“Biết mình để sống đúng”

"Biết mình để sống đúng"

(Trích trong ‘Cùng Nhau Suy Niệm’ – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)

Có một lúc nào đó trong cuộc đời, chúng ta vẫn thường tự hỏi: Tôi là ai? Tôi sinh ra trong cuộc đời này làm gì? Chết rồi đi đâu? Đây là những câu hỏi quyết định hướng đi của một đời người, nó quyết định phận số của một con người. Sống có ích cho xã hội hay trở thành gánh nặng cho xã hội cũng tuỳ thuộc vào chọn lựa cơ bản này của từng người chúng ta.

Người ta kể rằng: thuở xưa khi con người chưa biết soi gương trang điểm nên họ cũng chẳng biết mình là ai? Và khuôn mặt mình thế nào? Một lần kia, anh chồng lên tỉnh thành, người vợ dặn chồng nhớ mua cho mình một cái trâm cài đầu. Nhưng anh không biết cái trâm hình thù như thế nào. Chị vợ liền nhìn trời thấy ánh trăng lưỡi liềm liền nói: "Cái trâm nó giống như ánh trăng kia, nếu anh quên anh cứ nhìn lên ánh trăng thì sẽ nhớ.

Người chồng lên đường mải miết xem bao cảnh lạ ở tỉnh thành mãi mười ngày sau mới trở về quê nhà. Anh sực nhớ lời vợ dặn, anh liền nhìn lên trời và thấy ánh trăng tròn trịa của đêm trăng rằm, anh liền vào tiệm và mua một cái gương tròn trịa như ánh trăng theo lời vợ dặn.

Lòng vui rộn ràng khi vừa về tới nhà vội trao cho vợ cái gương mà anh đã mua từ tỉnh thành. Tưởng rằng vợ sẽ vui mừng với món quà anh đưa về, thế nhưng, khi vừa nhìn vào đồ vật, cô vợ đã tức giận và quát tháo rằng: "Tôi dặn anh mua cái trâm cài đầu, tại sao anh lại đem về một đứa con gái nào đây?". Anh chồng giật mình, dành lại cái gương và nhìn xem chuyện gì xẩy ra. Anh nhìn vào gương lại thấy một người đàn ông trông giống bố mình hồi còn trẻ, nên anh phân bua rằng: Không, đây là bố tôi mà! Cô vợ dành lại và nói: bố ông bao giờ, con nào rõ ràng. Ông còn chối hả? Đính chính chẳng được, nên anh chồng đành bỏ đi. Mẹ chồng thấy vậy đến an ủi con dâu, và người con dâu đưa cho mẹ chồng coi bằng chứng rõ ràng thế mà anh chồng còn chối quanh quẩn. Mẹ chồng xem qua rồi trịnh trọng nói: Thôi đừng ghen nữa! Tao thấy con này không đáng ghen đâu. Tao thấy, nó cũng già lắm rồi!

Đó là câu chuyện vui nhưng cũng nói lên một chân lý: nếu không biết mình thì sẽ làm khổ mình và khổ người khác. Chúa Giê-su cũng từng nói: "Mù dắt mù thì cả hai đều rơi xuống hố". Đó cũng là quang cảnh của xã hội chúng ta đang sống. Một xã hội đầy những bóng tối của tội lỗi, của sa đoạ, cúa ích kỷ và hưởng thụ đã làm cho nhiều người mù quáng để chạy theo những đam mê lầm lạc, lạc mất hướng đi của đời người, dìm mình trong bóng tối của danh lợi thú. Nhiều người đã không còn ý thức giá trị đạo đức con người nên họ sẵn sàng đánh mất phẩm giá của mình và chà đạp lên phẩm giá của người khác. Họ không còn biết mình là ai? Sống để làm gì? Họ như những người lạc hậu trong câu chuyện đã không biết mình, nên gây ra những mâu thuẫn, hiểu lầm không đáng có. Thực vậy, nhiều người trong xã hội hôm nay, đã không hiểu rõ ý nghĩa cuộc sống nên buông thả trong những đam mê tội lỗi. Họ tưởng rằng, con người sinh ra, lớn lên, chết là hết nên chẳng cần sống theo lẽ phải, hay sống theo luân thường đạo lý, dẫn đến tội lỗi ngập tràn, cuộc sống đầy chiến tranh, loạn lạc.

Vì vậy, sứ điệp đầu tiên mà Chúa gửi đến nhân loại chính là: "Hãy sám hối". Sám hối để bước ra khỏi bóng đêm của tội lỗi, ganh tương, đố kỵ và chia rẽ để bước vào ánh sáng của yêu thương và hiệp nhất. Chúa Ky-tô chính là ánh sáng cho thế gian. Từ nay tin mừng cứu độ của Chúa sẽ soi sáng cho con người biết đâu là thiện, là ác, vì chính Ngài là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống. Và ai theo Ngài sẽ không phải đi trong tối tăm, nhưng bước đi trong tự do của con cái sự sáng.

Thế nhưng, nhân loại hôm nay vẫn thích bóng tối hơn ánh sáng. Người ta sợ ánh sáng của tin mừng sẽ phơi bày bộ mặt thật của mình nên che dấu bằng thủ đoạn, lừa đảo và giả hình, và dần dần đánh mất ý thức về tội. Tội lỗi vẫn lan tràn. Con người tự làm khổ mình, làm khổ nhau bởi chính tội lỗi mình gây ra.

Ước gì mỗi người chúng ta hãy biết nhìn lại mình để biết mình. Biết những giới hạn và bất toàn để sửa đổi. Biết những khiếm khuyết để bổ túc và canh tân. Biết tội lỗi mình để sám hối. Xin Chúa giúp chúng ta biết sám hối từng ngày để canh tân đổi mới cuộc đời trong chân lý và tình yêu của Chúa. Amen.

Đức Thánh Cha buồn vì báo chí giải thích xuyên tạc

Đức Thánh Cha buồn vì báo chí giải thích xuyên tạc

VATICAN. Đức TGM Angelo Becciu, Phụ Tá Quốc vụ khanh Tòa Thánh, cho biết ĐTC ”ngỡ ngàng và buồn” vì nhiều gia đình đông con hoang mang trước những tin tức báo chí loan đi không đúng về những lời nói của ngài.

Trong những ngày qua, nhiều báo chí Italia và quốc tế đăng tin với những tựa đề như: ”ĐGH dạy: điều lý tưởng là mỗi gia đình có 3 con”, hoặc ”ĐGH nói: các gia đình đừng sinh sản như thỏ!”.. Đó là điều hầu như duy nhất được các báo nhấn mạnh từ cuộc họp báo của ĐTC trên máy bay hôm 19-1-2015 trên đường từ Manila về Roma.

Trong cuộc phỏng vấn dành cho báo Công Giáo Tương Lai (Avvenire) số ra ngày 22-1-2015, Đức TGM Becciu cho biết đã trình cho ĐTC các bài báo ấy. Ngài tỏ ra ngạc nhiên và buồn vì sự giải thích không đúng của nhiều báo chí về lập trường của ngài. ĐTC không hề nói điều lý tưởng là mỗi gia đình chỉ nên có 3 ngừơi con. ”Đây là con số mà các nhà xã hội và dân số học coi là mức tối thiểu để dân số được ổn định. ĐGH không hề muốn nói đó là con số ”đúng” mà mỗi gia đình nên có. Mỗi gia đình Công Giáo, dưới ánh sáng ơn thánh, được kêu gọi phân định theo một loạt các mô thức của con người và Thiên Chúa để xác định đâu là số con mà mình phải có”.

Đức TGM Becciu nhấn mạnh rằng: ”Chính vì muốn làm sáng tỏ sự việc, nên trong bài giáo lý tại buổi tiếp kiến chung sáng thứ tư 21-1 vừa qua, ĐTC đã mau lẹ gửi những lời quí mến và khích lệ đến các gia đình đông con. Ngài khẳng định rằng sự sống luôn luôn là một thiện ích và sự kiện có nhiều con là một hồng ân của Thiên Chúa và phải luôn cảm tạ Chúa”. Trong bài giáo lý, ĐTC cũng tái khẳng định giáo huấn của ĐGH Phaolô 6 trong Thông điệp ”Humanae Vitae” (Sự Sống Con người) về sự sinh sản có trách nhiệm.

Theo Đức TGM Becciu, câu ĐTC nói ”không thể sinh sản như thỏ” phải được giải thích theo nghĩa: việc sinh sản của con người không thể theo tiêu chuẩn bản năng như động vật, nhưng là kết quả của một hành vi trách nhiệm, bắt nguồn trong tình yêu và trong sự hiến thân cho nhau. Rất tiếc là nền văn hóa hiện đại có xu hướng làm giảm thiểu vẻ đẹp chân chính và giá trị cao cả của tình yêu vợ chồng, với tất cả những hậu quả tiêu cực theo sau đó” (Avvenire 22-1-2015)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio
 

PHÉP RỬA KHIÊM NHƯỜNG

PHÉP RỬA KHIÊM NHƯỜNG

Trong đêm trường Cựu Ước, dân Do-thái trông đợi Đức Giê-su Ki-tô Thiên Chúa tới cứu độ, giải thoát khỏi xiềng xích của tội lỗi và sự chết đời đời. Ai cũng cho rằng Đấng ấy phải oai phong lẫm liệt như Lời Đức Chúa hứa cùng ngôn sứ Isaia: “Đây là người tôi trung Ta nâng đỡ, là người Ta tuyển chọn và quý mến hết lòng, Ta cho thần khí Ta ngự trên nó; nó sẽ làm sáng tỏ công lý trước muôn dân… Nó không yếu hèn, không chịu phục, cho đến khi thiết lập công lý trên địa cầu. Dân các hải đảo xa xăm đều mong được nó chỉ bảo.” – Is 42, 1-4). Tới khi lời hứa ấy được thực hiện cụ thể thì chỉ thấy một Hài Nhi sinh ra nơi một hang bò lừa, rồi sống ẩn dật 30 năm trường tại một vùng quê hẻo lánh.

 Lần đầu tiên xuất hiện công khai thì chàng thanh niên Giê-su Na-da-ret lại cùng với đám đông xếp hàng xin ông Gio-an Tẩy Giả rửa tội. Thật là lạ lùng. Chính Đấng đến để chuộc tội loài người giờ đây lại xin người khác rửa tội cho mình. Như vậy thì phải chăng đến cả Thiên Chúa cũng có tội và cần được rửa tội hay sao? Một nghịch lý không thể chấp nhận. Vấn đề chỉ được khai thông khi đọc và suy niệm kỹ cuộc đối thoại giữa người làm phép rửa và Người đến xin được rửa tội: “Bấy giờ, Đức Giê-su từ miền Ga-li-lê đến sông Gio-đan, gặp ông Gio-an để xin ông làm phép rửa cho mình. Nhưng ông một mực can Người và nói: "Chính tôi mới cần được Ngài làm phép rửa, thế mà Ngài lại đến với tôi!" Nhưng Đức Giê-su trả lời: "Bây giờ cứ thế đã. Vì chúng ta nên làm như vậy để giữ trọn đức công chính." (Mt 3, 13-15).

Cũng bởi vì Đức Giê-su là Thiên-Chúa-làm-người, “Người đã làm việc với bàn tay con người, đã suy nghĩ bằng trí óc con người, đã hành động với ý chí con người, đã yêu mến bằng quả tim con người.” (Tđ  “Gaudium et Spes”, số 22); nên cần phải “làm như vậy để giữ trọn đức công chính”. Nói khác hơn, Đức Ki-tô muốn cho mọi người thấy chàng thanh niên Giê-su Na-da-ret “Sinh bởi trinh nữ Maria, Người đã thực sự trở nên một người giữa chúng ta, giống chúng ta mọi sự, ngoại trừ tội lỗi.” (ibid). Người đến xin ông Gio-an Tẩy Giả làm phép rửa, không phải vì Người có tội mà chính là vì Người muốn nêu tấm gương sáng cho mọi người noi theo về đức khiêm nhường tuyệt đối vô song của Người. Thật thế, “Đức Giê-su Ki-tô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự.” (Pl 2, 6-8).

 Kể từ khi Nguyên tổ nghe lời rắn xúi giục "ông bà ăn trái cây đó, mắt ông bà sẽ mở ra, và ông bà sẽ nên như những vị thần biết điều thiện điều ác." (St 3, 5), vi phạm giới răn “ăn trái cấm” phải xa lìa Thiên Chúa. Không những chỉ truyền tử lưu tôn đời đời kiếp kiếp tội phản nghịch cùng Đấng đã dựng nên minh, Nguyên tổ còn truyền cho con cháu ngàn đời cái gien “kiêu ngạo” muốn ngang bằng Thiên Chúa. Trong khi loài người tội lỗi luôn kiêu ngạo tìm cách nâng mình lên, thì Thiên Chúa thánh thiện lại hạ mình xuống. Trong khi loài người chỉ tìm cách che giấu hoặc chối bay chối biến tội lỗi của mình, thì Thiên Chúa vô tội lại công khai nhận mình tội lỗi. Trong khi loài người tội lỗi tìm tránh hình phạt do tội lỗi họ gây nên thì Thiên chúa lại ghé vai gánh lấy hết tội lỗi và mọi hình phạt mà loài người đáng phải chịu. Sự khiêm nhường ấy phát xuất từ lòng Thiên Chúa yêu thương con người, muốn cứu chuộc nhân loại thoát khỏi ách thống trị của tội lỗi và sự chết đời đời.

Trước đó, Thánh Gio-an Tẩy Giả đã tự nhận “Tôi là tiếng người hô trong hoang địa: Hãy sửa đường cho thẳng để Đức Chúa đi, như ngôn sứ I-sai-a đã nói.” (Ga 1, 23), không những thế, thánh nhân còn nhấn mạnh: "Tôi, tôi làm phép rửa cho anh em trong nước, nhưng có Đấng mạnh thế hơn tôi đang đến, tôi không đáng cởi quai dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần và lửa.” (Lc 3, 16). Hôm nay, “Đức Giê-su từ miền Ga-li-lê đến sông Gio-đan, gặp ông Gio-an để xin ông làm phép rửa cho mình. Nhưng ông một mực can Người và nói: "Chính tôi mới cần được Ngài làm phép rửa, thế mà Ngài lại đến với tôi! " (Mt 3, 13-14). Ai cũng nhận thấy Thánh Gio-an Tẩy Giả là người rất khiêm nhường; nhưng thật không ngờ Đức Giê-su Ki-tô còn khiêm nhường gấp bội.

