PHÉP RỬA KHIÊM NHƯỜNG

PHÉP RỬA KHIÊM NHƯỜNG

Trong đêm trường Cựu Ước, dân Do-thái trông đợi Đức Giê-su Ki-tô Thiên Chúa tới cứu độ, giải thoát khỏi xiềng xích của tội lỗi và sự chết đời đời. Ai cũng cho rằng Đấng ấy phải oai phong lẫm liệt như Lời Đức Chúa hứa cùng ngôn sứ Isaia: “Đây là người tôi trung Ta nâng đỡ, là người Ta tuyển chọn và quý mến hết lòng, Ta cho thần khí Ta ngự trên nó; nó sẽ làm sáng tỏ công lý trước muôn dân… Nó không yếu hèn, không chịu phục, cho đến khi thiết lập công lý trên địa cầu. Dân các hải đảo xa xăm đều mong được nó chỉ bảo.” – Is 42, 1-4). Tới khi lời hứa ấy được thực hiện cụ thể thì chỉ thấy một Hài Nhi sinh ra nơi một hang bò lừa, rồi sống ẩn dật 30 năm trường tại một vùng quê hẻo lánh.

 Lần đầu tiên xuất hiện công khai thì chàng thanh niên Giê-su Na-da-ret lại cùng với đám đông xếp hàng xin ông Gio-an Tẩy Giả rửa tội. Thật là lạ lùng. Chính Đấng đến để chuộc tội loài người giờ đây lại xin người khác rửa tội cho mình. Như vậy thì phải chăng đến cả Thiên Chúa cũng có tội và cần được rửa tội hay sao? Một nghịch lý không thể chấp nhận. Vấn đề chỉ được khai thông khi đọc và suy niệm kỹ cuộc đối thoại giữa người làm phép rửa và Người đến xin được rửa tội: “Bấy giờ, Đức Giê-su từ miền Ga-li-lê đến sông Gio-đan, gặp ông Gio-an để xin ông làm phép rửa cho mình. Nhưng ông một mực can Người và nói: "Chính tôi mới cần được Ngài làm phép rửa, thế mà Ngài lại đến với tôi!" Nhưng Đức Giê-su trả lời: "Bây giờ cứ thế đã. Vì chúng ta nên làm như vậy để giữ trọn đức công chính." (Mt 3, 13-15).

Cũng bởi vì Đức Giê-su là Thiên-Chúa-làm-người, “Người đã làm việc với bàn tay con người, đã suy nghĩ bằng trí óc con người, đã hành động với ý chí con người, đã yêu mến bằng quả tim con người.” (Tđ  “Gaudium et Spes”, số 22); nên cần phải “làm như vậy để giữ trọn đức công chính”. Nói khác hơn, Đức Ki-tô muốn cho mọi người thấy chàng thanh niên Giê-su Na-da-ret “Sinh bởi trinh nữ Maria, Người đã thực sự trở nên một người giữa chúng ta, giống chúng ta mọi sự, ngoại trừ tội lỗi.” (ibid). Người đến xin ông Gio-an Tẩy Giả làm phép rửa, không phải vì Người có tội mà chính là vì Người muốn nêu tấm gương sáng cho mọi người noi theo về đức khiêm nhường tuyệt đối vô song của Người. Thật thế, “Đức Giê-su Ki-tô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự.” (Pl 2, 6-8).

 Kể từ khi Nguyên tổ nghe lời rắn xúi giục "ông bà ăn trái cây đó, mắt ông bà sẽ mở ra, và ông bà sẽ nên như những vị thần biết điều thiện điều ác." (St 3, 5), vi phạm giới răn “ăn trái cấm” phải xa lìa Thiên Chúa. Không những chỉ truyền tử lưu tôn đời đời kiếp kiếp tội phản nghịch cùng Đấng đã dựng nên minh, Nguyên tổ còn truyền cho con cháu ngàn đời cái gien “kiêu ngạo” muốn ngang bằng Thiên Chúa. Trong khi loài người tội lỗi luôn kiêu ngạo tìm cách nâng mình lên, thì Thiên Chúa thánh thiện lại hạ mình xuống. Trong khi loài người chỉ tìm cách che giấu hoặc chối bay chối biến tội lỗi của mình, thì Thiên Chúa vô tội lại công khai nhận mình tội lỗi. Trong khi loài người tội lỗi tìm tránh hình phạt do tội lỗi họ gây nên thì Thiên chúa lại ghé vai gánh lấy hết tội lỗi và mọi hình phạt mà loài người đáng phải chịu. Sự khiêm nhường ấy phát xuất từ lòng Thiên Chúa yêu thương con người, muốn cứu chuộc nhân loại thoát khỏi ách thống trị của tội lỗi và sự chết đời đời.

