Ngân Sách năm 2014 của Tòa Thánh bị hụt 25,6 triệu Euro

Ngân Sách năm 2014 của Tòa Thánh bị hụt 25,6 triệu Euro

VATICAN. Trong năm 2014, ngân sách của Tòa Thánh bị thiếu hụt 25 triệu 600 ngàn Euro.

Theo thông cáo do Hội đồng Hồng Y về kinh tế công bố hôm 16-7-2015, con số thiếu hụt trên đây gần với số thiếu hụt trong năm 2013 trước đó, là 24 triệu 400 ngàn Euro.

Số tiền do các giáo phận và dòng tu đóng góp cho Tòa Thánh trong năm 2014 là 21 triệu Euro và Viện Giáo Vụ quen gọi là ngân hàng Vatican góp 50 triệu Euro.

Phần lớn số chi trong ngân sách Tòa Thánh là để trả lương cho 2.880 nhân viên thuộc 64 cơ quan khác nhau, với 126 triệu 600 ngàn Euro.

Trong năm 2015, ngân sách của Phủ Thống đốc quốc gia thành Vatican dư được 63 triệu 519 ngàn Euro, tức là nhiều hơn gần 30 triệu Euro so với số dư của phủ này trong năm 2013 là 33 triệu 42 ngàn Euro. Phủ Thống quốc quốc gia thành Vatican có 1.930 nhân viên, và phần lớn số thu đến từ bảo tàn viện Vatican và số tiền đầu tư thuận lợi.

Thông cáo của Hội đồng Hồng Y cho biết trong năm 2015, ngân sách của Tòa Thánh tiếp tục sẽ thiếu hụt.

Ngoài ra, Hội đồng cho biết gia sản của Tòa Thánh tăng lên 939 triệu Euro nhờ sự điều chỉnh bằng cách bao gồm rất cả các hoạt động và tiền thiếu hụt khi kết toán ngân sách 2014. Trước đây có những khoản tiền dự trữ của các cơ quan Tòa Thánh không được ghi trong ngân sách.

Kết toán của Tòa Thánh từ nay được thi hành theo các nguyên tắc quốc tế. (SD 16-7-2015)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

1 triệu người dự thánh lễ chót của Đức Thánh Cha tại Paraguay

1 triệu người dự thánh lễ chót của Đức Thánh Cha tại Paraguay

Pope celebrated mass in Paraguay

ASUNCIÓN. Trong thánh lễ cuối cùng sáng chúa nhật 12-7-2015 kết thúc cuộc viếng thăm Mỹ châu, ĐTC kêu gọi hơn 1 triệu tín hữu thực thi tinh thần hiếu khách.

Sáng chúa nhật, sau khi viếng thăm khu phố nghèo Banado Norte, ĐTC đã đến Đền thánh ”Nu Guazú – Thánh Giá thánh Gioan Phaolô 2” để cử hành thánh lễ cho các tín hữu. Chính tại nơi này, trong chuyến viếng thăm cách đây 27 năm, ngày 16-5 năm 1988, Đức Cố Giáo Hoàng đã chủ sự thánh lễ để tôn phong hiển thánh cho cha Roque Gonzalez Thánh Giá và các bạn tử đạo. Cánh đồng rộng lớn này ở trong khu vực một căn cứ không quân và có thể tiếp nhận 1 triệu 500 ngàn người.

Từ thứ bẩy hôm trước, 11-7, 150 ngàn người đã đến đây để chuẩn bị tham dự thánh lễ cuối cùng của ĐTC trong cuộc viếng thăm.

Đến nơi vào lúc quá 9 giờ 15 phút sáng, ĐTC đã dành gần nửa tiếng đồng hồ tiến qua các lối đi để chào thăm hơn một triệu tín hữu tụ tập tại đây, trong bầu không khí rất nồng nhiệt, trong đó cũng có hàng trăm ngàn người từ Argentina láng giềng qua đây để dự lễ với ĐTC, xét vì theo chương trình, năm tới ngài mới trở về thăm quê hương. Hiện diện trong thánh lễ cũng có tổng thống Horadio Cartes của Paraguay và bà tổng thống Kristin Kirchner của Argentina.

Đồng tế với ĐTC có hàng trăm GM, trong đó có 22 GM Paraguay, 50 GM Ecuador và Bolivia cùng với các GM khách, và đông đảo các linh mục.

Lễ đài thật là đặc biệt do nghệ sĩ Delfin Roque Ruiz thực hiện với rất nhiều bắp ngô màu vàng và vỏ dừa nâu, do hàng ngàn nông dân tặng. Với các chất liệu đó, Ông Roque Ruiz đã ghép thành huy hiệu của dòng Tên, hình thánh Phanxicô Assisi và thánh Ignaxio Loyola. Trên các vỏ dừa ở phần dưới lễ đài có ghi nhiều sứ điệp của ĐTC.

Bài giảng thánh lễ

Trong bài giảng Thánh Lễ, ĐTC đã quảng diễn bài Tin Mừng ghi lại lời Chúa Giêsu nhắn nhủ các môn đệ khi ngài sai họ đi rao giảng Tin Mừng: đừng mang theo gậy, bị, tiền bạc, hai áo, và ngài nhấn mạnh đến một từ là chìa khóa của linh đạo Kitô giáo, trong kinh nghiệm làm môn đệ Chúa, đó là lòng hiếu khách, sự đón tiếp. Chúa Giêsu như một bậc thầy, một nhà sư phạm giỏi, sai các môn đệ đi sống lòng hiếu khách. Chúa nói với họ: ”Các con hãy ở lại nơi mà họ đón tiếp các con”. Chúa sai họ đi để học một trong những đặc tính cơ bản của cộng đồng tín hữu. Chúng ta có thể nói rằng Kitô hữu là người đã học cách đón tiếp. ĐTC nói:

”Chúa Giêsu không sai họ đi như một kẻ hùng mạnh, như những chủ nhân, thủ lãnh, đầy những luật lệ, qui tắc; trái lại Ngài chỉ cho họ thấy con đường của Kitô hữu là biến đổi con tim. Học cách sống một cách khác, với một luật khác, theo một qui tắc khác. Đó là tiến từ đường hướng ích kỷ, khép kín, đụng độ, chia rẽ, tự tôn, tiến tới một hướng đi bênh vực sự sống, nhưng không, yêu thương. Từ thái độ thống trị, đè nén, lèo lái, tiến sang thái độ đón tiếp, tiếp nhận, săn sóc. Đó là hai thái độ, hai cách thức đối đầu với cuộc sống, sứ vụ.

ĐTC nhận xét rằng: ”Bao nhiêu lần chúng ta quan niệm sứ vụ dựa trên những dự phóng hoặc chương trình. Bao nhiêu lần chúng ta tưởng nghĩ việc loan báo Tin Mừng xoay quanh hàng ngàn chiến lược, chiến thuật, ”mánh mung” và thủ đoạn, tìm cách hoán cải người khác bằng những lý luận. Hôm nay, Chúa nói với chúng ta thật là rõ ràng theo tiêu chuẩn của Tin Mừng: chúng ta không thuyết phục bằng những lý lẽ, chiến lược, chiến thuật, nhưng bằng cách học đón tiếp.

ĐTC nói tiếp:

”Giáo Hội là người mẹ có tâm hồn rộng mở biết đón tiếp, đón nhận, nhất là những người đang cần được săn sóc nhiều nhất, những người ở trong tình trạng khó khăn lớn hơn. Giáo Hội là căn nhà đón tiếp. Chúng ta có thể hoạt động tốt đẹp dường nào nếu chúng ta khích lệ nhau học ngôn ngữ hiếu khách, đón tiếp! Bao nhiêu vết thương, bao nhiêu tuyệt vọng có thể chữa trị tại nơi mà người ta cảm thấy mình được đón nhận.

Hiếu khách đối với người đói khát, người nước ngoài, kẻ trần trụi, người bệnh, tù nhân (Xc Mt 25,34-37), với người phong cùi, bất toại. Hiếu khách đối với những người không nghĩ như chúng ta, không có tín ngưỡng hoặc đã đánh mất. Hiếu khách với người bị bách hại, thất nghiệp. Hiếu khách với những nền văn hóa khác.. hiếu khách với người tội lỗi.

ĐTC cũng cảnh giác rằng: ”Có một sự ác dần dần làm tổ trong tâm hồn chúng ta và ăn mòn sức sinh động của chúng ta, đó là sự cô đơn. Cô đơn có thể do nhiều nguyên do, nhiều động lực. Nó tách rời chúng ta khỏi người khác, khỏi Thiên Chúa, khỏi cộng đoàn. Nó khép kín chúng ta vào mình. Nhưng Chúa mở chúng ta vào một đường hướng mới. Thiên Chúa không bao giờ khép kín cách chân trời, Ngài không bao giờ thụ động trước sự sống và đau khổ. Ngài vĩnh viễn là một chân trời mới, vĩnh viễn là một Lời Mời cho bao nhiêu tình trạng loại trừ, băng hoại, khép kín, cô lập. Ngài là một lời phá vỡ sự im lặng của cô đơn.

Cuối thánh lễ, ĐTC đã chủ sự kinh Truyền Tin và trong bài huấn dụ ngắn, ngài khích lệ các tín hữu Paraguay hãy tín thác đến cùng Mẹ Maria, cởi mở tâm hồn, phó thác cho Mẹ niềm vui nỗi buồn, hy vọng và đau khổ. Ngài cung cầu xin Mẹ Maria canh giữ Giáo Hội và củng cố các mối dây huynh đệ giữa mọi phần tử của Giáo Hội với nhau. Với ơn phù trợ của Mẹ Maria, Giáo Hội được trở thành một căn nhà biết đón tiếp, một người mẹ của mọi dân tộc.

Sau thánh lễ, ĐTC đã về tòa Sứ Thần Tòa Thánh cách đó 8 cây số, rồi gặp riêng 22 GM, chủ chăn của 15 giáo phận Paraguay tại trung tâm văn hóa của tòa Sứ Thần. Hiện diện trong dịp này cũng có các GM Ecuador và Bolivia, hai nước vừa được ĐTC viếng thăm.

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Ngày thứ hai chuyến ĐTC Phanxicô viếng thăm Paraguay

Ngày thứ hai chuyến ĐTC Phanxicô viếng thăm Paraguay

ĐTC gặp đại diện dân sự

Tính tới trưa thứ bẩy vừa qua chuyến viếng thăm Paraguay của ĐTC Phanxicô đã tiến hành được một nửa.

Sau thánh lễ tại trung tâm thánh mẫu Caacupé ĐTC đã về Toà Sứ Thần Tòa Thánh để dùng bữa trưa và nghỉ ngơi chốc lát trước khi tiếp tục các sinh họat khác vào ban chiều: gặp gỡ đại diện các thành phần xã hội dân sự tại toà nhà thể thao León Condou lúc 4 giờ rưỡi chiều, và chủ sự buổi hát Kinh Chiều với các Giám Mục, linh mục tu sĩ nam nữ, chủng sinh và các thành viên phong trào công giáo trong nhà thờ chính tòa lúc sau 6 giờ chiều.

Chúa Nhật 12-7 ĐTC đã có ba sinh hoạt chính. Trước hết lúc sau 8 giờ sáng ngài viếng thăm dân nghèo vùng Banhado Norte. Tiếp đến là chủ sự thánh lễ tại đền thánh Nhu Guazú, nơi Thánh Gioan Phaolô II đã tôn phong hiển thánh cho chân phước Roque  Gonzalez de Santa Cruz và các bạn, rồi gặp gỡ HĐGM Paraguay, và vào lúc 5 giờ chiều gặp gỡ giới trẻ trên bờ sông Costanera, trước khi ra phi trường lấy máy bay trở về Roma.

Sau đây kính mời quý vị theo dõi hai sinh hoạt còn lại của ĐTC chiều thứ bẩy và biến cố viếng thăm dân nghèo sáng Chúa Nhật.

Lúc sau 4 giờ chiều thứ bẩy ĐTC đã đi xe từ Tòa Sứ Thần Tòa Thánh tới tòa nhà thể thao León Condou của trường Thánh Giuse, cách đó 2 cây số rưỡi.  Tòa nhà này có thể chứa 5.000 người và nằm trong khu vực trường Thánh Giuse do các linh mục dòng Thánh Tâm Bétharram điều khiển.

ĐTC đã được cha Bề trên dòng và ban giám đốc trường tiếp đón. Đại diện các thành phần xã hội dân sự tham dự cuộc gặp gỡ gồm các nhà giáo, các nghệ sĩ, doanh thương kỹ nghệ, nghiệp đoàn, lực sĩ thể thao thể dục, giới truyền thông, các hiệp hội phụ nữ, giới nông dân và thổ dân.

Sau lời chào mừng của ĐC Alberto Martinez Flores thư ký HĐGM Paraguay, đã có phần chia sẻ chứng từ của 5 đại diện các giới.

Ngỏ lời với mọi người ĐTC bầy tỏ niềm vui có thể gặp gỡ các đại diện của xã hội dân sự Paraguay để chia sẻ với họ các giấc mơ và các lý tưởng của một tương lại tươi sáng hơn. Nhìn thấy anh chị em tất cả là những người thuộc một lãnh vực, một tổ chức của xã hội Paraguay yêu qúy, với các niềm vui, lo âu, chiến đấu và tìm tòi, khiến cho tôi nâng lời cảm tạ Thiên Chúa. Một dân tộc mà không duy trì sống động các lo lắng của mình là một dân tộc đã chết. Trái lại, tôi trông thấy nơi anh chị em nhựa sống của một cuộc sống luân lưu và muốn nảy mầm. Thiên Chúa chúc phúc cho điều này. ĐTC giải thích thêm như sau:

Thiên Chúa luôn luôn thuận lợi với những gì trợ giúp nâng cao và cải tiến cuộc sống của con cái Ngài. Có những chuyện không tốt, phải. Có những hoàn cảnh bất công, phải. Nhưng nhìn thấy anh chị em và nghe anh chị em giúp tôi canh tân lòng hy vọng nơi Chúa, là Đấng tiếp tục hành động giữa dân Ngài. Đến từ nhiều quan điểm khác nhau, từ nhiều hoàn cảnh và lộ trình khác nhau, anh chị em tất cả cùng nhau làm thành nền văn hóa Paraguay. Anh chị em tất cả đều cần thiết cho việc kiếm tìm công ích. “Trong các điều kiện hiện nay của xã hội trên thế giới này, nơi người ta gặp biết bao nhiêu gian ác và luôn luôn có nhiều người bị gạt bỏ”, đuợc gặp anh chị em nơi đây là một món quà.

Tiếp đến ĐTC đã trả lời ba câu hỏi của cử tọa. Một bạn trẻ hỏi phải làm sao để xã hội là một nơi của tình huynh đệ, công bằng, hòa bình và phẩm giá cho tất cả mọi người. ĐTC nói: tuổi trẻ là thời gian ôm ấp các lý tưởng. Thật là quan trọng, khi các bạn trẻ hiểu rằng hạnh phúc đích thật đi qua cuộc tranh đấu cho một thế giới huynh đệ hơn. Thật là tốt đẹp, khi người trẻ nhận thức rằng hạnh phúc và khoái lạc không giống nhau. Nhưng hạnh phúc đòi hỏi sự dấn thân và tận tụy. Paraguay có đầy tràn người trẻ và đó là một sự phong phú lớn. Vì thế tôi nghĩ điều đầu tiên phải làm đó là tránh để cho sức mạnh này, ánh sáng này tắt lịm trong con tim các bạn, và chống lại tâm thức ngày càng gia tăng coi việc khát vọng những điều đáng công là vô ích và không thể hiểu nổi. Tranh tài cho  một cái gì đó, tranh tài cho một ai đó. Các bạn đừng sợ hãi cho đi tất cả trên sân đấu. Đừng sợ cho đi tất cả những gì tốt nhất của mình. Điều đó phải, nhưng đừng làm một mình. Hãy tìm thảo luận, lợi dụng để lắng nghe cuộc sống, các lịch sử, các câu chuyện của những người già, của giới ông bà của các bạn. Hãy mất nhiều thời giờ để lắng nghe tất cả những điều tốt đẹp mà các ngài có thể dậy dỗ các bạn. Các ngài là những người giữ gìn gia tài tinh thần đức tin và các giá trị nhào nặn một dân tộc và soi sáng đường đi của các bạn.

ĐTC nhắn nhủ mọi người hãy tìm an ủi trong sức mạnh của lời cầu nguyện, nơi Chúa Giêsu, trong sự hiện diện liên lỉ thường ngày của Người. Qua ký ức của dân tộc anh chị em, Chúa Giêsu là bí quyết giúp con tim của anh chị em luôn tươi vui trong việc kiếm tìm tình huynh đệ, công bằng, hòa bình và phẩm giá cho tất cả mọi người. Tôi rất thích bài thơ của thi sĩ Carlos Miguel Giménez mà ĐC Alberto Martinez đã trích dẫn. Tôi nghĩ nó diễn tả diều tôi muốn nói với anh chị em: “Tôi mơ một thiên dàng không có chiến tranh giữa các anh em, giầu những người khoẻ mạnh trong linh hồn và con tim và một Thiên Chúa chúc lành cho cuộc thăng thiên mới của nó”. Phải, Thiên Chúa bảo đảm cho phẩm giá của con người.

Trả lời câu hỏi thứ hai liên quan tới sự đối thoại như phương thế xây dựng một dự án quốc gia bao gồm tất cả mọi người. ĐTC nói Đúng thật là đối thoại không dễ. Có nhiều khó khăn phải vượt thắng, và đôi khi xem ra chúng ta lại dấn thân khiến cho chúng trở thành khó khăn hơn. Đối thoại giả thiết, đòi buộc từ chúng ta nền văn hóa gặp gỡ. Một cuộc gặp gỡ biết thừa nhận rằng sự khác biệt không chỉ là điều tốt, mà con cần thiết nữa. Vì thế điểm khởi hành không thể là người khác đang sai lầm. Công ích được tìm kiếm từ các khác biệt của chúng ta, bằng cách luôn luôn trao ban khả thể cho các lựa chọn mới. Nó có nghĩa là tìm ra cái gì mới, cùng nhau thảo luận , suy nghĩ một giải pháp tốt đẹp hơn cho tất cả mọi người. Nhiều khi nền văn hóa gặp gỡ bị lôi cuốn vào một cuộc xung đột. Đây là điều có thể thấy trước. Nhưng chúng ta không được sợ hãi nó, hay không biết đến nó, trái lại chúng ta được mời gọi chấp nhận nó. Điều này có nghĩa là “chấp nhận chịu đựng cuộc xung đột, giải quyết nó và biến đổi nó thành một móc xích nối với một tiến trình mới” (Niềm Vui Phúc Âm, 227). Bởi vì sự hiệp nhất cao hơn xung khắc” (ibid., 228). Một sự hiệp nhất không bẻ gẫy các khác biệt, nhưng sống nó trong sự hiệp thông và  qua tình liên đới và sự cảm thông. Khi tìm hiểu biết các lý do của người khác, kinh nghiệm của họ, các ước mong của họ, chúng ta có thể thấy rằng đa số chúng là các ước vọng chung. Nền tảng của sự gặp gỡ đó là chúng ta tất cả là anh em, con của cùng một Cha trên trời, mỗi người với nền văn hóa tiếng nói, các truyền thống riêng và có nhiều điều để cống hiến cho cộng đoàn. Các nền văn hóa thật không đóng kín trong chính mình, nhưng được mời gọi gặp gỡ các nền văn hóa khác và tạo ra các thực tại mới. Nếu không có giả thiết nòng cốt và nền tảng huynh đệ này, sẽ rất khó đạt tới cuộc đối thoại. Ai cho rằng có những người, những nền văn hóa những hoàn cảnh thuộc hạng hai hạng ba hay hạng bốn, thì có điều gì đó không ổn, vì thiếu cái tối thiểu là việc thừa nhận phẩm giá của người khác.

Câu hỏi thứ ba liên quan tới việc tiếp nhận tiếng kêu của dân nghèo để xây dựng một xã hội bao gồm mọi người. ĐTC nói có một khía cạnh nền tảng giúp thăng tiến người nghèo: đó là cách chúng ta nhìn họ. Không cần một cái nhìn ý thức hệ rốt cuộc sử dụng người nghèo cho các lợi lộc chính trị hay cá nhân khác.

Để tìm thiện ích cho người nghèo điều đầu tiên là biết lo lắng cho con người của họ, đánh giá họ vì lòng tốt của họ. Nhưng việc đánh giá đích thực đòi hỏi phải sẵn sàng học hỏi nơi họ. Người nghèo có rất nhiều để dậy chúng ta trong lãnh vực nhân bản, lòng tốt, hy sinh. Và ngoài ra kitô hữu chúng ta lại còn có một lý do nữa để yêu thương và phục vụ người nghèo: vì nơi họ chúng ta trông thấy gương mặt và thịt xác của Chúa Kitô, Đấng đã trở nên nghèo nàn để khiến cho chúng ta giầu có nhờ sự nghèo nàn của Ngài (x. “ Cr 8,9).

ĐTC khẳng định rằng sự tăng trưởng kinh tế và việc tạo ra giầu có cho cả mọi người không loại trừ ai,  rất cần thiết cho một nước. Việc tạo ra sự thịnh vượng ấy phải luôn luôn phục vụ công ích, chứ không phải chỉ phục vụ một ít người thôi. “Việc tôn thờ con bò vàng xưa kia (Xh 32,1-35) đã tìm ra một ấn bản mới không thương xót trong việc tôn thờ thần tượng tiền bạc và sự độc tài của một nền kinh tế không có gương mặt” (Niềm vui Phúc Âm 55). Các người có ơn gọi trợ giúp phát triển kinh tế có nhiệm vụ bảo đảm để nền kinh tế luôn có gương mặt nhân bản. Họ nắm trong tay khả thể cung cấp công ăn việc làm cho rất nhiều người và trao ban hy vọng cho biết bao nhiêu gia đình. Việc làm là một quyền và nó trao ban phẩm giá cho con người. Đem bánh về nhà, cống hiến cho con cái một mái nhà, sức khoẻ, giáo dục là các khiá cạnh nền tảng của phẩm giá con người, và các doanh thương, các nhà chính trị, các nhà kinh tế phải để cho mình được gọi hỏi bởi những điều đó. ĐTC đã đưa ra lời kêu gọi như sau:

Tôi xin anh chị em đừng nhượng bộ  một mô thức kinh tế tôn thờ thần giả cần hy sinh các mạng người trên bàn thờ của tiền bạc và lợi nhuận. Trong các lãnh vực kinh tế, trong hãng xưởng, chính trị, điều đầu tiên là conn người và môi trường trong đó nó sinh sống.

ĐTC ghi nhận rằng Paraguay nổi tiếng là vùng đất nơi đã bắt đầu các “Giảm thiểu” là một trong các kinh nghiệm hay nhất của việc rao truyền Tin Mừng và tổ chức xã hội trong lịch sử. Trong đó Tin Mừng đã là linh hồn và cuộc sống cộng đoàn không có đói khát, thất nghiệp, mù chữ, áp bức. Kinh nghiệm lịch sử này dậy cho chúng ta biết rằng một xã hội nhân bản hơn là điều có thể thực hiện được, cả ngày nay nữa. Khi có tình yêu đối với con người và ý chí phục vụ, thì có thể tạo ra các điều kiện để tất cả mọi người có các của cải cần thiết, và không có ai bị loại trừ.

Cuối cùng ĐTC khích lệ mọi người yêu thương quê hương, các công dân và nhất là yêu thương người nghèo. Như thế anh chị em sẽ là một chứng tá trước mặt thế giới và cho thấy một mẫu phát triển khác là điều có thể làm được. Tôi xác tín rằng anh chị em có sức mạnh lơn lao nhất có thể có đó là nhân bản tính , đức tin và tình yêu thương của anh chị em.

Diễn văn của ĐTC đã nhiều lần bị ngắt quãng bởi các tràng pháo tay của cử tọa.

Sau khi ban phép lành tòa thánh ĐTC đã từ giã giới đại diện xã hội dân sự để tới nhà thờ chính tòa Đức Mẹ hồn xác lên trời cách đó 2 cây số rưỡi chủ sụ buổi hát Kinh Chiều với các Giám Mục, linh mục, tu sĩ nam nữ, chủng sinh và thành viên các phong trào công giáo. Nhà thờ chính tòa Đức Mẹ hồn xác lên trời dã được tái thiết hồi đầu thế kỷ XIX và còn cất giữ cây thánh giá “La Cruz de la Parra”, là cây thánh giá duy nhất trong số 29 cây Thánh Giá mà ông Cristoforo Colombo đã trồng trên đất châu Mỹ Latinh trong 4 chuyến thám hiểm đại lục này. Nhà thờ có chỗ cho 1000 người.

Ông thị trường đã đón tiếp ĐTC trên thềm nhà thờ và trao chià khóa của thành phố cho ngài. Một dàn nhạc gồm 200 nhạc công đã trình tấu các bản nhạc truyền thống chào đón ĐTC.

Kinh chiều đã được hát bằng tiếng Tây Ban Nha và tiếng của các thổ dân Paraguay.