Thật thế, Thánh Gio-an là người trần gian tất nhiên không thể tránh khỏi tội lỗi, nhất là tội Nguyên tổ, và vì thế thánh nhân mới sống trong hoang địa “mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da, ăn châu chấu và mật ong rừng” để sám hối trước khi ra mắt dân It-ra-en kêu gọi người ta sám hối và làm phép rửa cho họ tại sông Gio-đan. Nhưng đến như Đức Giê-su Thiên Chúa nhân lành vô tội mà cũng vào trong hoang địa suốt 40 ngày ăn chay, hãm mình, chịu để ma quỷ cám dỗ (Lc 4, 1-13), nay lại đến xin Thánh Gio-an làm phép rửa, thì đức khiêm nhường của Chúa còn sâu xa đến nhường nào. Sự  tỏ mình của Đức Giê-su ngày càng rõ bao nhiêu thì đức tính khiêm nhường của Chúa càng nổi bật hơn bấy nhiêu. Đó chính là bản chất của Thiên Chúa “nên giống anh em mình mọi đàng ngoại trừ tội lỗi” (GS 22).

Sự khiêm nhường của Đức Giê-su lên tới đỉnh điểm là Phép Rửa Người phải chịu trên Gôn-gô-tha. Người đã tiên báo “Thầy còn một phép rửa phải chịu, và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi việc này hoàn tất!” (Lc 12, 50). Cũng vì Người đã “hạ mình, vâng lời cho đễn nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự.” Chính vì thế, nên “Thiên Chúa đã siêu tôn Người” (Pl 2, 7-9). Đó là lý do giải thích tại sao sau khi Thánh Gio-an Tẩy Giả làm phép rửa cho Đức Giê-su, “Vừa lên khỏi nước, Người liền thấy các tầng trời xé ra, và thấy Thần Khí như chim bồ câu ngự xuống trên mình. Lại có tiếng từ trời phán rằng: "Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con." (Mc 1, 10-11). Cả Ba Ngôi Thiên chúa cùng xuất hiện: Ba Ngôi liên kết trong một tình yêu hiệp thông. Chúa Giê-su hoạt động dưới tác động của Chúa Thánh Thần để thi hành thánh ý Chúa Cha. Có thể nói cả Ba Ngôi đều hoạt động trong Chúa Giê-su Ki-tô . Cả Ba Ngôi đều tham gia vào công trình cứu chuộc loài người.

Đức Giê-su đã thể hiện bằng hành động đúng như lời Người hằng dạy dỗ các môn đệ: Hãy ngồi chỗ cuối để được mời lên hang đầu, chờ đừng bao giờ bắt chước "những ông kinh sư ưa dạo quanh, xúng xính trong bộ áo thụng, thích được chào hỏi ở những nơi công cộng, ưa chiếm ghế danh dự trong hội đường, thích ngồi cỗ nhất trong đám tiệc." (Lc 20, 46). Ấy cũng bởi vì “Ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên." (Lc 14, 11). Ngoài ra, Người còn khen ngợi về đức tính khiêm nhường của Thánh Gio-an Tẩy Giả như thế này: "Tôi nói cho anh em biết: trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, không có ai cao trọng hơn ông Gio-an; tuy nhiên kẻ nhỏ nhất trong Nước Thiên Chúa còn cao trọng hơn ông.” (Lc 7, 28).

Từ người được sai đi làm phép rửa (Thánh Gio-an Tẩy Giả) tới Người đến xin làm phép rửa (Đức Giê-su Thiên Chúa) đều bộc lộ chân thành đức tính khiêm nhường tuyệt đối, nên có thể nói khiêm nhướng là một phép rửa. Vì khiêm nhường là sự quên mình, là chết đi cho cái tội đứng hàng đầu trong 7 mối tội đầu của bản thân (tội kiêu ngạo). Dìm mình vào dòng sông là chấp nhận đau khổ và chết đi. Cái chết chính là phép rửa như Chúa Giê-su đã nói với các môn đệ: “Thầy còn phải chịu một phép rửa, và Thầy những bồn chồn chờ đến lúc hoàn tất” (Lc 12, 50). Người còn hỏi hai ông Gio-an và Gia-cô-bê khi hai ông này đến xin được ngồi bên tả, bên hữu trong nước Người: “Các anh có uống nổi chén Thầy sắp uống, hay chịu được phép rửa Thầy sắp chịu không?” (Mc 10, 38). Khi nói thế Chúa Giê-su có ý nói đến cái chết Người sẽ phải chịu. Chúa Giê-su vì khiêm nhường cho đến nỗi bằng lòng chịu chết vì tội lỗi loài người. Vậy thì tại sao người Ki-tô hữu không sẵn sàng chết đi vì tội lỗi của bản thân mình?

Vâng, “Trong Phép Rửa, ta tiếp nhận cả lời giảng cần được công bố lẫn cách sống đặc biệt đòi phải vận dụng toàn bộ con người và đặt ta vào nẻo đường sự thiện. Ai chịu Phép Rửa đều được đặt vào một bối cảnh mới, được trao phó cho một môi trường mới, một cách hành động mới, chung chia trong Giáo Hội.Như thế, Phép Rửa khiến ta thấy rằng đức tin không phải là thành tựu của các cá nhân cô lập; nó không phải là một hành vi mà ai đó có thể tự mình diễn xuất, mà đúng hơn, nó là một điều cần được tiếp nhận bằng cách đi vào hiệp thông Giáo Hội, một hiệp thông chuyển giao ơn phúc Thiên Chúa.” (Tđ Ánh Sáng Đức Tin “Lumen Fidei”, số 41). Người Ki-tô hữu sống thân phận con người phải chết do hậu quả cuả tội nguyên tổ, nay đã được chịu phép rửa tội là có một mối liên hệ hiệp thông sâu xa với Đức Ki-tô và Giáo Hội. Bởi vậy chúng ta không đứng ngoài sự liên đới với người khác mà phải đồng hành cùng với nhân loại trong dòng chảy của những tập tục, truyền thống, lễ nghi, văn hoá… để thánh hoá, biến đổi, thăng hoa và làm hoàn hảo những giá trị này theo tinh thần của Đức Chúa.

Ôi! Lạy Chúa Giê-su Ki-tô, xin dạy con biết sống ơn Bí tích Rửa tội như Chúa, để con xứng đáng được làm con yêu dấu của Đức Chúa Cha. Ôi! “Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, khi Ðức Kitô chịu phép rửa tại sông Gio-đan và Thánh Thần ngự xuống trên Người, Chúa đã long trọng tuyên bố Người là Con chí ái. Xin cho chúng con là đoàn nghĩa tử được tái sinh bởi nước và Thánh Thần, hằng bền vững thi hành ý Chúa. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô Chúa chúng con. Amen.” (Lời nguyện nhập lễ lễ Chúa Giê-su chịu Phép Rửa).

JM. Lam Thy ĐVD

Này Là Con Ta Yêu Dấu

Này Là Con Ta Yêu Dấu

Biến cố ngày hôm nay quả thực đã làm cho chúng ta ngỡ ngàng không ít. Thực vậy, Chúa Giêsu đã chịu phép rửa nơi một kẻ tội lỗi, trong khi Ngài là người con yêu dấu của Chúa Cha và chính Ngài cũng đã có lần tuyên bố: Ai trong các ngươi bắt lỗi Ta được về sự gì? Thế nhưng, Chúa Giêsu lại là Đấng chuộc tội thiên hạ như có lần Gioan đã giới thiệu: Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá tội trần gian. Ngài xoá tội trần gian bằng cách gánh lấy tội ấy.

Hành động chịu phép rửa phải chăng là một sự mở đầu cho sứ vụ của Ngài, đồng thời cũng là một dấu chỉ báo hiệu những gì sẽ xảy đến.

Có một lần, các con của Giêbêđê, bày tỏ ước vọng với Ngài là muốn được ngồi bên tả bên hữu Ngài. Và Chúa Giêsu đã trả lời các ông: Các con không ý thức được điều các con xin. Các con có thể uống được chén Ta phải uống và chịu thanh tẩy, thứ thanh tẩy mà Ta phải chịu hay không?

Như thế là còn một cuộc thanh tẩy khác nữa đang chờ đợi Chúa Giêsu. Cuộc thanh tẩy ấy chính là cuộc thống khổ, kết thúc bằng cái chết trên thập giá. Cuộc thanh tẩy ấy được thực hiện không phải chỉ bằng nước sông Giođan và từ tay của Gioan, mà là bằng máu của chính Ngài. Chúa Giêsu chịu thanh tẩy tại sông Giođan là hình ảnh của nhân loại được thanh tẩy trong cái chết của Ngài, được sống lại trong sự phục sinh của Ngài và trở thành những người con của Thiên Chúa.

Nơi Đức Kitô, phép rửa hay phép thanh tẩy đã không còn là một nghi lễ, mà đã trở thành một cuộc sống. Tội lỗi đã bị đánh bại không phải bằng nước của phép rửa mà là bằng máu của sự sống. Bí tích thanh tẩy làm cho Kitô hữu trở thành con Thiên Chúa cũng không thể chỉ là một nghi lễ được lãnh một lần rồi thôi, mà phải là chính cuộc sống làm con Thiên Chúa, cuộc sống từ bỏ và đẩy lui mọi tội lỗi. Không phải chỉ là đẩy lui tội lỗi ra khỏi cuộc sống của cá nhân mình, mà còn là ra khỏi nhân loại.

Vì thế, thờ ơ trước những tội ác diễn ra chung quanh, trước những bất công xã hội, trước những vi phạm quyền con người, trước những gian dối và thù hận, người Kitô hữu không còn là người Kitô hữu đích thật nữa vì đã không chu toàn lời cam kết khi lãnh nhận bí tích Rửa tội. Chính qua cuộc sống dứt khoát với tội lỗi mà người Kitô hữu bày tỏ được ý thức của mình về địa vị cao cả mà bí tích Rửa tội đã đem lại, đồng thời làm chứng về tình thương của Thiên Chúa đối với con người. Người Kitô hữu có trách nhiệm phải làm sao để tiếng từ trời cũng được lặp lại với từng người trong nhân loại: Này là con Ta yêu dấu dấu, đẹp lòng Ta mọi đàng.

Chúa chịu phép rửa

Chúa chịu phép rửa

Một hiện tượng đáng lo ngại cho Giáo Hội tại Áo bên Âu châu, đó là sự kiện con số những người tuyên bố rút tên khỏi Giáo Hội Công giáo ngày càng gia tăng. Dĩ nhiên về nghĩa vụ, rút tên ra khỏi Giáo Hội có nghĩa là mỗi năm không còn phải đóng thuế tôn giáo nữa. Về quyền lợi, người tuyên bố rút tên ra khỏi Giáo Hội cũng sẽ tự rút phép thông công, nghĩa là chấm dứt mọi tham gia vào cac bí tích và đời sống của Giáo Hội. Nói cách khác, rút tên ra khỏi Giáo Hội cũng đồng nghỉa chối bỏ mọi cam kết khi chịu phép rửa tội.

Nói chung, thế giới phương tây vốn được mệnh danh là Kitô giáo, hiện nay đã trở thành một vùng truyền giáo mới. Thật thế,trong những nước có con số người theo Kitô giáo, phép rửa thường chỉ còn là một nghi thức xã hội không hơn không kém. Người ta chỉ có lý khi nói rằng, suốt một đời nhiều người tây phương chỉ đến nhà thờ có ba lần, lần đầu khi chịu phép rửa để gia nhập vào một xã hội vốn được mệnh danh là Kitô giáo. Lần thứ hai để cử hành hôn phối cho long trọng. Lần thứ ba cũng là để cử hành tang lễ cho long trọng.

Khi Giáo Hội chỉ được mời để có mặt ba lần như thế trong cả một đời người, thì quả thật người ta chỉ mang danh hiệu Kitô nhưng không sống trọn những cam kết của phép rửa. Hôm nay kỷ niệm Chúa Giêsu chịu phép rửa, Giáo Hội muốn mời gọi các Kitô hữu hãy đào sâu và ý thức về những cam kết khi chịu phép rửa tội. Trái với lối sống đạo cả đời đến nhà thờ chỉ có ba lần của người Tây phương, các tín hữu Kitô Việt Nam chúng ta lại tập trung đời sống đạo vào nhà thờ. Trái với những nhà thờ hầu như trống rỗng tại Tây phương, các nhà thờ Việt Nam chúng ta hầu như lúc nào cũng đông nghẹt người. Tuy nhiên, biết đâu những đêm đông chật ních trong các nhà thờ ấy lại không là những con người có lối sống hoàn toàn xa lạ, hay ngược lại với giáo huấn của Giáo Hội và Tin mừng của Chúa Giêsu Kitô. Biết đâu đám đông sốt sắng sống cầu kinh ra rả trong nhà thờ ấy lại chẳng là những con người không hề biết đến thế nào là công bình, là bác ái, là tình liên đới, là quảng đại, sợ chia sẻ lòng cảm thông và sợ tha thứ. Nói tắt một lời, nếu chúng ta chưa sống cho ra người thì sự hiện diện đông đảo trong nhà thờ, những lời cầu kinh ra rả, hay những cuộc biểu dương long trọng chưa hẳn đã là thể hiện đích thực của lòng tin.

Khi đến nhận phép rửa của Gioan tại sông Jordan, nghĩa là khi đến dìm mình trong dòng nước, Chúa Giêsu đã muốn thể hiện trọn vẹn ý nghĩa của mầu nhiệm Nhập thể, Ngài muốn sống trọn thân phận con người mà thành phần tất yếu là cái chết. Qua cử chỉ này, Chúa Giêsu muốn nói lên sự vâng phục trọn vẹn với Chúa Cha, Ngài đón nhận cái chết như thể hiện tận cùng của tình yêu.

