio Thần học gia, thánh Gioan Kim Khẩu cũng như thánh tích của thánh Basilio Cả, thánh nữ Eufemia tử đạo và các vị thánh khác. Năm nay Toà Thượng Phụ Costantinopoli kỷ niệm 10 năm biến cố Giáo Hội Roma trả lại các thánh tích cho Giáo Hội Costantinopoli. Xin các thánh giáo phụ bầu cử cho các Giáo Hội của chúng ta mau được hiệp nhất như Chúa Kitô mong mỏi.

Tiếp lời Đức Thượng Phụ Đức Thánh Cha biết ơn Đức Thượng Phụ cho phép ngài đến đây để cùng cầu nguyện với Đức Thượng Phụ và Giáo Hội Costantinopoli trong khi chờ đợi cử hành lễ kính thánh Anrê Tông Đồ. Qua lời ngôn sứ Dacaria, trong buổi cầu nguyện chiều nay Chúa lai cho chúng ta nền tảng của thái độ hướng tới ngày mai là lời hứa của Ngài, tảng đá vững vàng trên đó chúng ta có thể tiến bước với niềm vui và hy vọng: ”Này đây Ta cứu thoát dân Ta từ Đông và từ Tây … trong trung tín và công lý” (Dc 8,7-8). Vâng, thưa người anh em Bartolomeo đáng kính và thân mến, trong khi tôi cảm ơn vì sự tiếp đón nồng hậu của người, tôi cảm thấy niềm vui lớn hơn nửa vì suối nguồn ở một nơi khác, nó không phải nơi sự dấn thân và các sức mạnh của chúng ta, nhưng nơi sự tín thác chung nơi sự trung tín của Thiên Chúa, là Đấng đặt nền cho việc tái thiết đền thánh Người là Giáo Hội. Đó là hạt giống của hòa bình hạt giống của niềm vui, mà thế giới không thể trao ban, nhưng Chúa Giêsu đã hứa với các môn đệ mà Đấng Phục Sinh đã ban cho họ trong quyền năng của Chúa Thánh Thần.

Hai thánh Anrê và Phêrô đã lắng nghe lời hứa và nhận được ơn đó. Họ là hai anh em trong máu huyết, nhưng cuộc gặp gỡ với Chúa Kitô đã biến họ thành anh em trong đức tin và đức mến. Trong buổi chiều tươi vui này, trong lời cầu nguyện canh thức này nhất là tôi muốn nói lên điều này: là anh em trong niềm hy vọng. Thật là một ơn có thể là anh em trong niềm hy vọng của Chúa Phục sinh và thật là một trách nhiệm có thể cùng nhau bước đi trong niềm hy vọng ấy và được hai anh em thánh Anrê và Phêrô nâng đỡ!. Và biết rằng niềm hy vọng này không gây thất vọng bởi vì nó được dựa trên lòng trung thánh của Thiên Chúa chứ không phải dựa trên chúng ta và trên các sức nghèo nàn của chúng ta! Với niềm hy vọng tươi vui này tràn đầy lòng biết ơn và chờ đợi, tôi xin gửi tới Đức Thượng Phụ và mọi người hiện diện và Giáo Hội Costantinopoli lời chào thân ái huynh đệ và lời mừng lễ Thánh Bổn Mạng tươi vui.

Tiếp đến cả hai vị cùng đọc Kinh Lậy Cha bằng tiếng Latinh. Đức Thánh Cha ban phép lành bằng tiếng Latinh. Đức Thượng Phụ ban phép lành bằng tiếng Hy lạp.

Hội kiến
Sau buổi phụng vụ đại kết Đức Thánh Cha và Đức Thượng Phụ đã lên lầu hai Tòa Thượng Phụ để hội kiến riêng với nhau. Tiếp đến hai bên đã trao đổi quà tăng. Đức Thánh Cha đã tặng Đức Thượng Phụ một bức khảm đá mầu hình Chúa Kitô thuộc thế kỷ thứ IX, lấy từ mộ của thánh Phêrô, dưới bàn thờ tuyên xưng đức tin.
Lúc sau 7 giờ chiều Đức Thánh Cha đã rời Tòa Thượng Phụ để trở lại tòa đại điện Tòa Thánh ở Istanbul nằm cách đó 5 cây số để dùng bữa tối kết thúc ngày thứ hai viếng thăm Thổ Nhĩ Kỳ.

G. Trần Đức Anh OP, Linh Tiến Khải – Vatican Radio

 

Đức Thánh Cha Phanxicô bắt đầu viếng thăm Thổ Nhĩ Kỳ

Đức Thánh Cha Phanxicô bắt đầu viếng thăm Thổ Nhĩ Kỳ

VATICAN. Sáng ngày 28-11-2014, ĐTC Phanxicô đã đến viếng thăm Thổ Nhĩ kỳ trong 3 ngày, cho đến chiều chúa nhật 30-11 tới đây.

Cơ hội chính trong cuộc viếng thăm của ngài lễ kính thánh Anrê Tông Đồ, bổn mạng của Giáo Hội Chính Thống Constantinople, là Giáo Hội đứng đầu trong số 15 Giáo Hội Chính Thống trên thế giới.

ĐTC Phanxicô là vị Giáo Hoàng thứ 4 đến viếng thăm Thổ Nhĩ Kỳ. Vị đầu tiên là Đức Chân Phước Giáo Hoàng Phaolô 6, đến thăm nước này cách đây 47 năm, tức là trong hai ngày 25 và 26 tháng 7 năm 1967.

Vài nét về Thổ Nhĩ kỳ
Thổ nhĩ kỳ có diện tích rộng gấp đôi Việt Nam, với gần 780 ngàn cây số vuông, và hiện có 76 triệu dân cư, trong đó 98% là tín hữu Hồi giáo gồm 68% là người Sunnit và 30% là người Shiite. Giáo Hội Công Giáo chỉ là một đoàn chiên rất bé nhỏ với 53 ngàn người, tương đương với 0,07% thuộc 7 giáo phận với 54 giáo xứ và 13 trung tâm mục vụ khác. Nhân sự mục vụ của Công Giáo tại đây chỉ có 6 GM phụ trách 3 hạt đại diện tông tòa theo lễ nghi la tinh, với sự cộng tác của 58 LM, trong số này chỉ có 6 LM giáo phận, phần còn lại 52 vị thuộc các dòng tu. Cả nước chỉ có 7 tu huynh và 54 nữ tu, 4 chủng sinh.

Cách đây 8 năm khi ĐGH Biển Đức 16 thăm Thổ nhĩ kỳ, số LM giáo phận tại đây là 13 vị, như vậy, có nghĩa là số LM tại đây trong thời gian qua bị giảm mất quá một nửa!

Theo Hiệp ước hòa bình ký ở Lausanne Thụy Sĩ hồi năm 1923, các tôn giáo thiểu số tại Thổ Nhĩ Kỳ được bình đẳng về quyền lợi như các công dân Hồi giáo khác và được hưởng các quyền tự do lương tâm, tín ngưỡng và tư tưởng, như hiến pháp quốc gia qui định. Nhưng trong thực tế, Kitô hữu vẫn còn bị kỳ thị về nhiều mặt, Giáo Hội Công Giáo vẫn không được công nhận về mặt pháp lý, và người dân Thổ nhĩ kỳ vẫn coi Kitô giáo là đạo từ nước ngoài.

Viếng thăm lăng Ataturk

Ngày đầu tiên trong cuộc viếng thăm của ĐTC tại Thổ Nhĩ kỳ được dành cho các nghi thức ngoại giao: viếng thăm lăng nhà lập quốc Thổ, thăm Tổng thống và chính quyền, gặp Phân bộ tôn giáo vụ.

ĐTC đã tới phi trường Ankara lúc 1 giờ trưa sau 3 giờ bay từ Roma. Từ trên máy bay bước xuống, ĐTC đã được một vị Bộ trưởng đại diện chính quyền cùng với giáo quyền địa phương tiếp đón. Liền đó ngài đến viếng lăng của Mustafa Kemal Ataturk cách đó 45 cây số. Ông là nhà sáng lập và là tổng thống đầu tiên của Cộng hòa Thổ Nhĩ kỳ từ năm 1923 đến 1938, và thường được gọi là ”Người cha già của dân tộc Thổ nhĩ kỳ”. Với chế độ Cộng hòa, Thổ Nhĩ Kỳ vĩnh biệt chế độ Vương quốc Ottoman trước kia, Hồi giáo không còn được coi là quốc giáo, Nhà Nước Thổ giữ vị thế ”đời”, trung lập đối với tôn giáo, bãi bỏ chế độ Vua Hồi giáo, thay luật Coran bằng dân luật, bỏ mẫu tự Arập và thay bằng mẫu tự la tinh.

Tại lăng Ataturk, ĐTC và đoàn tùy tùng đã được vị Chỉ Huy Trưởng binh đoàn canh giữ đón tiếp và ngài đã đặt vòng hoa màu trắng và đỏ trước mộ bằng cẩm thạch của nhà lập quốc Thổ, trước khi tiến sang sảnh đường ở nhà bên cạnh để ký tên vào sổ vàng.

Ngài viết trong sổ này: ”Tôi chân thành cầu chúc cho Thổ Nhĩ kỳ, chiếc cầu thiên nhiên nối liền giữa hai Đại Lục, không những là ngã tư đường, nhưng còn là nơi gặp gỡ, đối thoại và sống chung thanh thản giữa những con người nam nữ thiện chí thuộc mọi nền văn hóa, chủng tộc và tôn giáo”.

Gặp tổng thống

Rời lăng vị lập quốc, ĐTC đã tới phủ tổng thống Thổ Nhĩ Kỳ cách đó 8 cây số, nơi diễn ra nghi thức đón tiếp chính thức.

Dinh tổng thống này mới được khánh thành cách đây 2 năm, quen gọi là Dinh Thự trắng, thay thế phủ tổng thống cũ. Dinh mới này có 1 ngàn căn phòng, và có một Đền thờ Hồi giáo có thể chứa được 5 ngàn tín hữu.
Có nhiều người phê bình việc xây phủ Tổng thống nguy nga như vậy, trên một diện tích hơn 300 ngàn mét vuông, hơn cả Tòa Bạch Cung của Mỹ, điệm Kremli của Nga hoặc điện Buckingham của Anh quốc. Chi phí xây tòa nhà này lên tới 350 triệu Euro. Có những người xin ĐGH đừng đến đó, nhưng Cha Lombardi Giám đốc phòng báo chí Tòa Thánh cho biết lời yêu cầu này không để nhận được theo nghi thức ngoại giao quốc tế: vị quốc khách phải chấp nhận nơi mình được tiếp đón.

Tại Phủ tổng thống lúc quá 2 giờ rưỡi chiều hôm qua, giờ địa phương, đã diễn ra nghi thúc đón tiếp chính thức, với các kỵ, đoàn quân danh dự và quốc ca, và sự giới thiệu hai phái đoàn. Tổng thống Recep Tayyip Erdogan năm nay 60 tuổi, đón tiếp ĐTC tại cổng vào dinh. Ông nguyên là thị trưởng thành Istanbul rồi làm thủ tướng trong 11 năm trời, trước khi được bầu tổng thống ngày 28-8 năm nay.

ĐTC và tổng thống đã giới thiệu hai phái đoàn liên hệ, trước khi hội kiến riêng trong dinh, rồi tiến ra sảnh đường trước sự hiện diện của đông đảo các giới chức chính quyền Thổ Nhĩ kỳ và ngoại giao đoàn.

Diễn văn ca ĐTC

Lên tiếng sau lời chào mừng của Tổng Thống Erdogan, ĐTC nhắc đến vẻ đẹp, lịch sử phong phú, đầy những vết tích văn minh, và là chiếc cầu tự nhiên nối liền hai đại lục Âu Á, cũng như là phần đất quí giá đối với lịch sử Kitô giáo, ĐTC đề cao sức sinh động, sự cần cù và quảng đại của dân tộc Thổ Nhĩ kỳ hiện nay. Ngài cũng nói rằng:
”Thật là một lý do vui mừng đối với tôi được cơ hội tiếp tục với quí vị một cuộc đối thoại thân hữu, quí chuộng và tôn trọng, theo vết các vị tiền nhiệm của tôi, chân phước Phaolô 6, thánh Gioan Phaolô 2 và Biển Đức 16, cuộc đối thoại đã được chuẩn bị và tạo điều kiện thuận lợi nhờ hoạt động của vị Khâm Sứ Tòa Thánh bấy giờ là ĐGM Angelo Giuseppe Roncalli, nay là thánh Gioan 23, và nhờ Công đồng chung Vatican 2.

Chúng ta cần một cuộc đối thoại đào sâu sự hiểu biết và với sự phân định, đề cao giá trị của bao nhiêu điều chúng ta có chung với nhau, và đồng thời giúp chúng ta cứu xét những khác biệt, với tâm hồn khôn ngoan và thanh thản, để có thể rút ra những bài học từ đó.

Cần kiên nhẫn tiếp tục thi hành quyết tâm kiến tạo một nền hòa bình vững chắc, dựa trên sự tôn trọng các quyền lợi và nghĩa vụ căn bản gắn liền với phẩm giá con người. Nhờ con đường này, chúng ta có thể vượt thắng những thành kiến và những sợ hãi sai trái, và thay vào đó dành chỗ cho sự quý chuộng, gặp gỡ, phát triển những nghị lực tốt đẹp nhất để mưu ích cho mọi người.

Để đạt mục tiêu ấy, điều cơ bản là các công dân Hồi giáo, Do thái và Kitô giáo, – trong các qui định của luật pháp cũng như trong thực thực thi các luật ấy – được hưởng cùng những quyền và tôn trọng cùng nghĩa vụ. Như thế, họ sẽ dễ dàng nhận ra mình là anh chị em và là những người đồng hành, ngày càng tránh được những hiểu lầm và tạo điều kiện cho sự cộng tác và cảm thông. Tự do tôn giáo và tự do ngôn luận, nếu được bảo đảm thực sự cho tất cả mọi người, thì sẽ kích thích sự triển nở tình thân hữu, trở thành một dấu chỉ hùng hồn về hòa bình.
ĐTC nói thêm rằng: ”Trung Đông, Âu Châu, thế giới đang chờ đợi sự triển nở ấy. Đặc biệt Trung Đông, từ quá lâu rồi là nơi diễn ra các cuộc chiến tranh

huynh đệ tương tàn, dường như chiến tranh này sinh ra chiến tranh khác, như thể câu trả lời duy nhất cho chiến tranh và bạo lực luôn luôn phải là một cuộc chiến tranh mới và bạo lực mới.