Ngỏ lời với mọi người ĐTC nói thật là đẹp biết bao cùng nhau cầu nguyện. Làm sao không mơ ước một Giáo Hội phản ánh và lập lại sự hài hòa của các tiếng nói và lời ca trong cuộc sống thường ngày! Và chúng ta làm điều này trong nhà thờ chính toà đã bao lần phải bắt đầu xây lại này. Nó là dấu chỉ của Giáo Hội và từng người trong chúng ta: đôi khi các bão tố từ bên ngoài và từ bên trong bắt buộc chúng ta đập phá những gì chúng ta đã xây dựng và bắt đầu lại, nhưng luôn luôn với câu trả lời hy vọng của Thiên Chúa.

Lời cầu nguyện làm nổi bật lên điều mà chúng ta đang sống hay đáng lý ra phải sống trong cuộc sống thường ngày. Ít nhất là lời cầu nguyện không muốn trở thành tha hóa hay chỉ là đồ trang sức… Lời cầu nguyện thúc đẩy chúng ta thực thi và kiểm thực điều chúng ta đọc  trong các thánh vịnh “Chúng ta ở trong tay Chúa là Đấng nâng chúng ta dậy từ rác rưởi” (Tv 112,7) và chúng ta phải làm việc để nỗi buồn sầu vì sự khô cằn của chúng ta biến thành cánh đồng phì nhiêu. Chúng ta hát “Cuộc sống của các tín hữu Ngài quý giá trước mặt Ngài lậy Chúa” (Tv 116,15) chúng ta là những người chiến đấu, dấn thân, chúng ta bảo vệ giá trị của mọi sự sống con người, từ lúc sinh ra cho tới khi tuổi già sức yếu. Lời cầu nguyện phản ánh tình yêu thương chúng ta cảm nhận đối với Thiên Chúa và tha nhân, đối với thế giới thụ tạo… Tình yêu thương đó diễn tả gương mặt của người môn đệ của Chúa Giêsu. Bám chặt vào Chúa khiến cho ơn gọi kitô được sâu sắc, lôi cuốn chúng ta vào kiểu hành xử của Chúa Giêsu và tìm trở nên giống Ngài trong mọi sự Ngài làm. Vẻ đẹp của Giáo Hội phát xuất từ nỗ lực trở nên đồng hình dạng ấy với Chúa Kitô.

ĐTC đã khích lệ hàng giáo sĩ, tu sĩ, giáo dân và chung sinh lớn lên trong ý thức hiệp nhất cộng tác tông đồ. Ngài nói:

Thật là đẹp trông thấy anh chị em cộng tác với nhau trong việc mục vụ, luôn luôn khởi hành từ bản chất và nhiệm vụ của mỗi ơn gọi và đặc sủng. Tôi ước mong khuyến khích anh chị em tất cả, các linh mục, tu sĩ nam nữ. giáo dân và chủng sinh dấn thân trong sự cộng tác giáo hội này, đặc biệt trong các chương trình mục vụ của các giáo phận và việc truyền giáo đại lục, cộng tác với tất cả sự sẵn sàng vào công ích. Nếu sự chia rẽ giữa chúng ta tạo ra sự khô cằn, thì chắc chắn từ sự hiệp thông và hòa hợp này sẽ nảy sinh ra sự phong phú vì chúng đồng thanh với Chúa Thánh Thần.

ĐTC nói thêm: tất cả chúng ta đều có các hạn hẹp và không ai có thể diễn tả lại Chúa Giêsu trong sự toàn vẹn của Người, tuy mỗi ơn gọi đồng hình trong nòng cốt với vài ánh sáng cuộc sống và công việc của Chúa Giêsu, vẫn có vài nét chung và không thể khước từ đuợc. Chúng ta vừa chúc tụng Chúa, vì Người “không coi việc giống như Thiên Chúa là một đặc ân” (Fl 2.6) và đây là đặc tính của mọi ơn gọi kitô: ai được Thiên Chúa gọi đừng khoe khoang, đừng tìm kiếm các thừa nhận cũng như các vỗ tay tán đồng mau qua, không cảm thấy mình đã lên cấp và đối xử với người khác như thể họ là bục để chân.

Lời Chúa trong thư gửi giáo đoàn Do thái mời gọi trở nên hoàn thiện như vị Mục Tử vĩ đại của đoàn chiên. Điều này bao gồm việc nhận ra rằng mỗi người sống đời thánh hiến phải đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô, Đấng “khi còn sống kiếp phàm nhân đã lớn tiếng kêu van khóc lóc” và đạt sự hoàn thiện, khi học biết qua khổ đau thế nào là vâng phục. Điều này là phần ơn gọi của chúng ta.

Tháp chuông của nhà thờ này đã được xây lại nhiều lần, tiếng chuông vang lên trước và đồng hành với lời cầu nguyện phụng vụ của chúng ta trong nhiều dịp: được đổi mới bởi Thiên Chúa mỗi khi chúng ta cầu nguyện, được củng cố như tháp chuông, tươi vui gióng lên chúc tụng các kỳ công của Thiên Chúa, chúng ta hãy chia sẻ kinh Magnificat và để cho Chúa thành toàn, qua cuộc sống thánh hiến, các điều lớn lao trong đất nước Paraguay này.

Sau khi ban phép lành và từ giã mọi người ĐTC đã đi xe về Tòa Sứ Thần Toà Thánh để dùng bữa tối và nghỉ đêm.

Lúc 8 giờ sáng Chúa Nhật hôm qua ĐTC đã đi xe tới thăm dân nghèo vùng Banhado Norte. Đây là vùng sình lầy nơi Giáo Hội và Nhà nước có các chương trình trợ giúp dân chúng. Giáo xứ tại đây có 13 nhà nguyện nhỏ rải rác toàn vùng, trong đó có nhà nguyện Thánh Gia là nơi diễn ra cuộc gặp gỡ. Nhà nguyện quay ra một sân thể thao nơi có vài ngàn người chờ đợi ĐTC. Trong số này có các học sinh các trường Caacupemí và Santa Cruz “Fe y Alegría” Thánh Giá Đức Tin và Niềm vui. Trường này thuộc dự án giáo dục do dòng Tên đảm trách tại 400 địa điểm giáo dục trong các vùng chịu nhiều thiệt thòi nhất nước Paraguay.

ĐTC đã được cha Ireneo Valdez dòng Tên cha sở họ đạo và cha Giám Tỉnh tiếp đón.

Sau phần hát chào mừng đã có hai người đại diện chia sẻ chứng từ.

Ngỏ lời với mọi người hiện diện ĐTC nói cuộc gặp gỡ tại giáo xứ Thánh Gia khiến ngài nghĩ tới Thánh Gia Nagiarét. Khi nhìn thấy họ và nghe các câu chuyện cuộc đời cũng như các chiến đấu gian khổ của họ để có một cuộc sống xững đáng với phẩm giá con người, ngài thấy nó giống như cuộc đời của Chúa Giêsu Mẹ Maria và Cha Thánh Giuse. Tuy đầy bất trắc khó khăn, như các vụ lụt lội trong các tuần vừa qua, nhưng nó không lấy mất đi nụ cười và niềm hy vọng của họ. Thánh Gia cũng đã phải rời bỏ quê hương để di cư lánh nạn đến một vùng đất xa lạ không thân thích, với hai bàn tay trắng. Nhưng Mẹ Maria và Thánh Giuse đã ban cho chúng ta Chúa Giêsu. Chính niềm tin nơi Chúa Giêsu khiến cho chúng ta gần gũi với cuộc sống của tha nhân và dấn thân sống tình liên đới. Một đức tin không có tình liên đới là một đức tin chết, một đức tin không có Chúa Kitô, không có Thiên Chúa và không có các người anh em khác. Niềm tin nơi Chúa KItô dấy lên khả năng mơ ước một tương lai mới tốt đẹp hơn, và chiến đấu để thực hiện nó. Tôi khích lệ anh chị em tiếp tục là thừa sai khiến cho đức tin lây lan tới mọi người và ở khắp mọi nơi.

Sau khi từ giã dân nghèo vùng Benhado Norte ĐTC đã đi xe tới đền thánh Nhu Guazu để chủ sự thánh lễ cho tín hữu. Đây là nơi Thánh Gioan Phaolô II đã phong hiển thánh cho chân phước Roque Gongalez de Santa Cruz và các bạn trong chuyến công du Paraguay hồi tháng 5 năm 1988. Cánh đồng Nhu Guazú nằm trong căn cứ không quân có thể chứa tới 1,5 triệu người. Chúng tôi sẽ tường thuật thánh lễ, cuộc gặp gỡ giới trẻ tại bờ sông Costanera và lễ nghi từ biệt Paraguay trong các buổi phát ngày mai.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Lời dặn dò cần thiết

Lời dặn dò cần thiết

Chúa Giêsu lập Nhóm Mười Hai. Ngài cho các ông sống bên cạnh mình. Ngài trực tiếp huấn luyện, bằng cách cho các môn đệ được nghe những lời Ngài giảng, được xem những việc Ngài làm. Sau đó, Ngài sai các môn đệ ra đi thực tập truyền giáo. Hai động từ “gọi, sai đi” diễn tả rõ rệt ơn gọi của các Tông đồ. Trước khi các học trò lên đường, Chúa Giêsu căn dặn nhiều điều như là hành trang cần thiết cho sứ vụ tông đồ. M. Quesnel ví những lời đó như “một loại thủ bản, một cẩm nang cho một nhà truyền giáo hoàn hảo” (“Comment lire un évangile?”, Seuil, trang 103).

1. Hành trang người tông đồ

a. Hành trang đi đường: cây gậy, đôi dép, không mang hai áo. Ý nghĩa ở đây là những kẻ được sai đi phải là những con người thanh thoát, không cồng kềnh nặng nề với của cải vật chất để có thể luôn sẵn sàng lên đường ra đi cho sứ vụ.

Các môn đệ được tham dự vào ba chức năng tư tế, tiên tri và vương đế của Chúa Giêsu. Cây gậy của vương đế, đôi dép của tiên tri, và tấm áo của tư tế.

– Cây gậy

Cây gậy trong tay biểu trưng cho sức mạnh của Thiên Chúa thông ban cho người thi hành sứ vụ loan báo Tin Mừng. Ra đi với niềm tin vào năng quyền của Thiên Chúa trao ban: công bố Tin mừng cứu độ của Đức Kitô, chữa lành và thánh hoá nhằm cải thiện đời sống, xua trừ ma quỷ hầu chế ngự và đẩy lui các thế lực sự dữ.

– Đôi dép

Đôi dép là hình ảnh luôn lên đường. Truyền giáo là ra đi. Đi để mang sứ điệp Tin mừng đến với muôn dân. Sứ vụ sai đi khởi phát từ Chúa Cha “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em”.

– Tấm áo

Người ra đi mang áo là mặc lấy tâm tình Chúa Giêsu. Nhờ đó, các môn đệ làm cho cuộc đời mình trở nên của lễ hiến dâng hợp với hiến lễ Chúa Kitô.

Chúa Giêsu trao cho các ông những quyền năng Ngài có: quyền rao giảng, quyền chữa bệnh, quyền trừ quỷ. Đó là hành trang quan trọng hàng đầu. Mọi hành trang khác chỉ là phụ thuộc: một chiếc áo đang mặc, một cây gậy và đôi dép khi đi đường.Với những hành trang như thế, Chúa Giêsu muốn tỏ cho thấy sự thành công trong hoạt động tông đồ không do tài lực của con người nhưng là do quyền năng Thiên Chúa.

b. Phương tiện sinh sống: không được mang lương thực, bao bị, tiền bạc. Hành trình như vậy đặt các người được sai đi trong tư thế tuỳ thuộc. Không vướng víu, không “mọc rễ” bất cứ đâu để nhẹ nhàng ra đi nơi đâu Chúa muốn.

c. Tương lai bấp bênh. Chúa Giêsu cũng không giấu diếm họ điều gì. Con đường truyền giáo là con đường đầy chông gai, lắm gian khó. Cũng như Ngài, họ đón nhận sự rủi ro bị từ chối, bị xua đuổi. Cần phải hy sinh bản thân. Đó là thân phận kẻ được gọi, được sai đi. Ra đi mà không gì bảo đảm, ra đi mà không mảy may dính bén. Sẵn sàng đến mà cũng sẵn sàng đi. Thành công cũng không thụ hưởng mà thất bại cũng chẳng đắng cay. Bởi lẽ như lời Thánh phaolô nòi: Tôi trồng, Apollô tưới, Chúa cho mọc lên.

Người truyền giáo luôn bị cám dỗ định cư, tìm an toàn bảo đảm bản thân, an nghĩ trong những thành công tạm bợ…và không muốn ra đi. Càng gắn bó, lúc cách xa càng luyến nhớ. Sâu đậm bao nhiêu, lúc giã biệt sẽ nuối tiếc bấy nhiêu. Vì vậy, Chúa muốn các môn đệ luôn sẵn sàng ra đi. Lên đường bao giờ cũng đẹp. Hạnh phúc chỉ dành cho ai dám lên đường tìm kiếm.

2. Phương thức hoạt động:”từng hai người một”

Khi sai đi “từng hai người một “, Chúa Giêsu mong các ông hợp tác và liên đới với nhau, khích lệ và bàn hỏi nhau khi gặp khó khăn “Hai người có giá trị hơn một, nếu họ ngã, người này đỡ người kia dậy” (Gv 4,9). Hai người làm việc chung, nâng đỡ nhau biểu lộ tình yêu thương nhau như một dấu chỉ đặc trưng của môn đệ của Chúa (x. Ga 13,35). Dấu chỉ này là một chứng từ sống động và lôi cuốn người khác.

Trong Công vụ Tông đồ, các nhà truyền giáo thường lên đường với nhau “từng hai người một”: Phêrô đi với Gioan (Cv 3,1; 4,13); Phaolô với Banabê (Cv 1 3,2); Giuđa và Sila (Cv 15,22)… Hoạt động tông đồ luôn là tạo thành nhóm. Nếp sống huynh đệ là một bài giảng về tình yêu. Chứng tá Kitô hữu phải nhắm đến một hình thức cộng đoàn trong Giáo Hội. Cuộc sống yêu thương trong cộng đoàn vừa là dấu hiệu của người môn đệ Chúa Giêsu, vừa là lời rao giảng sống động, hùng hồn nhất về Tin Mừng.

3. Tinh thần tông đồ là ra đi

Trao “Sứ vụ” cho các môn đệ, Chúa Giêsu không bảo các ông “phải giảng điều gì”. Ngài chỉ căn dặn các ông những chi tiết “phải sống”. Đối với Chúa Giêsu, ra đi làm chứng tá bằng cuộc sống quan trọng hơn chứng tá bằng lời nói.

Suốt mấy năm ra mặt với đời để thi hành sứ vụ, Chúa Giêsu không ngừng đi rày đây mai đó. Ngài luôn ngang dọc trên mọi nẻo đường đất nước để truyền giáo. Từ hội đường này đến hội đường khác (Mt 4,23). Đôi khi ở ngoài trời, ở ngoài đường. Trên một sườn núi cũng có (Mt 5,1), bên một bờ hồ hiu quạnh cũng có (Mc 6,30-34). Có khi “mệt mỏi vì đường sá”, một mình ngồi trên thành giếng nói chuyện với người phụ nữ đến kín nước (Ga 4,6). Có lúc vì dân chúng chen lấn xung quanh đông đảo quá thì “Ngài mới lên một chiếc thuyền, thuyền của Simon và xin ông ấy chèo ra xa bờ một tí. Ngài ngồi xuống rồi từ ngoài thuyền nói vào mà giảng dạy dân chúng” (Lc 5,3). Chúa Giêsu thực hiện một cuộc hành trình liên miên. Theo ngôn ngữ của Phúc âm Marcô chương 1: Ngài bỏ Nazareth để đến gặp Gioan bên sông Giođan, rồi đến Galilê, dọc theo bờ biển Galilê, và Ngài đi rao giảng trong các hội đường khắp xứ Galilê. Trong chương 2: ít lâu sau, Ngài lại về Capharnaum… Ngài ngang qua đồng lúa … Cứ đi và đi như vậy mãi.

Chính giữa khung cảnh đường dài trời rộng thênh thang ấy mà lời giảng dạy của Chúa bao giờ cũng khởi hứng từ một hoàn cảnh cuộc sống. Các hình ảnh cuộc sống đời thường gần gũi tràn ngập trong lời rao giảng. Cánh huệ mọc ngoài đồng. Đàn chim sẻ đang bay. Một đám ruộng lúa chín vàng mở rộng đến chân trời. Một mẻ cá lớn bên biển hồ. Những hạt giống người nông phu gieo vương vãi trên đường mòn,giữa bụi gai, trên sỏi đá. Một đàn cừu người chăn lùa về buổi chiều tối. Từng tảng đá, từng hạt sạn người ta nhặt từ một đống muối để vất đi. Từng con còng người đánh cá nhặt ra bỏ lại bên bờ sau một mẻ cá…

Việc thu thập môn đệ, Ngài cũng vừa đi, vừa gọi, vừa nhận… Như các môn đệ đầu tiên (Mc 1,16-20). Chúa Giêsu không dừng lại, yên nghĩ, hưởng thụ hay cũng cố vị trí người ta dành sẵn cho mình. Sau một ngày thành công rực rỡ ở Capharnaum chẳng hạn: “Sáng đến, Ngài ra đi vào nơi hoang vắng. Dân chúng đi tìm Ngài và đến nơi Ngài,họ cố giữ Ngài lại, không để Ngài đi khỏi chỗ họ. Nhưng Ngài bảo họ: Ta còn phải đem Tin mừng Nước Thiên Chúa cho các thành khác nữa” (Lc 4,42-43).

Như thế, suốt đời Chúa Giêsu đã không hề có trụ sở, không hề có nhà thờ. Ngài đi khắp mọi nẻo đường trên thế giới Ngài đang sống.

Chúa Giêsu bị bắt lúc đang cầu nguyện giữa vườn Giệtsêmani hoang vắng. Bị điệu đến Hanna rồi Caipha. Từ toà đạo qua toà đời. Hết bị điệu đến dinh Philatô lại bị gửi qua dinh Hêrôđê, rồi bị đưa trả về cho Philatô. Không đầy một ngày một đêm mà kẻ tử tù đã phải đi không biết bao nhiêu dặm đường trên con đường “công lý” của loài người.

Bị kết án thập hình. Hai tay dang rộng, bị đóng đinh trên thập giá. Tảng đá lấp cửa mồ (Mc 14,32 -15,47). “Lính canh phòng cẩn mật, niêm phong tảng đá lại” (Mt 27,62-66).Thế nhưng, Chúa Giêsu đã không dừng chân cả trong cái chết. Ngày thứ ba Ngài sống lại, vượt cái chết qua sự sống bất diệt.

Sau khi phục sinh, Ngài cũng đi nhiều nơi, đến với với các môn đệ, cũng cố lòng tin và sai họ ra đi loan báo Tin mừng.

Hoàn thành sứ mạng, “Ngài lên trời ngự bên hữu Chúa Cha” (Mc 16,19) và luôn đồng hành cùng Giáo hội “Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế”. (Mt 28,20).

Chúa Giêsu gọi các môn đệ và “thiết lập Nhóm Mười Hai” để họ ở với Ngài và để Ngài sai đi. Giáo hội tiếp nối sứ vụ được sai đi, ra đi đến với muôn dân. Ra đi là dấn thân đi đến gặp gỡ mọi người với tinh thần đơn sơ, từ bỏ và tự do, để loan báo tin vui và mang đến cho họ ơn cứu độ.

Cuộc đời người Kitô hữu cứ phải ra đi không ngơi nghĩ. Ra khỏi cái cũ và đi tới cái mới. Ra khỏi cái đang có để đi tới cái chưa có. Ra khỏi cái mình đang là để đi tới cái mình phải là. Như thế, hành trình xa xăm nhất lại chính là hành trình của con tim.

Đường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi.

Nhưng khó vì lòng người ngại núi e sông.

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã ra đi từ trời cao xuống đất thấp, mang Tin mừng chiếu soi nhân trần. Xin sai chúng con ra đi nhẹ nhàng và thanh thoát, không chút cậy dựa vào khả năng bản thân hay vào những phương tiện trần thế. Xin Chúa giúp chúng con chỉ biết cậy dựa vào Chúa. Chỉ mình Chúa là đủ cho chúng con. Amen.

LM Giuse Nguyễn Hữu An

Đức Thánh Cha dâng lễ trước Đền Đức Mẹ Caacupé, Paraguay

Đức Thánh Cha dâng lễ trước Đền Đức Mẹ Caacupé, Paraguay

Đức Thánh Cha dâng lễ trước Đền Đức Mẹ Caacupé

ASUNCIÓN. Hằng trăm ngàn tín hữu đã tham dự Thánh Lễ do ĐTC Phanxicô cử hành tại Quảng trường trước Đền Thánh Đức Mẹ Caacupé, bổn mạng của Paraguay sáng ngày 11-7-2015.

Caacupé trong thổ ngữ guaraní của dân địa phương có nghĩa là ”đằng sau núi”. Đây là một thị trấn có hơn 19 ngàn dân cư, chung quanh là những ngọn đồi cây xanh, từ đó người ta có thể thấy hồ Ypacaraí. Caacupé được coi là thủ đô tinh thần của Paraguay và nổi tiếng với đại lễ hàng năm, 8-12, lễ kính Đức Mẹ Phép lạ. Tượng ảnh Đức Mẹ tại đây do một tín hữu thổ dân tân tòng tên là José tạc hồi thế kỷ 16 và tượng được cứu thoát lạ lùng khỏi một trận lụt lớn, và nhiều tín hữu được ơn lạ nhờ cầu nguyện trước tượng ảnh, kể cả phép lạ thổ dân José được cứu thoát khỏi sự bách hại của các bộ lạc thù nghịch với Kitô giáo.

Ở trung tâm thành Caacupé có Vương cung thánh đường Đức Mẹ Vô Nhiễm và hằng năm có hơn 200 ngàn tín hữu đến hành hương nhân lễ kính Đức Mẹ. Cạnh thánh đường có một nhà nguyện cổ kính nguyên thủy và một giếng Đức Mẹ, theo lưu truyền, nước giếng có năng lực chữa bệnh.

ĐTC từ bệnh viện ở khu phố San Lorenzo, Asunción đến Đền thánh lúc qua 10 giờ sáng. Gần Đền Thánh có đông đảo các tín hữu đứng hai bên đường chào đón ngài.

Đến nơi, ĐTC đã vào bên trong thánh đường để viếng Mình Thánh Chúa và cầu nguyện trong thinh lặng trước tượng Đức Mẹ. Ngài dâng tặng Đức Mẹ một đóa hoa hồng mầu trắng. Hiện diện trong thánh đường có hàng ngàn tín hữu, trong đó có một số nữ tu chiêm niệm.

Tại quảng trường trước Đền thánh có hàng trăm ngàn tín hữu tụ tập để dự lễ với ĐTC, không kể đông đảo các tín hữu ở khu vực gần đó. Có nhiều thổ dân thuộc các bộ lạc xa xăm chèo thuyền về đây để tham dự thánh lễ và gặp gỡ ĐTC trong dịp hiếm có này. Nhiều người đến từ hôm trước và ngủ lại để dự lễ, do ĐTC cử hành bắt đầu từ lúc 10 giờ 35, và kính Đức Mẹ Vô Nhiễm nguyên tội. Ngoài ra cũng có hàng chục ngàn tín hữu từ Argentina láng giềng đến dự lễ.

Tại lễ đài bên ngoài, cạnh bàn thờ cũng có một bản sao tượng Đức Mẹ Caacupè.

Đồng tế với ĐTC có 23 GM Paraguay và hơn 20 GM khách, 24 LM của giáo phận Caacupé và nhiều linh mục thuộc các giáo phận khác.

Bài giảng của ĐTC

Trong bài giảng thánh lễ, ĐTC nhắc nhở cho các tín hữu rằng Đền thánh này là nhà của tất cả các tín hữu. Đây là nơi lễ hội, gặp gỡ, gia đình, là nơi ta đến xin ơn tha thứ để bắt đầu lại. Tại đó ta mang cuộc sống cụ thể và đổi mới năng lực để sống niềm vui Phúc Âm. Đền thánh Đức Mẹ Caacupé là thành phần sinh tử của dân tộc Paraguay. Mẹ Maria đã thưa ”xin vâng” đối với chương trình, đối với thánh ý Thiên Chúa. Đó là một lời thưa ”xin vâng” không dễ dàng, vì không làm cho Mẹ đầy đặc ân, nhưng như cụ già Simeon nói với Mẹ, một lưỡi gươm sẽ đâm thâu qua tâm hồn Mẹ.

ĐTC nhận xét rằng: ”Chúng ta tìm thấy nơi Đức Maria là một người Mẹ đích thực, giúp chúng ta giữ cho niềm tin và hy vọng được sinh động giữa những hoàn cảnh phức tạp. Mẹ là một phụ nữ đầy tin tưởng, là Mẹ Giáo Hội, là người đã tin. Cuộc sống của Mẹ là bằng chứng cho thấy Thiên Chúa không làm cho chúng ta thất vọng, không bỏ rơi Dân của Chúa, cả khi có những lúc hoặc tình trạng dường như Chúa vắng bóng.

ĐTC nhắc lại 3 giai đoạn khó khăn trong cuộc đời của Mẹ Maria.

1. Trước tiên là khi Chúa Giêsu sinh ra. ”Không có chỗ cho họ trong nhà trọ” (Lc 2.7). Họ không có nhà, không có nơi để đón tiếp người con sinh ra. Và cũng có gia đình nào thân cận, thật là lẻ loi. Nơi duy nhất họ tìm được là hang súc vật.