Sống như một con người như Chúa Giêsu đã từng sống, chính là sống yêu thương và yêu thương đến độ sẵn sàng thí ban mạng sống mình. Đức Chúa Cha đã gọi Đức Chúa Giêsu là Người Con chí ái đẹp lòng Ngài mọi đàng, bởi vì Chúa Giêsu đã sống trọn ơn gọi làm người của Ngài. Đây chính là ý nghĩa của phép rửa mà Chúa Giêsu đã thiết lập và ủy thác cho Giáo Hội qua phép rửa ấy. Người tín hữu Kitô được mời gọi để sống trọn thân phận làm người như chính Chúa Giêsu đã từng sống. Thật thế, chỉ trong Chúa Giêsu, chúng ta mới thấy được thập giá và ơn gọi cao cả của con người. Chỉ trong Chúa Giêsu chúng ta mới thấy được thế nào là sống cho ra người. Chỉ trong Chúa Giêsu chúng ta mới hiểu thế nào là sống yêu thương.

Thập giá vừa là biểu hiện cái chết của Chúa Giêsu, vừa là dấu chứng tình yêu của Ngài. Với phép rửa chúng ta được ghi dấu thánh giá trên người, chúng ta làm dấu thánh giá mỗi ngày và biết bao nhiêu lần trong cuộc sống chúng ta. Chúng ta treo thánh giá khắp mọi nơi, chúng ta đeo thánh giá trên người, và ước gì thánh giá ấy không chỉ là thứ trang sức trên ngực, trên cổ hay trên tai của chúng ta, mà phải là một nhắc nhở về tình yêu của Đấng đã yêu thương chúng ta đến độ thí ban mạng sống của Ngài cho chúng ta. Ước gì thánh giá luôn là động lực thúc đẩy chúng ta ngày càng sống cho ra người hơn.

Nguyện xin các thánh Tử đạo Việt Nam, những người đã thà chết hơn là bước qua thánh giá để chối bỏ Chúa Giêsu, nay nguyện giúp cho chúng ta để chúng ta được luôn luôn trung thành với đức tin, thể hiện đức tin ấy bằng cuộc sống chứng tá, đó là giá trị của Tin mừng.

Kinh truyền tin trưa Chúa nhật 04/01/2015: Hãy kiến tạo bình an!

Kinh truyền tin trưa Chúa nhật 04/01/2015: Hãy kiến tạo bình an!

Trưa ngày Chúa Nhật 04/01/2015, như thường lệ, ĐTC đã đọc kinh Truyền Tin vào lúc 12h trưa trước sự hiện diện của vài chục ngàn khách hành hương tại quảng trường Thánh Phêrô. Trong bài giảng, Ngài nhắn nhủ mọi người hãy kiến tạo bình an trong mọi hoàn cảnh mình đối diện.

Sau đây là bài giảng của ĐTC, ngài nói:

“Kính chào tất cả anh chị em,

Tin Mừng Thánh Gioan chúng ta đã đọc hôm nay nói rằng : “Ánh sáng chiếu soi bóng tối, và bóng tối đã không diệt được ánh sáng”. Nhiều người nói rất nhiều về bình an, nhưng họ thường ưa thích sự yên bình giả tạo của bóng tối. Chúng ta cũng nói nhiều về bình an, nhưng lại cậy nhờ đến chiến tranh và chọn lựa thái độ câm lặng mang tính đồng lõa hoặc chẳng làm gì cụ thể để kiến tạo bình an. Cõi lòng con người có thể khước từ ánh sáng và ưa thích bóng tối hơn, bởi vì ánh sáng phơi bày các hành vi xấu xa của con người. Ai làm điều xấu xa, người ấy căm ghét ánh sáng! Ai làm điều xấu xa, người ấy căm ghét hòa bình!

Ít ngày trước, chúng ta đã khởi đầu năm mới nhân danh Mẹ Thiên Chúa, với việc cử hành Ngày Hòa Bình Thế Giới với chủ đề “Không còn là nô lệ, nhưng là anh em”. Mong ước của tôi là người ta dẹp bỏ được sự bóc lột giữa người với người. Sự bóc lột này là một nỗi thương tâm xã hội vốn xỉ nhục những tương quan liên vị và ngăn cản một cuộc chung sống được ghi dấu ấn bởi sự tôn trọng, công bình và bác ái. Mọi người và mọi dân nước đều đói và khát bình an; vì thế kiến tạo bình an thì cần thiết và khẩn cấp biết bao!

Bình an không chỉ là vắng bóng chiến tranh, nhưng là một tình trạng phổ quát trong đó nhân loại sống hòa hợp với chính bản thân mình, sống hòa hợp với thiên nhiên và hòa hợp với tha nhân. Đấy mới là bình an. Tuy nhiên, dập tắt tiếng vũ khí và dẹp bỏ những mầm mống của chiến tranh vẫn còn là điều kiện bất khả nhượng để tạo ra khởi đầu của hành trình vươn tới hòa bình trong những chiều kích khác nhau của hành trình ấy. Tôi nghĩ đến những xung đột đã làm đổ máu nhiều vùng trên khắp hành tinh, đến những căng thẳng trong các gia đình và trong các cộng đoàn: vì trong biết bao gia đình, biết bao cộng đoàn, ngay cả các giáo xứ vẫn đang có chiến tranh! Thậm chí cả những xung đột nảy sinh trong những thành phố của chúng ta và những đất nước của chúng ta giữa những nhóm khác biệt về nguồn gốc văn hóa, chủng tộc và tôn giáo. Chúng ta phải thuyết phục chính mình, bất kể mọi mâu thuẫn hiển hiện, rằng sự hòa hợp luôn hoàn toàn khả thi ở mọi cấp độ cũng như mọi hoàn cảnh. Sẽ chẳng có tương lai nếu thiếu vắng ý định và dự phóng cho bình an! Thiếu vắng bình an sẽ chẳng có tương lai!

ĐTC nói tiếp rằng:”Bình an đã được loan báo, như thể ân ban đặc biệt của Thiên Chúa, trong ngày giáng sinh của Đấng Cứu Thế: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho người Chúa thương” (Lc 2, 14). Ân ban này đòi hỏi phải được khẩn nài liên lỉ trong cầu nguyện. Chúng ta phải nhớ rằng: “Gốc rễ của bình an là cầu nguyện”. Ân ban này phải được khẩn xin và phải được đón nhận mỗi ngày cùng với nghĩa vụ trong những trạng huống mà chúng ta gặp phải. Ngay những buổi đầu của năm mới này, tất cả chúng ta được kêu gọi để tái nhen nhúm lên trong con tim một động lực của hy vọng vốn phải được thể hiện ra nơi những hành vi cụ thể của bình an.

Mỗi người chúng ta phải thực thi những cử chỉ của tình huynh đệ tương xứng với đồng loại, đặc biệt là những ai đang trải nghiệm những căng thẳng trong gia đình hay những sự bất hòa thuộc các loại khác nhau. Những cử chỉ nhỏ bé này rất có giá trị: chúng có thể là hạt mầm trao ban hy vọng, chúng có thể mở ra những lối nẻo và viễn tượng của bình an.

Giờ đây, chúng ta hãy khẩn cầu Đức Maria, Nữ Vương Hòa Bình. Trong suốt cuộc đời mình, Mẹ đã gặp phải không ít những khó khăn trói buộc Mẹ như khó nhọc hằng ngày của hành trình hiện hữu. Nhưng Mẹ chưa bao giờ đánh mất bình an trong tâm hồn, là hoa trái của sự phó thác đầy tin tưởng vào lòng thương xót của Thiên Chúa. Chúng ta hãy khẩn nài Đức Mẹ, là Mẹ âu yếm của chúng ta, soi dẫn cho toàn thế giới con đường đảm bảo trong tình yêu và bình an.”

Sau kinh Truyền Tin, Đức Thánh Cha cũng đã gửi lời chào tất cả khách hành hương đến từ I-ta-li-a và khắp mọi nơi trên thế giới. Đặc biệt trong dịp này, ĐTC Phanxicô tuyên bố bổ nhiệm 15 Hồng Y mới vào ngày 14-2-2015, trong đó có Đức Cha Phêrô Nguyễn Văn Nhơn, TGM giáo phận Hà Nội. ĐTC nói: “Như đã loan báo, ngày 14-2 tới đây tôi sẽ vui mừng nhóm Công nghị Hồng Y, trong đó tôi sẽ bổ nhiệm 15 Hồng Y mới, đến từ 14 quốc gia thuộc mọi đại lục, biểu lộ mối liên hệ không thể tách rời giữa Giáo hội Roma và các Giáo Hội địa phương trên thế giới. Chúa nhật 15-2, tôi sẽ chủ sự thánh lễ đồng tế trọng thể với các Hồng Y mới, trước đó ngày 12 và 13-2, tôi sẽ nhóm Công nghị với tất cả các Hồng Y để suy tư về những hướng đi và đề nghị cải tổ giáo triều Roma.”

Trước khi kết thúc buổi đọc kinh, ĐTC không quên nhắn nhủ mọi người nhớ cầu nguyện cho Ngài và các vị tân Tân Hồng Y cách đặc biệt.

Jos. Nguyễn Huy Mai
 

Gặp được Chúa Cứu Thế

Gặp được Chúa Cứu Thế

(Trích trong ‘Suy Niệm Phúc Âm Hằng Ngày’)

Hôm nay chúng ta mừng lễ ba Vua, tức lễ Hiển Linh. Dựa vào Thánh Kinh và Thánh Truyền kể lại việc tìm kiếm Chúa của Ba Vua từ Phương Đông miền đất Palestina, theo sự hướng dẫn của một vì sao lạ. Các ngài đã khám phá ra dấu lạ, rủ nhau lần mò dò dẫm tìm đến Bethlem, và cuối cùng sau cuộc lộ trình đường xa nhiều gian khổ và nguy nan, các ngài đã gặp được Chúa Cứu Thế.

Như ngày lễ Giáng Sinh, lễ Hiển Linh biểu lộ một niềm vui, đó là những hình ảnh, những gói quà, lạc đà, Ba Vua, ngôi sao, nhưng còn vui hơn vì ý nghĩa quan trọng chứa đựng trong ngày lễ này, đó là việc Chúa tỏ mình ra cho các dân, các nước. Ngài là Vua các vua và mọi dân tộc khắp bờ cõi trái đất đều phải tôn thờ Ngài.

Nơi bài đọc I, Giáo hội dùng bài ca trở về của dân Do Thái nơi sách tiên tri Isaia để diễn tả niềm vui của người được cứu thoát khi vinh quang của Chúa bừng dậy. Một số những người nô lệ ở Babylon thuộc dân Do Thái nghĩ mình đang sống trong đêm tối, họ mất hết niềm vui, không còn hứng thú gì để đàn ca xướng hát. Họ đặt những nhạc khí, họ treo những cây đàn nơi gốc cây, nơi cành cây dọc bên bờ sông Babylon, và nơi bờ sông họ ngồi khóc nhớ Sion, nhớ về Thành Thánh Jérusalem.

Nhưng vui mừng biết bao ngày cứu thoát đến, ngày trở về quê hương, ngày được gặp lại Jérusalem, được lên đền thờ dâng lễ tạ ơn Chúa. Và điều đặc biệt là ánh sáng bừng lên ở Jérusalem. Đây không phải là ánh sáng của trần gian mà là ánh sáng của chính Thiên Chúa. Thiên Chúa là ánh sáng và khi Chúa là ánh sáng thì Ngài không phải chỉ là ánh sáng của Israel mà thôi nhưng Ngài còn là ánh sáng của muôn dân, muôn nước. Từ đó những kho tàng bể khơi tuốn đến Jérusalem, nguồn phú túc của chư dân sẽ tới Jérusalem. Tất cả muôn người lũ lượt từ các nơi tuôn đến Jérusalem. miệng cao rao những lời ngợi khen Thiên Chúa.

Nếu bài đọc I trình bày một hình ảnh vui tươi của Jérusalem ngày đại lễ, ngày muôn dân tiến đến trong huy hoàng rực rỡ sang trọng, thì nơi bài đọc II thánh Phaolô đưa hình ảnh ấy lên hàng siêu nhiên. Nơi bài I sự giàu sang phú quí từ các nơi được đưa về để tung hô Chúa, thì nơi bài đọc II đáp lại ân sủng Chúa ban phát dư tràn cho mọi người qua các tông đồ, các tiên tri, nhờ Chúa Thánh Thần thánh hóa. Nhờ lòng thương xót bao la ấy của Thiên Chúa, tất cả dân tộc trên mặt đất đều trở nên người thừa tự, trở nên người cùng một thân thể và thông phần với lời hứa của Thiên Chúa trong Chúa Giêsu Kitô.

Nhìn chung cả hai bài đọc đều diễn tả tình yêu thương hài hòa giữa Thiên Chúa và con người với nhau. Con người một lòng một dạ nhìn nhận Thiên Chúa là Vua. Chúa ban ơn cho con người, nhất là ơn được làm nghĩa tử trong Đức Giêsu Kitô, không phân biệt ai cả.

Bài Phúc Âm diễn tả rõ ràng hơn, cụ thể hơn và sinh động hơn trước mắt ta cuộc tìm kiếm Chúa, rồi được Chúa giúp đỡ ban ơn hướng dẫn. Con người không ngại gian lao cực nhọc và cuối cùng gặp được Chúa. Con người quì gối sụp lạy và dâng lễ vật cho Ngài. Xong trở nên con người mới, đi con đường khác, trở nên với đời sống hằng ngày của mình.

Dựa vào đoạn Phúc Âm duy nhất của thánh Matthêu diễn tả cuộc viếng thăm kỳ diệu này, người ta hay trưng bày vao hang đá trong ngày lễ Hiển Linh ba vị vua. Thật ra, không có chỗ nào nói đó là các vị vua, cũng không có chỗ nào cho biết con số của họ là bao nhiêu. Nhưng truyền thống gọi là ba, vì dựa vào ba lễ vật thánh Matthêu kể ra: vàng, nhũ hương và mộc dược.

