Lịch sử ngắn gọn lòng sùng kính Trái Tim Đức Mẹ

Lịch sử ngắn gọn lòng sùng kính Trái Tim Đức Mẹ

Để hiểu rõ hơn bản chất, việc thực hành và nền tu đức lòng sùng kính Mẹ Maria, việc tìm hiểu lịch sử lòng sùng mộ, cả khi ngắn gọn, là điều cần thiết.

Trước hết là lòng sùng mộ theo Thánh Kinh. Trong Thánh Kinh rõ ràng là từ “trái tim” – “cor” trong tiếng Latinh; “leb, lebab” trong tiếng Do thái, “kardia” trong tiếng Hy lạp – là nền tảng của tất cả tương quan tôn giáo-luân lý của con người với Thiên Chúa. Trái tim là trung tâm của toàn cuộc sống tâm lý, luân lý và tôn giáo. Nó là nơi các thái độ tốt hay xấu của con người thành hình. Nó là trung tâm cuộc sống luân lý, như là nguyên lý và nguồn gốc của tinh thần trách nhiệm, hiểu như là lương tâm. Trái tim cũng là trung tâm của cuộc sống hiểu biết, và như thế diễn tả nội tâm con người và sự thân tình sâu thẳm. Do đó nền nhân chủng học kinh thánh cựu ước coi trái tim như trung tâm của tất cả cuộc sống tinh thần của con người. Trái tim là nguyên lý sự sống, là ký ức, là tư tưởng, là ý chí, là tính nội tại của con người. Áp dụng cho Mẹ Maria trong kiểu nói “trái tim của Đức Maria” từ “tim” chiếm hữu được một năng động mạnh mẽ có khả năng phát triển các năng lực tinh thần khác, Các văn  bản cứu thế chúc tụng (Tv 44), các văn bản đề cập đến “con tim mới“ (Ed 36,24-28) và nhiều văn bản khác của Thánh Kinh Cựu Ước coi trái tim như là nơi con người gặp gỡ Thiên Chúa.

 Nổi tiếng nhất là văn bản của ngôn sứ Edêkiel chương 36, trong đó Thiên Chúa hứa quy tụ dân Israel từ khắp nơi về, thanh tẩy dân Israel khỏi mọi tà thần và ban cho họ một con tim mới. Văn bản viết: “Ta sẽ ban tặng các ngươi một qủa tim mới, sẽ đặt thần khí mới vào lòng các ngươi. Ta sẽ bỏ đi qủa tim bằng đá khỏi thân mình các ngươi và sẽ ban tặng các ngươi một qủa tim bằng thịt” (Ed 36,26).

Trong Thánh Kinh Tân Ước từ “trái tim” duy trì giá trị từ vựng của Thánh Kinh Cựu Ước. Chúa Giêsu mời gọi mọi người hãy học nơi Người vì Người hiền dịu và khiêm nhường trong tim (Mt 11,29). Tranh luận về truyền thống liên quan tới luật thanh sạch và ô uế, Chúa Giêsu khẳng định rằng những gì ở ngoài đi vào trong con người không khiến cho họ ra ô uế. Ăn mà không rửa tay không khiến cho con người ra ô uế. Chính những cái từ miệng phát xuất ra, là phát xuất từ trái tim con người, những thứ đó làm cho con người ra ô uế. Vì từ con tim phát xuất ra những ý định gian tà, những tội giết người, ngoại tình, tà dâm, trộm cắp, làm chứng gian và vu khống. Đó mới là những cái làm cho con người ra ô uế (Mt 11,18-20). Trả lời câu hỏi điều răn nào quan trọng nhất, Chúa Giêsu nói: “Ngươi phải yêu mến Chúa là Thiên Chúa của ngươi hết con tim, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi”. Đó là điều răn quan trọng nhất (Mt 22,37). Chương 6 Phúc Âm thánh Luca ghi lại giáo huấn của Chúa Giêsu xem qủa thì biết cây “Người tốt thì lấy ra cái tốt từ kho tàng lòng tốt của mình; kẻ xấu thì lấy ra cái xấu từ kho tàng xấu. Vì tim có đầy, miệng mới nói ra” (Lc 6,45) (Lc 9,47; 24,25; Ga 12,40; 16,22). Tả cảnh kitô hữu thời Giáo Hội khai sinh hiệp nhất yêu thương nhau sách Công Vụ viết trong chương 4 câu 32: “Các tín hữu thời bấy  giờ đông đảo, mà chỉ có một lòng một ý. Không một ai coi bất cứ cái gì mình có là của riêng, nhưng đối với họ, mọi sự đều là của chung”. Kể lại lời Phó tế Stephanô tố cáo giới lãnh đạo Do thái, chương 7 sách Công Vụ viết: “Hỡi những người cứng đầu cứng cổ, tim và tai không cắt bì, các ông luôn luôn chống lại Thánh Thần. Cha ông các ngươi thế nào thì các ngươi cũng vậy” (Cv 7, 51). Trong thư gửi tín hữu Roma thánh Phaolô khẳng định với tín hữu rằng nhờ đức tin họ trở nên công chính và không thất vọng “Vì Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Người vào con tim chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta” (Rm 5,5). Trong chương 3 thư thứ II gửi tín hữu Côrintô thánh nhân nói ngài và các cộng sự viên không cần thư giới thiệu, vì tín hữu chính là thư giới thiệu của ngài. Thư ấy được viết trong tim ngài, mọi người đều biết và đã đọc. Tín hữu là bức thư Đức Kitô giao cho thánh nhân và các cộng sự viên chăm sóc, được viết trên thịt tức là trái tim con người (2 Cr 3,2-3) (Ep 3,17; 4,18; Cl 3,15-16; Dt 8,10, 10,16).

Lòng sùng kính trái tim Đức Maria được ưu tiên đặc biệt vì dựa trên ba văn bản chìa khóa của Thánh Kinh Tân Ước, là nền tảng của tất cả truyền thống sau này. Cả ba văn bản nằm trong trình thuật cuộc đời thơ ấu của Chúa Giêsu. Trước hết là biến cố Giáng Sinh. Phúc Âm thánh Luca viết trong chương 2 câu 18-19: “Nghe các mục đồng thuật chuyện ai cũng ngạc nhiên. Về phần mình Đức Maria gìn giữ mọi điều này và suy đi nghĩ lại trong tim” (kardía).  Thuật lại biến cố dâng Chúa Hài Nhi trong Đền Thờ Giêrusalem thánh sử Luca ghi lại lời tiên tri của cụ già Simeon: “Còn chính bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thâu con tim bà” (kardía) (Lc 2,35). Trong biến cố Chúa Giêsu lên 12 tuổi cùng cha mẹ lên Giêsuralem mừng lễ Vượt Qua, ở lại trong Đền Thờ và đối đáp với các bậc thầy Do thái, sau khi tìm thấy Người Mẹ Maria trách: “Con ơi, sao con lại xử với cha mẹ như vậy? Con thấy không, cha con và mẹ đây đã phải cực lòng tìm con!”. Người đáp: “Sao cha mẹ lại tìm con làm gì? Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà Cha con sao?”. Nhưng hai ông bà không hiểu lời Người nói. Sau đó, Người đi xuống cùng với cha mẹ, trở về Nagiarét và hằng vâng phục các ngài. Còn riêng mẹ Người thì hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong hồn” (psiché) (Lc 2, 48-52).