2. Thứ hai là cuộc chạy trốn sang Ai Cập. Thánh gia phải ra đi, phải lưu lạc. Tại đó, các ngài không những chẳng có chỗ, chẳng có gia đình, nhưng cả sinh mạng của các ngài cũng bị lâm nguy. Thánh gia phải lên đường, đến một miền đất lạ. Các ngài phải chạy trốn vì vị ghen tương và ham hố quyền lực của bạo chúa.

3. Sau cùng là cái chết của Chúa Con trên thập giá. Không có tình trạng nào khó khăn hơn đối với một bà mẹ tháp tùng cái chết của một người con. Chúng ta thấy Mẹ Maria dưới chân thập giá, như mọi người mẹ, nhưng kiên vững, tháp tùng con cho đến cái chết tột cùng, cái chết trên thập giá. Và Mẹ liên kết và nâng đỡ tất cả các môn đệ.

Tiếp tục bài giảng, ĐTC nhấn mạnh rằng Mẹ Maria đã muốn ở lại giữa dân của Mẹ, ở lại với con cái, với gia đình mình, luôn bước theo Chúa Giêsu, từ phía đám đông. Mẹ không có chương trình riêng, không đến để nói với chúng ta điều gì mới, ngoại trừ niềm tin của Mẹ tháp tùng niềm tin của chúng ta. Chính Mẹ đã và đang ở lại trong các nhà thương, các trường học, các gia cư của chúng ta. Mẹ đã và đang ở lại với chúng ta trong công việc và trong hành trình. Mẹ đã và đang ở lại nơi bàn ăn của mỗi gia đình. Mẹ đã và đang ở lại trong sự hình thành tổ quốc, biến chúng ta thành một dân nước. Luôn luôn với một sự hiện diện kín đáo và âm thầm: trong cái nhìn của một tượng ảnh, một tấm ảnh nhỏ, một ảnh đeo. Dưới dấu hiệu của một xâu chuỗi mân côi, chúng ta biết mình không lẻ loi.

Từ những ý tưởng trên đây, ĐTC đặc biệt nhắc đến các phụ nữ và các bà mẹ Paraguay, với lòng can đảm và xả thân, họ đã biết phục hồi đất nước bị tàn phá, bị sụp đổ vì chiến tranh. Ngài nói:

”Chị em có ký ức, có gia sản được lưu truyền của những bà mẹ đã tái tạo cuộc sống, niềm tin, phẩm giá của dân tộc chị em. Như Mẹ Maria, chị em đã sống những những hoàn cảnh rất khó khăn, mà cứ theo lý luận thông thường, nó trái ngược với mọi niềm tin. Như Mẹ Maria, chị em được thúc đẩy và nâng đỡ nhờ tấm gương của Mẹ, chị em đã tiếp tục tin, cả khi không có gì để hy vọng nữa (Rm 4,18). ”Chị em đã và đang tìm được sức mạnh để không bỏ mặc đất nước này trong sự hỗn độn”.

Sau cùng, ĐTC kêu gọi dân chúng đừng mất ký ức, đừng mất căn cội, và bao nhiêu chứng ta, hãy sống niềm tin sinh động, niềm tin trở thành sự sống, và một cuộc sống trở thành hy vọng, niềm hy vọng đưa chúng ta tiến bước trong tình bác ái.

Cuối thánh lễ, ĐTC đã đọc kinh tái phó thác dân nước Paraguay cho sự bảo trợ của Đức Mẹ. Ngày 18-5 năm 1988, khi viếng thăm Paraguay và cử hành thánh lễ tại đây, thánh Gioan Phaolô 2 Giáo Hoàng cũng đã chủ sự nghi thức phó thác Paraguay cho Đức Mẹ.

G. Trần Đức Anh OP -- Vatican Radio

 

Video Thánh lễ tại đền thờ Đức Mẹ Caacupé, Paraguay

Đức Thánh Cha gặp gỡ chính quyền Paraguay

Đức Thánh Cha gặp gỡ chính quyền Paraguay

ĐTC gặp gở chánh quyền Paraguay

ASUNCIÓN. ĐTC cổ võ nước Paraguay tiếp tục củng cố nền dân chủ và ngài kêu gọi nhân dân nước này bảo tồn ký ức lịch sử đau thương.

 Lập trường này được ngài trình bày trong cuộc gặp gỡ chính quyền dân sự của Paraguay.

 Sau nghi thức tiếp đón tại phi trường Asunción, ĐTC đã về tòa Sứ Thần Tòa Thánh. Dọc đường 15 cây số, rất đông tác tín hữu đứng hai bên đường nồng nhiệt chào mừng ngài, một cảnh tượng như đã diễn ra tại Ecuador trước đó.

 Sau đó, ngài đến dinh Lopez cách tòa Sứ thần 4 cây số rưỡi để thăm Tổng thống, và gặp gỡ chính quyền dân sự cùng với ngoại giao đoàn tại khuôn viên dinh Tổng thống.

 Tổng thống Horacio Cartes của Paraguay năm nay 59 tuổi, nguyên là một doanh nhân, chủ của công ty hợp doanh ”Grupo Cartes” gồm 12 xí nghiệp khác nhau. Ông cũng là chủ tịch của đội bóng đá Libertad và được bầu làm tổng thống cách đây 2 năm.

 Đến dinh Lopez vào lúc 6 giờ chiều, ĐTC đã hội kiến với Tổng thống, trong khi ĐHY Quốc vụ khanh Pietro Parolin và Đức TGM Phụ tá Angelo Becciu cùng với Đức Sứ Thần Tòa Thánh gặp gỡ thủ tướng và các quan chức chính phủ. Sau đó tất cả các vị đều tiến ra khuôn viên của dinh Lopez để tiến hành cuộc gặp chính thức, với sự hiện diện của các vị Bộ trưởng, quốc hội, tòa án tối cao và ngoại giao đoàn cạnh chính phủ Paraguay.

 Trong lời chào mừng ĐTC, Tổng thống Cartes đã ca ngợi thông điệp ”Laudato sì” của ngài về việc bảo vệ môi trường và nhận xét rằng văn kiện phải ánh nền văn hóa của các thổ dân Guananí ở Paraguay. Ông nói: ”Thông điệp của ĐTC là một lời kêu gọi bảo tồn trái đất, tương ứng với những thỉnh đề của nền văn hóa guaraní về tầm quan trọng của ”tekoha guasu”, là căn nhà lớn của tất cả mọi người”.

 Tổng thống nhận xét rằng văn kiện của ĐGH là một công trình chống lại sự dửng dưng và nhắc nhớ món nợ của tiến bộ đối với môi trường và sự cần thiết phải theo đuổi một sự phát triển dài hạn.

 Diễn văn của ĐTC

 Về phần ĐTC, lên tiếng trong dịp này, ngài đề cập đến trọng tâm các vấn đề của đất nước Paraguay như một xã hội dân sự. Ngài nói:

 ”Ngay từ những bước đầu tiên như một quốc gia độc lập, Paraguay đã trải qua những đau thương của cuộc chiến huynh đệ tương tàn, thiếu tự do và những vi phạm nhân quyền, Vì thế, thật là một điều đáng ngưỡng mộ sự kiên trì và tinh thần phản ứng của nhân dân Paraguay để vượt thắng bao nhiêu nghịch cảnh và tiếp tục những cố gắng để kiến tạo một quốc gia thịnh vượng và an bình.”

 ĐTC cũng ca ngợi những người dân thường, tên của họ không được ghi trong sử sách, nhưng thực tế họ đã giữ những vai trò lớn trong đời sống dân chúng. Đặc biệt ngài nhắc đến các gia đình, các phụ nữ, các góa phụ đã giúp gia đình và đất nước tiến bước, mang lại hy vọng một ngày mai tốt đẹp hơn.

 ĐTC nhấn mạnh rằng một dân tộc quên quá khứ của mình, quên lịch sử và căn cội của mình thì không có tương lai. Ký ức giúp giải thoát khỏi những tâm tình oán thù và biến quá khứ thành nguồn hứng để xây dựng một tương lai sống chung hòa hợp, làm cho chúng ta ý thức về thảm trạng và sự vô lý của chiến tranh. Cả hòa bình trong đời sống thường nhật cũng quan trọng, tránh những cử chỉ hách dịch, những lời làm phật lòng, xúc phạm, những thái độ cường quyền, và thăng tiến sự cảm thông, đối thoại và cộng tác.

 ĐTC nhận xét rằng từ vài năm nay Paraguay dấn thân trong việc xây dựng một dự phóng dân chủ vững chắc và bền vững, và ngài khích lệ củng cố những cơ cấu và tổ chức dân chủ đáp ứng những khát vọng chính đáng của các công dân. Ngài nói: ”Trong hoạt động công cộng, cần tăng cường đối thoại như phương thế ưu tiên để thăng tiến công ích, dựa trên căn bản một nền văn hóa gặp gỡ, tôn trọng và nhìn nhận những khác biệt hợp pháp và những ý kiến của người khác. Trong việc phục vụ và hoạt động cho công ích, những người nghèo và túng theo phải chiếm một chỗ ưu tiên. Đừng ngưng các cố gắng của mọi tác nhân xã hội, cho đến khi không còn những trẻ em không được giáo dục, các gia đình không nhà ở, các công nhân không có công ăn việc làm xứng đáng, các nông dân không có đất đai để canh tác và bao nhiêu buộc lòng phải di cư hướng về một tương lai bất định; cho đến khi không còn những nạn nhân bạo lực, tham nhũng hoặc của nạn buôn bán ma túy nữa. Khuôn mẫu cho nền kinh tế phải là phẩm giá trọn vẹn của con người, nhất là những người dễ bị tổn thương và vô phương thế tự vệ.”

 Sau cùng, ĐTC cam đoan sự dấn thân và cộng tác của Giáo Hội Công Giáo trong nỗ lực chung xây dựng một xã hội công bằng và bao gồm mọi người, trong đó ta có thể cùng nhau sống trong an bình và hòa hợp.

 Trong cuộc gặp gỡ tổng thống Paraguay, ĐTC đã tặng ông bức tranh khảm sao lại ảnh mà thánh Gioan Phaolô 2, sau vụ mưu sát ngày 13-5-1981, đã muốn đặt tại một tường trong dinh Tông Tòa, mà người ta có thể thấy từ Quảng trường thánh Phêrô nhìn lên. Bức ảnh được coi là chứng tá và bảo chứng sự bảo vệ hiền mẫu của Mẹ Maria trên Đức Giáo Hoàng và Giáo Hội.

 Trong số các quà mà Tổng thống Cartes cũng có chiếc áo cầu thủ bóng đá màu đỏ mang số 10 và có thêu tên Phanxicô, đáp ứng sở thích của Ngài đối với bóng đá.

 Trong cuộc viếng thăm của ĐTC, chính phủ Paraguay đã động viên 17 ngàn nhân viên cảnh sát và quân đội để giữ an ninh và trật tự.

 G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

 

Đức Thánh Cha viếng thăm bệnh viện nhi đồng ở Paraguay

Đức Thánh Cha viếng thăm bệnh viện nhi đồng ở Paraguay

ĐTC thăm bệnh viện nhi đồng tại Paraguay

ASUNCIÓN. Sáng thứ bẩy, 11-7-2015, ĐTC đã viếng thăm Tổng bệnh viện nhi đồng ”Ninos de Acosta Nu” cách tòa Sứ Thần 20 cây số, một nhà thương toàn khoa có khoảng 100 giường.

 Tên của nhà thương có nghĩa là ”Chiến trường lớn”, nhắc nhớ biến cố rất nhiều trẻ em bị thiệt mạng trong trận chiến hồi tháng 8-1869.

 Đến nơi vào lúc 8 giờ rưỡi, ĐTC đã được đông đảo tín hữu đứng chờ từ bên ngoài đón tiếp. Liền đó ngài được bác sĩ giám đốc bệnh viện hướng dẫn viếng thăm các em bệnh nhân tại các khu trại khác nhau, đặc biệt là khu hồi sinh và khu dành cho các em bị ung thư. Các ký giả thu hình không được đi theo, do ý muốn của ĐTC, để các trẻ em được tự nhiên hơn trong cuộc viếng thăm. Ngài đã lắng nghe các em và nhận những lá thư do các em viết, những hình hoặc đồ thủ công do các em làm.

 Sau đó ngài tiến vào hội trường bệnh viện để gặp gỡ hàng trăm bác sĩ và nhân viên các cấp của nhà thương,

 Lên tiếng trong dịp này, ĐTC nhắc nhở rằng các trẻ em thuộc vào số những người được Chúa Giêsu đặc biệt yêu thương. Không phải vì Chúa không thương người lớn, nhưng Chúa cảm thấy hạnh phúc khi có thể được ở với các em, vui mừng vì tình bạn của các em tháp tùng và Chúa trưng dẫn các em như gương mẫu, đến độ Chúa nói với các môn đệ: ”Nếu các con không trở nên như trẻ thơ thì các con không thể vào nước trời' (Mt 18,3).

 Ngỏ lời với các em trong nhà thương, ĐTC cám ơn các em vì sự dịu dàng thơ ngây, vì sự gần gũi và khả năng kháng cự của các em. Ngài nói: ”Nhìn các con, người ta cảm thấy được sức mạnh để tín thác và tiến bước”.

 ĐTC không quên cám ơn các bác sĩ, y tá và tất cả các nhân viên nhà thương. Sau cùng, ngài mời gọi các em bệnh nhân hãy cầu nguyện, nói chuyện với Chúa Giêsu, chia sẻ với Chúa những thắc mắc, những đau đớn của mình. ”Chúa Giêsu luôn gần gũi chúng ta. Nơi nào có Chúa Giêsu thì có Mẹ Maria, Đức Mẹ Caacupè”.

 Cuộc viếng thăm của ĐTC tại Nhà thương nhi đồng kéo dài 45 phút và liền đó ngài lên đường đến Đền thánh Đức Mẹ Caacupé cách đó 40 cây số để cử hành thánh lễ cho các tín hữu, theo chương trình vào lúc 4 giờ rưỡi giờ địa phương.

 G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Đức Thánh Cha bắt đầu viếng thăm Paraguay

Đức Thánh Cha bắt đầu viếng thăm Paraguay

ĐTC thăm Paraguay

ASUNCIÓN. Lúc 3 giờ chiều ngày 10-7-2015, ĐTC Phanxicô đã bắt đầu chương trình viếng thăm tại Paraguay, chặng thứ 3 và là chặng chót trong chuyến viếng thăm mục vụ dài 8 ngày của ngài tại 3 nước Nam Mỹ: Ecuador, Bolivia và Paraguay.

Paraguay rộng 406 ngàn cây số vuông, nhưng dân số chỉ có 6 triệu 700 ngàn người, trong đó tỷ lệ Công Giáo lên tới 93,2%, gồm 6 triệu 320 ngàn người Công Giáo, thuộc 15 giáo phận, nhưng chỉ có 372 giáo xứ và 1.450 trung tâm mục vụ khác.

Paraguay có 23 GM và 800 LM, trong đó quá một nửa là các linh mục dòng, gồm 416 vị. Ngoài ra có gần 1.500 nữ tu và 207 tu huynh. Bình quân tại nước này cứ 7.860 giáo dân Công Giáo thì mới có 1 LM, tỷ lệ quá cao. Tại Paraguay, Giáo Hội đảm trách 19 trường cao đẳng và đại học, 665 trường học các cấp.

Paraguay đã phải trải qua cuộc chiến tranh đẫm máu nhất trong lịch sử Mỹ châu la tinh, từ năm 1865 đến 1870: 3 nước Argentina, Brazil và Uruguay đã liên minh với nhau, và với 200 ngàn quân, họ đánh 150 ngàn quân Paraguay, trong đó có nhiều phụ nữ và trẻ em, làm cho 300 ngàn người Paraguay thiệt mạng, cả binh sĩ lẫn thường dân. Phía liên minh có khoảng 100 ngàn người chết. Lãnh thổ của Paraguay bị 3 nước chiếm phần lớn, trong đó có 140 ngàn cây số vuông dành cho Argentina và Brazil.

Sau 2 giờ bay, vượt qua hơn 1 ngàn cây số, ĐTC đến phi trường thủ đô Asunción vào lúc 3 giờ chiều giờ địa phương. Trời mưa rào giống như khi Đức Gioan Phaolô 2 đến đây 27 năm về trước.

Đón tiếp

Tại Phi trường Silviio Pettirossi, trước sự hiện diện của Tổng thống Horacio Cartes, các quan chức chính quyền và các GM, ĐTC đã được đón tiếp nồng nhiệt với các vũ điệu, ca đoàn thiếu niên ”Los Nazarenos” và hoạt cảnh với sự hiện diện của các diễn viên diễn tả thánh Roco Gonzalez tử đạo tại Paraguay, Chúa Giêsu và Mẹ Maria (Đức Mẹ Caacupé), giống như các tượng được rước đi trong các ngày lễ.

ĐTC và mọi người cũng xem lại đoạn phim 2 phút chiếu cảnh đón tiếp thánh Gioan Phaolô 2 Giáo Hoàng dưới trời mưa, rồi ngài rảy nước thánh làm phép bia kỷ niệm cuộc viếng thăm của thánh nhân tại Paraguay từ ngày 16 đến 18-5 năm 1988. Hồi đó nước này còn ở dưới chế độ độc tài của tướng Alfredo Stroessner, cai trị Paraguay trong 35 năm (1954-1989). Trong cuộc viếng thăm bấy giờ, Đức Gioan Phaolô 2 nói rằng: Giáo hội không thể bị đóng khung trong các nơi thờ phượng, và Giáo Hội dấn thân thăng tiến tự do và sự liêm chính trong các lãnh vực công cộng và riêng tư, bảo vệ sự sống, bênh vực các dân quyền. Ngài nói thẳng rằng: ”Tôn trọng nhân quyền không phải là một vấn đề chính trị tùy tiện, nhưng đúng hơn, đó là điều xuất phát từ phẩm giá con người, trong tư cách là một thụ tạo của Thiên Chúa được kêu gọi tiến về một vận mạng siêu việt”.

Một năm sau cuộc viếng thăm ấy, tướng Stroessner đã bị lật đổ trong cuộc đảo chánh và Paraguay dần dần tiến sang chế độ dân chủ.

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Đức Thánh Cha viếng thăm nhà tù Palmasola ở Bolivia

Đức Thánh Cha viếng thăm nhà tù Palmasola ở Bolivia

ĐTC viếng thăm các tù nhân

SANTA CRUZ. ĐTC Phanxicô khích lệ các tù nhân ở Bolivia tiếp tục hy vọng giữa bao nghịch cảnh và tận dụng hoàn cảnh hiện nay để chuẩn bị tái hội nhập vào xã hội.

Nhà tù Palmasola cách tòa TGM Santa Cruz của Bolovia 15 cây số và được chia làm nhiều khu vực dành cho các loại tù nhân khác nhau: nam, nữ, người trẻ, các tù nhân tội nhẹ và các tù nhân tội trọng. Khu nhà tù dành cho nam giới, nơi ĐTC đến thăm sáng thứ sáu 10-7-2015, được gọi tắt là PS 4, có 2.800 tù nhân và đặc biệt có khu vực dành cho các thân nhân, khoảng 1.500 người mỗi ngày. Họ có thể sống chung giống như trong một làng do chính các tù nhân quản trị.

Nhà tù Palmasola được dư luận biết đến nhiều nhất là sau một vụ nổi loạn và cuộc tấn công đàn áp bằng súng xịt xăng đặc hồi năm 2013 làm cho 31 tù nhân thiệt mạng và 36 người phỏng nặng. Đức Cha Jesus Juarez Parraga, TGM giáo phận Sucre, chủ tịch Ủy ban mục vụ xã hội, Caritas Bolivia và đặc trách mục vụ nhà tù, hy vọng cuộc viếng thăm của ĐTC sẽ thu hút sự chú ý của dư luận về tình trạng các nhà tù tại Bolivia và Mỹ châu la tinh nói chung. Các nhà tù này thường đông chật, tù nhân phải chịu nạn bạo lực và các tù nhân thanh toán, hành hạ nhau.

Đến nhà tù lúc 9 giờ rưỡi sáng, ĐTC đã chào thăm nhiều tù nhân, thân nhân, con cái họ tụ tập tại sân thể thao của nhà tù, cùng với nhiều người khác, trước khi tiến lên lễ đài đơn sơ. Hiện diện tại buổi gặp gỡ có Bộ trưởng tư pháp và các giới chức chính quyền Bolivia.

 Thảm trạng các nhà tù ở Bolivia

Đầu buổi gặp gỡ, Đức Cha Jesus Juarez Parraga, TGM giáo phận Sucre, chủ tịch Ủy ban mục vụ xã hội, Caritas Bolivia và đặc trách mục vụ nhà tù, đã cám ơn ĐTC đến thăm và nói rằng Giáo hội là chứng nhân về tình thương của Thiên Chúa giữa những người lầm than và khích lệ quyết tâm của những người thiện nguyện cũng như các nhân viện mục vụ nhà tù; cuộc viếng thăm của ĐTC cũng lưu ý các giới chức chính quyền hãy nhạy cảm ơn đối với vấn đề nhà tù và mở rộng con tim xã hội để có một lời đáp trả từ bi đối với tình trạng những người bị mất tự do.

Đức TGM Suarez nhắc đến thảm trạng của các tù nhân ở Bolivia và tình trạng đó là dấu hiệu một xã hội tạo ra nghèo đói, chênh lệch và bạo lực, dấu hiệu chứng tỏ sự suy yếu của những điểm tham chiếu luân lý trong gia đình, trong ngành giáo dục và cả trong các tôn giáo, thiếu sự tương hợp giữa một bên là các qui luật bảo vệ luật pháp cao độ, và bên kia là ngành công lý làm thương tổn các quyền của tù nhân.

Đức Cha Suarez cũng nói đến gương mù trong ngành công lý ở Bolivia. Theo thống kê đầu năm nay, 84% các tù nhân không được xét xử, công lý quá chậm chạp. Tỷ lệ chật chột lên tới 326%. Hơn 900 trẻ em sống trong tù với cha mẹ kể cả tại Palmasola. Tình trạng không thể chịu nổi đến độ có những tù nhân nhận tội để đổi lấy án tù ngắn hơn, dù họ vô tội.

Đức cha nói thêm rằng cuộc viếng thăm hôm nay của ĐTC, gặp gỡ các tù nhân tại đây, phần nào họ đại diện cho 15 ngàn người đang bị thiếu tự do tại 53 nhà tù trên toàn quốc.

Tiếp lời Đức TGM, ba tù nhân cũng trình bày chứng từ tình cảnh của họ và của các tù nhân khác.

Huấn dụ của ĐTC

Ngỏ lời trong dịp này, ĐTC nhận thấy qua chứng từ của Đức TGM Jesus Juarez và của đại diện tù nhân, sự đau khổ không thể dập tắt niềm hy vọng nơi thẳm sâu tâm hồn và sự sống tiếp tục nảy mầm mạnh mẽ trong những nghịch cảnh.

ĐTC nói đến kinh nghiệm và xác tín bản thân của ngài: ”Người mà anh chị em đang thấy trước mặt đây là một người đã được tha thứ. Một người đã được cứu thoát khỏi nhiều tội lỗi của mình. Và tôi tự giới thiệu như thế trước mặt anh chị em. Tôi không có gì nhiều để trao tặng anh chị em, nhưng điều tôi có, điều tôi yêu mến, tôi muốn trao tặng anh chị em, chia sẻ với anh chị em, đó là Chúa Giêsu Kitô, là lòng từ bi của Chúa Cha. Người đến để tỏ cho chúng ta, làm choi tình thương của Thiên Chúa đối với chúng ta trở nên hữu hình. Một tình yêu tích cực, thực sự. Một tình yêu chữa lành, tha thứ, nâng dậy, chăm sóc.

ĐTC nhắc đến sự tích thánh Phêrô và Phaolô bị cầm tù, bị tước mất tự do, nhưng trong những hoàn cảnh ấy các vị đã được nâng đỡ, không lâm vào tình trạng tuyệt vọng. Đó chính là lời cầu nguyện, kinh nguyện bản thân và cộng đoàn. Các vị đã cầu nguyện và được cộng đoàn cầu nguyện cho. Hai hành động ấy cùng nhau họp thành một mạng lưới nâng đỡ cuộc sống và hy vọng, giúp chúng ta khỏi tuyệt vọng và khích lệ chúng ta tiếp tục tiến bước. Một mạng lưới nâng đỡ sự sống, cuộc sống của anh chị em và những người thân của anh chị em.

ĐTC khẳng định rằng khi Chúa Giêsu đi vào cuộc sống một người, thì họ không còn bị cầm tù trong quá khứ của họ nữa, nhưng bắt đầu nhìn hiện tại một cách khác, với một niềm hy vọng khác. Họ bắt đầu nhìn bản thân, nhìn thực tại của mình với một cặp mắt khác. Họ không còn bị cầm giữ trong những gì đã xảy ra, nhưng có khả năng khóc và tìm được sức mạnh để bắt đầu lại. Nếu có lúc nào anh chị em cảm thấy buồn sầu, đau khổ, xuống tinh thần, thì tôi mời gọi anh chị em hãy nhìn khuôn mặt của Chúa Giêsu chịu đóng đanh. Trong cái nhìn của Chúa, tất cả chúng ta đều tìm được chỗ. Tất cả chúng ta đều có thể phó thác cho Chúa những vết thương, những đau khổ và cả những tội lỗi của chúng ta nữa. Trong các vết thương của Chúa, các vết thương của chúng ta tìm được chỗ đứn. Để được săn sóc, thanh tẩy, biến đổi, hồi sinh.