Về tên của ba vua là: Kalbar, Manthior và Bankasa, nhưng đến thế kỷ IX người ta mới đề cập đến. Thật ra, tất cả những chi tiết nhỏ này không có nền tảng trong Kinh Thánh và ngôi sao lạ hiện vẫn còn là đối tượng của những giải thích khác nhau. Dầu vậy những điểm chính đã dễ cho chúng ta suy niệm đó là những con người đến từ những xứ xa xôi để tìm vị Vua Do Thái mới sinh ra và khi gặp được Ngài, họ quì gối xuống sụp lạy Ngài.

Hình ảnh ấy cho chúng ta thấy mãi mãi bao lâu Phúc Âm còn rao giảng đều luôn luôn có những đạo sĩ, đó là những người tìm kiếm Chúa bằng cách này hay bằng cách khác. Và khi đã gặp được Chúa, thì thành tâm thực lòng thờ lạy Chúa, nhìn nhận Người là Vua, là Chúa của mình, của đời sống mình, của gia đình mình và cuối cùng là của toàn thể nhân loại.

Cùng với Ba Vua bên máng cỏ, chúng ta hãy tôn thờ uy quyền tối cao của Hài Nhi Giêsu và xin cho chúng ta luôn nhạy cảm đối với những cảm hứng khích lệ của quyền năng Chúa trong tâm hồn mình.

Để có việc làm cụ thể, trong tuần này tôi hình dung ra những tác động của Ba Vua trên con đường tìm Chúa. Đó là để tâm, để ý tìm hiểu sự kiện. Dám chấp nhận dấn thân quyết chí tìm gặp cho được Chúa. Khi gặp được Người thì phủ phục tôn thờ và dâng lễ vật. Rồi sau cùng, từ bỏ con đường cũ, đi theo con đường mới, con đường của tin yêu và hy vọng, con đường của sự sống bất diệt trên thiên quốc.

Veritas Radio

Ánh sao đạo đức

 Ánh sao đạo đức

Hôm nay, Ba Vua trên đường tìm đến thờ lạy Chúa Cứu Thế Giáng Sinh. Ba Vua là những người phương xa, không có đạo. Các Ngài tìm đến Chúa theo ánh sáng của ngôi sao lạ. Theo ngôi sao, các Ngài đến được Giêrusalem và được nghe giải nghĩa Thánh Kinh. Theo ngôi sao đưa đường dẫn lối các Ngài đã gặp được Chúa. Ánh sao đã chiếu sáng bầu trời đen tối, giúp các Ngài nhận định được hướng đi. Lời Thánh Kinh là một ánh sao chiếu soi tâm hồn giúp họ sáng lên niềm tin. Nhưng chính Đức Giêsu mới là ngôi sao mai dẫn họ đi vào một con đường mới, con đường chói ngời ngọn lửa đức mến.

Ngày nay có nhiều người đang tìm kiếm Chúa. Nhiều người muốn biết Chúa để theo Chúa. Nhưng họ không biết đường biết hướng. Cũng như Ba Vua, họ cần có những ánh sao soi đường dẫn lối.

Tìm đâu ra ngôi sao xưa đã soi đường cho Ba Vua? Ngày nay, Chúa không dùng ngôi sao xuất hiện trên trời, nhưng muốn mỗi người chúng ta trở thành một vì sao soi dẫn mọi người đến với Chúa.

Là ngôi sao có nghĩa là phải có ánh sáng. Ngôi sao chỉ chiếu sáng khi chính bản thân nó có ánh sáng. Người Kitô hữu chỉ chiếu sáng khi chính cuộc sống của họ mang ánh sáng, phản chiếu ánh sáng nhận tự nơi Thiên Chúa.

Người Kitô hữu phải chiếu lên làn ánh sáng hy vọng. Niềm hy vọng vào ơn cứu độ của Chúa giúp ta vừng bước trên đường lý tưởng. Niềm hy vọng vào một trời mới đất mới cho ta thêm sức mạnh góp phần xây dựng xã hội tốt đẹp. Niềm hy vọng vào hạnh phúc thiên đàng giúp ta đánh gía đúng mức của cải vật chất đời này. Hy vọng là ánh sáng làm tươi đẹp con người và cuộc đời.

Người Kitô hữu phải chiếu lên làn ánh sáng tin yêu. Tin yêu Chúa và tin yêu người. Tin yêu để xây dựng một cuộc sống chan hoà tình người. Tin yêu đẻ tha thứ hoà giải. Tin yêu để vượt qua mọi bóng tối thù hận, chia rẽ, bất hoà. Tin yêu là làn ánh sáng ấm áp làm cho thế giới trở nên gần gũi, con người trở nên thân thiện, cuộc đời trở thành đáng yêu đáng mến.

Người Kitô hữu phải chiếu lên làn ánh sáng công bình, bác ái. Niềm hy vọng, niềm tin yêu được chứng minh bằng đời sống công bình, bác ái. Tin Chúa được biểu lộ qua sự công bình trong đời sống. Yêu Chúa được thể hiện qua tình bác ái với tha nhân.

Tất cả những làn ánh sáng nói trên góp lại thành ánh sáng đạo đức. Đắm chìm vào vật chất sẽ khiến con người rơi vào bóng tối tuyệt vọng, không lối thoát. Nghi ngờ con người sẽ khiến cuộc đời chìm vào bóng tối cô đơn. Thiếu công bình bác ái sẽ phủ lên thế giới mới một bóng tối phi nhân, tàn nhẫn. Chỉ có ánh sáng đạo đức mới đủ sức phá tan những bóng tối ấy. Chỉ có ánh sáng đạo đức mới làm cho thế giới thành vui tươi hạnh phúc.

Thế giới đang mong chờ ánh sao dẫn đường. Chúa đang mời gọi chúng ta trở thành một ngôi sao chiếu lên làn ánh sáng đạo đức. Chính qua làn ánh sáng ấy, mọi người sẽ nhận biết và yêu mến Chúa.

Lạy Chúa, xin giúp con sống xứng đáng là người con của Chúa sự sáng. Amen.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1. Bạn nghĩ gì về cuộc tìm kiếm của Ba Vua? Bạn có kiên trì tìm Chúa như Ba Vua không?

2. Bạn nghĩ gì về bổn phận làm chứng cho Chúa? Bạn có mong ước trở thành ngôi sao dẫn đưa mọi người đến với Chúa không?

3. Đâu là những ánh sáng người Kitô hữu phải có để dẫn người khác tới Chúa? Trong năm mới này, bạn sẽ làm gì để làm chứng cho Chúa?

ĐTGM Ngô Quang Kiệt
 

Đức Thánh Cha chủ sự lễ kính Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa

Đức Thánh Cha chủ sự lễ kính Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa

VATICAN. Sáng ngày 1-1-2015, ĐTC Phanxicô đã chủ sự thánh lễ trọng thể tại Đền thờ Thánh Phêrô, kính Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa, cũng là Ngày Hòa bình thế giới lần thứ 48.

Đồng tế với ĐTC có khoảng 30 Hồng Y và hơn 40 GM thuộc các cơ quan trung ương Tòa Thánh và hàng trăm linh mục, trước sự hiện diện của 9 ngàn tín hữu, trong đó có nhiều vị đại sứ các nước.

Tháp tùng ĐTC trên bàn thờ có ĐHY Quốc vụ khanh Tòa Thánh Pietro Parolin, và vị Phụ tá là Đức TGM Angelo Becciu, Đức TGM Dominique Mamberti, ngoại trưởng Tòa Thánh tân chủ tịch Tối cao pháp viện, ĐHY Peter Turkson, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh Công lý hòa bình, và vị Tổng thư ký là Đức Cha Mario Toso, dòng Don Bosco.

Bài giảng của ĐTC

Trong bài giảng thánh lễ, ĐTC quảng diễn mối liên hệ đặc biệt giữa Chúa Giêsu và Mẹ Maria, và từ đó nói đến quan hệ giữa Chúa Kitô và Giáo Hội cũng là Mẹ chúng ta. Ngài nói:

”Khi cử hành lễ trọng kính Đức Maria cực thánh là Mẹ Thiên Chúa, Giáo Hội nhắc nhớ chúng ta rằng Mẹ Maria là người đầu tiên nhận lãnh phúc lành như được nói đến trong bài đọc thứ I trích từ sách Dân Số (Ds 6,24-26). Nơi Mẹ, lời chúc lành được viên mãn: thực vậy, không có thụ tạo nào đã thấy tôn nhan Chúa chiếu tỏa trên mình như Mẹ Maria, Mẹ đã mang khuôn mặt nhân trần cho Ngôi Lời Vĩnh Cửu, để tất cả chúng ta có thể chiêm ngưỡng.

”Ngoài việc chiêm ngưỡng tôn nhan Chúa, chúng ta cũng có thể chúc tụng và tôn vinh Ngài, giống như những người chăn chiên, từ Bêlem trở về, ca hát cảm tạ sau khi đã được thấy Hài Nhi và người Mẹ trẻ của Ngài (Xc Lc 2,16). Hai Đấng ở cùng nhau, như trên Đồi Canvê sau này, vì Chúa Kitô và Mẹ Ngài không thể tách rời nhau: giữa hai vị có một quan hệ rất mật thiết, cũng như giữa mỗi người con và người mẹ. Thân mình Chúa Kitô – là nguyên lý nền tảng ơn cứu độ chúng ta (Tertulliano) – đã được hình thành trong cung lòng Mẹ Maria (Xc Tv 139,13). Sự bất khả phân ly cũng được biểu lộ qua sự kiện Mẹ Maria được tuyển chọn trước để làm Mẹ Đấng Cứu Thế, Mẹ đã chia sẻ trọn vẹn toàn thể sứ mạng của Chúa, ở cạnh Chúa Con cho đến lúc cuối cùng trên đồi Canvê.

Mẹ Maria được liên kết với Chúa Giêsu đến độ nhận được từ nơi Chúa tri thức tâm hồn, tri thức đức tin, được nuôi dưỡng bằng kinh nghiệm hiền mẫu và nhờ mối liên hệ thân mật mới Chúa Con. Đức Thánh Trinh Nữ, là phụ nữ đức tin, đã dành chỗ cho Thiên Chúa trong tâm hồn và trong các dự phóng của Mẹ; Mẹ là người tín hữu có khả năng đón nhận nơi hồng ân Chúa Con biến cố thời gian sung mãn (Gl 4,4), trong đó Thiên Chúa, khi chọn con đường khiêm hạ là cuộc cuộc sống nhân trần, đã đích thân đi vào lịch sử cứu độ. Vì thế ta không thể hiểu được Chúa Giêsu mà không để ý đến Mẹ Ngài.

ĐTC giải thích rằng:
”Chúa Kitô và Giáo Hội cũng không thể tách rời nhau, và ta không thể hiểu ơn cứu độ do Chúa Giêsu mang lại nếu không để ý đến tình mẫu tử của Giáo Hội. Tách rời Chúa Giêsu ra khỏi Giáo Hội là muốn du nhập một sự chia cách vô lý, như chân phước Phaolô 6 đã viết (Xc Evang. nunt. 16). Không thể yêu mến Chúa Kitô mà không yêu mến Giáo Hội, không thể nghe Chúa Kitô mà không nghe Giáo Hội, không thể thuộc về Chúa Kitô mà lại ở ngoài Giáo Hội” (Ib.). Thực vậy chính Giáo Hội, là đại gia đình của Thiên Chúa, đưa Chúa Kitô đến cho chúng ta. Đức tin của chúng ta không phải là một đạo lý trừu tượng hay một triết lý, nhưng là quan hệ sinh động và trọn vẹn với một nhân vật là Chúa Giêsu Kitô, Con duy nhất của Thiên Chúa làm người, chịu chết và sống lại để cứu độ chúng ta và sống giữa chúng ta. Vậy chúng ta có thể gặp Ngài ở đâu? Thưa chúng ta gặp ngài trong Giáo Hội. Chính Giáo Hội nói với chúng ta ngày nay: ”Đây là Chiên Thiên Chúa”, Giáo Hội loan báo Chúa, và chính trong Giáo Hội mà Chúa Giêsu tiếp tục thực hiện những cử chỉ ơn thánh là các bí tích.

”Hoạt động và sứ mạng này của Giáo Hội biểu lộ tình mẫu tử của Giáo Hội. Thực vậy Giáo Hội như một người mẹ dịu dàng gìn giữ Chúa Giêsu và trao Chúa cho tất cả mọi người trong niềm hân hoan và quảng đại. Không có sự biểu lộ nào của Chúa Giêsu, dù là huyền bí nhất, có thể tách rời khỏi mình và máu của Giáo Hội, khỏi đặc tính cụ thể lịch sử của Mình Chúa Kitô. Không có Giáo Hội, thì Chúa Giêsu Kitô rốt cục bị thu hẹp thành một ý tưởng, một nền luân lý, một tình cảm. Không có Giáo Hội, thì tương quan của chúng ta với Chúa Kitô tùy thuộc sự tưởng tượng, những giải thích và tính khí nhất thời của chúng ta.

Và ĐTC kết luận rằng:

”Anh chị em thân mến, Chúa Giêsu Kitô là phúc lành cho mỗi người và toàn thể nhân loại. Giáo Hội, khi ban Chúa Giêsu cho chúng ta, thì cũng trao tặng cho chúng ta phúc lành viên mãn của Chúa. Đây chính là sứ mạng của dân Chúa: sứ mạng chiếu tỏa phúc lành của Thiên Chúa nhập thể trong Chúa Giêsu Kitô trên mọi dân tộc. Và Mẹ Maria, nữ môn đệ đầu tiên và hoàn hảo của Chúa Giêsu, là mẫu gương cho Giáo Hội lữ hành, chính Mẹ mở con đường tình mẫu tử của Giáo Hội và luôn nâng đỡ sứ mạng làm mẹ của Giáo Hội cho tất cả mọi người. Chứng tá âm thầm và từ mẫu của Mẹ đồng hành với Giáo Hội ngay từ đầu. Người là Mẹ Thiên Chúa và là Mẹ Giáo Hội, và nhờ Giáo Hội, là Mẹ của tất cả mọi người và mọi dân tộc.