Trước đó, Thánh Gio-an Tẩy Giả đã tự nhận “Tôi là tiếng người hô trong hoang địa: Hãy sửa đường cho thẳng để Đức Chúa đi, như ngôn sứ I-sai-a đã nói.” (Ga 1, 23), không những thế, thánh nhân còn nhấn mạnh: "Tôi, tôi làm phép rửa cho anh em trong nước, nhưng có Đấng mạnh thế hơn tôi đang đến, tôi không đáng cởi quai dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần và lửa.” (Lc 3, 16). Hôm nay, “Đức Giê-su từ miền Ga-li-lê đến sông Gio-đan, gặp ông Gio-an để xin ông làm phép rửa cho mình. Nhưng ông một mực can Người và nói: "Chính tôi mới cần được Ngài làm phép rửa, thế mà Ngài lại đến với tôi! " (Mt 3, 13-14). Ai cũng nhận thấy Thánh Gio-an Tẩy Giả là người rất khiêm nhường; nhưng thật không ngờ Đức Giê-su Ki-tô còn khiêm nhường gấp bội.

Thật thế, Thánh Gio-an là người trần gian tất nhiên không thể tránh khỏi tội lỗi, nhất là tội Nguyên tổ, và vì thế thánh nhân mới sống trong hoang địa “mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da, ăn châu chấu và mật ong rừng” để sám hối trước khi ra mắt dân It-ra-en kêu gọi người ta sám hối và làm phép rửa cho họ tại sông Gio-đan. Nhưng đến như Đức Giê-su Thiên Chúa nhân lành vô tội mà cũng vào trong hoang địa suốt 40 ngày ăn chay, hãm mình, chịu để ma quỷ cám dỗ (Lc 4, 1-13), nay lại đến xin Thánh Gio-an làm phép rửa, thì đức khiêm nhường của Chúa còn sâu xa đến nhường nào. Sự  tỏ mình của Đức Giê-su ngày càng rõ bao nhiêu thì đức tính khiêm nhường của Chúa càng nổi bật hơn bấy nhiêu. Đó chính là bản chất của Thiên Chúa “nên giống anh em mình mọi đàng ngoại trừ tội lỗi” (GS 22).

Sự khiêm nhường của Đức Giê-su lên tới đỉnh điểm là Phép Rửa Người phải chịu trên Gôn-gô-tha. Người đã tiên báo “Thầy còn một phép rửa phải chịu, và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi việc này hoàn tất!” (Lc 12, 50). Cũng vì Người đã “hạ mình, vâng lời cho đễn nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự.” Chính vì thế, nên “Thiên Chúa đã siêu tôn Người” (Pl 2, 7-9). Đó là lý do giải thích tại sao sau khi Thánh Gio-an Tẩy Giả làm phép rửa cho Đức Giê-su, “Vừa lên khỏi nước, Người liền thấy các tầng trời xé ra, và thấy Thần Khí như chim bồ câu ngự xuống trên mình. Lại có tiếng từ trời phán rằng: "Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con." (Mc 1, 10-11). Cả Ba Ngôi Thiên chúa cùng xuất hiện: Ba Ngôi liên kết trong một tình yêu hiệp thông. Chúa Giê-su hoạt động dưới tác động của Chúa Thánh Thần để thi hành thánh ý Chúa Cha. Có thể nói cả Ba Ngôi đều hoạt động trong Chúa Giê-su Ki-tô . Cả Ba Ngôi đều tham gia vào công trình cứu chuộc loài người.

