Bài viết của em Dana Trần lớp 6/ Niên-Khóa 2014-2015
Trang 1
Để hiểu rõ hơn bản chất, việc thực hành và nền tu đức lòng sùng kính Mẹ Maria, việc tìm hiểu lịch sử lòng sùng mộ, cả khi ngắn gọn, là điều cần thiết.
Trước hết là lòng sùng mộ theo Thánh Kinh. Trong Thánh Kinh rõ ràng là từ “trái tim” – “cor” trong tiếng Latinh; “leb, lebab” trong tiếng Do thái, “kardia” trong tiếng Hy lạp – là nền tảng của tất cả tương quan tôn giáo-luân lý của con người với Thiên Chúa. Trái tim là trung tâm của toàn cuộc sống tâm lý, luân lý và tôn giáo. Nó là nơi các thái độ tốt hay xấu của con người thành hình. Nó là trung tâm cuộc sống luân lý, như là nguyên lý và nguồn gốc của tinh thần trách nhiệm, hiểu như là lương tâm. Trái tim cũng là trung tâm của cuộc sống hiểu biết, và như thế diễn tả nội tâm con người và sự thân tình sâu thẳm. Do đó nền nhân chủng học kinh thánh cựu ước coi trái tim như trung tâm của tất cả cuộc sống tinh thần của con người. Trái tim là nguyên lý sự sống, là ký ức, là tư tưởng, là ý chí, là tính nội tại của con người. Áp dụng cho Mẹ Maria trong kiểu nói “trái tim của Đức Maria” từ “tim” chiếm hữu được một năng động mạnh mẽ có khả năng phát triển các năng lực tinh thần khác, Các văn bản cứu thế chúc tụng (Tv 44), các văn bản đề cập đến “con tim mới“ (Ed 36,24-28) và nhiều văn bản khác của Thánh Kinh Cựu Ước coi trái tim như là nơi con người gặp gỡ Thiên Chúa.
Nổi tiếng nhất là văn bản của ngôn sứ Edêkiel chương 36, trong đó Thiên Chúa hứa quy tụ dân Israel từ khắp nơi về, thanh tẩy dân Israel khỏi mọi tà thần và ban cho họ một con tim mới. Văn bản viết: “Ta sẽ ban tặng các ngươi một qủa tim mới, sẽ đặt thần khí mới vào lòng các ngươi. Ta sẽ bỏ đi qủa tim bằng đá khỏi thân mình các ngươi và sẽ ban tặng các ngươi một qủa tim bằng thịt” (Ed 36,26).
Trong Thánh Kinh Tân Ước từ “trái tim” duy trì giá trị từ vựng của Thánh Kinh Cựu Ước. Chúa Giêsu mời gọi mọi người hãy học nơi Người vì Người hiền dịu và khiêm nhường trong tim (Mt 11,29). Tranh luận về truyền thống liên quan tới luật thanh sạch và ô uế, Chúa Giêsu khẳng định rằng những gì ở ngoài đi vào trong con người không khiến cho họ ra ô uế. Ăn mà không rửa tay không khiến cho con người ra ô uế. Chính những cái từ miệng phát xuất ra, là phát xuất từ trái tim con người, những thứ đó làm cho con người ra ô uế. Vì từ con tim phát xuất ra những ý định gian tà, những tội giết người, ngoại tình, tà dâm, trộm cắp, làm chứng gian và vu khống. Đó mới là những cái làm cho con người ra ô uế (Mt 11,18-20). Trả lời câu hỏi điều răn nào quan trọng nhất, Chúa Giêsu nói: “Ngươi phải yêu mến Chúa là Thiên Chúa của ngươi hết con tim, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi”. Đó là điều răn quan trọng nhất (Mt 22,37). Chương 6 Phúc Âm thánh Luca ghi lại giáo huấn của Chúa Giêsu xem qủa thì biết cây “Người tốt thì lấy ra cái tốt từ kho tàng lòng tốt của mình; kẻ xấu thì lấy ra cái xấu từ kho tàng xấu. Vì tim có đầy, miệng mới nói ra” (Lc 6,45) (Lc 9,47; 24,25; Ga 12,40; 16,22). Tả cảnh kitô hữu thời Giáo Hội khai sinh hiệp nhất yêu thương nhau sách Công Vụ viết trong chương 4 câu 32: “Các tín hữu thời bấy giờ đông đảo, mà chỉ có một lòng một ý. Không một ai coi bất cứ cái gì mình có là của riêng, nhưng đối với họ, mọi sự đều là của chung”. Kể lại lời Phó tế Stephanô tố cáo giới lãnh đạo Do thái, chương 7 sách Công Vụ viết: “Hỡi những người cứng đầu cứng cổ, tim và tai không cắt bì, các ông luôn luôn chống lại Thánh Thần. Cha ông các ngươi thế nào thì các ngươi cũng vậy” (Cv 7, 51). Trong thư gửi tín hữu Roma thánh Phaolô khẳng định với tín hữu rằng nhờ đức tin họ trở nên công chính và không thất vọng “Vì Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Người vào con tim chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta” (Rm 5,5). Trong chương 3 thư thứ II gửi tín hữu Côrintô thánh nhân nói ngài và các cộng sự viên không cần thư giới thiệu, vì tín hữu chính là thư giới thiệu của ngài. Thư ấy được viết trong tim ngài, mọi người đều biết và đã đọc. Tín hữu là bức thư Đức Kitô giao cho thánh nhân và các cộng sự viên chăm sóc, được viết trên thịt tức là trái tim con người (2 Cr 3,2-3) (Ep 3,17; 4,18; Cl 3,15-16; Dt 8,10, 10,16).
Lòng sùng kính trái tim Đức Maria được ưu tiên đặc biệt vì dựa trên ba văn bản chìa khóa của Thánh Kinh Tân Ước, là nền tảng của tất cả truyền thống sau này. Cả ba văn bản nằm trong trình thuật cuộc đời thơ ấu của Chúa Giêsu. Trước hết là biến cố Giáng Sinh. Phúc Âm thánh Luca viết trong chương 2 câu 18-19: “Nghe các mục đồng thuật chuyện ai cũng ngạc nhiên. Về phần mình Đức Maria gìn giữ mọi điều này và suy đi nghĩ lại trong tim” (kardía). Thuật lại biến cố dâng Chúa Hài Nhi trong Đền Thờ Giêrusalem thánh sử Luca ghi lại lời tiên tri của cụ già Simeon: “Còn chính bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thâu con tim bà” (kardía) (Lc 2,35). Trong biến cố Chúa Giêsu lên 12 tuổi cùng cha mẹ lên Giêsuralem mừng lễ Vượt Qua, ở lại trong Đền Thờ và đối đáp với các bậc thầy Do thái, sau khi tìm thấy Người Mẹ Maria trách: “Con ơi, sao con lại xử với cha mẹ như vậy? Con thấy không, cha con và mẹ đây đã phải cực lòng tìm con!”. Người đáp: “Sao cha mẹ lại tìm con làm gì? Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà Cha con sao?”. Nhưng hai ông bà không hiểu lời Người nói. Sau đó, Người đi xuống cùng với cha mẹ, trở về Nagiarét và hằng vâng phục các ngài. Còn riêng mẹ Người thì hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong hồn” (psiché) (Lc 2, 48-52).
Hai văn bản đầu tiên đã được giải thích nhiều cách khác nhau, nhất là trong chìa khóa lịch sử, khải huyền và khôn ngoan. Nhiều nhà chú giải cho rằng thánh sử Luca, hay tác giả mà thánh sử tùy thuộc, đã muốn ám chỉ một cách tế nhị rằng nguồn gốc các tin tức của thánh nhân là chính Đức Trinh Nữ Maria. Nhiều nhà chú giải tân tiến khác thì nghĩ rằng hai văn bản Lc 2,19 và Lc 2, 51 diễn tả một hình thái văn chương riêng của loại văn chương khải huyền , được soạn giả dùng để lôi kéo sự chú ý của độc giả trên tầm quan trọng của điều được kể. Cũng giống như trong sách Daniel. Daniel sau thị kiến về “Con người” nói rằng: “Tôi, Daniel, tôi rất bối rối trong tư tưởng, mầu mặt tôi thay đổi và tôi giữ gìn tất cả những điều ấy trong tim” (Dn 7,28).
Chắc chắn đây là một hình thái văn chương thuộc loại khải huyền, được dùng để ám chỉ không phải nguồn gốc lịch sử, mà tác giả tùy thuộc, cho bằng sự kiện Đức Maria được đặt ở trung tâm của suy tư kitô về các mầu nhiệm cuộc đời thơ ấu của Chúa Giêsu. Điều này rất quan trọng đối với nền tu đức sùng mộ Khiết Tâm Đức Mẹ, bởi vì trái tim Đức Mẹ, theo các nguồn tin mừng, được coi như là chiếc nôi của toàn suy niệm kitô về các mầu nhiệm của Chúa Kitô. Và điều này ban cho lòng sùng kính Trái tim Đức Mẹ một nền tảng tài liệu viết không thể so sánh được. Tuy nhiên, cũng cần chú ý tới truyền thống truyền khẩu rất quan trọng và thường khá trung thực nơi các dân tộc vùng Trung Đông, trong đó có dân Do thái. Chắc chắn Đức Mẹ đã kể lại nhiều điều về thời thơ ấu của Chúa Giêsu, trong đó có các biến cố được các Phúc Âm nhắc tới trên đây.
Ngoài ra cũng không nên lơ là với viễn tượng khôn ngoan được học giả A. Serra nêu bật. Theo học giả Serra “suy niệm trong tim” là đặc tính của người khôn ngoan, giữ gìn trong ký ức các sự kiện để thời sự hóa nội dung của chúng. Cũng thật là hay, khi ghi nhận rằng từ “suy gẫm” (sunbálllein) nhắc lại sinh hoạt biểu tượng, qua đó người ta đặt các thực tại cổ xưa với các thực tại mới để hiểu rõ chúng hơn.
Văn bản thứ hai tả lại cảnh dâng Chúa Hài Nhi trong Đền Thờ Giêrusalem cũng rất hay trên bình diện thánh mẫu học, bởi vì trong văn bản này việc kết hiệp nội tại của Đức Maria với toàn công trình cứu độ của Con mẹ lộ hiện một cách sâu xa bất ngờ. Tất cả những gì được thành toàn trong thân thể khổ đau của Con thì cũng thành toàn trong tâm hồn và trong con tim của Mẹ Người.
Đó là lý do giải thích tại sao hai yếu tố nòng cốt này giúp hiểu kiểu nói “trái tim Đức Maria” bắt đầu từ Thánh Kinh.
Linh Tiến Khải
Đức Thánh Cha tiếp Hội Đồng tái truyền giảng Tin Mừng
VATICAN. ĐTC mời gọi các tín hữu cảm nghiệm cụ thể lòng thương xót của Thiên Chúa để trở thành dụng cụ cứu độ cho anh chị em mình.
Đó là ý tưởng ĐTC đặc biệt nhấn mạnh trong buổi tiếp kiến sáng 29-5-2015 dành cho 50 HY, GM và LM, tu sĩ tham dự khóa họp toàn thể của Hội đồng Tòa Thánh tái truyền giảng Tin Mừng về đề tài: ”Đâu là tương quan giữa việc loan báo Tin Mừng và huấn giáo”.
Lên tiếng trong dịp này ĐTC nhắc đến việc tổ chức Năm Thánh đặc biệt về Lòng Thương Xót được ngài ủy thác cho Hội đồng Tòa Thánh tái truyền giảng Tin Mừng và khẳng định rằng: Năm Thánh này có mục đích làm nổi bật hơn hồng ân Lòng Thương Xót của Chúa. Đây chính là việc loan báo mà Giáo Hội được mời gọi thông truyền qua hoạt động loan báo Tin Mừng trong một thời đại có những thay đổi lớn. Những thay đổi này là một sự kích thích các tín hữu đón nhận những dấu chỉ thời đại mà Chúa cống hiến cho Giáo Hội, để Giáo Hội có khả năng mang Chúa Giêsu Kitô đến cho cho người ngày nay. Sứ mạng này vẫn như trước, nhưng ngôn ngữ dùng để loan báo Tin Mừng đòi phải được đổi mới, trong sự khôn ngoan mục vụ.”
ĐTC cũng nhấn mạnh rằng ”con người ngày nay đang mong đợi Giáo Hội biết đồng hành với họ, cống hiến cho họ chứng tá đức tin, khiến Giáo Hội liên đới với tất cả mọi người, đặc biệt là những ngừơi cô đơn và bị gạt ra ngoài lề. Bao nhiêu người nghèo đang chờ đợi Tin Mừng giải thoát! Bao nhiêu người nam nữ, ở những vùng ngoại biên cuộc sống do xã hội tiêu thụ gây ra, đang chờ đợi sự gần gũi và tình liên đới của chúng ta”!
Trong bối cảnh đó, ĐTC khẳng định rằng ”tân Phúc Âm hóa là ý thức tình yêu thương xót của Chúa Cha để chính chúng ta cũng trở thành những dụng cụ cứu độ cho các anh chị em chúng ta”.
ĐTC đề cao tầm quan trọng của việc huấn giáo trong đời sống Kitô để các tín hữu cảm nghiệm lòng thương xót của Thiên Chúa. Đây không phải là một ý tưởng trừu tượng, nhưng là một sự cảm nghiệm cụ thể, qua đó chúng ta hiểu những yếu đuối của mình và sức mạnh đến từ trên cao.. Thiên Chúa đến cứu vớt chúng ta khỏi thân phận yếu đuối chúng ta đang sống.
ĐTC không quên nhắc nhở rằng ”việc giáo dục về đức tin là điều thiết yếu, nó đòi chúng ta phải có can đảm, tinh thần sáng tạo, và quyết định đi vào những con đường nhiều khi chưa được thám hiểm. Việc huấn giáo, như thành phần của tiến trình loan báo Tin Mừng, cần phải đi xa hơn lãnh vực học đường, để giáo dục các tín hữu, ngay từ nhỏ, gặp gỡ Chúa Kitô hằng sống và hoạt động trong Giáo Hội của Người” (SD 29-5-2015)
G. Trần Đức Anh OP
Đức Thánh Cha tiếp kiến 17 Giám Mục Dominicana – OSS_ROM
VATICAN. ĐTC kêu gọi các GM cộng hòa Dominicana cổ võ hòa giải trong các gia đình và dành thời giờ nhiều hơn cho các LM.
Trên đây là nội dung bài huấn dụ ĐTC trao cho 17 GM Dominicana trong buổi tiếp kiến sáng ngày 28-5-2015, nhân dịp các vị về Roma hành hương viếng mộ hai thánh Tông Đồ và thăm Tòa Thánh.
Ngài nhận xét rằng ”hôn nhân và gia đình đang trải qua một cuộc khủng hoảng nghiêm trọng về văn hóa, nhưng không vì thế mà mất tầm quan trọng, trái lại càng cần thiết hơn nữa.. Ước gì trong Năm Thánh Lòng Thương Xót sắp tới, không thiếu những nỗ lực hòa giải hôn nhân và gia đình, cũng như sự sống chung hòa bình. Điều cấp thiết là tăng cường việc giảng dạy giáo lý về lý tưởng hôn nhân Kitô và đời sống gia đình, trong đó bao gồm cả linh đạo làm cha làm mẹ trong tinh thần trách nhiệm. Trong việc mục vụ cần chú ý hơn về vai trò của người nam trong tư cách là chồng và là cha, cũng như trách nhiệm của họ đối với người vợ trong hôn nhân, gia đình và việc giáo dục con cái”.