Xin Mẹ dịu dàng và ân cần giúp chúng ta được phúc lành của Chúa cho toàn thể gia đình nhân loại. Đặc biệt ngày hôm nay, Ngày Hòa Bình thế giới, chúng ta hãy cầu xin sự chuyển cầu của Mẹ, xin Chúa ban hòa bình cho thời đại chúng ta: hòa bình trong các tâm hồn, trong các gia đình, hòa bình giữa các dân nước. Đặc biệt năm nay, Sứ điệp Ngày Hòa bình là ”không còn là nô lệ, nhưng là anh chị em”. Tất cả chúng ta được kêu gọi sống tự do, tất cả được kêu gọi trở thành con cái và mỗi người theo trách nhiệm của mình, chiến đấu chống lại những hình thức mới của nạn nô lệ. Từ mọi dân tộc, văn hóa và tôn giáo, chúng ta hãy hiệp lực. Xin Đấng để làm cho tất cả chúng ta thành anh em, đã trở nên tôi tớ của chúng ta, hướng dẫn và nâng đỡ chúng ta”.

ĐTC cũng mời gọi chiêm ngắm Mẹ Maria và đề nghị mọi người cùng nhau kính chào Mẹ như dân thành Ephêsô can đảm đã hô lên trước các vị mục tự khi các vị vào nhà thờ: ”Mẹ thánh của Thiên Chúa!”. Thật là một lời chào thật đẹp đối với Mẹ chúng ta…

Lời nguyện giáo dân

Trong phần lời nguyện giáo dân, Cộng đoàn đã lần lượt cầu nguyện cho ĐTC và các GM, xin Chúa nâng đỡ các vị trong sứ vụ tông đồ và để với lòng dịu dàng cương quyết, các vị hướng dẫn mọi anh chị em đến gặp gỡ và hiệp thông với Chúa Giêsu; cầu cho các nhà lập pháp và chính quyền, xin Chúa làm cho lòng quí chuộng và tôn trọng sự sống cũng như phẩm giá của mỗi người được tái triển nở, và để không một ai phải chịu tủi nhục, áp bức và bạo lực. Cộng đoàn cũng đặc biệt cầu nguyện cho những người bị bách hại vì đức tin, cho hòa bình trong các gia đình, xin Chúa thánh hóa hôn nhân, chúc lành cho các cha mẹ Công Giáo, soi sáng và tháp tùng hành trình của con cái.

Trong phần dâng lễ, 3 em bé người Đức mặc y phục Ba Vua thuộc chiến dịch Lễ Ba Vua, dâng bánh rượu lên ĐTC.

Kinh Truyền Tin
Thánh lễ kéo dài gần một tiếng rưỡi đồng hồ. Sau đó lúc 12 giờ trưa, ĐTC đã xuất hiện tại cửa sổ ở lầu 3 của dinh Tông Tòa để chủ sự kinh Truyền Tin với 50 ngàn tín hữu tụ tập tại Quảng trường Thánh Phêrô dưới bầu trời nắng đẹp nhưng gió lạnh.

Trong số những người hiện diện đặc biệt có hằng trăm người thuộc đoàn tuần hành hòa bình do Cộng đồng thánh Egidio tổ chức, năm nay có chủ đề là ”Hòa bình trên toàn trái đất”. Đây là lần thứ 13 cuộc tuần hành hòa bình này được tổ chức và năm nay cũng diễn ra tại hơn 800 thành phố tại 82 nước trên thế giới.

Trong cuộc tuần hành từ đầu đường Hòa Giải đến Quảng trường thánh Phêrô, có nhắc đến 27 cuộc xung đột vẫn còn diễn ra tại nhiều miền trên thế giới, như Siria, Trung Phi, Nam Sudan, Trung Đông, Nigeria, Irak, Afganistan, Pakistan..

Trong bài huấn dụ ngắn trước khi đọc kinh, ĐTC cũng nhắc đến sự liên kết mật thiết giữa Chúa Kitô và Mẹ Ngài. ”Không thể tách rời sự chiêm ngắm Chúa Giêsu, Ngôi Lời Sự Sống trở nên hữu hình và có thể đụng chạm đến được (Xc 1 Ga 1,1), ra khỏi sự chiêm ngắm Mẹ Maria Đấng đã trao ban cho Người tình thương và xác thể nhân trần của Mẹ”.

Nhân ngày đầu năm mới, ĐTC cũng nhắc nhở các tín hữu nhớ đến ngày mình chịu phép rửa tội, tái khám phá món quà nhận được trong bí tích này, tái sinh chúng ta vào đời sống mới, sự sống thần linh. Việc tái sinh này qua Mẹ Giáo Hội, có mẫu gương là Mẹ Maria. Nhờ phép rửa, chúng ta được dẫn vào sự hiệp thông với Thiên Chúa và chúng ta không còn tùy thuộc sự ác và tội lỗi nữa. Trái lại chúng ta nhận được tình thương, sự dịu hiền và lòng từ bi của Chúa Cha trên trời.

Nhắc đến Ngày Hòa bình thế giới, ĐTC nhấn mạnh rằng kinh nguyện là cội rễ của hòa bình và hòa bình luôn luôn là điều có thể. Kinh nguyện làm cho hòa bình nẩy mầm. Ngày Hòa bình năm nay có chủ đề là ”không còn là nô lệ nữa, nhưng là anh chị em”. Sứ điệp này có liên hệ tới tất cả chúng ta. Tất cả đều được mời gọi bài trừ mọi hình thức nô lệ và xây dựng tình huynh đệ.

Trong phần chào thăm các tín hữu sau phép lành, ĐTC đến sự kiện Buổi đọc kinh Truyền Tin nhân ngày Hòa Bình thế giới 2015 cũng được nối với đồi Miravalle ở Rovereto thuộc tỉnh Trento, bắc Italia, nơi có quả chuông khổng lồ cao 3 mét 36, đường kính 3 mét 21 và nặng 256 tạ, mang tên là Maria Dolens, Đức Mẹ đau thương, đúc cách đây 90 năm và được ĐGH Phaolô 6 làm phép cách đây 50 năm (1965). Chuông thường được đánh lên để tưởng niệm tất cả các những binh sĩ tử trận trong mọi cuộc chiến, đặc biệt là thế chiến thứ I.

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio
 

Đức Thánh Cha chủ sự kinh Truyền Tin lễ thánh Stephano

Đức Thánh Cha chủ sự kinh Truyền Tin lễ thánh Stephano

VATICAN. Trong buổi đọc kinh Truyền Tin lễ thánh Stephano tử đạo trưa ngày 26-12-2014, ĐTC mời gọi các tín hữu cầu nguyện cho tự do tôn giáo được củng cố ở mọi nơi trên thế giới nhờ sự hy sinh của các vị tử đạo ngày nay.

Trong bài huấn dụ ngắn trước khi đọc kinh, với sự tham dự của 20 ngàn người, ĐTC nhận xét rằng qua sự tử đạo, thánh Stephano tôn vinh cuộc giáng lâm của Vua các vua trong trần thế, dâng hiến Chúa chính mạng sống của mình, và chỉ cho chúng ta cách sống trọn vẹn mầu nhiệm Giáng Sinh.

ĐTC nhắc đến sự kiện trong bài Phúc Âm ngày lễ hôm nay có câu Chúa nói: ”Các con sẽ bị mọi người ghét bỏ vì danh Thầy. Nhưng ai bền đỗ đến cùng sẽ được cứu thoát” (Mt 10,22). Những lời này của Chúa không làm xáo trộn việc cử hành lễ Giáng Sinh, nhưng thanh tẩy việc cử hành lễ này khỏi những lớp bọc đường giả tạo không thuộc về ngày lễ. Lời Chúa giúp chúng ta hiểu rằng trong những thử thách chấp nhận vì đức tin, bạo lực bị tình yêu đánh bại, sự sống chiến thắng sự chết.”

ĐTC giải thích rằng ”Để thực sự đón nhận Chúa Giêsu trong cuộc sống của mình và kéo dài niềm vui đêm Giáng Sinh, con đường phải theo chính là con đường mà Phúc Âm hôm nay chỉ dẫn, đó là làm chứng cho Chúa Giêsu trong sự khiêm tốn, trong việc phục vụ âm thần, không sợ đi ngược dòng và trả giá bằng chính mạng sống mình. Tuy không phải mọi người đều được kêu gọi đổ máu như thánh Stephano, nhưng mỗi Kitô hữu đều được kêu gọi sống phù hợp với đức tin mình tuyên xưng trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống. Theo Tin Mừng chắc chắn là con đường khó khăn, nhưng ai trung thành và can đảm bước theo con đường ấy, thì được hồng ân Chúa đã hứa cho những người nam nữ thiện chí”.

ĐTC mời gọi các tín hữu đặc biệt cầu nguyện cho những người đang bị kỳ thị, bị bách hại và bị giết vì làm chứng cho Chúa Kitô: ”Tôi muốn nói với mỗi người trong số họ: nếu anh chị em vác thập giá này với lòng yêu mến, thì anh chị em sẽ được bước vào mầu nhiệm Giáng Sinh, anh chị em ở trong con tim của Chúa Kitô và Giáo Hội.. Ngoài ra chúng ta cũng hãy cầu nguyện để nhờ sự hy sinh của các vị tử đạo ngày nay, các vị rất đông đảo, khắp nơi trên thế giới có sự gia tăng nỗ lực nhìn nhận và bảo đảm tự do tôn giáo một cách cụ thể, đây là một quyền bất khả nhượng của mỗi người”.

Sau phép lành, ĐTC đã chào thăm và cầu chúc an bình cho các gia đình, các cộng đoàn giáo xứ và dòng tu, các phong trào và hội đoàn. Ngài cũng nói:

”Trong những tuần qua, tôi đã nhận được rầt nhiều thư chúc mừng từ Roma, Italia, va các nơi khác trên thế giới. Vì không thể trả lời cho mỗi người, hôm nay tôi bày tỏ lòng biết ơn chân thành với tất cả, nhất là vì những lời cầu nguyện cho tôi. Tôi thành tâm cám ơn và xin Chúa quảng đại trả công cho anh chị em”. (SD 26-12-2014)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio
 

Đức Thánh Cha chủ sự Thánh Lễ Vọng Giáng Sinh

Đức Thánh Cha chủ sự Thánh Lễ Vọng Giáng Sinh

VATICAN. Lúc 9 giờ rưỡi tối ngày 24-12-2014, ĐTC Phanxicô đã cử hành thánh lễ vọng Giáng Sinh. Ngài mời gọi các tín hữu đón nhận sự dịu dàng của Thiên Chúa và biểu lộ đức tính này trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống.

Đồng tế với ĐTC có các HY, GM và đông đảo các linh mục, trước sự hiện diện của 9 ngàn tín hữu tại Đền thờ Thánh Phêrô.

Đầu thánh lễ, ĐTC đã đặt tượng ảnh Chúa Hài Đồng Giêsu vào trong máng cỏ, ở trên ngai nhỏ trước bàn thờ chính. Gần bàn thờ có đặt một tượng bằng gỗ nhiều mầu hình Đức Mẹ đang ẵm Chúa Hài Nhi. 10 em bé trong y phục cổ truyền đã đặt các bó hoa cạnh ảnh tượng Chúa Hài Đồng. Các em được chọn từ những nước vừa được hoặc sắp được ĐTC viếng thăm như Italia, Âu Châu, Hàn quốc và Philippines.

Cạnh máng cỏ ở trước Bàn thờ Tuyên Xưng đức tin, có một ngai nhỏ trên đó có đặt một giá sách Tin Mừng đã được dùng trong Công Đồng chung Vatican I và Vatican II.

Khi bài ca Vinh Danh được xướng lên, tất cả các chuông của Đại Vương cung Thánh đường được đánh lên cùng với đàn phong cầm.

Bài giảng của ĐTC

Trong bài giảng thánh lễ, ĐTC đã quảng diễn mầu nhiệm Thiên Chúa giáng sinh như ánh sáng đến phá tan bóng đêm bao phủ trần thế, bóng tối được biểu lộ qua các tội ác, bạo lực chiến tranh, oán thù, đàn áp thống trị. Ngài nói:

”Qua dòng lịch sử, ánh sáng phá tan bóng đen tỏ cho chúng ta thấy Thiên Chúa là Cha và lòng trung tín kiên nhẫn của Chúa mạnh mẽ hơn đen tối và hư hỏng. Sứ điệp của đêm giáng sinh này là Thiên Chúa không có những cơn thịnh nộ và thiếu kiên nhẫn, trái lại Chúa luôn ở đó như người cha trong dụ ngôn người con trai hoang đàng, chờ đợi được thấy bóng người con hư hỏng từ xa xa trở về”.

Trong bối cảnh trên đây ĐTC mời gọi các tín hữu, khi ngắm nhìn Chúa Hài Đồng sinh ra trong máng cỏ, hãy suy tư, tự xét xem mình đón nhận sự dịu hiền của Thiên Chúa như thế nào? Ta có để cho Chúa ôm lấy hay là ngăn cản Chúa đến gần? Chúng ta có thể vặn lại ”Nhưng tôi đang tìm Chúa đấy chứ”. Tuy nhiên, điều quan trọng nhất không phải là tìm kiếm Chúa, đứng hơn, là để cho Chúa tìm ta và âu yếm vuốt ve chúng ta. Đây là câu hỏi mà Hài Nhi đặt ra cho chúng ta nguyên bằng sự hiện diện của Ngài: Tôi có thể cho Thiên Chúa yêu thương tôi hay không?”