Hai văn bản đầu tiên đã được giải thích nhiều cách khác nhau, nhất là trong chìa khóa lịch sử, khải huyền và khôn ngoan. Nhiều nhà chú giải cho rằng thánh sử Luca, hay tác giả mà thánh sử tùy thuộc, đã muốn ám chỉ một cách tế nhị rằng nguồn gốc các tin tức của thánh nhân là chính Đức Trinh Nữ Maria. Nhiều nhà chú giải tân tiến khác thì nghĩ rằng hai văn bản Lc 2,19 và Lc 2, 51 diễn tả một hình thái văn chương riêng của loại văn chương khải huyền , được soạn giả dùng để lôi kéo sự chú ý của độc giả trên tầm quan trọng của điều được kể. Cũng giống như trong sách Daniel. Daniel sau thị kiến về “Con người” nói rằng: “Tôi, Daniel, tôi rất bối rối trong tư tưởng, mầu mặt tôi thay đổi và tôi giữ gìn tất cả những điều ấy trong tim” (Dn 7,28).

Chắc chắn đây là một hình thái văn chương thuộc loại khải huyền, được dùng để  ám chỉ không phải nguồn gốc lịch sử, mà tác giả tùy thuộc, cho bằng sự kiện Đức Maria được đặt ở trung tâm của suy tư kitô về các mầu nhiệm cuộc đời thơ ấu của Chúa Giêsu. Điều này rất quan trọng đối với nền tu đức sùng mộ Khiết Tâm Đức Mẹ, bởi vì trái tim Đức Mẹ, theo các nguồn tin mừng, được coi như là chiếc nôi của toàn suy niệm kitô về các mầu nhiệm của Chúa Kitô. Và điều này ban cho lòng sùng kính Trái tim Đức Mẹ một nền tảng tài liệu viết không thể so sánh được. Tuy nhiên, cũng cần chú ý tới truyền thống truyền khẩu rất quan trọng và thường khá trung thực nơi các dân tộc vùng Trung Đông, trong đó có dân Do thái. Chắc chắn Đức Mẹ đã kể lại nhiều điều về thời thơ ấu của Chúa Giêsu, trong đó có các biến cố được các Phúc Âm nhắc tới trên đây.

Ngoài ra cũng không nên lơ là với viễn tượng khôn ngoan được học giả A. Serra nêu bật. Theo học giả Serra “suy niệm trong tim” là đặc tính của người khôn ngoan, giữ gìn trong ký ức các sự kiện để thời sự hóa nội dung của chúng. Cũng thật là hay, khi ghi nhận rằng từ “suy gẫm” (sunbálllein) nhắc lại sinh hoạt biểu tượng, qua đó người ta đặt các thực tại cổ xưa với các thực tại mới để hiểu rõ chúng hơn.

Văn bản thứ hai tả lại cảnh dâng Chúa Hài Nhi trong Đền Thờ Giêrusalem cũng rất hay trên bình diện thánh mẫu học, bởi vì trong văn bản này việc kết hiệp nội tại của Đức Maria với toàn công trình cứu độ của Con mẹ lộ hiện một cách sâu xa bất ngờ. Tất cả những gì được thành toàn trong thân thể khổ đau của Con thì cũng thành toàn trong tâm hồn và trong con tim của Mẹ Người.

Đó là lý do giải thích tại sao hai yếu tố nòng cốt này giúp hiểu kiểu nói “trái tim Đức Maria” bắt đầu từ Thánh Kinh.Mother of tears in syracuse - 1

Linh Tiến Khải

 

Đức Thánh Cha tiếp Hội Đồng tái truyền giảng Tin Mừng

Đức Thánh Cha tiếp Hội Đồng tái truyền giảng Tin Mừng

VATICAN. ĐTC mời gọi các tín hữu cảm nghiệm cụ thể lòng thương xót của Thiên Chúa để trở thành dụng cụ cứu độ cho anh chị em mình.

 Đó là ý tưởng ĐTC đặc biệt nhấn mạnh trong buổi tiếp kiến sáng 29-5-2015 dành cho 50 HY, GM và LM, tu sĩ tham dự khóa họp toàn thể của Hội đồng Tòa Thánh tái truyền giảng Tin Mừng về đề tài: ”Đâu là tương quan giữa việc loan báo Tin Mừng và huấn giáo”.

 Lên tiếng trong dịp này ĐTC nhắc đến việc tổ chức Năm Thánh đặc biệt về Lòng Thương Xót được ngài ủy thác cho Hội đồng Tòa Thánh tái truyền giảng Tin Mừng và khẳng định rằng: Năm Thánh này có mục đích làm nổi bật hơn hồng ân Lòng Thương Xót của Chúa. Đây chính là việc loan báo mà Giáo Hội được mời gọi thông truyền qua hoạt động loan báo Tin Mừng trong một thời đại có những thay đổi lớn. Những thay đổi này là một sự kích thích các tín hữu đón nhận những dấu chỉ thời đại mà Chúa cống hiến cho Giáo Hội, để Giáo Hội có khả năng mang Chúa Giêsu Kitô đến cho cho người ngày nay. Sứ mạng này vẫn như trước, nhưng ngôn ngữ dùng để loan báo Tin Mừng đòi phải được đổi mới, trong sự khôn ngoan mục vụ.”

 ĐTC cũng nhấn mạnh rằng ”con người ngày nay đang mong đợi Giáo Hội biết đồng hành với họ, cống hiến cho họ chứng tá đức tin, khiến Giáo Hội liên đới với tất cả mọi người, đặc biệt là những ngừơi cô đơn và bị gạt ra ngoài lề. Bao nhiêu người nghèo đang chờ đợi Tin Mừng giải thoát! Bao nhiêu người nam nữ, ở những vùng ngoại biên cuộc sống do xã hội tiêu thụ gây ra, đang chờ đợi sự gần gũi và tình liên đới của chúng ta”!