ĐTC cũng khẳng định rằng: ”Tôi mời gọi anh em dành nhiều thời giờ và quan tâm hơn tới các linh mục, chăm sóc mỗi người trong họ, bênh vực họ khỏi những chó sói tấn công cả các mục tử… Trong các chủng viện cần quan tâm đến việc huấn luyện nhân bản, trí thức và tu đức, giúp chủng sinh gặp gỡ thực sự với Chúa, vun trồng sự dấn thân mục vụ và trưởng thành về tình cảm, để có khả năng đảm nhận đời sống độc thân LM và hoạt động trong tinh thần hiệp thông”.
Cũng trong bài huấn dụ, ĐTC khuyến khích các GM Dominicana tăng cường việc mục vụ cho những người di dân Haiti đến nước này để tìm điều kiện sống tốt đẹp hơn. ”Cần cộng tác với chính quyền dân sự để đạt tới giải pháp cho vấn đề những người nhập cư không có giấy tờ và những người bị phủ nhận những quyền căn bản của họ”.
ĐTC cho biết ngài am tường những cố gắng và quan tâm của các GM Dominicana đối với những vấn đề trầm trọng đang đè nặng trên dân chúng tại Mỹ châu la tinh như nạn buôn bán ma túy và buôn người, nạn tham ô hối lộ, bạo hành trong gia đình, lạm dụng và khai thác trẻ vị thành niên, tình trạng bất công xã hội.” Ngài viết: ”Do mối liên hệ mật thiết giữa việc loan báo Tin Mừng và thăng tiến nhân bản, toàn thể hoạt động của Giáo Hội là Mẹ phải tìm kiếm và chăm sóc thiện ích của những người kém may mắn nhất”.
Cộng hòa Dominicana chỉ rộng hơn 48 ngàn cây số vuông với trên 10 triệu dân cư, trong đó 88,5% là tín hữu Công Giáo, thuộc 2 giáo tỉnh với 11 giáo phận.
Từ đầu năm đến nay, ĐTC đã tiếp kiến được 15 Hội đồng GM Phi châu, trong đó có 2 HĐGM Á châu là Nhật Bản và Hàn quốc. Từ nay đến cuối năm, ngài còn tiếp các GM thuộc 5 quốc gia trong đó có Lettini, Bồ đào nha, Đức và Slovak (SD 28-5-2015)
G. Trần Đức Anh OP
Đại diện Tòa Thánh kêu gọi rút ra bài học từ dịch Ebola
GENEVE. Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh mục vụ y tế, Đức TGM Zygmunt Zimowski, kêu gọi cộng đồng quốc tế rút ra bài học từ nạn dịch Ebola ở miền tây Phi châu.
Trong bài tham luận hôm 20-5-2015 tại Hội đồng quản trị của tổ chức sức khỏe thể giới, OMS, nhóm tại Genève từ ngày 18 đến 26-5-2015, Đức TGM Zimowski nói: ”Nạn dịch Ebola ở miền Tây Phi là một thảm trạng về con người và sức khỏe công cộng chứng tỏ cần cấp thiết phát triển những hệ thống y tế bền bỉ trên thế giới, nhất là tại những vùng quê và miền sâu miền xa.. Các nước có lợi tức thấp vẫn còn bị thương tổn vị những bệnh truyền nhiễm và dịch tễ, họ có hệ thống y tế rất yếu kém cần được can thiệp cấp thiết”.
Hôm 20-5-2015, trong ngày Đức TGM Zimowski người Ba Lan phát biểu, tổ chức Sức khỏe thế giới công bố một phúc trình về tình trạng bệnh dịch Ebola, theo đó chỉ trong vòng 1 tuần lễ, con số những người bị nhiễm Ebola ở nước Sierra Leone và Guinea đã tăng gấp 4 lần, từ 9 lên 35 người, và vùng bị nhiễm bệnh lan rộng.
Mặc dù Ebola vẫn còn tại các nước đó, nhưng con số người nhiễm bệnh và thiệt mạng vì bệnh này đã giảm sút đáng kể từ khi nó bộc phát ở Guinea hồi năm 2013. Hôm 9-5, Tổ chức Sức khỏe thế giới tuyên bố nước Liberia được giải thoát khỏi dịch Ebola.
Theo thống kê công bố hôm 20-5-2015, dịch Ebola bắt đầu từ năm 2013 đã làm cho gần 27 ngàn người nhiễm bệnh (26.969) trong đó có 11.135 người bị thiệt mạng, phần lớn ở 3 nước Guinea, Sierra Leone và Liberia.
Trong bài tham luận, Đức TGM Zimowski kêu gọi tái đặt ưu tiên cho việc đầu tư vào sức khỏe và cần có sự dấn thân dài hạn của các chính phủ và các tổ chức quốc tế để hỗ trợ các hệ thống y tế và sự săn sóc sức khỏe trên thế giới, nhờ đó cải tiến sự đối phó qui mô đối với sự bộc phát của bệnh tật.
Đức TGM cũng nhấn mạnh đến sự chênh lệch quá lớn trong hệ thống sức khỏe hoàn cầu, giữa dân chúng tại thành thị và những người dân ở miền quê; một nửa số dân tại miền quê không được săn sóc cơ bản về sức khỏe. Vì thế, Đức TGM Zimowski kêu gọi cấp thiết giải quyết sự chênh lệch này và các tổ chức quốc tế và kế hoạch phát triển cần đảm bảo cho dân chúng quyền được bảo vệ về xã hội và sức khỏe”. Ngài cũng đề cao tầm quan trọng của các tổ chức tư nhân, vô vị lợi, trong đó có cả các tổ chức Công Giáo. Theo thống kê năm 2013 của Giáo Hội, có 116.185 cơ sở y tế Công Giáo trên thế giới (CNS 21-5-2015)
G. Trần Đức Anh OP
VATICAN. ĐTC Phanxicô nhắn nhủ các tu sĩ dòng Phanxicô sống trọn tinh thần hèn mọn và huynh đệ, thông truyền lòng thương xót, hòa giải và an bình.
Ngài đưa ra lời kêu gọi trên đây trong buổi tiếp kiến sáng 26-5-2015, dành cho 200 tham dự viên Tổng tu nghị dòng Anh em Hèn mọn Phanxicô, nhóm tại Assisi từ ngày 10-5 đến 7-6 tới đây. Trong số các vị có một người Việt là cha Inhaxio Nguyễn Duy Lâm, Bề trên tỉnh dòng Việt Nam. ĐTC nói:
“Trong những ngày suy tư và cầu nguyện, anh em để cho mình được 2 yếu tố thiết yếu trong căn tính của anh em hướng dẫn, đó là hèn mọn và huynh đệ.
– ”Sự hèn mọn kêu gọi ta sống và cảm thấy mình là bé nhỏ trước mặt Thiên Chúa, hoàn toàn tín thác nơi lòng thương xót vô biên của Chúa. Viễn tượng thương xót là điều không thể hiểu được đối với những người không nhận mình là ”hèn mọn”, nghĩa là bé nhỏ, túng thiếu và tội lỗi trước mặt Chúa. Hễ chúng ta càng ý thức điều này, thì chúng ta càng gần ơn cứu độ; hễ chúng ta càng xác tín mình là người tội lỗi, thì chúng ta càng sẵn sàng được cứu độ..
ĐTC nhận xét rằng: ”Đặc tính hèn mọn cũng có nghĩa là ra khỏi mình, ra khỏi những cái khung và quan điểm cá nhân của mình; là đi xa hơn những cơ cấu, những tập tục và an ninh, để chứng tỏ sự gần gũi cụ thể với người nghèo, người túng thiếu, người ở ngoài lề, trong thái độ chia sẻ và phục vụ đích thực”.
– ĐTC nhấn mạnh chiều kích huynh đệ là điều thiết yếu thuộc về chứng tá Tin Mừng. ”Trong Giáo Hội nguyên thủy, các tín hữu Kitô sống tình hiệp thông huynh đệ đến độ trở thành dấu chỉ hùng hồn về sự hiệp nhất và bác ái, đầy sức thu hút. Dân chúng ngạc nhiên khi thấy các tín hữu Kitô hiệp nhất như vậy trong tình thương, sẵn sàng trao ban và tha thứ cho nhau, liên đới trong tình thương xót, tử tế, giúp đỡ lẫn nhau, đồng tâm chia sẻ vui buồn, đau khổ, và những kinh nghiệm sống. Gia đình dòng tu của anh em cũng được kêu gọi diễn tả tình huynh đệ cụ thể ấy, qua sự phục hồi sự tín nhiệm lẫn nhau trong những tương quan với nhau, để thể giới thế và tin, nhìn nhận rằng tình thương của Chúa Kitô chữa lành những vết thương và làm cho hiệp nhất”.
Cũng trong bài huấn dụ, ĐTC khẳng định rằng ”Trong viễn tượng vừa nói, điều quan trọng là phục hồi ý thức mình là người mang lòng từ bi thương xót, hòa giải và an bình. Anh em sẽ thực thi ơn gọi và sứ mạng này tốt đẹp nếu anh em luôn luôn là một dòng tu ”đi ra ngoài”. Vả lại điều này cũng đáp ứng đoàn sủng của anh em.
Theo ĐTC, những lời nhắn nhủ của thánh Phanxicô về sự sống chung hòa hợp, tránh tranh cãi, không đoán xét người khác, dịu dàng, an bình, khiêm tốn, dịu dàng, khiêm nhường, ăn nói liêm chính với mọi người…”vẫn còn rất thời sự ngày nay, đó là lời ngôn sứ về tình huynh đệ và sự hèn mọn đối với thế giới chúng ta.. Thật là điều rất quan trọng khi sống đời sống Kitô và tu trì không để mình bị mất hút trong những tranh biện và nói hành nói xấu, vun trồng một cuộc đối thoại thanh thản với mọi người, dịu hiền, từ nhân, khiêm tốn, dùng những phương thế nghèo hèn, loan báo an bình và sống tiết độ, hài lòng với những gì được trao tặng. Điều này cũng đòi phải dấn thân quyết liệt trong sự minh bạch, sử dụng của cải hợp với luân lý đạo đức và liên đới, có lối sống điều độ và từ bỏ.”
ĐTC cảnh giác rằng ”Nếu anh em quyến luyến của cải và giàu sang của thế gian này, thì anh em đặt an ninh của mình nơi những của ấy, và chính Chúa sẽ tước bỏ anh em khỏi tinh thần thế tục để bảo tồn gia sản quí giá là sự hèn mọn và thanh bần mà anh em được kêu gọi sống, qua thánh Phanxicô. Hoặc anh em là những người tự nguyện thanh bần và hèn mọn, hoặc anh em rốt cục sẽ bị tước bỏ” (SD 26-5-2015)
G. Trần Đức Anh OP
VATICAN. Trong sứ điệp nhân ngày Thế giới các bệnh nhân lần thứ 23, ĐTC mời gọi các tín hữu cởi mở đối với những đau khổ của bệnh nhân, phục vụ, tháp tùng, ra khỏi mình để đến với anh chị em bệnh nhân đau khổ.
Ngày thế giới các bệnh nhân do Thánh Gioan Phaolô 2 Giáo Hoàng thiết lập và sẽ được cử hành lần thứ 23 vào ngày 11-2-2015, lễ Đức Mẹ Lộ Đức, với chủ đề là một câu trích từ sách Ông Gióp: ”Tôi đã là đôi mắt cho người mù, đôi chân cho người què” (G 29,15).
Trong sứ điệp công bố hôm 30-12-2014, ĐTC quảng diễn chủ đề này và trình bày những hoa trái của sự khôn ngoan tâm hồn. Đây không phải là một kiến thức lý thuyết trừu tượng, nhưng là ”một thái độ được Thánh Linh phú vào trong tâm trí của người biết cởi mở đối với đau khổ của anh chị em mình và nhận ra hình ảnh của Thiên Chúa nơi họ”.
ĐTC lần lượt nói đến:
– Sự khôn ngoan của tâm hồn là phục vụ anh chị em. ”Bao nhiêu Kitô hữu ngày nay đang làm chứng tá, – không phải bằng lời nói, nhưng bằng cuộc sống của họ được ăn rễ trong một đức tin chân thành, – là 'đôi mắt cho người mù' và là 'đôi chân của người què!'. Họ là những người gần gũi các bệnh nhân đang cần được giúp đỡ liên tục, giúp đỡ để tắm rửa, mặc quần áo, ăn uống. Việc phục vụ này, nhất là khi nó kéo dài trong thời gian, có thể trở thành vất vả và nặng nề. Phục vụ vài ngày thì dễ, nhưng thật khó chăm sóc một người kéo dài hàng tháng hoặc hàng năm, cả khi người ấy không còn khả năng cám ơn nữa. Nhưng đó thực là một con đường lớn để thánh hóa! Trong lúc ấy ta có thể cậy trông đặc biệt vào sự gần gũi của Chúa, và là một nâng đỡ đặc biệt cho sứ mạng của Giáo Hội”.
– Sự khôn ngoan của tâm hồn là ở với người anh em. Thời gian trải qua cạnh người bệnh là một thời gian thánh. Là chúc tụng Thiên Chúa, Đấng làm cho chúng ta được đồng hình dạng với Con của Ngài, Đấng đã không đến để được phục vụ, nhưng để phục vụ và hiế mạng sống mình để cứu chuộc nhiều người” (Mt 20,28)
Chúng ta hãy tin tưởng cầu xin Thánh Linh ban cho chúng ta ơn hiểu được giá trị của sự tháp tùng, nhiều khi trong thinh lặng, khiến chúng ta dành thời giờ cho các anh chị em, nhờ sự gần gũi và phục vụ của chúng ta, họ cảm thấy được yêu thương và an ủi hơn. Trái lại, thật là một sự dối trá lớn lao khi nấp đằng sau những kiểu nói nhấn mạnh rất nhiều về ”chất lượng đời sống”, để làm cho người ta tin rằng những mạng sống bị tổn thương nặng nề vì bệnh tật thì không đáng sống!”
– Sự khôn ngoan của tâm hồn là ra khỏi chính mình để đi tới người anh em. Thế giới chúng ta nhiều khi quên giá trị đặc biệt của thời gian ở bên giường người bệnh, vì người ta bị vây bủa vì sự vội vã, miệt mài làm việc, sản xuất, mà quên đi chiều kích nhưng không, chăm sóc tha nhân.
– Sự khôn ngoan của tâm hồn cũng là thái độ liên đới với người anh em mà không xét đoán họ. ”Đức bác ái cần thời gian. Thời gian để chăm sóc người bệnh và thời gian để viếng thăm họ… Đức bác ái chân thành là chia sẻ mà không xét đoán, không chủ trương hoán cải người khác; đức bác ái không có sự khiêm nhường giả tạo, ngấm ngầm tình kiếm sự ủng hộ và hài lòng vì điều thiện đã làm.”
ĐTC cũng khẳng định rằng ”cả khi bệnh tật, cô đơn và tật nguyền thắng thế trong đời sống hiến thân của chúng ta, kinh nghiệm về sự đau khổ có thể trở thành nơi ưu tiên để thông truyền ơn thánh và là nguồn mạch để thủ đắc và củng cố sự khôn ngoan của tâm hồn.”
