ĐTC gặp gỡ hàng lãnh đạo chính trị xã hội và ngoại giao đoàn Ba Lan

ĐTC gặp gỡ hàng lãnh đạo chính trị xã hội và ngoại giao đoàn Ba Lan

ĐTC Phanxicô gặp gỡ hàng lãnh đạo chính trị, xã hội và ngoại giao đoàn Ba Lan

Ba Lan cần  tiếp tục phát triển các gốc rễ kitô sâu đậm và căn tính quốc gia của mình cho công ích

ĐTC đã đưa ra lời khích lệ trên đây trong buổi gặp gỡ các giới lãnh đạo Ba Lan trong sân Tổng Thống Phủ lúc 17 giờ chiều thứ tư 27-7-2016.

Ngỏ lời chào hàng lãnh đạo chính trị, ngoại giao đoàn và giới chức xã hội dân sự, trong đó có các viện trưởng đại học, ĐTC nói:

Đây là lần đầu tiên tôi viếng thăm Trung và Đông Âu châu, và tôi vui sướng bắt đầu từ Ba Lan, là quốc gia có trong hàng các con cái mình thánh Gioan Phaolô II, người đã đề xướng và thăng tiến Ngày Quốc Tế Giới Trẻ. Đức Gioan Phaolô II thích nói tới một Âu châu thở bằng hai lá phổi của mình: giấc mộng về một nền nhân bản âu châu mới được linh hoạt bởi hơi thở linh hứng sáng tạo và hài hoà của hai lá phổi và bởi nền văn hoá chung, tìm thấy gốc rễ vững vàng nhất của nó trong Kitô giáo.

Ký ức là nét đặc thù của dân tộc Ba Lan. Tôi đã luôn luôn bị đánh động bởi ý thức sinh động về lịch sử của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II. Khi nói về các dân tộc, ngài đã luôn luôn khởi hành từ lịch sử của chúng, để nêu bật các kho tàng về nhân bản và tinh thần. Ý thức về căn cước, tự do khỏi các mặc cảm tự tôn, là điều cần thiết để xây dựng một cộng đoàn quốc gia trên nền tảng gia tài nhân bản, xã hội, chính trị, kinh tế và tôn giáo, để linh hứng cho xã hội và văn hóa, duy trì cho chúng trung thành với truyền thống, đồng thời rộng mở cho việc canh tân và cho tương lai. Chính trong viễn tượng đó mà quý vị đã cử hành 1050 năm Ba Lan lãnh nhận đức tin. Chắc chắn nó đã là một thời điểm mạnh mẽ của sự hiệp nhất quốc gia, củng cố con đường vững chắc giúp đạt công ích của toàn dân Ba Lan.

Cả việc cộng tác trong lãnh vực quốc tế và việc tôn trọng nhau cũng làm trưởng thành lương tâm và việc tôn trọng căn tính riêng và việc tôn trọng căn tính của người khác. Không thể có đối thoại, nếu mỗi người không khởi hành từ căn tính riêng của mình. Tuy nhiên, trong cuộc sống cá nhân cũng như cuộc sống cộng đoàn xã hội có hai loại ký ức tốt và xấu, tích cực và tiêu cực. Ký ức tốt là ký ức mà Thánh Kinh chỉ cho thấy trong thánh thi Magnificat, bài ca của Mẹ Maria chúc tụng Thiên Chúa và công trình cứu độ của Ngài. Ký ức xấu trái lại là ký ức hướng cái nhìn của tâm trí tới sự dữ, trước hết là sự dữ do người khác sa phạm. Nhìn vào lịch sử mới đây của quý vị tôi cảm tạ Thiên Chúa, vì quý vị đã biết để cho ký ức tích cực thắng thế: chẳng hạn khi cử hành 50 năm tha thứ cho nhau giữa hai HĐGM Ba Lan và Đức, sau Đệ Nhị Thế Chiến. Sáng kiến này ban đầu liên lụy tới hai cộng đoàn giáo hội, nhưng cũng đã tháp nhập một tiến trình xã hội, chính trị, văn hóa và tôn giáo không thể quay trở lại đàng sau làm thay đổi lịch sử tương giao giữa hai dân tộc. Về việc hoà giải này chúng ta cũng nhớ tới Tuyên ngôn chung giữa Giáo Hội công giáo Ba Lan và Giáo Hội chính thống Nga, một hành động đã khơi dậy một tiến trình xích lại gần nhau và tình huynh đệ không chỉ giữa hai Giáo Hội, nhưng cả giữa hai dân tộc nữa.

Như thế, quốc gia Ba Lan cao quý cho thấy có thể làm lớn lên ký ức tốt, và bỏ rơi ký ức xấu như thế nào. Để được như vậy cần phải có một niềm hy vọng vững vàng và lòng tin tưởng nơi Đấng hướng dẫn số phận của các dân tộc, mở ra các cánh cửa khép kín, biến đổi các khó khăn thành các cơ may, và tạo ra các khung cảnh mới  ở nơi xem ra không thể có được. Lịch sử Ba Lan chứng minh cho điều đó: sau các bão táp và tối tăm dân tộc của quý vị, được tái lập trong phẩm giá của nó, đã có thể hát lên như người Do thái từ Babilonia trở về: “Ta tưởng mình như giữa giấc mơ, vang vang ngoài miệng câu cười nói, rộn rã trên môi khúc nhạc mừng” (Tv 126, 1-2). Ý thức về con đường đã đi qua và niềm vui đối với các mục đích đã đạt được trao ban sức mạnh và sự thanh thản giúp đương đầu với các thách đố của thời điểm, đòi hỏi can đảm của sự thật và một dấn thân luân lý đạo đức liên tục, để cho các tiến trình quyết định và hành động cũng như các tương quan nhân bản luôn luôn tôn trọng phẩm giá con người. Mọi hoạt động đều đuợc lôi cuốn: kể cả kinh tế, tương quan với môi sinh và chính kiểu giải quyết hiện tượng di cư.

** Tiếp tục bài phát biểu ĐTC nói: Vấn đề di cư đòi hỏi một bổ sung của sự khôn ngoan và lòng thương xót, để thắng vượt các  sơ hãi và thực hiện thiện ích lớn hơn. ĐTC khẳng định:

Cần nhận diện các lý do của việc di cư từ Ba Lan, bằng cách tạo dễ dàng cho những người muốn trở về. Đồng thời cũng cần sẵn sàng tiếp đón những người chạy trốn chiến tranh và đói khổ: tình liên đới đối với những người bị tước đoạt các quyền căn bản, trong đó có quyền tuyên xưng đức tin trong tự do và an ninh. Đồng thời cũng phải khuyến khích các sự cộng tác và cùng hoạt động trên bình diện quốc tế, hầu tìm ra các giải pháp cho các xung khắc và chiến tranh bắt buộc biết bao nhiêu người rời bỏ nhà cửa và quê hương của họ. Như vậy, đây là việc làm những gì có thể để xoa dịu các khổ đau của họ, không mệt mỏi hoạt động với trí thông minh và liên tục cho công lý và hoà bình, bằng cách làm chứng cho các giá trị nhân bản và kitô bằng việc làm.

Dưới ánh sáng lịch sử ngàn năm của nó, tôi kêu mời quốc gia Ba Lan hướng nhìn về tương lai và các vấn để phải đương đầu với niềm hy vọng. Thái độ như thế tạo dễ dàng cho một bầu khí tôn trọng giữa tất cả mọi thành phần xã hội, và một đối chiếu xây dựng giữa các lập trường khác nhau. Ngoài ra nó tạo các điều kiện tốt hơn cho sự trưởng thành dân sự, kinh tế và cả dân số nữa, dưỡng nuôi sự tin tưởng cống hiến một cuộc sống tốt cho con cái mình. Thật thế, họ không chỉ phải đương đầu với các vấn đề, mà cũng được hưởng các vẻ đẹp của thiên nhiên nữa, là thiện ích mà chúng ta phải biết thực hiện và phổ biến, niềm hy vọng mà chúng ta biết trao ban cho họ. Chính các đường lối chính trị xã hội thăng tiến gia đình là tế bào nòng cốt của xã hội, yểm trợ các gia đình yếu kém và nghèo túng nhất, nâng đỡ chúng trong việc tiếp nhận sự sống có trách nhiệm, sẽ hữu hiệu hơn nữa trong cách thế này. Sự sống luôn luôn cần được tiếp nhận và bảo vệ – cả hai việc tiếp nhận và bảo vệ – từ lúc thụ thai cho tới lúc chết tự nhiên, và chúng ta tất cả đều được mời gọi tôn trọng nó và lo lắng cho nó. Đàng khác, chính Nhà nước, Giáo Hội và xã hội có bổn phận đồng hành và trợ giúp bất cứ ai sống trong các hoàn cảnh khó khăn trầm trọng, để một người con không bao giở phải cảm thấy mình là một gánh nặng nhưng như là một món qua, và để các người yếu đuối và nghèo túng nhất không bị bỏ rơi.

Kính thưa tổng thống, Quốc gia Ba Lan có thể tin tưởng nơi sự cộng tác của Giáo Hội Công Giáo như trong suốt lịch sử dài của mình, để dưới ánh sáng của các nguyên tắc Kitô linh hứng nó và đã rèn luyện lịch sử và căn tính của Ba Lan, trong các điều kiện lịch sử nó biết tiến triển trên con đường của mình, trung thành với các truyền thống tốt đẹp nhất, tràn đầy tin tưởng và hy vọng cả trong những lúc khó khăn nhất.

Trong khi tái bầy tỏ lòng biết ơn của tôi, tôi xin cầu chúc tổng thống và từng người trong quý vị hiện diện một việc phục vụ công ích thanh thản và phong phú.

Tường thuật ngày đầu tiên chuyến tông du Ba Lan của ĐTC Phanxicô

Tường thuật ngày đầu tiên chuyến tông du Ba Lan của ĐTC Phanxicô

ĐTC và tổng thống Ba Lan ông Andrzej Duda

Chiều thứ tư hôm qua 27 tháng 7 ĐTC đã lên đường viếng thăm mục vụ Ba Lan 4 ngày để chủ sự Ngày Năm Thánh Giới Trẻ tại Cracovia. ĐTC đã có hai sinh hoạt chính là gặp gỡ các giới chức chính quyền, xã hội dân sự và ngoại giao đoàn tại lâu đài Wawel, rồi nói chuyện với các Giám Mục Ba Lan trong nhà thờ chính toà Cracovia. Sau đây là chi tiết các sinh hoạt của ĐTC.

Lúc 13 giờ trưa giờ Roma ĐTC đã rời nhà trọ Santa Marta để đi xe ra phi trường Fiumicino lấy máy bay đi Cracovia. Như thói quen chiều thứ ba truớc đó ĐTC đã đến đền thờ Đức Bà Cả để cầu nguyện trước ảnh Đức Bà là sự cứu rỗi của dân Roma, để phó thác chuyến tông du cho sự chở che của  Đức Mẹ. Ngài cũng cầu nguyện trước thi hài thánh Gioan Phaolô II.

Tiễn chân ĐTC tại phi trường có ĐC Gino Reali, GM Porto-Santa Rufina, bao gồm cả phi trường Fiumicino.

Máy bay đã cất cánh lúc 14 giờ và tới phi trường Gioan Phaolô II Balice (Balítse) sau hai giờ bay vượt đoạn đường dài 1.100 cây số. Khi bay ngang qua không phận các nước Italia, Croazia, Slovenia, Áo Slovacchia ĐTC đã gửi điện tín chào thăm các vị quốc trưởng và cầu chúc an bình thịnh vượng cho nhân dân các nước này.

Ba Lan rộng hơn 323 ngàn cây số vuông, giáp giới với biển Baltic, Nga, Lituania, Bielorussia, Ucraina, Slovacchia, Cộng hoà Tcheques và Đức, có hơn 37 triệu dân, trong đó có 97.68% theo Công Giáo. Từ năm 1947 Ba Lan thuộc khối cộng sản Varsava. Năm 1987 dưới sức đẩy của công đoàn liên đới Solidarnos Ba Lan tiến tới nền dân chủ và đảng đối lập thắng lớn trong các cuộc bầu cử bán tự do ngày mùng 4 và 18 tháng 6 năm 1989. Từ đó đến nay các chính quyền liên minh trung hữu và trung tả thay đổi nhau cai trị nước này. Năm 2004 Ba Lan là quốc gia thành viên của Liên Hiệp Âu châu.

Giáo Hội công giáo đâm rễ rất sâu trên đất Ba Lan và nắm giữ vai trò nòng cốt trong cuộc sống xã hội, khiến cho Ba Lan là trường hợp duy nhất bên Đông Âu cũng như trong toàn Âu châu. Sức sinh động ấy đuợc biểu lộ trong thời cộng sản, khi nhà nước thăng tiến chủ thuyết vô thần, và Giáo Hội tự khẳng định như một trong các cơ cấu tự vệ của xã hội dân sự chống lại sự đàn áp của chính quyền cộng sản vô thần. Các làn sóng  đàn áp của nhà nước chẳng những đã không làm cho Giáo Hội suy yếu, mà lại củng cố Giáo Hội tới độ nhà nước phải chấp nhận giàn xếp với Giáo Hội, cho phép một thực tại nhị nguyên duy nhất trong toàn khối cộng sản Liên xô.

** Hiện nay Giáo Hội có 45 giáo phận với 10,379 giáo xứ và 786 trung tâm mục vụ. Nhân lực của Giáo Hội gồm 156 Giám Mục, 23,656 linh mục giáo phận, hơn 7,000 linh mục dòng, tổng cộng là 30,661 vị, 38 phó tế vĩnh viễn, 1,015 tu huynh, 20,159 nữ tu, hơn 1,075 thành viên các tu hội đời, 14,154 giáo lý viên, 3,388 dại chủng sinh. Giáo Hội điều khiển 1,425 cơ sở giáo dục và 5,319 trung tâm bác ái xã hội.