ĐTC nói: ”xác tín ấy thúc đẩy chúng ta hoạt động cho phẩm giá của mình. Tình trạng bị giam tù không còn như trước nữa, nhưng nó trở nên thành phần của một tiến trình tái hội nhập vào xã hội. Tuy tình trạng nhà tù có nhiều điều tiêu cực, quá chật chội, công lý chậm chạp, thiếu các phương pháp trị liệu và chính sách phục hồi, không kể nạn bạo lực… Tuy chúng ta phải chiến đấu chống lại các thực tại ấy, nhưng chúng ta không thể cho là mọi sự đều vô ích.

ĐTC nhấn mạnh rằng tại Trung tâm phục hồi này, sự sống chung phần nào cũng tùy thuộc anh chị em. Đau khổ và thiếu thốn có thể làm cho con tim của anh chị em trở nên ích kỷ và tạo dịp cho những xung đột, nhưng chúng ta cũng có khả năng biến đổi chúng thành những dịp thực thi tình huynh đệ chân thực. Anh chị em hãy giúp đỡ nhau, đừng sợ giúp đỡ nhau. Ma quỉ tìm kiếm sự cạnh tranh, chia rẽ, phe phái. Anh chị em hãy chiến đấu để tiến bước.

Sau cùng, ĐTC không quên khích lệ tất cả những người làm việc tại Trung tâm phục hồi này, từ ban giám đốc, cho đến các nhân viên cảnh sát nhà tù và các nhân viên khác. Ngài nói: ”Anh chị em đang thực thi công việc phục vụ công cộng cơ bản. Anh chị em có một vai trò quan trọng trong tiến trình giúp các tù nhân tái hội nhập, có công tác nâng đỡ người khác trỗi dậy và không hạ xuống, mang lại phẩm giá chứ không hạ nhục, khích lệ chứ không đè bẹp”.

Sau khi ban phép lành cho các tù nhân và mọi người, ĐTC đã tới giáo xứ ”Thánh Giá” cách đó 14 cây số để gặp gỡ 37 GM Bolivia trước khi ra phi trường Viru Viru ở Santa Cruz để đáp máy bay sang Paraguay, chặng chót trong chuyến viếng thăm 8 ngày của ngài ở Mỹ châu la tinh.

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Những đề nghị ”cách mạng” của Đức Thánh Cha Phanxicô.

Những đề nghị ”cách mạng” của Đức Thánh Cha Phanxicô

ĐTC gặp gở các đại biểu

SANTA CRUZ. Trong cuộc gặp gỡ hàng ngàn đại biểu thuộc các Phong trào dân chúng nhóm tại Santa Cruz, Bolivia, chiều ngày 9-7-2015, ĐTC Phanxicô mạnh mẽ chống lại các hình thức thực dân mới và đưa ra nhiều đề nghị ”cách mạng” cải tiến nền kinh tế thế giới.

ĐTC đã đến khu vực Hội chợ triển làm Expo Feria ở thành phố Santa Cruz khoảng 5 giờ rưỡi chiều để gặp gỡ các tham dự viên Cuộc gặp gỡ thế giới kỳ 2 của các Phong trào nhân dân. Trung tâm này có diện tích 5 ngàn mét vuông và có hội trường Gaurayo có thể chứa được 3 ngàn người.

Tại đây trong những ngày từ 7 đến 9-7-2015 đã diễn ra cuộc gặp gỡ lần thứ 2 các Phong trào dân chúng, được tổ chức với sự cộng tác của Hội đồng Tòa Thánh Công lý và Hòa Bình, Hàn lâm viện Tòa Thánh về các khoa xã hội. Tham dự sinh hoạt này có các đại biểu của các phong trào dân chúng đến từ các nước trên thế giới như giới lao động bấp bênh, và giới kinh tế không chính thức, đại diện các tầng lớp nông dân không ruộng đất, những người dân tại các khu phố nghèo, các thổ dân, và di dân. Ngoài ra cũng có một đoàn đại diện những người dấu tranh thuộc các phong trào xã hội.

Trong số các tham dự viên từ phía Tòa Thánh có ĐHY Peter Turkson, người Ghana, Chủ tịch Hội đồng Công lý và Hòa bình; Đức GM Marcelo Sanchez Sorondo, người Argentina, Chưởng Ấn Hàm lâm viện Tòa Thánh về các khoa xã hội. Cuộc gặp gỡ đầu tiên của các phong trào dân chúng này đã được tổ chức tại Vatican hồi tháng 10 năm ngoái, và trong số các tham dự viên cũng có tổng thống Evo Morales của Bolivia.

Khi ĐTC đến nơi vào lúc quá 5 giờ rưỡi chiều, ngài đã được 6 tham dự viên, 3 nam 3 nữ, trao tặng Văn kiện chung kết của Hội nghị và cũng được trình bày tổng quát nội dung văn kiện. Cả tổng thống Evo Morales cũng lên tiếng trong dịp này và ông đã phát biểu 30 phút, trước khi ĐTC trình bày lập trường của ngài.

Diễn văn của Đức Thánh Cha

Lên tiếng trong dịp này, ĐTC nhắc lại cuộc gặp gỡ đầu tiên của Phong trào này hồi tháng 10 năm ngoái (2014) tại Vatican trong một bầu không khí huynh đệ, quyết định, dấn thân, khao khát công lý. Và bây giờ cuộc gặp gỡ thứ hai này nhắm tạo cơ hội để thảo luận về những cách thức tốt đẹp hơn để vượt thắng những tình trạng bất công trầm trọng đang làm cho bao nhiêu người bị gạt bỏ trên thế giới phải chịu đau khổ.

Thực trạng cần thay đổi

1. Trước tiên ĐTC nhận xét rằng chúng ta đang cần một sự thay đổi. Đây là những vấn đề chung cho mọi nước Mỹ châu la tinh và toàn thể nhân loại. Các vấn đề có tính chất hoàn cầu và không một nước nào một mình có thể giải quyết được:

– Chúng ta có biết nhìn nhận rằng tình trạng hiện nay không tốt trong một thế giới có bao nhiêu nông dân không có ruộng đất, bao nhiêu gia đình không có nhà ở, bao nhiêu công nhân viên không có quyền lợi, nhiều người bị thương tổn trong phẩm giá của họ hay không?

– Chúng ta có nhận ra rằng tình trạng hiện nay không tốt vì bao nhiêu cuộc chiến tranh điên rồ bùng nổ và bạo lực huynh đệ tương tàn gia tăng trong các khu phố của chúng ta hay không? Vì đất đai, nước, không khí và tất cả những sinh vật trong thiên nhiên đang liên tục bị đe dọa hay không?

Những thực tại tàn phá ấy tương ứng với một chế độ đang trở thành hoàn vũ, một chế độ áp đặt tiêu chuẩn lợi lộc bằng bất kỳ giá nào, không nghĩ đến sự gạt ra ngoài lề xã hội hoặc phá hủy thiên nhiên. Ngày nay sự lệ thuộc lẫn nhau trên trái đất đòi phải có những câu trả lời hoàn cầu cho các vấn đề địa phương. Sự hoàn cầu hóa niềm hy vọng, nảy sinh từ các dân tộc và gia tăng giữa người nghèo, phải thay thế sự hoàn cầu hóa tình trạng gạt ra ngoài lề và sự dửng dưng!

ĐTC nhận xét rằng ngay cả nơi những nhóm thiểu số đang thu hẹp, tưởng rằng mình được hưởng lợi nhờ chế độ ấy, nhưng thực tế họ cũng đang cảm thấy bất mãn và nhất là buồn sầu. Nhiều người đang chờ đợi một sự thay đổi giải thoát họ khỏi sự sầu muộn cá nhân chủ nghĩa ấy khiến họ trở thành nô lệ. Có lẽ nó đang gây thiệt hại không thể chữa lành cho hệ thống kinh tế. Sự ham hố vô độ đối với tiền bạc đang thống trị. Việc phục vụ công ích bị loại xuống hàng thứ yếu. Khi tư bản trở thành thần tượng và điều khiển những chọn lựa của con người, khi sự tham lam tiền bạc kiểm soát toàn bộ chế độ kinh tế đã hội, làm hư hỏng xã hội, phá hủy tình huynh đệ giữa con người với nhau, thúc đẩy dân tộc này chống lại dân tộc khác và đe dọa cả căn nhà chung của chúng ta.

Trước những tin tức đen tối hằng ngày, chúng ta tin rằng mình chẳng có thể làm được gì, nên chỉ cần chăm sóc mình và gia đình bé nhỏ của mình với tình thương yêu. Nhưng tương lai của nhân loại phần lớn ở trong khả năng tổ chức và thăng tiến những sáng kiến khác, trong nỗ lực hằng ngày tìm kiến 3 điều là: công ăn việc làm, nhà ở và đất đai, và trong sự tham gia tích cực vào những tiến trình thay đổi lớn trên bình diện quốc gia, miền và hoàn cầu.

Trách nhiệm của các Phong trào dân chúng

Sau khi trình bày thực trạng trên đây, ĐTC nói với các vị lãnh đạo các phong trào dân chúng rắng:

2. Anh chị em là những người phổ biến sự thay đổi, những tiến trình thay đổi. Phải quan niệm sự thay đổi không phải như một cái gì một ngày kia sẽ xảy tới, vì ta đề ra những chọn lựa này hay chọn lựa khác về phương diện chính trị hoặc vì ta thiết lập cơ cấu xã hội này hay cơ cấu kia. Một sự thay đổi cơ cấu mà không có sự hoán cải chân thành trong thái độ và trong tâm hồn thì sớm muộn gì cũng trở thành một thứ bệnh bàn giấy, hư hỏng và sụp đổ. Mỗi người chúng ta chỉ là thành phần của một toàn bộ phức tạp và khác nhau, tác động trên nhau trong thời gian. Chúng ta phải chú ý đến những con người cụ thể, với khuôn mặt và danh tánh. Chúng ta rùng mình trước bao nhiêu đau khổ và cảm động vì ”chúng ta đã thấy và đã nghe” không phải những con số thống kê lạnh lùng, nhưng là những vết thương của nhân loại đau khổ, những vết thương của chúng ta, thân thể chúng ta. Điều này rất khác với sự đề ra những lý thuyết trừu tượng hoặc thái độ phẫn nộ ”tao nhã”. Sự gắn bó với khu phố, đất đai, lãnh thổ, công ăn việc làm, công đoàn, nhận ra mình trong khuôn mặt người khác, sự gần gũi hằng ngày, với những lầm than cơ cực và những cử chỉ anh hùng thường nhật, và điều giúp thực thi sứ mạng không phải đi từ những ý tưởng hay ý niệm, nhưng từ cuộc gặp gỡ chân thành giữa con người với nhau, vì ta không yêu thương những ý niệm hay ý tưởng, nhưng ta yêu thương con người.

ĐTC cũng nhấn mạnh tầm quan trọng phải làm việc trong viễn tượng không phe phái, và tìm cách giải quyết tận căn các vấn đề tổng quát là nạn nghèo đói, chênh lệch và loại trừ. Như thế các phong trào dân chúng trở thành một giải pháp khác với thứ hoàn cầu hóa loại trừ. Giáo Hội không thể và không được xa lạ với tiến trình ấy trong việc loan báo Tin Mừng. Sự cộng tác với các phong trào dân chúng, trong niềm tôn trọng nhau, có thể tăng cường những cố gắng và củng cố các tiến trình thay đổi.

Những đề nghị của ĐTC

Sau cùng, ĐTC đề cập đến một vài thách đố quan trong trong thời điểm lịch sử hiện nay. Ngài xác quyết rằng Giáo Hoàng cũng như Giáo Hội không có độc quyền giải thích thực tại xã hội hoặc đề nghị những giải pháp cho các vấn đề hiện nay. Đúng hơn, không có một công thức. Vì thế, ĐTC đề nghị 3 nghĩa vụ lớn”

1. Thứ I là đặt kinh tế phục vụ các dân tộc. Con người và thiên nhiên không phải phục vụ tiền bạc. Không chấp nhận một thứ kinh tế loại trừ và bất chính trong đó tiền bạc thống trị thay vì phục vụ. Nền kinh tế này giết hại, gạt bỏ, phá hủy Mẹ Trái đất. Nền kinh tế phải là một sự quản lý tốt căn nhà chung. Một nền kinh tế thực sự có tính chất cộng đồng, lấy hứng từ Kitô giáo, phải bảo đảm phẩm giá cho các dân tộc, ”một sự thịnh vượng không loại trừ thiện ích nào”. Công ăn việc làm, nhà ở và đất đai, và cả việc giáo dục, sức khỏe, đổi mới, những sáng tác nghệ thuật và văn hóa, truyền thông, thể thao và giải trí. Cần cơ cấu hóa toàn bộ hệ thống sản xuất và phân phối để những khả năng và đòi hỏi của mỗi người được diễn tả thích hợp trong chiều kích xã hội. Đó không phải là một ảo tưởng hay tưởng tượng.

Những tài nguyên trong thế giới, kết quả của lao công thuộc các thế hệ các dân tộc và là hồng ân trong công trình tạo dựng, dư đủ cho sự phát triển toàn diện mỗi người và tất cả mọi người. Trái lại hệ thống hiện hành theo đuổi những mục tiêu khác. Do sự gia tăng vô trách nhiệm các nhịp độ sản xuất, tăng cường trong kỹ nghệ và nông nghiệp những phương pháp gây hại cho Mẹ Trái Đất, nhân danh mức sản xuất, người ta tiếp tục phủ nhận không cho hằng tỷ anh chị em được hưởng các quyền cơ bản nhất về kinh tế, xã hội và văn hóa. Chế độ này làm thương tổn dự phóng của Chúa Giêsu. Sự phân phối công bằng các hoa trái của trái đất và lao công của con người không phải chỉ là một sự thương người. Đó là một nghĩa vụ luân lý. Đối với các Kitô hữu, sự dấn thân như thế càng mạnh mẽ hơn, vì đó là một giới răn.

Nghĩa vụ thứ hai là liên kết các dân tộc chúng ta trên hành trình hòa bình và công lý. Các dân tộc trên thế giới muốn làm chủ vận mạng của mình. Họ muốn tiến bước trong an bình trên con đường tiến về công lý. Họ không muốn sự bảo hộ hoặc những sự xen mình, trong đó kẻ mạnh nhất bắt những kẻ yếu phải tùng phục. Họ yêu cầu rằng nền văn hóa, ngôn ngữ, các tiến trình xã hội và các truyền thống tôn giáo của họ được tôn trọng. Không quyền bính nào – trong thực tế hoặc được thiết lập – có quyền tước đoạt các nước nghèo khỏi quyền thực thi trọn vẹn chủ quyền của mình, và khi xảy ra như thế, họ thấy đó là những hình thức thực dân mới làm thương tổn nghiêm trọng khả năng hòa bình và công lý, vì ”hòa bình không những dựa trên sự tôn trọng các quyền con người, nhưng còn trên sự tôn trọng các quyền của các dân tộc, đặc biệt là quyền độc lập” (Toát yếu xã hội, 157).

Trong những năm gần đây, sau bao nhiêu hiểu lầm, nhiều nước Mỹ châu la tinh đã thấy sự gia tăng tình huynh đệ giữa các dân tộc, để làm cho chủ quyền của mình được tôn trọng, chủ quyền của mỗi nước, và chủ quyền của vùng này nói chung. Nhưng ta phải rất để ý, vì chế độ thực dân mới có những khuôn mặt mới. Đó là quyền lực vô danh của thần tiền bạc: các liên minh, một số hiệp ước được gọi là tự do mậu dịch và sự áp đặt các phương thế tiết kiệm ngày càng làm cho các công nhân và người nghèo phải thắt lưng buộc bung. Cũng vậy, sự tập trung độc quyền các phương tiện truyền thông tìm cách áp đặt những kiểu mẫu tiêu thụ và một thứ đồng nhất về văn hóa, là một sắc thái khác của chế độ thực dân mới. Đó là chế độ thực dân ý thức hệ. Như các GM Phi châu đã nói, nhiều khi chúng chủ trương biến các nước nghèo thành những mảnh của một cơ cấu, một phần của một guồng máy khổng lồ.

Không có vấn đề trầm trọng nào của nhân loại có thể được giải quyết nếu không có sự đối tác giữa các quốc gia và dân tộc trên bình diện quốc tế. Nhưng sự đối tác không có nghĩa là áp đặt, không được ép nước này phải phục vụ và tùng phục quyền lợi của nước khác. Chế độ thực dân, cũ và mới, biến các nước nghèo thành những người cung cấp nguyên liệu và công nhân rẻ tiền, nó gây ra bạo lực, nghèo đói, cưỡng bách di dân, vì nó chối bỏ quyền được phát triển toàn diện. Đó là một sự bất chính và bất chính thì sinh ra bạo lực mà không có ngành cảnh sát, quân đối hoặc mật vụ nào có thể ngăn chặn được.

Chúng ta hãy chống lại những hình thức thực dân cũ và mới. Chúng ta hãy ủng hộ chấp nhận cuộc gặp gỡ giữa các dân tộc và các nền văn hóa.

Sau cùng, ĐTC nhìn nhận có những sự ác do các tín hữu Kitô gây ra trong dòng lịch sử. Ngài nói: ”Tôi muốn nói thật là rõ ràng, như thánh Gioan Phaolô 2, tôi khiêm tốn xin lỗi, không những vì những xúc phạm của Giáo Hội, nhưng vì những tội ác chống lại các dân tộc bản xứ trong thời kỳ gọi là chinh phục Mỹ châu. Tôi cũng xin tất cả mọi người, tín hữu hay không tín hữu, nhớ đến nhiều GM, LM và giáo dân đã và đang còn loan báo Tin Mừng của Chúa Giêsu với lòng can đảm và hiền từ, tôn trọng và trong an bình; khi rời bỏ cõi đời này, họ đã để lại những công trình thật cảm động, thăng tiến nhân bản và yêu thương, nhiều khi ở cạnh các dân tộc bản xứ hoăc tháp tùng các phong trào bình dân cho đến độ tử đạo. Giáo Hội, các con cái nam nữ của mình là thành phần của căn tính các dân tộc Mỹ châu la tinh. Căn tính mà tại đây cũng như tại các nước khác, một số quyền lực quyết liệt muốn xóa bỏ, đôi khi vì đức tin của chúng ta có tính chất cách mạng, vì đức tin chúng ta thách thức bạo quyền của thần tiền bạc. Ngày nay chúng ta kinh hoàng nhận thấy như tại Trung Đông và các nơi khác trên thế giới ngưới ta bách hại, tra tấn, ám sát các anh chị em chúng ta vì niềm tin của họ nơi Chúa Giêsu. Chúng ta cũng phải tố giác điều đó: trong cuộc thế chiến thứ 3 từng mảnh này mà chúng ta đang sống, có một thứ diệt chủng đang xảy ra và phải chặn đứng lại.

Nghĩa vụ thứ ba, có là lẽ quan trọng nhất mà chúng ta phải đảm nhận hôm nay, đó là bảo vệ Mẹ Trái Đất của chúng ta.

Chúng ta cảm thấy thất vọng gia tăng vì các hội nghị thượng đỉnh quốc tế nối tiếp nhau mà không có tiến bộ quan trọng nào. Có một mệnh lệnh khẩn thiết về luân lý đạo đức rõ rệt, không thể trì hoãn được phải hành động mà chưa được đáp ứng. Ta không thể để cho một số lợi lộc – nó có tính chất toàn cầu nhưng không hoàn vũ – áp đặt trên các nước, bắt các nước và các tổ chức quốc tế phải tùng phục và tiếp tục thiên nhiên. Các dân tộc và các phong trào được kêu gọi lên tiếng, động viên và đòi hỏi một cách ôn hòa nhưng kiên trì, yêu cầu chấp nhận những biện pháp thích hợp.

ĐTC kết thúc dài 55 phút. Sau cùng ngài nói: ”Xin anh chị em nhớ rằng niềm hy vọng không đánh lừa và xin nhớ cầu nguyện cho tôi. Nếu ai không thể cầu nguyện, thì xin hãy nghĩ đến tôi một cách tích cực!”. Trước đó ngài cũng nói rằng: ”Với thông điệp của ngài, tương lai không ở trong những kẻ cường quyền, nhưng trong tay các dân tộc”.

Sau cuộc gặp gỡ với hàng ngàn đại diện của các phong trào dân chúng, ĐTC đã về tòa TGM Santa Cruz để dùng bữa tối và nghỉ đêm.

G. Trần Đức Anh OP- Radio Vatican

 

Đức Thánh Cha gặp gỡ hàng ngàn linh mục tu sĩ Bolivia

Đức Thánh Cha gặp gỡ hàng ngàn linh mục tu sĩ Bolivia

ĐTC gặp gở các linh mục ở Bolivia

SANTA CRUZ. ĐTC mời gọi các linh mục, tu sĩ Bolivia hãy trở thành chứng nhân về lòng từ bi thương xót của Chúa, chứ không phải về một ý thức hệ. Lòng thương xót làm cho họ có khả năng gần gũi dân chúng.

Lúc 4 giờ chiều ngày thứ năm 9-7-2015, ĐTC tiếp tục các hoạt động tại thành phố Santa Cruz, Bolivia, với cuộc gặp gỡ hàng ngàn LM, tu sĩ nam nữ và chủng sinh tại Hội trường của trường Don Bosco.

Cuộc gặp gỡ diễn ra dưới hình thức một buổi phụng vụ Lời Chúa, với phần trình bày chứng từ của 1 LM, 1 nữ tu và một chủng sinh.

Đức Cha Roberto Bordi, GM đặc trách đời sống thánh hiến tại Bolivia, nói rằng những người được kêu gọi loan báo Tin Mừng là những người đầu tiên cần được liên tục “tin mừng hóa”. Chỉ ai để cho mình được Thiên Chúa hoán cải, thì mới làm cho người khác được lây niềm vui của Tin Mừng. Đức Cha cũng liệt kê những thách đố Giáo hội tại Bolivia đang phải đương đầu: trào lưu tục hóa lan tràn, khủng hoảng gia đình, nạn tham nhũng, buôn bán ma túy, nghèo đói, chống đối chính trị và ý thức hệ. Nhưng tất cả đều ý thức rằng điều thiện mạnh hơn sự ác, vì mang lại sự sống đích thực.

Tiếp đến một LM ở Cochabamba thuật lại gốc gác nông dân của mình và cho biết đã nghe tiếng Chúa và từ bỏ mọi sự. Cha nhấn mạnh tầm quan trọng của đời sống cộng oàn để sống đức tin.

Nữ tu Gabriela, trong chứng từ, nói về cuộc gặp gỡ với Chúa Kitô hằng sống trong kinh nguyện, trong Thánh Thể, trong sự lắng nghe Lời Chúa và trong công tác giáo dục. Chị nói: 'Ngày nay, càng ngày chúng ta càng cần phổ biến niềm hy vọng trong một thế giới ngày càng buồn thảm hơn”.

Sau cùng một chủng sinh, con của một công nhân thợ mỏ, nói về ơn gọi của thầy, nảy sinh nhờ bà mẹ luôn dạy thầy đừng bao giờ quên cầu nguyện.

Sau đó mọi người nghe đọc bài Tin Mừng theo thánh Marco (10,46-52) thuật lại phép lạ Chúa Giêsu chữa một người bị mù.

 Bài huấn dụ của Đức Thánh Cha

Trong bài huấn dụ, ĐTC nhắc đến Tin Mừng vừa được đọc và ngài giải thích rằng một đàng có tiếng kêu của người hành khất mù, và đàng khác có những phản ứng khác nhau của các môn đệ. Ngài nói:

Có 3 câu trả lời cho tiếng kêu của người mù là: Hãy tránh xa, im đi, và hãy can đảm, đứng lên!

1. Câu trả lời thứ nhất là hãy tránh xa. Có lẽ một vài người không nghe thấy nên tránh xa, đi qua. Đó là tiếng vọng của sự dửng dưng, đi cạnh cách vấn đề và làm sao để những vấn đề đó đừng động đến ta. Chúng ta không nghe thấy, không nhận ra các vấn đề ấy. Đó là cám dỗ coi đau khổ là chuyện bình thường, tự nhiên, và trở nên quen thuộc với bất công. Chúng ta tự nhủ: đó là chuyện bình thường, trước giờ vẫn luôn như vậy. Đó là tiếng vọng nảy sinh từ một con tim khép kín, bị bọc thép, không còn khả năng ngạc nhiên và vì thế không có khả năng thay đổi. Đó là con tim quen đi qua và không để cho mình bị động chạm đến; đó là một cuộc sống tránh sang bên kia đường, không ăn rễ sâu được trong cuộc sống của dân chúng. Đó là những người chạy theo những gì mới nhất, những thứ mới bán chạy nhất, nhưng không có được một tiếp xúc, một quan hệ và không để cho mình được liên hệ. Họ đi qua không nghe tiếng kêu đau đớn của dân chúng, không ăn rễ sâu trong cuộc sống của dân, cũng giống như nghe Lời Chúa mà không để cho Lời ấy bén rễ trong chúng ta và trở nên phong phú. Một cây, một lịch sử không có rễ, đó là một sự sống khô cằn. Cũng như chúng ta lắng nghe Kinh Lạy Cha như thế nào, cũng ta cũng phải lắng nghe dân trung thành của Thiên Chúa như vậy.