 Trong bối cảnh đó, ĐTC khẳng định rằng ”tân Phúc Âm hóa là ý thức tình yêu thương xót của Chúa Cha để chính chúng ta cũng trở thành những dụng cụ cứu độ cho các anh chị em chúng ta”.

 ĐTC đề cao tầm quan trọng của việc huấn giáo trong đời sống Kitô để các tín hữu cảm nghiệm lòng thương xót của Thiên Chúa. Đây không phải là một ý tưởng trừu tượng, nhưng là một sự cảm nghiệm cụ thể, qua đó chúng ta hiểu những yếu đuối của mình và sức mạnh đến từ trên cao.. Thiên Chúa đến cứu vớt chúng ta khỏi thân phận yếu đuối chúng ta đang sống.

 ĐTC không quên nhắc nhở rằng ”việc giáo dục về đức tin là điều thiết yếu, nó đòi chúng ta phải có can đảm, tinh thần sáng tạo, và quyết định đi vào những con đường nhiều khi chưa được thám hiểm. Việc huấn giáo, như thành phần của tiến trình loan báo Tin Mừng, cần phải đi xa hơn lãnh vực học đường, để giáo dục các tín hữu, ngay từ nhỏ, gặp gỡ Chúa Kitô hằng sống và hoạt động trong Giáo Hội của Người” (SD 29-5-2015)

 G. Trần Đức Anh OP

 

Thư Đức Thánh Cha nhân lễ phong Chân Phước cho Đức TGM Romero

Thư Đức Thánh Cha nhân lễ phong Chân Phước cho Đức TGM Romero

ĐTGM Romeo

SAN SALVADOR. ĐTC đề cao tấm gương của Tân Chân Phước Oscar Romero và mời gọi toàn dân El Salvador tiến vào con đường hòa giải đích thực.

Trên đây là nội dung thư ĐTC gửi đến Đức Cha José Luis Escobar Alas, TGM San Salvador, Chủ tịch HĐGM El Salvador, được công bố hôm 23-5-2015, trong lễ phong chân phước cho Đức TGM Oscar Romero. Ngài viết:

”Lễ phong chân phước cho Đức Cha Oscar Arnulfo Romero Galdámez, Cố Chủ Chăn của Tổng giáo phận San Salvador yêu quí, là động lực vui mừng lớn lao cho dân Salvador và cho chúng ta là những người đang được hưởng tấm gương của những người con ưu tú của Giáo Hội. Đức Cha Romero đã xây dựng hòa bình bằng sức mạnh của tình thương, làm chứng về đức tin bằng cuộc sống hiến thân đến cùng.

”Chúa không bao giờ bỏ rơi dân Ngài giữa những khó khăn và luôn tỏ ra quan tâm đối với những nhu cầu của dân. Chúa thấy sự áp bức, Ngài nghe tiếng kêu đau thương của con cái và chạy đến cứu giúp để giải thoát họ khỏi áp bức và đưa họ đến miền đất mới, màu mỡ và rộng rãi, đất ”chảy sữa và mật” (Xc Xh 3,7-8). Như xưa kia Chúa đã chọn Môisê để, nhân danh Ngài, hướng dẫn dân, Chúa vẫn còn tiếp tục khơi lên những mục tử theo con tim Ngài, dẫn dắt đoàn Chiên Chúa một cách khôn ngoan và sáng suốt (Xc Gr 3,15).

”Tại đất nước tươi đẹp ở Trung Mỹ này, được Thái Bình Dương tưới gội, Chúa đã ban cho Giáo Hội một Giám Mục nhiệt thành, kính mến Chúa và phục vụ anh chị em, trở thành hình ảnh của Chúa Kitô Mục Tử Nhân Lành. Trong thời kỳ sống chung khó khăn, Đức Cha Romero đã biết hướng dẫn, bênh đỡ và bảo vệ đoàn chiên của Người, luôn trung thành với Tin Mừng và hiệp thông với toàn thể Giáo Hội. Sứ vụ của Người trổi vượt vì sự quan tâm đặc biệt đối với những người nghèo khổ nhất và bị gạt ra ngoài lề. Và trong cái chết của Người, lúc cử hành Hy tế thánh của tình yêu và hòa giải, Người đã nhận được ơn đồng hóa trọn vẹn với Đấng đã hiến mạng sống vì đoàn chiên.

”Trong ngày vui mừng này đối với Quốc Dân Salvador, cũng như cho các nước anh em Mỹ châu la tinh, chúng ta cảm tạ Thiên Chúa vì đã ban cho vị Giám Mục tử đạo khả năng nhìn và nghe nỗi đau khổ của dân, và uốn nắn con tim của mình, để nhân danh Chúa, hướng dẫn và soi sáng cho dân, đến độ thực thi trọn vẹn lòng bác ái Kitô.

”Tiếng nói của vị Tân Chân Phước tiếp tục vang vọng ngày nay để nhắc nhớ chúng ta rằng Giáo Hội, là cộng đồng anh chị em được tập hợp quanh Chúa, là gia đình của Thiên Chúa, trong đó không được có sự chia rẽ nào. Niềm tin nơi Chúa Giêsu Kitô, khi được hiểu đúng và đón nhận với những hệ luận cuối cùng, sẽ sinh ra những cộng đoàn xây dựng hòa bình và tình liên đới. Đó là điều mà Giáo Hội ngày nay tại El Salvador, Mỹ Châu và trên toàn thế giới đang được kêu gọi thực thi: một Giáo hội giàu lòng thương xót, được biến thành men hòa giải cho xã hội.

”Đức Cha Romero mời gọi chúng ta sống hợp lương tri và suy tư, tôn trọng sự sống và hòa hợp. Cần từ bỏ ”bạo lực gươm giáo, bạo lực oán thù”, và sống ”sức mạnh của tình thương mà Chúa Kitô chịu đóng đanh trên thập giá đã để lại, sức mạnh làm cho mọi người vượt thắng ích kỷ và để không còn những chênh lệch tàn bạo giữa chúng ta”. Đức Cha đã biết nhìn và cảm nghiệm trong thân thể ”sự ích kỷ tiềm ẩn nơi những người không muốn nhường những gì của mình để đến với tha nhân”. Và với tâm hồn của người cha, Người lo lắng cho ”những người nghèo khổ nhất, thỉnh cầu những kẻ cường quyền biến ”võ khí thành lưỡi liềm để làm việc”.

”Ai được Đức Cha Romero làm bạn hữu trong đức tin, những người cầu khẩn người như vị bổn mạng và là người chuyển cầu, ai chiêm ngưỡng dung nhan của Người, thì gặp được nơi Người sức mạnh và lòng can đảm để xây dựng Nước Thiên Chúa, để dấn thân xây dựng một trật tự xã hội công bằng và xứng đáng hơn”.