Sau cùng, ĐTC phó thác Ngày Thế giới các bệnh nhân cho sự bảo trợ của Mẹ Maria, Đấng đã đón nhận Đấng Khôn ngoan nhập thể là Chúa Giêsu Kitô trong cung lòng Mẹ. Ngài cầu xin sự chuyển cầu của Mẹ Maria là Tòa Đấng Khôn ngoan cho tất cả các bệnh nhân và những người săn sóc họ (SD 30-12-2014)
G. Trần Đức Anh OP
Một năm mới đang về. Điều đó có ý nghĩa gì cho tôi? Xin trân trọng giới thiệu những dòng suy tư sau đây của Cha Karl Rahner, S.J.
– (Người dịch)
Một năm mới đang về. Năm mới sẽ đem về gì đây? Tôi không có ý nói đến một viễn tượng nào đó cho thế giới, cho tình hình chính trị, hay cho Giáo Hội. Tôi muốn nghĩ đến viễn tượng của chính mình – của tôi. Dấu hỏi này và nỗi ưu tư này không hề vu vơ. Vì rồi sẽ tới lúc tôi ra đi, sẽ tới lúc tôi không còn có mặt trên trần đời này nữa. Và chính đức tin – chứ không phải những tưởng tượng lẩn quẩn về mình – cho tôi biết rằng dù ra đi nhưng mình sẽ vẫn tồn tại thực sự, và tồn tại trong tất cả sự thực mà mình đã trở thành ở đây và bây giờ, rằng toàn bộ thời gian đang trôi chảy đây được thâu họp vào thực tại mệnh danh là “vĩnh cửu” – vĩnh cửu của tôi, vĩnh cửu của bạn, vĩnh cửu độc nhất, không thể chuyển và không thể đổi.
Vì thế tôi có lý do để băn khoăn rằng năm mới này sẽ đem lại gì cho tôi. Mà nói cho cùng, tất cả lịch sử rốt cục cũng chỉ quan trọng ở chỗ nó đem lại gì cho mỗi con người, cho bạn và cho tôi, trong vĩnh cữu ấy (dù có thể nhiều người nông cạn không nhìn ra tầm quan trọng này). Vì mọi cái khác đều trôi qua, chúng không quan trọng lắm bởi chúng nay còn mai mất. Rõ ràng ta có thể nói rằng cái thực tại chóng qua này đây – nếu được hiểu đúng – chính là vĩnh cửu trong tiến trình đang trở thành; thực thể vĩnh hằng là thực thể phàm trần đã được mang đến mức viên mãn, chứ không phải là một cái gì sẽ đến sau này theo cách hiểu thông thường – vì nếu thực thể vĩnh hằng chỉ là cái sẽ đến sau, thì rồi cũng sẽ tới lượt nó trôi đi mất, tiêu vong!
Đó là lý do tại sao tôi quan tâm tới vấn đề năm mới này sẽ đem lại gì cho mình. Với tất cả niềm trân trọng đối với vĩnh cửu, tôi muốn đặt câu hỏi này ra. Vì những gì đang đến sẽ không tan biến mất. Nó đến để ở lại. Nó có mặt để lưu tồn chứ không phải để tiêu vong. Nó cắm vào trong khoảng trống của thời gian để lấp đầy thời gian. Nó là huyền nhiệm của vĩnh cửu trong thời gian. Năm mới này sẽ đem lại gì đây – vấn đề này tôi trân trọng mấy cũng không vừa. Vì bao lâu tôi còn đi qua dòng chảy của thời gian trong thân phận con người mình, tôi vẫn luôn nghĩ rằng thời gian không chứa đựng gì ngoại trừ chính nó. Tôi phải thường xuyên tự cảnh tỉnh mình. Vĩnh cửu đang diễn ra nơi tôi bây giờ, một lần và cho tất cả, vĩnh cửu đang có mặt bây giờ dẫu tôi tưởng rằng những gì đang trôi qua đây chẳng có mấy tầm quan trọng.
Không phải mọi khoảnh khắc đời tôi đều có đầy giá trị lưu dấu vĩnh cửu như nhau. Vậy, khi nào thì một khoảnh khắc của đời tôi được “viên mãn” (theo nghĩa: khi thời gian đến hồi “viên mãn”, Ngôi Lời Thiên Chúa đã nhập thể và đi vào trần gian)? Rõ ràng khoảnh khắc ấy sẽ xảy đến khi mà – với tất cả ý thức, can đảm và quyết tâm – tôi huy động trọn vẹn con người mình và với tự do của mình tôi trao phó trọn vẹn con người tôi cho Thiên Chúa, một cách hoàn toàn không nhuốm màu vị kỷ, một cách khôn tả vì đó chính là nhờ tình yêu khôn tả của Thiên Chúa, Đấng mà tôi chỉ thực sự biết khi nào tôi đạt đến cuộc dâng hiến khôn tả nầy. Và người ta đạt đến điều này không phải bằng con đường thông thuộc đầy dấu vết của cảm tính và giảo hoạt, nhưng là bằng thái độ nghiêm túc triệt để và bền bỉ trung thành, vì Thiên Chúa là Đấng ta không thể hiểu thấu. Như vậy, tôi chỉ có một cách để làm chủ chính mình: làm chủ qua hành vi thí bỏ và trao hiến trọn vẹn con người tôi!
Và rõ ràng, đó là tất cả ý nghĩa của hành vi Kitô hữu. Vì, dù người ta có ý thức hay không, trong trật tự của cuộc sống hiện tại, một hành vi như thế không thể được thực hiện ngoài đức tin và ân sủng. Sở dĩ ta có thể bước tới được với Thiên Chúa, đấy là bởi vì chính Ngài – Đấng vô cùng – đã đến gần gũi với ta nơi Đức Giêsu Kitô (dù người ta có biết điều này hay không).
Thật là đúng đắn, đáng khen, và rất có ý nghĩa khi nói (miễn là ta biết dè dặt đúng mức chứ không lạm dụng bừa bãi) rằng chúng ta suy tưởng về Chúa, chúng ta có thiện chí, chúng ta giữ các giới răn của Ngài thì (ta nghĩ) sẽ chẳng có sự cố gì có thể xảy đến cho mình, chắc hẳn Ngài phải tỏ ra ưu ái ta, thưởng công cho ta (như nhiều người Công Giáo nghĩ) hay ít nhất Ngài cũng phải tha thứ tội lỗi cho ta (như nhiều người khác nghĩ).
Dĩ nhiên cách nghĩ ấy có thể đúng. Hay phải nói rằng quả thực cách nghĩ ấy đúng. Song đó không phải là tất cả sự thực mà tôi đang quan tâm ở đây. Nói cho cùng, chúng ta phải yêu mến Thiên Chúa với hết lòng, hết sức lực, với trọn linh hồn mình. Và đàng khác, chúng ta phải yêu như vậy ngay khi mình còn trong thân phận lữ khách hành hương cách xa Chúa vời vợi, ngay khi mình vẫn không nhìn thấy Ngài mặt đối mặt. Vì phúc ân mà ta được hứa nằm ở trong sự hoàn thành trọn vẹn cuối cùng và vĩnh viễn của thời gian, của tình yêu trong thời gian.
Vì thế chúng ta phải tận hiến chính mình cho Ngài trước đã, bằng chính sự tự do trong hiện tại này, để có thể hoàn toàn đón nhận được Ngài. Đó phải là một hiến dâng trọn vẹn, không thể có một cắt xén nào, một châm chước nào. Tất cả các phúc ân mà Ngài ban cho ta cũng cốt ở chỗ giúp ta thực hiện hành vi dâng hiến này. Tuy nhiên duy chỉ việc Chúa ban ơn cho ta cũng không đủ để làm ra hành vi dâng hiến đó; nó phải là một việc làm của ta nữa (một việc làm trong thời gian mang ý nghĩa vĩnh cửu). Ngay cả người kẻ trộm bị đóng đinh thảm hại kia cũng được nhận lời khi – vào giây phút cuối cùng – anh ta bắt đầu tin yêu với trọn tấm lòng, trọn năng lực và trọn linh hồn anh.
Nhưng khi nào thì điều này xảy đến cho tôi? Và ở đâu ơn Chúa sẽ hoàn toàn chiến thắng và hoàn toàn khuất phục sự tự do của tôi – để con người nhát đảm và khiếp sợ của tôi (vốn không dễ gì chịu bỏ mình) có thể tìm ra được đủ can đảm để dám thực sự hoàn toàn quên mình vì Chúa? Ở đâu và khi nào tôi sẽ đạt đến điều đó? Chắc hẳn là tôi đã được điều đó rồi, tôi có thể tự nhủ mình một cách đầy an ủi như thế. Vì, dĩ nhiên, tôi xác tín rằng mình đang sống trong ân sủng Chúa, tôi xác tín rằng mình đã gặp thấy lòng khoan nhân của Thiên Chúa và Thánh Thần của Ngài – là chính tình yêu của Thiên Chúa – vẫn được đổ tràn vào lòng ta. Và do đó, (có thể nói) tình hình không có gì là quá bi đát hay quá mờ mịt cho tôi, vì tình yêu của Thiên Chúa tràn trào; nếu không nhận được tình yêu ấy thì chẳng một ai có thể gặp thấy được Thiên Chúa của mình.
Câu hỏi có thể đặt ra: Phải chăng chúng ta có thể nói rằng ta phải yêu mến Thiên Chúa từ nơi sâu thẳm nhất của con người mình, yêu một cách đích thực và chân thành – nhưng ta không cần phải thu tóm trọn cả cuộc sống mình vào trong tình yêu tuyệt đối của Thiên Chúa “ngay lúc này”, lúc mà chúng ta đang xao xuyến đặt câu hỏi này ra? Khi tự hỏi như vậy là chúng ta cho thấy rằng mình vẫn còn đang bước đi trong cuộc hành trình dang dở, vẫn đang còn ở trong giòng lịch sử phận người…. Không được phép cố tình giậm chân tại chỗ, chết cứng. Chúng ta phải hăng hái tiến lên và trưởng thành trong tình yêu này.
Và nếu chúng ta làm thế, thì rõ ràng là mọi sự sẽ trở thành tốt đẹp ngay trong hiện tại này – nghĩa là ngay khi mà chúng ta còn chưa có được một tình yêu có sức làm cho mình biến đổi hoàn toàn, ngay khi chúng ta còn tham lam và ích kỷ – dù vẫn có niềm tin và thiện chí. Chúng ta có tấm lòng và tấm lòng đó sẽ triển nở nếu ta không cố tình phung phí những cơ hội do cuộc sống và ơn Chúa ban cho.
Tất cả những điều ấy quả xác thực và sự xác thực này rất có tính khích lệ cho ta. Song như vậy không có nghĩa là có thể hoàn toàn thỏa mãn, vì dù sao chăng nữa một lúc nào đó trong cuộc đời ta cái khoảnh khắc “thời gian viên mãn” vẫn cần phải xảy ra. Cái khoảnh khắc linh thánh, tuyệt vời, trọn vẹn ấy phải xảy ra. Cái khoảnh khắc tĩnh lặng như đêm Chúa ra đời, trong đó với trọn lòng mình con người dâng hiến trọn vẹn chính mình trong bàn tay của Đấng mà mình không thể thấu hiểu (thật là khủng khiếp một sự phó thác như thế) – và cuộc dâng hiến ấy trọn vẹn đến nỗi món quà hiến dâng không bao giờ bị lén lút rút lại, như thực tế vốn thường xảy ra.
Ta có thể dám hy vọng không, hy vọng rằng một ngày nào đó mình cỏ đủ tấm lòng để thực hiện được hành vi dâng hiến ấy? Có phải thực ra ta đã hy vọng rồi – vì rất có thể ta đã bắt đầu hy vọng rồi, và vì ta nghĩ mình vốn vẫn yêu mến một mức nào đó hoặc vốn vẫn khao khát một tình yêu như thế? Có phải đó là một dấu chứng đầy đủ cho niềm hy vọng – vừa rất dũng cảm vừa vô cùng thiết yếu – rằng rồi sẽ đến lúc ta có thể thực sự biết yêu bằng trọn vẹn con người mình? Duờng như tuổi tác càng chất chồng thì tấm lòng người ta càng khó sẵn sàng để hiến dâng. Nó trở nên mỏi mệt, héo hắt, lạnh lẽo và chán chường. Người ta tự hỏi phải chăng mình tiếp tục bước tới bởi vì mình không thể làm bất cứ gì khác, mình đã hóa khô cứng do trải qua sự khổ luyện hằng ngày, hoặc phải chăng mình như bất lực không còn có thể làm gì khác bởi vì chính sự bất lực này là phần thưởng ân phúc của sự tự do đích thực? Có phải nhân đức đã xuống cấp trở thành chuyện thông thường, sự nỗ lực phấn đấu đã trở thành chuyện náo động vu vơ, và lòng trung tín chỉ còn là tập quán?
Sự viên mãn của thời gian trong đời tôi ở đâu, đâu là giờ phút quyết định trong đó toàn bộ thực tại con người tôi được huy động? Phải có một giờ phút như vậy. Bởi vì rõ ràng là con người ta không xây đắp cuộc đời mình bằng cách thu gom những việc lành của mình, từng việc từng việc lẻ tẻ, và dồn chúng lại. Đúng hơn, mỗi việc lành ấy đều có tiềm năng chứa đựng cái toàn thể, có tiềm năng hiến dâng trọn vẹn cho Thiên Chúa. Nếu chẳng vậy, làm sao một hành vi riêng lẻ nào đó có thể quyết định cả cuộc sống con người. Thế mà mọi hành vi, hiểu theo nghĩa đầy đủ, đều có sức quyết định như thế. Tội “trọng” là cái có thực, và việc lành “trọng” cũng có thực. Một việc lành “trọng” tự yếu tính nó phải khác với một việc lành “nhẹ” – cũng như tội trọng khác với tội nhẹ. Nhưng đâu là những lúc mà tôi đã thực hiện những hành vi có tầm quan trọng như thế, những hành vi có trọng lượng bằng cả con người tôi – bởi vì chúng đặt cả con người tôi lên bàn cân của Thiên Chúa?
Người ta thường nói đến những phút giờ trọng đại nhất, những khoảnh khắc tuyệt vời và linh thánh nhất của đời người – và cứ dựa theo những biến cố đang được mừng thì đó là: dịp rước lễ lần đầu, ngày thành hôn, …, dịp lãnh chức thánh, vv… Có phải những biến cố ấy là những bước quặt của cuộc đời mà chúng ta đang tìm kiếm? Có phải những biến cố ấy chính là sự tròn đầy của vĩnh cửu đi vào trong một khoảnh khắc của thời gian? Chúng ta được phép nghĩ thế. Vì còn gì trọng đại hơn và quyết liệt hơn cái khoảnh khắc mà – chẳng hạn – người ta thực sự ăn tấm bánh vĩnh cửu là chính Thân Mình Chúa, Đấng đã tự hiến đến chết vì chúng ta?