ĐTC đặt câu hỏi:
”Trung Đông còn phải chịu đau khổ đến bao giờ nữa vì thiếu hòa bình? Chúng ta không thể cam chịu sự tiếp tục các cuộc xung đột như thể không thể có một sự cải tiến nào cho tình thế! Với sự trợ giúp của Thiên Chúa, chúng ta có thể và luôn luôn phải canh tân lòng can đảm hòa bình! Thái độ này dẫn đến việc chân thành, kiên nhẫn và quyết liệt sử dụng mọi phương thế thương thuyết, và nhờ đó đạt tới những mục tiêu cụ thể hòa bình và phát triển lâu dài.

”Thưa Tổng Thống, để đạt tới mục tiêu cao cả và cấp thiết ấy, một đóng góp quan trọng có thể đến từ đối thoại liên tôn và liên văn hóa, để loại trừ mọi hình thức cực đoan và khủng bố, nó gây thương tổn trầm trọng cho phẩm giá của mỗi người và lạm dụng tôn giáo.

Cần chống lại trào lưu cuồng tín và cực đoan, những sự sợ hãi vô lý kích thích sự hiểu lầm và kỳ thị, bằng cách thực thi tình liên đới của tất cả những người có tín ngưỡng, với những cột trụ là tôn trọng sự sống con người, tự do tôn giáo, là tự do phụng tự và tự do sống theo luân lý đạo đức tôn giáo, cố gắng bảo đảm cho tất cả mọi người những gì cần thiết để sống xứng đáng, và chăm sóc môi trường thiên nhiên. Các dân tộc và quốc gia ở Trung Đông đang cấp thiết cần điều này để có thể lượt ngược xu thế, và thi hành hữu hiệu một tiến trình bình định, nhờ sự loại bỏ chiến tranh và bạo lực, và theo đuổi đối thoại, công pháp và công lý.

Thực vậy, cho đến nay, rất tiếc là chúng ta còn chứng kiến những cuộc xung đột trầm trọng. Đặc biệt tại Siria và Irak, bạo lực khủng bố không có dấu hiệu suy giảm. Người ta ghi nhận có sự vi phạm các luật lệ cơ bản nhất về nhân đạo đối với các tù nhân và toàn bộ các nhóm chủng tộc; chúng ta đã và còn thấy những cuộc bách hại nặng nề chống lại các nhóm thiểu số, đặc biệt là những người Kitô và Yézidi, và không phải chỉ có họ mà thôi: hàng trăm ngàn người buộc lòng phải rời bỏ gia cư và quê hương của họ để thoát thân và trung thành với tín ngưỡng của mình.

Thổ Nhĩ Kỳ, khi quảng đại đón nhận một số lớn người tị nạn, đang trực tiếp chịu hậu quả của tình trạng bi thảm này ở vùng biên giới của mình, và cộng đồng quốc tế có nghĩa vụ luân lý phải trợ giúp Thổ Nhĩ Kỳ trong việc săn sóc những người tị nạn. Cùng với sự trợ giúp nhân đạo cần thiết, ta không thể dửng dưng trước những gì gây nên những thảm trạng ấy. Trong khi tái khẳng định sự hợp pháp ngăn chặn kẻ gây hấn bất chính, tôi cũng muốn nhắc nhớ rằng không thể ủy thác việc giải quyết vấn đề bằng giải pháp quân sự mà thôi.

Cần có sự dấn thân chung mạnh mẽ, dựa trên sự tín nhiệm lẫn nhau, là cho hòa bình được lâu bền và sau cùng giúp dành những tài nguyên không phải cho việc võ trang, nhưng cho những cuộc chiến thực sự xứng đáng với con người: cuộc chiến chống nghèo đói và bệnh tật, để phát triển dài hạn và bảo tồn thiên nhiên, cứu giúp bao nhiêu hình thức nghèo đói và bị loại bỏ vẫn còn trong thế giới tân tiến ngày nay.

Do lịch sử của mình và do vị trí địa lý, cũng như vì tầm quan trọng trong miền này, Thổ Nhĩ Kỳ có một trách nhiệm lớn: những chọn lựa và gương của nước này có một giá trị đặc biệt và có thể là trợ lực lớn để tạo điều kiện cho một gặp gỡ giữa các nền văn minh và tìm ra những con đường hòa bình và tiến bộ có thể thực hiện được.
Xin Đấng Tối Cao chúc lành và bảo vệ Thổ Nhĩ kỳ và giúp đất nước này là người xây dựng hòa bình hữu hiệu và đầy xác tín!

Gặp chủ tịch cơ quan lãnh đạo Hồi giáo

Sau bài diễn văn, ĐTC còn gặp thủ tướng Ahmet Davutoglu cũng tại Phủ tổng thống, rồi ngài đến trụ sở của phân bộ tôn giáo vụ gọi là Diyanet cách đó 10 cây số để hội kiến với giáo sư Mehmet Gormez chủ tịch của cơ quan này. Đây là thẩm quyền cao nhất của Hồi giáo tại Thổ nhĩ kỳ và do chính phủ bổ nhiệm. Phân bộ tôn giáo vụ có quyền tài phán trên tất cả các Hội đường Hồi giáo trên toàn quốc và giám sát để việc giải thích kinh Coran được phù hợp với đường hướng của Nhà Nước.

Mặc dù Thổ nhĩ kỳ có đại đa số dân là tín hữu Hồi giáo, nhưng Hồi giáo không còn là quốc giáo kể từ năm 1923.
Tại trụ sở Phân bộ Tôn giáo vụ, ĐTC đã được giáo sư Gormez cùng với hai đại Mufti của cộng đoàn hồi giáo ở thủ đô Ankara và thành Istanbul đón tiếp và hội kiến cùng với các Hồng y thuộc đoàn tùy tùng và giới báo chí quốc tế.
Giáo Sư Gormez năm nay 55 tuổi (1959), tốt nghiệp Hồi giáo học tại Đại học Ankara và giảng dạy tại đại học Hacettep trước khi được bổ nhiệm vào chức vụ này cách đây 4 năm. Từ khi giữ chức vụ này, nhiều lần ông lên tiếng tố giác trào lưu ghét bỏ Hồi giáo tại các nước tây phương, cả những vụ tấn công các Đền thờ Hồi giáo, như thường xảy ra ở Cộng hòa Liên bang Đức, nơi có hơn 4 triệu người gốc Thổ nhĩ kỳ sinh sống. Hồi tháng 9 năm nay, ông đã lên tiếng cho rằng ĐGH chưa làm đủ để bênh vực Hồi giáo trước làn sóng ghét bỏ và giải thích sai lầm về Hồi giáo.

Sau khi hội kiến, ĐTC và ông Chủ tịch Gormez đã tiến sang sảnh đường trước sự hiện diện của giới báo chí quốc tế.

Diễn văn ca ĐTC

Lên tiếng sau lời chào mừng của Ông Gormez, ĐTC nhắc đến những quan hệ tốt đẹp và cuộc đối thoại giữa các vị lãnh đạo tôn giáo và ngài gọi đây là một sứ điệp rõ ràng gửi đến các cộng đồng liên hệ, nói lên rằng sự tôn trọng lẫn nhau và tình thân hữu là điều có thể, mặc dù có những khác biệt. Đó là sứ điệp có ý nghĩa đặc biệt và quan trọng trong thời đại khủng hoảng như ngày nay, tại một số vùng trên thế giới cuộc khủng hoảng ấy trở thành những thảm trạng thực sự cho toàn thể dân chúng. Chiến tranh, những căng thẳng và xung đột giữa các chủng tộc và tôn giáo; đói nghèo đang đè nặng trên hằng triệu người; chúng tạo nên những thiệt hại cho môi trường thiên nhiên, cho không khí, nước, và đất. Tình trạng tại Trung Đông thực là bi thảm, nhất là tại Irak và Siria. Vì một nhóm cực đoan và duy căn, toàn bộ các cộng đoàn, nhất là các tín hữu Kitô và người Yézidi, và không phải chỉ họ mà thôi, đã phải bỏ mọi sự để thoát thân và khỏi chối bỏ đức tin. Bạo lực cũng giáng xuống trên các nơi thánh, các đền đài, các biểu tượng tôn giáo và gia sản văn hóa, hầu như muốn xóa bỏ mọi vết tích, mọi ký ức của người khác.
ĐTC nhận xét rằng trong tư cách là các vị lãnh đạo tôn giáo, chúng ta có nghĩa vụ tố giác mọi vi phạm phẩm giá và các quyền con người. Sự sống con người, là hồng ân của Thiên Chúa Tạo Hóa, có tính chất thánh thiêng. Bạo lực dùng tôn giáo để biện minh cho hành động của mình là điều đáng bị lên án quyết liệt, vì Đấng Toàn Năng là Thiên Chúa của sự sống và hòa bình. Thế giới đang chờ đợi nơi tất cả những người tôn thờ Chúa, mong họ trở thành những người hòa bình, có khả năng sống với nhau như anh chị em, mặc dù có những khác biệt về chủng tộc, tôn giáo, văn hóa hoặc ý thức hệ.

Cần làm việc chung để tìm ra những giải pháp thích hợp. Điều này đòi có sự cộng tác của tất cả mọi phía: chính quyền, các vị lãnh đạo chính trị và tôn giáo, các đại diện của xã hội dân sự, và mọi người nam nữ thiện chí. Đặc biệt các vị lãnh đạo các cộng đoàn tôn giáo. Là tín hữu Hồi giáo và Kitô giáo, chúng ta mang theo những kho tàng tinh thần vô giá, trong đó chúng ta nhận ra những yếu tố chung, tuy được sống theo những truyền thống riêng: đó là sự tôn thờ Thiên Chúa từ bi, sự tham chiếu tổ phụ Abraham, việc cầu nguyện, làm phúc, chay tịnh – đó là những yếu tố nếu được sống chân thành, thì có thể biến đổi cuộc sống và mang lại một nền tảng vững chắc cho phẩm giá và tình huynh đệ của con người.

Sự kiện cùng nhau nhìn nhận tính chất thánh thiêng của nhân vị cũng hỗ trợ sự cảm thông chung, tình liên đới và sự trợ giúp thực sự dành cho những người đau khổ.

Sau cùng, ĐTC bày tỏ lòng quí chuộng đối với những gì dân tộc Thổ Nhĩ Kỳ, dù là người Hồi giáo hay Kitô giáo, đang làm cho hàng trăm ngàn người tị nạn rời bỏ quê hương họ vì chiến tranh. Ngài cũng bày tỏ hài lòng vì những quan hệ tốt đẹp và sự cộng tác giữa Phân bộ Tôn giáo Diyanet và Hội đồng Tòa Thánh đối thoại liên tôn, như một dấu chỉ sự đối thoại chân thành để mưu ích cho tất cả mọi người, là dấu chỉ hy vọng cho một thế giới đang rất cần hòa bình, an ninh và thịnh vượng.

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

 

Thư Đức Thánh Cha nhân dịp Năm về Đời Sống Thánh Hiến

Thư Đức Thánh Cha nhân dịp Năm về Đời Sống Thánh Hiến

VATICAN. ĐTC Phanxicô gửi thư cho những người thánh hiến trong toàn thể Giáo Hội, kêu gọi kiểm điểm ơn gọi, dấn thân canh tân đoàn sủng, tăng cường tình hiệp thông, đi tới các khu ngoại ô của cuộc sống, quan tâm giúp đỡ những người nghèo.

Trên đây là một vài điểm trong lá thư thật dài ĐTC công bố hôm 28-11-2014 và gửi đến những người nam nữ thánh hiến, nhân dịp năm về đời sống thánh hiến, bắt đầu từ chúa nhật 30-11-2014, và kéo dài đến ngày 2-2 năm 2016, lễ Dâng Chúa vào Đền Thánh.

Thư của ĐTC gồm 3 phần: trước tiên về những mục tiêu của năm về đời sống thánh hiến, tiếp đến là những mong đợi của ĐTC nơi những người thánh hiến trong năm này, sau cùng là những chân trời của năm về đời sống thánh hiến.

Trong phần đầu, ĐTC nói đến 3 mục tiêu của năm này, đó là nhìn lại quá khứ trong niềm biết ơn: mỗi gia đình đoàn sủng hãy nhớ lại sự khởi đầu và phát triển của mình, để cảm tạ Thiên Chúa đã ban cho Giáo Hội bao nhiêu hồng ân. Năm này cũng là cơ hội để khiêm tốn xưng thú những dòn mỏng yếu đuối của mình và tín thác nơi Thiên Chúa là Tình Thương.

Mục tiêu thứ hai: năm về đời sống thánh hiến mời gọi sống hiện tại trong niềm hăng say, để cho mình được Tin Mừng của Chúa gọi hỏi, để Tin Mừng thực sự là cẩm nang cho đời sống thường nhật và những chọn lựa chúng ta được kêu gọi thực hiện, kiểm điểm sự trung thành đối với sứ mạng đã được ủy thác. ĐTC khẳng định rằng: ”Sống hiện tại trong niềm hăng say đó nghĩa là trở thành những chuyên gia về hiệp thông, thành chứng nhân và là người kiến tạo dự án hiệp thông ấy.”

Mục tiêu thứ ba là đón nhận tương lai với niềm hy vọng, mặc dù có đủ loại khó khăn. ĐTC khẳng định rằng niềm hy vọng ở đây không dựa trên những con số và những công việc, nhưng trên Đấng mà chúng ta tín thác (2 Tm 1,12) và đối với Chúa, không gì là không có thể. ”Anh chị em đừng chiều theo cám dỗ của những con số và hiệu năng, và càng không nên cậy dựa vào sức riêng của mình”.

– Trong số những mong đợi ĐTC đề ra trong năm về đời sống thánh hiến, ngài mong muốn rằng nơi nào có các tu sĩ thì nơi đó có niềm vui: ”Chúng ta được kêu gọi cảm nghiệm và chứng tỏ rằng Thiên Chúa có thể làm cho tâm hồn chúng ta được sung mãn và làm cho chúng ta được hạnh phúc, chúng ta không cần tìm hạnh phúc ở nơi khác; ước gì tình huynh đệ chân thành trong cộng đoàn chúng ta nuôi dưỡng niềm vui của chúng ta”.

Mong đợi thứ hai của ĐTC là ngài muốn các tu sĩ thức tỉnh thế giới, trở thành những ngôn sứ làm chứng về cách thức Chúa Giêsu đã sống trên trái đất này. Không bao giờ tu sĩ được từ bỏ sứ vụ ngôn sứ của mình.