Và ”chúng ta có can đảm dịu dàng đón nhận những hoàn cảnh khó khăn và những vấn đề của những người bên cạnh, hay chúng ta thích những giải pháp lạnh lùng, tuy hữu hiệu nhưng thiếu hơi ấm của Tin Mừng? Thế giới ngày nay đang cần sự dịu dàng dường nào!”

Và ĐTC kết luận rằng ”Câu trả lời của Kitô hữu không thể khác câu trả lời của Thiên Chúa dành cho sự bé mọn của chúng ta. Cần đương đầu với cuộc sống với lòng từ nhân và dịu dàng. Khi chúng ta ý thức rằng Thiên Chúa yêu mến sự bé nhỏ của ta, chính Chúa trở nên bé nhỏ để dễ gặp gỡ chúng ta hơn, thì chúng ta không thể không mở rộng tâm hồn chúng ta và cầu khẩn Người: ”Lạy Chúa, xin giúp con được nên giống Chúa, xin ban cho con ơn dịu dàng trong những hoàn cảnh cam go nhất của cuộc sống, xin ban cho con ơn gần gũi tha nhân trước mọi nhu cầu khó khăn, ơn dịu dàng trong bất kỳ cuộc xung đột nào”.

Trong phần lời nguyện giáo dân bằng các thứ tiếng Bồ đào nha, Arập, Pháp, Trung Hoa, và Đức, cộng đoàn đã lần lượt cầu cho Giáo Hội, cho việc truyền bá Tin Mừng, nâng đỡ các thừa sai, những người bị tội lỗi và lo âu đè nén, cho những người đau khổ và mọi dân tộc trên thế giới.

Trong phần dâng lễ vật, để nhắc nhớ đề tài Thượng HĐGM về gia đình và Đại hội các gia đình thế giới vào tháng 9 năm tới tại Philedelphia, Hoa Kỳ, hai gia đình với con cái đã được chọn để dâng bánh rượu lên ĐTC.

Sau khi ban phép lành cuối thánh lễ, ĐTC đã bồng tượng Chúa Hài Đồng Giêsu đi rước tới hang đá tại nhà nguyện có giếng rửa tội. (SD 24-12-2014)

G. Trần Đức Anh OP  – Vatican Radio

Thăng tiến một sự phát triển kinh tế biết tôn trọng phẩm giá của mọi người và mọi dân tộc

Thăng tiến một sự phát triển kinh tế biết tôn trọng phẩm giá của mọi người và mọi dân tộc

Trong tháng giêng năm 2015 tới đây Đúc Thánh Cha Phanxicô mời gọi chúng ta cầu xin cho việc thăng tiến một sự phát triển kinh tế biết tôn trọng phẩm giá của mọi người và của mọi dân tộc.

Khi duyệt xét nhiều lãnh vực cuộc sống con người trên thế giới, chúng ta phải thừa nhận các tiến bộ kỹ thuật cũng như các cơ cấu xã hội đạt được cho phép con ngưòi có một cuộc sống khỏe mạnh hơn, an ninh hơn và trường thọ hơn.
Nhưng các tin tức đó thường chỉ liên quan tới các nước kỹ nghệ giầu, trong khi tại nhiều quốc gia nghèo khác người dân không có đủ lương thực, an ninh và sức khỏe, vì có rất nhiều người chết vì đói khát và bệnh tật. Đây là lý do tại sao hàng năm trong “Ngày lương thực thế giới” các Giáo Hoàng thường nhắc lại cùng các vấn đề, cùng các tham vọng và lời van xin các chính quyền, các tổ chức trên thế giới coi nhân phẩm của từng người là ưu tiên tuyệt đối trong mọi hoạt động.

Ngày 16 tháng 5 năm 2013 trong buổi tiếp tân đại sứ các nước Kirghizistan, Antigua-et-Barbuda, Luxembourg và Botswana cạnh Tòa Thánh, Đức Thánh Cha Phanxicô ghi nhận các tiến bộ đáng ca ngọi trong các lãnh vực y tế, giáo dục, và truyền thông. Nhưng ngài cũng nhận xét rằng có biết bao nhiêu người trong thời đại này còn đang phải sống trong cảnh tạm bợ thường ngày với các hậu qủa đáng buồn. Một số bệnh tật gia tăng với các hậu quả tâm thần; sợ hãi và tuyệt vọng xâm chiếm con tim của nhiều người ngay trong các nước giầu; niềm vui sống thuyên giảm; sỗ sàng và bạo lực lan tràn; và nghèo túng càng gia tăng hơn nữa. Phải tranh đấu để sống và sống một cách xứng đáng hơn. Một trong những lý do của tình trạng này là nơi tương quan của chúng ta với tiền bạc và việc chúng ta chấp nhận sự thống trị của nó trên con người và trên các xã hội của chúng ta. Như thế cuộc khủng hoảng mà chúng ta đang trải qua khiến cho chúng ta quên đi nguồn gốc đầu tiên của nó là cuộc khủng hoảng nhân chủng sâu rộng. Là việc khước từ quyền tối thượng của con người. Người ta đã tạo ra các thần tượng mới. Việc tôn thờ con bò vàng xưa kia giờ đây đã tìm ra một gương mặt mới và tàn nhẫn của việc tôn thờ tiền bạc và trong sự độc tài của kinh tế không gương mặt, cũng không có mục đích thật sự nhân bản.

Cuộc khủng hoảng quốc tế trong các lãnh vực tài chánh và kinh tế xem ra đưa ra ánh sáng các méo mó lệch lạc và nhất là sự yếu kém to lớn trong định hướng nhân chủng học của chúng, giản lược con người vào một nhu cầu duy nhất trong các nhu cầu của nó: đó là tiêu thụ. Tệ hơn nữa là chính con người ngày nay lại bị coi như một sản phẩm tiêu thụ, có thể sử dụng, rồi vứt bỏ… Trong một bối cảnh như thế tình liên đới là kho tàng của người nghèo bị coi như chống sản xuất, trái nghịch với tính hợp lý tài chánh và kinh tế. Và khi nguồn thu nhập của một thiểu số gia tăng theo hàm số mũ, thì thu nhập của đại đa số yếu kém đi.

Tiếp tục diễn văn nói với tân đại sứ các nước Kirghizistan, Antigua-et-Barbuda, Luxembourg và Botswana cạnh Tòa Thánh,
Đức Thánh Cha Phanxicô khẳng định rằng sự mất quân bình này phát xuất từ các ý thức hệ thăng tiến sự độc lập tuyệt đối của các thị trường và đầu cơ tích trữ tài chánh, khước từ quyền kiểm soát của các chính quyền có nhiệm vụ lo lắng cho công ích. Một chế độ độc tài vô hình, đôi khi tiềm thể, được thiết đặt, và áp đặt các luật lệ và và mực thước của nó, một cách không thể cứu vãn được nữa. Ngoài ra nợ nần và tín dụng khiến cho các nước xa rời nền kinh tế thực sự của mình. Thêm vào đó là nạn gian tham hối lộ len lỏi và nạn trốn thuế ích kỷ với các chiều kích quốc tế. Ý muốn quyền lực và chiếm hữu đã trở thành vô hạn.

Đàng sau thái độ đó ẩn nấp sự khưóc từ luân lý đạo đức, khước từ Thiên Chúa. Cũng như tình liên đới, luân lý đạo đức phá rối. Nó bị coi như chống sản xuất, cũng như qúa nhân bản, vì nó tương đối hóa tiền bạc và quyền bính; nó bị coi như một sự đe dọa, vì nó chối bỏ sự lèo lái và bắt con người phục tùng. Vì luân lý đạo đức dẫn tới Thiên Chúa, là Đấng ở ngoài các phạm trù của thị trường. Vì là Đấng không thể kiểm soát đuợc nên Thiên Chúa bị các nhà tài chánh, kinh tế và chính trị coi là nguy hiểm, vì Ngài kêu gọi con người hiện thực tràn đầy chính mình và độc lập khỏi mọi kiểu nô lệ. Luân lý đạo đức – dĩ nhiên là một thứ luân lý đạo đức không ý thức hệ – cho phép tạo ra một thế quân bình và trật tự xã hội nhân bản hơn. Trong nghĩa đó tôi khích lệ các bậc thầy tài chánh và các chính quyền suy xét các lời này của thánh Gioan Kim Khẩu: “Không cho các người nghèo tham dự vào của cải của họ là ăn cắp và lấy mất đi cuộc sống của họ. Chúng ta không cầm giữ của cải của chúng ta nhưng cầm giữ của cải của họ” (Bài giảng về Ladarô, 1,6; PG 48,992D).

Và Đức Thánh Cha Phanxicô kết thúc bài diễn văn nhu sau: Quý đại sứ thân mên, thật đáng cầu chúc việc thực hiện một cuộc cải cách tài chánh có luân lý đạo đức kéo theo một cuộc canh cải kinh tế lành mạnh cho tất cả mọi người. Tuy nhiên diều này sẽ đòi hỏi một thay đổi thái độ can đảm của hàng lãnh đạo chính trị… Tiền bạc phải phục vụ chứ không cai trị. Giáo Hoàng yêu thương mọi người: người giầu cũng như người nghèo. Nhưng Giáo Hoàng cũng có bổn phận, nhân danh Chúa Kitô, nhắc nhở người giầu phải giúp người nghèo, tôn trọng họ và thăng tiến họ. Giáo Hoàng mời gọi tình liên đới vô vị lợi và sự trở lại của luân lý đạo đức cho con người trong thực tại tài chánh và kinh tế.

Với các tư tưởng trên đây trong tháng giêng tới này hiệp ý với Đức Thánh Cha và tín hữu công giáo toàn thế giới chúng ta hãy cầu xin cho việc thăng tiến một sự phát triển kinh tế biết tôn trọng phẩm giá của mọi người và của mọi dân tộc.

(Ý chỉ chung tháng 1 năm 2015)

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

ĐTC TIẾP KIẾN PHÁI ĐOÀN CỦA GIÁO HỘI LUTHER ĐỨC

ĐTC TIẾP KIẾN PHÁI ĐOÀN CỦA GIÁO HỘI LUTHER ĐỨC

VATICAN: ĐTC khích lệ tiếp tục dấn thân trên con đường đại kết giữa Giáo Hội công giáo và Giáo Hội Luther.

Ngài đã đưa ra lời kêu gọi trên đây trong buổi tiếp phái đoàn Luther và Ủy ban đối thoại đại kết của Hội Đồng Giám Mục Đức tại Vaticăng sáng hôm qua (18-12). Nhắc tới các tiến bộ đạt được sau 50 năm đối thoại làm nền vững chắc cho tình bạn chân thành được sống trong đức in và tinh thần tu đức, ĐTC ghi nhận còn có nhiều khó khăn thần học liên quan tới đức tin liên quan tới các giải thích khác biệt về Giáo Hội và sự hiệp nhất, nhưng có sự cộng tác và chung sống huynh đệ giữa hai Giáo Hội. Tài liệu “Ut unum sint” của Đức Gioan Phaolô II cũng như “Tuyên ngôn chung về giáo lý của sự công chính hóa” ký kết giữa Liên hiệp Luther thế giới và Hội đồng Tòa Thánh thăng tiến hiệp nhất các tín hữu kitô, tại Augsburg cách đây 15 năm là các mốc quan trọng trên con đường đại kết giúp tin tưởng tiếp tục lộ trình đối thoại, và tập trung vào các bước sắp tới. ĐTC chúc mừng Ủy ban đối thoại song phương của HĐGM và Giáo Hội Luther Đức đã kế thúc tài liệu về “Thiên Chúa và phẩm giá con người”. Các vấn đề liên quan tới phẩm giá con người từ lúc bắt đầu cho tới lúc chết tự nhiên, cũng như các vấn đề liên quan tới gia đình, hôn nhân, tính dục đều rất thời sự và cần được nói đến. ĐTC cầu mong dịp mừng kỷ niệm chung 500 năm cải cách 2017 sẽ là dịp cầu nguyện chung xin Chúa Giêsu tha thứ cho các lỗi lầm đã có đối với nhau và khích lệ hai Giáo Hội có các bước tiếp theo tiến về hiệp nhất (SD 18-12-2014).
Linh Tiến Khải

GIÁO HỘI VENEZUELA KÊU GỌI CHỐNG LẠI NẠN BẠO LỰC VÀ ĐỒI BẠI XÃ HỘI

GIÁO HỘI VENEZUELA KÊU GỌI CHỐNG LẠI NẠN BẠO LỰC VÀ ĐỒI BẠI XÃ HỘI

CARACAS: ĐHY Jorge Urosa Savino, TGM Caracas mời gọi tín hữu và nhân dân toàn nước chiến đấu chống lại nạn bạo lực và cảnh đồi bại tâm trí và xã hội.

ĐHY đã đưa ra lời kêu gọi trên đây trong sứ điệp Giáng Sinh gửi toàn dân Venezuela. Ngài mời gọi mọi người sống một lễ Giáng Sinh sâu xa ý nghĩa hơn và củng cố niềm tin nơi Thiên Chúa, để chiến đấu chống lại nạn thối nát và bạo lực trong con tim và trong cuộc sống xã hội. Ghi nhận các lo âu của người dân đối với tình hình đất nước, ĐHY khẳng định rằng: cuộc khủng hoảng kinh tế hiện nay cũng là hậu quả của các lợi nhuận khổng lồ vì giá dầu hoả lên cao, khiến cho người ta phạm tội tham lam, cuồng nhiệt đối với việc kiếm tiền dễ dãi, gian tham hối lộ, cướp bóc các tài ngụyên quốc gia, và đầu cơ tích trữ. Trong chiều hướng đó bầu khí luân lý xã hội trở thành lỏng lẻo, người ta ít ý thức về các hành động gian ác của mình và nạn bạo lực trong các hình thái trầm trọng nhất của nó dẫn đưa tới thù hận, tội phạm sát nhân và hủy diệt người khác. Cần phải nhớ rằng tất cả những điều đó là tội chia lìa chúng ta khỏi Thiên Chúa, khiến cho chúng ta trở thành các tay tội phạm tầm thường và bị Chúa phạt, vì trong các giới răn Người đã nói: chớ giết người, chớ trộm cắp.