Thái độ thứ hai là bảo: Hãy im đi, đừng quấy rầy, đừng làm xáo trộn nữa. Khác với thái độ thứ I, người có thái độ này lắng nghe, nhìn nhận, tiếp xúc tới tiếng kêu của người khác. Họ biết rằng có tiếng kêu ấy, và phản ứng một cách rất đơn giản bằng cách khiển trách. Đó là thảm trạng của một lương tâm bị cô lập, của những ngừơi nghĩ rằng cuộc sống của Chúa Giêsu chỉ dành cho những người nghĩ là mình thích hợp. Chỉ những người cho là được phép, một giai cấp của những người khác, họ dần dần tách biệt, trở nên khác với dân của mình. Họ coi căn tính của họ là vấn đề trổi vượt hơn người khác. Nhu cầu trở nên khác biệt làm cho con tim họ họ bị chặn đứng.

Vui với người vui, khóc với người khác, đó chính là thần phần của mầu nhiệm con tim linh mục.

ĐTC nói tiếp:

Thái độ thứ ba là: Hãy can đảm lên, và đứng dậy! Một tiếng vọng không nảy sinh trực tiếp từ tiếng kêu của người mù Bartimeo, nhưng từ nhận xét về lối cư xử của Chúa Giêsu trước tiếng kêu của người hành khất mù. Đó là tiếng kêu biến thành một Lời, một tiếng mời gọi, thay đổi, một đề nghị về sự mới mẻ đứng trước các cách thức phản ứng của chúng ta trước dân thánh của Thiên Chúa. Chúa Giêsu dừng lại trước tiếng kêu của một người. Ngài ra khỏi tình trạng vô danh của đám đông để nhận ra người mù và dấn thân với anh ta. Và thế là dần dần Ngài trả lại phẩm giá anh đã đánh mất. Ngài làm cho anh được hội nhập. Thế là thay vì nhìn anh mù từ bên ngoài, Ngài có can đảm đồng hóa với những vấn đề của anh và qua đó biểu lộ sức mạnh biến đổi của lòng từ bi thương xót. Đó là hướng đi phát sinh từ thái độ không sợ đến gần đau khổ của dân chúng ta. Cho dù bao nhiêu lần thái độ ấy chỉ là đứng cạnh họ và biến cơ hội ấy thành dịu cầu nguyện. Đó chính là hướng đi của người môn đệ Chúa. Đó là điều mà Chúa Thánh Linh thực hiện với chúng ta và trong chúng ta. Chúng ta không phải là chứng nhân về một ý thức hệ, một công thức, về cách nghiên cứu thần học, nhưng chúng ta là chứng nhân về tình yêu thương chữa lành và từ bi của Chúa Giêsu. Chúng ta làm chứng về hành động của Chúa trong đời sống các cộng đoàn của chúng ta.

Cuộc gặp gỡ kết thúc khoảng 5 giờ chiều giờ địa phương với bài ca Lạy Nữ Vương và phép lành của ĐTC.

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

 

Tường thuật chuyến ĐTC công du Ecuador, Bolivia và Paraguay

Tường thuật chuyến ĐTC công du Ecuador, Bolivia và Paraguay

ĐTC dâng hoa cho Đức Mẹ El Quinche

Tường thuật chuyến viếng thăm mục vụ ba nước Ecuador, Bolivia và Paraguay

** Trong các sinh hoạt ngày thứ ba viếng thăm Ecuador còn có hai cuộc gặp gỡ khác vào ban chiều: đó là cuộc gặp gỡ giới sinh viên học sinh tại Đại học công giáo Ecuador và với các đại diện giới dân sự.

Sau khi dùng bữa trưa và nghỉ ngơi tại Tòa Sứ Thần Tòa Thánh lúc sau 16 giờ ĐTC đã đi xe papamobil tới Đại học giáo hoàng công giáo Ecuador cách đó 3 cây số. Hai bên đường đã có rất đông tín hữu chào đón ĐTC.

Đại học giáo hoàng công giáo Ecuador được thành lập năm 1946 thuộc tổng giáo phận Quito do các cha Dòng Tên điều khiển. Đại học gồm 14 học viện và phân khoa gồm Kiến trúc, Quản trị, Sư phạm, Khoa học, Triết học, Thần học, Khoa học nhân văn, Truyền thông, Văn chương, Kinh tế, Y tá, Kỹ sư, Luật, Y khoa, Sinh học, Trợ giúp xã hội. Có tất cả 30.000 sinh viên.

Vào thời thực dân Giáo Hội đã thành lập Đại học San Fulgencio do các cha dòng Agostino điều khiển; đại học thánh Gregorio do các cha dòng Tên điều khiển cho tới khi các vị bị trục xuất; và đại học San Tomas do các cha dòng Đa Minh điều khiển.

ĐTC đã được viện trưởng César Fabián Carrasco Castro tiếp đón trong khuôn viên đại học có chỗ cho 5.000 người. Sau lời chào của ĐC Alfredo José Espinoza Mateus, GM Loja và là chủ tịch Ủy ban giáo dục và văn hóa của HĐGM Ecuador, các sinh viên học sinh đã tặng qùa cho ĐTC. Tiếp đến mọi người đã nghe chứng từ của một nữ sinh viên, một giáo sư và viện trưởng đại học.

Ngỏ lời trong dịp này ĐTC đã quảng diễn ý nghĩa của dụ ngôn người gieo giống và lệnh Thiên Chúa truyền cho con người phải vun trồng và giữ gìn thụ tạo. ĐTC nói:

Thiên Chúa không chỉ ban cho con người sự sống, nhưng cũng ban cho con người trái đất, thụ tạo. Ngài không chỉ ban cho con người một người bạn đường và các khả thể vô tận. Nhưng Ngài cũng đưa ra một lời mời gọi, và trao ban cho con người một sứ mệnh nữa. Ngài mời gọi họ tham dự vào công trình tạo dựng của Ngài và nói: hãy vun trồng! Ta ban cho con các hạt giống, trái đất, nước, mặt trời, Ta ban cho con đôi bàn tay và tay của anh em con. Nó cũng là của con. Nó là một món quà, một ơn, một sự cống hiến. Nó không phải là cái gì được chiếm hữu, được mua.  Nó đi trước chúng ta và sẽ tiếp nối chúng ta… Thụ tạo là một ơn phải được chia sẻ. Nó là không gian Thiên Chúa ban cho chúng ta để xây dựng với chúng ta, để xây dựng một “chúng ta”. Thế giới, lịch sử, thời gian là nơi chúng ta đi xây dựng chúng ta với Thiên Chúa, với người khác và với trái đất. Cuộc sống của chúng ta luôn dấu ẩn lời mời gọi này, một lời mời gọi ít nhiều ý thức nhưng tồn tại luôn mãi. Tuy nhiên, chúng ta ghi nhận một điểm đặc biệt. Trong trình thuật của sách Sáng Thế, cùng với từ “vun trồng” Thiên Chúa nói ngay một lời khác “giữ gìn”, chăm sóc. Từ này được hiểu nhờ từ kia. Một bàn tay giơ ra cho một bàn tay khác. Ai không vun trồng thì không chăm sóc, ai không chăm sóc thì không vun trồng. Chúng ta không chỉ được mời gọi là phần của công trình sáng tạo bằng cách vun trồng nó, làm cho nó lớn lên, phát triển nó, nhưng chúng ta cũng được mời gọi chăm sóc, che chở, giữ gìn nó nữa. Ngày nay lời mời gọi này càng mạnh mẽ hơn nữa. Không phải chỉ như là một lời nhắn nhủ, nhưng như là một đòi buộc nảy sinh từ “sự dữ mà chúng ta đã gây ra, vì việc sử dụng vô trách nhiệm và lạm dùng các tài nguyên Thiên Chúa đã đặt để trong trái đất. Chúng ta lớn lên và nghĩ rằng chúng ta là chủ và là kẻ thống trị, được phép cướp bóc nó, vì thế giữa các người nghèo bị bỏ rơi và đối xử tàn tệ nhất có trái đất của chúng ta bị áp bức và tàn phá” (Laudato sì, 2).

Tiếp tục bài huấn dụ ĐTC nói: Có một tương quan giữa cuộc sống của chúng ta và cuộc sống của mẹ đất, giữa sự hiện hữu của chúng ta và ơn Thiên Chúa đã ban cho chúng ta. “Môi sinh nhân bản và môi sinh thiên nhiên cùng nhau trở nên đồi tệ, và chúng ta không thể đương đầu với sự suy đồi môi sinh một cách thích hợp, nếu không chú ý tới các lý do có tương quan với sự suy đồi nhân bản và xã hội” (ibid., 48). Nhưng chúng cũng nâng đỡ nhau và có thể thay đổi hình dạng. Đó là một tuơng quan giữ gìn một khả thể của sự rộng mở, thay đổi, của sự sống cũng như của tàn phá và chết chóc.

Có một điều chắc chắn: đó là chúng ta không thể tiếp tục quay lưng lại với thực tại của mình, với các anh em mình, với mẹ đất. Chúng ta không được phép không biết điều đang xảy ra chung quanh chúng ta, làm như thể là các tình trạng xác định không hiện hữu hay không liên quan gì tói thực tại của chúng ta. Một lần nữa câu Thiên Chúa hỏi lại vang lên: “Em ngươi đâu?”. Tôi tự hỏi không biết câu trả lời của chúng ta có tiếp tục là “Tôi có phải là người canh giữ em tôi đâu?” (St 4,9).

Trong bối cảnh đại học này, sẽ rất đẹp nếu chúng ta tự vấn liên quan tới nền giáo dục của chúng ta trước trái đất đang kêu lên tới trời. Các trường học của chúng ta là một vườn ương cây, một khả thể, là đất phì nhiêu mà chúng ta phải chăm sóc, kích thích, và che chở. Đất phì nhiều khát sự sống.

Cùng anh chị em là các giáo sư tôi tự hỏi: Anh chị em có thức tỉnh trên các sinh viên học sinh bằng cách trợ giúp họ phát triển một óc phê bình, một tinh thần tự do có khả năng chăm sóc thế giới ngày nay hay không? Một tinh thần có khả năng tìm ra các câu trả lời mới cho nhiều thách đố mà xã hội ngày nay đưa ra hay không? Anh chị em có khả năng khích lệ họ đừng không biết tới thực tại bao quanh họ hay không? Làm thế nào để bước vào trong các chương trình khác nhau của đại học hay trong các lãnh vực khác nhau của công việc giáo dục cuộc sống chung quanh chúng ta với các đòi hỏi, các vấn nạn và các cật vấn của nó? Chúng ta làm nảy sinh ra và đồng hành với cuộc thảo luận xây dựng này  việc đối thoại sinh tử cho một thế giới nhân bản hơn như thế nào?

Tiếp đến ĐTC khẳng định như sau:

Có một suy tư lôi cuốn tất cả chúng ta: các gia đình, học đường và nhà giáo, đó là làm thế nào để người trẻ đừng đồng hóa bằng biếu đại học với địa vị cao hơn, với tiền bạc và uy tín xã hội. Chúng ta làm thế  nào để giúp họ nhận diện việc chuẩn bị này như dấu chỉ của một trách nhiệm lớn hơn đối với các vấn đề  ngày nay, tôn trọng và săn sóc người nghèo, tôn trọng việc cứu vãn môi sinh. Và với các  các bạn trẻ thân mến, là hiện tại và tương lại của Ecuador, là hạt giống biến đổi của xã hội này, tôi muốn tự hỏi: các bạn có biết thời gian học hành các bạn có không phải chỉ là một quyền lợi mà cũng là một đặc ân không? Biết bao nhiêu bạn bè, quen và không quen, muốn có một chỗ trong nơi này, mà vì các hoàn cảnh khác nhau đã không có được? Việc học hành của chúng ta giúp liên đới với họ trong mức độ nào?

Các cộng đoàn giáo dục có một vai trò sinh động, nòng cốt trong việc xây dựng xã hội và nền văn hóa. Phân tích, miêu tả thực tại thôi không đủ, cần phải trao ban sự sống cho các môi trường, nơi chốn nghiên cứu đích thật, cho các thảo luận làm nảy sinh ra các giải pháp cho các vấn đề hiện hữu đặc biệt ngày nay.

Trước sự toàn cầu hóa của mô thức kỹ thuật hướng tới chỗ tin rằng mỗi chiếm hữu quyền lực là tiến bộ, gia tăng an ninh, hữu ích, hạnh phúc, sức sống, gia trị tràn đầy, làm như thể thực tại, thiện ích và sự thật phát sinh một cách tự phát từ chính quyền lực của kỹ thuật và kinh tế” (Laudato si’, 105), chúng ta được hỏi một cách cấp thiết mau chóng suy tư, tìm tòi, thảo luận về tình trạng của chúng ta hiện nay. Chúng ta muốn và yêu sách cho con cháu chúng ta loại văn hóa nào đây? Trái đất này mà chúng ta đã nhận như gia tài, như một ơn, một món quà, chúng ta muốn để lại nó như thế nào? Chúng ta muốn in các chỉ dẫn nào trên cuộc sống? “Chúng ta đi qua trái đất này với mục đích nào? Chúng ta đến trên trái đất này với mục tiêu nào? Chúng ta làm việc và chiến đấu cho mục đích nào? (ibid., 160). Các sáng kiến cá nhân luôn luôn tốt và nền tảng, nhưng chúng ta phải nhìn thực tại một cách tổng quát, có trật tự  và không rời rạc, đưa ra các vấn nạn bao gồm tất cả mọi người. Như là đại học, như là các cơ cấu, các giáo sư và sinh viên cuộc sống thách đố các bạn trả lời cho câu hỏi này: tại sao chúng ta cần trái đất này? Người anh em con ở đâu? Ước chi Chúa Thánh Thần linh hứng và đồng hành với các bạn và ban cho chúng ta sức mạnh và ánh sáng cần thiết để chu toàn sứ mạng giáo dục này.

Sau khi từ giã giới trí thức lúc 6 giờ chiều ĐTC đã đi xe đến nhà thờ thánh Phanxicô cách đó 4 cây số để gặp gỡ các đại diện giới dân sự trong lãnh vực văn hóa, kinh tế, doanh thương kỹ nghệ và nông nghiệp, cũng như các tổ chức thiện nguyện và đại diện của các thổ dân Amazzonia.

Nhà thờ thánh Phanxicô là nhà thờ cổ kính nhất trong toàn Châu Mỹ Latinh, được khởi công xây năm 1536, ba năm sau ngày thành lập thủ đô Quito, và hoàn thành năm 1680. Toàn bộ kiến trúc nghệ thuật rất phong phú vì cũng chứa đựng 3.500 tác phẩm nghệ thuật thuộc trường phái Quito và một thư viện vào bậc nhất của các cha Phanxicô.

Sau lời chào của ĐC Luis Cabrera Herrera, TGM Cuenca, Chủ tịch Ủy ban giáo dân của HĐGM Ecuador, đã có phần chia sẻ chứng từ của ba giáo dân: ông Francisco Jarrin, đại diện Hiệp hội các doanh thương kitô, bà Lidia Marlene Arcos Miranda, doanh thương tỉnh Ambato, và bà Imelda Caicedo Vega, giáo lý viên 85 tuổi, dậy giáo lý cho dân quê tỉnh Los Rios từ 60 năm qua. Họ đã nói lên các ưu tư, các khó khăn và thách đố của cuộc sống đức tin trong môi trường xã hội ngày nay. Dàn nhạc Sunamune gồm các người trẻ tàn tật và bị bệnh khờ cũng đã trình tấu chào mừng ĐTC.

Trong bài huấn dụ ĐTC đã khích lệ mọi người dấn thân xây dựng một xã hội bao gồm sự hiện diện và tham gia của mọi thành phần xã hội, chiến thắng ích kỷ và nền văn hóa gạt bỏ. Xã hội hãy học nơi gia đình để không ai bị loại bỏ ra ngoài. Trong gia đình con người nhận được các giá trị nền tảng của tình yêu thương, tình huynh đệ và sự tôn trọng lẫn nhau, được diễn tả ra bằng các giá trị xã hội nòng cốt là sự nhưng không, tình liên đới và sự phụ đới.

Trong tương quan xã hội, hay trong lãnh vực chính trị, nhiều khi người ta dựa trên sự đối đầu, trên việc gạt bỏ. Nhưng xã hội phải là một gia đình, gồm cha mẹ, con cái, anh chị em, trong đó khi gặp khó khăn, người ta tương trợ nhau, trong đó nỗi đau đớn của một người là nỗi đau của tất cả. Trong gia đình tất cả mọi người đều góp phần vào chương trình chung, tất cả đều làm việc cho lọi ích chung, nhưng không hủy bỏ cá nhân. Trái lại, họ nâng đỡ và thăng tiến cá nhân. Và ĐTC cầu mong người ta có thể nhìn đối thủ chính trị, và người hàng xóm với đôi mắt mà chúng ta nhìn người thân của mình trong gia đình.

Tiếp tục bài huấn dụ ĐTC đưa ra câu hỏi: Chúng ta có yêu thương quê hương đất nước, cộng đoàn mà chúng ta đang tìm xây dựng không? Nếu yêu thương thật, thì phải yêu thương bằng việc làm nhiều hơn là bằng lời nói. Trong lãnh vực xã hội sự nhưng không không phải là một bổ túc, nhưng là một đòi buộc cần thiết của công lý. Cái mà chúng ta là và có đã được ban cho chúng ta để phục vụ tha nhân. Nhiệm vụ của chúng ta là làm cho nó sinh hoa trái trong các công việc lành.

Các tài nguyên được chỉ định cho tất cả mọi người, vì thế khi một người chiếm làm của riêng, là việc hợp pháp, thì một quyền sai áp luôn luôn đè nặng trên chúng. Hướng tới các anh chị em thổ dân đến từ vùng Amazzonia ĐTC nêu bật rằng việc khai thác các tài nguyên thiên nhiên dư đật tại Ecuador không được tìm lợi nhuận tức khắc. Là người giữ gìn sự phong phú mà chúng ta đã lãnh nhận phải khiến cho chúng ta dấn thân với toàn hội và với các thế hệ tương lai. Có những nơi cần phải được săn sóc đặc biệt vì tầm quan trọng khổng lồ của chúng đối với hệ thống sinh thái thế giới. Liên quan tới tình liên đới ĐTC khẳng định như sau:

Từ tình liên đới sống trong gia đình nảy sinh tình liên đới trong xã hội. Nó không hệ tại việc cho những người cần được giúp đỡ, nhưng là có trách nhiệm đối với nhau. Nếu chúng ta trông thấy nơi tha nhân một người anh em, thì không ai có thể bị loại bỏ, bị tách rời.

Các điều khoản và luật lệ cũng như các dự án của cộng đoàn dân sự phải tìm kiếm sự bao gồm, để tạo thuận tiện cho các không gian đối thoại, gặp gỡ, và như thế để lui vào ký ức đau đớn bất cứ loại đàn áp, kiểm soát vô giới hạn và lấy mất đi sự tự do nào. Hy vọng một tương lai tốt đẹp hơn đòi hỏi cống hiến các khả thể thực thụ  cho các công dân, nhất là cho giới trẻ, bằng cách tạo ra công ăn việc làm. Tới đây ĐTC đã ứng khẩu và mạnh mẽ tố cáo nền văn hóa gạt bỏ gây thương tích cho người trẻ và người già với các hậu quả kinh khủng dẫn đưa tới các vụ tự tử. Tình trạng này thuận lợi cho các kẻ phục vụ sự ích kỷ, thần tiền bạc ở trung tâm của một hệ thống đè bẹp tất cả chúng ta.

Sau cùng ĐTC đã đề cập tới sự phụ đới và nói : Khi nhận biết những gì là hay đẹp nơi người khác, cả với các hạn hẹp của họ, chúng ta thấy sự phong phú định tính sự khác biệt  và giá trị của việc bổ túc. Các con người, các nhóm có quyền thành toàn lộ trình của mình, cả khi điều này có đưa tới các sai lầm đi nữa. Đối thoại là điều cần thiết để đạt sự thật, không thể bị áp đặt, nhưng được tìm kiếm với lòng chân thành và óc phê bình. Trong việc tôn trọng sự tự do, xã hội dân sự được mời gọi thăng tiến mọi người và mọi tác nhân xã hội để họ nhận lãnh vai trò của họ và góp phần chuyên môn vào công ích. Trong một nền dân chủ được tham gia mọi lực lượng xã hội phải là tác nhân. Cả Giáo Hội cũng muốn cộng tác vào việc tìm kiếm công ích, với các hoạt động xã hội, giáo dục của mình bằng cách thăng tiến các gia trị luân lý đạo đức và tinh thần, vì Giáo Hội là dấu chỉ ngôn sứ đem lại ánh sáng và niềm hy vọng cho tất cả mọi người, đặc biệt là cho những người cần được trợ giúp nhất. Và ĐTC kết luận : Có nhiều người hỏi tại sao tôi hay nói tới các người cần được trợ giúp, những người bị gạt bỏ, bị loại ra bên lề xã hội nhiều như thế. Một cách đơn sơ bởi vì thực tại này và câu trả lời cho thực tại này là trọng tâm của Tin Mừng.

Sau khi từ giã các đại diện thế giới dân sự, ĐTC đã đi xe đến thăm nhà thờ của dòng Tên cách đó một cây số. Nhóm tu sĩ dòng Tên đầu tiên đến Quito năm 1586. Năm 1602 cha Nicolas Duran Mastrilli, giám đốc tiên khởi của Trường dòng Tên đến Quito mang theo sơ đồ nhà thờ. Nhà thờ này được xây bởi kiến trúc sư Domenico Zampilli cũng là kiến trúc sư đã xây nhà thờ Chúa Giêsu của dòng Tên ở Roma. Tiếp đến có hai kiến trúc sư khác tới tiếp tục việc xây cất, và nhà thờ đã hoàn thành năm 1765. Tháp chuông bị sập trong trận động đất năm 1859, đuợc xây lại nhưng lại bị sập trong trận động đất năm 1868 và không bao giờ được tái thiết. Nhà thờ bị hư hại trong trận động đất năm 1987 và việc trùng tu hoàn tất năm 2005.

Trong nhà thờ này có tượng Đức Mẹ Sầu Bi với trái tim bị 7 lưỡi gươm đâm thâu. Vào năm 1906 Ecuador tuyên bố tính cách đời của nhà nước, cấm các biến cố tôn giáo và tịch thu các tài sản của Giáo Hội. Ngày 20 tháng 4 cùng năm xảy ra phép lạ Đức Mẹ Sầu Bi. 35 sinh viên dòng Tên đã trông thấy mắt Đức Mẹ chuyển động trong nhà cơm trường San Gabriel. Phép lạ được thừa nhận ngày 31 tháng 5 năm 1907. Và kể từ đó trường San Gabriel trở thành trung tâm thánh mẫu. Hằng năm tượng Đức Mẹ được rước trong toàn nước.

Sau khi viếng thăm nhà thờ ĐTC đã về Toà Sứ Thần Tòa Thánh để dùng bữa tối và nghỉ đêm kết thúc ngày thứ 3 viếng thăm Ecuador.

Ngày thứ tư mùng 8 tháng 7 ĐTC đã chỉ có hai sinh hoạt : thăm viện dưỡng lão do các nữ tu Thừa Sai Bác Ái trông coi, và gặp gỡ hàng giáo sĩ tu sĩ chủng sinh tại đền thánh Đức Bà El Quinche. Trung tâm Đức Bà El Quinche đưọc xây năm 1928 và được tuyên bố là trung tâm thánh mẫu quốc gia năm 1985. Tượng Đức Bà el Quinche bằng gỗ trắc bá cao 60 cm, do ông Don Diego de Robles thuộc trường phái Quito tạc năm 1586, theo lời xin của các thổ dân Lumbici. Vì các thổ dân không có tiền trả công, nên nhà điêu khắc nhường tượng lại cho các thổ dân Oyacachi muốn có bức tượng này vì giống hình Đức Mẹ đã nhiều lần hiện ra với họ.

Sau khi dâng thánh lễ riêng lúc 7 giờ rưỡi và điểm tâm, ĐTC đã từ giã Tòa Sứ Thần Tòa Thánh đi xe đến nhà dưỡng lão tại Tumbaco là một vùng phụ cận cách xa Quito 21 cây số.

Ngài đã được nữ tu bề trên và 10 nữ tu tiếp đón. ĐTC đã gặp các cụ già trong sân nhà dưỡng lão, bắt tay và hỏi chuyện từng người.

Sau khi từ biệt các cụ lúc 10 giờ ĐTC đi xe đến đền thánh Đức Bà El Quinche cách đó 27 cây số. Đã có hàng chục ngàn người quy tụ về đây để chào đón ngài. Khi xe vào thành phố tín hữu đứng hai bên đường đã tung hoa chào mừng ĐTC trong một bầu khí lễ hội tươi vui. Mui chiếc xe papamobil đầy cánh hoa hồng. ĐTC đã được linh mục quản đốc đền thánh tiếp đón tại thềm đền thờ và đưa vào trong để ĐTC dâng hoa kính Đức Mẹ. Ngài đã đứng cầu nguyện một lát trước tượng Đức Mẹ Sầu Bi. Tiếp đến ĐTC đã vào nhà dòng và viết vào sổ lưu niệm lời cầu sau đây : « Lạy Me là Đức Trinh Nữ đền thánh  Quinche, xin chăm sóc nhân dân Ecuador. Họ là con cái Mẹ, Mẹ ơi » Ký tên Phanxicô Giáo Hoàng.