Tuy nhiên ai cũng rõ rằng người ta không những có thể đón nhận tấm bánh vĩnh cửu ấy một cách bất xứng và vì thế tự chuốc lấy án vĩnh viễn cho mình – chúng ta còn biết rằng dù bí tích có giá trị trọn vẹn nhưng không phải bao giờ ta cũng lãnh nhận trọn vẹn thực tại mà bí tích hàm chứa, tức trọn vẹn ân sủng – dẫu là ta không đang lãnh nhận bí tích một cách bất xứng đi nữa. Không phải mỗi lần lãnh nhận sự viên mãn của thời gian là mỗi lần tôi nhận được sự viên mãn của đời mình. Người ta có thể sống trong khoảnh khắc của Đức Kitô mà cuộc sống của chính mình vẫn trôi qua một cách khô cằn trống rỗng – hay khá hơn thì cũng rất rời rạc vá víu. Sẽ tuyệt diệu biết bao nếu trong mô thức bí tích ấy người ta có thể tìm thấy được sự viên mãn của cuộc sống mình. Tuyệt diệu biết bao nếu sự viên mãn của thời gian có thể có mặt trong chính giòng đời tôi, ở đây và bây giờ. Lúc ấy sẽ không còn phải thiếu thốn gì nữa. Sự sung mãn vĩnh cửu của Thiên Chúa sẽ hiện diện – và sự hiện diện thâm sâu này sẽ hiện thực một cách khả giác trong chính biểu lộ của nó vừa ở chiều kích cá nhân vừa ở chiều kích Giáo Hội, vừa hết sức cụ thể vừa đượm tính phụng vụ. Sự sung mãn ấy sẽ được hiện thực tròn đầy trong dấu chỉ, trong biểu hiệu của bữa đại tiệc vĩnh hằng, bữa đại tiệc của sự hoàn thành đầy đủ. Người ta sẽ uống cạn chén rượu đời mình – và chén rượu ấy được cảm nhận đã tan hòa thành một trong chén của Đức Kitô.
Điều đó là có thể và là cần thiết. Song quả là ta không thể quyết chắc rằng Thiên Chúa đã đặt định sẵn cho mọi người để phút giờ quyết định ấy của mỗi người đều xảy ra đúng khi dấu chỉ của bí tích (diễn tả sự hoàn thành của thế giới và của từng người bằng ân phúc và thứ tha) được thực hiện trong cuộc đời họ. Xem ra chỉ một phần bé nhỏ của ân sủng ấy được đón nhận, xem ra trong cõi lòng người ta chỉ thực sự có chỗ để đón nhận chỉ một phần của ân sủng ấy – nếu như cõi lòng ấy không nhút nhát và hẹp hòi quá mức.
Nghĩa là, phút giờ trọng đại ấy, phút giờ sung mãn ấy rất có thể cũng xảy ra khi dấu chỉ của bí tích (theo nghĩa rộng) nghèo nàn hơn, mù mờ hơn và không phải là một opus operatum gì cả. Người ta có thể uống cạn chén rượu đời mình với trọn sự sống và sự chết của mình trong một phút giờ nào đó không phải là phút giờ của bàn tiệc Thánh Thể – dù vậy họ vẫn sống phút giờ ấy của mình trong sự kết hợp mật thiết với phút giờ của Đức Kitô. Vì Đức Kitô đã kết hợp phút giờ của mọi người vào trong phút giờ của Ngài – phút giờ trở thành hiện thực trong hy lễ tiến dâng và trong bàn tiệc Thánh Thể.
Người ta có thể bất chợt đột phá qua mọi rào chắn vốn vẫn giam hãm bản ngã đầy xao xuyến của mình và hòa nhập vào khung trời bao la của Thiên Chúa xuyên qua một sự từ bỏ rất âm thầm lặng lẽ, một hy sinh xem ra hết sức nhỏ nhặt tầm thường của họ. Có lẽ chính người ấy cũng không chú ý mấy đến điều đang diễn ra nơi mình, có lẽ chẳng có cảm nghĩ nào được người ấy xem là đáng đặc biệt ghi nhớ. Chỉ có điều là người ấy bỗng dưng trở nên thật quảng đại cởi mở. Bỗng dưng tồn tại một cái gì đó mà mình không thể gọi tên, một cái gì đó rất kỳ diệu, vô hình và không thể nào tả được.
Nhưng mọi sự khác hẳn. Thực tại đang có mặt ấy không thể được xếp bên cạnh những thứ khác lấp đầy đời sống như kiểu những món đồ đạc cũ kỹ được chất ngổn ngang đầy kín trong nhà kho. Thực tại ấy không thể được so sánh với bất cứ gì khác và không thể được gán cho là cùng loại hay khác loại với cái này hoặc cái kia. Con người ấy đã từ bỏ, đã ra đi, đã đoạn tuyệt. Bây giờ, thật bất ngờ, con người ấy lại có mặt khắp mọi nơi và nắm giữ tất cả, cái tưởng như “không là gì” ấy hóa ra chính là tất cả. Con người ấy không cần một chỗ tựa nào nữa, vì bây giờ chính bản thân mình đã trở thành một “toàn-thể-tính” ổn định, tự nâng đỡ mình (trong toàn-thể-tính của Thiên Chúa) đứng vững không té ngã – vì trong cô đơn này và trong sự từ bỏ này, không có gì mà con người ấy có thể té ngã vào được nữa.
Có thể có người đâm ra kinh sợ cái vô hạn rất trầm lặng đang mở ra cho mình này – không phải mở ra bằng những ý tưởng trừu tượng, nhưng là mở ra nơi cảm nghiệm về năng lực thực có của hữu thể mình, tức là tinh thần. Người ấy như hoảng sợ thoái lui, quay trở lại với những gì quen thuộc trong cuộc sống mình, quay trở lại với những gì khả giác, với những bổn phận có giới hạn, với những nguyên tắc được công thức hóa rõ ràng. Và như vậy người ấy không nhận ra đúng đắn rằng trong khi những điều ấy quả cần thiết (cần thiết theo lý chứ không phải theo tình cảm cuồng nhiệt) – thì người ta vẫn đâu phải cần đến chúng để trốn thoát khỏi những thứ khác.
Những điều ấy là phương tiện để cho người ta đạt đến sự chấp nhận đích thực đối với cái vô hạn vốn phải thực sự được tìm thấy trong chúng – và là cái không chỉ được đặt ra trước mặt người ta như một phần thưởng cho những việc tốt lành hữu hạn mà họ thực hiện. Dĩ nhiên trong những việc tốt lành này có sự hiện diện của ân sủng (nếu đây là những việc lành đúng nghĩa như đã đề cập). Và ân sủng này, cuối cùng, là chính Thiên Chúa – là ‘ơn phi tạo’ – là Thánh Thần Tình Yêu vĩnh cửu. Thiên Chúa hiện diện đích thân trong những công việc tốt lành đó. Ngài không chỉ là phần thưởng hứa ban cho những kẻ làm việc lành, bởi chính Ngài – trong chân tính của Ngài – là Đấng trao ban những công việc ấy không nhằm mục đích nào khác hơn là để cho chúng trở thành điều mà chúng nên thành và phải thành (thì mới có thể được gọi là những việc có giá trị đúng nghĩa – tức giá trị cứu độ): đó là chúng trở thành những lối mở dẫn vào sự vô hạn bỏ ngỏ của Thiên Chúa.
Những công việc và những tình cảm ngay lành xét theo tự nhiên (nếu chúng tồn tại một cách tinh thuần đúng nghĩa) sẽ là những thực tại mà tự thân chúng đáng được tưởng thưởng bằng một phần thưởng nào đó của Thiên Chúa – chứ không phải là chính Thiên Chúa. Còn những “việc lành” của các Kitôhữu (dù công khai hay âm thầm) thì chứa đựng sự vô hạn của chính bản thân Thiên Chúa – Đấng vừa là điều kiện quyết định sự hiện hữu của khả tính của chúng (bởi vậy nên gọi là ân sủng) vừa chính là phần thưởng của chúng (gọi là sự sống đời đời). Và bởi vì Thiên Chúa đã không muốn chọn một thế giới nào khác ngoài cái thế giới mà Ngài đã trao ban chính bản thân Ngài (chính bản thân Ngài, chứ không duy chỉ trao ban những thành quả do Ngài làm ra) cho nên rõ ràng là tất cả những gì hữu hạn chỉ có ý nghĩa trong tư cách là một lối mở dẫn vào cái vô hạn không thể hiểu thấu, trầm lặng và khôn lường.
Như vậy, chỉ cần một hay hai củ hành ném qua bờ giậu cho người nghèo khó cũng có thể là một bước quặt có tính quyết định – một chút lòng tốt mà trong đó thực sự không hề nhắm kiếm tìm sự biết ơn, thứ tha mà không hề chú ý đến sự kiện rằng mình đang tha thứ, một giọt máu chảy ra từ trái tim và rơi vào đâu đó – thực không thể biết là nơi nào – mà không hề xót xa, thái độ âm thầm chịu nỗi đớn đau cùng cực mà không hề hiểu vì sao – cũng không biết được liệu mình có sẽ còn khả năng chịu đựng. Hay một kẻ cô đơn cùng cực mà không trốn chạy khỏi nỗi cô đơn của mình, cũng không phóng chiếu mình trong nỗi cô đơn đó. Hoặc một người sống đàng hoàng tử tế trong cuộc sống bình thường và do đó bị khinh chê là khờ dại, song vẫn không phẫn nộ phản kháng lại cái điên rồ của một thế giới trong đó con người ngay thẳng bị xem là dại khờ.
Con người đó cũng không tự vỗ về an ủi mình (để bù trừ cho sự thiếu vắng lời khen ngợi của kẻ khác) bằng cách tự biểu dương và khâm phục tính cách tử tế của mình. Người ấy không âm thầm thu gom những cái tốt của mình lại – để sau này trình làng và gặt hái vinh dự, cũng không kể công với bạn hữu hay vợ/chồng mình nhân khi mình lên tiếng phiền trách vì bị xử tệ. Người ấy chỉ muốn tử tế, đơn giản vậy thôi! Kỳ diệu biết bao một sự tử tế hoàn toàn vô tư, vô cầu. Đó là sự tử tế hoàn toàn hồn nhiên như trẻ thơ. Đó là tình yêu thuần khiết của Thiên Chúa trong thế giới đời thường. Thử hình dung một người chuyên chăm làm bổn phận mình, người ấy không ngoại tình – trong hành vi và cả trong tâm tưởng – mặc dù bổn phận chung thủy này cơ hồ như đòi người ấy phải chết đi chính mình, cơ hồ như đòi người ấy phải khước từ chính bản ngã. Một hình dung khác, một người cầu nguyện bỗng đột nhiên quên mất rằng mình đang cầu nguyện, đột nhiên quên mất rằng mình đang cần một sự gì đó (và dĩ nhiên là cũng quên mất rằng mình đang cố gắng tranh thủ cái mình cần), người ấy quên cả rằng mình đang lên lời.
Chỉ còn có Thiên Chúa ở đó thôi – rất trầm lặng, rất âm thầm nhưng cũng rất thực. Không thể thấu hiểu, không thể diễn tả, không thể so sánh, không thể bập bẹ được gì về Ngài – nhưng chính là Ngài đó, rất thực. Ngài ở đó dường như bởi vì ta không còn ở đó. Ta có được Ngài bởi vì ta đã bỏ mình và ra khỏi mình. Ngài ở đó, vì ta – rốt cục – không còn đồn trú trong vành đai bản ngã mình nữa. Nói cho cùng, không thể nào diễn tả xa hơn về cuộc siêu thoát này; vì một khi ta cố diễn nó thành lời trong chính cái khoảnh khắc mà mình đã để bản ngã lại đằng sau, thì lập tức ta đã quay trở về bên trong những lằn mức giới hạn rõ rệt của tình trạng và thực tại mình. Nếu ta có phát biểu về nó (đôi khi đây là điều ta phải làm), thì ta cũng không nhằm làm cho sự phát biểu của mình đóng vai trò phô diễn cái hành động chứa đựng trong lời phát biểu ấy.
Thực có những giờ phút quyết định như thế. những giờ phút ấy hoàn toàn có thể xảy ra. Nhưng ta không đạt được những giờ phút ấy duy chỉ bằng việc bàn luận về chúng. Bởi chỉ cần có một chút khả năng, người ta có thể ăn nói trơn tru về chúng duy chỉ nhờ nghe người khác kể lại hoặc nhờ ở việc phát hiện ra dấu vết rõ ràng của Thần Khí và ân sủng (dấu vết này thậm chí có thể được tìm thấy nơi những việc làm và những kinh nghiệm phàm tục và tầm thường nhất của đương sự). Vì nếu chúng ta không có một chút kinh nghiệm gì về cái mà ta chỉ đạt được trọn vẹn trong những giờ phút quyết định ấy, thì ta đâu còn thần tính nữa và đâu còn được ân sủng thu hút nữa – trong khi thực sự ta luôn còn thần tính (cho dẫu ta đang dã man vung dao giết người) và luôn luôn được thu hút về phía ân sủng. Nhưng không phải mọi kinh nghiệm đều được ta đón nhận và nắm giữ với tất cả năng lực của lòng mình. Ta không có được sự viên mãn của thời gian và vĩnh cửu trong lòng mình bởi vì ta tự hài lòng với chỉ một thoáng hương vị của nó và mê mải triết lý về chút hương vị bé nhỏ đó thôi.
Và như vậy câu hỏi vẫn còn: Phải chăng một giờ phút quyết định như thế – giờ phút mà thời gian của đời tôi đạt đến sự viên mãn – đã từng xảy ra? Một câu hỏi điên khùng! Người ta không thể thực sự đặt câu hỏi kiểu đó. Bởi vì chẳng ích gì cho tôi việc tôi có thể kể lại một khoảnh khắc như thế đã từng xảy ra trước đây trong đời mình. Có lẽ tôi có thể tuyên bố như thế. Có lẽ tôi có thể quyết đoán rằng khoảnh khắc ấy đã từng xảy ra hồi tôi còn bé, lúc rước lễ lần đầu, khi tôi mời Chúa ngự vào lòng tôi – một tấm lòng bé nhỏ nhưng chứa chan tình mến Ngài.
Nhưng khi đặt câu hỏi như vậy, chẳng khác nào tôi cho rằng những gì đã xảy ra vẫn còn có nghĩa lý với tôi bây giờ. Và điều đó hoàn toàn sai. Vì sự viên mãn của thời gian trong đời tôi chỉ thực sự đáng kể khi đó là cái chưa trôi qua. Vấn đề quan trọng là bây giờ hay ngày mai đây, một phút giờ mang tầm vĩnh cửu như thế có xảy đến với tôi hay không. Vì bao lâu con người còn trong thân phận khách hành hương, bao lâu thời gian vẫn còn là thời gian, thì mỗi khoảnh khắc vẫn tựa như người chạy tiếp sức với bó đuốc trong tay – người ấy không chỉ giữ ngọn lửa rực cháy ấy cho riêng mình mà còn phải trao nó cho người kế tiếp. Chỉ khi người sau nhận bó đuốc và mang nó chạy tiếp thì cuộc chạy của kẻ trước mới khả dĩ có được ý nghĩa và giá trị gì.
Đời sống quả thực không phải là một tổng hợp của những phần rời rạc riêng biệt (ở đây đang nói đến đời sống tinh thần chứ không phải sự sống thể chất); nhưng toàn thể đời sống xét như một thực thể thống nhất không tách chia được – vận hành qua thời gian và trong một tiến trình trở thành xuyên qua mọi sự. Vì vậy, duy chỉ sự kiện tôi đã được cái gì trước đây sẽ không hề có nghĩa rằng hiện giờ tôi đang có cái đó, song trong quá trình lâu dài này tôi có thể trở thành – một lần nữa trong hiện tại – như mình đã trở thành trước đây. Cái đã qua luôn luôn chỉ có nghĩa một tiếng gọi thúc giục ta hiện thực hóa điều vốn đã từng hiện thực, và đó cũng còn là một lời hứa đảm bảo rằng điều đã từng thành công trong quá khứ cũng sẽ thành công trong hiện tại này. Như vậy chỉ vì sự hiếu kỳ vu vơ hoặc vì nỗi day dứt ăn năn muốn biến quá khứ thành tương lai mà người ta mới quay trở lại với quá khứ của mình – để lục tìm những phút giờ cao cả của vĩnh cửu đã từng xảy ra trong đó.