”Đây là lúc thuận tiện để thực thi một sự hòa giải quốc gia đích thực đứng trước những thách đố đang đề ra ngày nay. Giáo Hoàng chia sẻ những hy vọng của dân nước này, hiệp với những lời cầu nguyện để hạt giống tử đạo của Đức Cha được triển nở và để con dân đất nước này được củng cố trên những con đường chân thực, đất nước được hãnh diện mang tên Đấng Cứu Thế.”

Lễ phong chân phước cho Đức TGM Romero do ĐHY Angelo Amato SDB, Tổng trưởng Bộ Phong thánh, chủ sự từ lúc 10 giờ sáng ngày 23-5-2015 tại thủ đô San Salvador trước sự tham dự của hàng trăm ngàn tín hữu, cũng như hàng trăm GM Salvador và nước ngoài đồng tế (SD 23-5-2015)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

 

Đức Thánh Cha chủ sự thánh lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống

Đức Thánh Cha chủ sự thánh lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống

VATICAN. ĐTC mời gọi các tín hữu cởi mở đón nhận các hồng ân của Chúa Thánh Linh, và để cho các hồng ân ấy triển nở qua các hoa trái trong cuộc sống bác ái cụ thể, chống lại tội lỗi, thực thi các công trình công lý và hòa bình.

Trên đây là nội dung bài giảng thánh lễ ngài cử hành lúc 10 giờ sáng chúa nhật 24-5-2015 tại Đền thờ Thánh Phêrô, nhân lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, trước sự tham dự của 9 ngàn tín hữu.

Đồng tế với ĐTC có 40 Hồng Y và 50 GM tại Tòa Thánh cùng với 250 linh mục. 17 đại chủng sinh thuộc Học Viện Anh quốc đảm trách phần giúp lễ, trong đó có thày người Việt là Phó tế Nguyễn Quốc Tạo, thuộc giáo phận Oslo, bên Na Uy. Phần thánh ca, ngoài ca đoàn Sistina của Tòa Thánh, còn được ca đoàn ”Mater Ecclesiae”, Mẹ Giáo hội, gồm 80 ca viên, và Ca đoàn Ionica đông phương gồm 100 người, phụ trách.

 Đầu thánh lễ, ĐTC đã làm phép nước và rảy trên các tín hữu, nhắc nhớ bí tích rửa tội, đồng thời cầu xin Chúa canh tân nội tâm để có thể luôn trung thành với Chúa Thánh Linh, Đấng được ban cho chúng ta như hồng ân:

Bài giảng của Đức Thánh Cha

”Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con.. Các con hãy nhận lấy Thánh Linh” (Ga 20,21.22). Việc phú Thánh Linh đã diễn ra vào chiều ngày Phục Sinh, lại được tái diễn trong ngày lễ Ngũ Tuần, được củng cố bằng những biểu hiện ngoại thường bên ngoài. Chiều ngày Phục Sinh, Chúa Giêsu đã hiện ra với các Tông Đồ và thở Thần Khí Ngài trên các vị (Xc Ga 20,22); trong buổi sáng ngày lễ Ngũ Tuần, việc phú Thánh Linh diễn ra một cách vang dội, như gió ập mạnh vào nhà và tràn vào trong tâm trí các Tông Đồ. Qua đó, các vị nhận được năng lực đến độ thúc đẩy các vị loan báo trong các thổ âm biến cố Chúa Kitô Phục Sinh: “Tất cả được tràn đầy Thánh Thần và bắt đầu nói các thứ tiếng khác” (Cv 2,4). Cùng với các vị, có Đức Maria, Mẹ Chúa Giêsu, Nữ Môn đệ đầu tiên, Mẹ của Giáo Hội đang khai sinh. Cùng với niềm an bình, và với nụ cười, Mẹ tháp tùng niềm vui của vị Hôn Thê trẻ trung, Giáo Hội của Chúa Giêsu.

Lời Chúa, đặc biệt là trong ngày hôm nay, nói với chúng ta rằng Thánh Thần hoạt động trong con người và trong các cộng đoàn được tràn đầy Thánh Linh: Ngài hướng dẫn đến trọn vẹn chân lý (Ga 16,13), canh tân trái đất (Tv 103), và ban các hoa trái của Ngài (Gl 5,22-23).

Trong Tin Mừng, Chúa Giêsu hứa với các môn đệ rằng khi Ngài trở về cùng Chúa Cha, thì Thánh Linh sẽ đến, Người sẽ hướng dẫn họ ”đến chân lý trọn vẹn” (Ga 16,13). Chúa Giêsu gọi Thánh Linh là “Thần chân lý” và giải thích cho họ rằng hoạt động của Thánh Linh là dẫn đưa họ ngày càng vào sâu hơn trong sự hiểu biết những gì mà chính Ngài, Đức Messia, đã nói và đã làm, đặc biệt là cái chết và sự sống lại của Ngài. Với các Tông Đồ là những người không có khả năng chịu đựng biến cố gây vấp phạm là cuộc khổ nạn của Thầy mình, Thánh Linh ban cho họ một chìa khóa mới để đọc biến cố, hầu dẫn đưa họ đến sự thật và vẻ đẹp của biến cố cứu độ. Các môn đệ, thoạt đầu là những người nhát sợ và bị khớp, ẩn kín trong nhà Tiệc Ly để tránh những âm hưởng của Ngày Thứ Sáu Tuần Thánh, nay họ không còn hổ thẹn vì là môn đệ của Chúa Kitô nữa, không run rẩy trước các tòa án loài người. Nhờ Chúa Thánh Linh mà họ được ban tràn đầy, họ hiểu ”trọn vẹn chân lý”, nghĩa là hiểu rằng cái chết của Chúa Giêsu không phải là một sự thất bại, nhưng là biểu hiện tột đỉnh Tình Yêu của Thiên Chúa, Tình Yêu chiến thắng sự chết trong cuộc Phục Sinh của Ngài, và tôn vinh Chúa Giêsu như Đấng Hằng Sống, là Chúa, là Đấng Cứu Chuộc loài người, cứu chuộc lịch sử và thế giới. Và thực tại này mà họ là nhân chứng, trở thành Tin Mừng cần được loan báo cho mọi người.