Mong đợi thứ ba là linh đạo hiệp thông trở thành thực tại trong các cộng đoàn và những người thánh hiến đi hàng đầu trong việc đương đầu với thách đố biến Giáo Hội thành nhà và là trường hiệp thông. ĐTC viết:

”Tình hiệp thông được thực thi trước tiên giữa lòng các cộng đoàn dòng tu liên hệ. Về điểm này tôi mời gọi anh chị em hãy đọc lại những lời mà tôi thường lập lại, đó là: những lời phê bình, nói hành nói xấu, ghen tị ghen tương, đố kỵ, là những thái độ không có quyền được ở trong các nhà của chúng ta. Sau khi đặt tiền đề đó, con đường bác ái mở ra trước mắt chúng ta hầu như là vô biên, vì đây là vấn đề theo đuổi sự đón tiếp và quan tâm đối với nhau, thực thi sự hiệp thông của cải vật chất và tinh thần, sửa lỗi cho nhau, tôn trọng những người yếu hơn.. 'Sống chung với nhau thật là một khoa thần bí'.

Sau cùng, ĐTC kêu gọi mọi thành phần Giáo Hội, nhất là những người thánh hiến hãy ra khỏi mình để tới các vùng ngoại ô của cuộc sống, đáp ứng những mong đợi của thế giới. Ngài viết: ”Có cả một nhân loại đang chờ đợi, những người đã mất hết mọi hy vọng, các gia đình gặp khó khăn, các trẻ em bị bỏ rơi, người trẻ bị chặn mất mọi tương lai, bệnh nhân, người già bị bỏ rơi, người giàu đầy dư của cải nhưng tâm hồn trống rỗng…”

Trong phần III của lá thư, ĐTC ngỏ lời với các giáo dân liên kết với các tu sĩ trong đoàn sủng. Ngài cũng nhắc nhở rằng Năm về đời sống thánh hiến cũng có liên hệ tới toàn thể Giáo Hội, vì thế ngài mời gọi các tín hữu hãy ý thức về hồng ân là sự hiện diện của bao nhiêu ngừơi thánh hiến, những người thừa kế của các vị đại thánh.
ĐTC không quên nhắc nhở các GM hãy nồng nhiệt và vui mừng đón nhận đời sống thánh hiến trong giáo phận liên hệ như ”một gia sản tinh thần góp phần vào thiện ích của toàn thể thân mình Chúa Kitô” (LG 43) (SD 28-11-2014)

Ân xá trong Năm v đời sống thánh hiến

Đồng thời với thư của ĐTC, Tòa Ân Giải tối cao đã công bố Sắc lệnh ký ngày 23-11-2014 ấn định những công việc cần thực thi để được hưởng ơn toàn xá ĐTC rộng ban trong Năm về đời sống thánh hiến.

A. Tại Roma, mỗi khi các tu sĩ và tín hữu tham dự các cuộc gặp gỡ quốc tế và các buổi cử hành được ấn định trong lịch trình do Bộ các dòng tu thiết lập, và dành một thời gian thích hợp để suy niệm, và kết thúc bằng kinh Lạy Cha, kinh Tin Kính, và kêu cầu khẩn Đức Mẹ.

B. Tại tất cả các giáo phận, trong những ngày của giáo phận dành cho Đời sống thánh hiến và trong các buổi cử hành của giáo phận được đề ra cho Năm về đời sống thánh hiến, mỗi khi các tu sĩ và tín hữu kính viếng Nhà thờ chính tòa hoặc một nơi thánh khác được chỉ định với sự đồng thuận của vị Bản quyền địa phương, hay trong một thánh đường tu viện hay nguyện đường của một Đan viện chiêm niệm, đọc Phụng vụ các giờ kinh công khai hoặc dành một khoảng thời gian thích hợp để suy niệm, và kết thúc với Kinh Lạy Cha, kinh Tin Kính và sốt sắng cầu khẩn Đức Mẹ.

Các thành viên các Hội dòng đời sống thánh hiến vì bệnh tật hoặc vì lý do hệ trong không thể viếng thăm các nơi thánh, cũng có thể được hưởng ơn toàn xá, nếu có lòng xa tránh tội lỗi và có ý hướng sớm thực thi các điều kiện thường lệ, kính viếng trong tinh thần với ước muốn sâu xa và dâng bệnh tật và những cơ cực của cuộc sống mình cho Thiên Chúa, nhờ Mẹ Maria, và thêm những kinh nguyện như nói trên.

Ân xá trên đây được ban với điều kiện thường lệ là xưng tội, rước lễ và cầu nguyện theo ý ĐTC.

G. Trần Đức Anh OP– Vatican Radio

 

Đức Thánh Cha bàn về chán nản và hy vọng

Đức Thánh Cha bàn về chán nản và hy vọng

Thực tại có thể bẽ bàng, nhưng bất chấp đau khổ, băng hoại và sự thờ ơ trong thế giới ngày nay, là những Kitô hữu chúng ta phải ngẩng cao đầu trong hy vọng. Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói như trên trong thánh lễ sáng thứ Năm, 27 tháng 11 tại nhà nguyện Santa Marta.

Suy tư trên các bài đọc trong ngày, Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói về số phận của hai thành Babylon và Giêrusalem. Ngài chỉ ra rằng cả hai bài đọc trích từ sách Khải Huyền và từ Tin Mừng của Thánh Luca đều lôi cuốn sự chú ý của chúng ta đến thời kỳ thế mạt.

Đức Thánh Cha lưu ý rằng các bài đọc đã đề cập đến sự sụp đổ của hai thành phố đã từ chối đón nhận Chúa và xa lánh Ngài. Hai thành phố này đã sụp đổ vì những lý do khác nhau. Babylon là “biểu tượng của sự dữ, và tội lỗi” và “sụp đổ vì sự băng hoại của nó”. Thành phố này tin rằng nó là “phi tần của thế giới và của chính nó”. Khi “tội lỗi chất chứa anh chị em sẽ mất khả năng chống trả và bắt đầu băng hoại”. Điều này cũng xảy ra với “một dân tộc băng hoại, là những người không còn sức để chống trả nữa”.

“Sự băng hoại đem lại cho con người chút hoan lạc nào đó. Nó đem lại cho anh chị em quyền lực và làm cho anh chị em cảm thấy hài lòng với chính mình. Nhưng nó khiến cho chúng ta không còn chỗ cho Chúa, cho sự ăn năn hoán cải. Kinh thành này băng hoại … Từ ‘băng hoại’ nói với chúng ta rất nhiều điều. Không chỉ băng hoại trong kinh tế, nhưng còn băng hoại với nhiều thứ tội lỗi đa dạng, băng hoại của một tinh thần ngoại giáo, tinh thần thế gian!

Nền “văn hóa băng hoại” làm cho anh chị em cảm thấy như đang ở trên thiên đường, ngay tại thế này” nhưng “bên trong, nền văn hóa băng hoại là một nền văn hóa thối nát”. Babylon là biểu tượng cho “mọi xã hội, mọi nền văn hóa trong đó con người tách mình ta khỏi Thiên Chúa. Họ tách ra khỏi tình yêu tha nhân và cuối cùng dẫn đến thối nát”.

Giêrusalem lại sụp đổ “vì lý do khác”. Giêrusalem là hôn thê của Thiên Chúa, nhưng lại không đón nhận Đấng Phu Quân của mình. Nó làm Chúa Giêsu bật khóc”.

Babylon sụp đổ vì băng hoại; còn Giêrusalem thì vì mất đi căn tính của mình, đã không tiếp nhận Chúa, là Đấng đến để giải thoát mình. Cô dâu này thấy không cần đến ơn cứu độ. Kinh thành này đã có luật của Mosê, và nó cảm thấy như thế là đủ rồi. Nhưng những luật lệ ấy là những bản văn đóng kín làm cho kinh thành ấy không còn chỗ cho ơn cứu độ. Nó đã đóng cửa không để Chúa đến. Ngài đã đến gõ cửa nhà nhưng gia nhân Ngài đã không tiếp nhận Ngài. Họ đã không lắng nghe tiếng Ngài hầu được cứu sống. Và vì vậy Giêrusalem sụp đổ.

Đức Thánh Cha Phanxicô lưu ý rằng sự sụp đổ của hai thành này giúp chúng ta suy nghĩ về thái độ sống của chính chúng ta. Chúng ta có “băng hoại như Babylon và tự mãn như Giêrusalem” hay không?

Đức Thánh Cha nhấn mạnh rằng “sứ điệp của Giáo Hội trong những ngày này không kết thúc với sự hủy diệt. Thật thế, cả hai bài đọc đều chứa đựng những lời hứa đầy hy vọng”. Chúa Giêsu khích lệ chúng ta ngẩng đầu lên “đừng sợ hãi trước phường ngoại giáo.” Những kẻ này “có thời của chúng, và chúng ta phải kiên nhẫn, như Chúa đã kiên nhẫn chịu đựng cuộc Thương Khó của Ngài.”

“Khi chúng ta nghĩ về thời thế mạt, với tất cả những tội lỗi của chúng ta, lịch sử của chúng ta, chúng ta hãy nghĩ đến bàn tiệc sẽ được ban cho chúng ta cách nhưng không và chúng ta hãy ngẩng đầu lên. Đừng chiều theo tuyệt vọng! nhưng hãy hy vọng! Thực tế có thể bẽ bàng: có rất nhiều người, nhiều thành phố và dân chúng sẽ phải chịu đau khổ, với cơ man những cuộc chiến tranh, vô vàn những thù hận, và ghen tị, tinh thần thế gian thống trị thế giới và bao nhiêu những băng hoại. Vâng, thật thế! Nhưng tất cả những điều này sẽ qua đi! Chúng ta hãy nài xin Chúa ban ơn để biết luôn luôn sẵn sàng cho bàn tiệc đang đón đợi chúng ta, và luôn luôn biết ngẩng cao đầu”.

Vatican Radio

ĐỨC PHANXICÔ : SỰ THÁNH THIỆN ĐƯỢC SỐNG QUA CHỨNG TÁ KITÔ HỮU Ở ĐỜI THƯỜNG

ĐỨC PHANXICÔ : SỰ THÁNH THIỆN ĐƯỢC SỐNG QUA CHỨNG TÁ KITÔ HỮU Ở ĐỜI THƯỜNG

Nên thánh không hệ tại ở việc « nhắm mắt và có cái đầu như trên các hình ảnh đạo đức ». Để nên thánh, « không cần phải là giám mục, linh mục hay tu sĩ », « sự thánh thiện không phải chỉ dành riêng cho những ai có khả năng tách ra khỏi những nhiệm vụ thường ngày để chỉ chú tâm cầu nguyện ». Nhưng « đúng hơn chính khi sống chứng tá Kitô hữu của chúng ta mà chúng ta được mời gọi nên thánh », và « nên thánh không thể được thực hiện mà không có niềm vui ». Đó là tóm tắt bài giáo lý trong buổi tiếp kiến chung hôm thứ Tư 19/11/2014 tại quảng trường thánh Phêrô trước chừng khoảng 15.000 người.

 « Và nếu chúng ta là bậc cha mẹ hay ông bà, nên thánh bằng cách dạy đức tin và cuộc sống  cho con cháu ». « Cần phải kiên nhẫn nhiều đối với nhiệm vụ này, để là những bậc cha mẹ tốt, để là những bậc ông bà tốt, và chính trong sự kiên nhẫn này mà sự thánh thiện nảy sinh ». Đức Thánh Cha còn khuyên kiê nhẫn nếu « buổi tối con cái của bạn xin bạn thảo luận về những vấn đề của nó, và bạn đang cảm thấy mệt mỏi, bạn không muốn nghe nó, trái lại, hãy ngồi xuống, dành thời gian lắng nghe nó, và khi lắng nghe nó bạn sẽ tiến bước đến sự thánh thiện ». Với những bước nhỏ tiến tới sự thánh thiện, Đức Thánh Cha Phanxicô cũng lấy ví dụ một người phụ nữ đi chợ mua sắm, gặp các bạn nữ của mình, và rồi đi đến chỗ ngồi lê đôi mách. Nếu người phụ nữ này không chiều theo cám dỗ nói xấu người khác, thì đó cũng là một bước tiến tới sự thánh thiện.

Từ đó Đức Thánh Cha khẳng định : « Chính khi sống các hoạt động của mọi ngày bằng tình yêu mà chúng ta được mời gọi nên thánh, dù thân phận chúng ta là gì : người đã kết hôn hay độc thân, cha mẹ hay ông bà, người tu trì… Mọi bậc sống đưa chúng ta đến sự thánh thiện nếu chúng ta sống nó trong sự hiệp thông với Chúa và phục vụ anh em. Lời mời gọi nên thánh của Thiên Chúa là một lời mời gọi sống và hiến dâng cho Ngài mỗi giây phút của cuộc sống chúng ta cách vui tươi, bằng cách biến nó thành một sự dâng hiến tình yêu cho những người xung quanh chúng ta ».

Tý Linh ( XBVN )

theo Radio Vatican

Đức Thánh Cha khuyến khích các dòng tu canh tân

Đức Thánh Cha khuyến khích các dòng tu canh tân

VATICAN. Trong buổi tiếp kiến sáng 27-11-2014, dành cho 80 tham dự viên khóa họp toàn thể của Bộ các Dòng tu, ĐTC khuyến khích các tu sĩ can đảm canh tân các tập quán và cơ cấu không còn đáp ứng những điều Chúa yêu cầu ngày nay nữa.

Trong số các tham dự viên có 19 HY, GM và Bề trên tổng quyền thành viên của Bộ. Khóa họp khoáng đại này tiến hành từ ngày 25 đến 29-11-2014 về chủ đề rút từ Tin Mừng theo thánh Marco: ”Rượu mới trong các bầu mới”, nhắm lắng nghe những hành trình của Thánh Linh để phân định và hướng dẫn đời sống thánh hiến trong niềm trung thành sáng tạo.

Đi từ đề tài này, ĐTC khẳng định rằng ”chúng ta đừng sợ từ bỏ các bầu rượu cũ, nghĩa là cần đổi mới những thói quen và cơ cấu trong đời sống Giáo Hội, cũng như trong đời sống thánh hiến, mà chúng ta nhận thấy không còn tương ứng với những gì Thiên Chúa yêu cầu chúng ta ngày nay, để mở rộng Nước Chúa trong trần thế: đó là những cơ cấu mang lại cho chúng ta một sự bảo vệ giả tạo và ảnh hưởng tiêu cực tới năng động bác ái; đó là những tập quán làm cho chúng ta xa lìa đoàn chiên mà chúng ta được sai đến và ngăn cản không cho chúng ta tiếng kêu của những người đang chờ đợi Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô”.