Do đó, đừng nên hỏi rằng đã từng có một phút giờ quyết định như thế hay không trong đời mình – một cuộc đời nghèo nàn trống rỗng, một cuộc đời đầy những ảo ảnh ngay cả trong những điều gọi là tốt lành mà ta đã làm. Thay vào đó, tốt hơn nên hỏi một phút giờ như vậy sẽ xảy đến với tôi từ đâu trong quãng đường trước mặt mình. Tôi phải tìm ra nó ở trước mặt chứ không phải ở sau lưng. Và cũng chính ở phía trước mặt tôi là nơi tôi phải gặp thấy lại những phút giờ xưa cũ ấy. Vì những phút giờ mà Thiên Chúa từ nhân tuôn đổ ơn sủng của Ngài trên tôi chỉ có thể còn lại với tôi ở trên đường tôi đang đi tới mà thôi. Kho tàng của quá khứ là sự mở ngỏ của tương lai.
Vì rõ ràng chúng ta đã hành động là nhằm để có khả năng hành động, đã yêu thương là nhằm để có khả năng yêu thương. Thật ra toàn thể quá khứ của tôi có thể đến lại với tôi, bởi nó cần được bảo toàn hay được cứu độ. Vì một người tìm gặp được Thiên Chúa thì không thể đánh mất gì, và vì một khi chúng ta vẫn còn có thể có một trái tim và khả năng yêu mến Thiên Chúa với trọn tấm lòng mình thì chúng ta chẳng bị hụt mất gì cả.
Tuy nhiên, cơn nghĩa nộ của Thiên Chúa ập xuống trên những ai không hết lòng tin vào sứ điệp hồng phúc của ân sủng đó của Ngài, ân sủng mà Ngài không hề tiếc rẻ, ân sủng quyết định tất cả sự sống của ta. Có một thứ tinh thần thực dụng trong đó người ta chỉ biết đến những gì nơi chính mình và nơi con người mà thôi, và thường quên chính điều thực tiễn đệ nhất là Thiên Chúa – là tương lai vĩnh cửu và là ân sủng nhờ đó mình có thể làm cho tương lai vĩnh cửu ấy thành tương lai của chính mình. Sự hoàn thành của tất cả khả năng này không phải ở đâu và lúc nào cũng nhất thiết phải xảy ra kèm theo với cảm xúc và với những giọt nước mắt vui mừng – như chúng ta thường muốn thế.
Cơ hội hồng phúc này chủ yếu được hứa cho những người mỏi mệt và nặng trĩu trong lòng, những người bị thiêu đốt bởi ngọn lửa vô hình của khổ đau và thất vọng: Phúc cho những ai than khóc, phúc cho những ai đói khát.
Một năm mới đang về. Một năm như bao năm khác. Một năm của rối ren và thất vọng với chính bản thân tôi và với bao người. Khi Thiên Chúa xây dựng ngôi nhà vĩnh cửu của chúng ta, Ngài dựng giàn giáo tốt để triển khai công trình. Giàn giáo ấy tốt đến nỗi chúng ta muốn được sống luôn trong đo!. Chỉ có điều trớ trêu là giàn giáo ấy lại bị hạ xuống. Thế rồi chúng ta gọi sự tan rã này là tính mong manh vô thường bi đát của đời sống chúng ta. Chúng ta xót xa và sầu thảm nếu trong viễn tượng của một năm mới chúng ta nghĩ mình không thể gặp thấy gì ngoài sự sụp đổ của tòa nhà cuộc sống mình – cuộc sống mà thực ra đang được xây dựng âm thầm cho vĩnh cửu đàng sau giàn giáo được dựng lên và lại được hạ xuống.
Không, năm mới đang đến đây không phải là một năm thất vọng hay một năm của những ảo tưởng ru ngủ người ta. Đó là năm của Thiên Chúa, là năm mà trong đó những phút giờ quyết định đang đến gần tôi một cách âm thầm và êm ái, và sự viên mãn của thời gian đang đến để đi vào đời tôi. Tôi có sẽ nhận ra những phút giờ ấy không? Hay những phút giờ ấy vẫn trống rỗng chứ không có gì lạ? Vì đối với tôi chúng xem ra quá bé nhỏ, quá khiêm tốn và tầm thường?
Dĩ nhiên xét mặt ngoài thì những phút giờ ấy sẽ không trông có vẻ khác biệt gì so với những khoảnh khắc tốt lành thường ngày của bất cứ ai. Vì thế, tôi có thể dễ dàng bỏ nhỡ không nhận ra những phút giờ ấy: một chút nhẫn nhục làm cho cuộc sống dễ chịu hơn một chút cho những người xung quanh tôi; sự bỏ qua một lỗi lầm của người khác; việc dám liều để xây dựng niềm tin thực sự vào một người mà mình có xu hướng không tin tưởng bởi vì mình nghĩ mình đã có những kinh nghiệm không tốt về người đó trước đây; sự chân thành chấp nhận rằng người khác có cơ sở đúng đắn để phê phán mình; sự bao dung đón nhận những vết thương người khác gây cho mình và để nó chết hẳn trong lòng mình chứ không kéo dài nó bằng sự than phiền, sân si, xót xa và báo oán; sự trung thành trong đời cầu nguyện dù không cảm nhận được những “niềm ủi an” hay những “cảm nghiệm sùng ngưỡng sốt mến”; sự cố gắng để yêu thương những người khiến mình bực bội (dù là sự sai quấy hiển nhiên thuộc về họ), và không duy chỉ là cố gắng thuận thảo với họ bằng cách nuốt giận vì thấy như vậy có lợi cho mình; sự cố gắng để nhìn thấy nơi sự “điên dại” của người khác một loại thông minh khác với sự khôn ngoan của mình nhưng đó không hẳn là ngu dại; sự nhẫn nhịn để không đáp lại sự bất bao dung của người khác theo kiểu ăn miếng trả miếng; sự cố gắng để không lấy nhân đức của mình biện minh cho những lầm lỗi của mình; một ý chí cải thiện chính mình khi nhìn thấy tội lỗi nơi người khác và chân tình muốn giúp họ đổi mới; sự xác tín vững vàng rằng mình rất sẵn lòng và rất dễ dàng tự gạt mình và lấp liếm nhiều lỗi lầm và gian ác mà mình vốn nhận thấy nơi bất cứ ai khác; không chì chiết kẻ khác cũng không tự đề cao mình, và nhiều điều khác nữa vốn chỉ thực sự là tốt khi được chuyên cần thực hành.
Chúng ta chỉ cần cố gắng làm nghiêm túc những bổn phận bình thường ấy trong đời sống hằng ngày. Và tất cả sẽ trở thành lớn lao. Song nếu vì quá phấn khích mà không lượng sức mình, sự việc sẽ hóa ra nguy hại. Vì để sống được như vậy, chúng ta phải là người chịu thiệt, chúng ta sẽ cảm thấy như mình cho đi nhiều mà không nhận lại bao nhiêu. Chẳng có mối lợi nào được thu vén cả – không được gì trước mắt người đời, cũng không được gì bên trong lòng mình (chẳng hạn, một lương tâm tốt lành hay một cảm thức rằng mình đã đắc thủ được nhiều nhân đức!); vì thậm chí những mối lợi ấy cũng không còn sức hấp dẫn nào đối với mình.
Rồi, một khi đã biết làm những việc nhỏ nhặt ấy với một thái độ thích đáng (tự căn bản đây chính là thái độ Kitô giáo, dù ta không ý thức như vậy) – sẽ đến lúc mà những nguyên tắc ứng xử hằng ngày thực sự trở thành chuẩn mực đạo đức và luân lý, trở thành cửa ngõ dẫn ta vào vĩnh cửu bất diệt. Sẽ đến lúc ta không được tưởng thưởng gì thêm – nghĩa là, ta không nhận được bất cứ gì đặc biệt dù bên ngoài hay ở trong lòng mình, vì Thiên Chúa đích thực hiện diện trong chính cái “không gì cả” ấy, và đánh mất hữu hạn lại chính là bắt được vô hạn. Hơn nữa, chính xuyên qua việc đánh mất những cái hữu hạn mà ta nhận thức được rằng mình đang đạt được cái vô hạn. Cuộc sống của ta là một cuộc trả giá chính bản thân mình để lấy cái vô hạn. Để được Thiên Chúa, ta không thể trả giá nào rẻ hơn.
Ta cần nhận hiểu chiều kích thần nhiệm ấy của cuôc sống thường ngày. Chỉ khi nhận hiểu như vậy, ta mới có thể tự nguyện nỗ lực – trong tinh thần con cái Thiên Chúa – để chu toàn lề luật vì lòng kính trọng đối với quyền cai quản tối cao trên vũ trụ (việc này ta không bao giờ có thể làm xong trọn vẹn; vì đây là việc khó chịu, làm ta ấm ức như một kẻ lao động khổ sai). Chiều kích thần nhiệm ấy của cuộc sống thường ngày chính là ân sủng. Hoàn toàn là ân sủng. Nhưng dĩ nhiên điều đó không có nghĩa rằng ta không cần phải làm gì cả ngoại trừ cố chấp đợi chờ cho đến khi ân sủng của Thiên Chúa cưỡng bức ta đấu tranh chống lại ý muốn của ta. Sự cưỡng bức của ân sủng, nếu có thể gọi như thế, chính là ở chỗ ta được trao ban ý chí hướng thiện – và ý chí hướng thiện, đành rằng tiên vàn do Chúa ban, song đó cũng là thành quả do công phu đắc thủ của con người. Thái độ thích đáng của ta là tập cảm nếm vĩnh cửu trong thời gian qua việc sống chiều kích thần nhiệm của cuộc sống thường ngày.
Sống chiều kích thần nhiệm ấy, tức là ta đang sẵn sàng để cảm nhận những khả năng tột đỉnh của cuộc sống, đó là những khoảnh khắc hy sinh anh hùng, những thử thách khủng khiếp, sự điên rồ thánh thiện và cuối cùng là nỗi chết của chính mình – ta chết trong cái chết của Đức Kitô! Làm sao ta có thể đón nhận những khoảnh khắc ấy nếu ta không tỉnh thức sẵn sàng và – trong khả năng hết sức có thể của mình – tự chuẩn bị cho mình những phút giờ tột đỉnh ấy, những phút giờ mà ta không thể nắm trước được, những phút giờ xảy đến ngoài mọi tiên lượng của ta?
Bất cứ ai chưa từng cảm nếm vĩnh cửu trong thời gian sẽ kinh hoàng và lẩn trốn những phút giờ ấy. Họ khiếp sợ; họ cảm thấy mình bị đòi hỏi quá sức chịu đựng của mình. Thậm chí họ không nhận ra rằng ân sủng lớn lao của đời sống đang ở ngay trước mặt, trong tầm tay họ. Họ phớt lờ, họ cho rằng mình không thể “như thế” được. Và rõ ràng, họ không thể “như thế” được bởi vì họ quá nhu nhược và tự ti trong đánh giá chính bản thân mình.
Cần phải tập sống chiều kích thần nhiệm của cuộc sống thường ngày. Nó khác hẳn với một thái độ “trung thành với bổn phận” nào đó của những người quá tủn mủn chi li, họ “đạo đức” một cách cứng nhắc và không ước ao gì khác hơn ngoài việc tiếp tục mãi mãi làm một “viên chức hạng quèn” của Thiên Chúa, miễn là họ luôn luôn nhận được “tiền lương” ngay trong cuộc sống hiện tại này. Dĩ nhiên là những công việc nhỏ nhặt thường ngày vẫn còn đó và chúng ta không thể thoát ra được. Thánh nhân cũng phải ngáp, cũng phải cạo râu … như bất cứ ai. Không có gì chắc chắn rằng những phút giờ sẽ được ban cho chúng ta trong những ngày tháng sắp tới đây sẽ là những phút giờ vĩ đại và đặc biệt quan trọng – ngay cả dù xét theo quan điểm của chính chúng ta. Vậy thì chắc chắn phải có một vĩnh cửu trong cuộc sống thường ngày. Vì chúng ta biết rằng mọi con người mà chúng ta gặp thấy xung quanh cuộc sống mình – có vẻ như quá đỗi bình thường thôi – song họ đều có đủ giá trị để trở thành một vĩnh cửu, và trở thành vĩnh cửu ngay trên mặt đất này, dù cho tất cả những gì họ làm dường như chỉ là nhọc nhằn lo toan sinh kế, cưới vợ lấy chồng, bình luận chính trị hoặc xem bóng đá hay tán gẫu về nghệ thuật Picasso …
Có lẽ chính vì lý do này mà những phút giờ quyết định ấy chỉ đến với chúng ta giữa chính nhịp sống thường ngày. Nhiều khoảnh khắc của nhịp sống thường ngày sẽ chẳng hề có ý nghĩa bước quặt quyết định gì cả. Dĩ nhiên chúng ta không thể dốc toàn lực mình mọi nơi mọi lúc. Và để có được sự tự do lớn nhất thì ta phải từ bỏ nhiều nhất, bởi vì thực tại thiết cốt nhất được đặt nền móng trên khả năng thâm sâu nhất và đây là một món quà được ban tặng cho chúng ta. Khả năng dốc được toàn lực mình trong sự tự do hoàn toàn chính là món quà tặng vĩ đại nhất. Khả năng ấy không được ban cho chúng ta trong hết mọi phút giây. Tuy nhiên, khả năng ấy hoàn toàn có thể được ban cho chúng ta trong một tình huống rất bình thường của cuộc sống thường ngày. Ai có thể nói trước được khi nào thì phút giờ ấy xảy đến? Chúng ta luôn luôn phải bước vào một tương lai bất quyết, với những rủi ro và những cơ hội mà tương lai bất quyết ấy bao hàm. Bất chợt, trong khi chúng ta chỉ cảm nhận được rất mù mờ về cái bất quyết ấy khi chấp nhận nó thì sự hoàn thành lớn lao sẽ được ban cho chúng ta. Dù sao đi nữa, sự hoàn thành ấy là của chúng ta vì chúng ta đã chấp nhận nó trong đức tin (dù không biết nó).
Một năm với những khả năng như thế đang đến với chúng ta. Chúng ta phải mừng năm mới với đức tin cao độ hơn bao giờ – Hãy bứt ra khỏi sự yếu nhược, sự chán chường và bất tín cố hữu của mình. Tương lai đang đến. Những kẻ điên rồ nghĩ rằng tương lai đến để tìm kiếm quá khứ như thể một ám ảnh khổ lụy và chết chóc. Kỳ thực nó đến vì nó muốn trở thành vĩnh cửu. Nơi những con người chiếm hữu được Thiên Chúa thì cái quá khứ này luôn hiện diện vô giới hạn. Tương lai vĩnh tồn ấy đang đến với chúng ta – trong sự viên mãn của thời gian đời tôi, xuyên qua những phút giờ quyết định của sự tự do đầy năng lực tin, cậy, mến.