 ĐTC nói tiếp:

 ”Hồng ân của Thánh Linh canh tân trái đất. Thánh vịnh nói: ”Xin sai Thần Trí Ngài .. và canh tân trái đất” (Tv 103,30). Trình thuật của Tông Đồ công vụ về sự khai sinh Giáo Hội tìm được sự tương ứng đầy ý nghĩa trong thánh vịnh này, là một bài ca lớn chúc tụng Thiên Chúa Tạo Hóa. Thánh Linh mà Chúa Kitô sai đến từ Chúa Cha, và Thánh Thần sáng tạo ban sự sống cho mọi sự, cùng là một. Vì thế, sự tôn trọng thiên nhiên, công trình sáng tạo, là một đòi hỏi do đức tin của chúng ta: mảnh vườn nơi chúng ta sống không được ủy thác cho chúng ta để chúng ta khai thác bóc lột nó, nhưng để chúng ta vun trồng và bảo tồn trong niềm tôn trọng (Xc St 2,15). Nhưng điều này chỉ có thể nếu Adam – con người được nặn bằng đất sét – để cho mình được Thánh Thần đổi mới, để cho Chúa Cha tái nhào nặn theo kiểu mẫu Chúa Kitô là Adam mới. Vì vậy, nếu được Thánh Thần Chúa canh tân, chúng ta có thể sống tự do của con cái, hòa hợp với toàn thể thụ tạo, và trong mỗi thụ tạo, chúng ta có thể nhận ra phản ánh vinh quang của Đấng Tạo Hóa, như một thánh vịnh khác đã quả quyết: ”Lạy Chúa, là Chúa chúng con, lạ lùng thay danh Chúa trên toàn trái đất!” (8,2.10).

Trong thư gửi tín hữu Galat, Thánh Phaolô muốn chứng tỏ đâu là hoa trái được biểu lộ trong cuộc sống của những người tiến bước theo Thánh Linh (Xc 5,22). Một đàng có ”xác thịt” với các tính mê tật xấu mà Thánh Tông Đồ liệt kê, và đó là những công việc của con người ích kỷ, khép kín đối với hoạt động của ơn thánh Chúa. Trái lại nơi con người, trong niềm tin, để cho Thần Trí Chúa tràn vào, thì các thiên ân được triển nở, được tóm tắt trong 9 nhân đức vui mừng mà thánh Phaolô gọi là ”hoa quả của Thánh Linh”. Từ đó có lời kêu gọi được lập lại trong phần mở đầu và kết luận, như một chương trình sống: ”Anh em hãy tiến bước theo Thánh Linh” (Gl 5,16.25).

ĐTC nhận xét rằng:

”Thế giới đang cần những người nam nữ không khép kín, nhưng tràn đầy Thánh Linh. Sự khép kín đối với Thánh Linh không những là một sự thiếu tự do, nhưng còn là tội lỗi. Có bao nhiêu cách thức khép kín đối với Chúa Thánh Linh trong sự ích kỷ, tìm kiếm tư lợi, trong thái độ vụ luật cứng nhắc – như thái độ của các nhà thông luật mà Chúa Giêsu gọi là những kẻ giả hình -, trong sự quên lãng những điều Chúa Giêsu đã dạy, trong cách sống cuộc sống Kitô không phải như một sự phục vụ, nhưng như một sự tìm kiến tư lợi riêng, v.v. Thế giới đang cần lòng can đảm, hy vọng, đức tin, lòng kiên trì của các môn đệ Chúa Kitô. Thế giới đang cần hoa trái của Thánh Linh: ”yêu thương, vui mừng, an bình, quảng đại, từ nhân, tốt lành, trung thành, dịu dàng, tự chủ” (Gl 5,22). Hồng ân Thánh Linh đã được ban dồi dào cho Giáo hội và mỗi người chúng ta, để chúng ta có thể sống với niềm tin chân chính và lòng bác ái cụ thể, để chúng ta có thể gieo vãi những hạt giống hòa giải và an bình. Được Thánh Linh và nhiều hồng ân của Chúa củng cố, chúng ta có thể chiến đấu không nhân nhượng chống lại tội lỗi và sự hư hỏng, kiên nhẫn tận tụy thi hành những công việc công lý và hòa bình”

 Lời nguyện giáo dân

Trong phần lời nguyện giáo dân, bằng các thứ tiếng Arập, Pháp, Hoa, Malayalam Ấn độ, và Croát, cộng đoàn đã lần lượt cầu cho Giáo Hội ngày càng được hiểu biết sinh động hơn về Chúa Giêsu vị Hôn Phu, cầu cho những người thánh hiến, xin Chúa Thánh Linh biến họ thành lá thư gửi đến con người ngày nay và canh tân nơi họ niềm vui ơn gọi; cầu cho các chính quyền, xin Thần Trí chỉ bảo hướng dẫn các quyết định của họ và củng cố các dự án công lý và hòa bình, cầu cho các tội nhân và những người không tin, xin Thánh Thần từ bi chiếu sáng họ trong nơi tối tăm tội lỗi chết chóc, biến cuộc sống của họ thành những bầu rượu mới, đầy sự hiện diện của Chúa. Sau cùng, mọi người đã cầu cho các tín hữu Kitô bị bách hại, xin Thánh Thần sức mạnh biểu lộ nơi họ vẻ đẹp được thuộc về Chúa Giêsu và thánh hóa những đau khổ của họ..

Kinh Lạy Nữ Vương Thiên Đàng

Sau thánh lễ, lúc 12 giờ trưa, ĐTC đã xuất hiện tại cửa sổ phòng làm việc của căn hộ Giáo Hoàng trong dinh tông tòa để chủ sự buổi đọc kinh Lạy Nữ Vương Thiên Đàng với hàng chục ngàn tín hữu tụ tập tại Quảng trường Thánh Phêrô.

Trong bài huấn dụ ngắn, ĐTC cũng nhắc đến sự kiện trong Ngày lễ Ngũ Tuần, các môn đệ nhận được ơn Chúa Thánh Linh và được hoàn toàn biến đổi: từ nhát sợ đến can đảm, sự khép kín nhường chỗ cho sự loan báo và mọi nghi ngờ bị xua đuổi bằng niềm tin đầy tình thương yêu. Đó là ”phép rửa của Giáo Hội, khởi đầu hành trình của Hội Thánh trong lịch sử, được sức mạnh của Thánh Linh hướng dẫn”.