Đức Giê-su đã thể hiện bằng hành động đúng như lời Người hằng dạy dỗ các môn đệ: Hãy ngồi chỗ cuối để được mời lên hang đầu, chờ đừng bao giờ bắt chước "những ông kinh sư ưa dạo quanh, xúng xính trong bộ áo thụng, thích được chào hỏi ở những nơi công cộng, ưa chiếm ghế danh dự trong hội đường, thích ngồi cỗ nhất trong đám tiệc." (Lc 20, 46). Ấy cũng bởi vì “Ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên." (Lc 14, 11). Ngoài ra, Người còn khen ngợi về đức tính khiêm nhường của Thánh Gio-an Tẩy Giả như thế này: "Tôi nói cho anh em biết: trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, không có ai cao trọng hơn ông Gio-an; tuy nhiên kẻ nhỏ nhất trong Nước Thiên Chúa còn cao trọng hơn ông.” (Lc 7, 28).

Từ người được sai đi làm phép rửa (Thánh Gio-an Tẩy Giả) tới Người đến xin làm phép rửa (Đức Giê-su Thiên Chúa) đều bộc lộ chân thành đức tính khiêm nhường tuyệt đối, nên có thể nói khiêm nhướng là một phép rửa. Vì khiêm nhường là sự quên mình, là chết đi cho cái tội đứng hàng đầu trong 7 mối tội đầu của bản thân (tội kiêu ngạo). Dìm mình vào dòng sông là chấp nhận đau khổ và chết đi. Cái chết chính là phép rửa như Chúa Giê-su đã nói với các môn đệ: “Thầy còn phải chịu một phép rửa, và Thầy những bồn chồn chờ đến lúc hoàn tất” (Lc 12, 50). Người còn hỏi hai ông Gio-an và Gia-cô-bê khi hai ông này đến xin được ngồi bên tả, bên hữu trong nước Người: “Các anh có uống nổi chén Thầy sắp uống, hay chịu được phép rửa Thầy sắp chịu không?” (Mc 10, 38). Khi nói thế Chúa Giê-su có ý nói đến cái chết Người sẽ phải chịu. Chúa Giê-su vì khiêm nhường cho đến nỗi bằng lòng chịu chết vì tội lỗi loài người. Vậy thì tại sao người Ki-tô hữu không sẵn sàng chết đi vì tội lỗi của bản thân mình?

Vâng, “Trong Phép Rửa, ta tiếp nhận cả lời giảng cần được công bố lẫn cách sống đặc biệt đòi phải vận dụng toàn bộ con người và đặt ta vào nẻo đường sự thiện. Ai chịu Phép Rửa đều được đặt vào một bối cảnh mới, được trao phó cho một môi trường mới, một cách hành động mới, chung chia trong Giáo Hội.Như thế, Phép Rửa khiến ta thấy rằng đức tin không phải là thành tựu của các cá nhân cô lập; nó không phải là một hành vi mà ai đó có thể tự mình diễn xuất, mà đúng hơn, nó là một điều cần được tiếp nhận bằng cách đi vào hiệp thông Giáo Hội, một hiệp thông chuyển giao ơn phúc Thiên Chúa.” (Tđ Ánh Sáng Đức Tin “Lumen Fidei”, số 41). Người Ki-tô hữu sống thân phận con người phải chết do hậu quả cuả tội nguyên tổ, nay đã được chịu phép rửa tội là có một mối liên hệ hiệp thông sâu xa với Đức Ki-tô và Giáo Hội. Bởi vậy chúng ta không đứng ngoài sự liên đới với người khác mà phải đồng hành cùng với nhân loại trong dòng chảy của những tập tục, truyền thống, lễ nghi, văn hoá… để thánh hoá, biến đổi, thăng hoa và làm hoàn hảo những giá trị này theo tinh thần của Đức Chúa.

Ôi! Lạy Chúa Giê-su Ki-tô, xin dạy con biết sống ơn Bí tích Rửa tội như Chúa, để con xứng đáng được làm con yêu dấu của Đức Chúa Cha. Ôi! “Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, khi Ðức Kitô chịu phép rửa tại sông Gio-đan và Thánh Thần ngự xuống trên Người, Chúa đã long trọng tuyên bố Người là Con chí ái. Xin cho chúng con là đoàn nghĩa tử được tái sinh bởi nước và Thánh Thần, hằng bền vững thi hành ý Chúa. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô Chúa chúng con. Amen.” (Lời nguyện nhập lễ lễ Chúa Giê-su chịu Phép Rửa).

JM. Lam Thy ĐVD

Comments are closed.