ĐTC cũng nhắc đến những nhược điểm có thể gặp thấy trong đời thánh hiến ngày nay, như sự kháng cự của một số thành phần chống lại sự thay đổi, sự suy giảm sức thu hút, nhiều người bỏ tu, sự mong manh của một số hành trình đào tạo, những cơ cực vất vả vì thi hành các công tác và thừa tác vụ làm thương tổn đời sống thiêng liêng, sự khó hội nhập vào các môi trường và thế hệ khác, sự thiếu quân bình trong việc thực thi quyền bính và sử dụng của cải. ĐTC ghi nhận sự kiện Bộ các dòng tu muốn lắng nghe các dấu hiệu của Thánh Linh đang mở ra những chân trời mới và thúc đẩy tiến vào những con người mới, luôn khởi hành từ qui luật tối thượng là Tin Mừng và lấy hứng từ sự táo bạo sáng tạo của các vị sáng lập dòng”. (SD 27-11-2014)

G. Trần Đức Anh OP

Đức Thánh Cha tiếp kiến chung 15 ngàn tín hữu hành hương: 26-11-2014

Đức Thánh Cha tiếp kiến chung 15 ngàn tín hữu hành hương: 26-11-2014

VATICAN. Trong buổi tiếp kiến chung các tín hữu hành hương sáng thứ tư, 26-11-2014, ĐTC đã quảng diễn ý nghĩa ngày tận thế.

Tuy trời mưa nhưng cũng đã có khoảng 15 ngàn tín hữu hành hương từ các nước đến tham dự cuộc tiếp kiến ngoài trời của ĐTC Phanxicô tại Quảng trường thánh Phêrô.

ĐTC tiến vào quảng trường lúc 9 giờ 45 trên chiếc xe Jeep màu trắng có mái che mưa để chào thăm các tín hữu, ôm hôn và chúc lành cho các em bé được nhân viên an ninh bế đưa lên ngài.

Lên tới lễ đài ở thềm Đền thờ, ĐTC khởi sự buổi tiếp kiến với dấu Thánh giá và lời chào phụng vụ. Và sau phần tôn vinh lời Chúa với bài đọc ngắn bằng 5 thứ tiếng, trích từ thư thánh Phaolo gửi tín hữu Roma nói về viễn tượng tận thế, vũ trụ này sẽ được biến đổi, ĐTC đã tiếp tục loạt bài huấn giáo về Giáo Hội, và ngài nói về Giáo Hội lữ hành hướng về quê trời:

Huấn dụ của ĐTC

”Anh chị em thân mến, chào anh chị em! Hôm nay trời hơi xấu, nhưng anh chị em thật can đảm. Tôi ca ngợi anh chị em. Chúng ta hy vọng có thể cùng nhau cầu nguyện hôm nay.

Khi trình bày Giáo Hội cho con người thời nay, Công đồng chung Vatican 2 ý thức rõ một chân lý cơ bản không bao giờ được quên, đó là: Giáo Hội không phải là một thực tại tĩnh, đứng im, mục tiêu cho chính mình, nhưng Giáo Hội liên tục tiến bước trong lịch sử, hướng về mục tiêu tối hậu và tuyệt vời là Nước Trời, và Giáo Hội ngay tại trần thế này là mầm mống và là khởi đầu của Nước ấy (Xc LG 5). Khi hướng về chân trời đó, chúng ta nhận thấy trí tưởng tượng của chúng ta khựng lại, chỉ có thể trực giác được phần nào sự huy hoàng của mầu nhiệm vượt lên trên giác quan của chúng ta. Và tự nhiên nổi lên trong chúng ta một số câu hỏi: khi nào thì giai đoạn chót sẽ đến? Chiều kích mới mà Giáo Hội sẽ bước vào như thế nào? Nhân loại lúc ấy ra sao? và thiên nhiên bao quanh chúng ta sẽ thế nào? Những câu hỏi này không mới mẻ gì, các môn đệ của Chúa Giêsu thời ấy cũng đã nêu lên: ”Khi nào thì điều ấy sẽ xảy ra?”.. Khi nào thì Thần Trí chiến thắng thiên nhiên, trên công trình tạo dựng, trên mọi sự..? Đó là những câu hỏi của con người, những câu hỏi đã có từ xưa, và cả chúng ta cũng đặt những câu hỏi như vậy.

1. Hiến chế Vui Mừng và Hy vọng của Công đồng chung Vatican 2, đứng trước những vấn nạn vẫn vang vọng trong tâm hồn con người như thế, đã khẳng định rằng: ”Chúng ta không biết khi nào sẽ đến ngày tận thế và chúng ta không biết cách thức vũ trụ sẽ biến đổi ra sao. Chắc chắn diện mạo của thế giới này qua đi, bị biến dạng vì tội lỗi. Nhưng do mạc khải, chúng ta biết rằng Thiên Chúa chuẩn bị một nơi ở mới và đất mới, trong đó có công lý ngự trị, và hạnh phúc sẽ làm mãn nguyện hoàn toàn mọi ước muốn an bình từ tâm hồn con người” (n.39). Và thế là mục đích mà Giáo Hội hướng tới chính là ”thành Jerusalem mới”, là ”thiên đàng”. Đó không phải là một nơi cho bằng một ”trạng thái” trong đó những mong đợi sâu xa nhất của chúng ta sẽ thành tựu, và cuộc sống chúng ta, trong tư cách là thụ tạo và là con Thiên Chúa, sẽ đạt tới mức độ trưởng thành trọn vẹn. Sau cùng chúng ta sẽ được vinh quang, an bình và tình thương của Thiên Chúa hoàn toàn, không còn chịu giới hạn nào và chúng ta sẽ được diện đối diện với Chúa! (Xc 1 Cr 13,12).

2. Trong viễn tượng này, thật là đẹp khi nhận thấy có sự nối tiếp và hiệp thông sâu xa giữa Giáo Hội thiên quốc và Giáo Hội lữ hành trên mặt đất. Những người đang sống trước nhan Thiên Chúa có thể nâng đỡ và chuyển cầu cho chúng ta, cầu nguyện cho chúng ta. Đàng khác, cả chúng ta cũng luôn được mời gọi dâng những công việc lành, kinh nguyện và Thánh Lễ để xoa dịu sầu muộn của các linh hồn con đang chờ đợi hạnh phúc vô biên. Đúng vậy, vì trong nhãn giới Kitô giáo, không còn phân biệt giữa những người đã chết và những người còn sống, nhưng là giữa người ở trong Chúa Kitô và những người không ở trong Ngài! Đó chính là yếu tố chủ yếu, có tính chất quyết định đối với phần rỗi và hạnh phúc của chúng ta.

3. Đồng thời Kinh Thánh dạy chúng ta rằng sự hoàn thành ý định tuyệt vời này không thể không liên hệ tới tất cả những gì quanh chúng ta và xuất phát từ tư tưởng và tâm hồn của Thiên Chúa. Thánh Phaolô tông đồ khẳng định rõ ràng điều đó khi ngài nói rằng ”cả thụ tạo cũng sẽ được giải thoát khỏi tình trạng nô lệ sự hư nát, để bước vào trong tự do của vinh quang con cái Thiên Chúa” (Rm 8,21). Các văn bản khác sử dụng hình ảnh ”trời mới” và ”đất mới” (Xc 2 Pr 3,13), Kh 21,1), theo nghĩa toàn thể vũ trụ sẽ được đổi mới và sẽ được giải thoát một lần cho tất cả khỏi mọi vết tích sự ác và cả sự chết. Điều được nhắm tới giống như hoàn thành một sự biến đổi đã khởi sự, trong thực tế, từ cái chết và sự sống lại của Chúa Ktiô, và vì thế đó là một sự tạo dựng mới; đó không phải là một sự tiêu diệt vũ trụ và tất cả những gì bao quanh, nhưng là đưa mọi sự đến mức độ viên mãn, đến chân lý và vẻ đẹp. Đó là ý định của Thiên Chúa, Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, từ đời đời muốn thực hiện và đang thực hiện”.

Và ĐTC kết luận rằng:

”Các bạn thân mến, khi nghĩ đến những thực tại tuyệt vời đang chờ đợi chúng ta, chúng ta thấy rằng được thuộc về Giáo Hội quả là một hồng ân tuyệt vời, mang theo ơn gọi cao cả nhất của chúng ta! Vậy chúng ta hãy cầu xin Đức Trinh Nữ Maria Mẹ Giáo Hội, luôn canh chừng hành trình của chúng ta và giúp chúng ta, giống như Mẹ, trở thành dấu chỉ vui mừng tín thác và hy vọng giữa anh chị em chúng ta”.

Chào thăm và nhắn nhủ


Sau bài giáo lý bằng tiếng Ý, các LM và giám chức của Tòa Thánh đã tóm tắt bài này bằng các sinh ngữ khác nhau cũng như dịch những lời ĐTC chào các tín hữu hành hương cùng với những lời nhắn nhủ của ngài.

Với các tín hữu nói tiếng Pháp, ĐTC nói ”trong lúc năm phụng vụ sắp kết thúc, tôi mời gọi anh chị em hãy suy tư về thực tại lạ lùng của đời sống vĩnh cửu mà chúng ta được mời gọi tiến về và chúng ta hãy xin Mẹ Maria trợ giúp để bước vào đời sống ấy.”

Khi chào các tín hữu hành hương nói tiếng Arập, ngài đặc biệt nhắc đến các tín hữu đến từ Irak và Trung Đông, và nói rằng: ”Bạo lực, đau khổ và tội lỗi nặng nề phải đưa chúng ta đến chỗ đặt tất cả mọi sự trong công lý của Thiên Chúa, Chúa sẽ phán xét mỗi người theo công việc của họ. Anh chị em hãy kiên cường và gắn bó với Giáo Hội và niềm tin của anh chị em đến độ thanh tẩy thế giới bằng niềm tín thác của anh chị em; hãy biến đổi thế giới bằng niềm hy vọng của anh chị em và chăm sóc thế giới bằng chứng tá tha thứ, yêu thương và kiên nhẫn của anh chị em! Xin Chúa bảo vệ và nâng đỡ anh chị em!

Sau cùng bằng tiếng Ý, ĐTC nói với mọi người rằng: ”Như anh chị em biết, từ thứ sáu này đến chúa nhật tới đây, tôi sẽ thực hiện cuộc tông du tại Thổ Nhĩ Kỳ. Tôi mời gọi tất cả hãy cầu nguyện để cuộc viếng thăm của Phêrô nơi người anh em là Anrê mang lại nhiều thành quả an bình, cuộc đối thoại chân thành giữa các tôn giáo và sự hòa hợp trong quốc dân Thổ Nhĩ kỳ.

ĐTC cũng đặc biệt nghĩ đến các bạn trẻ, các bệnh nhân và các đôi tân hôn, và nói rằng: ”Chúa nhật tới đây sẽ bắt đầu Mùa Vọng. Các bạn trẻ thân mến, ước gì sự chờ đợi Đấng Cứu Thế làm cho tâm hồn các bạn tràn đaầy vui mừng; các bệnh nhân thân mến, xin anh chị em đừng mỏi mệt trong việc tôn thờ Chúa Đấng đến nơi chúng ta cả trong thử thách và hỡi các đôi tân hôn thân mến, hãy học yêu thương theo gương Đấng vì yêu thương đã nhập thể để cứu độ chúng ta”.

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Đức Thánh Cha viếng thăm Nghị viện và Hội đồng Âu châu

Đức Thánh Cha viếng thăm Nghị viện và Hội đồng Âu châu

STRASBOURG. ĐTC Phanxicô đã dành ngày 25-11-2014 để viếng thăm Nghị viện và Hội đồng Âu Châu ở thành phố Strasbourg bên Pháp.

Đây là chuyến viếng thăm thứ 5 của ĐTC Phanxicô tại nước ngoài và là chuyến ngắn nhất trong lịch sử cuộc viếng thăm của các vị Giáo Hoàng ở hải ngoại, chỉ có khoảng 4 tiếng đồng hồ. Đây là lần thứ 2 một vị Giáo Hoàng đến viếng thăm 2 tổ chức quốc tế này: lần đầu tiên cách đây 26 năm, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô 2 đến Strasbourg trong khuôn khổ chuyến viếng thăm của ngài tại Pháp từ mùng 8 đến 11 tháng 10 năm 1988. Tuy nhiên Đức Phanxicô là vị Giáo Hoàng đầu tiên không phải là người Âu đến viếng thăm 2 cơ quan quốc tế này.

Đến phi trường Fiumicino của thành Roma lúc gần 8 giờ sáng, ĐTC đã đáp máy bay Airbus A320 của hãng Alitalia trực chỉ thành phố Strasbourg cách đó 828 cây số về hướng bắc. Trong đoàn tùy tùng của ngài, có ĐHY Pietro Parolin, Quốc vụ khanh Tòa Thánh và Đức TGM phụ tá là Angelo Becciu.

Strasbourg hiện nay là thành phố có 1 triệu 145 ngàn dân cư, giáp giới với nước Đức, và được coi như thủ đô của Liên hiệp Âu Châu với nhiều tổ chức quốc tế tại đây. Đến phi trường Strasbourg lúc 10 giờ sau hai giờ bay từ Roma, ĐTC đã được giáo quyền và đại diện chính quyền địa phương tiếp đón, cùng với hai vị Hồng Y chủ tịch Ủy ban GM Liên hiệp Âu Châu cũng như ĐHY Chủ tịch Liên HĐGM Âu Châu và liền đó ngài tiến về trụ sở của Nghị viện Âu Châu.

Đây là cơ quan lập pháp của Liên hiệp 28 nước Âu Châu với 508 triệu dân cư. Trong những thập niên gần đây, nghị viện này dần dần đạt được những thẩm quyền lớn hơn và hành động trong tư cách là đồng lập pháp trong hầu hết các lãnh vực luật pháp của Liên hiệp. Nghị viện này hiện nay có 751 đại biểu được bầu lên theo thể thức phổ thông đầu phiếu với nhiệm kỳ 5 năm. Số ghế được phân chia theo tỷ lệ dân số của các quốc gia thành viên. Số nữ đại biểu chiếm hơn 1 phần 3. Các đại biểu họp thành những nhóm theo lập trường chính trị chứ không theo tiêu chuẩn quốc tịch.

Đến nơi, ĐTC đã được các vị lãnh đạo và đại diện của 8 nhóm chính trị của Nghị Viện đón tiếp, rồi ngài hội kiến với vị chủ tịch nghị viện là Ông Martin Schulz người Đức, trước khi gặp chung và phát biểu trước tất cả các đại biểu thành viên trong phiên nhóm trọng thể.

Tóm lược diễn văn ca ĐTC

Trong diễn văn, ĐTC nhắc lại sự kiện cách đây 26 năm, vào ngày 11-10 năm 1988, ĐGH Gioan Phaolô 2 đã viếng thăm nghị viện Âu Châu. Trong thời gian qua, thế giới đã thay đổi rất nhiều, trở nên lệ thuộc nhau và hoàn vũ hơn, ”bớt qui hướng về Âu Châu như trung tâm”. Bên cạnh một Liên hiệp Âu Châu mở rộng và ảnh hưởng hơn, dường như có hình ảnh về Âu Châu già nua và thu hẹp lại hơn.