Biến cố ấy thay đổi con tim và đời sống của các Tông Đồ và các môn đệ, âm vang ngay ở bên ngoài nhà Tiệc Ly. Thực vậy cánh cửa nhà ấy bị đóng kín trong 50 ngày, nay được mở toang và cộng đoàn Kitô đầu tiên không còn co cụm vào mình, nhưng bắt đầu nói với đám đông dân chúng xuất xứ khác nhau, về những công trình vĩ đại Thiên Chúa đã làm (Xc v.11), nghĩa là sự sống lại của Chúa Giêsu, Đấng đã bị đóng đanh. Và mỗi người hiện diện đều nghe các môn đệ nói trong tiếng của mình. Hồng ân Thánh Linh tái lập sự hòa hợp ngôn ngữ đã bị mất tại tháp Babel và báo trước chiều kích đại đồng sứ vụ của các Tông Đồ. Giáo Hội sinh ra có đặc tính hoàn vũ, duy nhất và công giáo, với một căn tính rõ rệt, nhưng cởi mở, bao gồm toàn thế giới, không loại trừ một ai.

ĐTC cũng nhấn mạnh rằng: Thánh Thần được phú ban trong Ngày Lễ Ngũ Tuần vào tâm hồn các môn đệ là khởi đầu một mùa mới: mùa làm chứng tá và huynh đệ. Đó là một mùa đến từ trên cao, từ Thiên Chúa, như những lưỡi lửa đậu trên đầu mỗi môn đệ. Đó là ngọn lửa tình thương đốt cháy mọi cứng cỏi; đó là ngôn ngữ của Tin Mừng vượt qua mọi biên cương do con người đặt ra và đánh động tâm hồn nhiều người, không phân biệt ngôn ngữ, chủng tộc hoặc quốc tịch. Như trong ngày lễ Ngũ Tuần, Thánh Linh cũng liên tục được ban xuống cho Giáo Hội và mỗi người chúng ta, để chúng ta ra khỏi tình trạng tầm thường và thái độ khép kín của mình, và thông truyền tho toàn thế giới tình yêu thương xót của Chúa. Đó là sứ mạng của chúng ta! Cả chúng ta cũng được ơn ”ngôn ngữ” của Tin Mừng và lửa của Thánh Linh, để trong khi chúng ta loan báo Chúa Giêsu Phục Sinh, hằng sống và hiện diện giữa chúng ta, chúng ta sưởi ấm con tim các dân tộc, dẫn đưa họ đến gần Chúa, là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống”.

Kêu gọi

Sau khi ban phép lành cho các tín hữu, ĐTC cho biết: Ngài tiếp tục rất lo âu theo dõi những vụ nhiều người tị nạn tại Vịnh Bengala và biển Andamane, đồng thời nói rằng: ”Tôi đánh giá cao những cố gắng của những nước sẵn sàng đón nhận những người tị nạn ấy đang gặp bao nhiêu đau khổ và nguy hiểm trầm trọng. Tôi khuyến khích cộng đồng quốc tế cung cấp cho họ trợ giúp nhân đạo cần thiết”.

ĐTC cũng nhắc đến lễ phong chân phước hôm thứ bẩy vừa qua 23-5, tại Salvador cho Đức Cha Oscar Romero, TGM San Salvador, bị giết do lòng oán ghét đức tin trong khi Người cử hành thánh lễ. Vị Mục Tử nhiệt thành này, theo gương Chúa Giêsu, đã chọn ở giữa dân của mình, nhất là những người nghèo và bị áp bức, dù phải trả giá bằng mạng sống của mình. Và tiếp đến là lễ phong chân phước tại Kenya cho Nữ tu Irene Stefani người Italia, thuộc dòng Thừa Sai Đức Mẹ An Ủi, đã phục vụ dân chúng tại Kenya trong hân hoan, từ bi và dịu dàng thương xót. ĐTC nói: ”Ước gì tấm gương của các vị Chân phước này khơi dậy nơi mỗi người chúng ta ước muốn nồng nhiệt can đảm làm chứng chứng cho Tin Mừng với tinh thần từ bỏ.”

 G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Đức Thánh Cha tố giác các tệ nạn trong lãnh vực lao động

Đức Thánh Cha tố giác các tệ nạn trong lãnh vực lao động

VATICAN. ĐTC Phanxicô tố giác các tệ nạn trong lãnh vực lao công ngày nay và kêu gọi thực thi lao công có tính chất tự do, sáng tạo, tham gia và liên đới.

Ngài bày tỏ lập trường trên đây trong buổi tiếp kiến sáng 23-5-2015 dành cho 7 ngàn người thuộc các Hiệp hội Kitô các công nhân Italia (Acli), nhân dịp kỷ niệm 70 năm thành lập Hội.

Lên tiếng trong dịp này, ĐTC nhắc đến những thách đố đang đề ra cho Hiệp hội Kitô các công nhân Italia, đặc biệt là tình trạng gia tăng mau lẹ và rộng lớn những chênh lệch trong xã hội, kèm theo những hiện tượng như công ăn việc làm bấp bênh, làm lậu, và sức ép của các tổ chức bất lương, khiến cho nhiều người trẻ thiếu công ăn việc làm, phẩm giá của họ bị thương tổn, ngăn cản họ thực hiện cuộc sống nhân bản viên mãn. Ngài cũng mạnh mẽ phê bình sự kiện ở Italia có tới 40% người trẻ dưới 25 tuổi không có công ăn việc làm.

Trong bối cảnh đó, ĐTC nhấn mạnh đến 4 đặc điểm mà lao công cần phải có. Trước tiên là lao công tự do, qua đó con người tiếp tục công trình của Đấng Tạo Hóa. ”Đáng tiếc là ngày nay nhiều khi lao công phải chịu những đàn áp từ nhiều phía, của người đè người, của các tổ chức biến con người thành nô lệ, áp bức người nghèo, đặc biệt là nhiều trẻ em và phụ nữ.”

Tiếp đến là lao công sáng tạo, giúp con người diễn tả trong tự do và sáng tạo một số hình thức xí nghiệp, lao động hợp tác trong tinh thần cộng đoàn. ĐTC nói: ”Không thể chặt đôi cánh của những người, đặc biệt là người trẻ, có bao nhiêu điều để cống hiến nhờ trí thông minh và khả năng của họ. Cần phải giải thoát họ khỏi những gánh nặng đè nén và cản trở họ đi vào thế giới lao động với trọn quyền lợi và càng sớm càng tốt”.

Đặc điểm thứ 3 ĐTC nhấn mạnh, đó là lao công tham gia, giúp con người luôn nhìn thấy nơi mục đích của lao công khuôn mặt của tha nhân và sự cộng tác với người khác trong tinh thần trách nhiệm. Ngài nói: ”Nơi nào vì quan niệm duy kinh tế, người ta nghĩ đến con người một cách ích kỷ và coi tha nhân như những phương tiện thay vì như mục đích, thì lao công mất đi ý nghĩa nguyên thủy là tiếp tục công trình của Thiên Chúa, hướng đến toàn thể nhân loại”.