Năm mới này sẽ đem lại gì cho tôi? Còn gì khác nữa ngoài Thiên Chúa – trong sự viên mãn của thời gian đời tôi. Mà này, rất có thể rằng chính cái khoảnh khắc ngắn ngủi lúc này đây sẽ không còn chuyển giao ngọn đuốc của sự sống vĩnh cửu cho một khoảnh khắc nào khác, thay vào đó ngọn đuốc bây giờ sẽ tự nó sáng soi như ánh sáng bất diệt. Biết đâu đó, như Thánh Tông Đồ Phaolô nói, tôi lao về phía trước, tôi không ngoái lại đằng sau. Tôi không nghĩ rằng mình đã đến đích, nhưng tôi lao về phía trước nhằm để đến đích. Đứng trước thềm năm mới này, chúng ta cũng có thể thốt lên lời cầu “Maranatha!” – Lạy Chúa, xin hãy đến! Vì quả Chúa đang đến – đang đến trong năm mới của đời tôi. Năm mới này sẽ đem lại gì cho tôi? Còn gì nữa nếu không phải là Đức Giê-su Kitô chịu đóng đanh và Phục Sinh! Còn gì nữa nếu không phải là mầu nhiệm sự chết và sự sống của Ngài trong sự sống và sự chết của tôi! Còn gì khác nữa nếu không phải là ánh sáng chói lọi của Ngài trong đức tin nhọc nhằn của tôi, lời hứa của Ngài trong đức cậy truân chuyên của tôi, tình yêu của Ngài dành cho tôi trong nỗ lực không ngừng tìm kiếm Ngài trên con đường yêu mến và chia sẻ định mệnh của Ngài.
Một năm mới lại về, năm của Chúa!
Karl Rahner, S.J.
(Lm. Lê Công Đức dịch)
(Trích từ Xuân Bích Việt Nam)
Mùa Vọng là mùa chờ đón Chúa đến. Chúa sẽ đến nhưng ta không chắc gặp được Người. Vì Người đến rất bất ngờ và rất âm thầm. Muốn gặp được Chúa ta phải tỉnh thức.
Tỉnh thức có nghĩa là đừng mê ngủ. Chúa thường hay đến vào ban đêm nghĩa là vào lúc ta không ngờ. Đời sống có những bóng đêm ru ta ngủ say mê khiến ta không gặp được Người. Có những bóng đêm của tội lỗi giam cầm hồn ta trong giấc ngủ bạc nhược khiến ta không còn đủ sức thoát ra. Tội lỗi lôi kéo tội lỗi. Tội lỗi chồng chất giống như những tảng đá gìm ta xuống vực sâu vô tận. Có những bóng đêm của danh vọng ru hồn ta ngủ quên trên vinh quang chói lọi. Vinh quang giống như ngọn đèn đốt cháy biết bao đời thiêu thân. Có những bóng đêm của xác thịt cuốn hồn ta vào giấc mộng lạc thú. Lạc thú giống như chiếc lưới rất mềm mại, rất nhẹ nhàng, nhưng rất hiểm độc. Linh hồn đã sa vào khó có thể thoát ra. Có những bóng đêm của thói ích kỷ chỉ biết sống cho bản thân mình. Ích kỷ giống như một hang sâu, càng đi vào càng thấy tối tăm. Có những bóng đêm của tiền tài bao phủ ta trong giấc mộng giàu sang phú quí. Chìm đắm trong giấc mộng, ta sẽ chẳng nghe được bước chân Chúa đi qua.
Tỉnh thức cũng có nghĩa là tỉnh táo phân định. Chúa đến rất âm thầm và rất bé nhỏ. Người không đến với cờ quạt trống phách tưng bừng, nhưng đến trong âm thầm lặng lẽ. Người không đến trong uy nghi lẫm liệt của những vị vương đế, nhưng Người đến trong hiền lành khiêm nhường như một người phục vụ. Người không mặc gấm vóc lụa là, nhưng đơn sơ trong y phục dân dã. Người không đến như vị quan toà nghiêm khắc, nhưng như một người cha nhân hậu, một người bạn dễ thương dễ mến. Người đang đến qua những con người hiền lành bé nhỏ quanh ta. Người đang đến trong những con người khốn khổ túng cùng. Người đang đến qua những khuôn mặt xanh xao hốc hác. Người đang đến trong những tấm thân gầy guộc. Người lẫn vào giữa đám đông vô danh. Người chìm mất trong số những kẻ bị loại ra ngoài lề xã hội. Người ẩn mình giữa đám người ăn xin đang lê bước khắp các nẻo đường cát bụi. Người đang rét run với cặp mắt ngơ ngác thất thần ở giữa những nạn nhân bão lụt. Phải tỉnh táo lắm mới nhận ra Người. Phải tỉnh thức lắm mới gặp được Người.
Tỉnh thức không có nghĩa là cứ ngồi đó mà chờ đợi. Tỉnh thức là bắt tay vào hành động. Chúa như ông chủ đi vắng. Người cho ta được toàn quyền khi Người vắng nhà. Người giao trách nhiệm cho ta trông coi gia đình ta, giáo xứ ta, địa phương ta, đất nước ta và cả thế giới nơi ta đang sống. Ta được tự do hành động. Ta có trách nhiệm làm cho gia đình, xứ đạo, địa phương, đất nước, và cả thế giới được phát triển về mọi mặt. Vì thế, tỉnh thức là nhìn thấy những nhu cầu của anh em, và đáp ứng những nhu cầu đó. Tỉnh thức là nhìn thấy ý Chúa trong những trào lưu thời đại. Tỉnh thức là nhận biết Chúa hành động trong những tâm hồn thiện chí thuộc các niềm tin, mầu da, quan điểm khác nhau để biết cộng tác trong việc xây dựng xã hội. Tỉnh thức là dấn thân hy sinh phục vụ anh em trong quên mình.
Ngay từ đầu mùa Vọng, Chúa mời gọi ta hãy tỉnh thức. Hãy bước ra khỏi giấc ngủ miệt mài, lười biếng. Hãy đoạn tuyệt với những giấc mộng phù hoa. Hãy thôi đuổi theo những đam mê dục vọng. Hãy nói không với những đồng tiền bất chính.
Hãy tỉnh táo phân định để nhận ra dung mạo thực sự của Đức Kitô. Đừng chạy theo những khuôn mặt mang dáng vẻ cao sang quyền quý. Đừng chạy theo những khuôn mặt nặng về quyền lực. Đừng chạy theo những lời hứa hẹn giàu sang. Dung mạo đích thực của Đức Kitô là nghèo hèn, là khiêm nhường, là bé nhỏ.
Hãy tỉnh thức để làm việc không ngừng, để quên mình, hi sinh phục vụ cho lợi ích của đồng loại.
Như thế, tỉnh thức không phải là việc dễ dàng. Tự sức ta sẽ khó mà tỉnh thức. Nên ta phải tha thiết cầu nguyện xin ơn Chúa trợ giúp. Có ơn Chúa thúc đẩy, ta mới có thể dứt bỏ con đường tội lỗi xưa cũ. Có ơn Chúa soi sáng, ta mới đủ tỉnh táo nhận ra dung mạo đích thực của Đức Giêsu. Có ơn Chúa trợ giúp, ta mới đủ hăng hái ra đi phục vụ trong quên mình.
Lạy Chúa, xin giữ hồn con tỉnh thức để con nhận biết Chúa đang đến với con trong cuộc sống hằng ngày. Amen.
GỢI Ý CHIA SẺ
1) Tỉnh thức là đừng mê ngủ. Hãy kể ra những bóng tối khiến ta mê ngủ?
2) Tỉnh thức là tỉnh táo phân định. Làm thế nào để nhận ra khi Chúa đến?
3) Tỉnh thức là phải hành động. Muốn tỉnh thức, bạn phải làm những gì?
4) Mùa Vọng này, bạn quyết tâm làm gì để tỉnh thức?
ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
Trong một trận lũ lụt kia, nhiều du khách trên tuyến đường Bắc – Nam bị kẹt ở miền Trung. Lý do là đèo Hải Vân bị sạt lở, xe cộ không đi lại được. Nhiều đoạn đường sắt bị nước lũ cuốn đi, nên tàu Bắc – Nam cũng đành ủ rũ nằm chờ. Nhiều làng bị nước ngập, dân làng muốn thoát ra nhưng không đi được vì đường sá không còn. Nhiều đoàn cứu trợ muốn đến những làng xa xôi, nhưng không có đường đi, nên đành chịu bó tay.
Những con đường thật là quan trọng. Đường đi giúp cho người bị nạn có thể thoát ra. Đường đi giúp cho người bị nạn đón nhận được sự cứu trợ. Đường đi nối liên lạc giữa người với người. Đường sá hư hỏng làm giao thông ngừng trệ, chậm trễ việc cứu trợ, ngăn cách người với người. Muốn cho giao thông mau lẹ, muốn việc cứu trợ có kết quả, muốn cho con người gần gũi nhau, phải sửa chữa đường đi cho thật tốt.
Con đường vật lý đã cần. Nhưng con đường tâm lý còn cần hơn. Nếu con đường tâm lý bị hư hỏng thì dù có ở sát cạnh nhau, người ta cũng vẫn cứ xa nhau.
Tương tự như thế, ta cần có con đường thiêng liêng thật tốt để đón Chúa đến. Thật ra Chúa đã đến từ lâu, nhưng ta chưa đón nhận được vì con đường thiêng liêng trong tâm hồn ta đã bị hư hỏng.
Tâm hồn ta có những đỉnh đồi kiêu ngạo luôn muốn nâng mình lên, luôn khoe khoang, không bao giờ chịu thua kém người khác. Tâm hồn ta có những ngọn núi tự ái cao ngất trời xanh, không bao giờ chịu nhận lỗi, không bao giờ chịu tha thứ.Tâm hồn ta có những hố sâu tham lam muốn chiếm đoạt tất cả, muốn thu vén tất cả vào túi riêng. Tâm hồn ta có những hố sâu chia rẽ, luôn gây ra bất hoà, luôn giận hờn, luôn ganh ghét, luôn nghi kỵ. Tâm hồn ta có những hố sâu đam mê, miệt mài đuổi theo danh, lợi, thú. Tâm hồn ta có những hố sâu dục vọng nặng nề thú tính.
– Tâm hồn ta có những khúc quanh co của sự dối trá, không thành thật với Chúa, không thành thật với người khác và không thành thật với chính mình. Tâm hồn ta có những khúc quanh co của sự trốn tránh bổn phận, của sự giả hình, của sự thiếu duyệt xét lương tâm.
– Tâm hồn ta có những lượn sóng gồ ghề của những lời nói độc ác, tàn nhẫn. Tâm hồn ta gồ ghề vì thói lười biếng không chịu cố gắng thăng tiến bản thân. Tâm hồn ta gồ ghề vì những phê bình chỉ trích thiếu tính cách xây dựng.
Tất cả những ngọn đồi, những vực sâu, những khúc quanh co, những lượn sóng gồ ghề ấy ngăn chặn Chúa đến với ta. Nên hôm nay, Thánh Gioan Tẩy Giả mời gọi ta hãy sửa chữa con đường thiêng liêng cho tốt đẹp để đón Chúa Giêsu đến. Hãy bạt đi thói kiêu căng tự mãn. Hãy bạt đi tính tự ái ngang ngạnh. Hãy lấp đi những hố sâu tham lam, chia rẽ, bất hoà. Hãy lấp đi những hố sâu đam mê, dục vọng. Hãy uốn thẳng lại những quanh co dối trá. Hãy uốn thẳng lại những khúc quanh giả hình. Hãy san phẳng những lượn sóng gồ ghề độc ác. Hãy san phẳng những lượn sóng gồ ghề nói hành nói xấu. Đổi mới một con đường thì dễ, nhưng đổi mới tâm hồn không dễ chút nào. Ngoài những cố gắng bản thân, còn cần đến những phương thế. Đời sống của Thánh Gioan Baotixita đề nghị cho ta 3 phương thế rất tốt.
– Phương thế thứ nhất là vào sa mạc. Sa mạc là nơi hoang vu vắng vẻ giúp ta sống cô tịch. Trong cô tịch, ta dễ chìm sâu xuống đáy lòng mình để gặp gỡ Chúa. Một mình ta diện đối diện với Chúa. Trong thân mật, Chúa sẽ dạy ta biết Thánh Ý để ta thi hành. Đức Giêsu, trước khi đi rao giảng cũng đã vào sa mạc 40 ngày để tìm Thánh Ý Chúa Cha. Sa mạc đây được hiểu là những giờ cầu nguyện riêng tư thân mật một mình ta với Chúa.
– Phương thế thứ hai là mặc áo da thú. Mặc áo da thú có nghĩa là ăn mặc đơn sơ, không chải chuốt. Một tâm hồn mặc áo da thú là một tâm hồn biết sống thực với chính mình, biết nhìn nhận những yếu đuối lỗi lầm và xin Chúa tha thứ. Thái độ đơn sơ khiêm nhường như thế chính là khởi điểm để tiến lên trên con đường thánh đức.
– Phương thế thứ ba là ăn châu chấu và mật ong rừng. Đây có ý nói về một đời sống khổ chế. Hãm dẹp những tính mê tật xấu, hạn chế những đòi hỏi của thân xác để bắt nó quy phục linh hồn. Giảm bớt những nhu cầu không cần thiết để bồi dưỡng đời sống tâm linh.
Thánh Gioan Baotixita đã sống theo chương trình 3 điểm này, nên Ngài đã trở thành người mở đường cho Đấng Cứu Thế. Nếu chúng ta biết áp dụng 3 phương thế ấy trong Mùa Vọng này, ta sẽ biến tâm hồn ta thành một con đường thẳng tắp cho Chúa Giáng Sinh ngự đến.
Lạy Chúa, xin cứu con khỏi mọi tội lỗi để con xứng đáng đón rước Chúa. Amen.
GỢI Ý CHIA SẺ
1. Con đường tâm hồn tôi có những đồi núi, vực sâu, khúc quanh nào cần sửa chữa?
2. Tôi có cần đến những phương thế của Thánh Gioan Baotixita không?
3. Tôi sẽ làm gì trong tuần này để thực hành Lời Chúa?
4. Trong bài Tin Mừng Chủ nhật thứ II Mùa Vọng này, tôi tâm đắc nhất câu nào?
Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói như trên với hàng chục ngàn tín hữu và du khách hành hương tham dự buổi tiếp kiến sáng thứ tư 3-12-2014 tại quảng trường thánh Phêrô. Như đã biết, Đức Thánh Cha mới viếng thăm mục vụ Thổ Nhĩ Kỳ ba ngày cuối tuần vừa qua, vì thế trong bài huấn dụ ngài đã chia sẻ với tín hữu các cảm tưởng và kinh nghiệm trong chuyến công du mục vụ này.
Đức Thánh Cha nói: Hôm nay chúng ta duyệt lại các chặng hành hương mà tôi đã đi từ thứ sáu cho tới Chúa Nhật vừa qua. Như tôi đã xin anh chị em chuẩn bị và đồng hành với nó bằng lời cầu nguyện, giờ đây tôi xin anh chị em cùng tôi cảm tạ Thiên Chúa vì việc thực hiện nó, và để cho nó sinh hoa trái trong cuộc đối thoại với các anh em chính thống và với các anh em hồi giáo, cũng như cho con đường hòa bình giữa các dân tộc.