Khi ngỏ lời với quí vị ngày hôm nay, từ ơn gọi mục tử của tôi, tôi muốn gửi đến các công dân Âu Châu một sứ điệp hy vọng và khích lệ. Một sứ điệp hy vọng dựa trên lòng tín thác rằng những khó khăn có thể trở thành động cơ mạnh mẽ thăng tiến sự hiệp nhất, để chiến thắng mọi sợ hãi mà Âu Châu cùng với thế giới đang trải qua. Niềm hy vọng nơi Chúa, Đấng biến sự ác thành điều thiện và biến sự chết thành sự sống”.

ĐTC nhắc lại rằng: ”Các vị sáng lập liên hiệp Âu Châu đã đặt con người ở trung tâm dự án của mình, không phải như một công dân, và càng không phải như một chủ thể kinh tế, nhưng trong tư cách là một nhân vị có phẩm giá siêu việt”. Thực vậy, sau thế chiến thứ 2 người ta càng thấy rõ ước muốn bảo đảm ”phẩm giá”, các quyền con người, huấn luyện lương tâm về đặc tính quí giá, có một không hai và không thể lập lại được của mỗi người…

”Ngày nay sự thăng tiến các quyền con người chiếm một vai trò trung tâm và đáng ngưỡng mộ trong sự dấn thân của Liên hiệp Âu Châu. Nhưng vẫn còn có quá nhiều tình trạng trong đó con người bị đối xử như đồ vật, và người ta có thể xếp đặt chương trình khi nào thụ thai, hình thành, lợi ích của con người, và rồi con người có thể bị vứt bỏ đi khi không còn hữu ích nữa, vì họ trở nên yếu nhược, bệnh tật hoặc già nua. Vẫn còn có những tình trạng trong đó con người không được tự do bày tỏ tư tưởng của mình, tuyên xưng niềm tin tôn giáo mà không bị cưỡng bách và giới hạn, khi thiếu khuôn khổ pháp lý rõ ràng hạn chế sự thống trị của võ lực và nêu cao luật pháp trên sự độc đoán của quyền lực, trên sự kỳ thị con người. ĐTC đặt câu hỏi: ”Thứ phẩm giá nào con ngừơi có thể tìm được khi mà họ không có lương thực hay điều tối thiểu để sống, và tệ hơn nữa khi họ không có công ăn việc làm xứng với phẩm giá con người?”.

ĐTC nói đến những mơ hồ nảy sinh từ sự hiểu lầm ý niệm các quyền con người và từ sự lạm dụng mâu thuẫn các quyền này: càng ngày người ta càng đòi hỏi nhiều hơn các quyền cá nhân, được coi như các quyền của con người bị tách rời khỏi bối cảnh xã hội và nhân học, hầu như một ”đơn nguyên”, ngày càng thiếu nhạy cảm đối với các đơn nguyên khác quanh mình; một sự đòi hỏi các quyền không kèm theo các nghĩa vụ, không để ý đến bối cảnh xã hội của con người, trong đó các quyền lợi và nghĩa vụ gắn liền với các quyền của ngừơi khác và công ích của chính xã hội… Nếu quyền của mỗi người không được hướng về thiện ích lớn hơn một cách hài hòa thì rốt cục nó bị coi như không có giới hạn và trở thành nguồn mạch sinh ra những xung đột và bạo lực”.

Một điểm khác được ĐTC nhấn mạnh là phẩm giá siêu việt của con người, phẩm giá này liên hệ tới bản tính con người, với 'địa bàn' được ghi khắc trong tâm hồn chúng ta và Thiên Chúa đã in vào trong vũ trụ Ngài sáng tạo. Trước tiên, cần nhìn con người như một hữu thể có tương quan. Ngày nay, tại Âu Châu bệnh cô đơn đang lan tràn, đặc biệt là của những người thiếu các liên hệ. Bệnh cô đơn càng trở nên cấp tính hơn vì khủng hoảng kinh tế. Người ta cũng ghi nhận có sự gia tăng sự thiếu tín nhiệm của các công dân đối với các tổ chức mà họ coi là xa cách, những tổ chức lo thiết lập những qui luật mà họ coi là xa lạ, – nếu không muốn nói là có hại, – đối với sự nhạy cảm của mỗi dân tộc. Có một cảm tưởng chung về sự mệt mỏi và già mua của một Âu Châu trở thành bà già, không còn sinh sản và linh hoạt nữa. Các lý tưởng cao cả đã từng gợi hứng cho Âu Châu nay dường như mất sức thu hút, và nhường chỗ cho những kỹ thuật bàn giấy của các tổ chức”. Người ta cũng cay đắng nhận thấy sự trổi vượt của các vấn đề kỹ thuật và kinh tế trong các cuộc thảo luận chính trị; con người bị thu hẹp thành một thứ hộp số trong bộ máy, và bị coi như một sản phẩm tiêu thụ được sử dụng và gạt bỏ chẳng chút tiếc thương, như trong trường hợp các bệnh nhân ở giai đoạn cuối đời, những người già bị bỏ rơi và không được săn sóc, các trẻ em bị giết trước khi chào đời. Nền văn hóa gạt bỏ và tiêu thụ thái quá tạo nên sự tuyệt đối hóa kỹ thuật, chiếm ưu thế hơn sự khẳng định phẩm giá con người, sự quí giá của đời sống con người.

ĐTC đặt câu hỏi: ”Vậy làm sao mang lại hy vọng cho tương lai, mang lại tín thác để tiếp tục theo đuổi lý tưởng cao cả một Âu Châu hiệp nhất và an bình, đầy tính sáng tạo và biến báo, tôn trọng các quyền lợi và nghĩa vụ của mình? ĐGH lấy ví dụ bức bích họa của Raphael diễn tả trường học ở Athènes và tổng hợp tư tưởng của Palton và Aristote: đó là một hình ảnh mô tả thật rõ đặc tính của lịch sử Âu Châu, về sự liên tục gặp gỡ giữa trời, tức là sự cởi mở đối với siêu việt, và đất, là khả năng thực hành cụ thể, trong việc đương đầu với những hoàn cảnh và vấn đề. Một Âu Châu không còn khả năng cởi mở đối với chiều kích siêu việt của sự sống là một Âu Châu dần dần bị nguy cơ đánh mất tinh thần nhân bản, mất đi vị trí trung tâm của con người. Kitô giáo không những cung cấp một gia sản cơ bản trong việc huấn luyện xã hội văn hóa của đại lục này, nhưng còn nhắm mang lại ngày nay và tương lai một đóng góp cho sự phát triển của Âu Châu. Sự đóng góp này không phải là một nguy hiểm cho đặc tính đời của các quốc gia và cho sự độc lập của các tổ chức của Liên hiệp Âu Châu trái lại, làm cho những tổ chức này được thêm phong phú phù hợp với nguyên tắc phụ đới và liên đới với nhau, một thuyết nhân bản qui trọng tâm vào sự tôn trọng phẩm giá con ngừơi.

ĐTC xác quyết sự sẵn sàng của Tòa Thánh, của Giáo Hội Công Giáo, và qua Ủy ban GM Liên hiệp Âu Châu, Comece, đối thoại minh bạch và phong phú với các tổ chức Âu Châu. Ngài cũng nói đến nhiều bất công và bách hại mà các nhóm tôn giáo thiểu số, nhất là các tín hữu Kitô đang phải chịu tại nhiều nơi trên thế giới; ngài nhắc đến các cộng đoàn và những cá nhân bị bạo lực dã man, bị trục xuất khỏi gia cư và quê hương, bị bán như những nô lệ, bị giết, bị chặt đầu, bị đóng đanh và thiêu sống, trong sự thinh lặng ô nhục và đồng lõa của bao nhiêu người.
Ngài nhận xét rằng: ”Khẩu hiệu của Liên hiệp Âu Châu 'hiệp nhất trong sự khác biệt', không có nghĩa là đồng nhất về chính trị, kinh tế, văn hóa hay tư tưởng, nhưng chỉ rõ một gia đình các dân tộc, với những tổ chức của Liên Hiệp, biết liên kết lý tưởng hiệp nhất với sự khác biệt của mỗi người, đề cao giá trị của mỗi truyền thống, sự phong phú của các lịch sử và căn cội, giải thoát mình khỏi bao nhiêu lèo lái và ghét bỏ. Đặt con người ở trung tâm trước tiên có nghĩa là để cho con người tự do biểu lộ khuôn mặt và óc sáng tạo của mình trên bình diện cá nhân và dân tộc. Các nguyên tắc liên đới và phụ đới, hiện diện trong việc hình thành Âu Châu giúp chúng ta trong chiều hướng này”.

ĐTC nhấn mạnh rằng:
”Thách đố củng cố nền dân chủ của các dân tộc Âu Châu đòi phải tránh một quan niệm đồng điệu về sự đại đồng, làm giảm mất đi sự tương phản phong phú và xây dựng của các tổ chức và các đảng phái với nhau, một quan niệm đồng điệu đưa tới sự lẫn lộn thực tại của nền dân chủ với một thứ thuyết duy danh mới về chính trị. Nhưng thách đố làm sao củng cố các nền dân chủ Âu Châu cũng bao hàm sự bảo vệ sức mạnh biểu lộ chính trị của các dân tộc Âu Châu liên quan đến những sức ép của lợi lộc liên quốc chứ không phải mọi người, làm cho nó suy yếu và biến nó thành những quyền lực tài chánh đồng nhất phục vụ những đế quốc vô danh. Mang lại hy vọng cho Âu Châu có nghĩa là đầu tư trong các lãnh vực trong đó hình thành các tài năng của con người; kiến tạo những điều kiện thuận lợi cho đời sống gia đình, sự hiệp nhất, phong phú và bất khả phân ly; có nghĩa là mang lại những viễn tượng cho các thế hệ trẻ và nhiều người già, cho sự phát triển giáo dục, các trường học và đại học; huấn luyện đầy đủ để hướng nhìn về tương lai trong niềm hy vọng; có nghĩa là nhìn những tiềm năng sáng tạo nghiên cứu khoa học, nhất là trong các lãnh vực chưa được khám phá, như lãnh vực các nguồn năng lực khác.

Cũng trong diễn văn tại Nghị viện Âu Châu sáng hôm qua (25-11), ĐTC nhấn mạnh tầm quan trọng của sự dấn thân bảo vệ môi sinh và bảo tồn thiên nhiên. Thiên nhiên là để chúng ta sử dụng, cần dùng thiên nhiên để mưu công ích; không được chiều theo sự kiêu ngạo thống trị, lèo lái, bóc lột thiên nhiên. Không thể chấp nhận sự kiện hằng triệu người trên thế giới chết đói, trong khi bao nhiêu tấn thực phẩm bị gạt bỏ mỗi ngày khỏi bàn ăn của chúng ta. Môi sinh cũng liên hệ tới chính con người. Chính con người là thành phần căn bản của môi sinh, vì thế cần có một môi sinh nhân bản, với sự tôn trọng chính con người.

Trong số những yếu tố không thể thiếu được để mang lại hy vọng cho Âu Châu, ĐTC cũng nói đến các vấn đề liên hệ tới công ăn việc làm và ngài tái khẳng định sự cấp thiết phải mang lại phẩm giá cho lao công. Điều này có nghĩa là tìm ra những phương thức mới để dung hợp sự uyển chuyển của thị trường với sự cần thiết của ổn định và chắc chắn về viễn tượng công ăn việc làm và cũng tạo điều kiện cho một khung cảnh xã hội thích hợp, không nhắm tới sự khai thác con người, nhưng bảo đảm qua công việc làm khả năng thành lập gia đình và giáo dục con cái.

ĐTC cũng nói về vấn đề di dân: Không thể chấp nhận để cho Địa Trung Hải trở thành một nghĩa trang lớn, vì thế cần phải trình bày rõ ràng căn tính văn hóa của mình và đề ra những luật lệ thích hợp, biết bảo vệ các quyền của công dân Âu Châu và bảo đảm sự tiếp đón người di dân; nhưng cũng cần chấp nhận những chính sách cụ thể giúp các nước xuất cư trong việc phát triển xã hội kinh tế và vượt thắng những xung đột nội bộ, trái lại những chính sách lợi lộc giá tăng và nuôi dưỡng các xung đột.

Sau cùng, ĐTC nhấn mạnh vai trò của sự ý thức căn tính của mình để đối thoại một cách tích cực với các quốc gia đã yêu cầu được gia nhập Liên hiệp Âu Châu trong tương lai: trong vùng Balcan, trong các quan hệ với các nước lân cận, đặc biệt những nước ven bờ Địa Trung Hải. Nhiều nước đang chịu đau khổ vì các cuộc xung đột nội bộ, vì sức ép của trào lưu cực đoan tôn giáo và khủng bố quốc tế. Các vị đại biểu quốc hội cũng như các nhà lập pháp, có nghĩa vụ giữ gìn và làm tăng trưởng căn tính Âu Châu để các công dân tìm lại được niềm tín thác nơi các tổ chức của Liên hiệp Âu Châu và trong dự án Âu Châu về hòa bình và thân hữu.

Một lịch sử hai ngàn năm liên kết Âu Châu với Kitô giáo, nhưng lịch sử này phần lớn vẫn còn phải viết lên, để cùng nhau xây dựng một Âu Châu không xoay quanh kinh tế, nhưng quanh sự thánh thiêng của con người, các giá trị bất khả nhượng. Đã đến giờ xây dựng Âu Châu can đảm ấp ủ quá khứ của mình và tin tưởng nhìn về tương lai của mình để sống trọn vẹn và sống hiện tại trong hy vọng. Đã đến lúc từ bỏ ý tưởng một Âu Châu sợ hãi và co cụm vào mình để khơi dậy một Âu Châu nắm vai chính, mang khoa học, nghệ thuật, âm nhạc, các giá trị nhân bản và cả đức tin. Âu Châu nhìn, bảo vệ, bênh đỡ con người; Âu Châu tiến bước trên trái đất chắc chắn và vững chãi, là điểm tham chiếu quí giá cho toàn thể nhân loại”.

Bài diễn văn của ĐTC bị ngắt quãng nhiều lần vì các tràng pháo tay hưởng ứng của các đại biểu và khi ngài vừa dứt lời, mọi người đã đứng lên nồng nhiệt vỗ tay cám ơn.

Ông chủ tịch Martin Schulz đã đại diện mọi người cám ơn ĐTC vì bài diễn văn ”chỉ đường” của ngài và ông gọi đó cũng là hướng đi trong tương lai của Liên hiệp Âu Châu này.