Sau cùng là lao công liên đới. ĐTC nói với các thành viên hiệp hội Kitô công nhân Italia rằng: ”Mỗi ngày anh chị em gặp những người bị mất công ăn việc làm, hoặc đang phải tìm việc.. Cần mang lại cho họ một câu trả lời. Trước tiên là tỏ ra gần gũi và liên đới với họ. Bao nhiêu chi hội của anh chị em có thể là những nơi tiếp đón và gặp gỡ cũng như giúp đỡ những người ấy”.

Sau cùng, ĐTC nhắn nhủ các thành viên Hiệp Hội Kitô công nhân Italia luôn lấy nguồn hứng và sự hướng dễn từ đạo lý Kitô, trong niềm trung thành liên lỷ với Chúa Giêsu Kitô, với Lời Chúa và học hỏi áp dụng Giáo huấn xã hội Công Giáo, để đối phó với những thách đố mới ngày nay (SD 23-5-2015)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

 

Hãy nhận lấy Thánh Thần

Hãy nhận lấy Thánh Thần

(Trích trong ‘Manna’)

Suy Niệm

Lúc đến Êphêsô, Phaolô hỏi một số môn đệ ở đó: "Khi vào đạo, các ông đã nhận lãnh Thánh Thần chưa?". Họ trả lời: "Ngay cả việc có Thánh Thần, chúng tôi cũng chưa hề được nghe nói tới" (Cv 19,1-2).

Chúng ta đã được nghe nói và đã lãnh nhận Thánh Thần, nhưng có thể Ngài vẫn là Đấng xa lạ với ta.

Bí tích Thêm sức chỉ còn là một kỷ niệm đẹp, nhưng nó không làm ta ý thức về sự hiện diện của Thánh Thần, Đấng đang ở trong ta và sai ta đi làm chứng.

Khi Đức Giêsu phục sinh hiện ra với các môn đệ, Ngài đã làm một việc quan trọng, đó là mời họ tiếp tục sứ mạng mà Ngài đã bắt đầu.

"Hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ" (Mt 28,19).

"Hãy đi loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo" (Mc 16,15).

Trong Tin Mừng hôm nay, Đấng phục sinh nói với các môn đệ: "Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em" (Ga 20,21)

Đức Giêsu cho các môn đệ được tham dự vào sứ mạng của mình. Chỉ có một sứ mạng duy nhất là sứ mạng Chúa Giêsu nhận được từ Chúa Cha. Sứ mạng của các môn đệ nối dài sứ mạng duy nhất ấy.

Ai sẽ giúp các ông thực hiện sứ mạng này? Ai sẽ cho các ông sức sống để dám mở toang cánh cửa mà lên đường loan báo Tin Mừng phục sinh?

Sức sống ở nơi hơi thở.

Đức Giêsu phục sinh đã trao hơi thở của mình, hơi thở của sức sống thần linh cho các môn đệ.

Khi được trao ban Thánh Thần, họ trở thành con người mới, sẵn sàng lên đường.

Thánh Thần chẳng ở xa mỗi người chúng ta.

Ngài có mặt khi ta rung động trước một đoạn Lời Chúa, và muốn sống Lời Chúa trong đời thường.

Ngài có mặt khi ta gọi tên Chúa Giêsu trên môi (1Cr 12,3), và gọi Thiên Chúa là Cha đầy lòng từ ái (Rm 8,15).

Ngài có mặt khi ta muốn tiến một bước mới trong đời sống cầu nguyện, trong đời sống thiêng liêng.

Thánh Thần chẳng ở xa Giáo Hội.

Ngài làm cho Giáo Hội được hiệp nhất bằng cách ban những đặc sủng khác nhau cho nhiều người để họ phục vụ lợi ích chung.

Ngài hiện diện nơi các vị lãnh đạo Giáo Hội, nhưng Ngài cũng có mặt nơi các nhóm giáo dân.

Ngài hiện diện trong các bí tích, trong mỗi thánh lễ. Ngài thánh hóa bánh rượu để chúng trở nên Mình và Máu Đức Kitô.

Thánh Thần là linh hồn của Giáo Hội; không có Ngài, Giáo Hội chỉ là một cơ cấu đáng ngờ.

Nếu chúng ta mềm mại hơn để cho Ngài dẫn dắt, nếu chúng ta bớt cứng cỏi để cho Ngài canh tân, nếu chúng ta đừng dập tắt tiếng của Ngài, thì chúng ta sẽ thấy những biến đổi kỳ diệu.

Gợi Ý Chia Sẻ

1. Bạn có thấy Chúa Thánh Thần soi sáng và nâng đỡ bạn trong cuộc sống hàng ngày không? Ngài có hoạt động trong nhóm của bạn không?

2. Trong thế giới hôm nay, thế giới gồm cỏ lùng và luau, bạn có thấy hoạt động âm thầm nhưng hiệu quả của Chúa Thánh Thần không?

Cầu Nguyện

Lạy Chúa Thánh Thần,

Xin Ngài hãy đến như cơn gió mát thổi vào đời con, thổi vào Giáo Hội, thổi vào thế giới, để đem lại cho chúng con sự tươi mới nhẹ nhàng, sự tự do thanh thoát.

Xin Ngài hãy đến như dòng nước trong chảy vào đời con, chảy vào Giáo Hội, chảy vào thế giới, để cuốn trôi đi mọi nhơ nhớp, khô cằn, cứng cỏi, và làm bật dậy những mầm xanh sự sống nơi chúng con.

Xin Ngài hãy đến như ngọn lửa hồng chiếu sáng đời con chiếu sáng Giáo Hội, chiếu sáng thế giới, để chúng con không còn đồng lõa với tối tăm, nhưng mang trong tim một ước mơ nóng bỏng, đó là làm cho vũ trụ này rực sáng Tình yêu.

Đức Thánh Cha kêu gọi Giáo Hội chống lại chia rẽ, ghen tương

Đức Thánh Cha kêu gọi Giáo Hội chống lại chia rẽ, ghen tương

VATICAN. ĐTC mời gọi các tín hữu Kitô hiệp nhất và chống lại tinh thần chia rẽ, ghen tương, và chiến tranh.

Trong bài giảng thánh lễ sáng ngày 21-5-2015 tại nguyện đường nhà trọ Thánh Marta ở Vatican, ĐTC đã diễn giải những lời trăn trối của Chúa Giêsu cho các môn đệ trước khi ra đi chịu khổ nạn. Chúa cầu xin Chúa Cha cho Giáo Hội được hiệp nhất, được nên một ”như Cha và Con”, đồng thời Chúa Giêsu cũng cảnh giác chống lại những cám dỗ chia rẽ. ĐTC nói:

”Chúa Giêsu cũng biết rằng tinh thần thế gian là một tinh thần chia rẽ, chiến tranh, ganh tị, ghen tương, cả trong các gia đình, các gia đình dòng tu, trong các giáo phận, và trong toàn thể Giáo Hội: đó là một cám dỗ lớn. Cám dỗ ấy đưa tới những vụ nói hành nói xấu nhau, gán cho nhau những nhãn hiệu, chụp mũ người khác. Tất cả những thái độ ấy Chúa Giêsu yêu cầu loại trừ.”