Tiếp đến ĐTC đã ra khán đài bên ngoài đền thánh để gặp gỡ hàng giáo sĩ, tu sĩ, chủng sinh. Sau lời chào mừng của ĐC Celmo Lazzari, đặc trách những người sống đời thánh hiến của HĐGM Ecuador, đã có phần chứng từ của cha Silvino Mina, thuộc Toà Giám quản tông toà Esmeraldes và nữ tu Marisol Sandoval dòng Agostino.

ĐTC đã không đọc diễn văn dọn sẵn nhưng ứng khẩu. Ngài cám ơn các linh mục tu sĩ và chủng sinh đã quảng đại đáp lại lời kêu mời của Chúa dấn thân trong các hoạt động khác nhau lo cho dân Chúa. Ngài khích lệ mọi người sống thân tình với Chúa, biết săn sóc sức khoẻ thể lý, nhưng nhất là săn sóc sức khỏe tinh thần và đời sống thiêng liêng, không bị bệnh lão hóa tinh thần, luôn biết tin yêu phó thác, cậy dựa vào ơn thánh Chúa, ý thức mình là người phục vụ, và tận dụng các tài khéo Chúa ban cho công tác rao giảng Tin Mừng và làm chứng nhân cho tình yêu Chúa giữa lòng trần gian, tránh bệnh lão hóa tinh thần và khuynh hướng tìm chức tước. Vì không phải là người làm thuê ăn lương, nên công tác mục vụ phải nhưng không. Đừng để người ta trả tiền cho ơn thánh.

Trong diễn văn dọn sẵn ĐTC phó thác cho trái tim Mẹ Sầu Bi người già, người bệnh và mọi cuộc gặp gỡ trong chuyến công du của ngài. Ngài cũng để tất cả mọi thành phần dân Chúa trong con tim của những người sống đời thánh hiến. Dựa trên trình thuật Đức Mẹ dang mình vào đền thánh, ĐTC rút tỉa ra vài suy tư và áp dụng vào đời sống thánh hiến. Trước hết ơn gọi thánh hiến là một ơn nhưng không Thiên Chúa ban. Ngài tuyển chọn và sai chúng ta đi. Sự kiện này giải thoát chúng ta khỏi nguy hiểm lấy mình làm điểm tham chiếu, vì chúng ta không thuộc về mình nữa, và ơn gọi xin chúng ta  từ bỏ mọi ích kỷ, tìm lợi lộc vật chất hay bù trừ tình cảm. Chúng ta là những người phục vụ, chứ không phải là lính đánh thuê, không phải đến để đuợc hầu hạ nhưng để phục vụ, hoàn toàn không dính bén, không gậy, không bị, không chạy theo vinh quang giả tạo và tinh thần thế tục, xa lánh các tham vọng, các lợi lộc thấp hèn ích kỷ, các chú ý tới mình một cách thái quá.

Cũng như quyền bính của các Tông Đồ các ơn chúng ta nhận được là để canh tân và xây dựng Giáo Hội. Không khước từ chia sẻ, cho đi và khép kín trong tiện nghi dễ dãi, biết là suối mát bổ dưỡng, đặc biệt cho những người bị tội lỗi, thất vọng và thù hận đè bẹp.

Điểm thứ hai là sự kiên trì. Cũng như Mẹ Maria đã không quay lại đàng sau, nhưng cương quyết tiến vào đền thánh, người sống đời thánh hiến cũng phải kiên trì trong sứ mệnh, không lang thang tìm nơi dễ dãi tiện nghi hơn, kiên trì cả khi có gặp đêm đen và lạc lối hay nguy hiểm, vì biết rằng dân thánh Chúa đồng hành với chúng ta, những người thân thương và Giáo Hội đồng hành và đỡ nâng chúng ta. Cần tiến buớc trong hiệp nhất, tương trợ lẫn nhau và sống tươi vui vì được sống trong nhà Chúa, tham dự cuộc sống thân tình với Chúa, dấn thân loan báo Tin Mừng và đem ơn cứu độ đến cho mọi ngưòi. Ý thức được trách nhiệm của mình đối với các dân tộc Mỹ châu la tinh, vun trồng, linh họat và giáo dục lòng đạo đức bình dân, để tín hữu biết biểu lộ đức tin với ngôn ngữ và kiểu cách riêng của họ, thăng tiến nền văn hóa gặp gỡ để Giáo Hội là căn nhà chung cho mọi người, một Giáo Hội ra đi, một Giáo Hội tới gần và thích ứng để không xa cách con người, một Giáo Hội ra khỏi tiện nghi dễ dãi của mình và có can đảm tới với mọi vùng ngoại biên cần đến ánh sáng Tin Mừng.

ĐTC đã ban phép lành và từ giã mọi người để ra phi trường lấy máy bay sang thủ đô La Paz của Bolivia, bắt đầu chặng thứ hai trong chuyến viếng thăm ba nước Eucador, Bolivia và Paraguay.

Lễ nghi tiễn biệt đã diễn ra tại phi trường rất long trọng. Tổng thống và phu nhân đứng hai bên ĐTC trên bục trải thảm đỏ. Ban nhạc và ban vũ thiếu nhi đã cử hành quốc thiều Vaticang và quốc thiều Ecuador. ĐTC đã bắt tay từ biệt các Giám Mục và nhiều bộ trưởng chính phủ. Khi tiến tới chân máy bay ĐTC đã dừng lại bắt tay và ôm hôn các trẻ em cầm cờ toà thánh đứng hai bên. Các em ùa đến vây quanh ngài và vô cùng sung sướng. Trước khi lên máy bay ĐTC đã ôm hôn tổng thống và bắt tay phu nhân rồi cầm lấy chiếc cặp da của ngài. Ngài đã quay lại lần cuối chào từ biệt mọi người trước khi bước vào trong máy bay.

Chiếc boeing 737 của hãng hàng không Bolivia đã cất cánh lúc sau 12 giờ trưa và đến La Paz sau 3 giờ 15 phút bay. Chúng tôi sẽ tường thuật lễ nghi tiếp đón ĐTC tại La Paz và thánh lễ ĐTC chủ sự sáng thứ năm 9-7 để khai mạc Đại Hội Thánh Thể Bolivia tại quảng trường Chúa Kitô Cúu Thế tại Santa Cruz trong các buổi phát ngày mai.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Ngày thứ ba chuyến ĐTC viếng thăm mục vụ Ecuador

Ngày thứ ba chuyến ĐTC viếng thăm mục vụ Ecuador

ĐTC giảng trong thánh lễ tại Công viên 200 Năm trong thủ đô Quito của Ecuador

** Ngày thứ ba mùng 7 tháng 7 ĐTC đã có 5 sinh hoạt. Lúc 9 giờ sáng giờ địa phương ĐTC đã gặp Hội Đồng Giám Mục tại Công viên 200 năm trong thủ đô Quito. Tiếp đến ngài đã chủ sự thánh lễ đồng tế cho giáo dân với các Giám Mục và Linh Mục. Vào lúc 16 giờ rưỡi chiều ngài đã gặp gỡ thế giới học đường và đại học  và lúc 18 giờ ĐTC đã gặp gỡ thế giới dân sự, rồi viếng thăm nhà thờ dòng Tên. Sau đây là bài tường thuật hai sinh hoạt sáng thứ ba.

Lúc 8 giờ sáng ĐTC đã rời Tòa Sứ Thần Tòa Thánh để đến Công viên 200 năm cách đó 11 cây số trong thủ đô Quitô. Công viên này đã được khánh thành ngày 27 tháng 4 năm 2013, tại phi trường cũ của thủ đô. Công viên rộng 125 héc ta cây xanh, và đã được gọi là “lá phổi” của thủ đô Quito. Trong số các cơ cấu cũng có một trung tâm, nơi tổ chức các biến cố đặc biệt như các đại nhạc hội và các biến cố tranh tài thể thao ngoài trời.

Cuộc gặp gỡ của ĐTC với 40 Giám Mục đã diễn ra trong một phòng ở tầng trệt của trung tâm. Sau lời chào của ĐC Fausto Gabriel Trávez Trávez, TGM Quito, Chủ tịch HĐGM Ecuador, ĐTC đã nói chuyện với các Giám Mục một cách thân tình, không hình thức và cũng không có diễn văn.

Lúc 10 giờ ĐTC đã lên xe díp đi một vòng dài 4 cây số chào tín hữu. Khu vực phi trường cũ, nơi trực thăng của Thánh Gioan Phaolô II đã đáp hồi năm 1985, có thể chứa tới 1,5 triệu người. Thánh lễ đã bắt đầu lúc 10 giờ 30 và có đề tài là “rao giảng Tin Mừng cho các dân tộc.”

Khán đài có cây thánh giá cao 25 mét được trang hoàng với 100.000 bông hồng mầu trắng và mầu vàng, trong khi bàn thờ được trang hoàng với hai bức khảm gồm 85.000 hoa hồng nhiều mầu, do các nông dân trồng hoa toàn nước dâng tặng ĐTC. Đảm trách phần thánh ca có một ca đoàn tổng hợp gần 1000 ca viên.

Giảng trong thánh lễ ĐTC nói:

** Lời Chúa mời gọi chúng ta sống sự hiệp nhất để thế gian tin. Tôi tưởng tượng ra tiếng nói thì thầm của Chúa Giêsu trong bữa Tiệc Ly như một tiếng kêu, trong Thánh Lễ mà chúng ta cử hành tại Quảng trường 200 Năm này. Hai trăm năm của tiếng kêu độc lập của Mỹ châu nói tiếng Tây Ban Nha. Đó đã là một tiếng kêu nảy sinh từ ý thức về sự thiếu tự do, bị vắt cạn và cướp bóc, bị thống trị bởi các thích hợp tình cờ của các kẻ mạnh thay phiên nhau cai trị (Niềm Vui Phúc Âm, 213).

Tôi muốn rằng ngày hôm nay hai tiếng kêu đó hoà hợp với nhau trong dấu chỉ của thách đố đẹp của việc loan báo Tin Mừng. Không phải với các lời nói vang cao, hay với các từ phức tạp, nhưng với một sự hoà hợp nảy sinh từ « niềm vui của Tin Mừng », «tràn đầy con tim và cuộc sống của những người gặp gỡ Chúa Giêsu. Những người để cho Ngài cứu rỗi được giải thoát khỏi tội lỗi, khỏi sự buồn sầu, khỏi sự trống rỗng  nội tâm, khỏi sự cô lập » (ibid., 1), khỏi ý thức bị lẻ loi. Chúng ta tụ tập nhau nơi đây, tất cả chung quanh bàn tiệc với Chúa Giêsu, chúng ta trở thành một tiếng kêu, một lời cầu nguyện nảy sinh từ xác tín rằng sự hiện diện của Ngài  thúc đẩy chúng ta tới sự hiệp nhất và « đánh dấu một chân trời xinh đẹp, cống hiến một bữa tiệc đáng ao ước » (ibid., 14)

Tiếp tục bài giảng ĐTC nói : « Lạy Cha, ước chi chúng nên một để thế gian tin » (Ga 17,21) : như thế, khi nhìn trời Chúa Giêsu biểu lộ ước muốn của Người. Trong tim của Chúa Giêsu dấy lên lời xin này trong một bối cảnh của việc sai đi : « Như Cha đã sai con vào trần gian, con cũng sai họ vào trần gian » (Ga 17,18). Trong lúc này Chúa sống kinh nghiệm trong chính thịt xác Ngài cái tồi tệ nhất của thế giới này, mà Ngài yêu thương đến điên dại : các âm mưu, sự mất tin tưởng, sư phản bội, nhưng Ngài không lẩn trốn, không than van. Cả chúng ta mỗi ngày cũng nhận thấy rằng mình sống trong một thế giới bị xâu xé bởi chiến tranh và bạo lực. ĐTC giải thích thêm điểm này như sau :

Sẽ là hời hợt, khi cho rằng sự chia rẽ và thù ghét chỉ liên quan tới các căng thẳng giữa các nước hay các nhóm xã hội. Thật ra, chúng là các biểu lộ của « cá nhân chủ nghĩa phổ biến », chia cách chúng ta và đặt để chúng ta trong thế chống đối nhau (x. Niềm vui Tin Mừng, 99), hoa trái vết thương của tôi lỗi trong trái tim con người, mà các hậu quả cũng đổ ập trên xã hội và tất cả thụ tạo. Chúa Giêsu gửi chúng ta tới với chính thế giới này, đang thách đố chúng ta với các ích kỷ của nó, và lời đáp trả của chúng ta không phải là giả bộ như không có gì, hay cho rằng chúng ta không có các phương tiện, hoặc thực tại vượt qúa sức lực của chúng ta. Câu trả lời của chúng ta vang vọng tiếng kêu của Chúa Giêsu và nhận lấy ơn thánh và nhiệm vụ của sự hiệp nhất.

** Không thiếu xác tín, cũng không thiếu sức mạnh cho tiếng kêu của tự do ùa nhập vào hơn 200 năm qua, nhưng lịch sử nói với chúng ta rằng nó chỉ định đoạt, khi nó bỏ ra một bên các khuynh hướng cá nhân, các khát vọng một quyền bính duy nhất, thiếu cảm thông đối với các tiến trình giải thoát khác, với các đặc tính khác nhau, nhưng không vì thế mà kình chống nhau.

Và việc rao truyền Tin Mừng có thể là một phương tiện của sự hiệp nhất các khát vọng, sư nhậy cảm, các giấc mơ và cả vài không tưởng nữa. Chắc chắn nó là điều có thể, và chúng ta tin và kêu lên. Tôi đã nói rằng: « Trong khi trên thế giới, tại một vài nước tái xuất hiện các hình thức chiến tranh và xung đột khác nhau, chúng ta kitô hữu, chúng ta nhấn mạnh trên đề nghị hiểu biết tha nhân, chữa lành các vết thương, xây các cây cầu, thắt chặt các tương quan và trợ giúp nhau vác các gánh nặng của nhau » (ibid., 67). Ước mong hiệp nhất giả thiết niềm vui êm dịu và củng cố của việc rao truyền Tin Mừng, xác tín có một thiện ích mênh mông cần thông truyền, và khi thông truyền nó đâm rễ ; và bất cứ ai đã sống kinh nghiệm này cũng chiếm hữu được một sự nhậy cảm cao hơn đối với các nhu cầu của người khác (x, ibid., 9). Từ đó nảy sinh ra sự cần thiết chiến đấu cho việc quy nạp trên mọi bình diện, chiến đấu cho việc quy nạp trên mọi bình diện, bằng cách tránh các ích kỷ, bằng cách thăng tiến sự hiệp thông và đối thoại, bằng cách thúc đẩy sự cộng tác. « Cần tín thác con tim cho người bạn đồng hành, không nghi ngờ, không tin tưởng… Tin tưởng nơi tha nhân là một cái gì có tính cách thủ công, hòa bình là thủ công » (ibid., 244). Thật không thể nghĩ rằng sự hiệp nhất rạng ngời, nếu tinh thần thế tục khiến chúng ta giao chiến với nhau, tìm kiếm quyền bính khô cằn, tìm kiếm uy tín hay an ninh kinh tế. Và làm điều này trên vai của những người nghèo nhất, bị loại trừ nhất, không đuợc bệnh đỡ nhất, của những người không đánh mất đi phẩm giá của họ, không chú ý tới sự kiện nó bị tấn kích mỗi ngày.

ĐTC nói thêm trong bài giảng : Sự hiệp nhất này đã là một hoạt dộng truyền giáo « để thế gian tin ». Truyền giáo không hệ nơi việc chiêu dụ tín đồ – chiêu dụ tín đồ là chế nhạo truyền giáo – nhưng hệ nơi việc thu hút những người ở xa với chứng tá của chúng ta, trong việc tới gần những người cảm thấy xa Thiên Chúa và Giáo Hội, tới gần những người cảm thấy họ bị phán đoán và kết án một cách tiên thiên bởi những người cảm thấy họ toàn thiện và trong trắng. Đến gần những người sợ hãi hay những người thờ ơ để nói với họ rằng : « Chúa cũng kêu mời bạn là thành phần của dân Ngài, và Ngài làm điều đó với lòng tôn trọng lớn lao và tình yêu thương » (ibid., 113). Bởi vì Thiên Chúa của chúng ta tôn trọng chúng ta cả trong sự thấp hèn và tội lỗi của chúng ta. Lời mời gọi này của Chúa, văn bản sách Khải Huyền miêu tả với biết bao khiêm tốn và tôn trọng : « Con có thấy không ? Ta đứng  ngoài cửa và gọi ; nếu con muốn mở… ; Ngài không dùng sức mạnh, không bẻ khóa, mà chỉ bấm chuông, gõ cửa một cách nhẹ nhàng và chờ đợi. Đó là Thiên Chúa của chúng ta !.

** Sứ mệnh của Giáo Hội, như bí tích cứu độ, là trung thực với căn tính Dân đang bước đi, với ơn gọi sát nhập vào sự phát triển của mình tất cả mọi quốc gia trên trái đất.

Sự hiệp thông giữa chúng ta càng sâu đậm bao nhiêu, thì việc truyền giáo lại càng được thuận tiện bấy nhiêu (x. Gioan Phaolô II, Pastores gregis, 22). Đặt để Giáo Hội trong tình trạng truyền giáo đòi hỏi chúng ta tái tạo sự hiệp thông, như thế, đây không phải chỉ là một hành động hướng tới bên ngoài. Chúng ta cũng là các thừa sai hướng tới bên trong và hướng tới bên ngoài bằng cách biểu lộ mình như biểu lộ « một bà mẹ đi gặp gỡ, một mái nhà tiếp đón, một trường học thường xuyên của sự hiệp thông truyền giáo » (Tài liệu Aparecida, 370).

Giấc mơ đó của Chúa Giêsu có thể, bởi vì Ngài đã thánh hiến chúng ta : « vì họ con xin thánh hiến chính minh con, để họ cũng được thánh hiến trong sự thật » (Ga 17,19). Cuộc sống tinh thần của người rao giảng Tin Mừng nảy sinh từ sự thật sâu xa ấy, mà không lẫn lộn với vài thời điểm tôn giáo cống hiến một vài nhẹ nhõm – một nền tu đức xem ra phổ biến –  Chúa Giêsu thánh hiến chúng ta để dấy lên một cuộc gặp gỡ với Ngài, giữa người với người, một cuộc gặp gỡ dưỡng nuôi cuộc gặp gỡ với các người khác, dấn thân trong thế giới, đam mê loan báo Tin Mừng (x. Niềm Vui Tin ừng, 78).

Sự thân tình của Thiên Chúa, không thể hiểu được đối với chúng ta, vén mở cho chúng ta thấy với các hình ảnh nói với chúng ta về sự hiệp nhất, hiệp thông, trao tặng, tình yêu. Vì thế sự hiệp nhất mà Chúa Giêsu xin không phải là sự đồng nhất, mà là « sự hòa hợp da dạng lôi cuốn » (ibid., 117). ĐTC giải thích thêm điểm này như sau :

Cái phong phú mênh mông của sự khác biệt, cái đa dạng đạt sự hiệp nhất mỗi lần chúng ta tưởng niệm Ngày Thứ Năm Thánh, làm cho chúng ta xa rời các cám dỗ của các đề nghị duy toàn vẹn, giống các chế độ độc tài, các ý thức hệ hay các giáo phái. Đề nghị của Chúa Giêsu cụ thể, nó không phải là một ý tưởng,  nó cụ thể : « Hãy ra đi và cũng làm như thế » Ngài nói với người hỏi Ngài : « Ai là người thân cận của tôi ? », sau khi Ngài kể lại dụ ngôn người Samaritano nhân hậu : « Hãy ra đi và làm cùng điều đó ».

** Đề nghị của Chúa Giêsu cũng không phải là một sắp xếp vừa với tầm mức của chúng ta, trong đó chúng ta đặt ra các điều kiện, chúng ta lựa chọn các phe liên hệ, và loại trừ các người khác. Một thứ tôn giáo của những thành phần ưu tú… Chúa Giêsu cầu nguyện để chúng ta là thành phần của một gia đình, trong đó Thiên Chúa là Cha chúng ta và tất cả là anh em. Không có ai bị loại trừ, và điều này không tìm ra nền tảng trong việc có các khẩu vị giống nhau, có cùng các lo lắng, các tài khéo. Chúng ta là anh em với nhau, bởi vì Thiên Chúa đã tạo dựng nên chúng ta vì tình yêu, và đã định cho chúng ta là con cái Ngài, chỉ do sáng kiến của Ngài mà thôi (x. Ep 1,5). Chúng ta là anh em, bởi vì « Thiên  Chúa đã đổ vào lòng chúng ta Thần Khí của Con Ngài, kêu lên Abba, Cha ơi » (Gl 4.6). Chúng ta là anh em, bởi vì được máu Chúa Giêsu Kitô làm cho nên công chính (x. Rm 5,9), chúng ta đã từ cái chết bước vào sự sống bằng cách trở thành « những người đồng thừa tự » của lời hứa (x. Gl 3,26-29 ; Rm 8,17). Đó là ơn cứu độ mà Thiên Chúa thành toàn và Giáo Hội tươi vui loan báo : là thành phần của một « chúng ta » đưa lên cho tới « chúng ta » thiên linh.

Tiếng kêu của chúng ta, tại nơi này, nhắc lại tiếng kêu của sự tự do, thực hiện tiếng kêu của thánh Phaolô : « Khốn cho tôi, nếu tôi không rao giảng Tin Mừng » (1 Cr 9,16). Nó cấp bách và thôi thúc biết bao, như tiếng kêu tỏ lộ ước muốn độc lập. Nó có một sự hấp dẫn giống như thế, nó có cùng ngọn lửa lôi cuốn. Hỡi anh em, hãy có các tâm tình của Chúa Giêsu ! Hãy là một chứng tá của sự hiệp thông huynh đệ trở thành nền độc lập !

Và thật đẹp đẽ biết bao, nếu tất cả có thể khâm phục chúng ta vì biết lo lắng cho nhau chừng nào,  an ủi nhau và đồng hành với nhau chừng nào ! Việc trao ban chính mình đó là việc trao ban thiết lập tương quan liên bản vị. Nó không nảy sinh từ việc cho đi « các sự vật », nhưng cho đi chính mình. Trong bất cứ việc trao ban nào người ta cho đi chính mình. « Cho đi chính mình » có nghĩa là  để cho tất cả quyền năng tình yêu thương là Thần Khí của Thiên Chúa hành động trong chính mình và như thế rộng mở cho sức mạnh tạo dựng của Ngài. Và trao ban chính mình trong cả những lúc khó khăn nhất, như ngày Thứ Năm của Chúa Giêsu, trong đó Ngài đã biết các phản bội và các âm mưu được đan dệt thế nào, nhưng Ngài trao ban chính mình, trao ban chính mình cho chúng ta với dự án cứu độ của Ngài. Khi trao ban chính mình, con người lại găp gỡ mình với căn tính thực của mình là con của Thiên Chúa, giống Thiên Chúa Cha và trong sự hiệp thông với Ngài, Đấng trao ban sự sống, là em của Chúa Giêsu, mà họ làm chứng tá. Đó là rao giảng Tin Mừng, đó là cuộc cách mạng của chúng ta, bởi vì đức tin của chúng ta luôn luôn cách mạng, đó là tiếng kêu sâu xa liên lỉ của chúng ta.

** Bài giảng của ĐTC đã bị ngắt quãng nhiều lần bởi các tràng pháo tay tán đồng của tín hữu.

Trước khi ĐTC ban phép lành cuối lễ ĐC Fausto Gabriel Trávez Trávez, TGM Quito, Giáo chủ Ecuador, kiêm Chủ tịch HĐGM Ecuador, đã nhiệt liệt cám ơn ĐTC. ĐC bầy tỏ lòng biết ơn và nói lên niềm vui lo lớn của mọi thành phần Giáo Hội và nhân dân nước này vì các lời khích lệ trao ban hy vọng của ĐTC. Nó thôi thúc mọi người dấn thân rao giảng Tin Mừng bằng chứng tá cuộc sống mỗi ngày, và hiệp nhất với nhau trong nỗ lực thăng tiến xã hội và quê hương Ecuador. Mọi người sẽ nhớ mãi các giáo huấn của ĐTC cũng như đã nhớ mãi các lời của thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II.

ĐTC đã ứng khẩu và nói : Anh chị em thân mến, tôi cám ơn anh chị em vì buổi cử hành này, vì việc hiệp nhất chung quanh bàn thờ Chúa, là Đấng xin chúng ta là một, thật sự là anh em với nhau, xin Giáo Hội là một ngôi nhà huynh đệ. Xin Thiên Chúa chúc lành cho anh chị em, và tôi xin anh chị em đừng quên cầu nguyện cho tôi.

Sau khi từ giã mọi người ĐTC đã đi xe về Tòa Sứ Thần Toà Thánh  để dùng bữa trưa và nghỉ ngơi trước khi gặp giới sinh viên học sinh và giới dân sự vào ban chiều. Chúng tôi sẽ tường thuật hai các sinh hoạt này trong buổi phát ngày mai.

Sáng thứ năm hôm nay ĐTC sẽ viếng thăm nhà dưỡng lão do các nữ tu thừa sai bác ái trong coi tại Tumbaco, ngoại ô thủ đô Quito. Sau đó ngài đến đền thánh Đức Bà Quinche để gặp gỡ hàng giáo sĩ tu sĩ và chủng sinh lúc 10 giờ 30, rồi ra phi trường lấy máy bay sang La Paz thủ đô Bolivia, chặng thứ hai chuyến công du mục vụ của ngài.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Hoạt động của Đức Thánh Cha chiều 6-7-2015 tại Quito

Hoạt động của Đức Thánh Cha chiều 6-7-2015 tại Quito

QUITO. Chiều ngày 6-7-2015, ĐTC đã từ Guayaquil bay về thủ đô Quito để tiếp tục chương trình viếng thăm.

Khác với Guayaquil ẩm thấp và nóng, Quito mưa lạnh và sương mù. Dầu vậy vẫn có hàng trăm ngàn người đứng dọc theo hai bên đường từ Phi trường về trung tâm thành phố để chào đón ĐTC. Thật là một biển người mênh mông.

Thăm Tổng thống

Ngài về trung tâm thủ đô để thăm xã giao Tổng thống Correa của Ecuador tại dinh Carondelet. Một ca đoàn hát mừng vị thượng khách, rồi ĐTC gặp riêng tổng thống với gia đình Ông, gồm phu nhân, bà mẹ, và các con của ông.

Trong dịp này ĐTC tặng tổng thống bức tranh khảm Đức Mẹ đang bồng Chúa Con, bản sao bức ảnh cổ kính được giữ tại Nhà Nguyện Mình Thánh Chúa ở Đền thờ Thánh Phaolô ngoại thành ở Roma. Trước bức ảnh này, ngày 22-8 năm 1541, thánh Ignaxio cùng với các tu sĩ đầu tiên của dòng Tên đã khấn dòng. Ngài cũng tặng tổng thống hai văn kiện: trước tiên là Tông huấn 'Niềm vui Phúc Âm' và tiếp đến là Thông điệp Laudato sì về việc bảo vệ môi trường. Tổng thống đã tặng ĐTC một bức tranh rất đẹp diễn tả mặt tiền Nhà thờ dòng Tên ở thủ đô Quito.

Trong khi ĐTC gặp tổng thống, thì ĐHY Quốc vụ khanh Parolin, Đức Sứ Thần và ĐHY Vela hội kiến với một số quan chức chính quyền Ecuador.

Chào thăm các tín hữu

Sau khi gặp gỡ Tổng thống, ĐTC đã tiến ra bao ơn dinh Carondelet để chào thăm hàng ngàn tín hữu tụ tập trước dinh này, rồi ngài đi bộ đến viếng nhà thờ chính tòa Quito chỉ cách đó 50 mét. Sau khi kính viếng Mình Thánh Chúa, ngài tiến ra quảng trường bên ngoài để chào thăm rất đông tín hữu tụ tập tại đây và chúc lành cho họ và nói rằng: ”Tôi chúc lành cho toàn thể nhân dân Ecuador, để họ không còn phân biệt nhau, để không còn ai bị loại trừ, để không ai bị gạt bỏ, để không ai phải ở ngoài lề đại quốc này”.

ĐTC ám chỉ đến tình trạng 2% dân Ecuador là giới đại điền chủ và chủ các xí nghiệp, và 20% dân chúng sống trong nghèo đói. Cách đây 5 năm, tỷ số người nghèo này là 40%. Ngài chúc lành cho những cải tổ xã hội tại nước này.

Trong lời chào đã dọn sẵn cho dịp này, ĐTC viết:

”Tôi đến Quito này như người lữ hành, để chia sẻ với anh chị em niềm vui loan báo Tin Mừng.

Tôi đã cầu nguyện với thánh Marianna Chúa Giêsu người Ecuador có tượng ở phía sau Đền thờ Thánh Phêrô và phó thác cho thánh nữ thành quả chuyến viếng thăm này, và xin cho tất cả chúng ta biết noi gương thánh nữ: sự hy sinh và nhân đức anh hùng của Thánh nữ được tượng trưng bằng một hoa huệ.

”Các thánh mời gọi chúng ta noi gương các vị, theo học tại trường các vị như thánh nữ Narcisa Chúa Giêsu và chân phước Mercedes di Gesù Molina noi gương thánh nữ Marianna. Với những người đang ở đây, chịu đau khổ hoặc đã chịu đau khổ như cô nhi, và những người tuy còn nhỏ, đã phải chăm sóc các em mình, những người dấn thân hằng ngày chăm sóc các bệnh nhân hoặc người già, tôi nói rằng thánh nữ Marianna cũng đã làm như vậy và thánh Narcisa cũng như chân phước Mercedes đã noi gương ấy. Không phải là khó khăn nếu Chúa ở cùng chúng ta. Các ngài không làm những điều ngoại thường, trước mặt thế gian. Các ngài đã yêu mến nhiều và chứng tỏ điều ấy trong cuộc sống hằng ngày đến độ động chạm đến thân mình đau khổ của Chúa Kitô trong dân (Ev. Gaudium 24).

ĐTC nhắc đến công trình xây cất nhà thờ Chính tòa này với bao nhiêu vất vả theo phương pháp và thói quen của các thổ dân: đó là một công việc của tất cả mọi người để giúp cộng đoàn, một công việc vô danh, không có bảng quảng cáo cũng chẳng có vỗ tay. ”Ước gì Chúa làm cho những viên đá của nhà thờ chính tòa này, chúng ta cũng đặt trên vai các nhu cầu của người khác, giúp kiến tạo hoặc tái thiết cuộc sống của bao nhiêu anh chị em không có sức lực để kiến tạo hoặc thấy sức lực bị hao mòn”.

Sau khi ban phép lành cho mọi người, ĐTC đã về tòa Sứ Thần Tòa Thánh cách đó 40 cây số về dùng bữa tối và nghỉ đêm.

Chương trình hoạt động ngày 7-7-2015

Thứ ba 7-7, lúc 9 giờ sáng, ĐTC đến ”Công viên 200 năm”, rộng 125 hécta, ở thủ đô Quito, cách tòa Sứ Thần 11 cây số để gặp gỡ 40 GM thuộc HĐGM Ecuador, trước khi cử hành thánh lễ cho các tín hữu vào lúc 10 giờ rưỡi cũng tại Công viên này. Công viên này có thể chứa được 1 triệu 500 ngàn người. Thánh lễ có chủ đề là việc loan báo Tin Mừng cho các dân tộc.

Ban chiều vào lúc 4 giờ rưỡi, ngài đã gặp gỡ giới học đường và đại học tại Đại học Công Giáo Ecuador. Tiếp đến lúc 6 giờ, ĐTC gặp xã hội dân sự ở nhà thờ thánh Phanxicô là thánh đường cổ kính nhất của Mỹ châu la tinh, thuộc khu trung tâm lịch sử của thành Quito. Sau đó, ngài sẽ viếng thăm thánh đường của dòng Tên. Nhà thờ này được xây từ năm 1606 và có bức ảnh baroc nổi tiếng năm ngoái có 150 ngàn người đến viếng.

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Hơn 1 triệu người dự Thánh Lễ với Đức Thánh Cha tại Guayaquil

Hơn 1 triệu người dự Thánh Lễ với Đức Thánh Cha tại Guayaquil

GUAYAQUIL. Sáng ngày 6-7-2015, ĐTC Phanxicô đã cử hành thánh lễ tại Guyaquil, Ecuador, trước sự tham dự của hơn 1 triệu tín hữu.

Ngày thứ hai trong chuyến viếng thăm mục vụ tại Nam Mỹ, ĐTC đã rời thủ đô Quito đáp máy bay từ cao độ 2850 mét xuống Guayaquil cách đó 265 cây số và chỉ cao hơn mặt biển 4 mét. Đây thành phố lớn nhất của Ecuador với hơn 3 triệu 600 ngàn dân cư. Đây cũng là trung tâm thương mại lớn nhất của nước này với hải cảng bên bờ Thái bình dương.

Đến nơi vào lúc gần 10 giờ sáng, ĐTC đi tới Đền thánh quốc gia kính Lòng Thương Xót Chúa, là nơi thờ phượng đứng thứ hai của tổng giáo Guayaquil mới hoàn thành cách đây 2 năm, với thánh đường cao 29 mét, chứa được 2.300 người.

Sau khi kính viếng Mình Thánh Chúa và ảnh Lòng Thương Xót Chúa, ĐTC đã cùng mọi người hiện diện đọc kinh Kính Mừng trước khi ban phép lành cho họ, rồi tới tới công viên Los Samanes rộng 379 hécta, cách đó 25 cây số để cử hành thánh lễ cho hơn một triệu tín hữu tụ tập tại đây, dù trời nóng nực.

Thánh lễ cầu nguyện cho các gia đình. Đồng tế với ĐTC có 40 GM Ecuador cùng với hàng chục GM khách và hàng trăm linh mục. Đặc biệt trong buổi lễ, ĐTC đã dùng chiếc gậy mục tử đơn sơ bằng gỗ Oliu do các tù nhân ở San Remo, bắc Italia, làm tặng cho ngài và ngài đã sử dụng trong lễ lá năm nay ở Roma. Đầu gậy có thánh giá và huy hiệu Giáo Hoàng của ngài.

 Bài giảng của ĐTC

Trong bài giảng thánh lễ, ĐTC đã quảng diễn bài Tin Mừng theo thánh Gioan thuật lại tiệc cưới Cana với sự hiện diện của Chúa Giêsu và Mẹ Maria trong số các khách mời, và ngài rút ra những bài học từ thái độ của Mẹ Maria. Ngài nói:

”Tiệc cưới Cana được tái diễn trong mọi thế hệ, trong mỗi gia đình, trong mỗi người chúng ta và trong những cố gắng để tâm hồn chúng ta tìm được sự ổn định trong tình yêu lâu bền, phong phú và vui tươi. Chúng ta hãy dành chỗ cho Đức Maria, là Mẹ, như thánh sử Phúc Âm quả quyết. Cùng với Mẹ, chúng ta hãy thực hiện hành trình Cana.

-- Trước tiên, Mẹ Maria quan tâm để ý: trong tiệc cưới đã bắt đầu, Mẹ chú ý tới những nhu cầu của đôi tân hôn. Mẹ không tự cô lập vào mình, không tập trung vào thế giới riêng, trái lại, tình thương làm cho Mẹ để ý tới người khác. Và vì thế Mẹ thấy họ thiếu rượu. Rượu là dấu chỉ vui mừng, yêu thương, dồi dào. Bao nhiêu thiếu niên và người trẻ nhận thấy rằng trong gia đình họ từ lâu không còn thứ rượu ấy nữa! Bao nhiêu phụ nữ lẻ loi và buồn sầu tự hỏi khi nào tình yêu đã vuột mất khỏi đời sống của họ! Bao nhiêu người già cảm thấy bị bỏ ra ngoài các buổi lễ trong gia đình họ, bỏ vào một xó và từ nay chẳng còn lương thực yêu thương hằng ngày nữa! Sự thiếu rượu cũng có thể là hậu quả của tình trạng thiếu công ăn việc làm, bệnh tật, hoàn cảnh khó khăn mà các gia đình chúng ta đang trải qua. Mẹ Maria không phải là một bà mẹ ”yêu sách”, không phải là bà mẹ chồng canh chừng để thích thú vì những thiếu kinh nghiệm của chúng ta, những lầm lẫn hoặc vô ý. Mẹ Maria là mẹ! Mẹ hiện diện, quan tâm và ân cần.

-- Thứ hai: Mẹ Maria tín thác ngỏ lời với Chúa Giêsu, Mẹ cầu nguyện. Mẹ không đi gặp người chủ tiệc, nhưng trực tiếp trình bày khó khăn của đôi tân hôn với Con của Mẹ. Câu trả lời mà Mẹ nhận được có vẻ làm nản chí: “Thưa bà, có hệ gì đến con đâu? Giờ của con chưa tới” (v.). Nhưng trong khi đó Mẹ đã đặt vấn đề ở trong tay Chúa. Sự ân cần của Mẹ đối với những nhu cầu của người khác làm cho giờ của Chúa đến sớm hơn. Mẹ Maria là thành phần của giờ ấy, từ hang đá máng cỏ cho đến thập giá. Mẹ đã biết ”biến một hang bò lừa thành nhà của Chúa Giêsu, với một vài chiếc tã nghèo nàn, nhưng với một núi dịu dàng” (Tông Huấn Ev. gaudium, 286) và Mẹ đón nhận chúng ta như con cái khi một lưỡi gươm đâm thâu qua tim Mẹ, Mẹ dạy chúng ta đặt gia đình ở trong thay Thiên Chúa; cầu nguyện, nuôi dưỡng niềm hy vọng chỉ cho chúng ta thấy rằng những lo âu của chúng ta cũng là những lo âu của Thiên Chúa”.

Cầu nguyện luôn làm cho chúng ta ra khỏi vòng đai những lo âu của chúng ta, làm cho chúng ta đi xa hơn những gì làm cho chúng ta đau khổ, giao động hoặc thiếu thốn, và đặt chúng ta ở trong hoàn cảnh của người khác. Gia đình là trường học trong đó cầu nguyện cũng nhắc nhở chúng ta rằng có ”chúng ta”, có một tha nhân ở gần chúng ta: họ đang sống dưới cùng một mái nha, chia sẻ cuộc sống với chúng ta và có những điều cần thiết.

-- Mẹ Maria hành động. Câu nói của Mẹ: ”Các ông hãy làm điều mà Người bảo” (v.5), được gởi tới những người giúp việc, và cũng là một lời mời gọi được gửi đến chúng ta, hãy đặt mình để tùy Chúa Giêsu sử dụng, Ngài đến để phục vụ chứ không phải để được phục vụ. Phục vụ là tiêu chuẩn tình thương chân thực. Và điều này được đặc biệt học ở trong gia đình, nơi chúng ta trở nên người phục vụ vì yêu thương nhau.

ĐTC nói: ”Giữa lòng gia đình, không ai bị loại trừ; tại đó ”ta học cách khiêm tốn xin phép, nói cám ơn như biểu lộ sự quí chuộng vì những gì chúng ta nhận lãnh, làm chủ tính hung hăng hoặc ham hố của mình, và xin lỗi khi chúng ta làm điều gì sai trái. Những cử chỉ lịch sự chân thành bé nhỏ ấy giúp xây dựng một nền văn hóa đời sống chia sẻ và tôn trọng những gì chung quanh chúng ta” (Laudato sì, 213). Gia đình là nhà thương gần nhất, là trường học đầu tiên của các trẻ em, là điểm tham chiếu không thể thiếu được đối với người trẻ, là nhà dưỡng lão tốt nhất cho người già. Gia đình là một sự phong phú lớn cho xã hội mà các tổ chức khác không thể thay thế được, và phải được trợ giúp và tăng cường, để không bao giờ bị mất ý nghĩa đích thực của các dịch vụ mà xã hội cống hiến cho các công dân. Thực vậy, các dịch vụ ấy không phải là một hình thức bố thí, nhưng là một món nợ xã hội thực sự đối với định chế gia đình giúp ích rất nhiều cho công ích.

ĐTC quả quyết rằng:

“Gia đình cũng họp thành một Giáo Hội nhỏ, một Giáo Hội tại gia, ngoài sự sống, gia đình cũng thông truyền sự dịu hiền và lòng thương xót của Chúa. Trong gia đình đức tin được trộn lẫn với sữa me: khi cảm nghiệm tình thương của cha mẹ, người ta cảm thấy gần gũi tìnhthương của Thiên Chúa.

 ”Trong gia đình, các phép lạ được thực hiện với điều có được, với những gì chúng ta có, nhiều khi không phải là lý tưởng, không phải là điều chúng ta mơ ước và cũng chẳng phải là điều lẽ ra phải như vậy. Rượu mới của các tiệc cưới Cana nảy sinh từ vò thanh tẩy, có nghĩa là từ nơi mà tất cả đã từ bỏ tội lỗi của họ: ”Nơi nào nhiều tội thì ơn thánh càng dồi dào hơn” (Rm a5,20). Trong mỗi gia đình chúng ta và trong đình chung mà tất cả chúng ta họp thành, không có gì bị gạt bỏ, không gì là vô ích. Ít lâu trước khi bắt đầu Năm Thánh Lòng Thương Xót, Giáo Hội sẽ cử hành Thượng HĐGM khóa thường lệ về gia đình, để chín mùi phân định đích thực tinh thần và tìm ra những giải pháp cụ thể cho nhiều khó khăn và nhữgn thách đố quan trọng mà gia đình phải đương đầu ngày nay. Tôi mời gọi anh chị em gia tăng cầu nguyện cho ý hướng đó để thậm chí cả những gì chúng ta thấy có vẻ là không tinh tuyền, làm cho chúng ta thấy là gương mù hoặc khiến cho chúng ta kinh hãi, Thiên Chúa, có thể biến nó thành phép lạ, khi đưa nó đi qua giờ của Ngài.

Và ĐTC kết luận rằng: ”Tất cả bắt đầu vì họ không còn rượu nữa, và tất cả đã có thể được thực hiện vì một phụ nữ -- là Đức Trinh Nữ -- quan tâm ân cần, biết đặt trong bàn tay Chúa những lo lắng của Mẹ, và đã hành động khôn ngoan và can đảm. Nhưng một điều không kém phần đáng để ý đó là sự kiện chung kết: họ đã nếm rượu ngon hơn. Đó là Tin Vui: rượu ngon là điều sắp được uống, thực tại đáng yêu mến hơn, sâu xa hơn và đẹp hơn cho gia đình phải tới nữa. Sẽ đến thời chúng ta nếm hưởng tình yêu hằng ngày, trong đó con cái chúng ta tái khám phá không gian mà chúng ta chia sẻ và những người già hiện diện trong niềm vui hằng ngày. Rượu ngon sắp đến cho mỗi người có can đảm yêu thương.

Sau thánh lễ ĐTC đã dùng bữa trưa với cộng đoàn dòng Tên gồm 20 linh mục và đoàn tùy tùng. Ngài có liên hệ đặc biệt với 1 LM trong cộng đoàn này là cha Paquito Cortés 91 tuổi và khi còn làm Giám tỉnh dòng Tên ở Argentina, ngài thường gửi một số tu sĩ trẻ đến học kinh nghiệm tại Học viện Javier của dòng Tên tại Guyaquil này.

Cha Lombardi, Giám đốc Phòng báo chí Tòa Thánh, cho biết ĐTC đã lưu lại cộng đoàn dòng Tên này 1 tiếng rưỡi đồng hồ. Cuộc gặp gỡ rất vui vẻ và thoải mái. Rồi ĐTC ra phi trường đáp máy bay trở về thủ đô Quito khoảng 6 giờ.

G. Trần Đức Anh OP -- Vatican Radio

 

Đức Thánh Cha bắt đầu viếng thăm Ecuador

Đức Thánh Cha bắt đầu viếng thăm Ecuador

Pope visit Ecuador

QUITO. Chiều chúa nhật 5-7-2015, ĐTC Phanxicô đã đến Quito, khởi sự chuyến viếng thăm dài 8 ngày tại 3 nước Ecuador, Bolivia và Paraguay.

Việc ngài chọn 3 nước này để thực hiện chuyến viếng thăm đầu tiên tại Mỹ châu la tinh theo đúng nghĩa không phải là tình cờ: 3 nước này thuộc hàng nhỏ nhất, nghèo nhất, ít được để ý tới trong chính trị đại lục và quốc tế. Cả trong trường hợp này, ĐTC muốn khởi hành từ ”ngoại ô”, nhưng cũng là nơi người ta cảm nghiệm một năng động mạnh mẽ về chính trị và xã hội. Đây cũng là những nơi đang có những thách đố lớn về mặt xã hội: nghèo đói, thất nghiệp, ô nhiễm môi trường, mong ước hòa bình, đấu tranh cho công bằng xã hội.

Trên chuyến bay dài 13 tiếng đồng hồ, ĐTC đã chào thăm 75 ký giả Italia và quốc tế tháp tùng và cầu chúc họ làm việc tốt đẹp trong 8 ngày viếng thăm. Trong lời giới thiệu giới báo chí lên ĐTC, cha Lombardi, Giám đốc phòng báo chí Tòa Thánh, cũng nhắc đến hơn 1 ngàn ký giả quốc tế khác đăng ký tại các phòng báo chí 3 nước để theo dõi và tường thuật về các hoạt động của ĐGH. Cha Lombardi cho biết có 100 ký giả làm đơn xin tháp tùng ĐTC trong chuyến máy bay, nhưng chỉ có 75 chỗ thôi. Rồi ĐTC chào từng ký giả và cám ơn họ.

 Tiếp đón tại phi trường Quito

Sau khi vượt qua 10,100 cây số, tức là hơn 1 phần tư vòng trái đất, ĐTC đã đến phi trường quốc tế Thống Chế Sucre ở Quito, thủ đô nước Ecuador vào lúc gần 3 giờ chiều giờ địa phương.

Tổng thống Rafael Correa cùng với các quan chức chính quyền, các GM và đông đảo dân chúng đã dành cho ĐTC một sự tiếp đón rất nồng nhiệt tại sân bay, cùng với ban nhạc và một nhóm các trẻ em trong y phục truyền thống.

Diễn văn của ĐTC

Trong bài diễn văn đầu tiên, ngài đã kêu gọi các thành phần xã hội tại Ecuador đối thoại và hòa giải với nhau:

”Tôi cảm tạ Thiên Chúa vì đã ban cho tôi được trở lại Mỹ Châu la tinh và hôm nay được ở đây với quí vị và anh em, tại đất nước Ecuador xinh đẹp này. Tôi cảm thấy vui mừng và biết ơn khi thấy sự tiếp đón nồng nhiệt quí vị và anh chị em dành cho tôi: điều này thêm một bằng chứng về đặc tính hiếu khách của dân chúng tại Quốc gia cao quí này.

Sau khi cám ơn tổng thống và chào thăm và cám ơn chính quyền, các GM và các tín hữu, ĐTC nói:

“Tôi đã viếng thăm Ecuador nhiều lần vì lý do mục vụ; cũng vậy ngày hôm nay, tôi đến đây như chứng nhân về lòng thương xót của Thiên Chúa và về niềm tin nơi Chúa Giêsu Kitô. Cũng niềm tin ấy qua bao thế kỷ đã hình thành căn tính của dân tộc này và đã mang lại bao nhiêu hoa trái tốt đẹp, trong đó có những nhân vật sáng ngời như thánh nữ Marianna Chúa Giêsu, thánh tu huynh Micae Febres, thánh nữ Narcisa Chúa Giêsu hoặc chân phước Mercedes di Gesù Molina được phong chân phước tại Guayquil này cách đây 30 năm trong cuộc viếng thăm của thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô 2. Các vị đã sống đức tin nồng nhiệt và hăng say, và thực thi lòng thương xót bằng cách góp phần trong nhiều lãnh vực vào việc cải tiến xã hội Ecuador thời các ngài.

ĐTC nói thêm rằng:

”Ngày hôm nay, cả chúng ta cũng có thể tìm thấy trong Tin Mừng những chìa khóa giúp chúng ta đương đầu với những thách đố hiện nay, quí chuộng những khác biệt, thăng tiến đối thoại và sự tham gia không loại trừ ai, để những bước tiến bộ và phát triển hiện nay đảm bảo một tương lai tốt đẹp hơn cho tất cả mọi người, đặc biệt chú ý đến các anh chị em mong manh nhất của chúng ta và các nhóm thiểu số dễ bị tổn thương nhất. Thưa tổng thống, để đạt tới mục đích ấy, tổng thống luôn có thể kỳ vọng nơi sự dấn thân và cộng tác của Giáo Hội.

”Tất cả các bạn thân mến, trong niềm mong đợi và hy vọng, tôi bắt đầu những ngày này. Tại Ecuador, điểm gần nhất với không gian bên ngoài là Chimborazo, được gọi như thế vì đó là nơi ”gần mặt trời nhất”, gần mặt trăng và các tinh tú. Các Kitô hữu chúng ta ví Chúa Giêsu với mặt trời, và ví mặt trăng với Giáo hội, cộng đoàn; ngoại trừ Chúa Giêsu, không ai chiếu tỏa bằng ánh sáng của riêng mình. Ước gì trong những ngày này, tất cả chúng ta càng thấy rõ sự gần gũi với ”mặt trời từ trên cao” (Xc Lc 1,78) và chúng ta là ánh phản chiếu ánh sáng và tình thương của Chúa.

Từ nơi đây, tôi muốn chào thăm toàn thể Ecuador. Từ đỉnh núi Chimborazo cho đến bờ biển Thái Bình Dương; từ vùng rừng Amazonia cho đến các đảo Galapagos; anh chị em đừng bao giờ đánh mất khả năng cảm tạ Chúa vì những gì Ngài đã và đang làm cho anh chị em; khả năng bảo vệ người bé nhỏ và đơn sơ, chăm sóc các trẻ em và người già của anh chị em, tín nhiệm nơi giới trẻ, cảm thấy ngưỡng mộ vì sự cao quí của dân tộc anh chị em và vẻ đẹp đặc biệt của đất nước anh chị em.

Giã từ phi trường Sucre, sau bài diễn văn và hội kiến riêng với Tổng thống Correa, ĐTC đã về tòa Sứ thần Tòa Thánh cách đó 40 cây số. Chiếc xe ngài đi là xe Fiat Idea, bé nhỏ nhất trong số các xe trong đoàn, kể cả các xe hộ tống, giống như chiếc xe ngài đã đi khi tới Rio de Janeiro cách đây 2 năm. Rồi chuyển sang chiếc xe dip màu trắng có mái che bằng kiếng.

Dọc đường có rất đông dân chúng đứng hai bên đường để chào ĐTC, nhất là trên quãng đường 8 cây số trước tòa Sứ Thần tòa Thánh. Quang cảnh thật là cảm động.

Chương trình hoạt động trong ngày 6-7-2015

Sáng thứ hai 6-7, ĐTC sẽ rời thủ đô Quito đáp máy bay xuống Guayaquil cách đó 265 cây số và chỉ cách mặt biển 4 mét. Đây thành phố lớn nhất của Ecuador với hơn 3 triệu 600 ngàn dân cư, ở ngang với mặt biển.

Về phương diện tôn giáo, Tổng giáo phận Guayaquil hiện có hơn 2 triệu 800 ngàn tín hữu Công Giáo, tương đương với 85% dân số, với 206 giáo xứ và 920 giáo họ.

Đến nơi vào lúc gần 10 giờ sáng, ĐTC sẽ dùng xe đi tới Đền thánh quốc gia kính Lòng Thương Xót Chúa, cách đó 33 cây số. Đây là nơi thờ phượng đứng thứ hai của tổng giáo Guayaquil với chiều kích chỉ đứng sau Nhà thờ chính tòa thánh Phêrô Tông đồ.

Sau khi kính viếng Đền thánh vào lúc 10 giờ rưỡi sáng, ĐTC đến công viên Los Samanes cách đó 25 cây số để cử hành thánh lễ cho các tín hữu vào lúc quá 11 giờ sáng, vì khu vực trước đền thành không đủ chỗ để đón tiếp hàng trăm ngàn tín hữu.

Sau thánh lễ ngài dùng bữa lúc 2 giờ chiều với cộng đoàn dòng Tên và đoàn tùy tùng. ĐTC có liên hệ đặc biệt với 1 LM trong cộng đoàn này và khi còn làm Giám tỉnh dòng Tên ở Argentina, ngài thường gửi một số tu sĩ trẻ đến học kinh nghiệm tại Học viện dòng Tên tại đây.

Ban chiều ĐTC đáp máy bay trở về thủ đô Quito khoảng 6 giờ, rồi đến viếng thăm Tổng thống Ecuador tại dinh Carondelet. Sau đó ngài đi bộ đến viếng nhà thờ chính tòa Quito gần đó.

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

ĐTC đến thăm viếng Ecuador, một trong 3 nước trong chuyến tông du

ĐTC đến thăm viếng Ecuador, một trong 3 nước trong chuyến tông du

Pope Francis and Ecuador's President Rafael Correa walk after Pope Francis landed in Quito

Theo thông tấn xã AFP đưa tin, ĐTC Phanxicô đã vừa đến nước Ecuador vào trưa ngày Chúa Nhật ngày 5 tháng 7 năm 2015 vào lúc 2:43 giờ địa phương. Đây là chuyến viếng thăm các nước Nam Mỹ kể từ 2 năm trước. Trong chuyến này Ngài cũng sẽ đi thăm nước Bolivia và Paraguya sau đó, Ngài cũng sẽ chú trọng về hoàn cảnh của các người nghèo.

Chiếc máy bay dân sự của hãng Alitalia chở Ngài và đoàn tùy tùng đã đáp xuống phi trường quốc tế Mariscal Sucre tại Quito. ĐTC đã được Tổng Thống Rafael Correa đón rước tại phi trường. ĐTC sẽ chủ tế thánh lễ tại Ecuador vào ngày thứ Hai và cũng sẽ gặp gở tổng thống Rafael Correa tại tư dinh.

Nước Ecuador có 16 triệu dân, lúc trước có khoảng 94% theo đạo Công Giáo nhưng gần đây số người theo đạo Công giáo bị giảm dần chỉ còn 80%, vì một số đã chuyển sang đạo Tin Lành, một trong những lý do chánh là một số người dân bản xứ rất mệt mỏi trước sự thiếu chăm sóc từ hàng giáo phẩm. ĐTC dự kiến ​​sẽ quan tâm đặc biệt đối với các cộng đồng dân bản xứ này .

Trước khi lên máy bay Ngài có nói " Tôi muốn làm chứng cho niềm vui của Tin Mừng và mang lại sự dịu dàng và chăm sóc của Thiên Chúa, " và Ngài còn nói thêm "Đặc biệt là trẻ em có nhu cầu, người già, người bệnh, người bị bắt giam, người nghèo, những người là nạn nhân của nền văn hóa thối nát này . "

Đây là cuộc thăm viếng lần thứ 2 sau lần đầu vào năm 1985 đã được Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolo II đến.

 

Video ĐTC đến Ecuador

Đức Thánh Cha gặp 30 ngàn thành viên Canh tân Thánh Linh

Đức Thánh Cha gặp 30 ngàn thành viên Canh tân Thánh Linh

ĐTC gặp gở 30 ngàn thành viên canh tân

VATICAN. Chiều thứ sáu 3-7-2015, ĐTC đã gặp gỡ 30 ngàn thành viên Phong trào Canh tân trong Thánh Linh, nhân dịp khai mạc Đại hội lần thứ 38 của Phong trào này.

Chủ đề cuộc gặp gỡ và đại hội là ”Những con đường hiệp nhất và hòa bình. Những tiếng nói trong kinh nguyện cho những người tử đạo ngày nay, và cho Phong trào đại kết tinh thần”.

Hiện diện tại cuộc gặp gỡ còn có hơn 10 GM và chức sắc và tín hữu Kitô thuộc các hệ phái Kitô khác, như Đức TGM Policarpo Eugenio Aydin, Đại diện Đức Thượng phụ Chính Thống Siriac ở Hòa Lan, Đức TGM David Moxon, Đại diện Đức TGM Giáo chủ Liên hiệp Anh giáo cạnh Tòa Thánh, và một Mục sư thuộc Giáo Hội Tin Lành Luther Thụy Điển.

Trong khi chờ đợi ĐTC đến Quảng trường thánh Phêrô, các tham dự viên đã hát thánh ca, cầu nguyện, nghe trình bày chứng từ, xoay quanh chủ đề ”đại kết bằng máu”, tức là các tín hữu Kitô thuộc các hệ phái khác nhau, đã chịu chết vì niềm tin nơi Chúa Kitô.

Khi ĐTC đến quảng trường, có 2 chứng từ đã được trình bày với ĐTC: trước tiên của Ông Vittorio Aliquò, người thành Palermo trên đảo Sicilia, đã làm Ủy viên công tố trong 48 năm trời và đã điều tra về những hoạt động của các tổ chức bất lương mafia: trong 20 năm trời ông luôn phải sống trong sự hộ tống, kể cả khi đi nghỉ hè, và đi lễ chúa nhật thì luôn phải thay đổi nhà thờ, và ông lấy làm tiếc vì không thể tham dự các buổi cầu nguyện Thánh Linh. Ông đã thấy bao nhiêu đồng nghiệp, nhân viên công lực, chủ xí nghiệp và cả LM chân phước Pino Puglisi bị mafia giết chết. Ông Aliquò nói:

”Con đã thấy bao nhiêu máu vô tội đổ ra trước mắt con. Khi nhìn các vị tử đạo ngày nay và trước đây, và nghĩ đến các thế hệ trẻ, con muốn nói rằng việc nhớ đến máu đổ ra như thế trên các đường phố của chúng ta không thể bị xóa bỏ”.

Chứng từ thứ hai của anh Ugo Esposto, 17 tuổi, sau một thời niên thiếu với bao nhiêu xáo trộn, bị gia đình bỏ rơi khiến anh ta không còn tin tưởng và sống trong cô đơn, sau cùng Ugo đã tìm lại niềm tín thác nhờ được biết đại gia đình Canh tân trong Thánh Linh. Anh nói: ”Với lời cầu nguyện xin Chúa Thánh Linh đổ ơn thiêng xuống, cuộc sống của con đã được hoàn toàn biến đổi. Bây giờ con cũng như điều để nói và để đóng góp với thế giới. Lời Chúa đã đốt lên một ngọn lửa mà con không thể cầm giữ. Lời Chúa đã tỏ cho con thấy con được yêu mến và không bị bỏ rơi, con quí giá, và cuộc sống của con có ý nghĩa và có một mục đích. Nếu Chúa Giêsu có thể tái ban hy vọng này cho cuộc sống của con, Ngài cũng có thể ban cho mọi thiếu niên như con”.

 Huấn từ

Trong bài huấn từ, ĐTC Phanxicô đề cao phong trào đại kết bằng máu và ngài khích lệ các thành viên Phong trào canh tân trong Thánh Linh nỗ lực cầu nguyện và hoạt động cho sự hiệp nhất. Ngài ứng khẩu nói:

”Hoạt động cho sự hiệp nhất các tín hữu Kitô bắt đầu bằng việc cầu nguyện. Cầu nguyện với nhau. Hiệp nhất vì máu các vị tử đạo ngày nay làm cho chúng ta hiệp nhất. Có một phong trào đại kết bằng máu. Chúng ta biết rằng khi những người oán ghét Chúa Kitô giết hại một Kitô hữu, trước khi giết họ không hỏi tín hữu: ”Ngươi là tin lành Luther, là tín hữu Chính Thống hay tin Lành, Baptist hay Methodist?” Ngươi là Kitô hữu, và họ chém đầu người ấy.”

ĐTC cũng nhắc đến các vị tử đạo ở Uganda được phong thánh cách đây 50 năm, các vị ấy là tín hữu Công Giáo và Anh giáo.

Ngài nhấn mạnh đến sự hiệp nhất trong Thánh Linh, tức là hiệp nhất trong sự khác biệt, chứ không phải sự đồng nhất. Sự hiệp nhất ấy là công trình của Chúa Thánh Linh chứ không phải của chúng ta.

ĐTC nói đến việc phục vụ quan trọng của các vị lãnh đạo, các thủ lãnh giáo dân, là làm tăng trưởng về tinh thần và mục vụ những người sẽ thay thế khi họ mãn nhiệm. Và ngài nói: ”Điều thích hợp là mọi việc phục vụ trong Giáo Hội có một thời hạn, đừng có những thủ lãnh trọn đời trong Giáo Hội. Điều này xảy ra tại vài nước có chế độ độc tài… Người duy nhất không thể thay thế được trong Giáo Hội là Chúa Thánh Linh và Chúa duy nhất chính là Đức Giêsu Kitô”.

Trước khi ban phép lành kết thúc, ĐTC đã ủy thác cho các thành viên Phong trào Thánh Linh sứ vụ: ”Với Kinh Thánh, với Lời Chúa, anh chị hay ra đi, rao giảng sự mới mẻ mà Chúa Giêsu đã ban cho chúng ta. Hãy rao giảng cho người nghèo, những người bị gạt ra ngoài lề, người mù, các bệnh nhân, tù nhân và mọi người nam nữ. Nơi mỗi người có tinh thần bên trong muốn được giúp đỡ để mở toang cánh cửa để làm cho họ được sống”.

Sau cuộc gặp gỡ với ĐTC, Đại hội của Phong trào Canh tân trong Thánh Linh đã tiếp tục vào thứ bẩy 4-7-2015, tại Sân vận động Olimpic ở Roma. (SD 4-7-2015)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

 

Hai văn bằng tiến sĩ danh dự cho Đức Biển Đức 16

Hai văn bằng tiến sĩ danh dự cho Đức Biển Đức 16

Nguyên Giáo Hoàng Benedict 16

CASTEL GANDOLFO. Sáng 4-7-2015, Đức nguyên Giáo Hoàng Biển Đức 16 đã được trao tặng 2 văn bằng tiến sĩ danh dự từ Ba Lan.

Bằng thứ I của Học Viện thánh nhạc và bằng thứ II của Đại học Giáo Hoàng Gioan Phaolô 2, cả hai đều ở thành phố Cracovia bên Ba Lan.

Từ lâu Đức Biển Đức 16 cho biết ngài không nhận các văn bằng danh dự do các đại học trao tặng, nhưng ngài chấp nhận thi hành luật trừ trong trường hợp này vì mối liên hệ đặc biệt với Đức Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô 2.

Hiện diện tại buổi trao tặng văn bằng tại dinh thự Giáo Hoàng ở Castel Gandolfo có các chức sắc và giáo sư của Học viện và Đại học liên hệ.

 ĐHY Stanislaw Dziwisz TGM Cracovia, trong tư cách là Đại chưởng ấn của hai cơ sở giáo dục Công Giáo nói trên, đã trao hai Văn bằng tiến sĩ danh dự và nói đề lòng gắn bó đặc biệt của Đức nguyên Giáo Hoàng với Cracovia. ĐHY nói: ”Chúng con không quên những lời ngài đã nói ngày 28-5-2006 khi viếng Cracovia: ”Cracovia của Đức Karol Wojtila và Cracovia của Đức Gioan Phaolô 2, cũng là Cracovia của tôi”.

Trong diễn từ tại buổi nhận Văn bằng, Đức Biển Đức 16 cho biết qua cử chỉ này, liên hệ của ngài với Ba Lan, với Cracovia càng sâu đậm hơn, liên hệ với quê hương của vị đại thánh của chúng ta Gioan Phaolô 2. Vì không có người, thì hành trình linh đạo và thần học của tôi cũng không thể tưởng tượng được. Qua tấm gương sinh động, Ngài cũng chỉ cho chúng ta thấy làm sao có thể đi song song giữa niềm vui của thánh nhạc và nghĩa vụ chung phải tham gia phụng vụ thánh, niềm vui long trọng và sự đơn sơ của sự cử hành đức tin”.

Đức nguyên Giáo Hoàng cũng nói đến sự kiện do sự hiểu sai Công đồng chung Vatican 2, nhiều người đã làm mất kho tàng thánh nhạc long trọng trong phụng vụ. Trong Hiến chế về phụng vụ, đoạn số 114, Công đồng dạy rằng ”cần hết sức bảo tồn và tăng cường gia sản thánh nhạc”. Phong trào phụng vụ sau đó cho rằng các tác phẩm lớn về thánh nhạc chỉ nên dành cho các phòng hòa nhạc chứ không nên dùng trong phụng vụ. Trong phụng vụ chỉ nên có những thánh ca và kinh nguyện thường của giáo dân. Từ đó người ta nhận thấy có sự nghèo nàn văn hóa trong Giáo Hội. (SD 4-7-2015)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Đừng để lỡ cơ hội gặp Chúa

Đừng để lỡ cơ hội gặp Chúa

Đức Giêsu trở về thăm quê nhà. Ngày Sabat, ngày lễ nghỉ hàng tuần, dân làng đến hội đường nghe đọc sách thánh và hát thánh ca từ 9 giờ đến 12 giờ trưa.

Đức Giêsu và các môn đệ cùng tiến vào hội đường cầu nguyện. Đọc sách luật và thánh vịnh xong, Đức Giêsu đăng đàn giảng thuyết như một giáo dân tham dự vào chức tư tế. Vẻ uy nghi trang trọng của Ngài khác thường. Gương mặt Ngài luôn tỏa ra nét dịu hiền, mến yêu, đầy thiện cảm. Giọng điệu tự nhiên của Ngài càng hấp dẫn dân chúng hơn. Ý tứ Ngài trình bày đơn sơ trong sáng hợp với tâm trí mọi người. Họ cảm thấy thấm thía sự kỳ diệu của nước Thiên Chúa. Họ cảm nhận lòng nhân ái Chúa Cha trên trời. Họ cảm phục về tình yêu cứu độ của Thiên Chúa. Đức Giêsu đòi hỏi mọi người phải sống thương yêu nhau như anh em ruột thịt. Họ ngạc nhiên thì thầm với nhau: “Bởi đâu ông ta được như thế ? Sao ông ta được khôn ngoan như vậy ? Ông ta làm được nhiều phép lạ như thế nghĩa là gì?”.

Họ chẳng biết sự khôn ngoan và quyền phép của Đức Giêsu bởi đâu? Họ tìm về nguồn gốc chỉ thấy: “Mẹ ông là bà Maria, anh em họ hàng là Giacôbê, Giosê, Giuđa và Simon”. Tất cả bà con lối xóm đều coi ông như bạn bè từ gần 30 năm nay ở Nagiarét này, một thôn ấp nhỏ bé chỉ có độ 150 gia đình nghèo nàn, tối tăm, mấy ai quan tâm đâu. Ông lại là anh thợ mộc, con nhà lao động, làm thuê làm mướn, lang thang từ nhà này sang nhà khác, đóng bàn sửa ghế, ráp giường ghép tủ, đục đẽo cầy bừa, thành phần địa vị thấp kém trong xã hội. Có bao giờ thấy ông nói năng, làm được gì hay lạ đâu ? Ông bỏ quê nhà đi lang thang mấy tháng, nay trở về, sao thay đổi nhanh như thế ! Một quá khứ và hiện tại như thế đã khiến họ vấp phạm. Họ không tin Ngài là một Ngôn Sứ, lại càng không thể tin Ngài là Mêsia, và chắc chắn họ chẳng bao giờ dám nghĩ rằng mình là người đồng hương với Ngôi Hai Con Thiên Chúa.

Còn Đức Giêsu, ai đã huấn luyện Ngài? Ai đã ban quyền phép làm những việc kỳ diệu như thế ? Thân nhân bảo Ngài “mất trí”. Kinh sư chụp mũ Ngài “nhờ tướng quỷ mà trừ quỷ”. Dân chúng chỉ biết ngạc nhiên: chưa từng thấy ai ăn nói, hành động có uy quyền lạ lùng như vậy. Môn đệ đi theo sát Ngài cũng chỉ biết hỏi: “Ngài là ai mà bão biển phải tuân lệnh”. Chẳng thấy ai huấn luyện Ngài, chẳng thấy Ngài học tập kinh sư nào. Chỉ thấy Ngài vào nơi thanh vắng, ngước mắt lên trời cầu nguyện. Trong âm thầm Ngài cầu nguyện cùng Chúa Cha trên trời. Đó chính là bí quyết làm cho Ngài khôn ngoan và đầy quyền phép để trừ hàng ngàn quỷ dữ, chữa hàng trăm bệnh nhân mà loài người phải bó tay, cho kẻ chết sống lại, bắt cuồng phong lặng yên…

Dân làng biết Ngài khôn ngoan. Kinh sư thấy Ngài trừ quỷ. Môn đệ được Ngài cứu khỏi chết giữa biển cuồng phong. Nhưng họ chẳng biết Ngài là Con Một Thiên Chúa, chẳng biết Ngài là Ngôi Hai Thiên Chúa; vì thương yêu loài người, đã xuống thế làm người sống với họ như anh em, như bạn bè, để cứu họ khỏi chết đời đời.

Dân làng Nazarét quá biết về gốc gác, gia cảnh, biết rõ ràng lý lịch của Đức Giêsu. Với đầu óc thủ cựu, lại nặng thành kiến nên họ không thể nhận ra thiên tính nơi con người của Ngài. Đức Giêsu trở thành nạn nhân của “chủ nghĩa lý lịch”. Mc. Kenzie nói : Người có tình yêu nhìn bằng viễn vọng kính, còn người định kiến hẹp hòi nhìn bằng kính hiển vi”.

Còn Đức Giêsu thì luôn âm thầm, kiên nhẫn, nhỏ nhẹ nói với họ bằng câu ngạn ngữ: “Không ai là tiên tri cho xứ sở mình”. Một câu chuyện quen thuộc nhưng đáng buồn “Ngôn sứ không được quê hương mình chấp nhận”. Đức Giêsu thật ngạc nhiên vì thấy họ không tin. Ngài rất muốn giúp đỡ họ nhưng cũng đành phải bó tay. Họ chỉ biết nhìn Ngài theo lối nhìn bên ngoài đầy thành kiến, chẳng thấy được những điều sâu lắng bên trong, những cái tinh thần cao thượng, những mầu nhiệm thiêng liêng chân thật.

Chính những điều sâu xa bí ẩn mới làm ích rất lớn cho con người. Chính những chất màu mỡ nằm ẩn trong đất mới làm cho cây trái, hoa mầu trổ sinh tươi tốt, đâm chồi nẩy lộc, nuôi sống muôn người, muôn vật. Chính những kho tàng nằm sâu trong lòng đất, như mỏ dầu, mỏ vàng, mỏ bạc, đồng, sắt, kim cương, đá quý mới là nguồn tài nguyên phong phú giúp phát triển nền văn minh nhân loại. Chính những tài năng thượng đẳng, thiêng liêng trong con người như: tinh thần tự do, trí khôn sáng suốt, ý chí mạnh mẽ, tình cảm nhân từ mới có sức thăng tiến con người hơn chân tay, mắt mũi. Thế nhưng loài người vẫn thích thờ bò vàng óng ánh hơn thờ Thiên Chúa siêu việt.

Chuyện ngày xưa cũng như chuyện ngày nay. Rất nhiều khi chúng ta phán đoán giá trị lời nói của một người dựa trên bằng cấp, sự giàu có, uy tín của họ, nhiều hơn là dựa vào sự hợp lý, tính chính xác của câu nói ấy. Hễ ai có chức có quyền, có địa vị, có của cải, có học vấn mà nói thì chúng ta tiên thiên cho rằng họ nói đúng. Còn ai nghèo nàn, rách rưới, thấp cổ bé miệng, ít học mà nói thì ta tiên thiên cho rằng họ nói sai hoặc chẳng có giá trị gì. Chính vì tâm lý sai lạc này mà các ngôn sứ giả thường được người đời ưu đãi, còn ngôn sứ thật thì thường bị bạc đãi (x. Lc 6,23.26). Lối hành xử như vậy là coi trọng của cải, tiền bạc, chức quyền, địa vị chứ không phải là người coi trọng chân lý, công lý và tình thương. Thực ra, một điều sai trái, dù kẻ nói ra có quyền thế, học vấn hay giàu sang tới đâu thì cũng vẫn là sai trái. Còn một điều đúng, thì dù người nói ra một đứa trẻ, một người nghèo thì cũng vẫn là đúng. Lời nói sai đâu thể biến thành đúng, hay lời nói đúng đâu thể biến thành sai vì thế giá hay trình độ học vấn của người nói ra câu nói đó.

Đức Giêsu buồn nhưng không cay cú, không tức giận. Ngài quyết định đem ánh sáng và quà tặng thần linh đi đến nơi khác.Những người ở làng quê Nagiarét đã để lỡ cơ hội đón tiếp Đấng Cứu Thế. Con Thiên Chúa làm một thường dân đến sống giữa họ mà họ không biết. Họ chỉ biết đó là con ông thợ mộc Giuse. Họ chỉ biết gia đình Ngài rất nghèo, chẳng có danh giá gì trong làng. Họ coi thường Ngài. Họ không tin Ngài. Họ hất hủi Ngài. Họ đã để lỡ cơ hội nghìn năm một thuở. Đức Giêsu không làm một phép lạ nào ở đó. Ngài bỏ Nagiarét đi đến các làng chung quanh. Và Ngài sẽ chẳng bao giờ trở lại Nagiarét nữa. Đó là cơ hội cuối cùng cho họ.

Hằng ngày chúng ta cũng đã bỏ lỡ biết bao nhiêu cơ hội như thế. Ta đã bỏ lỡ không tiếp đón Chúa đến thăm khi ta bịt mắt không nhìn thấy những cảnh khổ chung quanh; khi ta bưng tai không nghe những tiếng kêu than khóc lóc; khi ta làm ngơ trước những cảnh ngộ nghiệt ngã, khi ta ngoảnh mặt quay lưng trước những nạn nhân của thiên tai hoạn nạn. Nhất là ta bỏ lỡ không nghe thấy tiếng Chúa cảnh báo để ăn năn sám hối. Chúa đã nhắc nhở ta nhiều lần nhiều cách: qua các vị bề trên; qua các tai nạn; qua lời khuyên của những người thân; qua lời phê phán của những người thù ghét ta. Hôm nay, Chúa còn tiếp tục nhắc nhở. Nếu ta không nghe, biết đâu hôm nay sẽ là lần cuối cùng. Chúa sẽ không bao giờ nhắc nhở nữa. Chúa sẽ bỏ ta mà đi như đã bỏ làng Nagiarét và không bao giờ trở lại. Như thế thì thật nguy hiểm cho linh hồn ta. Để nhận biết Chúa, ta phải rèn luyện cho mình một đức tin mạnh mẽ. Ánh mắt đức tin giống như ngọn đèn soi chiếu vào đêm đen giúp ta nhận ra Chúa trong anh em, trong những biến cố Chúa gửi đến.

Để đón tiếp Chúa, ta phải rèn luyện cho mình một trái tim luôn luôn rộng mở yêu thương. Một trái tim yêu thương sẽ rất bén nhạy để nghe được tiếng nói của Chúa, dù tiếng nói ấy chỉ thì thầm trong sâu thẳm lòng mình; hiểu được những dấu chỉ của Chúa, dù những dấu chỉ ấy chỉ mơ hồ thoáng qua; nhận được khuôn mặt của Chúa, dù khuôn mặt ấy đã bị biến dạng qua những đau thương của cuộc đời.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho con tỉnh thức để nhận ra và đón nhận Chúa mỗi lần Chúa đến với con.

Lạy Chúa Giêsu, xin mở con mắt đức tin cho mọi người được thấy những sự khôn ngoan, quyền phép lạ lùng của Thiên Chúa đang âm thầm hoạt động trong Giáo Hội, trong thế giới và cả trong vũ trụ, mà con mắt phàm trần không thể thấy được, để họ biết ca ngợi Chúa muôn đời. Amen.

LM Giuse Nguyễn Hữu An