Đức Thánh Cha đã cám ơn Tổng thống, Thủ tướng, Bộ trưởng tôn giáo cũng như các giới chức chính quyền khác của Thổ Nhĩ Kỳ đã tiếp đón ngài với lòng kính trọng và bảo đảm cho chuyến viếng thăm diễn ra trong trật tự. Ngài cũng cám ơn các Giám Mục của Giáo Hội công giáo Thổ Nhĩ Kỳ vì sự dấn thân của các vị, cũng như Đức Thượng Phụ Bartolomaios I vì sự tiếp đón thân tình. Chân phước Phaolô VI và Thánh Gioan Phaolô II đã viếng thăm Thổ Nhĩ Kỳ và Thánh Gioan XXIII, từng là Khâm Sứ Tòa Thánh tại Thổ Nhĩ Kỳ, từ Trời đã che chở chuyến hành hương của tôi, diễn ra tám năm sau chuyến viếng thăm của vị tiền nhiệm của tôi là Đức Biển Đức XVI. Vùng đất này thân thương đối với mọi kitô hữu, đặc biệt vì đã là nơi tông đồ Phaolô chào đời, và là nơi triệu tập bẩy Công Đồng và vì sự hiện diện của “Nhà Đức Maria” gần thành Êphêxô.
Tiếp đến Đức Thánh Cha đã kể lại diễn tiễn các ngày viếng thăm, Trong ngày đầu tiên ngài đã thăm lăng của ông Ataturk và gặp gỡ chính quyền Thổ. Thổ Nhĩ Kỳ là quốc gia có đa số dân theo Hồi giáo, nhưng Hiến pháp khẳng định tính chất đời của Nhà nước. Ám chỉ tình trạng bạo lực do các lực lượng hồi cực đoan gây ra đó đây trên thế giới, Đức Thánh Cha khẳng định:
Chính sự lãng quên Thiên Chúa chứ không phải việc vinh danh Người làm nảy sinh ra bạo lực. Vì thế tôi đã nhấn mạnh tầm quan trọng các tín hữu kitô và hồi giáo phải cùng nhau dấn thân cho tình liên đới, hòa bình và công lý, và khẳng định rằng mọi chính quyền phải bảo đảm cho các công dân sự tự do tôn giáo thực sự.
Trong ngày thứ hai tôi đã viếng thăm vài nơi biểu tượng của các tôn giáo khác nhau hiện diện tại Thổ Nhĩ Kỹ. Tôi đã làm điều đó và cảm nhận trong tim lời khẩn cầu Chúa, là Thiên Chúa trời đất, là Cha thương xót của toàn nhân loại. Trọng tâm ngày viếng thăm là buổi cử hành Thánh Thể trong nhà thờ chính tòa với sự tham dự của các Chủ Chăn và tín hữu của nhiều nghi lễ công giáo hiện diện tại Thổ Nhĩ Kỳ. Tham dự cũng đã có Đức Thượng Phụ Đại Kết, Đại diện Đức Thượng Phụ Apostolico, Tổng Giám Mục chính thống Siro và các giới chức Tin Lành. Chúng tôi đã cùng nhau khẩn nài Chúa Thánh Thần là Đấng ban sự hiệp nhất cho Giáo Hội: hiệp nhất trong đức tin, đức mến và hiệp nhất trong sự kết hợp chặt chẽ nội tâm. Trong sự phong phú của các truyền thống và cơ cấu của mình Dân Chúa được mời gọi để cho Chúa Thánh Thần hướng dẫn trong thái độ liên lỉ cởi mở, ngoan ngoãn và vâng phục.
Tiếp tục chia sẻ kinh nghiệm Đức Thánh Cha nói: Ngày cuối cùng của chuyến viếng thăm lễ thánh Anrê Tông Đồ đã cống hiến bối cảnh lý tưởng cho việc củng cố các liên hệ huynh đệ giữa Giám Mục Roma, Người Kế Vị thánh Phêrô và Đức Thượng Phụ Đại Kết Costantinopoli, theo truyền thống là Giáo Hội do thánh Anrê, em của Simon Phêrô thành lập. Đức Thánh Cha cho biết như sau:
Tôi đã cùng với Đức Thượng Phụ canh tân dấn thân theo đuổi con đường tiến tới việc thiết lập sự hiệp thông trọn vẹn giữa các tín hữu công giáo và chính thống. Chúng tôi đã cùng nhau ký một Tuyên ngôn chung là chặng cuối của con đường này. Đặc biệt ý nghĩa là hành động này đã được làm vào cuối buổi cử hành trọng thể Phụng vụ lễ thánh Anrê, mà tôi đã tham dự với niềm vui lớn, và nó đã được theo sau bởi phép lành của Đức Thượng Phụ Costantinopoli và Giám Mục Roma. Thật thế, lời cầu nguyện là nền tảng cho mọi cuộc đối thoại đại kết phong phú dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần.
Cuộc gặp gỡ cuối cùng là với nhóm các bạn trẻ tỵ nạn, được các tu sĩ Salesien tiếp đón.
Thật là điều rất quan trọng đối với tôi việc gặp gỡ vài người tỵ nạn Trung Đông, để bầy tỏ sự gần gũi của tôi và của Giáo Hội cũng như để nhấn mạnh giá trị của sự tiếp đón, mà Thổ Nhĩ Kỳ cũng rất dấn thân. Chúng ta hãy cầu nguyện cho tất cả các người di cư và tỵ nạn và để xóa bỏ các lý do gây ra thảm cảnh đau đớn này.
Anh chị em thân mến, Xin Thiên Chúa toàn năng và thương xót tiếp tục che chở dân nước và giới chức lãnh đạo chính trị và tôn giáo Thổ Nhĩ Kỳ. Ước chi họ có thể cùng nhau xây dựng một tương lai hòa bình, để Thổ Nhĩ Kỳ có thể diễn tả một nơi của sự sống chung hòa bình giữa các tôn giáo và các nền văn hóa khác nhau. Ngoài ra chúng ta cũng hãy cầu nguyện để qua sư bầu cừ của Đức Trinh Nữ Maria, Chúa Thánh Thần khiến cho chuyến công du này được phong phú và tạo thuận tiện cho lòng hăng say truyền giáo, để trong sư tôn trọng và đối thoại huynh đệ, loan báo cho tất cả mọi dân tộc rằng Chúa Giêsu là sự thật, hòa bình và tình yêu.
Đức Thánh Cha đã chào các đoàn hành hương đến từ Bắc Mỹ, các nước Âu châu cũng như từ Malyasia, Nigeria, Argentina, Mêhicô, Paraguay. Bolivia và Chile.
Ngài đặc biệt chào các thành viên phong trào Truyền giáo Phi châu do các Giám Mục hai giáo phận Piacenza Bobbio và Moroto hướng dẫn, các tham dự viên đại hội gia đình, các người tổ chức hang đá lưu động vùng Pavullo. Ngài cầu mong Mùa Vọng là thời gian thuận tiện giúp mọi người chuẩn bị cho lễ Giáng Sinh và dấn thân canh tân lòng gắn bó với Chúa Kitô và liên đới với các anh chị em túng thiếu.
Chào giới trẻ, người đau yếu và các đôi tân hôn, Ngài nhắc cho mọi người biết hôm qua Giáo Hội kính nhớ thánh Phanxicô Xaviê. Đức Thánh Cha cầu mong thánh nhân giúp các bạn trẻ sống đức tin nghiêm chỉnh, các người đau yếu tin tưởng nơi sự trợ lực của Chúa Kitô trong những lúc khổ đau, và các đôi tân hôn biết tận hiến cho nhau trong cuộc sống gia đình.
Buổi tiếp kiến đã kết thúc với Kinh Lạy Cha và phép lành toà thánh Đức Thánh Cha ban cho mọi người.
Linh Tiến Khải
LẦM LỖI VÀ SÁM HỐI
Con người thường có những lỗi lầm. Lỗi lầm khiến con người trở nên xấu xa. Lỗi lầm càng nhiều thì xấu xa càng ghê sợ hơn. Thế nên, con người thường có khuynh hướng che giấu tội lỗi của mình. Đôi khi còn đóng kịch để che đậy bản tính xấu xa của mình. Sống giả dạng người tốt để đánh lừa anh em.
–Có đôi vợ chồng nọ, mới cưới nhau về được khoảng một tuần, anh nói với vợ rằng,
–Xin em hứa với anh là đừng bao giờ mở cái hộp này ra, bao lâu anh đang còn sống.
–Người vợ gật gù đồng ý.
–Sau bốn mươi năm sống chung, gia đình rất hạnh phúc. Một hôm ông đi vắng, bà ở nhà một mình, tò mò lấy cái hộp từ dưới chân giường ra, không hiểu là ông đã giấu cái gì trong hộp. Người vợ nghĩ rằng đã sống với nhau bốn mươi năm, cái gì cũng biết hết rồi, ngoài trừ cái hộp này.
–Bà liền mở hộp ra xem, và trong hộp có năm vỏ bia, và một trăm hai mươi lăm đồng, năm chục xu. Bà nghĩ rằng chỉ có vậy thôi mà sao ông bí mật thế.
–Khi Ông đi làm về, bà liền đến tự thú với ông. Và bà hỏi ông rằng, tại sao trong hộp lại có năm vỏ bia? Ông trả lời, năm vỏ bia là tượng trưng cho mỗi lần tôi làm lỗi với bà, thì tôi uống một lon. Người vợ thấy vậy cũng vui vui, vì nghĩ rằng, sống với nhau bốn mươi năm, mà ông chỉ làm lỗi với mình chỉ có năm lần, kể cũng qúa ít.
–Bà tiếp, vậy còn một trăm hai mươi lăm đồng, và năm chục xu thì sao?
–Ông đáp, "thì là tiền bán vỏ lon bia chứ gì. "
–Bà………."ố trời ơi!!!!!"
Hóa ra tình yêu vẫn có những phản bội. Phản bội vì yếu đuối. Phản bội vì nông cạn. Phản bội có thể xảy đến khi mình thiếu tự chủ, mất kiểm soát tình cảm dễ dẫn đến phản bội với nhau. Nhưng nếu phản bội mãi mà không nhận ra sai lỗi của mình thì thật bất hạnh cho mình và cho gia đình. Điều quan yếu là biết sám hối và đứng dậy sau những lần vấp ngã. Dẫu có muộn màng vẫn hơn. Dẫu có tái phạm vẫn còn sửa chữa vì không cố tình ở lỳ trong tội lỗi.
Thánh Gioan B là sứ giả của Thiên Chúa. Ông đến để sửa lại lỗi lầm cho con người. Ông đi trước Chúa để uốn lại lòng dân. Ông dọn lại những gồ ghề trong tâm hồn con người bởi những tham sân si. Ông đưa ra phương án sửa lại lỗi lẫm bằng việc sám hối ăn năn.
Sám là thú nhận lỗi lầm, Hối là hứa từ nay không tái phạm. Sám Hối là thú nhận lỗi lầm, và hứa không tái phạm. Sám hối là hành động của bản thân biết nhìn ra tội lỗi của mình mà sửa đổi, mà canh tân. Không có sám hối sẽ không có những cuộc canh tân làm thay đổi đời sống và môi trường sống. Chính nhờ sám hối và bản thân được thăng tiến, mỗi trường cũng được đổi thay thêm xinh đẹp hơn.
Sám hối là động lực giúp con người hoàn chỉnh bản thân mình. Nhờ sám hối mà ta chỉnh tu lại con người mình thêm xinh đẹp hơn. Madalena đã từng sám hối để từ bỏ con người trắc nết mà biến đổi trở thành người đi theo Chúa. Augutino đã từng sám hối để bỏ đường rộng thênh thang chiều theo tính xác thịt mà biến đổi trờ thành một đại thánh cho Giáo hội. Có rất nhiều những con người đã đổi đời nhờ sám hối mà chỉnh tu lại lối đi của mình theo đường lối Thiên Chúa.
Xin Chúa giúp chúng ta biết nhìn lại những yếu đuối của bản thân mà sám hối ăn năn. Xin giúp chúng ta can đảm thực hiện hành vi sám hối bằng việc thú nhận tội lỗi của mình và tuyên hứa từ nay không tái phạm. Xin Chúa nâng đỡ sự yếu hèn của chúng ta và giúp chúng ta hoàn chỉnh mình mỗi ngày thêm giống Chúa hơn nhờ cuộc canh tâm sám hối từng ngày. Amen
Lm.Jos Tạ Duy Tuyền
VATICAN. Sáng ngày 2-12-2014, ĐTC Phanxicô đã cùng với các vị lãnh đạo tôn giáo khác, ký tuyên ngôn chung bày tỏ quyết tâm cộng tác loại bỏ vĩnh viễn hình thức nô lệ mới trước năm 2020.
Cùng ký vào tuyên ngôn còn có Đức Giáo Chủ Liên hiệp Anh giáo Justin Welby, các vị lãnh đạo Chính Thống, Phật giáo, Ấn giáo và Hồi giáo đến từ nhiều quốc gia. Sáng kiến lịch sử này do tổ chức gọi là Global Freedom Network (Mạng tự do trên thế giới), đề xướng. Tổ chức này nhắm loại trừ nạn buôn người và các hình thức nô lệ mới trên thế giới ngày nay. Hòa Thượng Thích Nhất Hạnh cũng được mời tham dự nhưng bị đột quỵ nên Ni Sư đệ tử là Thích Nữ Chân Không, 76 tuổi, đã đi dự thay.
Lễ nghi ký tuyên ngôn chung diễn ra lúc 11 giờ 15 sáng tại trụ sở của Hàn lâm viện Tòa Thánh về các khoa học ở Nội thành Vatican.
Lên tiếng trong dịp này, sau khi cám ơn tất cả các vị lãnh đạo tôn giáo và những người hiện diện, ĐTC khẳng định rằng: ”Được sự tuyên xưng tín ngưỡng soi sáng, chúng ta họp nhau nơi đây do một sáng kiến lịch sử và để thực hiện một hành động cụ thể: tuyên bố chúng ta sẽ cộng tác với nhau để loại trừ tai ương kinh khủng là sự nô lệ tân thời dưới tất cả mọi hình thức của nó.
”Sự bóc lột thể lý, kinh tế, tính dục và tâm lý người nam, người nữ, trẻ em nam nữ, hiện đang xiềng xích hàng triệu ngừơi trong tình trạng vô nhân đạo và tủi nhục. Mỗi người đều là hình ảnh của Thiên Chúa. Thiên Chúa là tình thương và tự do, Đấng hiến thân trong cac quan hệ giữa con người với nhau… Bất kỳ quan hệ kỳ thị nào đều không tôn trọng xác tín cơ bản theo đó người khác cũng là người như chúng ta, và hành động đó là một tội ác. Và bao nhiêu lần có những tội ác kinh khủng!
ĐTC nói thêm rằng “Vì thế chúng ta tuyên bố nhân danh tất cả và từng người rằng nạn nô lệ tân thời, trong tuương quan với nạn buôn người, cưỡng bách lao động, mại dâm và buôn bán cơ phận, là tội ác xúc phạm đến nhân loại. Các nạn nhân thuộc mọi giai tầng, nhưng nhất là những người nghèo khổ và dễ tổn thương nhất trong các anh chị em của chúng ta.
”Nhân danh họ chúng ta kêu gọi các cộng đoàn của chúng ta hãy hành động, để hoàn toàn loại bỏ mọi sự tước đoạt tự do của cá nhân với mục đích bóc lột con người và thương mai; nhân danh họ chúng ta đưa ra tuyên ngôn này.