Trong sứ điệp Giáng Sinh ĐTGM Caracas cũng đề cập tới các đe dọa đè nặng trên kitô hữu Venezuela. Ngài viết: Đức tin của chúng ta bị đe dọa bởi mê tín dị đoan, bởi ánh đèn chóa sáng của thời mới với một tinh thần Giáng Sinh không hiện hữu và giả tạo, chỉ là việc thờ thần giả tầm thường phải cương quyết từ bỏ. ĐHY cũng cảnh báo nạn pha trộn tôn giáo lan tràn là một thứ tôn giáo khác, trái ngược với Kitô giáo và không hù hợp với niềm tin nơi Chúa Kitô. Nguy cơ lớn nhất là quên đi niềm hạnh phúc yêu Chúa trên hết mọi sự và yêu thương tha nhân hơn chính mình.

ĐHY khich lệ tín hữu đừng quên các anh chị em túng thiếu bệnh tật và cô đơn. Ngài mạnh mẽ kêu gọi giới hữu trách các nhà tù trong nước tìm ra các giải pháp cho các vấn đề trầm trọng liên quan tới các cơ cấu nhà tù, và tôn trọng nhân phẩm của các tù nhân. Chúng ta sẽ có một lễ Giáng Sinh tươi vui, nếu chúng ta đương đầu với thách đố sống như con cái Chúa và anh em với nhau, bằng cách sống tình liên đới, khước từ mọi hình thái sự dữ. hoạt động cho đất nước và tranh đấu cho các quyền con người, cho tự do và công lý (SD 13-12-2014)

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Từ Câu Chuyện “Cậu Bé Yêu Nước Thành Padua”

Chuyện kể rằng: Một chiếc tàu thủy chạy bằng hơi nước vừa rời bến cảng Barcelona, một thành phố ở Tây Ban Nha, để đi đến hải cảng Genoa (thuộc Ý Đại Lợi). Trên tàu có đủ loại hành khách bao gồm người Pháp, Ý, Tây Ban Nha và Thụy Sĩ. Trong đám đó có một cậu bé đơn độc khoảng 11 tuổi, phục sức nghèo nàn. Biết phận mình, cậu bé luôn tách biệt khỏi đám đông. Như một con thú hoang, cậu đăm đăm nhìn mọi người với ánh mắt u sầu. Cậu có lý do chính đáng để biện minh cho lối nhìn mọi người đầy nghiêm khắc đó. Cách đây hai năm, cha mẹ cậu, hai người nông dân ở vùng lân cận thành Padua của nước Ý, vì quá nghèo nên đã vô tình bán cậu cho một bọn người lừa bịp. Sau khi bỏ đói và thực hiện những màn đấm đá dã man, bọn này đã dạy và buộc cậu làm trò để kiếm tiền. Rồi họ mang cậu đi khắp nước Pháp và Tây Ban Nha để biểu diễn. Cậu luôn bị bọn chúng đánh đập và không cho ăn uống đầy đủ. Khi bọn họ đưa cậu đến Barcelona, cậu đã bỏ trốn vì không thể tiếp tục chịu đựng thêm nữa sự hành hạ nhẫn tâm và những cơn đói triền miên đã làm cậu vô cùng khốn khổ.

CauBeYeuNuocThanhPadua

Xem: Từ Câu Chuyện "Cậu Bé Yêu Nước Thành Padua"

Đức Thánh Cha ca ngợi hội bác ái Gabriel Rosset

Đức Thánh Cha ca ngợi hội bác ái Gabriel Rosset

VATICAN. ĐTC ca ngợi chứng tá từ bi của các thành viên hội Gabriel Rosset và Tổ Ấm Đức Bà của những người vô gia cư.

Sáng ngày 13-12-2014 ĐTC đã tiếp kiến phái đoàn 100 thành viên của hai tổ chức trên đây và ngài nói: ”Vị sáng lập tổ chức của anh chị em là Gabriel Rosset đã lắng nghe tiếng kêu của người nghèo, đã xúc động trước những đau khổ của người khác, và đã quảng đại đáp lại. Tiếng gọi ấy chính là tiếng kêu của Chúa Kitô đau khổ nơi những người mà anh chị em phục vụ, anh chị em chạm đến các vết thương của Chúa và săn sóc, và đồng thời anh chị em cống hiến cho họ một giáo huấn rất sâu xa, vì qua họ, anh chị em gặp gỡ Chúa Kitô. Người nghèo luôn loan báo Tin Mừng cho chúng ta, thông truyền cho chúng ta sự khôn ngoan của Thiên Chúa một cách huyền nhiệm”.

ĐTC nhận xét rằng thế giới ngày nay cũng rất cần những chứng tá về lòng từ bi của Chúa. “Ngày nay, giữa lúc con người thường bị gạt bỏ như là vô dụng, vì không mang lại lợi nhuận nữa, thì Thiên Chúa luộn nhìn nhận nơi con người phẩm giá và sự cao trong của một người con được mến yêu; họ có một chỗ đứng ưu tiên trong trái tim của Chúa”.

ĐTC cám ơn các thành viên Hội bạn của Gabriel Rosset vì chứng tá từ bi ấy, được biểu lộ của bao nhiêu hành động cụ thể, những cử chỉ đơn sơ và nồng nhiệt nhờ đó lầm than của con người được thoa dịu, mang lại hy vọng mới và trả lại phẩm giá cho họ.

ĐTC nói: ”Không có cách thức đẹp hơn để loan báo niềm vui Tin Mừng cho thế giới ngày nay. Sự chọn lựa ưu tiên dành cho những ngừơi rốt cùng, mà xã hội loại bỏ và gạt ra ngoài lề, chính là một dấu hiệu chúng ta luôn luôn có thể mang lại, một dấu chỉ hữu hiệu hóa chứng tá về Chúa Kitô chịu chết và phục sinh.

Ông Gabriel Rosset nguyên là một giáo sư trung học, sinh năm 1904 tại Champier bên Pháp và qua đời năm 1974 tại Lyon. Ông đặc biệt quan tâm săn sóc người nghèo, nhất là những người vô gia cư, và nhiều học sinh của ông cũng cộng tác trong các hoạt động bác ái này (SD 13-12-2014)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Người làm chứng

Người làm chứng

(Trích trong ‘Manna’)

Trong bài Tin Mừng trên đây cụm từ ‘làm chứng’ được dùng đến bốn lần.

Lẽ sống của Gioan là làm chứng. Ông được sai đến để làm chứng (x. c.6-7). Cả câu chuyện xảy ra ở Bêtania, bên kia sông Giođan, cũng là một lời chứng hùng hồn của ông (c.19).

Gioan không làm chứng cho mình hay về mình, bởi lẽ ông không phải là Ánh Sáng. Ông chỉ là ngọn đèn (Ga 5,35) giúp mọi người tin vào Ánh Sáng thật là Đức Kitô.

Sau khi nhiều người tuốn đến chịu phép rửa, tiếng tăm của Gioan trở nên lừng lẫy. Các nhà lãnh đạo tôn giáo cử một phái đoàn đến tìm hiểu con người ông.

Khi được hỏi lần thứ nhất: Ông là ai? Gioan đã đưa ra ba câu trả lời phủ định: "Tôi không phải là Đức Kitô" – "Không phải" – "Không". Những tiếng ‘không’ dứt khoát và trung thực.

Ông không nhận những danh hiệu người ta nghĩ về ông. Ông chẳng phải là một Êlia tái giáng hay một vị Ngôn Sứ phi thường như Môsê. Gioan chỉ sợ người ta đánh giá quá cao về mình khiến Đấng ông giới thiệu bị che khuất.

Lần thứ hai được hỏi: Ông là ai?

Gioan đã định nghĩa mình là một tiếng hô trong hoang địa, là lời mời gọi con người sửa đường cho Đức Kitô.

Ông biết rõ mình là người đến trước nhưng vị đến sau lại có trước ông và trổi vượt hơn ông ngàn trùng (Ga 1,30). "Tôi không đáng cởi quai dép cho Người." Làm đầy tớ cho Đức Kitô, ông nhận mình không xứng.

Gioan tự xóa mình trước Đức Kitô. Ông chẳng sợ mất uy tín trước bao người ngưỡng mộ. Ông nhìn nhận phép rửa của ông chỉ nhằm chuẩn bị cho một phép rửa lớn hơn trong Thánh Thần.

Gioan không ngại giới thiệu môn đệ mình theo Đức Giêsu, và ông bình an khi người ta đổ xô đến với Ngài để chịu phép rửa (Ga 3,26).

Có ai siêu thoát như Gioan?

Ông từ bỏ trong niềm vui hồn nhiên. Ông hạnh phúc vì mình đã hoàn thành sứ mạng. "Người phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ lại" (Ga 3,30).

Sự khiêm hạ làm cho lời chứng của Gioan đáng tin hơn.

"Có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết."

Hôm nay Đức Giêsu vẫn là Đấng xa lạ với nhiều người.

Con người vẫn khắc khoải đi tìm những nẻo đường cứu độ, trong khi Đấng Cứu Độ đã đến từ hơn 2000 năm.

Xin được làm người chứng như Gioan, giới thiệu cho bạn bè Đấng mà họ đang tìm kiếm.

Gợi Ý Chia Sẻ

Giới trẻ hôm nay say mê các ngôi sao ca nhạc, điện ảnh, thể thao… Theo ý bạn, điểm nào nơi Đức Giêsu có thể làm cho giới trẻ say mê? Đức Giêsu có phải là mẫu người lý tưởng của các bạn trẻ không?

Gioan là con người siêu thoát. Ông không tìm mình, ông vượt lên trên cái vòng danh lợi. Bạn có quen biết ai làm chứng tuyệt như Gioan không?

Cầu Nguyện

Chỉ mong tôi chẳng còn gì, nhờ thế Người là tất cả của tôi.

Chỉ mong ý muốn trong tôi chẳng còn gì, nhờ thế tôi cảm thấy Người ở mọi nơi, đến với Người trong mọi sự, và dâng Người tình yêu trong mọi lúc.

Chỉ mong tôi chẳng còn gì, nhờ thế tôi không bao giờ muốn tránh gặp Người.

Chỉ mong mọi ràng buộc trong tôi chẳng còn gì, nhờ đó tôi gắn bó với ý muốn của Người và thực hiện ý Người trong suốt đời tôi.

(R. Tagore)

Công bố Sứ điệp Đức Thánh Cha nhân Ngày Hòa Bình Thế Giới 2015

Công bố Sứ điệp Đức Thánh Cha nhân Ngày Hòa Bình Thế Giới 2015

VATICAN. Hôm 10-12-2014, Phòng báo chí Tòa Thánh đã công bố Sứ điệp của ĐTC nhân ngày Hòa bình thế giới lần thứ 48, sẽ được cử hành ngày 1-1-2015 tới đây về đề tài: ”Không còn là nô lệ nữa, nhưng là anh em”.

Đề tài này là một câu trích từ thư thán Phaolô gửi ông Philomeno (1,15-16). Sứ điệp gồm 2 phần: Phần đầu ĐTC nói về bao nhiêu khía cạnh của nạn nô lệ trong quá khứ và ngày nay, và nhắc đến những nguyên nhân sâu xa của chúng. Trong phần thứ II ngài khuyến khích tìm ra những giải pháp chung để bài trừ nạn nô lệ mà ngài gọi ”hiện tượng đáng kinh tởm”.

Phần thứ I mang tựa đề ”những khuôn mặt và nguyên nhân của nạn nô lệ”, trong đó ĐTC nhận xét rằng mặc dù tệ nạn nô lệ đã được chính thức bãi bỏ trên thế giới, và quyền của mỗi người không bị giữ trong tình trạng nô lệ cũng được công nhận, nhưng ngày nay hằng triệu người vẫn còn phải sống trong những điều kiện giống như nô lệ. ĐTC nhắc đến nhiều ví dụ bi thảm như những người phải làm việc như nô lệ, người di dân bị tước đoạt tự do và của cải, bị lạm dụng thể lý, bị giam cầm vô nhân đạo, bị chủ nhân lợi dụng tình trạng pháp lý bấp bênh, không có giấy tờ hợp pháp, để ép họ làm việc như nô lệ; có những người nô lệ tình dục, đặc biệt là phụ nữ phải hành nghệ mại dâm, nhiều trẻ vị thành niên trở thành nạn nhân những vụ lấy cơ phận để buôn bán, các em cũng bị xung vào quân ngũ, bị em bán ma túy, vv..

Trong số các nguyên do của tệ này nạn, có nạn nghèo đói, không được giáo dục, không tìm được công ăn việc làm, nạn tham những nơi các nhân viên an ninh và công lực..

Phần thứ II của Sứ điệp có tựa đề: Bài trừ nạn nô lệ như một sự dấn thân chung và hoàn cầu hóa tình huynh đệ.

ĐTC nhận xét rằng nạn buôn người, buôn bán người di dân và bao nhiêu hình thức khác của nạn nô lệ diễn ra trong sự dửng dưng của bao nhiêu người, nhưng cũng có nhiều người làm việc âm thầm chống lại tệ nạn này và cứu giúp các nạn nhân, như nhiều dòng tu, nhất là các dòng nữ, đang làm; họ tìm cách phá vỡ xiềng xích vô hình liên kết giữa những kẻ bóc lột và các nạn nhân. Với sự kiên nhẫn, can đảm và kiên trì, các dòng tu đặt mình các nạn nhân bằng cách cứu giúp họ, phục hồi họ về tâm lý và giúp họ tái hội nhập vào xã hội.