Trong 25 năm qua, từ khi chế độ cộng sản sụp đổ cho tới nay, Giáo Hội vẫn tiếp tục có uy tín rất lớn trong xã hội Ba Lan. Nền dân chủ đã mở ra các cơ may mới, nhưng cũng bao gồm các thách đố mục vụ lớn. Nó đã cho phép Giáo Hội có được các không gian và sự tự do hoạt động trong các lãnh vực xã hội như giáo dục, bác ái xã hội và lên tiếng trong cuộc sống công cộng phù hợp với nguyên tắc “tự trị độc lập” và “tách biệt thân hữu”, được chấp thuận trong Thỏa hiệp mới ký kết với Toà Thánh năm 1993 và trong Hiến Pháp năm 1997. Ngoài gốc rễ công giáo sâu đậm khiến cho Ba Lan là quốc gia duy nhất toàn Âu châu có đông tín hữu thực hành đạo nhất với 91,% tổng số dân tuyên bố tin vào Thiên Chúa, và 2.9% tuyên bố mình vô thần. 48% tín hữu thường xuyên đến nhà thờ và 39% tham dự thánh lễ Chúa Nhật. Trong các năm 1991-2010 số tín hữu sống đạo sâu đậm gia tăng tử 10 lên 20 %. Tín hữu Ba Lan rất có lòng sùng kính Đức Mẹ. Hằng năm có 7 triệu người hành hương đến các đền thánh Đức Mẹ đặc biệt có 4.5 triệu người hành hương đền thánh Đức Bà Jasna Gora, và 2,5 triệu hành hương đền thánh Lòng Thương Xót Chúa Lagiewniki. Lòng đạo đức khiến cho số ơn gọi linh mục tu sĩ tại Ba Lan cao nhất Âu châu. Tuy nhiên, cuộc khủng hoảng dân số khiến cho số chủng sinh giáo phận giảm sút trong hai thập niên qua, từ 5,436 còn 2,959 tức giảm 45%, trong khi số nam tu sĩ giảm từ 2,636 xuống 882, tức giảm 67%. Tuy phong trào tục hóa tại Ba Lan không mạnh như tại các quốc gia âu châu khác, nhưng cũng là một thách đố đối với giới trẻ, bị ảnh hưởng bởi một thái độ sống không phân định, chạy theo các mốt văn hoá thời thượng tiêu cực thịnh hành bên Tây phương. Vì thế Giáo Hội rất chú ý tới mục vụ và việc giáo dục giới trẻ sống đức tin. Ngoài ra Giáo Hội cũng dấn thân trong nỗ lực hoà giải các dân tộc Trung Âu và Đông Âu, chữa lành các vết thương lịch sử, đối thoại đại kết và liên tôn.

** Balice cách thành phố Cracovia 11 cây số, cho tới năm 1968 đã là căn cứ quân sự, sau đó trở thành phi trường dân sự và năm 1995 mang tên Đức Gioan Phaolô II, nguyên Tổng Giám Mục Cracovia tử năm 1963 tới 1978.

Đón tiếp ĐTC tại phi trường có ĐTGM Celestino Migliore, Sứ Thần Toà Thánh tại Ba Lan, Tổng thống Ba Lan ông Andreij Duda và phu nhân, ĐHY Stanislaw Dziwicz, TGM Cracovia, và vài giới chức chính quyền. Ngoài ra cũng có ĐC Stanislaw Gadecki, TGM Posnan, Chủ tịch HĐGM Ba Lan, ĐHY Stanislaw Rylko chủ tịch Hội Đồng Toà Thánh về Giáo Dân, ĐHY Kazimie Nycz, TGM Varsava, ĐC Joseph Clemens Thư ký hội đồng, hai Đức Ông Grzegorz Mizinski và Damian Andreij Muskus, phối hợp viên Ngày Quốc Tế Giới Trẻ và một nhóm tín hữu. Hai em bé đã tặng hoa cho ĐTC.

Lễ nghi tiếp đón đã rất đơn sơ, sau khi ban nhạc cử quốc thiều Vaticăng và quốc thiều Ba Lan ĐTC và tổng thống duyệt qua hàng chào danh dự, rồi giới thiệu phái đoàn hai bên. Tiếp đến tổng thống và phu nhân đã tháp tùng ĐTC ra xe để đến  lâu đài Wawel, nơi diễn ra cuộc gặp gỡ với các giới chức chính trị, xã hội dân sự và ngoại giao đoàn.

Cracovia là thủ đô cũ của Ba Lan, có hơn 762 ngàn dân, nằm bên bờ sông Vistola, trên độ cao 220 mét, và là thành phố nổi tiếng nhất Ba Lan, hằng năm có hơn 9 triệu du khách thăm viếng. Năm tới đây thành phố kỷ niệm 760 năm  nhận được các quyền thành phố. Cracovia nằm trên hai con lộ thương mại rất cổ xưa: đó là con lộ Biển Đen đi ngang qua vùng Slesia và dẫn về hướng Tây, và con lộ chạy qua  Cửa Morava nối liền miền nam Âu châu với vùng Baltic. Các tài liệu viết đầu tiên liên quan tới thành phố có từ thế kỷ thứ X, khi Cracovia thuộc quận chúa Moravia cho tới năm 990. Nhưng Kitô giáo đã được biết tới từ lâu trước thời điểm chính xác là năm 966 kỷ niệm ngày Ba Lan được rửa tội. Từ năm 1038 Cracovia là thủ đô vương quốc dưới triều đại nhà Piast. Vào thế kỷ XII có các cộng đoàn Do thái sinh sống trong khu phố Kazimierz. Bị người Tartari tàn phá năm 1241-1242 Cracovia hồi sinh mau chóng nhờ cư dân gốc Đức. Từ năm 1291 Cracovia rơi vào ách thống trị của Tiệp. Năm 1320 Wladislaw Lokietek được phong vương trong nhà thờ chính toà Wawel và các vua Ba Lan đều được phong vương tại đây cho tới hết thời quân chủ năm 1795. Được nới rộng và có thêm nhiều lâu đài dinh thự Cracovia trở thành một trong các trung tâm văn hoá nổi tiếng Âu châu. Vào thế kỷ XVI chỉ riêng tại Cracovia đã có 9 nhà in trên tổng số 24 nhà in trong toàn nước Ba Lan. Đại học Cracovia thu hút nhiều giáo sư và sinh viên nổi tiếng, trong đó có Nicolò Copernico. Triều đình nhà Jaghelloni tiếp đón các nghệ sĩ và thi sĩ nhiều nước khác nhau. Việc triều đình rời về Cracovia sau khi lâu đài Wawel bị hoả hoạn năm 1596, rồi lại trở về Varsava năm 1611 khiến cho thành phố xuống dốc. Sau đó thành phố bị người Thuỵ Điển tàn phá, Ba Lan bị phân chia, và năm 1846 bị giao cho Áo cai trị, và chỉ vào năm 1918 mới lại thuộc Ba Lan. Trong thế kỷ XIX Cracovia trở thành trung tâm văn hoá và nghệ thuật của Ba Lan. Việc khai thác các quặng mỏ vùng Slesia tạo ra làn sóng di cư khiến cho Cracovia có  tới 100 ngàn dân.

** Tháng 9 năm 1939 Đức Quốc Xã đã đầy 184 giáo sư đại học Jaghellonica và 68.000 người Do thái trong trại tập trung Sachsenhausen và 3 trại tập trung trong thành phố, khiến cho 20.000 người Ba Lan không Do thái và 34 linh mục địa phương bị chết. Trong thời bị Đức Quốc Xã chiếm đóng  Cracovia đã mất đi rất nhiều tác phẩm nghệ thuật. Việc can thiệp của đạo bình Liên Xô đã cứu các dinh thự của thành phố khỏi bị tàn phá. Cracovia phát triển mạnh với việc xây cất thành phố Nova Huta gồm nhiều nhà máy kỹ nghệ, đặc biệt là hoá học, kim khí, thực phẩm và quần áo. Ngoài lâu đài Wawel Cracovia có rất nhiều nhà thờ, dinh thự cổ kính và hội đường do thái thuộc nhiều thời đại khác nhau từ thế kỷ XI đến thế kỷ XIX. Ngoài đại học Cracovia còn có 14 đại học khác với 85.000 sinh viên và 12 đại chủng viện, một thuộc giáo phận và 11 thuộc các  dòng tu. Cracovia cũng có tới 30 viện bảo tàng và Vuờn bách thảo cổ xưa nhất Âu châu. Năm 1978 các dinh thự Cracovia và mỏ muối Wieliczka đã được Liên Hiệp Quốc tuyên bố là Gia tài của thế giới. Cracovia cũng đã là thành phố của nhiều cuộc tranh tài thể thao thể dục. Đức Gioan Phaolô II đã viếng thăm Cracovia 5 lần. ĐTC Biển Đức cũng đã viếng thăm thành phố năm 2006 và chủ sự thánh lễ tại Blonia vói sự tham dự của 1 triệu người.

Tổng giáo phận Cracovia có hơn 1,6 triệu dân, 97% theo công giáo. Giáo phận có 447 giáo xứ, 15 nhà thờ 1.174 linh mục giáo phận và 970 linh mục dòng, 1.556  tu sĩ, 2.550 nữ tu khấn, 110 đại chủng sinh, 121 cơ sở giáo dục và 143 trung tâm bác ái. Giáo phận Cracovia được thành lập năm 1000, và có nhiều người con nổi tiếng như thánh Stanislaw và thánh Gioan Phaolô II. Từ thế kỷ XI Cracovia là thủ đô của Ba Lan.

Từ phi trường ĐTC đã đi xe vào thành phố để đến lâu đài Wawel gặp gỡ giới chức chính trị, dân sự và ngoại giao đoàn.

** Lâu đài Wawel có nghĩa là “ngọn đồi” là một quần thể kiến trúc gồm lâu đài nhà vua, nhà thờ chính toà, toà giám quản, các khu vực của những người giúp việc. Đây là nơi ở của các vua Ba Lan trong 5 thế kỷ từ 1038 tới 1596 khi dời thủ đô về Varsava. Lâu đài Wawel là một trong những thí dụ kiến trúc của thời phục hưng âu châu với các yếu tố roman và gôtích. Tại lâu đài cũng có tháp Sigismundo với Zygmunt là quả chuông to nhất Ba Lan  được gióng lên trong các dịp lễ lớn.

Buổi gặp gỡ các giới chức chính trị, xã hội dân sự và ngoại giao đoàn đã diễn ra lúc 17 giờ. Tổng thống và nhu nhân đã tiếp đón ĐTC trong sân danh dự của phủ tổng thống nơi diễn ra cuộc gặp gỡ với sự hiện diện của khoảng 800 người.

Ngỏ lời chào hàng lãnh đạo chính trị, ngoại giao đoàn và giới chức xã hội dân sự, trong đó có các viện trưởng đại học, ĐTC nói:

Đây là lần đầu tiên tôi viếng thăm Trung và Đông Âu châu, và tôi vui sướng bắt đầu từ Ba Lan, là quốc gia có trong các con cái mình thánh Gioan Phaolô II, người đã đề xướng và thăng tiến Ngày Quốc Tế Giới Trẻ. Đức Gioan Phaolô II thích nói tới một Âu châu thở bằng hai lá phổi của mình: giấc mộng về một nền nhân bản âu châu mới được linh hoạt bởi hơi thở linh hứng sáng tạo và hài hoà của hai lá phổi và bởi nền văn hoá chung tìm thấy gốc rễ vững vàng nhất của nó trong Kitô giáo.

Ký ức là nét đặc thù của dân tộc Ba Lan. Tôi đã luôn luôn bị đánh động bởi ý thức sinh động về lịch sử của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II. Khi nói về các dân tộc ngài đã luôn luôn khởi hành từ lịch sử của chúng để nêu bật các kho tàng nhân bản và tinh thần. Ý thức về căn cước, tự do khỏi các mặc cảm tự tôn, là điều cần thiết để xây dựng một cộng đoàn quốc gia trên nền tảng gia tài nhân bản, xã hội, chính trị, kinh tế và tôn giáo, để linh hứng xã hội và văn hóa, duy trì chúng trung thành với truyền thống, đồng thời rộng mở cho việc canh tân và cho tương lai. Chính trong viễn tượng đó mà quý vị đã cử hành 1050 năm Ba Lan lãnh nhận đức tin. Chắc chắn nó đã là một thời điểm mạnh mẽ của sự hiệp nhất quốc gia, củng cố con đường vững chắc giúp đạt công ích của toàn dân Ba Lan.

Cả việc cộng tác trong lãnh vực quốc tế và việc tôn trọng nhau cũng làm trưởng thành lương tâm và việc tôn trọng căn tính riêng và tôn trọng căn tính của người khác. Không thể có đối thoại, nếu mỗi người không khởi hành từ căn tính riêng của mình. Tuy nhiên, trong cuộc sống cá nhân cũng như cuộc sống cộng đoàn xã hội có hai loại ký ức tốt và xấu, tích cực và tiêu cực. Ký ức tốt là ký ức, mà Thánh Kinh chỉ cho thấy trong thánh thi Magnificat, bài ca của Mẹ Maria chúc tụng Thiên Chúa và công trình cứu độ của Ngài. Ký ức xấu trái lại là ký ức hướng cái nhìn của tâm trí tới sự dữ, trước hết sự là dữ do người khác sa phạm. Nhìn vào lịch sử mới đây của quý vị tôi cảm tạ Thiên Chúa, vì quý vị đã biết để cho ký ức tích cực thắng thế: chẳng hạn khi cử hành 50 năm tha thứ cho nhau giữa hai HĐGM Ba Lan và Đức, sau Đệ Nhị Thế Chiến. Sáng kiến này ban đầu liên lụy tới hai cộng đoàn giáo hội, nhưng cũng đã tháp nhập một tiến trình xã hội, chính trị, văn hóa và tôn giáo không thể quay trở lại đàng sau làm thay đổi lịch sử tương giao giữa hai dân tộc. Về việc hoà giải này chúng ta cũng nhớ tới Tuyên ngôn chung giữa Giáo Hội công giáo Ba Lan và Giáo Hội chính thống Nga, một hành động đã khơi dậy một tiến trình xích lại gần nhau và tình huynh đệ không chỉ giữa hai Giáo Hội, nhưng cả giữa hai dân tộc nữa.

Như thế, quốc gia Ba Lan cao quý cho thấy có thể làm lớn lên ký ức tốt và bỏ rơi ký ức xấu như thế nào. Để được như vậy cần phải có một niềm hy vọng vững vàng và lòng tin tưởng nơi Đấng hướng dẫn số phận của các dân tộc, mở ra các cánh cửa khép kín, biến đổi các khó khăn thành các cơ may, và tạo ra các khung cảnh mới,  ở nơi xem ra không thể có được. Lịch sử Ba Lan chứng minh cho điều đó: sau các bão táp và tối tăm dân tộc của quý vị , được tái lập trong phẩm giá của nó, đã có thể hát lên như người Do thái từ Babilonia trở về: “Ta tưởng mình như giữa giấc mơ, vang vang ngoài miệng câu cười nói, rộn rã trên môi khúc nhạc mừng” (Tv 126, 1-2). Ý thức về con đường đã đi qua và niềm vui đối với các mục đích đã đạt được trao ban sức mạnh và sự thanh thản giúp đương đầu với các thách đố của thời điểm, nó đòi hỏi can đảm của sự thật và một dấn thân luân lý đạo đức liên tục, để cho các tiến trình quyết định và hành động cũng như các tương quan nhân bản luôn luôn tôn trọng phẩm giá con người. Mọi hoạt động đều đuợc lôi cuốn: kể cả kinh tế, tương quan với môi sinh và chính kiểu giải quyết hiện tượng di cư.

** Tiếp tục bài phát biểu ĐTC nói: Vấn đề di cư đòi hỏi một bổ sung của sự khôn ngoan và lòng thương xót, để thắng vượt các  sơ hãi và thực hiện thiện ích lớn hơn. ĐTC khẳng định:

Cần nhận diện các lý do của việc di cư từ Ba Lan, bằng cách tạo dễ dàng cho những người muốn trở về . Đồng thời cũng cần sẵn sàng tiếp đón những người chạy trốn chiến tranh và đói khổ: tình liên đới đối với những người bị tước đoạt các quyền căn bản, trong đó có quyền tuyên xưng đức tin trong tự do và an ninh. Đồng thời cũng phải khuyến khích các sự cộng tác và cùng hoạt động trên bình diện quốc tế, hầu tìm ra các giải pháp cho các xung khắc và chiến tranh bắt buộc biết bao nhiêu người rời bỏ nhà cửa và quê hương của họ. Như vậy đây là việc làm những gì có thể để xoa dịu các khổ đau của họ, không mệt mỏi hoạt động với trí thông minh và sự liên tục cho công lý và hoà bình, bằng cách làm chứng cho các giá trị nhân bản và kitô bằng việc làm.

Dưới ánh sáng lịch sử ngàn năm của nó, tôi kêu mời quốc gia Ba Lan nhìn về tương lai và các vấn để phải đương đầu với niềm hy vọng. Thái độ như thế tạo dễ dàng cho một bầu khí tôn trọng giữa tất cả mọi thành phần xã hội, và một đối chiếu xây dựng giữa các lập trường khác nhau. Ngoài ra nó tạo các điều kiện tốt hơn cho sự trưởng thành dân sự, kinh tế và cả dân số nữa, dưỡng nuôi sự tin tưởng cống hiến một cuộc sống tốt cho con cái mình. Thật thế, họ không chỉ phải đương đầu với các vấn đề, mà cũng được hưởng các vẻ đẹp của thiên nhiên nữa, là thiện ích mà chúng ta phải biết thực hiện và phổ biến, niềm hy vọng mà chúng ta biết trao ban cho họ. Chính các đường lối chính trị xã hội thăng tiến gia đình là tế bào nòng cốt của xã hội, yểm trợ các gia đình yếu kém và nghèo túng nhất, nâng đỡ chúng trong việc tiếp nhận sự sống có trách nhiệm, sẽ hữu hiệu hơn nữa trong cách thế này. Sự sống luôn luôn cần được tiếp nhận và bảo vệ: cả hai tiếp nhận và bảo vệ – từ lúc thụ thai cho tới lúc chết tự nhiên, và chúng ta tất cả đều được mời gọi tôn trọng nó và lo lắng cho nó. Đàng khác, chính Nhà nước, Giáo Hội và xã hội có bổn phận đồng hành và trợ giúp bất cứ ai sống trong các hoàn cảnh khó khăn trầm trọng, để một người con không bao giở phải cảm thấy mình là một gánh nặng, nhưng như là một món qua, và để các người yếu đuối và nghèo túng nhất không bị bỏ rơi.

Kính thưa tổng thống, Quốc gia Ba Lan có thể tin tưởng nơi sự cộng tác của Giáo Hội Công Giáo như trong suốt lịch sử dài của mình, để dưới ánh sáng của các nguyên tắc kitô linh hứng nó và đã rèn luyện nên lịch sử và căn tính của Ba Lan, trong các điều kiện lịch sử, nó biết tiến triển trên con đường của mình, trung thành với các truyền thống tốt đẹp nhất và tràn đầy tin tưởng và hy vọng cả trong những lúc khó khăn nhất.

Trong khi tái bầy tỏ lòng biết ơn của tôi, tôi xin cầu chúc tổng thống và từng người trong quý vị hiện diện một việc phục vụ công ích thanh thản và phong phú.

Xin Đức Bà Czétochowa ban phúc lành và che chở Ba Lan.

** Sau khi gặp các giới chức chính trị xã hội và ngoại giao đoàn, tổng thống đã cùng ĐTC lên tầng hai để đàm đạo riêng. Trong cùng lúc đó ĐHY Pietro Parolin, Quốc Vụ Khanh Toà Thánh, gặp gỡ thủ tướng Ba Lan là bà Beata Maria Szydlo, với sự hiện diện của ĐTGM  Phụ tá quốc vụ khanh, Đức Sứ Thần Toà Thánh và hai giới chức khác của chính quyền.

Tiếp đến tổng thống giới thiệu với ĐTC gia đình ông rồi tháp tùng ngài qua phòng bên cạnh để trao đổi quà tặng. Tổng thống Andrzej Duda sinh năm 1972 tốt nghiệp tiến sĩ luật tại đại học Jagellonica năm 1996, thuộc đảng bảo thủ và cải cách Âu châu Quyền và Công lý. Ông đã là thủ tướng dưới thời tổng thống Lech Kaczynski. Năm 2010 ông là cố vấn thành phố Cracovia, năm 2011 được bầu làm dân biểu quốc hội và năm 2014 trở thành dân biểu Âu châu cho tới khi được bầu làm tổng thống năm 2015 với nhiệm kỳ 5 năm. Ông có vợ là bà Agata Kornhauser và con gái là Kinga.

Tổng thống tặng ĐTC mề đai kỷ niệm chuyến viếng thăm có hình Đức Bà Jasna Gora và huy hiệu Ngày Quốc Tế Giới Trẻ. ĐTC tặng tổng thống mề đai kỷ niệm chuyến công du Ba Lan.

Tổng thống và phu nhân đã từ giã ĐTC gần cổng chính của dinh. Tiếp đến xe chở ĐTC đến nhà thờ chính toà cách đó 100 mét để ngài gặp gỡ các Giám Mục Ba Lan.

** Nhà thờ chính toà kính hai thánh Stanislao và Venceslao tọa lạc cạnh lâu đài hoàng gia đã được xây ít lâu sau khi giáo phận được thành lập hồi năm 1000. Hình thù hiện nay có từ năm 1364. Đây cũng là đền thánh quốc gia nơi các vua Ba Lan được đội triều thiên trong lễ nghi phong vương. Các vua đặt các kỷ vật chiến thắng gần mộ thánh Stanislao được thừa nhận như bàn thờ tổ quốc.

Phần chính giữa nhà thờ là bàn thờ tuyên xưng đức tin kiểu barốc  của thánh Stanislao tử đạo năm 1079, có cất giữ thi hài của ngài. Trong nhà nguyện các vua Waza có mộ của ĐGM Giovanni Prandola qua đời trong hương thơm thánh thiện năm 1266. Trên bàn thờ nhà nguyện của ĐGM Pietro Tomicki có một hòm bằng bạc đựng thánh tích của chân phước Vincenzo Kadlubek qua đời năm 1223. Bên cạnh nhà mặc áo có cây thánh giá thuộc hậu bán thế kỷ XIII. Theo truyền thống từ thánh giá này Chúa Giêsu đã nói chuyện với thánh hoàng hậu Edvige, qua đời năm 1399 có mộ bên dưới thánh giá. Hôn nhân của thánh nữ với ông hoàng Lituani đã khiến cho Lituania theo Kitô giáo. Thánh Edvige khi còn sống đã săn sóc người nghèo và các bệnh nhân và thành lập nhiều nhà thương. Thánh nữ cũng giữ gìn tu sửa các nhà thờ và rất sùng mộ Chúa Giêsu Thánh Thể. Trong di chúc thánh nữ để lại tất cả nữ trang của mình cho việc xây cất đại học Cracovia năm 1400. Thánh nữ được phong chân phước và được Đức Gioan Phaolô II tôn phong hiển thánh.

Trong nhà thờ chính toà này cũng có mộ của nhiều thánh, các vua, các tướng lãnh và thi sĩ.

Cuộc gặp gỡ đã diễn ra lúc 6 giờ rưỡi chiều. ĐHY TGM Krakow và cha sở nhà thờ chính toà đã đón tiếp ĐTC bên cửa hông và giới thiệu Kinh sĩ đoàn. ĐTC dừng lại thinh lặng cầu nguyện trước mộ thánh Stanislaw nơi cũng cất giữ thánh tích của thánh Gioan Phaolô II, rồi vào nhà nguyện đàng sau Bàn thờ chính để viếng Thánh Thể. ĐHY Stanislao Dziwicz, TGM Cracovia, và ĐC Stanislao Gadecki, TGM Poznan, chủ tịch HĐGM Ba Lan đã nhân danh 130 Giám Mục hiện diện ngỏ lời chào mừng ĐTC. ĐTC đã nói chuyện thân mật với các Giám Mục.

** ĐTC đã tặng nhà thờ chính toà một chén thánh. Sau đó ngài đã chào từng Hồng Y, Tổng Giám Mục và Giám Mục rồi chụp hình lưu niệm với các vị.

Sau khi từ giã các Giám Mục lúc 7 giờ rưỡi chiều ĐTC đã đi xe về toà Tổng Giám Mục Krakow. Dinh thự này được xây cất hồi thế kỷ XVI và được tái thiết trong các thế kỷ sau đó. Chính tại đây Đức Gioan Phaolô II đã theo các lớp học của đại chủng viện bí mật và đã sống cùng các chủng sinh khác trong thời Đệ Nhị  Thế Chiến, được thụ phong linh mục và làm TGM giữa các năm 1963-1978. Trong các lần thăm viếng Ba Lan ngài vẫn ở trong căn phòng cũ và ban chiều nhiều lần đã ra cửa sổ để nói chuyện với các tín hữu, đặc biệt là giới trẻ tụ tập trước toà TGM để chào ngài. Cả ĐTC Biển Đức XVI trong chuyến thăm Ba Lan ngày  26 tháng 5 năm 2006 cũng lấy lai truyền thống này.

Xe chở ĐTC đã tới toà TGM 15 phút sau đó. Sau bữa tối ĐTC đã ra bao lơn để chào tín hữu tụ tập trước toà TGM, đặc biệt là một nhóm các trẻ em tàn tật và mồ côi, rồi nghỉ đêm kết thúc nửa ngày thứ nhất viếng thăm Ba Lan. ĐTC cũng ngỏ lời chào các bạn trẻ qua video và trả lời thắc mắc của ba bạn trẻ.

Thứ năm hôm nay ĐTC chỉ có hai sinh hoạt chính. Ban sáng ngài đi thăm đền thánh Đức Bà Jasna Gora trong tổng giáo phận Częstochowa cách Krakow 100 cây số và dâng thánh lễ cho tín hữu. Ban chiều ngài trở về Krakow và đến Blonia ( đọc  là Buonie) để gặp gỡ các bạn trẻ tham dự Ngày Quốc Tế Giới Trẻ tại công viên Jordan. Chúng tôi sẽ tường thuật các biến cố này trong các buổi phát ngày mai.

Linh Tiến Khải

Sứ điệp của Đức Thánh Cha Phanxicô gửi giới trẻ Giáo phận Brownsville (Texas)

Sứ điệp của Đức Thánh Cha Phanxicô gửi giới trẻ Giáo phận Brownsville (Texas)

Đức Thánh Cha gửi sứ điệp video cho giới trẻ Brownville Texas

Đức Thánh Cha Phanxicô đã gửi một sứ điệp video cho các người trẻ của Giáo phận Brownsville, tiểu bang Texas, Hoa kỳ.

Giáo phận Brownsville nằm sát biên giới Mêhicô và được xem là một trong những vùng nghèo nhất của Hoa kỳ. Các bạn trẻ họp nhau vào ngày lễ Thánh Anna, bổn mạng của Giáo xứ nơi họ tụ họp và cũng trùng với thời gian của Ngày Quốc tế Giới trẻ đang diễn ra tại Krakow, Ba Lan.

Đức Thánh Cha nói: “Các bạn trẻ của Giáo phận Brownsville, đang họp nhau vào ngày lễ Thánh Anna, bà ngoaị của Chúa Giêsu, quý mến. Cha biết các con họp nhau ở Texas, rất gần với Mêhicô, gần với châu Mỹ Latinh và cha biết là các con họp nhau để liên kết trong tinh thần với Ngày Quốc tế Giới trẻ đang diễn ra tại Cracovia. Cha muốn ở gần các con. Cha muốn nói với các con là hãy luôn nhìn về phía trước, hãy hướng về chân trời, đừng để cuộc sống đặt các bức tường trước mặt các con, hãy luôn luôn nhìn vào chân trời. Hãy luôn luôn can đảm ước muốn thêm nữa, thêm nữa … với sự can đảm, nhưng đồng thời đừng quên nhìn lại gia sản mà chúng con đã nhận từ tổ tiên, ông bà và cha mẹ của  chúng con; đừng quên nhìn lại gia sản đức tin mà chúng con đang có trong tay bây giờ để hướng về phía trước.

“Cha biết là vài người các con sẽ hỏi cha: “thưa Cha, đúng vậy, cha bảo chúng con nhìn vào chân trời và nhớ những điều đó, nhưng hôm nay, chúng con phải làm gi? Hãy sống cuộc sống cách tràn đầy! Hôm nay, hãy đón nhận cuộc sống như nó đến và làm điều tốt cho người khác. Trong thế giới hôm nay, người ta đang chơi một trò chơi mà không có chỗ để thay thế, dù cho các con đang trong cuộc chơi hay ở ngoài cuộc chơi. Hãy giữ lấy những kỷ niệm các con được thừa hưởng, hãy nhìn về chân trời và hôm nay hãy nắm bắt sự sống và đưa nó về phía trước, sử dụng nó cách hiệu quả và làm cho nó sinh hoa trái. Thiên Chúa gọi các con mang lại hoa trái.Ngài kêu gọi các con trao chuyển sự sống này cho người khác. Thiên Chúa gọi các con kiến tạo hy vọng. Ngài kêu goi các con nhận lấy lòng thương xót và trao ban nó. Thiên Chuá kêu gọi các con hanh phúc. Đừng sợ hãi! Đừng sợ hãi! Hãy sống cách viên mãn! Đó là cuộc sống.

“Cha cầu chúc các con một cuộc gặp gỡ các bạn trẻ tốt đẹp, hợp nhất với ngày Quốc tế Giới trẻ, với các bạn trẻ ở Crcovia. Hãy sống cách nhiệt tình hăng hái và tiến bước. Xin Đức Trinh nữ luôn gìn giữ các con và xin Chúa Giêsu chúc lành cho các con. Và xin đừng quên cầu nguyện cho Cha. Cám ơn các con”. SD (26/7/2016)

Hồng Thủy Op

Tuyên bố của ĐHY Dziwisz về di dân và Âu Châu

Tuyên bố của ĐHY Dziwisz về di dân và Âu Châu

Tuyên bố của ĐHY Dziwisz về di dân và Âu Châu

CRACOVIA. ĐHY Stanislaw Dziwisz, TGM Cracovia, tuyên bố rằng một Âu Châu chỉ dựa trên yếu tố kinh tế, thì sẽ suy yếu.

Trong cuộc phỏng vấn dành cho phái viên trang mạng thông tin Vatican Insider ở Roma hôm 25-7-2016, ĐHY Dziwisz nói: ”Âu Châu đang đứng trước một ngã ba đường, và không phải như thế mà thôi. Chúng ta đã thấy điều đó qua Brexis, nước Anh rời bỏ Liên hiệp Âu Châu. Cần phải xét mình một chút: Một liên hiệp Âu Châu chỉ dựa trên quyền lợi kinh tế thì sẽ suy yếu khi nền kinh tế không ổn, hoặc khi người ta phải cho đi nhiều hơn là nhận lãnh..Và tệ hơn nữa, khi có những toan tính đồng nhất hóa văn hóa chống lại những căn cội Kitô của nhiều nước Âu Châu.”

Theo ĐHY Dziwisz, ”thời điểm khó khăn này nhắc nhở chúng ta hãy trở về với tính thần hiệp nhất Âu Châu, được những Kitô hữu chân chính cổ võ như ông Alcide de Gasperi, Robert Schuman”.

– Về vấn đề di dân Âu Châu đang phải đương đầu hiện nay, ĐHY TGM Cracovia nhận xét rằng ”đây là một trong những vấn đề lớn nhất của thời đại chúng ta. Và giờ đây chúng ta nhìn nó với nhiều lo âu vì Âu Châu bị liên hệ trực tiếp. Có lẽ lỗi của chúng ta là đã không nhận thấy vấn đề này trước đây, vì sự ích kỷ của đại lục chúng ta, xét vì những làn sóng di dân ồ ạt đã từng có rồi, trong những thập niên gần đây tại Phi châu và Á Châu”.

ĐHY Dziwisz khẳng định rằng: ”Trong tư cách là Kitô hữu, chúng ta có nghĩa vụ chăm sóc người di dân, trong khi các chính quyền phải xứ lý những tình trạng khẩn cấp, đảm bảo cho những người tị nạn một sự đối xử xứng đáng, và tránh những nguy cơ có những kẻ lạm dụng con đường vào Âu Châu với mục đích nguy hiểm”.

Cũng trong cuộc phỏng vấn, ĐHY TGM Dziwisz xác tín rằng ”Ngày Quốc Tế giới trẻ ở Cracovia sẽ là một kinh nghiệm không thể quên được đối với rất nhiều bạn trẻ đến từ các nơi trên thế giới. Tôi hy vọng rất nhiều trong Ngày Quốc Tế giới trẻ này tại thành phố của Thánh Gioan Phaolô 2 và thánh nữ Faustina: tôi cầu xin Chúa cho sứ điệp lòng thương xót đi sâu vào tâm hồn các bạn trẻ, những người Công Giáo thực hành đạo cũng như nơi các bạn trẻ chưa đến gần Chúa Giêsu, chưa biết rõ về đức tin, để có thể cảm nghiệm ơn Chúa trong những ngày này và khởi sự một hành trình Kitô dẫn đưa họ đến hạnh phúc”.

ĐHY không quên hy vọng những thành quả thiêng liêng của Ngài Quốc Tế giới trẻ này đặc biệt dồi dào nơi các bạn trẻ ở Cracovia. Họ sẽ như những người chủ nhà tiếp đón những người đồng lứa tuổi, và điều này có nghĩa là họ phải quảng đại chuẩn bị và tận tụy đối với những người khác. Việc làm này sẽ luôn được Chúa thưởng công! Tôi hy vọng có nhiều bạn trẻ đặt câu hỏi về ơn gọi trong những ngày này, và nếu Chúa gọi, họ thưa xin vâng đối với ngài. Tôi cầu mong Ngày Quốc Tế Giới trẻ này là một thời điểm quan trọng để canh tân tinh thần cho Cracovia, cho Ba Lan và cho giới trẻ toàn thế giới” (Vat. Ins. 25-7-2016)

G. Trần Đức Anh OP

Cha Jacques Hamel bị giết ở Pháp là chứng nhân của phục vụ và tình huynh đệ

Cha Jacques Hamel bị giết ở Pháp là chứng nhân của phục vụ và tình huynh đệ

Cha Jacques Hamel

Sáng hôm qua (26/7/2016), một tin tức khủng khiếp đã truyền đi khắp thế giới. Đó là 2 người Hồi giáo cực đoan mang theo dao đã vào một nhà thờ ở Saint-Etienne du Rouvray, thuộc Giáo phận Rouen, miền Bắc nước Pháp, cắt cổ vị Linh mục đang dâng Thánh lễ và làm bị thương một người khác. Khi tin tức về vụ sát hại loan truyền, nhiều người đã bày tỏ lòng đau đớn và lên án sự dã man của nó.

Vị Linh mục bị giết là cha Jacques Hamel, 86 tuổi, thụ phong Linh mục vào năm 1958. Cha Hamel rất được các giáo dân yêu quý và ngày cả các người Hồi giáo sống ở Saint-Etienne du Rouvray cũng yêu quý cha. Vài giáo dân đã chia sẻ: “Đó là một Linh mục lớn tuổi, nhưng mà luôn sẵn sàng với bất cứ ai cần đến cha”; “cha sẵn sàng phục vụ”; “đó là một Linh mục giỏi và đã thực thi sứ vụ của mình cho đến giây phút cuối cùng”. Nữ tu Danielle, người đã hiện diện trong giây phút cha Hamel bị sát hai đã khăng định: đây là một Linh mục vĩ đại, một Linh mục phi thường.

Cha Hamel đã phục vụ trong giáo xứ này từ 10 năm nay nhưng không phải là cha xứ, mà chỉ như một Linh mục đơn giản, vì cha đã nghỉ hưu và cha cảm thấy thoải mái trong vai trò phục vụ và còn mong muốn có ích cho cộng đoàn. Dù cho tuổi tác đã cao, nhưng cha luôn tích cực trong các cử hành Thánh lễ và các bí tích.

Cha đã chọn di chuyển đến cộng đoàn nhỏ này, nơi có đông người Hồi giáo sinh sống để loan truyền sứ điệp của tình huynh đệ. Ý nguyện của cha Hamel thể hiện cả trong những dòng chữ viết cuối cùng của cha được đăng trong bản tin giáo xứ vào đầu mùa hè và nay đã trở thành chúc thư tinh thần của ngài. Cha viết: “Chúng ta có thể lắng nghe trong thời gian này lời mời gọi của Thiên Chúa chăm sóc cho thế giới để làm cho thế giới nơi chúng ta đang sống thêm ấm áp, thêm nhân đạo và tình anh em. Một thời gian (cha đề nghị) dành cho việc gặp gỡ những người khác. Một thời gian chia sẻ, gần gũi các trẻ em và những người cô đơn. Cũng có một thời gian cầu nguyện: để ý đến những gì xảy ra trong thế giới chúng ta”. Cha mời gọi mọi người cầu nguyện cho những ai cần lời cầu nguyện., cho hòa bình, cho một sự chung sống tốt hơn. Cha kết luận: “năm nay là năm lòng thương xót, chúng ta hãy thực hiện trong cách thức mà con tim chúng ta hướng đến những điều tốt đẹp và đến người khác. Ước mong kỳ nghỉ hè giúp chúng ta có tràn đầy niềm vui và tình bạn. Và bây giờ chúng ta có thể chuẩn bị và tiếp tục lên đường với nhau”. (RV 26/7/2016)

Hồng Thủy Op

Kinh Truyền Tin : Đức Thánh Cha diễn giải về sự cầu nguyện

Kinh Truyền Tin : Đức Thánh Cha diễn giải về sự cầu nguyện

Đức Thánh Cha diễn giải về sự cầu nguyện 07-24-16

VATICAN. Trong buổi đọc kinh Truyền Tin trưa chúa nhật 24-7-2016, ĐTC đã quảng diễn bài Tin Mừng chứa đựng giáo huấn của Chúa Giêsu về sự cầu nguyện.

Trong bài huấn dụ ngắn trước 20 ngàn tín hữu, trong đó có nhiều bạn trẻ từ các nước đang trên đường đi Ba Lan dự Ngày Quốc Tế giới trẻ ở Cracovia, ĐTC nói:

Tin Mừng hôm nay (Lc 11,1-13) mở đầu với cảnh tượng Chúa Giêsu cầu nguyện một mình, ở một nơi riêng; khi Ngài cầu nguyện xong, các môn đệ hỏi: “Lạy Chúa, xin dạy chúng con cầu nguyện) (v.1); và Chúa đáp: ”Khi các con cầu nguyện, hãy nói: ”Lạy Cha..” (v.2). Lời này là ”bí quyết” kinh nguyện của Chúa Giêsu, là chìa khóa mà chính Ngài ban cho chúng ta để chúng ta cũng có thể đi vào quan hệ đối thoại thân mật với Chúa Cha, Đấng đã đồng hành và nâng đỡ trọn cuộc sống của Ngài.

Chúa Giêsu liên kết lời thưa ”Lạy Cha” với hai lời cầu xin: ”xin cho danh Cha được cả sáng, nước Cha trị đến” (v.2). Kinh nguyện của Chúa Giêsu, và vì thế cũng là kinh nguyện của Kitô giáo, trước tiên là dành chỗ cho Thiên Chúa, để cho Chúa biểu lộ sự thánh thiện của Ngài nơi chúng ta và làm cho Nước Chúa trị đến, bắt đầu từ khả thể thực hiện chủ quyền thương yêu của Chúa trong đời sống chúng ta”.

Các lời cầu xin khác bổ túc lời nguyện mà Chúa Giêsu dạy chúng ta, Kinh Lạy Cha. 3 lời cầu xin biểu lộ những nhu cầu cơ bản của chúng ta: bánh, ơn tha thứ và sự trợ giúp trong cơn cám dỗ (Xc vv.3-4). Ta không thể sống mà không có bánh, không thể sống nếu không được tha thứ, và không thể sống nếu không có ơn phù trợ của Chúa trong những cơn cám dỗ. Bánh mà Chúa Giêsu dạy chúng ta xin là điều cần thiết, chứ không phải điều thừa thãi; đó là bánh của những người lữ hành, người công chính, một thứ bánh người ta không tích trữ và không được phí phạm, không làm cho bước tiến của chúng ta trở nên nặng nề. Ơn tha thứ, trước tiên là điều chính chúng ta nhận được từ Thiên Chúa: chỉ khi nào ý thức mình là người tội lỗi được tha thứ nhờ lòng từ bi vô biên của Thiên Chúa, chúng ta mới có thể thực thi những cử chỉ cụ thể hòa giải với anh em. Nếu một người không cảm thấy mình là người tội lỗi được tha thứ, thì không bao giờ có thể thực hiện một cử chỉ tha thứ hoặc hòa giải. Chúng ta bắt đầu từ con tim nơi chúng ta cảm thấy mình là người tội lỗi được thứ tha. Lời cầu xin cuối cùng, ”xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ”, biểu lộ ý thức về thân phận của chúng ta, luôn luôn gặp phải những cạm bẫy của sự ác và hư hỏng. Tất cả chúng ta đều biết thế nào là một sự cám dỗ!

ĐTC nói thêm rằng:

Giáo huấn của Chúa Giêsu về việc cầu nguyện tiếp tục với 2 dụ ngôn, qua đó Chúa lấy ví dụ thái độ của một người bạn này đối với người bạn khác và thái độ của một người cha đối với con mình (Xc vv.5-12). Cả hai dụ ngôn muốn dạy chúng ta hãy hoàn toàn tín thác nơi Thiên Chúa là Cha. Chúa biết rõ hơn chúng ta về những gì chúng ta đang cần, nhưng Chúa muốn chúng ta trình bày với Ngài một cách táo bạo và khẩn khoản về những nhu cầu ấy, vì đó là cách thức chúng ta tham gia vào hoạt động cứu độ. Kinh nguyện là dụng cụ làm việc đầu tiên và chính yếu trong tay chúng ta! Nài nỉ với Thiên Chúa không phải để thuyết phục Ngài, nhưng để củng cố niềm tin và sự kiên nhẫn của chúng ta, nghĩa là khả năng cùng Thiên Chúa chiến đấu cho những điều thực sự là quan trọng và cần thiết. Trong kinh nguyện chúng ta có hai: Thiên Chúa và tôi cùng chiến đấu cho những điều quan trọng.

Trong số những điều ấy, có một điều quan trọng mà Chúa Giêsu nói đến trong bài Tin Mừng hôm nay, mà hầu như chúng ta không bao giờ xin, đó là Thánh Linh; ”xin ban cho con Thánh Thần!”. Và Chúa Giêsu nói rõ điều đó: ”Nếu các con là những kẻ xấu mà còn biết cho con cái mình những điều tốt đẹp, thì Cha các con ở trên trời lại chẳng ban Thánh Thần cho những kẻ xin Ngài sao!” (v. 13). Chúa Thánh Linh! Chúng ta phải cầu xin Chúa Thánh Linh đến trong chúng ta. Nhưng Thánh Linh có ích gì? Thưa Ngài giúp chúng ta sống tốt lành, sống khôn ngoan và yêu thương, thi hành thánh ý Chúa. Trong tuần này, kinh nguyện thật là đẹp dường nào khi mỗi người chúng ta cầu xin Chúa Cha: ”Lạy Cha xin ban cho con Thánh Thần Chúa!”. Mẹ Maria chứng tỏ điều đó qua cuộc sống của Mẹ, hoàn toàn được Thánh Linh của Chúa linh hoạt. Xin Mẹ giúp chúng ta cầu xin Chúa Cha, hiệp với Chúa Giêsu, để sống không phải theo thói thế gian, nhưng theo Tin Mừng, được Thánh Linh hướng dẫn.

Chào thăm

Sau phép lành, ĐTC nhắc đến những biến cố bạo lực gần đây và nói rằng: ”Trong những giờ này tâm hồn chúng ta còn bị giao động vì những tin buồn về những hành vi khủng bố và bạo lực đáng lên án, gây đau thương và chết chóc. Tôi nghĩ đến những biến cố thê thảm tại Munich bên Đức và tại Kabul bên Afganistan, nơi mà nhiều người vô tội bị thiệt mạng.

Tôi gần gũi với thân nhân của các nạn nhân và những người bị thương. Tôi mời gọi anh chị em hiệp với tôi cầu nguyện, xin Chúa soi sáng cho mọi người những quyết tâm làm điều thiện và sống huynh đệ. Hễ những khó khăn càng có vẻ không thể vượt qua được và những viễn tượng an ninh và hòa bình càng đen tối, thì kinh nguyện của chúng ta càng phải trở nên tha thiết hơn.

ĐTC cũng nhắc đến sự kiện bao nhiêu người trẻ đang đến Cracovia để tham dự Ngày Quốc Tế giới trẻ lần thứ 31 và chính ngài cũng sẽ đến đó vào thứ tư tới đây, để gặp gỡ các bạn trẻ nam nữ và cùng với họ cử hành Năm Thánh Lòng Thương xót, nhờ sự chuyển cầu của thánh Gioan Phaolô 2. Ngài xin các tín hữu tháp tùng ngài và các bạn trẻ bằng lời cầu nguyện, và ngay từ bây giờ, ngài chào thăm và cám ơn tất cả những người đang hoạt động để đón tiếp các bạn trẻ hành hương, cùng với nhiều GM, LM, tu sĩ nam nữ và giáo dân. Ngài nói thêm rằng: ”Tôi cũng đặc biệt nghĩ đến rất nhiều bạn trẻ đồng lứa của họ, không thể đích thân hiện diện, nhưng sẽ theo dõi Ngày Quốc Tế giới trẻ qua các phương tiện truyền thông. Tất cả chúng ta sẽ hiệp nhau trong kinh nguyện!”.

G. Trần Đức Anh OP

Đức Thánh Cha chia buồn về vụ thảm sát tại Munich

Đức Thánh Cha chia buồn về vụ thảm sát tại Munich

Đức Thánh Cha chia buồn về vụ thảm sát tại Munich

VATICAN. ĐTC chia buồn về vụ thảm sát tại Munich làm cho 10 người bị thiệt mạng, kể cả thủ phạm.

Trong điện văn gửi đến ĐHY Reinhard Marx, TGM giáo phận Munich, Chủ tịch HĐGM Đức, ĐHY Pietro Parolin, Quốc vụ khanh Tòa Thánh, viết:

”ĐTC Phanxicô kinh ngạc hay tin về sự kiện kinh khủng xảy ra tại Munich, trong đó nhiều người, nhất là người trẻ, bị thiệt mạng và nhiều người khác bị thương nặng. Ngài chia sẻ nỗi đau khổ của những người sống sót và bày tỏ sự gần gũi của ngài trong đau khổ. Trong kinh nguyện, ĐTC phó thác những người qua đời cho lòng thương xót của Thiên Chúa. Ngài bày tỏ sự cảm thông sâu sắc với những người bị thương tổn vì vụ sát hại này và cám ơn các lực lượng cứu trợ và an ninh vì sự dấn thân nhiệt thành và quảng đại của họ. ĐTC Phanxicô cầu xin Chúa Kitô, là Chúa Tể sự sống, ban cho tất cả mọi người ơn an ủi và nâng đỡ, đồng thời ban phép lành Tòa Thánh cho họ như bảo chứng niềm hy vọng”.

Thủ phạm vụ thảm sát tại tiệm ăn McDonald ở Munich hôm thứ sáu 22-7-2016 là Ali Sonboly, 18 tuổi, gốc Iran. Theo các giới chức điều tra, Ali đã chuẩn bị cuộc thảm sát này từ 1 năm nay và đang được chữa trị về bệnh tâm thần.

Trong số 9 người bị Ali sát hại, đa số là người trẻ và có 7 người là người nước ngoài, Thổ Nhĩ Kỳ và Kosovar. Số người bị thương lên tới 35 người. Ali tự sát lúc 20 giờ 30 trong khi một toán cảnh sát tìm cách liên lạc với chàng ta.

G. Trần Đức Anh OP 

 

Tòa Thánh vẫn sẵn sàng giúp Venezuela

Tòa Thánh vẫn sẵn sàng giúp Venezuela

Cha Lombardi

VATICAN. Cha Lombardi, Giám đốc Phòng báo chí Tòa Thánh, bác bỏ tin của một số báo chí cho rằng chính phủ Venezuela và phe đối lập tại đây sẵn sàng chấp nhận sự can thiệp của Tòa Thánh đồng hành và tạo điều kiện dễ dàng cho cuộc đối thoại giữa các phe để đối phó với tình hình đất nước.

Trong thông cáo công bố hôm 22-7-2016, Cha Lombardi nói rằng: ”Như đã biết, cả trong quá khứ, Tòa Thánh vẫn bày tỏ sự sẵn sàng nếu có những điều kiện cần thiết trước đó, để có thể góp phần vào cuộc đối thoại. Nhưng cho đến nay, không có một thông tin chính thức này được gửi đến Tòa Sứ Thần Tòa Thánh cũng như tới Bộ ngoại giao Tòa Thánh để trình bày và xác định nội dung chi tiết lời yêu cầu như vậy”.

Cha Lombardi đưa ra thông cáo trên đây sau khi một số hãng tin quốc tế truyền đi hôm 22-7-2016 nói rằng tổng thống Nicolas Maduro của Venezuela đã chấp nhận đề nghị của phe đối lập, thỉnh cầu Tòa Thánh giúp đối thoại với chính phủ.

Ông Ernesto Samper, Tổng thư ký liên hiệp các nước Nam Mỹ đã gặp tổng thống Maduro hôm 21-7 và sau đó ông tuyên bố là sẽ thỉnh cầu ĐGH Phanxicô gửi đại diện đến Venezuela. Ông Samper đã đến thủ đô Caracas để cùng với cựu thủ tướng José Zapatero của Tây Ban Nha với ý hướng đã có từ 2 tháng nay, nhắm thúc giục các phe liên hệ ở Venezuela ngồi lại với nhau để giải quyết cuộc khủng hoảng trầm trọng của đất nước về kinh tế và chính trị. (SD 23-7-2016)

G. Trần Đức Anh OP

Đức Cha chủ tịch Hội đồng Giám mục Hoa Kỳ kêu gọi ngày cầu nguyện toàn quốc

Đức Cha chủ tịch Hội đồng Giám mục Hoa Kỳ kêu gọi ngày cầu nguyện toàn quốc

Đức Cha Joseph E. Kurtz chủ tịch Hội đồng Giám mục Hoa Kỳ

Trước những sự kiện bạo lực và căng thẳng chủng tộc vừa qua tại các cộng đồng trên toàn nước Mỹ, Đức Cha chủ tịch Hội đồng Giám mục Hoa Kỳ mời gọi các Giáo phận trên toàn quốc hợp nhất trong Ngày cầu nguyện và cách rộng lớn hơn, cổ vũ hòa bình và chữa lành trong thời gian những căng thẳng nặng nề trong xã hội dân sự.

Phát biểu về những vụ nổ súng liên quan đến sắc tộc ở Baton Rouge, Minneapolis và Dallas, Đức Tổng Giám mục  Joseph E. Kurtz của Giáo phận Louisville, Kentucky, lưu ý đến việc nhìn vào những cách thức Giáo hội Công giáo có thể đồng hành và giúp những cộng đoàn đang đau khổ này. Ngài nói: “Tôi đã nhấn mạnh đến việc cần thiết tìm thêm những cách thức nuôi dưỡng một cuộc đối thoại cởi mở, chân thật và dân sự về những quan hệ sắc tộc, phục hồi công lý, sức khỏe tâm thần, cơ hội kinh tế và giải quyết những vấn đề bạo lực phổ biến gây nên bởi súng. Ngày Cầu nguyện và Ủy ban đặc nhiệm sẽ giúp chúng ta tiến tới trong chiều hướng đó. Bằng cách bước tới để ôm lấy những người đau khổ, qua sự hiệp nhất, hành động cụ thể được sinh động bởi tình yêu Chúa Kitô, chúng ta hy vọng nuôi dưỡng hòa bình và xây dựng những cầu nối thông tin liên lạc và hỗ trợ lẫn nhau trong chính các cộng đồng của chúng ta”.

Ngày Cầu nguyện cho hòa bình tại các cộng đoàn của chúng ta sẽ được cử hành vào ngày lễ thánh Phêrô Claver, ngày 9/9, và sẽ là một điểm đầu cho hoạt động của Ủy ban đặc nhiệm. Mục đích của Ủy ban đặc nhiệm là giúp các Giám mục tham dự vào các vấn đề thử thách cách trực tiếp bằng những cách thức khác nhau: thu tập và phân phát các nguồn hỗ trợ và “những thực hành tốt nhất”; lắng nghe cách tích cực những quan tâm của các thành viên trong các cộng đồng gặp khó khăn và thực thi pháp luật; xây dựng những mối liên hệ vững mạnh để giúp ngăn ngừa và giải quyết các xung đột. Ủy ban đặc nhiệm sẽ kết thúc công việc của họ với một báo cáo về các hoạt động của và những đề nghị cho hoạt động tương lai cho Đại hội đồng vào tháng 11.

Đức Tổng Giám muc Wilton D. Gregory của Atlanta, nguyên chủ tịch Hội đồng Giám mục Hoa Kỳ, sẽ là chủ tịch của Ủy ban đặc nhiệm. Ngài vinh hạnh nhận trách nhiệm dẫn dắt Ủy ban này; Ủy ban sẽ giúp các Giám mục đồng hành với các cộng đồng đau khổ trên đường tiến tới hòa bình và hòa giải. Ngài nói: “Chúng ta là một thân thể trong Chúa Kitô, vì vậy chúng ta phải bước đi với các anh chị em chúng ta và lập lại sự dấn thân cổ võ việc chữa lành. Người đau khổ không ở nơi nào khác, hay của ai khác; nó chính là của chúng ta và ở trong Giáo phận của chúng ta”.

Các thành viên khác của Ủy ban đặc nhiệm cũng bao gồm các Giám mục khác, các chủ tịch của các Ủy ban của Hội đồng Giám mục Hoa kỳ, và có nhiều Giám mục và giáo dân cố vấn. (RV 22/7/2016)

Hồng Thủy Op

Đức Thánh Cha cám ơn bà Carmen Hernández

Đức Thánh Cha cám ơn bà Carmen Hernández

Đức Thánh Cha cám ơn bà Carmen Hernández, Đồng sáng lập Con đường Tân Dự Tòng

MADRID. ĐTC Phanxicô nhiệt liệt đề cao và cám ơn Bà Carmen Hernández, người đồng sáng lập Con đường Tân Dự Tòng, mới qua đời chiều ngày 19-7-2016 tại Madrid, hưởng thọ 85 tuổi.

Ngài bày tỏ lập trường trên đây qua sứ điệp gửi đến Ông Kiko Arguello, người đã cùng với bà Carmen khởi xướng Con đường Tân dự tòng tại ngoại ô Madrid, Tây Ban Nhà vào cuối thập niên 1960, và nay đã có hơn 30 ngàn Cộng đồng thuộc Con đường này tại 120 nước trên thế giới.

Bà Carmen sinh năm 1930 tại tỉnh Navarra, Tân Ban nha, trong một gia đình thân phụ là người sáng lập công ty Herba, một trong những hãng về gạo quan trọng nhất tại nước này.

Sau khi tốt nghiệp ngành hóa học tại Đại học Madrid và làm việc một thời gian trong hãng của gia đình, Carmen đã quyết định theo đuổi ơn gọi thừa sai đã cảm thấy từ nhỏ và gia nhập Nữ Thừa Sai của Chúa Giêsu Kitô, và chuẩn bị đi truyền giáo. Nhưng rồi dòng tu này bị khủng hoảng trong thời kỳ Công đồng chung Vatican 2, khiến chị Carmen phải tìm con đường khác.

Về sau chị gặp ông Kiko Arguello, một họa sĩ, dấn thân loan báo cho những người nghèo, người du mục, người khuyết tật ở khu vực ngoại ô Madrid và đã cộng tác vào công trình này. Con đường Tân Dự Tòng nảy sinh từ đó và lớn mạnh với thời gian.

Sứ điệp của ĐTC được đọc lên trong lễ an táng Bà Carmen tại Nhà thờ chính tòa thủ đô Madrid chiều ngày 21-7 vừa qua, do Đức Cha Carlos Osorio Sierra, TGM sở tại chủ sự. ĐTC viết:

Mến gửi ông Francisco Kiko Arguello, Con đường Tân dự tòng, Madrid

Tôi xúc động hay tin bà Carmen Hernández qua đời sau một cuộc đời dài, được ghi đậm bằng tình yêu đối với Chúa Giêsu và lòng hăng say truyền giáo. Trong giờ chia li đau thương này tôi gần gũi trong tinh thần, với lòng quí mến đối với thân nhân và toàn thể Con đường Tân dự tòng mà Bà là người đồng khai sáng, cũng như đối với toàn thể những người quí chuộng nhiệt huyết tông đồ của Bà được cụ thể hóa, nhất là trong việc đề ra một hành trình tái khám phá bí tích Rửa Tội và thường huấn về đức tin. Tôi cảm tạ Chúa vì chứng tá của người phụ nữ này, được linh hoạt bằng tình yêu chân thành đối với Giáo Hội mà Bà đã hiến toàn thân trong việc loan báo Tin Mừng nơi mọi môi trường, cả những môi trường xa lạ nhất, và không quên những người bị gạt ra ngoài lề. Tôi phó thác linh hồn Bà cho lòng từ nhân của Chúa, xin Chúa đón nhận linh hồn Bà trong niềm vui Phục Sinh vĩnh cửu và tôi khích lệ những người đã quen biết Bà và bao nhiêu người tham gia Con đường Tân Dự tòng hãy giữ cho mối quan tâm truyền giáo của Bà được luôn sinh động, hoạt động trong niềm hiệp thông thực sự với các Giám Mục và Linh mục, thực thi lòng kiên nhẫn và từ bi đối với tất cả mọi người. Với những ước nguyện ấy, tôi cầu xin sự chuyển cầu của Đức Trinh Nữ Maria và vui lòng ban pháp lành Tòa Thánh cho tất cả những người hiện diện tại lễ an táng này”. (SD 21-7-2016)

 G. Trần Đức Anh OP 

Hành hương đi bộ từ Roma đến Cracovia dự đại hội Giới trẻ

Hành hương đi bộ từ Roma đến Cracovia dự đại hội Giới trẻ

Map from Rome to Krackow Poland

Philadelphia – Chỉ mất 9 giờ đồng hồ để bay từ Philadelphia đến phi trường Gioan Phaolô II ở Cracovia để tham dự Đại hội Giới trẻ Quốc tế diễn ra từ 26-31 tháng 7 ở thành phố này. Nhưng có một số người đã chọn những cách di chuyển khác để có những cảm nghiệm riêng. Andrew Dierkes, 23 tuổi, thuộc Giáo xứ thánh Agata và thánh Giacôbê đã chọn bay từ Philadelphia đến Roma và từ Roma, anh đã cùng với một nhóm 4 người khác làm một cuộc hành hương đi bộ đến Ba Lan.

Vào ngày 21 tháng 5, sau Thánh lễ tại nhà nguyện hầm mộ Ba Lan tại vatican, Dierkes cùng với 4 du khách có cùng suy nghĩ, khởi hành đi bộ cho “Năm Hành hương Lòng Thương xót” đến Cracovia. Họ đi bộ khoảng 20 đến 25 dặm mỗi ngày (34 – 42 km một ngày). Trong cuộc hành trình họ theo tinh thần khất thực thời Trung cổ, dựa vào sự tiếp đón của người khác; họ thường qua đêm tại các đan viện và các cơ sở của các giáo xứ.

Đứng đầu nhóm là Ricardo Simmonds, 35 tuổi, nguyên giám đốc của trung tâm Newman của Đại học Pensylvania và sáng lập nhóm Denver-based Creatio, một nhóm tổ chức các cuộc truyền giáo cho giới trẻ. Cố vấn của nhóm là Ann Sieben, 52, nguyên là kỹ sư nguyên tử, cũng là người đã sống tinh thần khất thực, đã 9 năm hành hương như một hành khất đến các đền thánh. 2 người khác là Rafael Maturo, 23 tuổi, đến từ Peru và Nick Zimmerman, 22 tuổi, từ Denver. Các chàng thanh niên này đều đang suy nghĩ về ơn gọi tu trì.

Trước đây Dierkes đã nghĩ đến việc hành hương đi bộ từ Pháp đến Tây ban nha theo “Con đường của Thánh Giacôbê” nhưng đã không thực hiện được. Trong một email gửi trong cuộc hành trình anh viết: “Thành thật là tôi không hiểu tại sao, nhưng tôi tin Chúa đã gọi tôi làm cuộc hành hương đi bộ này. Ao ước làm điều này đã được đặt trong lòng tôi từ lâu trước khi cơ hội đến, và thời cơ và cơ hội đã làm cho nó thành hiện thực. Hành trình của nhóm đi qua các thành phố và làng mạc của Italia, Đức, Áo, Cộng hòa Czech và cuối cùng là Ba Lan. Dự tính là họ sẽ đến Đền Thánh Lòng Chúa Thương Xót ở Cracovia vào khoảng ngày 25 tháng 7. Khoảng cách từ Roma đến Cracovia là gần 1700 km nhưng họ phải đi vòng nên sẽ trải qua khoảng 2000 km.

Dù họ không phải chi trả cho việc cư trú nhưng họ phải mua thức ăn cho mình trừ khi được các chủ nhà cung cấp. Dierkes cho biết là bản tính của anh không thích làm phiền người khác nên anh rất để ý đến những cố gắng của các chủ nhà để giúp họ. Nhưng cũng nhờ thế anh nhận ra sự sẵn lòng đón tiếp các anh. Đối với một số người, sự hiện diện của nhóm là một món quà. Dierkes cũng chia sẻ, từ khía cạnh thiêng liêng, “cuộc hành trình này là một cuộc khảo sát nhỏ của Giáo hội và là một cuộc gặp gỡ với các Kitô hữu sống Tin Mừng. Họ nhận ra Chúa Kitô trong những người bé nhỏ nhất của anh chị em họ và vui lòng, ngay cả khiêm nhường, cung cấp cho nhu cầu của họ”.

Một phần thiết yếu của cuộc hành hương đó là cầu nguyện, và nó đã là thử thách cho Dierkes lúc đầu khi đặt nó vào nhịp sống hàng ngày và cân bằng giữa những khía cạnh thiêng liêng và vật chất của cuộc hành hương. Thánh lễ Chúa nhật là bắt buộc, nhưng cả Thánh lễ hàng ngày bất cứ khi nào nhóm ngừng lại ở nơi có Thánh lễ. Và họ cũng tham dự các giờ kinh phụng vụ khi nghỉ tại các đan viện.

Kinh nghiệm của cuộc hành hương này sẽ thay đổi cuộc sống của Dierkes thế nào, theo anh thật khó nói.  Nhưng anh tưởng tượng có những hạt giống được gieo trồng trong cuộc hành hương này và sẽ trưởng thành theo thời gian. Sau này, khi nhìn lại, anh có thể đánh giá cao chuyến hành hương này hơn là hiện tại bây giờ. (CNS 22/7/2016)

Hồng Thủy Op

Đức Thánh Cha kêu gọi chấm dứt chiến tranh tại Nam Sudan

Đức Thánh Cha kêu gọi chấm dứt chiến tranh tại Nam Sudan

Civil south Sudan war

ROMA. ĐHY Peter Turkson, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh Công lý và Hòa bình, cho biết ĐTC Phanxicô đã gửi thư cho các vị lãnh đạo Nam Sudan kêu gọi chấm dứt nội chiến tại nước này.

ĐHY Turkson người Ghana đã đến thủ đô Juba của Nam Sudan và đã cử hành thánh lễ cho các tín hữu ở nhà thờ chính tòa địa phương. Ngài chuyển lời chào thăm và tình liên đới của ĐTC với Cộng đoàn tín hữu, rồi sau lễ, ĐHY đã viếng thăm một số người tị nạn. Hôm sau, 18-7, ĐHY đã gặp tổng thống Nam Sudan và trao sứ điệp của ĐTC. Ngài cũng mang theo một sứ điệp của ĐTC cho cựu phó tổng thống Nam Sudan cũng là lãnh tụ phiến quân. Trong cả hai sứ điệp, ĐTC kêu gọi hai bên chấm dứt tình trạng nội chiến hiện nay.

Trong cuộc phỏng vấn dành cho Đài Vatican sau khi trở về Roma, ĐHY Turkson nói đến tình trạng dân chúng Nam Sudan đang phải sống trong tình trạng đau khổ, nghèo đói và thiếu an ninh, bệnh tật mà thiếu thuốc men. Hiện thời, tình hình tạm lắng dịu nhưng người ta lo sợ sẽ tái diễn tình trạng tuy có hiệp định hòa bình được ký kết, nhưng rồi đụng độ lại tái diễn, và dân chúng lại phải bỏ chạy. Đã 3 lần xảy ra như vậy.

ĐHY Turkson cho biết ĐTC rất quan tâm tới tình hình Nam Sudan. Khi ĐHY đến chào ngài để chuẩn bị ra đi và xin ngài viết hai lá thư cho hai lãnh tụ đối nghịch nhau tại nước này, ĐTC đã viết thư ngay, và nói: ”Tôi cũng muốn tới Nam Sudan..”. (RG 20-7-2016)

G. Trần Đức Anh OP

Các nữ tu Ấn độ chăm sóc y tế cho các tín hữu Ấn giáo hành hương

Các nữ tu Ấn độ chăm sóc y tế cho các tín hữu Ấn giáo hành hương

tín hữu Ấn giáo dìm mình trong dòng sông Kshipra

Khoảng 7,5 triệu tín hữu Ấn giáo đã đến sông Kshipra dự nghi thức thanh tẩy trong dịp lễ Kumbh Mela năm nay (2016). Lễ hội này được tổ chức 12 năm một lần ở Ujjain, nơi con sông chảy qua; năm nay Kumbh Mela bắt đầu ngày 22 tháng 4 và kết thúc ngày 21 tháng 5. Lễ hội bắt đầu và kết thúc bằng nghi thức thanh tẩy, các nhà khổ tu và tín hữu Ấn giáo dìm mình trong dòng sông Kshipra, nơi được các tín hữu Ấn giáo xem là con sông thánh. Các tín hữu Ấn giáo tin là nghi thức dìm mình trong dòng sông này trong kỳ lễ hội Kumbh Mela sẽ tẩy họ sạch tội lỗi của họ và giúp họ đạt được ơn cứu độ.

Chính trong dịp này, Giáo phận Ujjain đã thành lập một đội y bác sĩ và trạm cứu tế để giúp cho các tín hữu Ấn giáo hành hương này. Trạm y tế được dựng trong khuôn viên  trường học của tu viện Carmelite, với sự cho phép của chính quyền dân sự, như phần mở rộng của bịnh viện do Giáo phận Ujjain điều hành. Có 25 nữ tu của 5 Hội dòng khác nhau cùng với 120 y tá và phụ tá hoạt động trong trạm y tế.

Nữ tu Alphy Thaikadan, dòng Thánh Phanxicô chía sẻ là chị và các nữ tu khác sống kinh nghiệm đối thoại liên tôn ở tận gốc rễ của nó khi chăm sóc cho khoảng 250 bịnh nhân mỗi ngày ở trạm y tế này. Kinh nghiệm cũng giúp cho chị đánh giá cao việc cộng tác liên dòng khi chị hoạt động với các nữ tu có những đặc sủng khác nhau.

Còn nữ tu Purayidom 64 tuổi thì ngạc nhiên khi nhìn thấy các khách hành hương rất coi trọng việc tìm kiếm Thần linh và chị nói: “Mục đích của chúng tôi là đem con người đến gần Thiên Chúa. Tôi nhìn thấy khao khát Thiên Chúa cháy bỏng của họ. Họ đến đây từ xa xôi và sẵn sàng chịu đựng khó khăn chỉ để sồng giây phút ở cùng Thiên Chúa. Dù cho chúng tôi không thể loan báo Tin Mừng, tôi vui là tôi có thể giới thiệu Thiên Chúa với họ qua việc phục vụ của chúng tôi”. Chị chữa trị cho các bịnh nhân với sự chăm sóc, tình thương và yêu mến giống như những gì chị có thể làm cho các tín hữu Ki-tô. Chị cho biết các chị bắt đầu mỗi ngày bằng việc đọc một đoạn Thánh kinh và cầu nguyện trước ảnh Chúa Giê-su trong trạm y tế mà mọi người có thể nhìn thấy. Chị nói: “Chính sự hiện diện của Thiên Chúa tạo nên những khác biệt thật sự”.

Chị Elsy Pandaraparampil, y tá nữ tu dòng Thánh Tâm cho biết là các chị không che dấu căn tính Ki-tô hữu của mình và các chị cầu nguyện cho các bịnh nhân khi họ yêu cầu các chị. Chị chia sẻ: “Gương mặt tươi cười của chúng tôi khi trò chuyện với các bịnh nhân đem lại rất nhiều thay đổi cho họ”. Chị cũng chia sẻ là có vài bịnh nhân là các “thánh nhân” của Ấn giáo. Vài người trong họ từ chối đến các cơ sở trị liệu khác. Có một nhà tu khổ hạnh Ấn giáo còn xin các nữ tu cầu nguyện cho ông.

Một bác sĩ dòng Thánh Tâm, nữ tu Merly James, chia sẻ rằng làm việc với các tín hữu Ấn giáo khiến chị tin rằng có đến 90% dân chúng tin vào Thiên Chúa. Nhiều người tin Chúa Giê-su là Thiên Chúa thật nhưng không muốn thay đổi tôn giáo của họ vì sợ những hậu quả xã hội. Đối với chị lễ hội Kumbh Mela của Ấn giáo là cơ hội tốt để trình bày Chúa Giê-su qua việc phục vụ. Chị cho biết là các chị đón nhận mọi người cần giúp đỡ y tế mà không có phân biệt đối xử. Nữ tu Elsina Chachettu cùng dòng Thánh Tâm, cũng là một bác sĩ và chị cũng bị ấn tượng bởi niềm tin của các tín hữu Ấn giáo hành hương. Chị nói: “Niềm tin của họ quá mạnh mẽ đến nỗi họ không màng sức nóng thiêu đốt, bịnh tật, tuổi già và những bất tiện khác khi chu toàn các đòi buộc tôn giáo”.

Dù trạm y tế không được trang bi đầy đủ dụng cụ nhưng các nữ tu cố gắng chẩn đoàn cho mọi bịnh nhân. Ngay khi trời giông bão, các cơ sở của chính quyền phải đóng cửa thì các chị vẫn mở cửa cho đến khi bịnh nhân cuối cùng được đưa đến bịnh viện. Bịnh viện không có thiết bị hô hấp nên chị Thaikadan đã phải cấp cứu bằng miệng cho một bịnh nhân vì chị không muốn nhìn thấy người này phải chết. Đó là tình yêu Ki-tô mà các nữ tu có thể chia sẻ cho họ.

Đức cha Sebastian Vadakkel của Ujjain nhấn mạnh là mặc dù Giáo phận nằm trong vùng đa số là đạo Ấn giáo nhưng các ngài muốn những thay đổi mạnh mẽ trong xã hội. Đức cha nói: “Chúng tôi tôn trọng phẩm giá và giá trị của con người, vì vậy chúng tôi làm bất cứ điều gì có thể cho các tín hữu hành hương.” Theo Đức cha, trạm y tế là một cách chia sẻ tình yêu Ki-tô của chúng ta với phần lớn của cộng đồng. Các nữ tu có thể làm chứng cho sự hiện diện mạnh mẽ của Ki-tô giáo trong dịp lễ của Ấn giáo. (Global Sister Report 15/6/2016)

Hồng Thủy Op

Giáo Hội Anh tham gia kế hoạch tái định cư 20 ngàn người Syria

Giáo Hội Anh tham gia kế hoạch tái định cư 20 ngàn người Syria

Trại tỵ nạn

Manchester, Anh quốc – Giáo hội Công giáo tại Anh và xứ Wales đã tham gia vào một dự án của chính phủ nhắm định cư cho khoảng 20 ngàn người Syria tị nạn chiến tranh. Một giáo xứ của Giáo phận Salford sẽ là giáo xứ đầu tiên đón tiếp một gia đình từ trại tị nạn ở Trung đông như một phần của kế hoạch bảo trợ, bao gồm đón tiếp và giúp đỡ các gia đình tị nạn tái định cư. Ban tổ chức tin rằng những người tị nạn đến từ các trại đa số là Hôi giáo sẽ không bao gồm các thành viên của tổ chức khủng bố Nhà nước Hồi giáo. Philip McCarthy, giám đốc điều hành của mạng lưới Hành động Bác Ái Xã hội, cơ quan điều phối dự án giữa các giáo xứ của Hội đồng Giám mục Anh và xứ Wales, cho biết là các người tị nạn sẽ được kiểm tra kỹ càng bởi chính quyền Anh và ủy ban tị nạn Liên Hiệp quốc.

Đức Hồng Y Vincent Nichols của Giáo phận Westminster, chủ tịch Hội đồng Giám mục Anh nói: “Năm ngoái, Đức Giáo hoàng Phanxicô mời gọi các giáo xứ, dòng tu và đan viện trên toàn châu Âu hành động trước sự gia tăng của cuộc khủng hoảng người tị nạn bằng cách cung cấp một nơi trú ngụ cho các gia đình tháo chạy khỏi quê hương vì chiến tranh và bách hại. Đức Giáo hoàng kêu gọi lòng quảng đại và tương trợ của chúng ta để nhận ra và hành động vì nhân loại chung. Bây giờ tất cả chúng ta có thể đáp lời mời gọi này với chương trình bảo trợ cộng đồng cho các người tị nạn Syria”. Ngài cũng nói thêm: “Các tín hữu Công giáo được biết đến trong việc tham gia giúp đỡ định cư các người tị nạn ở vương quốc Anh, đáp ứng tình hình với lòng tốt và cảm thông như chúng ta được kêu gọi khi đối mặt với những người cần sự giúp đỡ”.

Các gia đình tị nạn đầu tiên được tái định cư bời Giáo hội sẽ đến Giáo xứ thánh Monica ở Flixton, ngoại ô Manchester vào cuối mùa hè. Dự án sẽ được giám sát bởi cơ quan Bác ái Salford, ủy ban chăm sóc xã hội của Giáo phận, trước khi nó được mở rộng đến các giáo xứ và giáo phận khác. Đức cha John Arnold của Salford phát biểu rằng ngài vui lòng vì Giáo xứ thánh Monica ở Flixton có thể chào đón một gia đình tị nạn Syria. Đức cha nói: “Chúng ta luôn được kêu mời đáp trả thù hận bằng yêu thương, tận hiến cho công lý và đáp ứng những nhu cầu cách quảng đại”. Ngài hy vọng là qua đề án thí điểm này, các giáo xứ và giáo phận khác cũng được khuyến khích và soi sáng để những đau khổ khủng khiếp của nhiều gia đình Syria được xoa dịu.

Chính phủ Anh dự định tái định cư ở Anh tất cả các người tị nạn trong các trại ở vùng Syria vào khoảng năm 2020. Mỗi người tị nạn sẽ được nhận một visa nhân đạo thời hạn 5 năm trước khi đủ điều kiện xin nhập quốc tịch Anh. Các gia đình sẽ được quyền xin trợ cấp thất nghiệp, nhà chính phủ, học hành và chăm sóc sức khỏe miễn phí. Họ cũng được giúp để hòa nhập đời sống và văn hóa Anh bởi những người bảo trợ. (CNS 20/7/2016)

Hồng Thủy Op

ĐTC mời giới trẻ Washington DC đến gặp gỡ Chúa Giêsu

ĐTC mời giới trẻ Washington DC đến gặp gỡ Chúa Giêsu

Sứ điệp Video của Đức Thánh Cha nhân dịp thăm Ba Lan

VATICAN: ĐTC Phanxicô kêu gọi các bạn trẻ Hoa Kỳ đừng sợ hãi đến gặp gỡ Chúa Giêsu,vì Chúa chờ đợi họ để trao ban an bình cho họ.

ĐTC đã đưa ra lời mời gọi trên đây trong sứ điệp Video gửi cho họ. Các bạn trẻ tham dự cuộc gặp gỡ đại kết “Cùng nhau 2016” , do phong trào cầu nguyện và loan báo Tin Mừng “Pulse” tổ chức tại Washington DC ngày 16 tháng 7 vừa qua. Đây là tổ chức do ông Nick Hall thành lập nhằm giúp người trẻ sống đức tin Kitô.

ĐTC nói trong sứ điệp: “Cha biết các con có trong tim sự lo lắng băn khoăn. Một người trẻ không băn khoăn là một ông già. Các con đến Washington để tham dự cuộc gặp gỡ và để gặp gỡ một Người có thể trao ban cho các con một câu trả lời cho sự khắc khoải của các con. Hãy chắc chắn đi,cha bảo đảm với con là con sẽ không cảm thấy mình bị vỡ mộng. Thiên Chúa không làm cho ai thất vọng cả. Chúa Giêsu chờ đợi con, chính Ngài đã gieo vào lòng con các hạt giống của sự băn khoăn ấy. Can đảm lên! Hãy đến gặp Chúa rồi nói cho cha biết. Hãy thử đi, con chẳng mất mát gì đâu” (SD 18-6-2016)

Linh Tiến Khải

Sứ điệp Video của Đức Thánh Cha nhân dịp sắp thăm Ba Lan

Sứ điệp Video của Đức Thánh Cha nhân dịp sắp thăm Ba Lan

Sứ điệp Video của Đức Thánh Cha nhân dịp thăm Ba Lan

VATICAN. ĐTC Phanxicô chào thăm các bạn trẻ Ba Lan và thế giới cũng như nhân dân Ba Lan nhân dịp chuẩn bị viếng thăm nước này.

Trong sứ điệp Video công bố chiều tối ngày 19-7-2016, ĐTC nói:

“Ngày Quốc tế giới trẻ lần thứ 31 đã gần kề, kêu gọi tôi gặp gỡ các bạn trẻ thế giới được triệu tập về Cracovia, và mang lại cho tôi cơ hội tốt đẹp để gặp gỡ quốc gia Ba Lan yêu quí. Tất cả đều diễn ra dưới dấu hiệu Lòng Thương Xót, trong Năm Thánh này, và trong niềm tưởng niệm với lòng biết ơn và kính mến đối với thánh Gioan Phaolô 2, là người đã khởi xướng Ngày Quốc Tế giới trẻ, và đã hướng dẫn nhân dân Ba Lan trong hành trình lịch sử gần đây tiến đến tự do”.

Hỡi các bạn trẻ Ba Lan quí mến, tôi biết rằng từ lâu các bạn chuẩn bị, nhất là trong kinh nguyện, cho cuộc gặp gỡ vĩ đại ở Cracovia. Tôi chân thành cám ơn các bạn vì tất cả những gì các bạn đang làm, và các bạn làm điều đó với tình yêu thương; ngay từ bây giờ tôi chào thăm và chúc lành cho các bạn.

Hỡi các bạn trẻ từ 4 phương trời của Âu Châu, Phi châu, Mỹ châu, Á Châu và Đại dương châu! Tôi cũng chúc lành cho đất nước của các bạn, những ước muốn và những bước tiến của các bạn hướng về Cracovia, để chúng trở thành một cuộc lữ hành đức tin và huynh đệ. Xin Chúa Giêsu ban cho các bạn ơn được cảm nghiệm nơi bản thân lời Chúa dạy: ”Phúc cho ai có lòng thương xót vì họ sẽ được xót thương”.

Tôi rất muốn gặp các bạn để cống hiến cho thế giới một dấu chỉ mới về sự hòa hợp, một bức tranh khảm gồm những gương mặt khác nhau, thuộc bao nhiêu chủng tộc, ngôn ngữ và văn hóa, nhưng tất cả đều liên kết với nhau trong danh Chúa Giêsu, là Khuôn Mặt lòng Thương xót.

Trong sứ điệp, ĐTC cũng ngỏ lời với những người con của quốc gia Ba Lan và khẳng định rằng: ”Tôi cảm thấy như một hồng ân lớn của Chúa được đến giữa anh chị em, vì anh chị em là một dân tộc, trong lịch sử, đã trải qua bao nhiêu thử thách, nhiều khi rất cam go, và đã tiến bước với sức mạnh của đức tin, được bàn tay từ mẫu của Mẹ Maria nâng đỡ. Tôi chắc chắn rằng cuộc hành hương tại Đền Thánh Đức Mẹ Czestochowa đối với tôi sẽ là một cuộc dìm mình trong đức tin được tôi luyện ấy, và sẽ mang lại bao điều tốt lành cho tôi. Tôi cám ơn anh chị em vì đang chuẩn bị cho cuộc viếng thăm của tôi trong kinh nguyện. Tôi cám ơn các GM và LM, tu sĩ nam nữ, các giáo dân, nhất là các gia đình, mà tôi mang đến trong tinh thần Tông Thuấn Niềm Vui Yêu Thương. Sức khỏe luân lý và tinh thần của một quốc gia được biểu lộ qua các gia đình: vì thế thánh Gioan Phaolô 2 đã rất quan tâm đến những người đính hôn, các đôi vợ chồng trẻ và các gia đình. Xin Anh chị em cứ tiếp tục con đường ấy.

Anh chị em thân mến, tôi gửi đến anh chị em sứ điệp này như bảo chứng lòng quí mến của tôi. Chúng ta tiếp tục hiệp ý với nhau trong kinh nguyện và hẹn gặp lại ở Ba Lan (SD 19-7-2016)

G. Trần Đức Anh OP

 

Các vị lãnh đạo Kitô Zimbabwe kêu gọi chính phủ nghe dân kêu

Các vị lãnh đạo Kitô Zimbabwe kêu gọi chính phủ nghe dân kêu

Các vị lãnh đạo Kitô Zimbabwe kêu gọi chính phủ nghe dân kêu

HARARE. Các vị lãnh đạo Kitô tại Zimbabwe, miền nam Phi châu, kêu gọi chính phủ nước này nghe tiếng kêu than của dân chúng đang chịu đau khổ.

Trong tuyên ngôn công bố hôm 14-7-2016, HĐGM Công Giáo Zimbabwe và Hội đồng các Giáo Hội Tin Lành tại nước này, cũng cảnh giác rằng nếu chính quyền không nghe tiếng kêu đau khổ của dân chúng, thì những oán trách đó có thể bùng nổ thành những vụ nổi loạn. Các vị lãnh đạo Kitô cũng lên án những cuộc đàn áp tàn bạo của cảnh sát chống lại những người biểu tình phản đối tình trạng kinh tế đen tối của đất nước, và bày tỏ quan tâm về vụ bắt giam mục sư Evan Mawarire, cũng như những vụ hăm dọa các vị lãnh đạo Kitô lên tiếng thay cho những người dân ”thấp cổ bé miệng”.

Hôm 13-7 trước đó, tòa án ở thủ đô Harare đã tha bổng mục sư Mawarire là người đã tổ chức cuộc đình công toàn quốc rộng lớn nhất kể từ 10 năm nay. Tòa án khẳng định rằng cảnh sát đã vi phạm quyền của mục sư Mawarire.

Các vị lãnh đạo Kitô ở Zimbabwe nói rằng trong số những vấn đề cần cấp thiết quan tâm có sự sụp đổ của các công ty – hoặc thuộc quyền sở hữu hoàn toàn hoặc bán thần của nhà nước, vì nạn tham ô lan tràn và tình trạng vô trách nhiệm của giới lãnh đạo cấp cao. Các vị cũng cảnh giác chống lại sự áp đặt những hạn chế nhập khẩu và việc buôn bán ở biên giới, đe dọa công ăn việc làm của hàng ngàn người dân Zimbabwe. Ngoài ra có tình trạng thấp nghiệp tràn lan, sự áp đặt mua công trái, dân chúng không còn tín nhiệm nơi khả năng của chính quyền trong ciệc trả lương cho các công nhân viên,

Chính phủ của tổng thống Robert Mugabe đang chi hơn 80% lợi nhuận cho việc trả lương cho các công chức, nhưng nay đang ở trong tình trạng thiếu ngân quỹ. Từ 7 năm nay (2009), Zimbabwe bỏ tiền tệ riêng của mình để tránh nạn lạm phát và sử dụng Mỹ kim.   Trong số 16 triệu dân cư ở nước này, phần lớn chỉ sống còn với 1 Mỹ kim mỗi ngày (CNS 20160715)

G. Trần Đức Anh OP

Toà Thánh tố giác tình trạng vi phạm các quyền con người trên thế giới

Toà Thánh tố giác tình trạng vi phạm các quyền con người trên thế giới

Archbishop Bernardito Auza 1

NEW YORK: ĐTGM Bernardito Auza, quan sát viên thường trực của Toà Thánh cạnh các tổ chức Liên Hiệp Quốc bên New York, mạnh mẽ tố cáo tình trạng vi phạm nhân quyền trầm trọng trên thế giới.

Phát biểu trong phiên họp thảo luận về nhân quyền hôm 13 tháng 7 vừa qua ĐTGM Auza đã ca ngợi các nỗ lực và thành qủa Liên HIệp Quốc đã đạt đưọc kể từ khi thành lập cách đây 70 năm, và kể từ khi Bản tuyên ngôn nhân quyền ra đời cách đây 50 năm. Tuyên ngôn này là lời nhắc nhở muôn đời nhân bản tính và tình liên đới của gia đình nhân loại. Nó là gia tài cao quý cần phải tôn trọng, tuân hành và là kim chỉ nam cho cung cách hành xử của các câ nhân, xã hội và quốc gia. Nhưng rất tiếc trong thời đại nhiều biến động ngày nay, người ta đang chứng kiến cảnh các quyền con người bị khước từ, huỷ bỏ và vi phạm trong nhiều cách thế trên thế giới: thường dân bị sát hại trong chiến tranh và các xung đột vũ trang, con người bị bán như nô lệ của lao công, tính dục, lấy cơ phận, các nhóm chủng tộc và tôn giáo thiểu số bị bách hại hay tiêu diệt, con người bị coi như vô dụng hay không được ưóc muốn nên bị gạt bỏ, hàng triệu người phải chạy trốn vì bị bách hại hay vì qúa nghèo túng, biết bao nhiêu người là nạn nhân của kỳ thị. Những người bị bỏ rơi đàng sau hay bị thiệt thòi ấy chứng minh cho thấy sự thất bại trong việc trân trọng phẩm giá của họ.

Phẩm giá con người bắt nguồn từ chính bản chất nhân loại của từng người và là một quyền bẩm sinh ngày từ lúc mới được thụ thai. Nó không phải là một chính phục khi con người đạt được chiều kích thể lý nào đó, hay sự khéo léo tâm thần hay tuổi tác, cũng không phải là một loại ân huê đưọc nhà nuớc ban cho hay lấy đi như chuyện chính trị. Các quyền con người là bất khả xâm phạm, phải được tôn trọng và thăng tiến một cách đại đồng. Việc thực thi các quyền con người có trách nhiệm cũng bao gồm các bổn phận tương xứng. Bổn phận và trách nhiệm phải được áp dụng trên bình diện cuộc sống cá nhân cũng như trong tương quan của quyền bính dân sự, lập pháp, tư pháp với các công dân và cơ cấu xã hội dân sự và các nhóm. Mục đích của Liên Hiệp Quốc là thăng tiến và bảo vệ các quyền con người, đặc biệt của những người yếu đuối và dễ bị tổn thương nhất. Do đó, cần tiếp tục thăng tiến và củng cố nền văn hóa tôn trọng các quyền con nguời và tạo điều kiện cho các thề hệ tương lại tiếp nhận, che chở, quý mên và phát huy nhân quyền (SD 15-7-2016).

Linh Tiến Khải

ĐTC chia buồn với các nạn nhân vụ khủng bố tại Nice và toàn dân Pháp

ĐTC chia buồn với các nạn nhân vụ khủng bố tại Nice và toàn dân Pháp

ĐTC cầu nguyện cho các nạn nhân cuộc khủng bố tại Nice miền nam nước Pháp

VATICAN: ĐTC Phanxicô chia sẻ và liên đới với nỗi khổ đau của các nạn nhân và toàn dân Pháp vì vụ khủng bố xảy ra tại Nice đêm lễ quốc khánh 14 tháng 7 vừa qua.

Linh Mục Federico Lombardi, phát ngôn viên Toà Thánh đã cho biết như trên. Ngài nói: chúng tôi rất lo âu theo dõi các tin tức khủng khiếp đến từ Nice. Thay mặt ĐTC chúng tôi bầy tỏ sự chia sẻ và tình liên đới với nỗi khổ đau của các nạn nhân và toàn dân Pháp trong ngày đáng lý ra đã phải là một lễ hội lớn.

Chúng tôi tuyệt đối lên án mọi biểu lộ điên loạn giết người, thù hận, khủng bố và mọi tấn công chống lại hoà bình.

Lúc 10 giờ ruỡi tối 14 tháng 7 lễ quốc khánh của Pháp, trong khi đông đảo dân chúng tụ tập tại đại lộ Anh dọc bờ biển Nice, miền nam nước Pháp, thì một chiếc xe vận tải lớn và dài chạy nhanh quẹo qua quẹo lại tông vào đám đông trên đoạn đường dài 2 cây số, khiến cho 84 người chết trong đó có 33 trẻ em, và hàng trăm nguời khác bị thương. Tài xế là một người Pháp gốc Tunisia 31 tuổi đã bị cảnh sát bắn chết sau đó. Nhưng trước đó ông đã cầm súng bắn vào đám đông. Trên xe vận tải có nhiều súng ống đạn dược và cả lựu đạn nữa.

Tổng thống Barack Obama và chính quyền của 15 nước thành viên Hội đồng bảo an Liên Hiệp quốc cũng như giới lãnh đạo Âu châu đã chia buồn với các nạn nhân và chính quyền Pháp và mạnh mẽ lên án vụ khủng bố này (SD 15-7-2016).

Linh Tiến Khải

Nice-terrorist-attacks

ĐTC gửi điện tín chia buồn về vụ khủng bố tại Nice

VATICAN: Hôm 15-7 ĐTC Phanxicô đã gửi điện tín chia buồn về vụ khủng bố tại Nice và lên án các hành động bạo lực gieo chết chóc cho dân chúng.

Điện tín gửi ĐC André Marceau, GM Nice, do ĐHY Pietro Parolin Quốc vụ Khanh Toà Thánh ký, viết: “Trong khi nước Pháp cử hành lễ quốc khánh, bạo lực mù quáng đã lại xảy ra tại Nice, gây ra  nhiều nạn nhân trong đó có các trẻ em. Trong khi tái lên án các hành động như thế, ĐTC Phanxicô bầy tỏ sự buồn thương sâu xa của ngài và sự gần gũi với nhân dân Pháp. Ngài tín thác cho lòng thương xót Chúa những người đã mất mạng sống, và chia sẻ sự đau đớn của các gia đình tang chế. ĐTC bầy tỏ cảm tình của ngài đối với những người bị thương cũng như với tất cả những ai góp phần vào việc cứu giúp họ, và xin Chúa nâng đỡ từng người trong thử thách này. Trong khi khẩn nài Chúa ban ơn hoà bình và hoà hơp, ngài khẩn cầu ân huệ các phước lành của Chúa trên các gia đình bị thử thách và mọi công dân Pháp.”

Trong sứ điệp video gửi các nạn nhân và toàn dân Pháp ĐTC nói: “Tôi xin bầy tỏ sự gần gũi của tôi với người thân của các nạn nhân và những người bị thương của tất cả mọi cuộc khủng bố. Chúng ta hãy cùng nhau cầu nguyện cho họ, cho những người đã chết và xin Chúa hoán cải con tim của các kẻ bạo lực mù quáng vì thù hận.”

Chiều tối ngày 14 tháng 7 lễ quốc khánh của Pháp đã có 40,000 người dân và khách du lịch ra con đường đi dạo của người Anh để xem bắn pháo bông. Lúc 20 giờ 30 đã có một chiếc xe vận tải dài phá các rào cản, chạy với tốc độ 80 cây số giờ và tông vào dân chúng khiến cho 84 người chết trong đó có nhiều trẻ em, 200 người bị thương trong đó có 50 người bị thương nặng. Tài xế là một cư dân Nice, 31 tuổi gốc Tunisia tên là Mohamed Lahouaiej Bouhlel, có tên trong sổ đen của cảnh sát. Vừa lái xe tông vào dân chúng  Mohamed  vừa cầm súng bắn vào họ. Ông đã bị cảnh sát bắn chết sau đó. Trên xe vận tải cảnh sát tìm thấy nhiều vũ khí và đạn dược có cả lựu đạn.

 ** Trong thông cáo công bố sau đó ĐC Georges Pontier, TGM Marseille, chủ tịch HĐGM Pháp, bầy tỏ hiệp thông với nỗi đớn đau của các người thân và gia đình của các nạn nhân. Ngài xin mọi tín hữu công giáo đặc biệt cầu nguyện cho các nạn nhân và thân nhân của họ trong thánh lễ Chúa Nhật 17 tháng 7 này.  Thông cáo viết: Thảm cảnh này thêm vào danh sách buồn thương của các hành động khủng bố gieo tang tóc cho đất nước chúng ta và cho nhiều quốc gia khác trên thế giới từ nhiều tháng qua. Dù lý do của nó là gì đi nữa, sự man rợ này là điều không thể chấp nhận và khoan nhượng được. Quê hương của chúng ta bị bầm dập, khi đang sống một thời điểm của sự hiệp nhất quốc gia. Hơn bao giờ hết, tình liên đới quốc gia phải mạnh hơn nạn khủng bố. Trong nỗi đớn đau của ngày này, chúng ta phải duy trì xác tín rằng sự hiệp nhất cao hơn chia rẽ.

Trong sứ điệp gửi tín hữu giáp phận ĐC André Marceau GM sở tại khẳng định rằng không có gì có thể biện minh cho cái điên loạn giết người, và hành động dã man. Ngài khích lệ tín hữu và mọi người đừng để cho các thời điểm thê thảm này khơi dậy sự khép kín, đoạn giao và kỳ thị. ĐC ước mong sự gần gũi và tình liên đới giữa các cư dân ở Nice gia tăng trong các gia đình, khu phố, nơi làm việc, trong các cộng đoàn Kitô và trong mọi môi trường sống thường ngày. Năm Thánh Lòng Thương Xót Chúa là một lời mời gọi thay đổi con tim. Chúng ta hãy hướng về Đấng là Tình Yêu. Từ trái tim bị đâm thâu của Chúa trên thập giá máu và nước đã trào ra, các làn sóng tình yêu đã chảy ra cho trái đất. Kitô hữu, tín hữu công giáo hãy đem sứ điệp tình yêu đó tới những người chúng quanh. Chúng ta và xã hội cần tình yêu ấy. Uớc chi các thời điểm thê thảm này không khiến cho chúng ta khép kín, và không biến chúng ta trở thành điều mà người này đã muốn làm. Cái chết không có tiếng nói cuối cùng.

Các sứ điệp chia sẻ và liên đới cũng đến từ nhiều tổ chức, Giáo Hội và các giới lãnh đạo, đạo đời khắp nơi trên thế giới (SD 15-7-2016)

Linh Tiến Khải

ĐTC bất thình lình tới thăm Ủy ban Toà Thánh đặc trách về châu Mỹ Latinh

ĐTC bất thình lình tới thăm Ủy ban Toà Thánh đặc trách về châu Mỹ Latinh

ĐTC thình lình tới thăm Ủy ban Toà Thánh đặc trách về châu Mỹ Latinh 13-7-2016

VATICAN: Sáng ngày 13 tháng 7 ĐTC Phanxicô đã bất thình lình đến thăm Ủy ban Toà Thánh đặc trách về châu Mỹ Latinh, trước sự ngạc nhiên vui sướng của các nhân viên.

Ngài đến gõ cửa văn phòng của Ủy ban trong khi các nhân viên đang họp để bàn về việc cử hành Năm Thánh Lòng  Thương Xót tại Bogotà thủ đô Colombia. Trước sự ngạc nhiên của các nhân viên ĐTC nói: “Tôi muốn nhảy sang thăm anh chị em một lát”. Với thái độ đơn sơ và thân tình ĐTC xin được họp chung với mọi người. Sau đó một nhân viên đã báo cho ông Guzman Cariquiry thư ký Ủy ban biết, và ông đã vội vàng đón tiếp ĐTC. Ngài hỏi ông: “Anh có giờ nói chuyện một chút không?” Và ĐTC đã chuyện vãn với ông nửa giờ đồng hồ, chào và hỏi chuyện từng nhân viên hiện diện và chụp hình lưu niệm. Ngài nhắc lại các chuyến viếng thăm Ủy ban khi còn là TGM Buenos Aires.

Trong khi ĐTC nói chuyện với vị phó chủ tịch Ủy ban, một trong các nhân viên an ninh Vaticăng đã trả lời các câu hỏi tò mò của các nhân viên Ủy ban. Ông cho biết sau khi khám răng tại văn phòng sức khoẻ trong Vatican ĐTC tỏ ý muốn ghé thăm Ủy ban đặc trách về Châu Mỹ Latinh. Mặc dù nhân viên an ninh cho ngài biết các thủ tục an ninh phức tạp ĐTC nói: “Anh đừng có lo, chúng ta ở trong tay Chúa mà”. Và thế là xe chở ngài tới thăm Ủy ban (SD 13-7-2016).

Linh Tiến Khải