ĐTC ghi nhận rằng mặc dù có những cố gắng lớn của nhiều người, tệ nạn nô lệ tân thời tiếp tục là một tai ương kinh khủng trên thế giới, kể cả dưới hình thức du lịch.. Tội ác này nấp sau những thói quen bề ngoài và được chấp nhận, nhưng trong thực tế, các nạn nhân của chúng ở trong tình trạng mại dân, buôn người, cưỡng bách lao động, làm việc như nô lệ, cắt chặt cơ phận, bán cơ phẩn và tiêu thụ ma túy, bắt trẻ em làm việc. Nó nấp sau cánh cửa thánh đường, nhưng nơi đặc biệt, trên các đường phố, trong xe cộ, xưởng thợ, đồng quê, thuyền cánh cá và nhiều nơi khác..
ĐTC kết luận rằng: Chúng tôi kêu gọi tất cả những người có tín ngưỡng, các vị lãnh đạo, chính quyền, xí nghiệp, mọi người nam nữ thiện chí, hãy quyết liệt hỗ trợ và tham gia các phong trào chống nạn nô lệ tân thời dưới mọi hình thức”
”Được sự nâng đỡ của các lý tưởng trong tín ngưỡng và các giá trị nhân bản chung, tất cả chúng ta có thể và phải giơ cao ngọn cờ các giá trị tinh thần. .. Tôi cầu xin Chúa ban cho chúng ta ngày hôm nay ơn được hoán cải chính mình thành tha nhân của mỗi người không phân biệt ai, luôn tích cực giúp đỡ những người chúng ta gặp trên đường. (SD 2-12-2014)
G. Trần Đức Anh OP
Vatican Radio
LỜI CHÚA HỨA, LÒNG CON ẤP Ủ, ĐỂ CHẲNG BAO GIỜ BỘI NGHĨA BẤT TRUNG
Câu chuyện xảy ra tại thành Roma vào năm 1620. Một thanh niên – tạm gọi Antonio – sống phóng túng và vô độ. Tính tình cộc cằn vũ phu khiến anh bị nhiều người oán ghét và trở thành kẻ thù chống lại anh. Họ hùa nhau tính chuyện thủ tiêu anh.
Thế nhưng, giữa cuộc sống ”dao búa” và ăn chơi trác táng ấy, anh Antonio vẫn giữ nguyên một thói quen lành thánh. Đó là việc anh thường xuyên xin lễ cầu cho Các Đẳng Linh Hồn trong Lửa Luyện Ngục. Anh đặc biệt có lòng thương xót các ngài. Anh muốn cứu giúp Các Đẳng Linh Hồn sớm được giải thoát khỏi nơi Đền Tội. Chính nghĩa cử bác ái đó đã cứu sống anh, cả hồn lẫn xác.
Một buổi tối, Antonio có chuyện phải đi về thành phố Tivoli, cách Roma khoảng 40 cây số về hướng đông bắc. Anh đi nhưng không biết mình đi vào hang kẻ thù. Bởi vì, kẻ thù biết rõ Antonio sẽ đi về hướng ấy, nên họ phục kích để giết anh. Họ núp trong một rừng cây nhỏ, mang đầy súng hỏa mai, chờ đợi giây phút Antonio đi ngang qua đó ..
Antonio cỡi ngựa bình thản nhắm thẳng hướng Tivoli. Khi gần đến nơi, anh bỗng trông thấy xác chết của một tử tội bị treo trên cây sồi. Động lòng trắc ẩn, anh cho ngựa dừng lại, đọc vài kinh cầu cho Linh Hồn kẻ quá vãng đáng thương. Bỗng chốc, tử thi hồi sinh, động đậy rồi rơi cái bịch xuống đất. Chưa hết, người chết từ từ tiến lại gần Antonio. Antonio thất kinh hồn vía đứng im như bị trời tròng. Người chết cầm lấy dây cương, bảo Antonio hãy xuống khỏi ngựa và đứng yên đó, chờ ông ta.
Antonio vô cùng ngạc nhiên, nhưng không hỏi lý do. Anh ngoan ngoãn xuống ngựa và giao cương ngựa cho người chết. Người chết lên yên và thúc ngựa chạy nhanh! Vừa tới khúc quẹo, bỗng có tiếng đạn bay vèo vèo. Những kẻ thù của Antonio bắn đạn hỏa mai xối xả vào tử thi khiến tử thi ngã gục và rơi khỏi ngựa. Trông thấy người cỡi ngựa té xuống đất, những kẻ bắn vội cao bay xa chạy. Họ nắm chắc đã giết chết Antonio!
Đứng xa xa, Antonio chứng kiến cảnh người chết lồm cồm đứng dậy và leo lên ngựa. Tử thi quay ngựa trở về chỗ Antonio đang đứng run lập cập và nói:
– Anh vừa nghe rõ những tiếng đạn hỏa mai nổ! Đó là tiếng đạn dành cho anh. Đúng ra anh rơi xuống hỏa ngục rồi! May mắn thay, Các Đẳng Linh Hồn nơi Luyện Ngục đã van xin được THIÊN CHÚA, Ngài cho phép tôi đến cứu sống anh, cả xác lẫn hồn, trong giờ phút nguy hiểm tột cùng này! Anh hãy ghi khắc công ơn trời bể ấy, bằng cách tiếp tục cầu nguyện cho Các Đẳng Linh Hồn, và còn hơn thế nữa, bằng cách thay đổi lối sống của anh.
Nói xong, tử thi trở lại chỗ cũ: treo lủng lẳng trên cây sồi. Về phần Antonio, khỏi cần phải nói, anh hoàn toàn hoán cải, thay đổi hẳn lối sống. Một thời gian ngắn sau đó, anh xin gia nhập một dòng tu và sống thánh thiện cho đến khi qua đời.
Câu chuyện minh chứng lời quả quyết của thánh Léonard de Port-Maurice (1676-1751):
– Các Linh Hồn phúc lành mà anh chị em cầu nguyện, hy sinh, làm việc thiện để xin ơn giải thoát các ngài khỏi Lửa Luyện Hình, sẽ từ Trời Cao xuống trần gian, để giúp đỡ hộ phù anh chị em trong những công việc thuộc đời này cũng như trong đời sống thiêng liêng.
Về phần thánh Augustino (354-430), ngài thường nói:
– Tôi luôn luôn nhớ cầu nguyện cho các người quá cố, để một khi các vị ấy được vào hưởng vinh quang muôn đời, đến phiên các ngài, các ngài sẽ nhớ cầu bầu cho tôi trước tòa THIÊN CHÚA Nhân Lành.
… ”Làm thế nào giữ được tuổi xuân trong trắng? Thưa phải tuân theo lời Chúa dạy. Lạy Chúa, con hết dạ kiếm tìm Ngài, xin chớ để con làm sai mệnh lệnh Chúa. Lời Chúa hứa, lòng con ấp ủ, để chẳng bao giờ bội nghĩa bất trung. Lạy Chúa, con dâng lời ca tụng, thánh chỉ Ngài, xin dạy cho con. Môi con hằng nhẩm đi nhắc lại, các quyết định miệng Ngài phán ra. Tuân theo thánh ý Ngài, con vui sướng hơn là được tiền rừng bạc bể. Con sẽ gẫm suy huấn lệnh Chúa truyền, đưa mắt nhìn theo đường lối Chúa. Con vui thú với thánh chỉ Ngài chẳng quên lời Ngài phán” (Thánh Vịnh 119, 9-16).
(Jacques Lefèvre, ”Les Âmes du Purgatoire dans la vie des Saints”, Editions Résiac, 1995, trang 41-42)
Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt
( Vietnamese Vatican Radio )
Đức Thánh Cha bàn về chán nản và hy vọng
Thực tại có thể bẽ bàng, nhưng bất chấp đau khổ, băng hoại và sự thờ ơ trong thế giới ngày nay, là những Kitô hữu chúng ta phải ngẩng cao đầu trong hy vọng. Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói như trên trong thánh lễ sáng thứ Năm, 27 tháng 11 tại nhà nguyện Santa Marta.
Suy tư trên các bài đọc trong ngày, Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói về số phận của hai thành Babylon và Giêrusalem. Ngài chỉ ra rằng cả hai bài đọc trích từ sách Khải Huyền và từ Tin Mừng của Thánh Luca đều lôi cuốn sự chú ý của chúng ta đến thời kỳ thế mạt.
Đức Thánh Cha lưu ý rằng các bài đọc đã đề cập đến sự sụp đổ của hai thành phố đã từ chối đón nhận Chúa và xa lánh Ngài. Hai thành phố này đã sụp đổ vì những lý do khác nhau. Babylon là “biểu tượng của sự dữ, và tội lỗi” và “sụp đổ vì sự băng hoại của nó”. Thành phố này tin rằng nó là “phi tần của thế giới và của chính nó”. Khi “tội lỗi chất chứa anh chị em sẽ mất khả năng chống trả và bắt đầu băng hoại”. Điều này cũng xảy ra với “một dân tộc băng hoại, là những người không còn sức để chống trả nữa”.
“Sự băng hoại đem lại cho con người chút hoan lạc nào đó. Nó đem lại cho anh chị em quyền lực và làm cho anh chị em cảm thấy hài lòng với chính mình. Nhưng nó khiến cho chúng ta không còn chỗ cho Chúa, cho sự ăn năn hoán cải. Kinh thành này băng hoại … Từ ‘băng hoại’ nói với chúng ta rất nhiều điều. Không chỉ băng hoại trong kinh tế, nhưng còn băng hoại với nhiều thứ tội lỗi đa dạng, băng hoại của một tinh thần ngoại giáo, tinh thần thế gian!
Nền “văn hóa băng hoại” làm cho anh chị em cảm thấy như đang ở trên thiên đường, ngay tại thế này” nhưng “bên trong, nền văn hóa băng hoại là một nền văn hóa thối nát”. Babylon là biểu tượng cho “mọi xã hội, mọi nền văn hóa trong đó con người tách mình ta khỏi Thiên Chúa. Họ tách ra khỏi tình yêu tha nhân và cuối cùng dẫn đến thối nát”.
Giêrusalem lại sụp đổ “vì lý do khác”. Giêrusalem là hôn thê của Thiên Chúa, nhưng lại không đón nhận Đấng Phu Quân của mình. Nó làm Chúa Giêsu bật khóc”.
Babylon sụp đổ vì băng hoại; còn Giêrusalem thì vì mất đi căn tính của mình, đã không tiếp nhận Chúa, là Đấng đến để giải thoát mình. Cô dâu này thấy không cần đến ơn cứu độ. Kinh thành này đã có luật của Mosê, và nó cảm thấy như thế là đủ rồi. Nhưng những luật lệ ấy là những bản văn đóng kín làm cho kinh thành ấy không còn chỗ cho ơn cứu độ. Nó đã đóng cửa không để Chúa đến. Ngài đã đến gõ cửa nhà nhưng gia nhân Ngài đã không tiếp nhận Ngài. Họ đã không lắng nghe tiếng Ngài hầu được cứu sống. Và vì vậy Giêrusalem sụp đổ.
Đức Thánh Cha Phanxicô lưu ý rằng sự sụp đổ của hai thành này giúp chúng ta suy nghĩ về thái độ sống của chính chúng ta. Chúng ta có “băng hoại như Babylon và tự mãn như Giêrusalem” hay không?
Đức Thánh Cha nhấn mạnh rằng “sứ điệp của Giáo Hội trong những ngày này không kết thúc với sự hủy diệt. Thật thế, cả hai bài đọc đều chứa đựng những lời hứa đầy hy vọng”. Chúa Giêsu khích lệ chúng ta ngẩng đầu lên “đừng sợ hãi trước phường ngoại giáo.” Những kẻ này “có thời của chúng, và chúng ta phải kiên nhẫn, như Chúa đã kiên nhẫn chịu đựng cuộc Thương Khó của Ngài.”
“Khi chúng ta nghĩ về thời thế mạt, với tất cả những tội lỗi của chúng ta, lịch sử của chúng ta, chúng ta hãy nghĩ đến bàn tiệc sẽ được ban cho chúng ta cách nhưng không và chúng ta hãy ngẩng đầu lên. Đừng chiều theo tuyệt vọng! nhưng hãy hy vọng! Thực tế có thể bẽ bàng: có rất nhiều người, nhiều thành phố và dân chúng sẽ phải chịu đau khổ, với cơ man những cuộc chiến tranh, vô vàn những thù hận, và ghen tị, tinh thần thế gian thống trị thế giới và bao nhiêu những băng hoại. Vâng, thật thế! Nhưng tất cả những điều này sẽ qua đi! Chúng ta hãy nài xin Chúa ban ơn để biết luôn luôn sẵn sàng cho bàn tiệc đang đón đợi chúng ta, và luôn luôn biết ngẩng cao đầu”.
Vatican Radio
ĐỨC PHANXICÔ : SỰ THÁNH THIỆN ĐƯỢC SỐNG QUA CHỨNG TÁ KITÔ HỮU Ở ĐỜI THƯỜNG
Nên thánh không hệ tại ở việc « nhắm mắt và có cái đầu như trên các hình ảnh đạo đức ». Để nên thánh, « không cần phải là giám mục, linh mục hay tu sĩ », « sự thánh thiện không phải chỉ dành riêng cho những ai có khả năng tách ra khỏi những nhiệm vụ thường ngày để chỉ chú tâm cầu nguyện ». Nhưng « đúng hơn chính khi sống chứng tá Kitô hữu của chúng ta mà chúng ta được mời gọi nên thánh », và « nên thánh không thể được thực hiện mà không có niềm vui ». Đó là tóm tắt bài giáo lý trong buổi tiếp kiến chung hôm thứ Tư 19/11/2014 tại quảng trường thánh Phêrô trước chừng khoảng 15.000 người.
« Và nếu chúng ta là bậc cha mẹ hay ông bà, nên thánh bằng cách dạy đức tin và cuộc sống cho con cháu ». « Cần phải kiên nhẫn nhiều đối với nhiệm vụ này, để là những bậc cha mẹ tốt, để là những bậc ông bà tốt, và chính trong sự kiên nhẫn này mà sự thánh thiện nảy sinh ». Đức Thánh Cha còn khuyên kiê nhẫn nếu « buổi tối con cái của bạn xin bạn thảo luận về những vấn đề của nó, và bạn đang cảm thấy mệt mỏi, bạn không muốn nghe nó, trái lại, hãy ngồi xuống, dành thời gian lắng nghe nó, và khi lắng nghe nó bạn sẽ tiến bước đến sự thánh thiện ». Với những bước nhỏ tiến tới sự thánh thiện, Đức Thánh Cha Phanxicô cũng lấy ví dụ một người phụ nữ đi chợ mua sắm, gặp các bạn nữ của mình, và rồi đi đến chỗ ngồi lê đôi mách. Nếu người phụ nữ này không chiều theo cám dỗ nói xấu người khác, thì đó cũng là một bước tiến tới sự thánh thiện.
Từ đó Đức Thánh Cha khẳng định : « Chính khi sống các hoạt động của mọi ngày bằng tình yêu mà chúng ta được mời gọi nên thánh, dù thân phận chúng ta là gì : người đã kết hôn hay độc thân, cha mẹ hay ông bà, người tu trì… Mọi bậc sống đưa chúng ta đến sự thánh thiện nếu chúng ta sống nó trong sự hiệp thông với Chúa và phục vụ anh em. Lời mời gọi nên thánh của Thiên Chúa là một lời mời gọi sống và hiến dâng cho Ngài mỗi giây phút của cuộc sống chúng ta cách vui tươi, bằng cách biến nó thành một sự dâng hiến tình yêu cho những người xung quanh chúng ta ».
Tý Linh ( XBVN )
theo Radio Vatican