Viếng thăm Hi đồng Âu Châu

Rời Nghị viện, ĐTC tiến sang trụ sở Hội đồng Âu Châu chỉ cách đó 700 mét để viếng thăm. Bên ngoài Hội đồng có hàng ngàn người đứng chào mừng ngài. Tổ chức này được thành lập cách đây 65 năm và gồm các vị đại sứ của 47 nước và 150 thành viên thuộc nghị viện, 100 thành viên của hội đồng chính quyền địa phương và miền, 47 vị thẩm phán của tòa án Âu Châu về nhân quyền.

Khi đến trụ sở Hội đồng Âu Châu ĐTC đã được ông tổng thư ký Thorbjorn Jagland, 63 tuổi người Na Uy cùng với các giới chức của Hội đồng đón tiếp.

Sau nghi thức tiếp đón chính thức và hội kiến với các giới chức lãnh đạo Hội đồng, ĐTC đã tiến vào thính đường trong khóa họp long trọng của tổ chức này.

Lên tiếng sau lời chào mừng của Ông Tổng thư ký, ĐTC nhắc đến sự tàn bạo của thế chiến thứ 2, và sự chia rẽ Âu Châu thành hai khối, hai bên bức màn sắt, từ đó ngài nói đến tiến trình xây dựng thống nhất và hòa bình, bắt đầu từ sự giáo dục về hòa bình, loại trừ nền văn hóa xung đột, loại bỏ những người không nghĩ hoặc sống như mình.
ĐTC đặc biệt lên án sự khủng bố tôn giáo và trào lưu khủng bố quốc tế coi rẻ sinh mạng con người, nạn buôn bán khí giới mà không bị ngăn trở. Hòa bình cũng bị đe dọa vì những hình thức nô lệ mới, nạn buôn người, biến con người thành hàng hóa trao đổi.

ĐTC ca ngợi nỗ lực của Hội đồng Âu Châu kiến tạo hòa bình qua sự thăng tiến các quyền con người. Ngài cũng cổ võ sự tìm kiếm sự thật, để tránh tình trạng mỗi người tự lấy mình làm mẫu mực, mở đường cho sự khẳng định chủ quan các quyền lợi. ĐTC cảnh giác chống lại sự hoàn cầu hóa thái độ dửng dưng phát xuất từ lòng ích kỷ, không có khả năng sống chiều kích xã hội đích thực. Từ cá nhân chủ nghĩa dửng dưng nảy sinh sự tôn thờ giàu sang sung túc.

Sau cùng, ĐTC cho biết Giáo Hội Công Giáo, qua Liên HĐGM Âu châu, sẵn sàng cộng tác với Hội đồng Âu Châu, nhất là trong lãnh vực suy tư luân lý đạo đức về những đề tài như bảo vệ sự sống con người, các lãnh vực y khoa, khoa học hoặc pháp luật.

Sau cuộc viếng thăm tại tổ chức này, ĐTC giã từ Strasbourg để đáp máy bay trở về Roma lúc quá 4 giờ chiều cùng ngày 25-11-2014.

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Đức Thánh Cha Phanxicô tôn phong 6 vị tân hiển thánh

Đức Thánh Cha Phanxicô tôn phong 6 vị tân hiển thánh

VATICAN. Từ ngày 23-11-2014, Giáo Hội Công Giáo có thêm 6 vị tân hiển thánh. Các vị được ĐTC ghi vào sổ bộ các thánh trong buổi lễ ngài chủ sự lúc 10 giờ 25 sáng chúa nhật, Lễ Chúa Kitô Vua, tại Quảng trường Thánh Phêrô, trước sự hiện diện của hơn 50 ngàn tín hữu.

Các tân thánh gồm 4 vị người Italia và 2 vị người Ấn độ, 3 vị đã sáng lập dòng tu, một nữ tu và một giáo dân.

Đứng đầu danh sách là chân phước Giovanni Antonio Farina, GM giáo phận Vicenza, bắc Italia, sáng lập dòng các nữ tu giáo viên thánh Dorotea Nữ Tử Thánh Tâm. Tiếp đến là chân phước LM Kuriakose Elias Chavara, đồng sáng lập và là Bề trên Tổng quyền đầu tiên dòng Camêlô Đức Mẹ Vô nhiễm, sinh tại bang Kerala nam Ấn độ năm 1805 và qua đời năm 1871 và được Đức Gioan Phaolô 2 phong chân phước ngày 8-2-1986 tại thành phố Kottayam, Ấn độ, trong cuộc viếng thăm của ngài tại nước này. Thứ ba là Chân phước Ludovico Casoria, LM thuộc dòng Phanxicô, sáng lập dòng các nữ tu Phan Sinh Elizabeth. Thứ tư là chân phước Nicola da Longobardi, tu sĩ dòng Hèn Mọn (Minimi) Thứ năm là nữ chân phước Eufrasia Eluvathingal Thánh Tâm, người Ấn độ, thuộc dòng các nữ tu Đức Mẹ Camêlô. Sau cùng là chân phước Amato Ronconi, thuộc dòng Ba Phanxicô, sáng lập bệnh viện hành hương nghèo ở Saludecio, nay là Dưỡng Đường Hội Chân Phước Amato Ronconi. Hình của các vị được treo trên mặt tiền Đền thờ Thánh Phêrô.

Đồng tế với ĐTC trong thánh lễ có 60 HY, GM và khoảng 300 linh mục, nhiều vị trong phẩm phục của Giáo Hội nghi lễ Đông phương Syro Malabar bên Ấn. Trong số các tín hữu hiện diện ó khoảng 5 ngàn tín hữu người Ấn.

Sau kinh cầu xin ơn Chúa Thánh Thần, ĐHY Angelo Amato, Tổng trưởng Bộ Phong thánh, tiến lên trước ĐTC và xin ngài ghi tên 6 vị chân phước vào sổ bộ các thánh theo lời thỉnh nguyện của toàn thể các tín hữu Kitô. Rồi ĐHY trình bày vắn tắt tiểu sử 6 vị chân phước.

Quang cảnh lễ phong thánh 2 Ấn Độ và 4 Ý Đại Lợi ngày 11-23-2014


ợc sử 6 vị thánh mới

1. Chân phước GM Giovanni Antonio Farina là vị chủ chăn nhiệt thành của giáo phận Treviso, rồi giáo phận Vicenza, bắc Italia, sinh cách đây 211 năm (11-1-1803) tại giáo phận Vicenza, phụ phong LM năm lên 24 tuổi và 9 năm sau đó, khi được 33 tuổi, ngài thành lập dòng các nữ tu thánh Dorotea Nữ Tử hai Thánh Tâm, chuyên giáo dục các thiếu nữ nghèo, và giúp đỡ tất cả những người sầu muộn và bị gạt ra ngoài lề xã hội. Năm 1850, ngài được bổ nhiệm làm GM giáo phận Treviso và 10 năm sau đó, được chuyển về giáo phận Vicenza và ở đây cho đến khi qua đời năm 1888, thọ 83 tuổi.

Đức Cha Farina hăng say làm việc mục vụ, dù bầu không khí không luôn luôn thuận lợi: tại Treviso có những hiểu lầm và xung khắc với các kinh sĩ Nhà thờ chính tòa; tại Vicenza ngài bị vu khống. Đối lại những điều đó, ngài vẫn bình tĩnh và những công việc quá khứ cũng như gần đó đã trả lời thay cho ngài. Đức Cha canh tân trường học và phục vụ tại nhà thương, giữ vai chính trong việc mục vụ dựa trên sự giáo dục tâm hồn. Vài năm sau khi qua đời, người ta bắt đầu nói về những ân lạ nhờ lời chuyện cầu của ngài. Đức Cha Giovanni Antonio Farina được Đức Gioan Phaolô 2 phong chân phước ngày 4-11 năm 2001.

2. Vị chân phước thứ hai là Cha Kuriakose Elias Chavara Thánh Gia, sinh tại bang Kerala Ấn độ cách đây 209 năm (1805), thụ phong LM năm 24 tuổi (1829) và thành lập dòng và là Bề trên Tổng quyền đầu tiên của dòng Camêlô Đức Mẹ Vô nhiễm.

Tân hiển Thánh người Ấn

Trong việc điều khiển dòng, Cha Kuriakose tỏ ra có những năng khiếu đặc biệt của một nhà đào tạo đầy tinh thần đạo đức, xác tín, có linh đạo sâu xa dựa trên lòng tôn sùng Thánh Thể, kính mến Thánh Mẫu và hoàn toàn trung thành với Giáo Hội Công Giáo, cùng với tinh thần cầu nguyện và khổ chế, thực hành các phương pháp mới trong việc tông đồ.

Cha cũng cộng tác vào việc lập dòng Ba Cát Minh Nhặt Phép. Cha tận tụy phục vụ Giáo Hội Công Giáo nghi lễ Siro Malabar và qua đời năm 1871 thọ 66 tuổi. Cha được phong chân phước năm 1986.

3. Vị Chân phước thứ ba là Cha Ludovico da Casoria sinh năm 1814 tức là cách đây đúng 200 năm, gia nhập dòng Anh em Hèn Mọn Phanxicô khi được 18 tuổi, và thụ phong linh mục 5 năm sau đó. Thoạt đầu cha được Bề trên giao phó nhiệm vụ dạy triết học và toán học, và 10 năm sau đó, cha hoàn toàn dấn thân phục vụ những người nghèo khổ, rốt cùng. Tình bác ái đối với tha nhân ngày càng bừng cháy trong tâm hồn cha Ludovico. Cha mời gọi các giáo dân nam nữ dòng Ba Phanxicô tham gia vào công trình bác ái này.
Sau một thời gian ngắn phục vụ tại Phi châu, Cha Ludovico trở về Italia và thành lập nhiều tổ chức ác ái. Cha qua đời tại Napoli năm 1885, thọ 71 tuổi và được Phong chân phước năm 1993.

4. Vị chân phước thứ tư là Thầy Nicola da Longobardi người Italia sinh cách đây 364 năm (1650), gia nhập dòng Anh Em Hèn Mọn thánh Phanxicô da Paola. Thầy sống trong nhiều cộng đoàn, thi hành những công tác khiêm hạ nhất: từ việc coi phòng thánh, làm vườn, phụ trách nhà bệnh, làm bếp cho đến việc khất thực và coi cổng nhà dòng. Thầy Nicola đặc biệt yêu thương những người nghèo và người bệnh. Thầy qua đời năm 1709 thọ 59 tuổi và được phong chân phước năm 1786.

5. Vị chân phước thứ 5 là nữ tu Eufrasia Thánh Tâm Chúa Giêsu người Ấn độ, sinh cách đây 137 năm (1877) cũng thuộc bang Kerala và gia nhập dòng các nữ tu Đức Mẹ Camêlô.

Sister Eufrasia Eluvathingal

Chị là một nhà đại thần bí, sống kết hiệp hoàn toàn với Chúa Giêsu như với vị hôn phu, và được Chúa cho tham dự vào những đau khổ trong cuộc khổ nạn, và cả niềm vui phục sinh của Chúa, đến độ chị thông truyền một vẻ an bình, nụ cười đầy hấp lực thiêng liêng. Hầu hết những giờ rảnh rỗi, chị Eufrasia dành để chầu Mình Thánh Chúa. Các tín hữu bên ngoài thấy chị là một nữ tu luôn cầu nguyện với Kinh Mân Côi và chầu Mình Thánh, đến độ họ gọi chị là ”Nhà tạm lưu động” hay là ”Mẹ cầu nguyện”. Vì thế, rất nhiều tín hữu đã đến xin chị Eufrasia cầu nguyện cho các nhu cầu của họ.

Chị qua đời năm 1952, thọ 75 tuổi và được phong chân phước năm 2006.

6. Vị chân phước thứ 6 là Amato Ronconi, giáo dân người Italia, sinh cách đây 788 năm. Ngay từ nhỏ người đã quyết định sống Tin Mừng theo gương thánh Phanxicô, nhất là về đời sống thống hối và bác ái. Anh gia nhập dòng Ba Phanxicô, tận tụy tiếp đón người nghèo và các tín hữu hành hương, thiết lập cho họ một nhà trọ. Về sau anh lui vào đời sống thống hối và đã thực hiện 4 lần cuộc hành hương tới Đền thánh Giacôbê Tông Đồ, Santiago de Compostela bên Tây Ban Nha. Anh qua đời năm 1292 thọ 66 tuổi và được phong chân phước năm 1776.

Phong thánh
Sau lời thỉnh nguyện và giới thiệu của ĐHY Amato, ĐTC đã mời gọi mọi người dâng lên Thiên Chúa lời khẩn nguyện qua lời chuyển cầu của Mẹ Maria và các thánh, với kinh cầu các thánh. Tiếp đến ĐTC đã long trọng đọc công thức phong thánh:

Để tôn vinh Chúa Ba Ngôi cực thánh, để tuyên dương đức tin Công Giáo và tăng tiến đời sống Kitô, với quyền bính của Chúa Giêsu Kitô, của các thánh Tông Đồ Phêrô và Phaolô và của Chúng Tôi, sau khi suy nghĩ chín chắn, nhiều lần khẩn cầu ơn phù trợ của Chúa và lắng nghe ý kiến của nhiều anh em chúng tôi trong hàng Giám Mục, chúng tôi tuyên bố và xác định Chân Phước Giovanni Antonio Farina, Kuriakose Elias Chavara, Ludovico Casoria, Nicola da Longobardi, Eufrasia Eluvathingal Thánh Tâm và Amato Ronconi, là Hiển Thánh, và ghi tên các vị vào sổ bộ các Thánh và qui định rằng trong toàn thể Giáo Hội, các Ngài được được tôn kính với lòng sùng mộ nơi Các Thánh. Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần.

ĐTC vừa dứt lời, cộng đoàn vỗ tay nồng nhiệt và ca đoàn cùng cộng đoàn ca bài Jubilate Deo, Hãy tung hô Chúa, hãy hát mừng Chúa.. Trong khi đó, thánh tích của 6 vị tân hiển thánh được rước lên cho ĐTC hôn kính trước khi đặt trên một giá nhỏ phía trước bàn thờ.

Bài giảng của Đức Thánh Cha

Trong bài giảng sau bài Phúc Âm, ĐTC diễn giải ý nghĩa lễ Chúa Kitô và áp dụng vào trường hợp 6 vị tân hiển thánh, những người đã noi gương bác ái của Chúa Giêsu Kitô. Ngài nói:

”Phụng vụ hôm nay mời gọi chúng ta hướng nhìn lên Chúa Giêsu là Vua Vũ Trụ. Kinh tiền tụng thật đẹp nhắc nhở chúng ta rằng Vương quốc của Chúa là ”Vương quốc sự thật và sự sống, Vương quốc thánh thiện và ân sủng, Vương quốc công lý, tình thương và hòa bình”. Các bài đọc chúng ta đã nghe tỏ cho chúng ta thấy cách thức Chúa Giêsu thực hiện vương quốc của Ngài; cách Ngài thực hiện trong diễn tiến lịch sử và Ngài yêu cầu chúng ta điều gì.
Trước tiên, cách thức Chúa Giêsu đã thực hiện Vương quốc của Ngài: Ngài thực thi nước ấy trong sự gần gũi và dịu dàng đối với chúng ta. Chúa là vị Mục Tử mà ngôn sứ Ezechiele đã nói trong bài đọc thứ I (Xc 34,11-12.15-17). Trọn đoạn văn này được dệt bằng những động từ cho thấy sự ân cần và yêu thương của vị Mục Tử đối với đoàn chiên: tìm kiếm, kiểm điểm, tập hợp từ các nơi phân tán, dẫn tới đồng cỏ, cho nghỉ ngơi, tìm kiếm con chiên bị lạc, dẫn chiên lạc trở về, băng bó vết thương, chăm sóc chiên đau yếu, chăm nom, chăn dắt. Tất cả những thái độ ấy trở thành thực tại trong Chúa Giêsu Kitô: Ngài thực sự là ”Vị Mục Tử cao cả của đoàn chiên và là người chăn dắt các linh hồn” (Xc Dt 13,20; a Pr 2,25).

Và trong tư cách là những người được kêu gọi trở thành mục tử trong Giáo Hội, chúng ta không thể xa rời mẫu gương ấy, chẳng vậy chúng ta sẽ trở thành những người chăn thuê. Về điểm này, dân Chúa có khả năng đánh hơi không thể sai lầm trong việc nhận ra các mục tử tốt lành, và phân biệt họ với những người chăn thuê.

Sau khi chiến thắng, tức là sau khi sống lại, Chúa Giêsu đã tiến hành nước Ngài như thế nào? Thánh Phaolô Tông Đồ, trong thư thứ I gửi tín hữu Corintô, nói rằng: ”Điều cần thiết là Chúa hiển trị cho đến khi tất cả mọi kẻ thù bị đặt dưới chân Ngài” (15,25). Chính Chúa Cha dần dần đặt mọi sự tùng phục Chúa Con, và đồng thời chính Chúa Con đặt mọi sự tùng phục Chúa Cha. Chúa Giêsu không phải là vua theo kiểu thế gian này: đối với Ngài, cai trị không phải là truyền lệnh, nhưng là vâng phục Chúa Cha, và tùng phục Chúa Cha, để ý định yêu thương và cứu độ của Chúa Cha được hoàn thành. Vì thế có một sự hỗ tương hoàn toàn giữa Chúa Cha và Chúa Con. Vậy thời kỳ cai trị của Chúa Kitô là thời gian dài đặt mọi sự tùng phục Chúa Con và giao nạp mọi sự cho Chúa Cha. ”Kẻ thù cuối cùng bị tiêu diệt chính là sự chết” (1 Cr 15,26). Sau cùng, khi mọi sự được đặt dưới vương quyền của Chúa Giêsu, và tất cả, kể cả Chúa Giêsu, tùng phục Chúa Cha, thì Thiên Chúa sẽ là mọi sự trong tất cả” (Xc 1 Cr 15,28).

Tin Mừng cho chúng ta thấy Nước Chúa Giêsu đòi chúng ta điều gì: Tin Mừng nhắc nhở chúng ta rằng sự gần gũi và dịu dàng cũng là qui luật sống cho chúng ta, và chúng ta sẽ bị phán xét theo qui luật ấy. Đó là đại dụ ngôn về sự phán xét chung trong đoạn 25 của Tin Mừng theo thánh Mathêu. Vua nói: ”Hãy đến đây, hỡi những người được Cha Ta chúc phúc, hãy lãnh nhận gia sản là Nước được chuẩn bị cho các con từ khi tạo dựng thế giới, vì Ta đói, các con đã cho Ta ăn, Ta khát các con đã cho ta uống, Ta là khách ngụ cư, các con đã đón tiếp Ta, Ta trần trụi, các con đã cho ta mặc, Ta bệnh tật và các con đã viếng thăm Ta, Ta ở trong tù, và các con đã đến gặp Ta” (25,34-36). Những người công chính sẽ hỏi: có bao giờ chúng con làm tất cả những điều ấy đâu? Và Vua đáp: ”Thực, Ta bảo thực các con: tất cả những gì các con đã làm cho một trong những người anh em bé mọn nhất của Ta đây, chính là các con làm cho Ta” (Mt 25,40).

ĐTC giải thích rằng: ”Ơn cứu độ không bắt đầu bằng sự tuyên xưng vương quyền của Chúa Kitô, nhưng từ sự noi gương các công việc từ bi qua đó Chúa thực thi Vương quốc của Ngài. Ai thực thi những công việc ấy thì chứng tỏ mình đã đón nhận Vương quyền của Chúa Giêsu, vì họ dành chỗ trong tâm hồn cho tình yêu mến Thiên Chúa. Vào cuối đời, chúng ta sẽ bị phán xét về tình yêu, về sự gần gũi và dịu dàng đối với anh chị em chúng ta. Chúng ta có được vào Nước Thiên Chúa hay không, được ở bên tả hay bên hữu Chúa, điều ấy tùy thuộc lòng bác ái của chúng ta đối với tha nhân. Chúa Giêsu, qua chiến thắng của Ngài, đã mở Nước Ngài cho chúng ta, nhưng tùy theo chúng ta có vào đó hay không, ngay từ đời này, chúng ta có trở nên người thân cận của người anh chị em hay không, người anh chị em đang xin cơm bánh, quần áo, sự đón tiếp, tình liên đới. Và nếu chúng ta thực sự yêu thương người anh chị em của chúng ta, thì chúng ta sẽ được thúc đẩy chia sẻ với họ điều quí giá nhất đối với chúng ta, đó là chính Chúa Giêsu và Tin Mừng của Chúa!

Áp dụng những điều trên đây vào các vị thánh mới, ĐTC nói:

”Ngày hôm nay, Giáo Hội đặt trước chúng ta những vị thánh mới như gương mẫu, chính qua những công việc quảng đại hiến thân cho Thiên Chúa và anh chị em, các vị đã phục vụ Nước Thiên Chúa, mỗi người trong môi trường của mình, và trở nên người thừa kế Nước Chúa. Mỗi vị Thánh đáp lại giới răn mến Chúa yêu người với tinh thần sáng tạo ngoại thường. Các vị đã tận tụy phục vụ những người rốt cùng không chút dè dặt, giúp đỡ những người túng thiếu, các bệnh nhân, người già, người lữ hành. Sự yêu thương ưu tiên mà các vị dành cho những người bé nhỏ và nghèo hèn chính là phản ánh và là mẫu mực tình yêu vô điều kiện đối với Thiên Chúa. Thực vậy, các thánh đã tìm kiếm và khám phá tình bác ái trong quan hệ mạnh mẽ và bản thân đối với Thiên Chúa, từ đó đã nảy sinh tình yêu chân thực đối với tha nhân. Vì thế, trong giờ phán xét, các vị đã nghe lời mời gọi ngọt ngào này: ”Hỡi những người được Cha Ta chúc phúc, hãy đến nhận gia sản là Vương quốc đã được chuẩn bị cho các con từ khi sáng tạo thế giới này” (Mt 25,34).

Và ĐTC kết luận rằng:

”Qua nghi thức phong thánh, một lần nữa chúng ta đã tuyên xưng mầu nhiệm Nước Thiên Chúa và tôn vinh Chúa Kitô Vua, là vị Mục Tử đầy tình thương yêu đối với đoàn chiên. Nguyện xin các thánh mới, qua tấm gương và lời chuyển cầu của các vị, làm tăng trưởng trong chúng ta niềm vui được tiến bước trong con đường Tin Mừng, quyết định đón nhận Tin Mừng như địa bàn hướng dẫn cuộc sống chúng ta. Chúng ta hãy bước theo, bắt chước niềm tin yêu của các thánh, để niềm hy vọng của chúng ta cũng được đặc tính bất diệt. Chúng ta đừng để mình bị xao nhãng vì những lợi lộc trần thế chóng qua. Xin Mẹ Maria, Nữ Vương tất cả các thánh, hướng dẫn chúng ta trong hành trình tiến về Nước Trời. Amen

Thánh lễ tiến hành như thường lệ. Đứng cạnh ĐTC trên bàn thờ có 6 HY và GM của các giáo phận xuất xứ của 6 vị thánh, đứng đầu là ĐHY Crescenzio Sepe, TGM giáo phận Napoli, 2 vị TGM Ấn độ, và các GM giáo phận Cosenza, Rimini và Vicenza.

Sau thánh lễ, ĐTC đã chủ sự buổi đọc Kinh Truyền Tin. Số tín hữu tham dự tăng thêm hàng chục ngàn người. Trong dịp này ngài đã chào thăm các phái đoàn chính thức từ quốc gia, thành phố và giáo phận nguyên quán của các vị tân Hiển Thánh.

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio
 

Lễ Chúa Kitô Vua

Lễ Chúa Kitô Vua

(Trích trong ‘Sống Tin Mừng’ – Radio Veritas Asia)

Cùng với Giáo Hội Mẹ, hôm nay chúng ta mừng kính trọng thể Lễ Chúa Kitô Vua, tuần cuối của năm Phụng Vụ, với Chúa Nhật thứ nhất Mùa Vọng, chúng ta bước vào năm Phụng Vụ mới.

Lời Chúa hôm nay muốn nói gì với chúng ta? Bài đọc thứ nhất trích từ sách Ez 34,11-17, trình bày việc Thiên Chúa yêu thương và cứu độ. Khi đến thời đến buổi Người sẽ qui tụ chúng ta lại trong miền đất yêu thương của Người; Người sẽ băng bó và an ủi những thương tật và đau buồn của những ai bị hắt hủi, bị bỏ rơi và bị tổn thương; đồng thời Người cũng loại trừ những lạm dụng luôn quay lưng lại với đồng loại của mình. Người là một vị Thiên Chúa hành xử nhân từ và công chính.

Bài đọc hai trích từ 1Cr 15,20-26.28. Thánh nhân nói với chúng ta về niềm hoan lạc cho những người tin vào tình yêu và ơn cứu độ của Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã chết và đã sống lại, và trong sự chết của Ngài, chúng ta được cứu chuộc; trong sự sống lại của Ngài, chúng ta được sống lại, sống lại trong ngày hôm nay, trong tình nghĩa con cái đối với Thiên Chúa là Cha, và sống lại mai ngày trên quê hương Thiên Quốc khi tất cả được gom lại để qui phục vương quyền của Chúa Giêsu Kitô Vua.

Trong Tin Mừng hôm nay, Thánh Matthêu tường thuật lại quang cảnh ngày cánh chung, khi Chúa Giêsu tái giáng và Ngài phân xử mọi người tốt hay xấu, lành hay dữ, thiện hảo hay ác độc, đều có mặt và phân xử rõ ràng. Tiêu chuẩn để mà phân tách là tất cả những gì chúng ta thực hiện cho anh em. Chúa Giêsu đồng hóa với tất cả những ai đang sống xung quanh và giữa chúng ta khi chúng ta chia sẻ cơm áo cho người đói khổ trần truồng, khi thăm viếng người bị bệnh nạn hoặc tù đày, tức là chúng ta đến với Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, Đấng sinh ra trong hang súc vật, trốn chạy sự tàn ác và tham vọng của con người, bị đeo đuổi chỉ trích, hành hạ và bị treo trên Thập giá. Khi chúng ta từ chối lẫn nhau và quay lưng trước những bất hạnh tinh thần và thể xác của anh em đồng loại thì cũng là lúc chúng ta rời xa Chúa Giêsu, rời xa Thiên Chúa.

Thiên Chúa công bình sẽ dựa vào những hành động và phong cách sống ấy của chúng ta để mà xét xử, vậy chúng ta phải sống Lời Chúa như thế nào trong tuần sống sắp tới đây, tiên vàn chúng ta cảm tạ Thiên Chúa cho một năm Phụng Vụ đã qua, một năm chúng ta nhận lãnh rất nhiều ân sủng của Thiên Chúa qua các Bí Tích, qua các Thánh Lễ mỗi ngày và mỗi tuần, qua các biến cố trong cuộc sống, qua các mối tương quan chúng ta có lẫn nhau. Thứ đến chúng ta xin Thiên Chúa là Cha tha thứ cho chúng ta, vì những vô tâm vô trí và có khi cả những cố ý để mà xúc phạm đến tình yêu của Chúa và những tổn thương gây ra cho anh em mình, nhất là những người ta gặp gỡ mỗi ngày. Sau đó chúng ta có một quyết tâm mới cho những ngày tháng hồng ân của Năm Mới mà chúng ta chuẩn bị đi vào.

Một trong những điều Giáo Hội Mẹ kêu gọi chúng ta sống trong Năm Mới này, đó là biết sám hối những lỗi lầm của chúng ta. Trong sám hối chúng ta vừa nhận ra mình có tội với Chúa, với anh chị em xung quanh, đồng thời cũng bị thúc bách phải thay đổi thái độ và phong cách sống cho phù hợp với Tin Mừng của Chúa.

Chúng ta dựa vào đâu để biết, để thay đổi? Lời Chúa trong Tin Mừng chúng ta vừa nghe đã đưa ra những tiêu chuẩn, là Chúa Giêsu có mặt ở mọi nơi, mọi lúc, trong mọi con người mà chúng ta gặp mỗi ngày, chúng ta hãy đến với Ngài qua những con người đó, những con người thân thương và cả những con người thật khó mà có cảm tình, những con người mà chúng ta chung chia đức tin và cả những con người chưa hề có ý niệm gì về Thiên Chúa, nhất là những con người không muốn nhận Thiên Chúa là Cha của mình. Chúng ta đến và yêu thương họ, vì họ cũng được Thiên Chúa yêu thương và muốn dắt về để chung hưởng hạnh phúc trong quê hương Thiên Quốc.

Rồi những ngày này, biết bao người anh chị em của chúng ta đang phải vật lộn với đói khổ vì thiên tai, vì bệnh tật, vì bị bỏ rơi v.v…, chúng ta nghe lời các chủ chăn trong giáo phận và giáo xứ, chúng ta cố gắng đóng góp để giúp đỡ họ. Dĩ nhiên, nhiều người trong chúng ta không khá giả gì, và cuộc sống mỗi ngày cũng phải chắt chiu từng đồng để kiếm sống. Vả lại, đất nước (Việt Nam) của chúng ta là một trong ba nước có tệ nạn tham nhũng nhất thế giới (so với Pakistan và Indonesia). Nhưng với những con người mang tâm trạng yêu thương anh chị em mình đang đau khổ, chúng ta nên bớt chút những đồng tiền mồ hôi nước mắt của mình để chia sẻ, mặc dù không biết có đến tay người nhận hay không? Nhưng Chúa biết tấm lòng của chúng ta dành cho nhau, nếu cứ ngại ngùng và suy nghĩ mãi thì không biết đến bao giờ những người anh chị em mới có được chén cơm manh áo.

Với tất cả những suy nghĩ dựa trên Kinh Thánh hôm nay, chúng ta sốt sắng dâng lên Thiên Chúa Cha trước bàn thờ của Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta và nài xin ơn Chúa Thánh Thần thúc đẩy, để chúng ta có một tuần sống xứng đáng là con Thiên Chúa, là dấu chứng tình yêu Chúa giữa anh chị em.

Có thể nói rằng, với hành vi dâng hiến quảng đại cho ý muốn của Chúa Cha, Đức Mẹ đã mang Đức Giêsu Kitô đến cho chúng ta. Noi gương Mẹ, chúng ta bước vào Mùa Vọng mới với tâm tình dâng hiến và đón nhận thánh ý Chúa Cha, thể hiện qua những gì chúng ta sống hôm nay như Mẹ Maria ngày xưa. Amen.

Veritas Radio

Vương quốc tình yêu

Vương quốc tình yêu

Bài Tin Mừng hôm nay cho ta thấy nhiều sự thật quan trọng về kết cục của con người.

Sự thật thứ nhất là: thế giới này sẽ chấm dứt. Không có gì vĩnh cửu ở đời này. Mọi sự sẽ qua đi. Những gì được coi là bền vững lâu dài rồi cũng tan thành cát bụi. Của cải, tài năng, công danh cũng sẽ trở thành hư vô. Cả đến con người cũ cũng không còn. Sau cùng mọi người bằng nhau và phải đến trước tòa Chúa để chịu phán xét.

Sự thật thứ hai là: mọi người sẽ bị xét xử. Tất cả mọi người sẽ tụ tập lại. Tất cả mọi người sẽ phải trả lời về những gì mình đã làm trong cuộc đời. Cuộc xét xử sẽ diễn ra công khai. Những trách nhiệm liên đới sẽ được sáng tỏ. Những liên hệ thầm kín sẽ được phơi bày. Nếu trên trần gian ta phải chứng kiến bất công thì tại phiên xử cuối cùng này sẽ có công bằng tuyệt đối. Chẳng ai có thể mua chuộc vị quan tòa tối cao, quyền uy và công thẳng.

Sự thật thứ ba: sẽ có một vương quốc mới. Tuy nhiên kết thúc thế giới cũ không phải là chấm dứt tất cả. Chúa Giêsu tổng kết thế giới cũ để đưa nhân loại vào một thế giới mới. Thế giới không còn thời gian. Thế giới vĩnh cửu. Thế giới không còn đau khổ. Thế giới hạnh phúc tràn đầy. Vì Chúa sẽ thiết lập một vương quốc mới: vương quốc tình yêu. Cuộc xét xử chính là một cuộc tuyển lựa những công dân cho vương quốc mới. Vì là vương quốc tình yêu nên chỉ những ai có tình yêu mới được vào. Luật lệ trong vương quốc mới chỉ có một luật duy nhất: luật tình yêu. Việc cai trị cũng chỉ theo một nguyên tắc duy nhất: tình yêu. Chúa Giêsu trở thành Vua Tình Yêu.

Sự thật thứ bốn: đời này là cơ hội duy nhất. Thế giới mới và vương quốc mới không phải bất ngờ mà có, nhưng được xây dựng ngay từ đời này. Đời này tuy chóng qua nhưng là cơ hội để ta xây dựng vương quốc mới. Những ai có lòng yêu thương anh em, đặc biệt những anh em nghèo khổ, bé mọn, sẽ được tuyển chọn vào Nước Trời. Đời này ngắn ngủi nhưng lại là cơ hội duy nhất. Hết đời này sẽ không còn cơ hội nữa. Sẽ đi đến chung cuộc. Vì thế ta phải vội vàng mau mắn thực hành giới luật yêu thương, kẻo không kịp.

Với dụ ngôn ngày phán xét cuối cùng, Chúa Giêsu đã tỏ lộ cho ta hết những bí mật của vận mạng thế giới. Và chỉ vẽ cho ta con đường để được nhận vào Nước Chúa: thực hành yêu thương bằng những việc làm cụ thể. Cho người đói ăn. Cho người khát uống. Cho người rách rưới ăn mặc. Thăm viếng người đau yếu và kẻ tù đầy. Đây là những việc vừa tầm tay mọi người. Ai cũng có thể làm được. Ai cũng có điều kiện để làm.

Lạy Chúa Giêsu Vua Tình Yêu, xin cho con biết thực hành yêu thương, để được nhận vào Nước Chúa. Amen.

GỢI Ý CHIA SẺ

1- Dụ ngôn ngày phán xét cuối cùng cho thấy những sự thật nào?

2- Ta có thể làm chủ vận mạng mình được không?

3- Điều kiện để được vào Nước Chúa có khó khăn gì không?

4- Nếu mọi người đều thực hiện Lời Chúa, bạn nghĩ thế giới này sẽ như thế nào? Có trở thành vương quốc của Chúa được không?

ĐTGM Ngô Quang Kiệt

Chúa Giêsu là vua

Chúa Giêsu là vua

Vào năm 1925, Đức Thánh Cha Piô XI đã thiết lập lễ Đức Kitô vua, mục đích là để xác định vai trò và chỗ đứng đặc biệt của Chúa Giêsu trong đời sống riêng tư của mỗi người, cũng như trong sinh hoạt của cộng đồng Giáo hội. Trong một vài phút ngắn ngủi này, chúng ta cùng nhau tìm hiểu về tước hiệu cao cả này.

Trước hết là trong Cựu Ước.

Với những thánh vịnh, vua Đavít đã cho chúng ta thấy Đức Kitô chính là vua, một vị vua hòa bình sẽ đến để cai trị trong yêu thương:

– Ta sẽ đặt một vị vua ở Sion, trên núi thánh của Ta.

Trong khi đó, tiên tri Isaia lại giới thiệu với chúng ta một vị vua đầy quyền năng:

– Thiên Chúa sẽ ban cho Ngài ngai báu Đavít tổ phụ Ngài, Ngài sẽ cai trị đời đời trong nhà Giacóp và triều đại Ngài sẽ không bao giờ cùng.

Tiếp đến là trong Tân Ước.

Qua Tin Mừng, chúng ta thấy được nơi Đức Kitô hình ảnh ánh sáng của Thiên Chúa, Ngài là một vị vua vinh hiển, điều khiển cả vũ trụ. Và trong ngày sau hết, Ngài sẽ đến trên mây trời để phán xét kẻ sống và kẻ chết.

Chính Đức Kitô, trong những giây phút cuối cùng, đối diện với cái chết, Ngài vẫn xác quyết trước mặt Philạô:

– Phải, tôi là vua.

Chính vì thế, bản án của Ngài đã được ghi:

– Giêsu Nagiarét, vua dân Do Thái.

Thế nhưng, tước hiệu Kitô vua nổi bật hơn cả trong bầu khí phụng vụ. Đúng thế, chúng ta có thể nói: Tất cả niên lịch phụng vụ đều xoay quanh chủ đề này.

Thực vậy, trong Mùa Vọng, chúng ta mong đợi một vị vua sẽ đến. Với lễ Giáng sinh, chúng ta không chỉ mừng kính một hài nhi bé nhỏ nơi máng cỏ Bêlem, mà còn mừng kính một vị vua hòa bình. Nhất là với lễ Hiển linh, chúng ta nhìn thấy vị vua ấy xuất hiện và tỏ lộ vinh quang cho muôn dân mà đại diện là ba nhà đạo sĩ Phương Đông. Và chúng ta có thể tóm kết tinh thần của mùa giáng sinh, đó là Đức Kitô đến để thiết lập một vương quốc của ánh sáng và tình thương.

Bước vào mùa phục sinh, Giáo hội không phải chỉ dừng lại ở những đau khổ của Đức Kitô, nhưng qua những đau khổ ấy, Giáo hội còn nhìn thấy cả chiến thắng vinh quang của Ngài. Trong ngày lễ lá, chúng ta tưởng nhớ biến cố Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem, một cách long trọng như một vị vua và chúng ta không ngừng tung hô:

– Chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến, hoan hô Chúa trên các tầng trời.

Tiếp đến, ngày thứ sáu tuần thánh, ngày u buồn nhất của năm phụng vụ, chúng ta thấy Giáo hội đã nhìn thập giá như ngai tòa, như lá cờ của một vị vua đang tiến lên, như bước khởi đầu cho vương quốc của Chúa, như lời Ngài đã phán:

– Ngày nào Ta bị treo lên khỏi đất, Ta sẽ kéo mọi sự đến cùng Ta.

Rồi trong ngày lễ Phục sinh và lên trời, chúng ta mừng kính cuộc khải hoàn của Đức Kitô, để rồi từ đó Ngài vĩnh viễn thiết lập vương quốc và trở thành vua của cả vũ trụ.

Tóm lại, niên lịch phụng vụ luôn nhìn ngắm Đức Kitô như một vị vua. Đó cũng là điều mà toàn thể thế giới Công giáo ngày hôm nay tuyên xưng.

Thế nhưng tuyên xưng mà thôi chưa đủ, chúng ta còn phải sống điều chúng ta đã tuyên xưng, nghĩa là, chúng ta phải trung thành với Chúa bằng cách khử trừ tội lỗi, bằng sống một đời sống đạo đức và thánh thiện, bác ái và yêu thương, nhờ đó góp phần làm cho vương quốc của Đức Kitô được mở rộng trên trần gian này.

Sưu tầm

 

Vua vĩnh cửu

Vua vĩnh cửu

Đức Kitô là Con Thiên Chúa, đồng bản tính với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. Vì thế, Ngài không phải chỉ là vua vũ trụ, mà còn là vua của thời gian, vua vĩnh cửu.

Thực vậy, trời và đất đều thuộc về Ngài. Thời gan và vĩnh cửu cũng thuộc về Ngài. Mọi sự được dựng nên vì Ngài và cho Ngài. Trên mặt đất này, không một ai được gọi là vua vĩnh cửu và cũng không một người nào được gọi là vua vũ trụ. Bởi vì quyền hành của họ chỉ ảnh hưởng tới một phần đất nhỏ vé và trong một khoảng thời gian ngắn ngủi nào đó mà thôi.

Người ta kể lại hoàng đế Alexandre đã khóc khi nhìn lên bầu trời đầy trăng sao. Ông tức giận và buồn phiền, chỉ vỉ đã không cai trị được khoảng không trung bao la ấy. Ông chiếm cứ các lãnh thổ và mở rộng bờ cõi tới tận Ấn Độ. Người ta tôn kính ông như một vị thần. Nhà hiền triết Kallisthène đã bị chém đầu chỉ vì không chấp nhận điều đó. Nhưng Alexandre vẫn không phải là một vị vua vĩnh cửu bởi vì ông đã chết và chỉ sống được có ba mươi ba năm.

Hoàng đế Napoléon với những chiến thắng làm rung chuyển cả Âu Châu cũng không thoát khỏi số phận bẽ bàng của cái chết.

Tất cả chúng ta đều là con cái của thời gian. Có sáng chói. Thì cũng chỉ trong một khoảng khắc, sau đó cũng sẽ tàn lụi, rồi bị chìm vào đêm tối của quên lãng. Chỉ mình Đức Kitô mới cai trị đời đời. Chỉ mình Ngài mới là vua vĩnh cửu. Ngài là Alpha và Oméga. Là khởi đầu và kết thúc. Ngài đã có trước thời gian và sẽ còn tồn tại không bao giờ ngừng. Ngài cai trị trên mọi biển khơi và vương quốc của Ngài trải dài đến vô cùng.

Chateaubriand, một thi sĩ nổi tiếng người Pháp, đã kêu lên:

– Ôi lạy Chúa, trên trần gian các dân tộc xâu xé, các vua chúa sụp đổ, chỉ có mình Ngài mới trường tồn bất biến. Không một thế lực nào có thể lật đổ ngai tòa của Ngài.

Vậy chúng ta phải làm gì để tung hô vương quyền của Chúa?

Chúng ta có thể chúc tụng Vua chúng ta bằng cách quì gối, làm dấu thánh giá hay chắp tay nguyện cầu? Tốt lắm, bởi vì đó là bổn phận của chúng ta như lời sách Khải Huyền đã viết:

– Con Chiên bị sát tế xứng đáng lãnh nhận quyền năng, khôn ngoan, sức mạnh, vinh dụ và chiếng thắng.

Chúng ta cũng có thể chúc tụng Vua chúng ta bằng một đời sống đạo đức và thánh thiện, bác ái và yêu thương. Một con sâu làm rầu nồi canh. Một người lính hèn nhát sẽ làm cho cả đoàn quân phải tủi hổ. Một Kitô hữu xấu sẽ làm cho cả khuôn mặt Giáo Hội bị hoen ố. Vì thế, đừng lăn xả vào đống bùn nhơ tội lỗi, trái lại hãy thực sự là người môn đệ của Đức Kitô trong ngày Chúa Nhật cũng như trong ngày thường, trong đời sống riêng tư cũng như trong sinh hoạt xã hội.

Chúng ta còn có thể chúc tụng Vua chúng ta bằng cách rao giảng Phúc âm, làm việc tông đồ, và nhất là bằng cách can đảm làm chứng cho đức tin. Thực vậy, giữ đức tin mà thôi chưa đủ, chúng ta còn phải sống đức tin và phải chiến đấu cho đức tin, như lời Ngài đã nói:

– Ai xưng tụng Ta trước mặt người đời, thì Ta cũng sẽ xưng tụng nó trước mặt Cha Ta ở trên trời.

Khi một vị tướng đi duyệt đoàn quân của mình, chúng ta sẽ thấy cái quang cảnh ấy thật long trọng và hoành tráng: nào đồng phục, nào dàn chào, nào kèn trống với những lễ nghi quân cách…

Trong ngày sau hết, Vua Kitô cũng sẽ đến. Ngài nhìn xem tất cả chúng ta đi qua trước tôn nhan Ngài: già cũng như trẻ, tu sĩ cũng như giáo dân. Ngài sẽ tra hỏi mỗi người chúng ta về lòng trung thành, về tình yêu và cuộc sống của chúng ta đối với Ngài.

Vì thế, hãy tuân giữ những điều Ngài truyền dạy và nhất là thực hiện những hành động bác ái yêu thương, để chúng ta sẽ không bị Ngài loại trừ, trái lại sẽ được Ngài đón nhận vào vương quốc vĩnh cửu của Ngài.

Sưu tầm