ĐTC nhấn mạnh tới 3 nỗ lực cần thực hiện trong lãnh vực này, đó là phòng ngừa các tội ác bắt người làm nô lệ, bảo vệ các nạn nhân và truy tố những kẻ phạm pháp. Để bài trừ nạn nô lệ, cần có một hoạt động chung và hoàn cầu từ phía toàn thể xã hội. Các Nhà Nước cần canh chừng để luật lệ về di trú, lao động, nhận con nuôi, và di chuyển các xí nghiệp được thực thi trong sự tôn trọng phẩm giá con người. Cần có những đạo luật đúng đắn, bảo vệ các quyền cơ bản của con người, và cần có những cơ chế kiểm soát hữu hiệu, không để kẽ hở cho sự tham những và phạm pháp mà không bị luật pháp trừng trị. (SD 10-12-2014)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Đức Thánh Cha chủ sự Kinh Truyền Tin và kính viếng Đức Mẹ

Đức Thánh Cha chủ sự Kinh Truyền Tin và kính viếng Đức Mẹ

VATICAN. ĐTC Phanxicô đã chủ sự buổi đọc kinh Truyền Tin trưa ngày 8-12-2014 Lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm với 50 ngàn tín hữu tại Quảng trường thánh Phêrô.

Trong bài huấn dụ trước khi đọc kinh Truyền Tin, ĐTC đặc biệt nêu rõ sứ điệp nòng cốt của lễ Mẹ nhiễm nguyên tội, đó là: ”Tất cả là hồng ân nhưng không của Thiên Chúa và tình yêu của Chúa đối với chúng ta”. Sứ thần Gabriel chào Mẹ Maria là ”người đầy ân phúc” (Lc 1,28): nơi Mẹ không có chỗ cho tội lỗi, vì Thiên Chúa đã tuyển chọn Mẹ từ đời đời để làm Mẹ Đức Giêsu và đã giữ gìn Mẹ khỏi tội nguyên tổ”. Mẹ Maria đã đáp lại và phó thác cho ân thánh khi nói với Thiên Thần: ”Xin xảy ra cho tôi theo lời Sứ Thần” (v.38). Mẹ không nói: ”Tôi sẽ làm theo lời Ngài”, nhưng nói: ”Xin xảy ra cho tôi..”. Và Ngôi Lời đã nhập thể trong lòng Mẹ. ”Cả chúng ta cũng được yêu cầu lắng nghe lời Chúa nói và đón nhận thánh ý Chúa.. Thái độ của Đức Maria thành Nazareth cho chúng ta thấy rằng sự hiện hữu đến trước hoạt động và cần để cho Thiên Chúa làm để được thực sự như Chúa muốn”.

ĐTC cũng nói đến sự khác biệt giữa Mẹ Maria và chúng ta. ”Mẹ Maria đã được Chúa gìn giữ trước, trong khi chúng ta được cứu rỗi nhờ phép rửa và đức tin. Nhưng tất cả, Mẹ Maria cũng như chúng ta, đều được cứu thoát nhờ Chúa Kitô, ”để tôn vinh ân thánh rạng ngời của Chúa”, ân mà Đức Mẹ Vô Nhiễm nguyên tội được tràn đầy”.

Từ những sự kiện trên đây, ĐTC nhấn mạnh tính chất nhưng không của ân thánh. Chúng ta đã nhận lãnh nhưng không, chúng ta được được mời gọi cho đi nhưng không (Xc Mt 10,8); noi gương Mẹ Maria, ngay sau khi đón nhận lời truyền tin của Sứ thần, Mẹ đã ra đi để chia sẻ hồng ân được làm Mẹ với bà chị họ Elizabeth… Chúng ta hãy để Chúa Thánh Linh biến chúng ta thành một hồng ân cho tha nhân; thành những dụng cụ đón tiếp, hòa giải và tha thứ. Nếu cuộc sống chúng ta được ơn thánh Chúa biến đổi, thì chúng ta không thể giữ riêng cho mình ánh sáng đến từ tôn nhan Chúa, nhưng chúng ta cần để ánh sáng đó chiếu qua chúng ta để soi sáng cho tha nhân”.
Sau khi ban phép lành, ĐTC loan báo chương trình hoạt động ban chiều của ngài: trước tiên ngài đến cầu nguyện tại Đền thờ Đức Bà cả trước ảnh Đức Mẹ là phần rỗi của dân Roma, rồi sau đó đến viếng và đặt vòng hoa tại tượng đài Đức Mẹ Vô nhiễm ở quảng trường Tây Ban Nha. Ngài mời gọi các tín hữu hiệp với ngài trong cuộc hành hương này để biểu lộ lòng sùng mộ con thảo đối với Mẹ Thiên Quốc.

Tượng đài Đức Mẹ Vô Nhiễm trước trụ sở Bộ truyền giáo được Đức Chân phước Giáo Hoàng Piô 9 khánh thành ngày 8-9 năm 1857, tức là 3 năm sau khi tuyên bố tín điều Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội. Cột cao 11,81 mét trên đó có tượng Đức Mẹ đầu đội triều thiên 12 ngôi sao.

ĐTC đến tượng đài Đức Mẹ lúc 4 giờ 15 và được ĐHY Vallini, Giám quản Roma và ông đô trưởng Roma, Ignazio Marino. Đặc biệt tại đây có sự hiện diện của 100 anh chị em bệnh nhân ngồi trên xe lăn, do tổ chức từ thiện Unitalsi giúp đưa tới đây, cùng với hàng ngàn tín hữu. Ngoài ra cũng có sự hiện diện của ĐHY Fernando Filoni, Tổng trưởng Bộ truyền giáo và hai vị TGM Tổng thư ký của Bộ là Savio Hàn Đại Huy và Protase Rugambwa và một số vị khác, trong đó có ông chủ tịch miền Lazio, Nicola Zingaretti.

Trước đài Đức Mẹ, ĐTC đã đọc kinh cầu xin Đức Mẹ ban cho các tín hữu tràn đây hy vọng và can đảm trong cuộc chiến đấu hằng ngày chống lại những đe dọa của ma quỷ. Ngài nói: ”Chúng con biết rằng trong cuộc chiến này chúng con không lẻ loi, vì trước khi từ trần trên Thánh Giá, Chúa Giêsu đã phó thác chúng con cho Mẹ. Vì thế, tuy là người tội lỗi, chúng con vẫn là con của Mẹ, con cái của Đức Vô Nhiễm nguyện tội. Được niềm hy vọng ấy thúc đẩy, chúng con xin ơn phù hộ của Mẹ cho chúng con, cho thành phố này và toàn thế giới.. Xin Mẹ giải thoát nhân loại khỏi mọi ách nô lệ tinh thần và vất chất, xin làm cho kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa chiến thắng trong các tâm hồn và các biến cố”.

ĐTC đã đặt vòng hoa kính Đức Mẹ tại chân tượng đài rồi cùng với ca đoàn và mọi hát kinh cầu Đức Mẹ, trước khi ban phép lành cho tất cả mọi người. Rồi ngài đến chào thăm khích lệ hàng trăm bệnh nhân ngồi trên ghế lăn. (SD 8-12-2014)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Mọi Kitô hữu đều được mời gọi an ủi tha nhân

Mọi Kitô hữu đều được mời gọi an ủi tha nhân

Hôm nay qua miệng của ngôn sứ Isaia Chúa mời gọi chúng ta trở thành các sứ giả sự ủi an của Thiên Chúa, và các chứng nhân lòng thương xót và hiền dịu của Người, đối với những ai bị khổ đau, bất công áp bức, đối với những ai làm nô lệ cho tiền bạc, quyền bính, thành công và ăn chơi trần tục.

Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói như trên với hơn 50 ngàn tín hữu và du khách hành hương tham dự buổi đọc Kinh Truyền Tin tại quảng trường thánh Phêrô trưa Chúa Nhật thứ hai Mùa Vọng 7-12-2014.

Mở đầu bài huấn dụ Đức Thánh Cha nói: Anh chị em thân mến, Chúa Nhật hôm nay ghi dấu chặng thứ hai của Mùa Vọng, là thời gian tuyệt vời thức tỉnh trong chúng ta sự chờ đợi Chúa Kitô trở lại và việc tưởng niệm lần đến lịch cử của Người. Đức Thánh Cha giải thích lý do như sau:

Phụng vụ hôm nay giới thiệu với chúng ta một sứ điệp tràn đầy hy vọng. Đó là lời Chúa mời gọi qua miệng ngôn sứ Isaia: “Hãy an ủi hãy an ủi dân Ta, Thiên Chúa các ngươi phán” (Is 40,1). Cuốn sách của sự ủi an bắt đầu với các lời này, trong đó ngôn sứ hướng tới dân bị đi đầy lời loan báo tươi vui của sự giải phóng. Thời gian khốn khó đã hết; dân Israel có thể tin tưởng nhìn về tương lai: việc hồi hương đang chờ đón họ.

Ngôn sứ Isaia hướng tới nhũng người đang trải qua một giai đoạn đen tối, vì đã chịu một thử thách cam go; nhưng giờ đây đã tới thời an ủi. Nỗi buồn sầu và sự sợ hãi có thể nhường chỗ cho niềm vui, bởi vì chính Chúa sẽ hưóng dẫn dân Người trên con đường giải thoát và cứu rỗi. Người sẽ làm điều đó như thế nào? Với sự lo lắng và lòng hiền dịu của một mục tử chăm sóc đàn chiên của mình, Thậv thế, Người sẽ ban cho đàn chiên sự hiệp nhất và an ninh, Người sẽ chăn dắt nó, sẽ tụ tập các con chiên lạc trong ràn chiên của Người, Người sẽ đặc biệt chú ý tới các con chiên mỏng giòn và yếu đuối. Đó là thái độ Thiên Chúa có đối với các thụ tạo của Người. Vì thế ngôn sứ mời gọi những ai lắng nghe ông – kể cả chúng ta ngày nay nữa – phổ biến sứ điệp hy vọng này giữa dân chúng.

Đức Thánh Cha nói tiếp trong bài huấn dụ: Nhưng chúng ta không thể là các sứ giả sự ủi an của Thiên Chúa, nếu chúng ta không là những người đầu tiên sống kinh nghiệm niệm vui được Người an ủi và yêu thương. Điều này đặc biệt xảy ra, khi chúng ta lắng nghe lời Chúa, lắng nghe Tin Mừng, mà chúng ta phải mang theo trong túi: anh chị em đừng quên điều đó, mang sách Tin Mừng trong túi hay trong xách tay, để đọc liên tục. Và điều này trao ban cho chúng ta niềm an ủi: khi chúng ta thinh lặng cầu nguyện trước sự hiện diện của Chúa, khi chúng ta gặp Người trong bí tích Thánh Thể hay trong bí tích Hòa Giải. Tất cả những điều đó an ủi chúng ta.

Vì thế chúng ta hãy để vang vọng lên trong con tim chúng ta trong Mùa Vọng này lời ngôn sứ Isaia mời gọi: “Hãy an ủi, hãy an ủi dân Ta”! Ngày nay cần có những người là chứng nhân lòng thương xót và sư diụ hiền của Thiên Chúa, để lay động những người chịu trận, tái linh hoạt những người mất tin tưởng, thắp sáng lên ngọn lửa hy vọng. Thiên Chúa thắp sáng lên ngọn lửa hy vọng, chứ không phải chúng ta.

Đức Thánh Cha nói thêm trong bài huấn dụ:

Có biết bao nhiêu tình trạng xin chứng tá an ủi của chúng ta. Là những người sống tươi vui, được an ủi. Tôi nghĩ tới những ai bị khổ đau, bất công, áp bức, những ai làm nô lệ cho tiền bạc, quyền bính, thành công và ăn chơi trần tục. Những người thật đáng thương! Họ có các ủi an giả tạo, chứ không phải sư an ủi thật của Chúa. Chúng ta tất cả đều được mời gọi an ủi các anh chị em của chúng ta bằng cách làm chứng rằng chỉ có Chúa mới có thể loại bỏ các nguyên do của các thảm cảnh hiện sinh và tinh thần. Ngài có thể làm điều ấy! Ngài quyền năng!

Sứ điệp của ngôn sứ Isaia vang vọng lên trong ngày Chúa Nhật thứ hai Mùa Vọng là một dầu thơm xức trên các vết thương của chúng ta, và là một kích thích dấn thân chuẩn bị đuờng của Chúa. Thật thế, hôm nay ngôn sứ ngỏ lời với con tim của chúng ta để nói rằngThiên Chúa quên đi các tội lỗi của chúng ta và an ủi chúng ta. Nếu chúng ta tín thác nơi Người với con tim khiêm tốn và sám hối, Người sẽ triệt hạ các bức tường của sự dữ, sẽ làm đầy các lỗ thiếu sót của chúng ta, sẽ san bằng các gò nổng của kiêu căng và khoe khoang và sẽ mở ra con đường gặp gỡ với Người.
Thật là lạ, nhưng biết bao lần chúng ta sợ hãi sự an ủi, sợ hãi được ủi an. Trái lại, chúng ta cảm thấy an ninh hơn trong sự buồn sầu và trong cảnh não nề. Anh chị em biết tại sao không? Bởi vì trong sự buồn sầu chúng ta cảm thấy mình như là các tác nhân. Trái lại trong niềm an ủi chính Chúa Thánh Thần là tác nhân! Chính Người an ủi chúng ta, chính Người trao ban cho chúng ta lòng can đảm ra khỏi chính mình. Chính Người đưa chúng ta tới suối nguồn của mọi ủi an, nghĩa là tới Thiên Chúa Cha. Và đó là sự hoán cải. Vậy xin anh chị em hãy để cho mình được Chúa an ủi! Hãy để Chúa an ủi anh chị em!

Đức Trinh Nữ Maria là “con đường” mà chính Thiên Chúa đã chuẩn bị dể đến trong thế gian. Chúng ta hãy tín thác nơi Mẹ việc mong chờ ơn cứu độ và hòa bình của tất cả mọi người trong thời đại chúng ta.

Tiếp đến Đức Thánh Cha đã đọc kinh Truyền Tin và ban phép lành tòa thánh cho mọi người.

Sau Kinh Truyền Tin Đức Thánh Cha đã chào tín hữu Roma và du khách hành hương đến từ nhiều nơi trong nước Italia và trên thế giới. Ngài xin mọi người để cho mình được Chúa an ủi và đừng quên cầu nguyện cho ngài. Đức Thánh Cha chúc tất cả ngày lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội tươi vui và thánh đức.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio