Trong một thế giới đau khổ vì đơn côi, chúng ta có Mẹ Maria đồng hành che chở

Trong một thế giới đau khổ vì đơn côi, chúng ta có Mẹ Maria đồng hành che chở

Lễ Đức Mẹ Sầu Bi

Trong một thế giới đang đau khổ vì đơn côi, chúng ta có Mẹ Maria đồng hành và che chở. Đức Thánh Cha nói như thế trong thánh lễ sáng nay tại Nhà nguyện thánh Marta nhân ngày lễ Đức Mẹ Sầu Bi.

Bài Tin Mừng hôm nay đưa chúng ta lên đồi Calvario. Tất cả các môn đệ đều bỏ chạy, chỉ còn Gioan và mấy người phụ nữ. Dưới chân Thập giá, có Mẹ Maria là Mẹ của Chúa Giêsu. Mọi người có thể nhìn vào Mẹ mà nói: “Đó là mẹ của tên tử tội!”.

Mẹ Maria cảm nhận được những điều ấy. Mẹ đau khổ nhiều, Mẹ phải chịu sự sỉ nhục khủng khiếp. Một số thượng tế đứng đó cũng chế giễu: “Có giỏi thì xuống khỏi thập giá mà cứu mình đi! Xuống đi!” Người Con của Mẹ đang trần trụi trên thập giá. Mẹ Maria đau khổ vô cùng, nhưng Mẹ không bỏ đi. Mẹ vẫn đứng đó. Mẹ không chối bỏ đó là Con của Mẹ. Đó là người Con mà Mẹ đứt ruột sinh ra.   

Đức Thánh Cha nhớ lại, khi Ngài đến Buenos Aires thăm những người bị giam trong tù, Ngài luôn nhìn thấy những người phụ nữ xếp hàng chờ để được vào nhà tù mà thăm viếng. “Họ là những người mẹ. Họ không xấu hổ vì những người con ruột thịt của họ ở đó. Những người mẹ này đau khổ không chỉ vì tình trạng ở tù của con họ. Mà họ còn chịu những sỉ nhục tệ hại khi họ tìm cách vào tù thăm con. Thế nhưng, vì họ là những người mẹ, nên họ đi tìm người con ruột thịt của họ, những người mẹ đi tìm chính thân mình.” Mẹ Maria đã đứng đó, đã ở đó với Con của Mẹ trong đau khổ tột cùng.

Chính Chúa Giêsu đã hứa là không để chúng ta mồ côi. Trên Thánh Giá, Người đã ban cho chúng ta một người Mẹ. Từ đây Mẹ Maria là Mẹ của chúng ta. Các Kitô hữu chúng ta có chung một người Mẹ, đó là Mẹ của Chúa Giêsu, chúng ta có chung một người Cha, là Cha trên Trời, Cha của Chúa Giêsu. Chúng ta không mồ côi. Mẹ là Mẹ chúng ta. Mẹ chăm sóc con cái Mẹ. Mẹ không xấu hổ vì chúng ta vì Mẹ che chở chúng ta.

Các nhà thần bí trong những thế kỷ đầu đã tìm đến nương ẩn nơi Mẹ, khi họ gặp thử thách thiêng liêng: khi chúng ta ở bên Mẹ, ma quỷ không thể tấn công chúng ta, vì Mẹ là Mẹ và Mẹ bảo bọc chúng ta. Sau đó, điều tốt lành này được đón nhận và làm thành bài ca “Dưới áo Mẹ từ bi”.

Trong một thế giới đang khủng hoảng và trong đơn côi, chúng ta nhìn lên Mẹ. Chúng ta có một người Mẹ. Mẹ bảo vệ, đồng hành, dẫn dắt chúng ta. Mẹ không xấu hổ vì những lầm lỗi của chúng ta, vì Mẹ là Mẹ chúng ta. Nguyện xin Chúa Thánh Thần là Bạn Đồng Hành, là Đấng Bảo Trợ, Đấng An Ủi mà Chúa Giêsu đã ban cho chúng ta, giúp chúng ta hiểu được mầu nhiệm tuyệt vời về Mẹ của chúng ta, Mẹ Maria.

Tứ Quyết SJ

Hãy sống lòng thương xót để trở thành dụng cụ lòng xót thương

Hãy sống lòng thương xót để trở thành dụng cụ lòng xót thương

ĐTC Phanxicô chào tín hữu và du khách hành hương trong buổi tiếp kiến chung sáng thứ tư 14-9-2016

Trong những lúc mệt mỏi và chán chường, chúng ta hãy nhớ lời Chúa mời gọi chúng ta đến với Ngài để đuợc nghỉ ngơi và vơi nhẹ. Đôi khi sự mệt mỏi của chúng ta phát xuất từ việc tin tưởng nơi các sự vật không phải là điều nòng cốt, và vì chúng ta đã xa rời điều thực sự có giá trị trong cuộc sống.

ĐTC Phanxicô đã nói như trên với mấy chục ngàn tín hữu hành hương tham dự buổi tiếp kiến chung sáng thứ tư hôm qua.

Trong bài huấn dụ ĐTC đã giải thích ý nghĩa đọan Phúc Âm trong đó Chúa Giêsu nói với các môn đệ: “Hãy đến với Ta, tất cả các con là những kẻ mệt nhọc và bị áp bức, Ta sẽ bổ sức cho… Hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng và các con sẽ tìm được an nghỉ cho cuộc sống” (Mt 11,28-30). ĐTC nói: lời mời gọi của Chúa gây ngạc nhiên: Ngài mời những kẻ đơn sơ và bị cuộc sống khó khăn đè nặng, Ngài mời gọi những người có biết bao nhu cầu và hứa với họ rằng nơi Ngài họ sẽ tìm được nghỉ ngơi và vơi nhẹ. Lời mời gọi được hướng tới ở thể sai khiến: “Hãy đến với Ta”, “hãy mang lấy ách của Ta” và “hãy học nơi Ta”. Giá mà tất cả mọi vị lãnh đạo trên thế giới có thể nói điều này!

Lời sai khiến thứ nhất “Hãy đến với Ta”. Khi ngỏ lời với những kẻ mệt mỏi và bị áp bức, Chúa Giêsu tự giới thiệu như Người Tôi Tớ của Chúa được miêu tả trong sách ngôn sứ Isaia: “Chúa đã ban cho tôi miệng lưỡi của người môn đệ, để tôi biết ngỏ lời với kẻ mất tin tưởng” (Is 50,4). Bên cạnh những người mất tin tưởng này Tin Mừng cũng thường đặt những kẻ nghèo khó (Mt 11,5) và bé mọn (x. Mt 18,6). ĐTC giải thích như sau:

Đây là những người không thể dựa trên các phương tiện riêng của mình, cũng như trên các tình bạn quan trọng. Họ chỉ có thể tin cậy nơi Thiên Chúa. Ý thức được điều kiện khiêm tốn và bần cùng của mình họ biết họ tuỳ thuộc nơi lòng thương xót của Chúa, bằng cách chờ đợi từ Ngài sự trợ giúp duy nhất có thể có. Trong lời mời của Chúa Giêsu,sau cùng chúng ta tìm thấy câu trả lời cho sự chờ mong của họ: khi trở thành môn đệ của Ngài họ nhận được lời hứa tìm thấy sự nghỉ ngơi cho suốt cuộc đời. Một lời hứa vào cuối Tin Mừng được trải dài ra cho tất cả mọi người: “Các con hãy ra đi – Chúa Giêsu nói với các môn đệ – và làm cho tất cả mọi dân tộc trở thành môn đệ Thầy” (Mt 28,19). Khi tiếp nhận lời mời cử hành Năm Thánh ân sủng này, trên toàn thế giới tín hữu hành hương bước qua Cửa Thánh Lòng Thương Xót, đuợc mở trong các nhà thờ chính toà và các đền thánh và trong biết bao nhiêu nhà thờ trên thế giới; trong các nhà thương, trong các nhà tù… Tại sao lại bước qua Cửa của Lòng Thương Xót này? Để tìm Chúa Giêsu, để tìm tình bạn của Chúa Giêsu, để tìm sự bổ sức mà chỉ có Chúa Giêsu trao ban. Con đường này diễn tả sự hoán cải của từng môn đệ bước theo Chúa Giêsu. Và sự hoán cải luôn luôn hệ tại việc khám phá ra lòng thương xót của Chúa. Và lòng thương xót này vô tận và không thể nào cạn: lòng thương xót của  Chúa thật lớn lao. Như vậy khi bước qua Cửa Thánh, chúng ta tuyên xưng rằng “tình yêu hiện diện trong thế giới và tình yêu đó mạnh hơn mọi thứ sự dữ, trong đó con người, nhân loại, thế giới bị liên lụy” (Gioan Phaolô II, Thiên Chúa giầu lòng thương xót, 7)

Tiếp tục bài huấn dụ ĐTC nói: lệnh truyền thứ hai là “Hãy mang lấy ách của Ta”. Trong bối cảnh của Giao Ước , truyền thống kinh thánh dùng hình ảnh các ách để ám chỉ mối dây chặt chẽ nối liền dân với Thiên Chúa và vì thế sự tùng phục ý muốn của Ngài được diễn tả ra trong Luật Lệ. Tranh luận với các ký lục và các tiến sĩ luật Chúa Giêsu đặt ách của Ngài trên các môn đệ, trong đó Lề Luật tìm được sự thành toàn của nó. Ngài muốn dậy họ rằng họ sẽ khám phá ra ý của Thiên  Chúa qua con người của Ngài: qua Chúa Giêsu, chứ không qua các luật lệ và các quy tắc lạnh lùng mà chính Chúa Giêsu kết án. Chúng ta có thể đọc chương 23 Phúc Âm thánh Mátthêu. Ngài ở trong trung tâm tương quan của họ với Thiên Chúa, ở trong trung tâm của các tương quan giữa các môn đệ và ở trọng tâm cuộc sống của mỗi người. Khi nhận lấy “ách của Chúa Giêsu” như thế mỗi môn đệ bước vào trong sự hiệp thông với Ngài và chia sẻ mầu nhiệm thập giá và số phận cứu rỗi của Ngài.

Kết qủa là lệnh truyền thứ ba: “Hãy học nơi Ta”. Chúa Giêsu vạch ra cho các môn đệ Ngài một con đường hiểu biết và noi gương. Ngài không phải là một vị thầy một cách nghiêm ngặt áp đặt trên người khác các gánh nặng mà Ngài không mang: đây đã là lời tố cáo mà Ngài đưa ra cho các tiến sĩ luật. Ngài hướng tới các người khiêm tốn và bé nhỏ, các người nghèo, các người túng thiếu, bởi vì chính Ngài cũng tự trở thành bé nhỏ và khiêm tốn. Ngài  hiểu biết người nghèo và người đau khổ, bởi vì chính Ngài cũng nghèo nàn và bị  thức thách bởi khổ đau. ĐTC giải thích thêm:

Để cứu rỗi nhân loại Chúa Giêsu đã không đi theo một con đường dễ dàng, trái lại, con đường của Ngài đã là con đường khổ đau và khó khăn. Như viết trong thư gửi tín hữu Philiphê: “Người đã hạ mình bằng cách vâng lời cho đến chết và chết trên thập tự” (Pl 2,8). Ách mà các người nghèo và các người bị áp bức mang cũng chính là ách mà Ngài đã mang trước họ: vì thế nó là một ách nhẹ nhàng. Ngài đã mang trên vai các khổ đau và tội lỗi của toàn nhân loại. Như vậy đối với người môn đệ nhận lấy ách của Chúa Giêsu có nghĩa là  nhận lấy sự mạc khải của Ngài và tiếp đón nó: nơi Ngài lòng thương xót của Thiên Chúa đã lo lắng cho các nghèo khó của con người, và như thế trao ban cho tất cả mọi người khả thể của ơn cứu độ. Nhưng tại sao Chúa Giêsu lại có khả năng nói các điều này? Bởi vì Ngài đã biến thành tất cả cho mọi người, gần gũi mọi nguời, gần gũi những kẻ nghèo túng! Ngài đã là một mục tử sống giữa dân chúng, sống giữa người nghèo… Ngài đã làm việc suốt ngày với họ. Chúa Giêsu đã không phải là một hoàng tử. Thật là xấu cho Giáo Hội, khi các mục tử trở thành các ông hoàng, sống xa cách dân chúng, xa cách người nghèo: đó không phải là tinh thần của Chúa Giêsu. Ngài quở trách các mục tử này và Chúa Giêsu nói với dân chúng về các mục tử này như sau: “Hãy làm điều họ nói, nhưng đừng làm như họ”

Anh chị em thân mến đối với cả chúng ta nữa cũng có những lúc mệt mỏi và chán nản. Khi đó chúng ta hãy nhớ tới các lời này của  Chúa, trao ban cho chúng ta biết bao an ủi và làm cho chúng ta hiểu rằng chúng ta đang dùng sức lực của mình để phục vụ sự thiện. Thật thế, đôi khi sự mệt nhọc của chúng ta là do đã tin tưởng nơi các điều không phải là nòng cốt, bởi vỉ chúng ta đã xa rời điều thực sự có giá trị trong cuộc sống. Chúa dậy chúng ta đừng sợ hãi theo Ngài, bởi vì niềm hy vọng mà chúng ta đặt nơi Ngài sẽ không bị thất vọng. Như thế chúng ta được mời gọi học nơi Ngài sống lòng thương xót có nghĩa là gì để là dụng cụ của lòng thương xót. Sống lòng thương xót để là dụng cụ của lòng xót thương: sống lòng thương xót có nghĩa là cảm thấy mình cần lòng thương xót của Chúa Giêsu, và khi chúng ta cảm tháay mình cần ơn tha thứ, cần sự ủi an, cần lòng thương xót của Chúa Giêsu, chúng ta học thương xót các người khác.

Giữ cái nhìn trên Con Thiên Chúa làm cho chúng ta hiểu chúng ta còn biết bao đường phải đi; nhưng đồng thời  cũng đổ tràn đầy trên chúng ta niềm vui biết rằng chúng ta đang cùng đi với Ngài và chúng ta không bao giờ cô đơn. Như thế hãy can đảm lên nhé! Can đảm! Chúng ta đừng để lấy mất đi niềm vui là môn đệ của Chúa. “Nhưng mà thưa cha con là kẻ tội lỗi, làm sao con có thể làm được?” Hãy để cho Chúa nhìn bạn, hãy mở con tim bạn ra, hãy cảm nhận trên bạn cái nhìn của Ngài, lòng thương xót của Ngài, và con tim của bạn sẽ được tràn đầy niềm vui, niềm vui của sự tha thứ, nếu bạn đến gần xin ơn tha thứ. Chúng ta đừng để cho mình bị đánh cắp đi niềm hy vọng sống cuộc sống với Ngài và với sức mạnh của sự an ủi của Ngài.

ĐTC đã chào nhiều nhóm hiện diện. Trong số các nhóm nói tiếng Pháo ngài chào tín hữu tổng giáo phận Rouen do ĐGM sở tại hướng dẫn, các chủng sinh giáo phận Lille, cũng như Liên hiệp các cựu học sinh các trường của dòng Tên, các tín hữu Bỉ và Thụy Sĩ.

Ngài cũng chào tín hữu đến từ các nước Anh, Êcốt, Ailen, Bỉ, Australia, Indonesia, Malaysia, Canada, Hoa Kỳ, Đức, Áo, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Ba Lan, Croazia, Slovacchia và các nước châu Mỹ Latinh. Ngài nhắc cho mọi người biết hôm qua là lễ Tôn vinh Thánh Giá, trên đó Con Thiên Chúa đã chết để cứu chuộc nhân loại. Nó là câu trả lời của Thiên Chúa cho sự dữ và tội lỗi của con người. Một câu trả lời của tình yêu, lòng thương xót và ơn tha thứ.

Trong số các nhóm nói tiếng Ý ĐTC chào tín hữu các giáo phận Lugano, Acerta Cento, các nữ tu Clarét thuộc nhiều quốc gia khác nhau về hành hương Năm Thánh, nhóm Biomedia Milano. Ngài cầu mong mọi người có những ngày hành hương hữu ích và tràn đầy ơn thánh.

Chào các bạn trẻ, người đau yếu và các đôi tân hôn ĐTC chúc các bạn trẻ hăng hái bước vào năm học mới sau kỳ nghỉ hè trong thái độ đối thoại với Chúa; người đau yếu tìm thấy nơi thập gía Chúa niềm an ủi, ánh sáng và bình an; các đôi vợ chồng mới cưới luôn sống trong tương quan với Chúa Kitô chịu đóng đinh để tình yêu của họ luôn được chân thực, phong phú và bền lâu.

Buổi tiếp kiến đã kết thúc với Kinh Lạy Cha và phép lành toà thánh ĐTC ban cho mọi người.

Linh Tiến Khải

 

Suy tôn Thánh Giá

Suy tôn Thánh Giá

Lễ Suy tôn Thánh Giá

Đây là bài giảng của Đức Thánh Cha tại Nhà nguyện Thánh Marta trong thánh lễ cầu nguyện cho cha Jacques Hamel.

Hôm nay Hội Thánh cử hành lễ suy tôn Thánh giá Chúa Giêsu Kitô. Trong Thập giá Chúa Giêsu Kitô, chúng ta thấu hiểu mầu nhiệm Đức Kitô. Mầu nhiệm về sự tự hủy của Chúa rất gần gũi với chúng ta.

Thánh Phaolô nói: “Người vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” (Pl 2:6-8). Đây chính là mầu nhiệm về Chúa Kitô. Đây chính là mầu nhiệm về Đấng tử đạo tiên khởi để cứu độ loài người.

Chúa Giêsu Kitô là vị tử đạo tiên khởi, là người đầu tiên trao ban mạng sống vì chúng ta. Và từ mầu nhiệm này, Chúa Kitô mở ra toàn bộ lịch sử tử đạo của Kitô giáo từ những thế kỷ đầu cho tới ngày hôm nay. Thời Hội Thánh sơ khai, các Kitô hữu đã làm chứng cho Chúa bằng chính mạng sống của họ. Các tín hữu tiên khởi bị bắt buộc bỏ đạo, nhưng các ngài đã từ chối. Khi từ chối như thế, các ngài bị bắt bớ, bị giết. Câu chuyện ấy tiếp tục được lặp đi lặp lại cho tới ngày nay, và thời nay Hội Thánh có nhiều vị tử đạo hơn những thời trước. Ngày nay có nhiều Kitô hữu bị cầm tù, bị giết hại, vì họ không chối bỏ Chúa Giêsu Kitô. Câu chuyện này chúng ta tiếp tục gặp thấy nơi cha Jacques. Cha là một trong những vị tử đạo. Các vị tử đạo cho thấy rõ sự tàn ác của cuộc bách hại.

Cha Jacques Hamel đã cử hành hy lễ Thập giá Chúa Kitô. Cha là một người tốt, hiền lành, đầy tình huynh đệ, luôn nỗ lực xây dựng hòa bình, thế mà cha bị giết hại như một kẻ tội phạm. Đây là kiểu bách hại của ma quỷ. Có điều gì đó nơi cha làm cho chúng ta thấy rằng cha là vị tử đạo cùng với Đấng tử đạo là Chúa Kitô. Có một điều làm cho tôi nghĩ như thế, vì giữa thời gian khó khăn thử thách, cha vẫn sống rất hiền hậu tốt lành, cha vẫn sống như người anh em. Cha cũng không quên xác minh đích danh kẻ giết người, đó chính là ma quỷ. Cha nói cách rõ ràng: “Xéo đi, Satan!”. Cha đã trao tặng mạng sống tựa như lễ hy sinh của Chúa Kitô trên Thập giá. Và từ đây, danh tính của tên sát nhân bị tố giác: “Xéo đi, Satan!”

Cha là mẫu gương về lòng can đảm cũng như mẫu gương về chính cuộc sống. Cha đã tự khiêm tự hạ để giúp đỡ người khác, để kết thân huynh đệ với tha nhân, để giúp chúng ta bước về phía trước mà không còn sợ hãi. Cha về Thiên Đàng, và chúng ta cầu nguyện với cha, cầu nguyện với vị tử đạo được chúc phúc, để chúng ta có thể hiền lành, đầy tình huynh đệ, bình an, và ngay cả can đảm nói lên sự thật rằng: kẻ nhân danh Chúa để giết người chính là Satan.

Tứ Quyết SJ

Kỷ niệm một trăm bẩy mười năm Đức Mẹ hiện ra tại La Salette bên Pháp

Kỷ niệm một trăm bẩy mười năm Đức Mẹ hiện ra tại La Salette bên Pháp

LaSalette prayer

Phỏng vấn Linh Mục Silvano Marisa

Ngày 19 tháng 9 tới này là kỷ niệm 170 năm Đức Mẹ hiện ra với hai trẻ mục đồng trên một trái núi gần làng La Salette-Fallavaux bên Pháp. Đó là hai em Melanie Calvat 15 tuổi và Maximin Giraud 11 tuổi.

Ngày 19 tháng 9 năm 1846  vào khoảng 3 giờ trưa Đức Mẹ đã hiện ra với hai em trên một ngọn núi gần làng La Salette-Fallavaux. Hai em đang chăn bò trên núi. Theo trình thuật cuộc hiện ra gồm ba giai đoạn: trước hết là một phụ nữ rất xinh đẹp hiện ra trong một ánh sáng rực rỡ. Bà mặc áo chàng có mũ rất lạ và ngồi trên một tảng đá, tay ôm mặt khóc. Tiếp đến bà đứng dậy và nói chuyện với hai em bằng tiếng Pháp cùng như thổ ngữ vùng này, và giao phó cho hai em một sứ điệp để hướng tới toàn nhân loại cần phổ biến khắp nơi. Sau khi than phiền về các sự gian ác  và tội lỗi của loài người, bao gồm việc xa rời Thiên Chúa vĩnh viễn và sa hoả ngục, nếu cứ tiếp tục con đường sự dữ, bà báo cho biết ai hoán cải sẽ được ơn tha thứ. Tiếp đến bà báo cho từng em một bí mật, trước khi biến về trời trên núi Mont-sous-les-Baisses.

Hai trẻ mục đồng sau đó kể lại cho các ông chủ là Baptiste Pra và Pierre Selme nghe chuyện đã xảy ra. Tiếp đến cậu Maximin Giraud bị ông thị trưởng Pierre Peytard hỏi cung ngày 21 tháng 9 năm 1846. Hai trẻ mục đồng cũng kể cho cha xứ Louis Perrin nghe. Cha xứ kể lại cho giáo dân nghe trong bài giảng thánh lễ và ngày mùng 4 tháng 10 cũng báo cho linh mục trưởng là  cha Pierre Mélin biết. Chuyện Đức Mẹ hiện ra lan chuyền nhanh trong xứ. Hai trẻ mục đồng đã bị nhiều linh mục hỏi cung sau đó. Ông Jean Maximin Giraud, cha của Maximin là người không sống đạo, đã hoán cải ngày mùng 8 tháng 11. Cuộc hành hương đầu tiên đã được tổ chức ngày 24 tháng 11 do chính hai trẻ mục đồng hướng dẫn. Ngày 16 tháng 4 năm 1847 hai em lại bị thẩm phán tỉnh Grenoble là ông Fréderic Joseph Long hỏi cung. Chính trong ngày này đã xảy ra phép lạ khỏi bệnh liên quan tới nữ tu Claire Peirron sống tại Avignon. Ngày 29 tháng 5 hai em lại bị cha Pierre Lambert hỏi cung.

Ngày 31 tháng 5 năm 1847 đã có 5.000 tín hữu tham dự cuộc hành hương, và một cây thánh giá đã được dựng lên trên núi. Ngày 22 tháng 7 ĐC Clément Villecourt, Giám Mục La Rochelle, đi hành hương La Salette, và hỏi cung Maximin và Mélanie. Ngày 15 tháng 8 lại xảy ra một vụ lành bệnh khác liên quan tới Mélanie Gamon sống tại Corps, nhưng phép lạ được giữ kín. Ngày 19 tháng 9 kỷ niệm 1 năm Đức Mẹ hiện ra đã có 50.000 tín hữu tham dự cuộc hành hương đến La Salette.

Ngày mùng 7 tháng 7 năm 1847 Đức Giám Mục giáo phận Grenoble xin hai kinh sĩ giáo sư đại chủng viện Grenoble điều tra kỹ lưỡng và viết bản tường trình. Vào tháng 11 năm 1847 Đức Giám Mục giao bản tường trình cho một uỷ ban điều tra gồm 16 chuyên viên, dưới sự hướng dẫn của ngài, tất cả các vị đều là linh mục giáo phận: gồm các cha chính kinh sĩ, các cha sở linh mục trưởng, cha sở kiêm giám đốc đại chủng viện. Uỷ ban đã kết thúc việc điều tra, và chấp thuận bản tường trình, được công bố và gửi cho cho ĐGH Pio IX vào tháng 8 năm 1848. Các kết quả cuộc điều tra được Toà Thánh chấp nhận.

Trong cùng ngày 19 tháng 7 năm 1851 kỷ niệm 5 năm Đức Mẹ hiện ra tại La Salette Đức giám mục giáo phận Grenoble chính thức chấp nhận việc Đức Mẹ hiện ra với một bức thư mục tử tựa đề « Đức Bà La Salette của chúng ta » và nêu lên vài điểm chính sau đây : « Việc hiện ra có tất cả các đặc tính của sự thật … và tín hữu được biện minh tin vượt mọi nghi ngờ và với sự chắc chắn…(s. 1)… Vì thế, để thừa nhận lòng biết ơn sâu xa của chúng tôi đối với Thiên Chúa và để vinh danh Đức Trinh Nữ Maria chúng tôi cho phép tôn kính Đức Bà La Salette. Chúng tôi đồng ý cho hàng giáo sĩ giảng giải biến cố vĩ đại này, và rút tiả ra từ đó các kết quả thực hành và luân lý (s. 3). Chúng tôi cấm tín hữu và giáo sĩ của giáo phận nói hay viết chống lại điều mà chúng tôi công bố hôm nay, và vì thế nó đáng được mọi người tôn trọng (s. 5)»

Sau đây là một đoạn sứ điệp mà Đức Mẹ đã nói với hai trẻ mục đồng: “Nếu dân chúng không tuân phục, thì Ta sẽ bị bó buộc để cho tay của Con Ta tự do; nó mạnh mẽ và nặng nề đến độ Ta không nâng đỡ nổi nữa… từ biết bao lâu Ta đau khổ vì các con! Bởi vì Ta đã nhận được sứ mệnh liên lỉ cầu xin Con Ta, Ta muốn rằng Ngài không bỏ rơi các con, nhưng các con chẳng thèm để ý gì. Các con có cầu nguyện và làm gì đi nữa, thì cũng không bao giờ có thể đền bù lại nỗi khổ Ta đã chịu vì các con… Ta đã cho các con 6 ngày để làm việc, Ta giữ lại ngày thứ bẩy cho Ta nhưng các con không muốn thừa nhận điều đó”: và điều này khiến cho cánh Tay của Con Ta nặng nề… nếu mùa màng bị hư hại, thì đó là lỗi tại các con. Ta đã cho các con biết năm ngoái với khoai tây, nhưng các con đã không thèm chú ý. Trái lại, khi các con thấy khoai bị hư, các con lại ngụyền rủa danh Con của Ta. Năm nay chúng cũng sẽ tiếp tục hư thối, và vào lễ Giáng Sinh  sẽ không còn khoai nữa.

Sẽ xảy ra một trận đói kém lớn. Truớc đó, các trẻ em dưói 7 tuổi sẽ bị run rẩy và sẽ chết… Nếu dân này hoán cải, thì khi đó đá sỏi sẽ biến thành các đống luá, và khoai tây sẽ tự nảy sinh trong cánh đồng. Các con ơi, các con có đọc kinh không? Cần phải cầu nguyện tốt sáng tối… trong mùa hè chỉ có vài bà cụ già đi tham dự Thánh lễ. Những người khác làm việc ngày Chúa Nhật, trong suốt mùa hè. Trong mùa đông khi họ không biết làm gì, thì họ đi lễ chỉ để chế nhạo tôn giáo… “

Linh mục Livio Fanzaga và linh mục Saverio Gaeta nhận định rằng các lời tiên tri này của Đức Mẹ đã xảy ra cụ thể. Dặc biệt vào thời đó bệnh dịch từ bắc Mỹ lan sang Pháp, và đã là một tai ương đối với các vườn nho và số trẻ em tử vong rất cao, cả trong vùng chung quanh La Salette. Như thế loài người đã có thể nhận ra cung cách con người đối xử với Thiên Chúa và các chuyện thiên linh gắn liền với các phát triển của các sự vật trên trái đất tới mức nào.

Đức Mẹ cũng đã vén mở cho mỗi mục đồng một bí mật khác nhau. Văn bản sứ điệp Mélanie gủi cho ĐGH Pio IX ngày mùng 6 tháng 7 năm 1851 và văn bản sứ điệp Maximin Gỉaud gửi cho ĐGH Pio IX ngày mùng 3 tháng 7 năm 1851 bao gồm các điểm chính sau đây:

Thời điểm cơn giận của Thiên Chúa đã tới rồi. Nếu Kitô hữu Pháp không hoán cải, người ta không sám hối và không ngừng làm việc ngày Chúa Nhật, và tiếp tục nguyền rủa danh thánh Chúa; tắt một lời nếu bộ mặt trái đất không thay dổi, Thiên Chúa sẽ báo thù chống lại dân vô ơn và nô lệ ma quỷ. Paris, thành phố vấy mọi thứ tội phạm này chắc chắn sẽ chết. Thành phố Marseille sẽ bị phá hủy trong thời gian ngắn. Khi các điều này sẽ xảy ra, Trái đất sẽ hỗn loạn hoàn toàn; thế giới sẽ phó mình cho các đam mê gian ác của nó. Nước Pháp đã làm ung thối vũ trụ, một ngày kia nó sẽ bị phạt. Đức tin sẽ tắt tại Pháp. Một phần ba nước Pháp sẽ không thực hành, hay hầu như không thực hành tôn giáo nữa. Nửa kia sẽ thực hành, nhưng không thực hành tốt…

Trước khi điều này đến sẽ xảy ra trong Giáo Hội nhiều nhiễu nhương, và ít lâu sau Đức Giáo Hoàng sẽ bị bách hại. ĐTC sẽ bị bách hại từ mọi phía, người ta sẽ bắn vào ngài, người ta muốn ngài chết, nhưng chúng sẽ không thể làm gì được ngài. Người kế vị ngài là một Giáo Hoàng không ai chờ đợi. Các linh mục tu sĩ và các tôi tớ đích thật của Con Mẹ sẽ bị bách hại, và nhiều người sẽ chết vì niềm tin vào Chúa Giêsu Kitô. Sẽ có một nạn đói lớn xảy ra vào thời đó.

Sau khi mọi điều này sẽ xảy ra, nhiều người sẽ nhận biết bàn tay của Thiên Chúa trên họ và sẽ hoán cải và sám hối các tội lỗi của mình. Tiếp theo các quốc gia sẽ hoán cải, và đức tin sẽ được thắp sáng trở lại khắp nơi. Một vùng lớn của miền Bắc Âu châu, giờ đây là tin lành, sẽ hoán cải và theo gương vùng này các quốc gia khác của thế giới cũng sẽ hoán cải. Ít lâu sau đó sẽ có hoà bình lớn, nhưng nó không kéo dài. Một con quái vật sẽ đến phá phách nó. Một vị vua lớn sẽ lên ngôi và sẽ cai trị vài năm. Tôn giáo sẽ nở hoa và lan tràn trên toàn trái đất và sẽ có sự phì nhiêu lớn, thế giời hài lòng vì không thiếu thốn gì, sẽ lại bắt đầu các vô trật tự và sẽ bỏ Thiên Chúa và lại ôm ấp các đam mê tội phạm của nó.

Cũng sẽ có các thừa tác viên của Thiên Chúa và các hiền thê của Chúa Giêsu Kitô phó mình cho các vô trật tự  và đây sẽ là điều kinh khủng, sau cùng một hoả ngục sẽ cai trị trên toàn Trái đất; khi đó Tên Phản Kitô sẽ sinh ra từ một tôn giáo, nhưng khốn cho tôn giáo đó: nhiều người sẽ tin vào nó, bởi vì nó nói nó từ trời đến; thời gian không còn xa lắm, sẽ không qua hai lần 50 năm.”

Sau đây chúng tôi xin gửi tới quý vị bài phỏng vấn Cha Silvano Marisa, Bề trên tổng quyền dòng các Thừa Sai Salettini.

Hỏi: Thưa cha, xin cho biết cảm tưởng của cha vê việc kỷ niệm 170 năm biến cố Đức Mẹ hiện ra tại La Salette bên Pháp.

Đáp: Biến cố Đức Mẹ hiện ra tại La Salette không chỉ là một biến cố lịch sử xảy ra cách đây 170 năm, nhưng cũng là một biến cố có tính cách tinh thần và mục vụ, nghĩa là một thực tại lôi cuốn cả dân Chúa vào trong đó nữa. Sứ điệp muốn thực sự lay động lương tâm dân Chúa, và Mẹ Maria tự giới thiệu như là nữ đại sứ, nữ sứ giả của Thiên Chúa để kêu gọi dân Chúa trung thành với ơn gọi kitô và ơn gọi là người đã được rửa tội của mình.

Hỏi: Đây là một sứ điệp rất thời sự, có phải thế không thưa cha?

Đáp: Vâng. Thật là đẹp, khi thấy Đức Trinh Nữ bắt đầu bằng cách mời hai trẻ Maximin và Melanie tới gần. Đó chính là sứ điệp của Năm Thánh Lòng  Thương Xót này, sứ điệp của một vì Thiên Chúa có một con tim lớn lao tới độ Ngài không thể giữ nó cho chính mình, nhưng muốn chia sẻ tình yêu của Ngài với người khác. Và Mẹ Maria có nhiệm vụ giúp con người mở rộng trái tim mình cho Thiên Chúa. Mẹ đã tập trung sứ điệp vào chính Chúa Kitô. Hai trẻ mục dồng nói Ảnh Chúa Chịu Đóng Đinh Mẹ đeo trên ngực sáng ngời đến độ trông như là sống thật. Như vậy để nói rằng trung tâm của sứ điệp thực sự là sứ điệp kitô: Chúa Kitô là cây cầu giữa chúng ta với Thiên Chúa Cha, và giữa chúng ta với Chúa Kitô Mẹ Maria được đặt như vị Trung gian, bởi vì Mẹ đã được tín thác cho chúng ta như là Mẹ và chúng ta là con của Mẹ.

Hỏi: Thưa cha, sau 100 ngày từ khi bắt đầu mở cửa Năm Thánh Lòng Thương Xót, cửa Đền thánh Đức Bà La Salette cũng đã được mở để bắt đầu năm kỷ niệm 170 năm Đức Mẹ hiện ra tại La Salette, có dúng thế không?

Đáp: Chúng ta biết rằng một cánh cửa là một thực tại  cho phép đối thoại, cho phép gặp gỡ. Nó là một khả thể nữa cho dân Chúa tiến về La Salette, tiến về miền núi, trên một vòng núi chung quanh – chúng ta ở trên độ cao 1.800 mét của các dẫy tiền núi Alpes của Pháp – cho một cuộc canh tân tình thần. Con đường đi lên kết thúc ở đó, vì vậy chúng ta tiến lên chỉ vì một mục đích: đó là để gặp gỡ chính mình, gặp gỡ Thiên Chúa và gặp gỡ tha nhân giữa cảnh thiên nhiên, giữa vẻ đẹp của thiên nhiên.

Hỏi: Thưa cha, trọng tâm sứ điệp của Đức Bà La Salette là sự hoán cải. Làm thế nào để để  chung sự hoán cải và lòng thương xót với nhau?

Đáp: Khi một người quyết định bước qua Cửa Thánh, chắc chắn đó không phải là một hành động ma thuật, nhưng muốn nói một cách đơn sơ rằng: tôi đã có một cuộc sống quá khứ và khi bước qua của này, tôi muốn nói một tiếng “vâng” với cuộc sống mới… Như vậy nó là một dấn thân của sự hoán cải, của việc thay đổi.

Hỏi: Thưa cha, nhìn vào hiện tình của dòng Salettini trên thế giới đâu là các thách đố mà các tu sĩ của dòng đang phải đương đầu?

Đáp: Chúng tôi là 950 anh em trên thế giới sống rải rác tại 29 quốc gia năm châu. Sự hiện diện của chúng tôi muốn là một yếu tố rất đơn sơ, khiêm tốn, phục vụ sự hòa giải.  Tại nơi đâu có dân Chúa sinh sống, khổ đau, thì chúng tôi hiện diện với một lời mời gọi mạnh mẽ  hoán cải, dựa trên sứ điệp mà chúng tôi đã nhận lãnh từ Bà Đẹp hiện ra tại La Salette. Năm nay chúng tôi nêu bật biến cố kỷ niệm 170 năm với việc mở nhà tại Tanzania bên Phi châu, trong giáo phận Bukoba, bên bờ hồ Vittoria. Thế rồi chúng tôi cũng có các trường học, chẳng hạn như bên Philippines, một đại học để giáo dục con người để chính họ có thể một ngày kia trở thành các tác nhân của sự hòa giải và thăng tiến sự hiệp nhất và hiệp thông.

Hỏi: Thế còn sự hiện diện của các tu sĩ của dòng bên Châu Mỹ Latinh thì sao thưa cha?

Đáp: Trước hết chúng tôi hiện diện bên Brasil rồi tại Argentina và Bolivia, cũng như trong vùng Trung châu Mỹ Latinh và tại Haiti. Dĩ nhiên là chúng tôi cũng hiện diện tại Hoa Kỳ nữa. Một cách đặc biệt các linh mục của chúng tôi bên Brasil đang điều hành công việc rất tốt, đó là lôi cuốn biết bao nhiêu giáo dân vào trong sứ mệnh hòa giải này.

Linh Tiến Khải

Vượt qua sự dửng dưng, xây dựng văn hóa gặp gỡ

Vượt qua sự dửng dưng, xây dựng văn hóa gặp gỡ

Thánh lễ Santa Marta

Chúng ta xây dựng nền văn hóa đích thực của việc gặp gỡ, để vượt thắng kiểu văn hóa dửng dưng. Đó là lời mà Đức Thánh Cha chia sẻ trong Thánh lễ sáng nay tại Nhà nguyện Thánh Marta. Đức Thánh Cha nhấn mạnh đến cuộc gặp gỡ giữa Thiên Chúa và dân của Ngài. Đức Thánh Cha cảnh báo về những thói quen xấu, ngay cả trong gia đình, đó là những thói quen làm cho mọi người không còn lắng nghe nhau.

Đức Thánh Cha nói, Lời Chúa làm cho chúng ta nghĩ về những cuộc gặp gỡ ngày nay. Người ta thường đi vượt qua người khác mà không có gặp, nhìn mà không thấy, chỉ nghe mà không lắng nghe.

Cuộc gặp gỡ mà Tin Mừng hôm nay loan báo, là cuộc gặp gỡ giữa người nam và người nữ; giữa người con một còn sống và người con một đã chết; giữa đám đông vui vẻ vì họ gặp Thầy Giêsu và đi theo Người với đám người đang than khóc cùng người phụ nữ mất con; giữa những người đi ra cổng thành và những người đi vào cổng thành.

Chúa Giêsu “chạnh lòng thương” không giống như kiểu chúng ta đi trên đường phố và thấy điều gì đó rồi nói “thật tội nghiệp”. Chúa Giêsu không đứng ngoài cuộc, nhưng Người chạnh lòng thương. Người tiến lại gần người phụ nữ, Người thực sự gặp bà, và sau đó phép lạ xảy ra cho con trai bà.

Cuộc gặp gỡ với Thầy Giêsu giúp vượt thắng sự dửng dưng và làm phục hồi phẩm giá. Chúng ta không chỉ thấy sự dịu hiền mà còn thấy hoa trái của gặp gỡ, vì mọi cuộc gặp gỡ đều phát sinh hoa trái. Chúng ta đã quen với kiểu thờ ơ, nên chúng ta phải hành động và cầu nguyện để xây dựng văn hóa gặp gỡ, để những cuộc gặp gỡ phát sinh hoa trái, là đưa con người trở về với phẩm giá làm con Thiên Chúa. Gặp gỡ. Nếu tôi không nhìn, nếu tôi không dừng lại, nếu tôi không đụng chạm, nếu tôi không nói, thì tôi không thể gặp gỡ, tôi không thể góp phần tạo nên văn hóa gặp gỡ.

Nơi gia đình, chúng ta sống trong cuộc gặp gỡ đích thực, khi mọi người ăn cùng một bàn, lắng nghe nhau. Tại bàn ăn gia đình mỗi tối, chúng ta thường vừa ăn vừa xem tivi vừa nhắn tin trên điện thoại. Mọi người đều thờ ơ với cuộc gặp gỡ. Hạt nhân của tình thân gia đình chính là gặp gỡ. Điều này giúp chúng ta xây dựng văn hóa gặp gỡ như Chúa Giêsu đã làm. Đừng chỉ có nhìn mà hãy ngắm nhìn. Đừng chỉ có nghe mà hãy lắng nghe. Đừng chỉ có đi qua mà hãy biết dừng lại. Đừng chỉ có nói “Khổ thân người nghèo” mà hãy động lòng trắc ẩn. Khi Chúa Giêsu tiến lại gần, chạm tới, và nói với mọi người trong giây phút ấy, Chúa nói bằng ngôn ngữ của con tim: “Đừng khóc nữa”, và Người ban cho anh thanh niên sức sống. (SD 13-9-2016)

Tứ Quyết, SJ

 

Người cùi, người tị nạn ở Orissa tham dự lễ tạ ơn dịp phong thánh Mẹ Têrêsa

Người cùi, người tị nạn ở Orissa tham dự lễ tạ ơn dịp phong thánh Mẹ Têrêsa

các nữ tu Thừa sai bác ái

Bhubaneswar – Trong Thánh lễ cử hành ngày 11/09 tại nhà thờ chánh tòa Thánh Vính sơn ở Bhubaneswar, thủ phủ của bang Orissa, Ấn độ, đã có khoảng 2000 tín hữu đến từ nhiều nơi tham dự; trong đó cũng có các người cùi và tị nạn cư trú tại các cơ sở do các nữ tu Thừa sai bác ái điều hành.

Nữ tu Olivet, phụ trách các nữ tu Thừa sai bác ái miền Orissa, cũng đã nhân danh những người đau bệnh, trẻ mồ côi, những người hấp hối được chăm sóc tại các cơ sở của các nữ tu Thừa sai bác ái, cám ơn cộng đoàn. Chị cho biết là những người nghèo mong muốn tha thiết được hiện diện tại buổi lễ tạ ơn, vì “qua Mẹ Têrêsa mỗi người trong họ nhận ra Thiên Chúa chăm sóc họ”.

Đức Tổng Giám mục John Barwa, chủ sự Thánh lễ đã chia sẻ: “Mẹ thánh Têrêsa là gương mẫu cho mỗi người của thời đại hiện nay. Mẹ đã mang đến cho những người bị bỏ rơi, bị gạt bên lề xã hội, những người không được cứu chữa, không được tôn trọng, không được nhận biết, một nhân phẩm, qua việc phục vụ cách yêu thương, một sự dấn thân hoàn toàn, một sự trung thành và một tinh thần huynh đệ chân thật. Chứng từ của cuộc sống và mẫugương của Mẹ giống như ‘Mẹ của các người nghèo’ nói với tất cả , những người có đức tin cũng như không có đức tin, v có thể thấy cách rõ ràng, như thành phố được xây trên một ngọn núi được ghi lại trong Tin mừng”

Nữ tu Samuela, cũng thuộc dòng Thừa sai bác ái kết luận: “Chúng ta ở đây để tạ ơn Thiên Chúa bởi ánh sáng đã chiếu soi chúng ta và toàn thế giới, qua Mẹ Têrêsa. Người phụ nữ vĩ đại của thời đại chúng ta, sứ giả của Tin Mừng, cuộc sống được đánh dấu sâu đậm bởi tình yêu, và bây giờ là một vị thánh. Chúng ta chiêm ngắm Mẹ như một gương mẫu và một nguồn linh hứng”. (Fides 12/09/2016)

Hồng Thủy 

Cầu nguyện cho ơn hiệp nhất

Cầu nguyện cho ơn hiệp nhất

Thánh lễ thứ hai, 12-9-2016 tại nhà nguyện Thánh Marta

Sự chia rẽ đã phá hoại Hội Thánh và ma quỷ nỗ lực tấn công vào gốc rễ của sự hiệp nhất, gốc rễ của sự hiệp nhất là việc cử hành Thánh Lễ. Đó là lời mà Đức Thánh Cha Phanxicô chia sẻ trong Thánh lễ sáng nay tại Nhà nguyện Thánh Marta, nhân ngày lễ Danh thánh Mẹ Maria.

Giải thích thư của Thánh Phaolô tông đồ gửi tín hữu Cô-rin-tô, Đức Thánh Cha nói rằng, ma quỷ có hai vũ khí lợi hại để phá hoại Hội Thánh, đó là sự chia rẽ và tiền bạc. Những điều này xảy ra ngay từ thời đầu: những chia rẽ về tư tưởng và về thần học đã xâu xé Hội Thánh. Ma quỷ đã gieo rắc tham vọng và ghen tuông để chia rẽ. Sau cuộc chiến của chia rẽ thì tất cả bị hủy diệt, còn ma quỷ thì chạy trốn trong sung sướng. Trong khi đó, chúng ta trở nên trần trụi trong trò chơi của ma quỷ. Cũng có thứ chiến tranh nhơ bẩn tựa như khủng bố. Đó là những lời nói hành nói xấu trong các cộng đoàn. Đó là những thứ ngôn ngữ để giết hại.

Những chia rẽ trong Giáo Hội không để cho Nước Trời được lớn lên, không để cho Chúa được hiện diện như chính Ngài. Những chia rẽ là điều mà anh chị em đang thấy, sẽ thấy và lại thấy… Luôn có! Nhưng ma quỷ đi xa hơn sâu hơn. Chúng không chỉ tấn công vào cộng đoàn Kitô hữu, mà còn vào tận gốc rễ của sự hiệp nhất Kitô, là tấn công vào việc cử hành Thánh Lễ. Điều này đã xảy ra trong cộng đoàn Cô-rin-tô.

Nơi cộng đoàn Cô-rin-tô thời ấy, có sự phân biệt giữa người giàu và người nghèo trong việc cử hành Thánh Lễ. Đức Thánh Cha nói: Chúa Giêsu đã cầu nguyện cùng Chúa Cha về sự hiệp nhất, nhưng ma quỷ thì ra sức phá hoại.

Đức Thánh Cha nói: Cha nài xin anh chị em hãy làm tất cả những gì có thể để đừng phá hoại Hội Thánh với những chia rẽ về tư tưởng, tham vọng… Trên tất cả, hãy cầu nguyện và bảo vệ cội rễ hiệp nhất của Hội Thánh là thân thể Đức Kitô. Đó là, hàng ngày chúng ta cùng nhau hiệp dâng lễ hy sinh của Chúa Kitô trong Thánh Lễ.

Thánh Phaolô đã nói về sự chia rẽ giữa các Kitô hữu Cô-rin-tô hai ngàn năm trước… Những lời của thánh nhân vẫn thích hợp cho chúng ta hôm nay, cho Hội Thánh ngày nay. “Thưa anh em, về điều này, tôi chẳng khen anh em đâu, vì những buổi họp của anh em không đem lại lợi ích gì, mà chỉ gây hại…” Và “bất của ai ăn Bánh và uông Chén của Chúa cách bất xứng, thì cũng phạm đến Mình và Máu Chúa.”

Chúng ta hãy khẩn cầu cùng Thiên Chúa để Hội Thánh hiệp nhất, để không còn chia rẽ. Ơn hiệp nhất ở ngay trong cội rễ của Hội Thánh, là lễ hy sinh của Đức Kitô mà chúng ta cử hành trong Thánh Lễ hằng ngày.

Tứ Quyết, SJ

Thiên Chúa luôn chờ đợi và tha thứ cho chúng ta

Thiên Chúa luôn chờ đợi và tha thứ cho chúng ta

Đưc Thánh Cha chủ sự buổi đọc Kinh Truyền Tin trưa Chúa Nhật 24 Thường Niên

VATICAN. Trong buổi đọc Kinh Truyền Tin trưa Chúa Nhật, ngày 11 tháng 09,  Đức Thánh Cha Phanxicô nói rằng với ba dụ ngôn trong bài Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay, Đức Giêsu trình bày cho chúng ta gương mặt đích thật của Thiên Chúa. Ngài là một người cha với vòng tay rộng mở, đối xử với kẻ tội lỗi bằng sự dịu hiền và lòng xót thương.

Bài huấn dụ của Đức Thánh Cha

“Phụng vụ hôm nay đề nghị với chúng ta chương 15, Tin Mừng theo thánh Luca. Chương này nói về lòng thương xót, bao gồm ba dụ ngôn, qua đó Đức Giêsu đáp lại những lời xì xầm của các kinh sư và luật sỹ. Họ chỉ trích Đức Giêsu về những hành động của Ngài. Họ nói: ‘Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng’ (Lc 15, 2). Với ba dụ ngôn này, Đức Giêsu muốn mọi người hiểu rằng Thiên Chúa Cha muốn dành thái độ đón nhận, cảm thông và thương xót trước hết cho những người tội lỗi. Trong dụ ngôn thứ nhất, Thiên Chúa được miêu tả như vị mục tử sẵn sàng bỏ lại chín mươi chín con chiên để đi tìm con chiên bị lạc mất. Ở dụ ngôn thứ hai, Thiên Chúa được ví với người phụ nữ đánh mất đồng bạc, đã thắp đèn đi tìm cho kỳ được. Với dụ ngôn thứ ba, Thiên Chúa được miêu tả giống như người cha đón nhận và tha thứ cho đứa con hoang đàng bỏ nhà đi xa; hình ảnh người cha đã vén mở trái tim nhân hậu của Thiên Chúa được diễn tả nơi Đức Giêsu.

Điểm chung của cả ba dụ ngôn này là điều được diễn tả ngang qua các động từ có ý nghĩa chung vui với nhau, mở tiệc ăn mừng. Không phải khóc than, buồn sầu nhưng là chung vui với nhau và mở tiệc mừng. Người mục tử đã mời bạn bè, hàng xóm lại và nói: ‘Xin chung vui với tôi, vì tôi đã tìm được con chiên của tôi, con chiên bị mất đó’ (Lc 15, 6).  Người phụ nữ cũng mời bạn bè, hàng xóm lại và nói: ‘Xin chung vui với tôi, vì tôi đã tìm được đồng quan tôi đã đánh mất’ (Lc 15, 9). Cũng vậy, người cha nói với đứa con cả: ‘Chúng ta phải ăn mừng, phải vui vẻ, vì em con đây đã chết mà nay lại sống, đã mất mà nay lại tìm thấy’ (Lc 15, 32). Ở hai dụ ngôn đầu, Đức Giêsu muốn nhấn mạnh đến sự vui mừng. Niềm vui ấy lớn đến nỗi khiến cho người ta phải chia sẻ với ‘bạn bè và hàng xóm’. Trong dụ ngôn thứ ba, điểm quan trọng là tiệc mừng. Tiệc mừng ấy xuất phát từ trái tim giầu lòng thương xót của người cha và lan tỏa đến khắp mọi người trong nhà. Tiệc mừng mà Thiên Chúa dành cho những ai biết ăn năn trở lại với Ngài thật am hợp biết bao với tâm tình mà chúng ta đang trải nghiệm trong Năm Thánh Lòng Thương Xót này. Chúng ta đều dùng một thuật ngữ chung ‘năm toàn xá’!

Với ba dụ ngôn này, Đức Giêsu trình bày cho chúng ta gương mặt đích thật của Thiên Chúa, là người cha với vòng tay rộng mở, đối xử với kẻ tội lỗi bằng sự dịu hiền và lòng xót thương. Dụ ngôn cảm động nhất, vì diễn tả tình yêu vô biên của Thiên Chúa, là dụ ngôn về người cha chạy ra ôm cổ người con trai bị lạc mất và hôn lấy hôn để. Như vậy, điểm đánh động ở đây không phải là câu chuyện buồn về một chàng thanh nhiên trẻ bị rơi vào cảnh suy đồi, nhưng chính là những lời nói đầy xác quyết của anh: ‘Thôi, ta đứng lên, đi về cùng cha’ (Lc 15, 18). Con đường về nhà là con đường của hy vọng và của một đời sống mới. Thiên Chúa luôn chờ đợi chúng ta bắt đầu cuộc hành trình trở về. Ngài đợi chờ chúng ta với niềm hy vọng. Ngài trông thấy ta khi ta còn ở mãi đằng xa. Ngài chạy ra ôm chầm lấy ta, hôn lấy hôn để và sẵn sàng tha thứ hết mọi tội lỗi. Thiên Chúa là như thế đó! Cha của chúng ta đáng yêu như thế đó! Sự tha thứ của Thiên Chúa xóa bỏ quá khứ lầm lỗi và tái sinh chúng ta trong tình yêu. Quên đi quá khứ chính là điểm yếu của Thiên Chúa. Mỗi khi Ngài ôm lấy ta và tha thứ cho ta là Ngài quên hết quá khứ, chẳng còn nhớ gì nữa. Thiên Chúa lãng quên quá khứ lỗi lầm. Khi chúng ta phạm tội nhưng biết ăn năn và trở về với Thiên Chúa, Ngài sẽ chẳng bao giờ quở mắng hay trách phạt, vì Thiên Chúa cứu độ và tái đón nhận ta vào nhà với niềm vui và tiệc mừng. Chính Đức Giêsu, trong bài Tin Mừng hôm nay, đã nói: ‘Trên trời ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối, hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần phải sám hối ăn năn’ (Lc 15, 7). Tôi muốn hỏi anh chị em một điều: Anh chị em có bao giờ nghĩ rằng mỗi khi chúng ta đi xưng tội là trên trời tràn ngập niềm vui và mở tiệc mừng hay không? Anh chị em có bao giờ nghĩ như thế chưa? Thật là đẹp biết bao!

Điều này mang lại cho chúng ta niềm hy vọng lớn lao, vì với ân sủng của Thiên Chúa chúng ta có thể tiếp tục đứng dậy mỗi khi té ngã trước mọi tội lỗi dù tội đó trầm trọng đến mấy đi nữa. Không có ai là hết phương cứu chữa; chẳng có ai mà không được cứu độ! Bởi vì Thiên Chúa không bao giờ ngừng muốn những điều tốt đẹp cho ta, ngay cả khi ta phạm tội! Xin Đức Trinh Nữ Maria, Chốn Náu Nương cho những ai tội lỗi, làm nảy sinh trong tâm hồn chúng ta niềm xác tín giống như đã nảy sinh trong trái tim của người con hoang đàng: ‘Thôi, ta đứng lên, đi về cùng cha và thưa với người: Thưa cha, con thật đắc tội với cha’ (Lc 15, 18). Bằng cách đó, chúng ta có thể làm vui lòng Thiên Chúa và niềm vui của Ngài sẽ trở thành niềm vui cũng như tiệc mừng của chúng ta.”

Tiếp đến, Đức Thánh Cha đã đọc Kinh Truyền Tin và ban phép lành tòa thánh cho mọi người.

Sau Kinh Truyền Tin, Đức Thánh Cha nói: “Tôi mời gọi anh chị em hãy cầu nguyện đặc biệt cho Gabon, đang trải qua những giây phút khủng hoảng chính trị trầm trọng. Tôi phó thác vào tay Thiên Chúa toàn năng các nạn nhân của những vụ đụng độ cũng như gia đình của họ. Tôi hiệp lời với các Giám mục của đất nước Phi châu mến yêu để mời gọi các bên chấm dứt mọi hình thức bạo lực và cùng nhau thăng tiến lợi ích chung. Tôi khuyến khích tất cả mọi người xây dựng hòa bình trên tinh thần tôn trọng luật pháp, trong đối thoại và tình huynh đệ.

Hôm nay tại Karaganda, ở Kazakhstan, Giáo hội đã tôn phong chân phước cho linh mục Ladislao Bukowinski. Ngài đã bị sát hại vì đức tin. Trong suốt cuộc đời, cha đã bày tỏ tình yêu dạt dào cho những người yếu đuối và nghèo khổ nhất. Chứng tá của cha là kết tinh của những công việc bác ái về tinh thần cũng như thể xác.”

Tiếp đến, Đức Thánh Cha gởi lời chào thân ái đến tất cả các tín hữu ở Roma và khách hành hương đến từ Italia cũng như các quốc gia khác.

Cuối cùng Đức Thánh Cha chúc tất cả mọi người ngày Chúa nhật tốt lành và Ngài cũng không quên xin mọi người cầu nguyện cho Ngài.

Vũ Đức Anh Phương SJ

 

Sự ngạc nhiên tốt đẹp: cha Lombardi bình luận cuốn sách mới về ĐGH Biển đức XVI

Sự ngạc nhiên tốt đẹp: cha Lombardi bình luận cuốn sách mới về ĐGH Biển đức XVI

Nguyên GH Biển đức XVI

Ngày hôm nay, cuốn sách “Biển đức XVI. Những cuộc trò chuyện cuối cùng” sẽ được phát hành bằng tiếng Ý trên toàn thế giới.

Cuốn sách thuật lại các cuộc phỏng vấn của ký giả người Đức Peter Seewald với Đức Giáo hoàng danh dự, bao gồm những giai đoạn quan trọng trong cuộc đời của ngài, từ thời niên thiếu dưới chế độ Đức quốc xã, việc khám phá ơn gọi, những năm khó khăn trong chiến tranh, phục vụ ở Vatican và mối liên kết chặt chẽ với thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II cho đến cuộc bầu Giáo hoàng và quyết định từ nhiệm. Đức Giáo hoàng danh dự cũng nói về Đức Giáo hoàng Phanxicô, bày tỏ sự ngạc nhiên và rồi vui mừng vì việc bầu Đức Phanxicô chứng tỏ rằng Giáo hội sống động, linh hoạt và không cứng nhắc trong những chương trình và điều này đáng khen ngợi và khuyến khích.

Cha Federico Lombardi, nguyên là Giám đốc Phòng báo chí Tòa Thánh và đương kim chủ tịch Hội đồng quản trị Quỹ Joseph Ratzinger-Benedetto XVI của Vatican đã nhận định:  cuốn sách mới thuật lại cuộc phỏng vấn với Đức Biển đức XVI, được phát hành bằng các thứ tiếng khác nhau, chắc chắn đối với nhiều người là một ngạc nhiên, nhưng chúng ta có thể nói đó là một sự ngạc nhiên tốt đẹp.”

Cha Lombardi phân tích: “Một ngạc nhiên theo nghĩa là, Đức Biển đức đã đưa ra một chọn lựa rõ ràng là dành đời mình cho cuộc sống cầu nguyện và suy tư. Có lẽ chúng ta không chờ đợi việc xuất bản một cuộc trò chuyện mới, dài, với một ký giả. Một ngạc nhiên tốt đẹp, vì, vượt qua sự ngạc nhiên ban đầu, việc đọc cuốn sách cách thong thả giúp chúng ta nhận ra những viên ngọc rất quý giá và có giá trị lớn lao, những viên ngọc hữu ích và thú vị. Những viên ngọc quý giá, theo tôi, có 2 điều, nằm trong phần I và chương cuối của phần III của cuốn sách”. Theo cha, hai điều quan trọng là: chứng tá của Đức Biển đức trong giai đoạn cuối đời và lý do ngài từ chức.

Cha Lombardi nhận định: “Điều đầu tiên và chính yếu là kinh nghiệm thiêng liêng cảm động của vị Giáo hoàng danh dự cao tuổi “trong hành trình đạt đến sự hiện diện của Thiên Chúa. Tóm lại, Đức Biển đức XVI nói cách bình thản về việc ngài đang sống thế nào trong chiêm niệm và cầu nguyện giai đoạn cuối cùng của cuộc sống. Thánh Gioan Phaolô II đã cho chúng ta chứng tá quý giá về cách ngài chịu đựng trong đức tin sự đau đớn nặng nề của bệnh tật. Đức Biển đức XVI cho chúng ta chứng tá của con người của Thiên Chúa, tuổi già chuẩn bị cho cái chết. Ngài nói với cung giọng khiêm nhường và của con người trong nhận biết sự yếu đuối thể lý làm cho ngài khó mà luôn luôn ở mãi được, như ngài mong muốn, trong “đỉnh cao của tinh thần”. Ngài nói với chúng ta về mầu nhiệm lớn lao của Thiên Chúa, về những câu hỏi lớn đã theo ngài trong đời sống thiêng liêng và tiếp tục theo ngài, và có thể là ngày càng trở nên lớn hơn, giống như sự hiện diện của sự dữ trong thế giới. Ngài nói với chúng ta đặc biệt về Chúa Giêsu Kitô, tâm điểm thật sự của cuộc đời của ngài mà ngài “thấy ngay trước mặt” ngài, “luôn luôn vĩ đại và mầu nhiệm”, và sự thật là bây giờ ngài tìm thấy “rất nhiều lời của Tin Mừng, vì sự cao cả và nghiêm trọng của các lời này, khó khăn hơn ngài nhận thấy trong quá khứ”.

Đức Giáo hoàng già yếu sống sự tiếp cận với ngưỡng cửa của mầu nhiệm “không rời bỏ sự chắc chắn của nền tảng của đức tin và lưu lại, và như thế nói là “đắm mình trong đức tin”. “Chúng ta nhận ra rằng cần phải khiêm tốn, nhận ra là nếu người ta không hiểu lời Kinh thánh, người ta phải chờ đợi cho đến khi Thiên Chúa mở ra cho chúng ta hiểu biết.

Đức Biển đức nói cách thanh thản về cái nhìn về cuộc sống quá khứ của ngài và “gánh nặng tội lỗi”, về hối tiếc đã không làm đủ cho người khác, nhưng cả sự tin tưởng vào tình yêu của Thiên Chúa, về thực tế là vào giây phút gặp gỡ “ngài sẽ cầu nguyện xin được Thiên Chúa khoan dung với sự đau khổ của ngài” và với sự xác tín rằng trong cuộc sống vĩnh cửu “ngài sẽ thật sự được về nhà””.

Cha Lombardi nói về khía cạnh quan trọng thứ hai: “Bên cạnh viên ngọc thật sự nền tảng này, từ một cấp độ khác – thấp hơn nhưng nổi bật – được đánh giá cao, đó là câu trả lời rõ ràng và bình thản cho tất cả những suy đoán vô căn cứ về lý do ngài từ chức vụ Giáo hoàng, giống như là do gặp phải những khó khăn từ các bê bối và các âm mưu. Được những câu hỏi của ký giả Seewald gợi lên, chính Đức Biển đức XVI đã quyết định làm rõ vấn đề, theo cách chúng ta hy vọng dứt khoát, ngài nói về hành trình phân định mà qua nó ngài đến trước Thiên Chúa với quyết định, và với sự thanh thản ngài đã thông báo và thực hiện mà không có sự phân vân và không bao giờ hối tiếc. Ngài khẳng định là quyết định được đưa ra không phải do áp lực của các vấn đề bức xúc, nhưng đúng hơn, chỉ khi những vấn đề này đã được khắc phục về cơ bản. “Tôi đã có thể phải từ chức chính vì những vấn đề đó đã trở lại bình an”. Đây không phải là một cuộc rút lui dưới áp lực của những sự kiện hay một cuộc trốn chạy vì không đủ khả năng đối phó với nó”.

Theo cha Lombardi, những lời của Đức Biển đức vừa trả lời cho những đồn thôi vô căn cứ về quyết định của ngài, vừa cho thấy tính hợp lý và thuyết phục của nó. Khi ngài thấy không còn thích hơp cho việc thi hành trách nhiêm điều hành Giáo hội vì những lý do thể lý và tâm lý thì việc từ chức là nghĩa vụ và bình thường. Cha cũng nhận xét, có thể việc biện phân của Đức Biển đức trong trường hợp này sẽ giúp cho các vị kế nhiệm một khả năng chọn lựa  dễ dàng theo.

Cha Lombardi cũng đưa ra một số đề tài thú vị khác như: suy tư của Đức Biển đức về việc tham dự Công đồng Vatican II, việc cộng tác với thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II, suy tư thần học, vv.

Cha Lombardi kết luận: Ngay cả cái nhìn về triều đại Giáo hoàng, trong những điểm sáng và giới hạn của ngài, sáng suốt và thanh thản, giống như thích hợp với những ai “đếm tháng ngày của mình” đã học được cách nhìn vào các sự kiện của thế giới này với “sự khôn ngoan của trái tim” (x. Tv 90), và có thể phó thác cuộc đời và hoạt động cho Thiên Chúa với sự tin tưởng”. (RV 09/09/2016)

15 triệu khách hành hương đến Rome trong 9 tháng đầu Năm Thánh Lòng thương xót

15 triệu khách hành hương đến Rome trong 9 tháng đầu Năm Thánh Lòng thương xót

Pilgrim in jubilee year 2016

Hôm 07/09 vừa qua, Hội đồng Tòa Thánh Tái Truyền giảng Tin mừng đã cho biết có hơn 15 triệu khách hành hương đi qua cửa Năm Thánh trong vòng 9 tháng đầu Năm Thánh Lòng thương xót.

Cha Eugene Sylva thuộc Hội đồng chia sẻ với đài Vatican về kinh nghiệm của các khách hành hương trong Năm Thánh Lòng Thương xót. Cha nhận xét là con số khách hành hương trong hai tháng 7 và 8 thật là ngạc nhiên một cách kỳ diệu, vì các du khách thường tránh đến Roma trong  cái nắng thiêu đốt của mùa hè. Theo cha, “đây là bằng chứng lòng thương xót đang chạm đến trái tim của nhiều người trên khắp thế giới và soi sáng cho họ đến và đi qua Cửa Thánh để nhận hồng ân của thời gian không thể tin được này và để gặp Đức Thánh Cha Phanxicô, cũng là điều quan trọng”.

Cha Sylva cũng lưu ý việc  Đức Thánh Cha Phanxicô đã nhắc nhớ Giáo hội về sứ vụ lòng thương xót trong Năm Thánh và chính trên đó Giáo hộ được thành lập; đó là điều mà trong những cách thế nhỏ nhặt chúng ta có thể thể hiện và chia sẻ lòng thương xót, dù là bị bó buộc trong phòng bệnh hay trong nhà dưỡng lão. Đức Thánh Cha đã làm gương qua thực hành các ngày Thứ Sáu của lòng thương xót. Ngài muốn thực hành cách riêng tư để có kinh nghiệm cá nhân thực sự với một nhóm người. Nhưng qua chúng ta, nhiều người có thể được nhìn thấy việc ngài làm và theo gương ngài, vì các việc thiêng liêng và cụ thể của lòng thương xót rất quan trọng trong Năm thánh này.

Cha nhận định là Năm thánh cũng đưa ra một động lực mới cho việc tái truyền giảng Tin mừng. Cha nói: “Năm thánh này đang thúc đẩy chúng ta cùng với việc tái truyền giảng Tin mừng. Nó giúp chúng ta thấy kế hoạch mục vụ về những nơi kế tiếp sẽ đi và để buộc lại toàn bộ biện chứng của tình yêu và đức tin – và đức tin và tình yêu – đối với Đức Thánh Cha Phanxicô, là điều rất cần thiết trong việc chúng ta thực hiện cụ thể kế hoạch đó cho việc tái truyền giảng Tin mừng”. (RV 09/09/2016)

Hồng Thủy

Kinh nghiệm cầu nguyện trong lúc đau khổ của bà Jennifer Hubbard

Kinh nghiệm cầu nguyện trong lúc đau khổ của bà Jennifer Hubbard

Jennifer Hubbard 1

Đối với nhiều người, cầu nguyện thật là khó khăn trong những giờ phút đau khổ cùng cực tuyệt vọng. Lúc đó người ta thường không nhớ đến Thiên Chúa, hoặc có nhớ đến Ngài thì thường là kêu than oán trách, tại sao Chúa lại để điều này xảy ra với tôi. Nhưng đối với bà Jennifer Hubbard, một cộng tác viên của báo Magnificat, chính việc cầu nguyện đã giúp bà vượt qua được những giây phút khó khăn nhất trong cuộc đời của bà. Bà Hubbard và gia đình đã thật sự sống những giây phút thảm kịch vào tháng 12 năm 2012.  Hai em bé con của bà Hubbard đang học tại trường tiểu học Sandy Hook ở Newtown bang Connecticut. Một ngày, dân cư tại Newtown nhận tin báo, có một kẻ cầm súng vào trường tiểu học. Một vụ nổ súng đã xảy ra tại trường. Đã có 20 trẻ em và 6 người lớn bị thiệt mạng trong vụ nổ súng. Catherine Violet, con gái của bà Hubbard, là một trong số các nạn nhân; cô bé khi ấy mới chỉ 8 tuổi.

Khi nghe tin vụ nổ súng xảy ra tại trường học các con của mình đang theo học, bà Hubbard và chồng, giống như thân nhân của các học sinh và nhân viên của trường, vội vàng chạy đến trạm cứu hỏa và chờ đợi để nghe tin tức về các người thân yêu của họ. Trong lúc chờ nhận tin về hai con, bà Hubbard đã cầu nguyện xin Chúa đưa con gái Catherine của bà về nhà; bà cầu xin Chúa mà bà yêu kính gìn giữ con gái bà được bình an. Bà đã cầu nguyện để con gái bà sẽ xuất hiện tại trạm cứu hỏa bà đang chờ, nhưng sự việc không xảy ra như lời cầu xin của bà. Con gái Catherine của bà là một trong số các nạn nhân bị thảm sát. Thời gian dần qua, bà Hubbard nhận thấy là mình đã được Chúa đáp lời. Catherine đã về nhà. Chúa đã nhận lời cầu nguyện của bà và đưa con gái bà trở về nhà. Bà đã có hy vọng được nhìn thấy lại đứa con gái bé bỏng yêu quý của mình.

Bà Hubbard chia sẻ: “Tất cả chúng ta đều gặp phải những thử thách, tất cả chúng ta đều đối mặt với những thảm kịch. Thảm kịch của tôi là con gái của tôi bị giết. Thảm kịch của người khác có thể là kết luận của bác sĩ là ung thư đã ở giai đoạn cuối và không thể chữa trị. Khi chúng ta thực sự ở trong bóng tối của khó khăn đau khổ đó, việc cầu nguyện hướng sự chú ý của chúng ta về Thiên Chúa và cho phép sự bình an cư ngụ trong tâm hồn chúng ta bất chấp hỗn loạn cỡ nào đang vây quanh chúng ta.”

Theo bà Hubbard, những người đang gặp khó khăn về cầu nguyện thường là vì họ lo lắng là họ không thể làm được điều gì cụ thể, họ cảm thấy cầu nguyện không đủ giúp vượt qua khó khăn. Nhưng bà Hubbard nhận thấy là cầu nguyện chuẩn bị cho chúng ta quy hướng về Thiên Chúa và tình yêu của Người dành cho chúng ta, chống lại thử thách và khó khăn. Bà nói: "Bạn cầu nguyện với lòng tin tưởng rằng lời cầu nguyện của bạn sẽ được đáp lời, nhưng bạn cũng cầu nguyện với sự nhận thức là ý Chúa sẽ là điều tốt nhất”. Lời cầu nguyện không luôn được đáp trả như chúng ta chờ đợi.

Đối với bà Hubbard, lời cầu nguyện chân thành diễn tả một niềm hy vọng rằng một điều gì đó sẽ thay đổi. Đối với người cầu nguyện, có một vẻ đẹp là sự thay đổi diễn ra trong trái tim của người đó. Cầu nguyện và hy vọng đi đôi với nhau. Cầu nguyện là tiếp tục mối liên hệ đâm rễ sâu và cuộc đối thoại với người duy nhất có thể mang lại cho bạn sự hướng dẫn, ý nghĩa và bình an trong cuộc sống. Bà Hubbard cũng cảnh giác về sự nguy hiểm của không cầu nguyện: “Khi chúng ta không lắng nghe Thiên Chúa, khi chúng ta tự giải quyết vấn đề hay tìm câu trả lời mà chúng ta muốn Thiên Chúa đáp trả cho chúng ta, tôi nghĩ nó nguy hiểm. Khi chúng ta không lắng nghe Thiên Chúa, chúng ta chỉ hiếu chiến. Chúng ta đang đặt chúng ta trên Thiên Chúa. Không lắng nghe Thiên Chúa, tự giải quyêt vấn đề, chúng ta cảm thấy như chúng ta tự làm được. Người ta cố gắng và nhúng tay vào giải quyết một tình cảnh nhưng chỉ làm cho nó thành một mớ hỗn độn khủng khiếp. Không cầu nguyện, không lắng nghe Thiên Chúa, hay chỉ đầu hang trước bất cứ điều gì mình gặp phải, nó sẽ nắm giữ bạn lại, ngăn bạn nhìn thấy mục đích và đau khổ đó, bạn sẽ thất bại. Cầu nguyện là một lời đáp trả chứng tỏ bạn biết Thiên Chúa có một điều gì đó sẵn sàng cho bạn. (CNA 21/07/2016)

Hồng Thủy

 

Sự kiện lịch sử của Giáo hội Lào: lễ truyền chức Linh mục và phong chân phước

Sự kiện lịch sử của Giáo hội Lào: lễ truyền chức Linh mục và phong chân phước

Paolo Thoj Xyooj and Mario Borzaga

Viên chăn, Lào – Giáo hội Công giáo tại Lào đang vui mừng chuẩn bị cho hai sự kiện quan trọng trong lịch sử của Giáo hội tại đây.

Như hãng tin Fides đã loan tin, ngày 16/09 tại Savannakhet sẽ có lễ truyền chức cho 3 phó tế người Lào và ngày 11/12, Chúa nhật thứ II mùa Vọng, như Tòa Thánh quy định, tại Viên chăn sẽ có lễ phong chân phước cho 17 vị tử đạo, gồm có các Linh mục, tu sĩ và giáo dân đã hy sinh mạng sống tại Lào.

Đức Hồng y Orlando Quevedo, Tổng Giám mục Cotabato, đặc sứ của Đức Thánh cha Phanxicô sẽ chủ sự Thánh lễ phong chân phước ngày 11/12. Các vị tử đạo đã được Đức Thánh Cha Phanxicô nhìn nhận trong 2 án phong chân phước. Án thứ nhất có cha Mario Borzaga, thừa sai người Italia, thuộc dòng Hiến sĩ Đức Mẹ Vô nhiễm (OMI) và Paolo Thoj Xyooj, giáo lý viên đầu tiên của Lào; 2 vị đã bị giết bởi những kẻ thù ghét đức tin. Án thứ hai gồm có vị Linh mục người Lào đầu tiên, đó là cha Giuse ThaoTien và 14 vị khác, gồm 10 vị thuộc Hội thừa sai Parí (MEP) và Hiến sĩ Đức Mẹ Vô nhiễm (OMI), cùng với 4 giáo lý viên giáo dân người bản địa. 15 vị này bị giết giữa các năm 1954 và 1970 bởi các chiến binh cộng sản Pathet Lao.

Trong Thánh lễ truyền chức Linh mục vào ngày 16/09 sẽ có sự hiện diện của các Giám mục Lào của các địa phận Tông tòa Viên chăn, Luang Prabang, Savannakhet và Paksè. 3 phó tế sẽ được thụ phong Linh mục đến từ địa phận Tông tòa Luang Prabang

Đức cha Louis-Marie Ling Mangkhanekhoun, đại diện Tông tòa của Paksè nói với hãng tin Fides: “Đây là một thời khắc lịch sử cho Giáo hội chúng tôi, thật sự là một năm hồng ân. Chúng tôi thật vui mừng. Chúng tôi đã dấn thân trong việc chuẩn bị 2 sự kiện quan trọng này”. Đức cha cũng cho biết Giáo hội vui mừng vì Lào đang cởi mở và Giáo hội cũng được hưởng lợi ích từ chính sách này. Giáo hội cũng hy vọng sẽ cộng tác với chính quyền dân sự vì lợi ích của Giáo hội và của nhân dân Lào. Đức cha hy vọng các vị đại diện của Giáo hội Campuchia, cùng chung một Hội đồng Giám mục với Lào, cũng như các vị đại diện Giáo hội của các quốc gia láng giềng sẽ đến dự.

Đức cha kết luận: “Đối với chúng tôi, đây là một sự kiện hiêp thông trọng vẹn với Tòa Thánh và Giáo hội hoàn vũ. Chúng tôi cám ơn Đức Thánh cha Phanxicô đã cho phếp lễ phong chân phước cho các vị tử đạo được tổ chức tại Lào. Nó là một quà tặng lớn lao cho chúng tôi”. (Fides 08/09/2016)

Hồng Thủy

Mục vụ chăm sóc người khiếm thính của Giáo hội Tây ban nha

Mục vụ chăm sóc người khiếm thính của Giáo hội Tây ban nha

buổi cầu nguyện của người khiếm thính

Madrid, Tây ban nha – Trong Giáo hội Công giáo, ngôn ngữ nói là ngôn ngữ chính của phụng vụ. Các tín hữu đọc kinh Tin kính, hát kinh Vinh danh ngợi khen Thiên Chúa, cúi đầu khi nghe Linh mục đọc lời chúc lành cúôi Thánh lễ, vv. Nhưng đối với các tín hữu khiếm thính và bị điếc thì lại khác.

Cha Sergio Buiza, giám đốc mục vụ người khiếm thính của hội đồng Giám mục Tây ban nha cho biết nhiệm vụ của họ là “mang Tin mừng đến với số người bao nhiêu có thể”, dĩ nhiên bao gồm người điếc và khiếm thính. Cha là một trong các Linh mục cử hành Thánh lễ bằng ngôn ngữ ký hiệu tại một nhà thờ Công giáo ở Tây ban nha. Mỗi tuần cha dâng một Thánh lễ bằng ngôn ngữ ký hiệu tại nhà thờ chánh tòa Bilbao.

Tại Tây ban nha có khoảng một triệu người bị khiếm thính ở các mức độ khác nhau và bị mất thính giác hoàn toàn. Khoảng 1250 người trong số họ tham dự Thánh lễ mỗi tuần tại một trong 24 nhà thờ nơi có Thánh lễ dành cho họ. Tại các giáo xứ có mục vụ dành cho người khiếm thính, có đầy đủ các hoạt động như Thánh lễ, giáo lý, các nhóm Kinh Thánh, cử hành hôn phối và xưng tội. Tuy nhiên, cha Buiza cho biết, vấn đề lớn nhất chính là mỗi Giáo phận chỉ có một giáo xứ dành cho người khiếm thính, vì vậy những người này, trong đó có những người cao niên, phải di chuyển thật xa để đến nơi tham dự Thánh lễ.

Tháng 12 năm ngoái, hội đồng Giám mục Tây ban nha đã thông báo một chương trình mới được phối hợp với quỹ ONCE để gắn các vòng cảm ứng từ hay vòng nghe để giúp ngừoi khiếm thính. Các vòng này là những hệ thống âm thanh chuyển âm thanh thành một từ trường nhờ các máy trợ thính và các bộ xử lý cài đặt các “con ốc” (máy nghe nhỏ nhét vào tai) giúp nghe. Điều này ít nhất giúp cho những ai có những dụng cụ trợ thính như thế này có thể tham dự Thánh lễ đầy đủ hơn, nhưng nó không hữu ích đối với những người bị điếc hoàn toàn.

Giáo hội Tây ban nha đã hoạt động giúp cho các người khiếm thính từ hơn 50 năm nay. Có khoảng 173 người, dấn thân chăm sóc mục vụ cho người điếc. Nhiều người trong số họ bị điếc hay khiếm thính, bao gồm 140 giáo dân và 21 Linh mục. (CNA 08/09/2016)

Hồng Thủy

Đức Thánh Cha tiếp các Viện Phụ và Bề trên dòng Biển Đức

Đức Thánh Cha tiếp các Viện Phụ và Bề trên dòng Biển Đức

Đức Thánh Cha tiếp các Viện Phụ và Bề trên dòng Biển Đức

VATICAN. Sáng 8-9-2016 ĐTC tiếp kiến các Viện Phụ và Bề trên dòng Biển Đức thế giới, và ngài đề cao vai trò của ơn gọi chiêm niệm trong việc biểu lộ sự đáng tin cậy của sứ điệp Kitô.

Lên tiếng sau lời chào mừng của Đức Thống Phụ Notker Wolf của Liên hiệp các Đan viện Biển Đức, ĐTC nhắc lại rằng ”Đời sống đan tu là con đường tuyệt hảo để giúp cảm nghiệm kinh nghiệm chiêm nhiệm và biểu lộ kinh nghiệm ấy qua chứng tá bản thân và cộng đoàn.

”Thế giới ngày nay ngày càng chứng tỏ rõ ràng nhu cầu lòng thương xót. Lòng thương xót không phải là một khẩu hiệu hay là một công thức, nhưng là trọng tâm của đời sống Kitô và đồng thời là một lối sống cụ thể, là hơi thở linh hoạt những quan hệ giữa con người với nhau và làm cho chúng ta quan tâm hơn tới những người nghèo, liên đới với họ. Xét cho cùng, lòng thương xót biểu lộ sự đáng tin cậy của sứ điệp mà Giáo Hội gìn giữ và loan báo.

ĐTC nhận xét rằng ”thời nay, Giáo Hội được kêu gọi ngày càng chú ý đến điều thiết yếu, và các đan sĩ nam nữ do ơn gọi, giữ gìn một hồng ân và một trách nhiệm đặc biệt, đó là giữ cho các ốc đảo tinh thần được sinh động, nơi mà các vị mục tử và tín hữu có thể kín múc nơi các nguồn mạch lòng thương xót của Chúa”.

ĐTC không quên đề cao sự hiếu khách của các đan sĩ Biển Đức, qua đó, ”Anh chị em có thể gặp những tâm hồn bị lạc hướng hoặc xa lìa Giáo Hội, những người ở trong tình cảnh nghèo khổ trầm trọng về mặt nhân bản và tinh thần”…

”Tuy sống tách biệt với thế gian, nhưng khu nội cấm của anh chị em không hề khô cằn, trái lại, đó là một sự phong phú chứ không phải là một cản trở tình hiệp thông. Việc lao tác, hòa hợp với kinh nguyện, làm cho anh chị em tham gia vào công trình sáng tạo của Thiên Chúa và liên đới với người nghèo là những người không thể sống mà không làm việc”.

Đại Hội các Viện Phụ và Bề trên dòng Biển Đức tiến hành tại Đan viện Thánh Anselmo ở Roma từ ngày 3 đến 16-9 tới đây. Trong số khoảng 250 tham dự viên cũng có một số là người Việt.

Ngày 9-9-2016 này, Cha Notker Wolf, 76 tuổi, người Đức, chấm dứt nhiệm kỳ thứ 3 làm Thống Phụ (Abbas Primas), tổng cộng là 16 năm. Ngày 10-9-2016, Tổng hội sẽ bầu người kế vị đại diện cho hơn 20 ngàn đan sĩ nam nữ dòng Biển Đức trên thế giới.

Theo niên giám năm nay của Tòa Thánh, dòng nam Biển Đức hiện có 340 đan viện với khoảng 7.200 đan sĩ, họp thành 19 chi dòng, mỗi chi dòng có Viện Phụ Tổng Quyền riêng.

Các Đan viện Biển Đức tại Việt Nam thuộc chi dòng Subiaco, có trụ sở trung ương ở Roma và gồm có 80 đan viện ở các nước với gần 1.400 đan sĩ. Đây là chi dòng lớn nhất của dòng Biển Đức (SD 8-9-2016)

G. Trần Đức Anh OP 

Giám mục Hoa kỳ phản đối tài trợ nghiên cứu phôi nửa người nửa thú vật

Giám mục Hoa kỳ phản đối tài trợ nghiên cứu phôi nửa người nửa thú vật

US-Capitol Congress

Washington – Hội đồng Giám mục Hoa kỳ phản đối một đề nghị của Viện Y tế quốc gia (viết tắt là NIH) cho phép việc dùng quỹ liên bang tài trợ việc nghiên cứu trên các phôi thai một phần của người một phần động vật, được gửi cho cơ quan vào ngày 2 tháng 9.

Các Giám mục đã đưa ra những lý lẽ luân lý đạo đức và pháp luật để phản đối kế hoạch này. Các ngài nói rằng cuộc nghiên cứu như thế sản xuất ra những “cá thể” không hoàn toàn thuộc về chủng tộc loài người cũng như các chủng loại thú vật.

Nguyên tắc hiện tại của NIH cho việc nghiên cứu tế bào gốc của con người ngăn cấm đặc biệt việc đưa những tế bào gốc đa năng – những tế bào có khả năng sinh ra một số loại tế bào khác nhau – vào trong các phôi nang linh trưởng không phải con người, những tế bào ở giai đoạn đầu phát triển. NIH đề nghị tài trợ cho các nhà khoa học nghiên cứu những phôi như thế, được biết như các chimeras (những sinh vật bao gồm một hỗn hợp của các mô khác nhau về mặt di truyền, được hình thành bởi các quá trình như sự hợp nhất của các phôi mới hình thành, hoặc ghép, hoặc đột biến).

Thông cáo của các Giám mục nói rằng: trong khi kế hoạch kêu gọi xem xét lại một số đề xuất nghiên cứu của ủy ban lãnh đạo của NIH đưa ra, thì “điều căn bản là chính phủ liên bang sẽ bắt đầu mở rộng việc sử dụng tiền thuế đóng góp vào việc tạo ra và thao túng các “sinh vật mới” có sự hiện hữu mập mờ giữa con người và thú vật, như chuột và các loại”. Tài trợ cho việc nghiên cứu như vậy nghĩa là NIH phớt lờ luật cấm điều đó và cuộc nghiên cứu đó “hiển nhiên cũng phi đạo đức”.

Về phương diện luân lý đạo đức của vấn đề, các Giám mục quan tâm đến việc tiêu diệt các phôi thai được sử dụng như nguồn nguyên liệu cho việc nghiên cứu. Nhìn nhận lợi ích cho con người có thể đạt được qua việc dùng thú vật để nghiên cứu, tuy nhiên các Giám mục cũng nhấn mạnh rằng phẩm giá đặc biệt của con người đặt những giới hạn cho những điều có thể thực hiện trong lãnh vực nghiên cứu này một cách có đạo đức. Các Đức cha nói: “Ở đây có vấn đề luân lý chính yếu liên quan đến dự án này, bên cạnh vấn đề đã nghiêm trọng là khai thác phôi người như các xưởng chế tạo tế bào gốc để nghiên cứu. Vì nếu người ta không thể nói đến mức độ nào, các sinh vật được chế biến ra, nếu có, có tình trạng hay đặc tính của con người, người ta không thể quyết định những ràng buộc luân lý đối với sinh vật đó. Chúng tôi tin rằng việc sản sinh các sinh vật mới, mà đối với chúng, luân lý căn bản và các quy định luật pháp của chúng ta sẽ không tránh khỏi bối rối, thậm chí là mâu thuẫn, tự nó là một việc vô đạo đức. NIH nên cân nhắc kỹ lưỡng hơn vấn đề này và các vấn đề luân lý trước khi xem xét việc tài trợ cho nghiên cứu các chimera nửa người nửa thú vật.”

Các Đức cha cũng thêm rằng, về mặt luật pháp, tài trợ liên bang cho nghiên cứu như thế vi phạm tu chính Dickey-Wicker, là cấm việc dùng tiền thuế để sản sinh hay tiêu diệt các phôi thai người cho các thí nghiệm. Thông cáo kết luận: dự án sai lầm trầm trọng và đề nghị NIH rút lại dự án này. (CNS 06/09/2016)

Hồng Thủy 

Chúa Giêsu là dụng cụ lòng thương xót của Thiên Chúa Cha

Chúa Giêsu là dụng cụ lòng thương xót của Thiên Chúa Cha

ĐTC chào tín hữu trong buổi tiếp kiên chung sáng thứ tư 8-9-2016

Thiên Chúa không gửi Đức Giêsu Kitô Con của Ngài đến trần gian để đánh phạt người tội lỗi và tiêu diệt kẻ gian ác, nhưng để mời gọi họ hoán cải trở về với Ngài. Chúa Giêsu là dụng cụ lòng thương xót của Thiên Chúa Cha, Ngài đi gặp gỡ tất cả mọi người để trao ban sự an ủi và ơn cứu rỗi.

 ĐTC Phanxicô đã nói như trên với hơn 50.000 tín hữu và du khách hành hương năm châu trong buổi tiếp kiến chung sáng thứ tư hôm qua.

Trong bài huấn dụ ĐTC giải thích đoạn Phúc Âm thánh Mátthêu trong chương 11 kể lại sự kiện thánh Gioan Tiền Hô – đang ở trong ngục –  gửi các môn đệ tới hỏi Chúa Giêsu: “Thầy có phải là Đấng phải đến hay chúng tôi còn phải đợi ai khác?” (Mt 11,3). Thánh nhân đang sống trong một lúc tối tăm… Gioan âu lo chờ đợi Đấng Cứu Thế và trong lời giảng dậy của mình thánh nhân đã miêu tả Người với các mầu sắc mạnh mẽ như một thẩm phán sẽ tái lập Nước Thiên  Chúa và thanh tẩy dân Ngài, thưởng công cho người tốt lành và đánh phạt các kẻ gian ác. Thánh nhân giảng như sau: “Cái riù đã đặt sát gốc cây: bất cứ cây nào không sinh quả tốt đều bị chặt đi và quăng vào lửa” (Mt 3,10). Giờ đây Chúa Giêsu đã bắt đầu sứ mệnh công khai của Ngài với một kiểu khác biệt. Gioan đau khổ và trong hai cái tăm tối – trong cái tăm tối của ngục thất, trong cái tăm tối của phòng giam và trong cái tăm tối của con tim thánh nhân không hiểu kiểu thi hành sứ mệnh này, nên muốn biết có đúng thật Ngài là Đấng Cứu Thế hay còn phải đợi một người khác.

Và câu trả lởi của Chúa Giêsu ban đầu xem ra không đáp ứng câu hỏi của thánh Gioan Tiền Hô. Thật thế, Chúa Giêsu nói: “Hãy về thuật lại cho Gioan những điều mắt thấy tai nghe: “Người mù xem thấy, kẻ què đi được, người cùi được sạch, kẻ điếc nghe được, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng. Và phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi” (Mt 11,4-6).  Đó là câu trả lởi của Chúa Giêsu. ĐTC giải thích:

Ở đây ý của Chúa Giêsu trở thành rõ ràng: Ngài trả lời Ngài là dụng cụ cụ thể lòng thương xót của Thiên Chúa Cha, đi gặp gỡ tất cả mọi người đem theo sự an ủi và ơn cứu rỗi, và trong cách thế đó biểu lộ sự phán xử của Thiên Chúa. Các người mù, người què, người phong cùi, người điếc chiếm hữu trở lại phẩm giá của họ, trong khi Tin Mừng được loan báo cho các người nghèo. Và điều này trở thành tổng hợp hoạt động của Chúa Giêsu, qua đó Ngài khiến cho hoạt động của chính Thiên  Chúa trở thành hữu hình và có thể sờ mó được.

Tiếp tục bài huấn dụ ĐTC nói: Sứ địêp mà Giáo Hội nhận từ trình thuật này trong cuộc sống của Chúa Kitô rất rõ ràng. Thiên  Chúa không gửi  Con của Ngài đến trần gian để đánh phạt người tội lỗi và tiêu diệt kẻ gian ác, nhưng để mời gọi họ hoán cải, để khi trông thấy các dấu chỉ lòng lành của Thiên Chúa họ có thể tìm ra con đường trở về, như Thánh vịnh nói: “Ôi lậy Chúa nếu như Ngài chấp tội, nào có ai đứng vững được chăng? Nhưng Chúa vẫn rộng lòng tha thứ, để chúng con biết kính sợ Ngài” (Tv 130,3-4).

Công lý mà Gioan Tiền Hô đặt ở trung tâm lời rao giảng của mình, ở nơi Chúa Giêsu được biểu lộ ra trước hết như là lòng thương xót. Và các nghi ngờ của Vị Tiền Hô chỉ diễn tả trước sự kinh ngạc mà Chúa Giêsu sẽ dấy lên sau đó với các hành động và lời nói của Ngài. Và khi đó ngưòi ta hiểu kết luận câu trả lời của Chúa Giêsu: “Phúc cho người nào không vấp ngã vì tôi” (c. 6). Gương mù gương xấu có nghĩa là “chướng ngại”. Vì thế Chúa Giêsu cảnh cáo một nguy cơ đặc biệt: nếu chướng ngại cho việc tin là các hành động lòng thương xót của Ngài, thì điều này có nghĩa là người ta có một hình ảnh sai lầm về Đấng Cứu Thế. Trái lại, phúc cho những ai trước các cử chỉ và lời nói của Chúa Giêsu, vinh danh Thiên Chúa Cha ở trên Trời. ĐTC lưu ý mọi người như sau:

Lời cảnh cáo của Chúa Giêsu luôn luôn thời sự: cả ngày nay nữa người ta cũng xây dựng các hình ảnh về Thiên Chúa ngăn cản việc hưởng nếm sự hiện diện thực sự của Ngài. Vài người cắt ra một lòng tin “tự làm lấy”, giản lược Thiên Chúa vào không gian hạn hẹp của các ước muốn và xác tín của riêng mình. Nhưng niềm tin này không phải là việc trở về với Chúa là Đấng tự tỏ hiện, trái lại, nó ngăn cản Ngài khiêu khích cuộc sống và lương tâm của chúng ta. Kẻ khác nữa thì giản lược Thiên Chúa vào một thần tuợng giả; họ dùng danh thánh Chúa để biện minh cho các lợi lộc riêng, hay tệ hơn cho sự thù hận và bạo lực. Đối với các người khác nữa thì Thiên  Chúa chỉ là nơi ẩn núp tâm lý trong đó họ được trấn an trong những lúc khó khăn: nó là một niềm tin khép kín trong chính nó, không thể thấm ướt được trước sức mạnh tình yêu thương xót của Chúa Giêsu là Đấng thúc đẩy chúng ta tiến tới với các anh em khác. Có những người khác nữa chỉ coi Chúa Kitô như  là một thầy dậy tốt của các giáo huấn luân lý đạo đức, một trong biết bao nhiêu bậc thầy trong lịch sử. Sau cùng, có người bóp nghẹt niềm tin nơi một tương quan thuần tuý duy thân tình với Chúa Giêsu, mà huỷ bỏ sức thúc đẩy truyền giáo có khả năng biến dổi thế giới và lịch sử. Chúng ta các kitô hữu chúng ta tin nơi Thiên Chúa của Đức Giêsu Kitô, và ưóc muốn của Ngài là ước muốn lớn lên trong kinh nghiệm sống động của mầu nhiệm tình yêu Ngài.

Vì thế chúng ta hãy dấn thân đề đừng đặt bất cứ chướng ngại nào trươc hành động thương xót của Thiên Chúa Cha, nhưng hãy xin ơn có một đức tin lớn lao  để chúng ta cũng trở thành các dấu chỉ và dụng cụ của lòng thương xót.

ĐTC đã chào nhiều đoàn hành hương hiện diện: các nhóm nói tiếng Pháp đến từ Phap, Thụy Sĩ, Bỉ, Libăng và đặc biệt từ Senegal, do ĐC Paul Abel Mamba hướng dẫn. Ngài nhắc cho biết hôm nay là lễ Sinh Nhật Đức Mẹ và mời gọi mọi ngưòi biết kinh ngạc về các việc thương xót Chúa Giêsu làm trong cuộc sống của mình để hoán cải và trở thành những người sống lòng thương xót.

ĐTC cũng chào các đoàn hành hương nói tiếng Anh đến từ Anh quốc, Êcốt, Malta, Australia, Hong Kong, Indonesia, Nhật Bản, Philippines, Singapore, Sri Lanka, Canada và Hoà Kỳ. Ngài cầu mong năm thánh là dịp giúp họ sống tươi vui an bình và là thừa sai lòng thương xót Chúa trong gia đình và cộng đoàn.

Trong số các đoàn hành hương nói tiếng Đức và Hoà Lan ĐTC đặc biệt chào các tín hữu Passau do ĐC Stefan Oster hướng dẫn. Họ khiến ngài nhớ tới đền thánh Đức Bà Altoeting.

Ngài cũng chào các đoàn hành hương  Bồ Đào Nha, Mozambic và Brasil, đặc biệt các nhóm đến từ các giáo phận Faro, Funchal, Maputo và Aparecida do các GM hướng dẫn. Ngài cầu mong chuyến hành hương Roma trong Năm Thánh Lòng  Thương Xót củng cố niềm tin của họ nơi Chúa Kitô.

Với các tín hữu Ba Lan ĐTC mời gọi rộng mở con tim cho tình yêu và sự tha thứ của Chúa, cũng như trở thành dụng cụ lòng thương xót của Chúa giữa lòng xã hội.

ĐTC cũng chào nhiều đoàn hành hương Ý đặc biệt đến từ các giáo phận Alife-Caiazzo, Chiavari, Tricarico, do các Giám Mục hướng dẫn, cũng như các chủng sinh Verona và các tham dự viên Trại hè đo HĐGM Ialia tổ chức. Ngoài ra cũng có các trẻ em lãnh bí tích Thêm Sức giáo phận Verona, và các đoàn hành hương Frosinone, Livorno và các thành viên Liên hiệp đi xe đạp vùng Legnanese. Ngài cầu mong chuyến hành hương Roma củng cố đức tin và đem lại cho họ và các thân nhân đã qua đời nhiều hoa trái thiêng liêng của Năm Thánh Lòng Thương Xót.

Chào các bạn trẻ, ngưòi đau yếu và các đôi tân hôn ĐTC nói chúng ta vừa cử hành lễ phong hiển thánh cho Mẹ Têresa Calcutta. Uớc chi các bạn trẻ trở thành các tông đồ của lòng thương xót như Mẹ, người đau yếu cảm thấy sự gần gủi của Mẹ trong những lúc khổ đau, và các cặp vợ chồng mới cưới biết khẩn cẩu Mẹ giúp họ sống quảng đại chú ý tới những người yếu đuối nhất.

Buổi tiếp kiến đã kết thúc với Kinh Lạy Cha và phép lành toà thánh  ĐTC ban cho mọi người.

Linh Tiến Khải

Thánh lễ tạ ơn Lễ Phong Thánh cho Mẹ Têrêsa

Thánh lễ tạ ơn Lễ Phong Thánh cho Mẹ Têrêsa

Thánh lễ tạ ơn Lễ Phong Thánh cho Mẹ Têrêsa

VATICAN. Sáng thứ hai 5-9-2016, ĐHY Pietro Parolin, Quốc vụ khanh Tòa Thánh, đã chủ sự thánh lễ tạ ơn nhân dịp lễ phong hiển thánh cho Mẹ Têrêsa Calcutta.

Đồng tế với ĐHY có hơn 30 Hồng Y, GM, gần 200 Linh mục, trước sự hiện diện của hơn 10 ngàn tín hữu tại Quảng trường thánh Phêrô, trong đó có đông đảo các nữ tu thừa sai bác ái.

Hôm qua, cũng là lễ kính thánh nữ Têrêsa Calcutta và là ngày giỗ lần thứ 19 (1997) của Mẹ.

Bài giảng của Đức Hồng Y

Trong bài giảng thánh lễ, ĐHY Quốc vụ khanh nhấn mạnh bí quyết cuộc sống và hoạt động của Mẹ Têrêsa là lời Chúa Giêsu như được công bố trong bài Tin Mừng của ngày lễ: ”Thật, Thầy bảo các con, tất cả những gì các con làm cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Thầy, là các con làm cho Thầy” (Mt 25,40).

”Mẹ Têrêsa đã khám phá nơi những người nghèo, khuôn mặt của Chúa Kitô, 'Đấng đã trở nên nghèo vì chúng ta để làm cho chúng ta trở nên giàu có nhờ cái nghèo của Ngài' (Xc 2 Cr 8,9). Mẹ đã đáp lại tình yêu vô biên của Chúa bằng một tình yêu vô biên đối với người nghèo.. Tình yêu Chúa Kitô thúc bách chúng ta” (2 Cr 5,14).

ĐHY Parolin cũng nhận xét rằng: ”Mẹ Têrêsa đã có thể trở thành một dấu dấu chỉ rất sáng ngời về lòng từ bi thương xót, như ĐTC đã nói trong bài giảng lễ Phong thánh: 'Lòng từ bi thương xót đối với Mẹ là 'muối' mang lại hương vị cho mỗi hoạt động của Mẹ và là 'ánh sáng' chiếu sáng bóng đêm của những người không còn nước mắt để khóc sự nghèo khổ của họ', vì Mẹ đã để cho mình được Chúa Kitô soi sáng, Chúa Kitô được thờ lạy, yêu mến, chúc tụng trong Thánh Thể, như chính Mẹ đã giải thích: ”Cuộc sống của chúng ta phải liên tục được nuôi dưỡng bằng Thánh Thể, vì nếu chúng ta không có khả năng nhìn thấy Chúa Kitô dưới hình bánh, thì chúng ta cũng không có thể khám phá Chúa dưới những vẻ khiêm hạ của những thân thể tiều tụy của người nghèo” (Xc Teresa di Calcutta, L'amore che dissetta, p.16).

Trong bài giảng, ĐHY Quốc vụ khanh Tòa Thánh, cũng nhắc đến một trong những hình thức nghèo khổ đau thương nhất, đó là biết mình không được thương yêu, không được mong muốn và bị khinh rẻ. Đó là một thứ nghèo cũng hiện diện tại các nước và các gia đình không nghèo, và cả nơi những người thuộc giới có những phương tiện và khả năng, nhưng cảm thấy tâm hồn trống rỗng vì đánh mất ý nghĩa và hướng đi của cuộc đời, hoặc bị thất vọng, sầu muộn vì những liên hệ bị phá vỡ, vì cô đơn trầm trọng, vì cảm tượng bị mọi người quên lãng hoặc không còn ích lợi gì cho ai nữa”.

Mẹ Têrêsa cũng coi các thai nhi chưa sinh ra và bị đe dọa trong cuộc sống như ”những người nghèo nhất trong những người nghèo.. Từ đó mẹ đã can đảm bảo vệ những sự sống đang sinh ra, Mẹ nói thẳng thắn và có những hành động rõ ràng, là dấu chỉ sáng ngời về sự hiện diện của các Ngôn Sứ và Các Thánh, là những người không quì gối trước mặt ai ngoại trừ trước Đấng Toàn Năng”.

Sau cùng, ĐHY Parolin nhắc đến sự kiện khi Mẹ Têrêsa qua đời ngày 5-9-1997, thành phố Calcutta hoàn toàn bị mất ánh sáng trong vài phút dài. Mẹ Têrêsa trên trái đất này đã là một dấu chỉ minh bạch chỉ Trời Cao. Trong ngày Mẹ qua đời, Trời Cao muốn cống hiến một dấu ấn cho cuộc đời của Mẹ và thông báo cho chúng ta rằng một ánh sáng mới đã được thắp lên trên chúng ta. Giờ đây, sau khi được chính thức nhìn nhận sự thánh thiện, ánh sáng của Mẹ càng chiếu tỏa rạng ngời hơn. Ước gì ánh sáng không tàn lụi của Tin Mừng, tiếp tục chiếu sáng cho cuộc lữ hành trần thế của chúng ta và những con đường của thế giới khó khăn này” (SD 5-9-2016)

G. Tran Đức Anh OP 

Một nữ tu truyền giáo người Tây ban nha bị cướp và giết chết ở Haiti

Một nữ tu truyền giáo người Tây ban nha bị cướp và giết chết ở Haiti

Sister Isabel Sola Matas

Port-au-Prince, Haiti – Nữ tu Monica Joseph, Tổng phụ trách dòng Nữ tu Chúa Giêsu Đức Maria đã thông báo về cái chết của nữ tu Isa Solá Matas, 51 tuổi, gốc Barcelona, Tây ban nha, truyền giáo tại Haiti từ nhiều năm. Thông cáo viết: “Với sự đau buồn lớn lao, chúng tôi xin chia sẻ tin tức vừa nhận được từ Tình dòng Hoa kỳ. Nữ tu Isa Solá Matas đã bị giết ở Haiti trong một vụ cướp gần Nhà thờ Chánh tòa Port au Prince. Xin quý vị cầu nguyện cho chị Isa, cho gia đình của Chị, cho các nữ tu của chúng tôi ở Haiti, ở Hoa kỳ và Tây ban nha. Xin Chúa chúc lành cho quý vị”.

Theo tin tức thu được từ hãng tin Fides của Bộ truyền giáo, vụ sát hại đã xảy ra vào sáng ngày 2/9 giờ địa phương trong khi Chị Isa đang lái xe trên đường ở trung tâm thủ đô. Chị đã trúng 2 phát đạn, theo cảnh sát địa phương, có lẽ là từ những kể cướp, vì giỏ xách và các đồ dùng cá nhân của chị đã bị cướp.

Chị Isa đã dấn thân với những người khiêm tốn và nghèo khổ nhất của Haiti và đã thật sự sống cùng với họ sau trận động đất xảy ra năm 2010: chị giúp họ xây dựng lại nhà cửa, dấn thân như y tá và để làm dịu đi các đau khổ của những người đã bị mất tay chân trong trận động đất.

Haiti là nước nghèo nhất ở vùng Tây bán cầu, đánh dấu bởi sụ thiếu giáo dục, nghèo đói và tội phạm lan tràn. Từ lâu nước này bị tê liệt bởi một cuộc khủng hoảng chính trị và thể chế. Ngày 8/10/2010, Julien Kénord, điều hành cơ quan bác ái Thụy sĩ đã bị giết ở Port-au-Prince trong một vụ cướp. Ngày 24/4/2013, cha Richard E. Joyal, người Canada, thuộc dòng Đức Maria cũng đã bị giết trong vụ cướp tiền khi cha vừa rút từ ngân hàng. (Fides 3/9/2016)

Hồng Thủy

Đức Giáo hoàng mời 1500 người nghèo dùng bữa pizza

Đức Giáo hoàng mời 1500 người nghèo dùng bữa pizza

Pope invited 1500 poor people to eat pizza 1

Vatican – Hôm qua, ngày 4/9, nhân lễ tôn phong hiển thánh cho mẹ Têrêsa Calcutta, Đức Giáo hoàng Phanxicô đã quyết định mời 1500 người nghèo khổ dùng bữa trưa với món chính là pizza Napoletana, một loại pizza xuất phát từ thành phố Napoli (Naples).

Theo một thông cáo từ Vatican, các thực khách là “những người nghèo khổ, đặc biệt là những người trú ngụ tại các nhà của các nữ tu Thừa sai Bác ái của Mẹ Têrêsa; họ đến từ khắp nước Ý, gồm các nhà ở Milan, Florence, Naples và tất cả các nhà ở Roma. Họ đã di chuyển trên nhiều xe bus suốt đêm về Roma để dự lễ phong thánh Mẹ Têrêsa Calcutta. Trong Thánh lễ họ ngồi ở phần dành riêng cho họ, gần tượng Thánh Phêrô, nghĩa là phần trên của quảng trường Thánh Phêrô, thường được gọi là “Reparto San Pietro” (khu vực Thánh Phêrô).

Sau Thánh lễ, các vị khách này đã đi vào đại thính đường Phaolô VI tại Vatican để dùng bữa trưa, chủ yếu là pizza theo kiểu thành phố Naples. 250 nữ tu cùng với 50 tu huynh Thừa sai Bác ái của Mẹ Têrêsa, cùng với một số người tình nguyện đã phục vụ bữa ăn. Một đội ngũ gồm 20 đầu bếp đã chuẩn bị phần pizza với 3 lò nướng lớn. (RV 4/9/2016)

Hồng Thủy

Tường thuật lễ tôn phong hiển thánh cho Mẹ Teresa Calcutta

Tường thuật lễ tôn phong hiển thánh cho Mẹ Teresa Calcutta

Holy Mass and the canonization of Mother Teresa of Calcutta

Hoạt động thương xót không mỏi mệt của Mẹ Terexa Calcutta ở vùng ngoại biên các thành phố và cuộc sống giúp chúng ta luôn ngày càng hiểu rằng tiêu chuẩn hoạt động duy nhất của chúng ta phải là tình yêu thương nhưng không, tự do khỏi bất cứ ý thức hệ hay ràng buộc nào, và tuôn đổ trên tất cả mọi người, không phân biệt ngôn ngữ, văn hóa, chủng tộc hay tôn giáo. Mẹ Terexa thường nói: “Có lẽ tôi không nói tiếng của họ, nhưng tôi có thể cười”. Chúng ta hãy mang theo trong tim nụ cười của Mẹ và trao ban nó cho những ai chúng ta gặp trên đường đời, nhất là cho những người đau khổ.

Kính thưa quý vị thính giả, ĐTC Phanxicô  đã nói như trên trong bài giảng thánh lễ tôn phong hiển thánh cho Mẹ Terexa Calcutta, do ngài cử hành trước thềm Đền Thờ Thánh Phêrô lúc 10 giờ rưỡi sáng Chúa Nhật mùng 4 tháng 9 hôm qua.

 

Đại lễ phong thánh cho Mẹ Teresa Calcutta ngày 4 tháng 9-2016 -- Thuyết minh tiếng Việt Nam

Cùng đồng tế thánh lễ với ĐTC đã có khoảng 70 Hồng Y, 400 Tổng Giám Mục Giám Mục, 1,700 linh mục trong đó có 600 vị giúp ĐTC cho tín hữu rước lễ. Tham dự thánh lễ, ngoài ngoại giao đoàn cạnh Toà Thánh còn có phái đoàn đại diện của 20 quốc gia, do 13 quốc trưởng và thủ tướng hướng dẫn gồm các nước: Albania, nguyên Cộng hoà Jugoslavia Macedonia, Ấn Độ, Kosovo, Tây Ban Nha, San Marino, Đài Loan, Nigeria, Honduras, Italia, Vương quốc Monaco,  Hoà Lan, Ghana, Bosni Erzegovina, Panama, Hoa Kỳ, Áo, Croazia, Montenegro, Belize và 2 tổ chức quốc tế là Luơng nông quốc tế FAO và Lương thực thế giới PAM. Cùng tham dự thánh lễ có hơn 100,000 tín hữu, trong đó có 45.000 thành viên các tổ chức thiện nguyện về Roma mừng Năm Thánh Lòng Thương Xót. Đặc biệt cũng có 1,500 người nghèo, hành khất, vô gia cư, bị bỏ rơi được các nữ tu của Mẹ Terexa săn sóc trong các nhà ở Roma, Milano, Bologna, Firenze và Napoli.

Sau lời chào mở đầu thánh lễ của ĐTC ĐHY Angelo Amato Tổng trưởng Bộ Phong Thánh đã tiến lên xin ĐTC phong hiển thánh cho chân phước Têrexa Calcutta, và đọc tiểu sử của chân phước mà mọi người đều gọi là “Mẹ Têrêxa Caltutta”. Chân phước tên đời là Agnes Gonxha Bojaxhiu sinh ngày 26 tháng 8 năm 1010 tại Skopje, con của một gia đình gốc Albani. Hồi còn trẻ chị đã tham gia các sinh hoạt trong giáo xứ và ước mong tận hiến cuộc đời cho Chúa. Chị rời gia đình và được nhận vào dòng Đức Trinh Nữ diễm phúc Maria Loreto tại Rathfarnam bên Dublin Ai Len. Chi được gửi sang phục vụ bên Ấn Độ, vào nhà Tập và khấn dòng với tên gọi là Terexa. Trong 17 năm trời chị dậy học tại trường trung học Thánh Mary Bengali gần Calcutta.  Trên một chuyến xe lửa từ Calcutta đi Darieeling chị nghe tiếng Chúa Giêsu hấp hối trên thập giá nói “Ta khát” và trực giác được “ơn gọi trong ơn gọi”, thành lập một dòng du để “làm thoả mãn cái khát vô tận tình yêu thương và các linh hồn, mà Chúa Giêsu có trên thập giá, bằng cách làm việc cho ơn cứu rỗi và việc thánh hóa những người nghèo nhất trong những người nghèo. Chị lập dòng các nữ tu Thừa Sai Bác Ái, tiếp theo đó là dòng các Anh em Thừa Sai Bác Ái, các tổ chức giáo dân và Phong trào rộng mở cho các linh mục giáo phận.

Mẹ Terexa không quản ngại mệt nhọc tận hiến cuộc đời và sức lực cho việc loan báo Tin Mừng, qua nhiều hoạt động bác ái và trợ giúp những người rốt hết, không phân biệt giai tầng xã hội, tôn giáo và chủng tộc. Ở nền tảng mọi sáng kiến của Mẹ là việc cử hành Thánh Lễ, chầu Thánh Thể, cầu nguyện và có một tình yêu đại đồng thúc đẩy Mẹ trông thấy và phục vụ Chúa Giêsu nơi người nghèo.

Chứng tá tin mừng anh hùng của Mẹ khơi dậy sự khâm phục của của các giới chức lãnh đạo cao cấp nhất trong Giáo Hội cũng như trong thế giới đời. Năm 1979 Mẹ được giải thường Nobel Hoà Bình. Kiệt lực nhưng luôn luôn mạnh mẽ trong tinh thần Mẹ qua đời tại Calcutta ngày mùng 5 tháng 9 năm 1997 trong hương thơm thánh thiện.

Tiếp đến ĐTC đã cùng cộng đoàn hát kinh cầu các thánh. Rồi ngài đọc công thức tôn phong hiển thánh cho Mẹ như sau:

Để  vinh danh Thiên Chúa Ba Ngôi Chí Thánh, biểu dương đức tin công giáo và thăng tiến cuộc sống kitô, với quyền của Chúa Giêsu Kitô Chúa chúng ta và của hai Thánh Tông Đồ Phêrô Phaolô và của chúng tôi, sau khi đã suy nghĩ lâu dài và nhiều lần xin ơn Chúa trợ giúp và lắng nghe ý kiến của nhiều anh em trong Hàng Giám Mục, chúng tôi tuyên bố và định nghĩa là Thánh chân phước Terexa Calcutta và ghi tên người vào Sổ Bộ các Thánh và thiết định rằng người được tôn kính giũa các Thánh trong toàn thể Giáo Hội, nhân danh Cha và Con và Thánh Thần”.

Thánh tích của Mẹ đã được rước lên đặt bên trái bàn thờ. Đó là một cây thánh giá được ghép bằng nhiều mảnh gỗ phát xuất từ nhiều người và từ nhiều nơi khác nhau, nơi khổ đau tiếp tục nói lên tiếng rên “Ta khát” của Chúa Giêsu. Phần trước của thánh giá cũng bao gồm một mảnh gỗ của bàn quỳ toà giải tội, biểu tượng cho ơn tha thứ, mà hối nhân nhận được từ tình yêu của Thiên Chúa, và Mẹ Terexa coi họ là những người nghèo nhất trong những người nghèo. Thánh giá được viền vàng để nêu bật hai tình yêu lớn nhất của Mẹ đối với Chúa Giêsu và Người Nghèo. Chiếc hộp đựng thánh tích của Mẹ có hình một giọt nước để giải cơn khát của sự vô nghĩa của khổ đau trong cô đơn. Thánh giá được cắm trên một đế bảng sắt bẩn hư hại biểu tượng cho cái nhìn, mà xã hội có đối với người nghèo, nhưng họ lại được Mẹ yêu thương với tất cả tâm lòng và được Mẹ phục vụ trong các khu xóm ổ chuột bần thỉu tại Calcutta, vì họ là phương thế giúp kết hiệp với Chúa Giêsu.

Thánh giá được đặt trong một cái hộp hình trái tim phần bên trái có ba giải mầu xanh diễn tả chiếc áo dòng sari của Mẹ, cong xuống như lưng của Mẹ cúi xuống cầu nguyện, suy niệm và gù người phục vụ dân nghèo. Phần tim bên phải có hình mềm mại hơn mầu trắng diễn tả chiếc áo dòng của Mẹ vói hai chữ “Ta khát” Hai phần của trái tim tách rời nhau nhưng nối liền bởi một vòng tròn diễn tả sự năng động trong sứ mệnh của Mẹ, bắt đầu với sự mạc khải của Chúa Giêsu và được đưa tới chỗ thành toàn. Mầu xanh và mầu trắng cũng là mầu của Mẹ Maria, mà Mẹ Terexa rất tôn sùng và cầu khẩn với lời nguyện đẹp sau đây: “Lậy Mẹ Maria, Mẹ Chúa Giêsu, xin ban cho con Trái tim của Mẹ, xinh đẹp, trinh trong, vô nhiễm, tràn đầy tình yêu và khiêm tốn, để con có thể nhận lấy Chúa Giêsu trong Bánh Sự Sống, yêu Ngài như Mẹ đã yêu Ngài, và phục vụ Ngài như Mẹ đã phục vụ Ngài dưới gương mặt biến dạng của nhừng người nghèo nhất trong những người nghèo”.

Thánh lễ tiếp tục với Kinh Vinh Danh. Các bài sách Thánh đã được tuyên đọc bằng tiếng Anh và tiếng Tây Ban Nha, Thánh vịnh được hát bằng tiếng Ý, và Phúc Âm được hát bằng tiếng Latinh và tiếng Hy Lạp. Các lời nguyện giáo dân đã được đọc bằng các thứ tiếng Albani, Pháp, Bengali, Đồ Đào Nha và Tầu.

Giảng trong thánh lễ ĐTC đã quảng diễn ý nghĩa bài đọc một trích từ sách Khôn Ngoan liên quan tới điều Thiên Chúa muốn nơi con người, là sống đẹp lòng Ngài. ĐTC nói: Các tác nhân lịch sử luôn luôn là hai: một đàng là Thiên Chúa, đàng khác là con người. Nhiệm vụ của chúng ta là nhận thức được tiếng gọi của Thiên Chúa và đón nhận ý muốn của Ngài. Nhưng để có thể tiếp nhận và kiểm thực tiếng gọi của Chúa mà không lưỡng lự chúng ta phải hiểu điều gì làm đẹp lòng Ngài. Biết bao ngôn sứ loan báo điều đẹp lòng Chúa và đúc kết nó trong kiểu diễn tả này: “Ta muốn lòng thương xót chứ không cần của lễ” (Hs 6,6; Mt 9,13). ĐTC giải thích như sau:

Mọi công việc của lòng thương xót đều đẹp lòng Thiên Chúa, bởi vì trong người anh em, mà chúng ta giúp đỡ, chúng ta nhận ra gương mặt của Thiên Chúa, mà không ai trông thấy (x. Ga 1,18). Mỗi lần chúng ta cúi xuống trên các nhu cầu của các anh em khác, là chúng ta đã cho Chúa Giêsu ăn và uống; chúng ta đã cho Ngài mặc, nâng đỡ và viếng thăm Con Thiên Chúa (x. Mt 25,40). Như thế, chúng ta đưọc mời gọi diễn tả cụ thể điều chúng ta xin trong lời cầu nguyện và tuyên xưng trong đức tin. Không có cách nào khác ngoài tình bác ái: những ai phục vụ các anh em khác là những nguời yêu mến Thiên Chúa, dù không biết Ngài (x Ga 3,16-18; Gc 2,14-18). Tuy nhiên, cuộc sống kitô không chỉ là việc trợ giúp khi cần. Nó là tâm tình liên đới đẹp, nhưng sẽ khô cằn vì không có gốc rễ. Trái lại, dấn thân mà Chúa đòi hỏi là dấn thân của một ơn gọi bác ái, qua đó nguời môn đệ Chúa Kitô dùng chính cuộc sống mình để phục vụ và lớn lên mỗi ngày trong tình yêu. Phúc Âm nói đến “đám đông dân chúng đến với Chúa Giêsu” (Lc 14,25). Ngày hôm nay “đám đông” đó là thế giới thiện nguyện đang quy tụ ở đây nhân Mừng Năm Thánh Lòng Thương Xót. Anh chị em chính là những người theo Chúa và khiến cho tình yêu của Ngài trở thành cụ thể đối với từng người…. Các người thiện nguyện củng cố biết bao con tim, nâng đỡ biết bao bàn tay, lau khô biết bao nước mắt! Có biết bao tình yêu thương đã được đổ vào việc phục vụ dấu ẩn, khiêm tốn và vô vị lợi này!

Việc theo Chúa Giêsu là một dấn thân nghiêm chỉnh, đồng thời tươi vui. Nó đòi hỏi tính triệt để và lòng can đảm, để nhận ra Chúa nơi người nghèo nhất và phục vụ họ. Khi phục vụ các người rốt hết và cần được giúp đỡ vì tình yêu Chúa Giêsu, các người thiện nguyện không chờ đợi lời cám ơn hay ca ngợi nào. Họ từ chối mọi sự vì đã khám phả ra tình yêu đích thật. Như Chúa đã đến gặp tôi và cúi xuống trên tôi trong lúc thiếu thốn, tôi cũng đi gặp gỡ Ngài và cúi xuống trên những người đã mất đức tin hay sống như thể Thiên Chúa không hiện hữu, cúi xuống trên những người trẻ sống không giá trị và không lý tưởng, trên các gia đình gặp khủng hoảng, trên bệnh nhân và người tù, người di cư tỵ nạn, trên người yếu đuối và không được bênh đỡ trên thân xác cũng như trong tinh thần, trên các trẻ em vị thành niên bị bỏ rơi cho chính mình, cũng như trên các người già cả phải sống cô đơn.

Đề cập đến gương sống của Mẹ Terexa ĐTC nói:

Trong toàn cuộc đời mình Mẹ Teressa đã quảng đại phân phát lòng thương xót Chúa, sẵn sàng với tất cả mọi người qua việc tiếp đón và bảo vệ sự sống con người, sự sống chưa sinh ra cũng như sự sống bị bỏ rơi và gạt bỏ. Mẹ đã dấn thân bênh vực sự sống bằng cách không ngừng công bố rằng “ai chưa sinh ra là người yếu đuối nhất, bé nhỏ nhất, bần cùng nhất”. Mẹ cúi xuống trên trên những người kiệt lực bi bỏ chết bên lề đường, bằng cách thừa nhận phẩm giá mà Thiên Chúa đã ban cho họ. Mẹ đã làm vang lên tiếng nói của Mẹ giữa các người quyền thế của trái đất này, để cho họ nhận ra các lỗi lầm của họ trước các tội ác của nghèo đói do chính họ dã gây ra. Đối với Mẹ lòng thương xót đã là “muối” trao ban hương vị cho mỗi hoạt động của Mẹ, và là “ánh sáng” chiếu soi các tăm tối của biết bao người cũng đã chẳng còn nước mắt để khóc thương cho sự nghèo túng và nỗi khổ đau của họ.

Sứ mệnh của Mẹ trong các vùng ngoại biên của các thành phố và của cuộc sống tồn tại ngày nay như chứng tá hùng hồn sự gần gũi của Thiên Chúa với những người nghèo nhất giữa những người nghèo. Hôm nay tôi trao gương mặt biểu tượng này của phụ nữ và người được thánh hiến cho toàn thế giới thiện nguyện: ước chi Mẹ là mẫu gương sự thánh thiện của anh chị em! Ước chi người hoạt động của lòng thương xót không mỏi mệt này giúp chúng ta luôn ngày càng hiểu biết hơn rằng tiêu chuẩn hoạt động duy nhất của chúng ta là tình yêu nhưng không, tự do khỏi bất cứ ý thức hệ hay ràng buộc nào, và tuôn đổ trên tất cả mọi người, không phân biệt ngôn ngữ, văn hóa, chủng tộc hay tôn giáo! Mẹ Terexa thường nói: “Có lẽ tôi không nói tiếng của họ, nhưng tôi có thể cười”. Chúng ta hãy mang theo trong tim nụ cười của Mẹ và trao ban nó cho những ai chúng ta gặp trên đường đời, nhất là cho những người đau khổ. Như thế chúng ta sẽ mở ra cho biết bao người đã mất tin tưởng và đang cần sự cảm thông và lòng hiền dịu các chân trời của niềm vui và niềm hy vọng.

Trưóc khi đọc kinh Truyền Tin và ban phép lành cuối lễ cho mọi người ĐTC đã ngỏ lời cám ơn tất cả mọi người tham dự. Trước hết là các nữ tu Thừa Sai Bác Ái là gia đình thiêng liêng của Mẹ. Uớc chi thánh đấng sáng lập luôn trông chừng trên con đường của các chị và giúp các chị trung thành với Thiên Chúa, Giáo Hội và người nghèo. Tiếp đến ĐTC cám ơn các chính quyền hiện diện đặc biệt của các nước gắn bó nhất với gương mặt của vị Thánh mới, cũng như các phái đoàn chính thức và nhiều tín hữu hành hương đến từ các nước đó trong dịp hạnh phúc này. Xin Chúa chúc lành cho quốc gia của anh chị em.

ĐTC cũng chào và cám ơn các thiện nguyện viên và nhân viên lòng thương xót. Ngài phó thác họ cho sự che chở của Mẹ Teresa. Xin Mẹ dậy cho họ biết chiêm ngắm và thờ lậy Chúa Giêsu bị đóng đanh mỗi ngày để nhận biết và phục vụ Ngài nơi các anh chị em nghèo. Chúng ta cũng xin ơn này cho tất cả những ai hiệp nhất với chúng ta qua các phương tiện truyền thông khắp nơi trên thế giới.

ĐTC cũng muốn nhớ tới những người xả thân phục vụ các anh chị em phải sống trong các hoàn cảnh khó khăn và nguy hiểm, đặc biệt là biết bao nhiêu nữ tu không quản ngại hiến mạng sống mình cho tha nhân. Ngài xin mọi người đặc biệt cầu nguyện cho chi Isabel người Tay Ban Nha bị sát hại cách đây hai ngày trong thủ đô Haiti, một đất nước bị thử thách nhiều và ngài cầu mong các hành động bạo lực như thế chấm dứt và có nhiều an ninh hơn cho tất cả mọi người. Chúng ta cũng hãy nhớ tới các nữ tu khác mới đây đã là nạn nhân của bạo lực tại các nước khác. Chúng ta làm điều này bằng cách hướng lời cầu lên Đức Trinh Nữ Maria là Mẹ và là Nữ Vương các Thánh. Tiếp đến ĐTC đã cất Kinh Truyền Tin và ban phép lành cho mọi người

Sau thánh lễ 1,500 người nghèo đã được ĐTC đãi ăn trưa tại tiền sảnh đại thính đường Phaolô VI, do 100 nữ tu và 50 tu huynh Thừa Sai Bác Ái phục vụ.

Linh Tiến Khải