”Chúng ta phải hiệp nhất, phải nên một, như Chúa Giêsu và Chúa Cha là một. Đó chính là thách đố đối với tất cả các tín hữu Kitô chúng ta. Đừng để chia rẽ có chỗ đứng trong chúng ta, đừng để cho tinh thần chia rẽ, cha của sự gian dối đi vào trong chúng ta. Hãy luôn tìm kiếm sự hiệp nhất. Mỗi người có những cá tính khác biệt, nhưng luôn tìm cách sống trong hiệp nhất. Chúa Giêsu đã tha thứ cho bạn ư? Bạn cũng hãy tha thứ cho mọi người. Chúa Giêsu cầu nguyện để chúng ta được nên một. Và Giáo Hội đang rất cần kinh nguyện hiệp nhất này”.

ĐTC cũng nhận xét rằng ”không có một thứ Giáo Hội được gắn với nhau bằng ”keo”, vì sự hiệp nhất mà Chúa Giêsu yêu cầu là ”một ơn phúc của Thiên Chúa” và là ”một cuộc chiến đâu” trên trần thế này. ”Chúng ta phải dành chỗ cho Chúa Thánh Linh để Ngài biến đổi chúng ta như Chúa Cha ở trong Chúa Con, là một”.

”Có một lời khuyên khác Chúa Giêsu để lại trong những ngày Ngài từ giã, đó là ”ở lại trong Ngài”: ”Các con hãy ở lại trong Thầy”. Chúa cầu xin ơn ấy, để tất cả chúng ta ở lại trong Chúa. Chúa nói rõ ràng: ”Lạy Cha, con muốn những người Cha đã ban cho con, cũng được ở với con nơi con đang ở”, nghĩa là những người ấy ở lại trong con. Ở lại trong Chúa Giêsu, nơi trần thế này, cũng là ở lại trong Người, ”để họ chiêm ngắm vinh quang của con”

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Phải trợ giúp các gia đình trong sứ mệnh giáo dục con cái

Phải trợ giúp các gia đình trong sứ mệnh giáo dục con cái

Các cộng đoàn kitô được mời gọi cống hiến sự yểm trợ cho sứ mệnh giáo dục của các gia đình, trước hết bằng Lời Chúa. Một nền giáo dục tốt trong gia đình là cột sống của thuyết nhân bản. Nếu nền giáo dục gia đình tìm lại được sự hãnh diện là tác nhân, nhiều điều sẽ thay đổi một cách tốt đẹp hơn cho các cha mẹ không chắc chắn và cho các con cái thất vọng.

ĐTC Phanxicô đã nói như trên với hơn 60,000 tín hữu và du khách hành hương năm châu tham dự buổi gặp gỡ chung sáng thứ tư hàng tuần hôm qua. Trong bài huấn dụ ĐTC đã khai triển đề tài giáo lý sứ mệnh giáo dục con cái của các gia đình. Mở đầu bài huấn dụ ĐTC nói buông như sau: Anh chị em thân mến, hôm nay tôi muốn chào đón anh chị em vì thấy có biết bao nhiêu gia đình. Xin chào các gia đình. Chúng ta tiếp tục suy tư về gia đình, về đặc tính nòng cốt của gia đình hay ơn gọi tự nhiên của nó là giáo dục con cái, để chúng lớn lên trong tinh thần trách nhiệm đối với chính mình và đối với tha nhân. Điều mà chúng ta đã nghe từ đầu từ thư của thánh Phaolô thật là hay đẹp: “Kẻ làm con hãy vâng lời cha mẹ trong mọi sự, vì đó là điều đẹp lòng Thiên Chúa. Hỡi các người cha, đừng làm cho con cái bực tức để chúng không ngã lòng” (Cl 3,20-21). Đây là một luật khôn ngoan: người con được giáo dục lắng  nghe cha mẹ và vâng lời cha mẹ. Cha mẹ không được ra lệnh cho con cái một cách xấu để không làm cho con cái ngã lòng.

Thật thế con cái phải lớn lên từng bước một, mà không chán nản. Nếu anh chị em là cha mẹ nói với con cái: Chúng ta hãy leo lên cái thang nhỏ này và cầm tay chúng từng bước một cho chúng leo, thì mọi chuyện xuôi chảy.

Nhưng nếu anh chị em nói: “Con hãy đi lên”- “Nhưng con không thể”. “Hãy đi lên”. Điều này là làm cho con cái nản lòng đấy: đòi hỏi ở con cái điều chúng không có khả năng làm. Vì vậy tương quan giữa cha mẹ và con cái phải là một sự khôn ngoan, quân bình lớn. Con cái hãy vâng lời cha mẹ, vì điều này đẹp lòng Thiên Chúa. Và cha mẹ đừng khiến con cái nản lòng, bằng cách đòi hỏi nơi chúng điều chúng không thể làm. Phải làm điều này để con cái lớn lên trong tinh thần trách nhiệm đối với mình và đối với tha nhân.

Xem ra là một nhận xét hiển nhiên, nhưng cả thời này nữa cũng không thiếu các khó khăn. Giáo dục khó khăn đối với các cha mẹ chỉ trông thấy con cái vào ban chiều, khi trở về nhà mệt mỏi vì công việc: những người may mắn có công ăn việc làm! Lại càng khó khăn hơn đối với các cha mẹ ly thân, nặng nề vì điều kiện này của họ: tội nghiệp họ đã có các khó khăn, họ chia tay và biết bao lần đứa con bị bắt như con tin, và người cha nói xấu mẹ và người mẹ nói xấu cha, và người ta gây ra đau khổ. Và ĐTC khuyên các cha mẹ chia lìa như sau:

Đừng bao giờ, đừng bao giờ lấy đứa con như là con tin! Anh chị em dã chia tay vì biết bao nhiêu khó khăn và lý do, cuộc sống đã cho anh chị em thử thách này, nhưng con cái không phải là những người mang gánh nặng của sự chia lìa ấy, ước chi chúng đừng bị dùng như các con tin chống lại người phỗi ngẫu, ước chi chúng lớn lên nghe thấy cha mẹ nói tốt về nhau mặc dù không sống chung với nhau! Đối với các cha mẹ ly thân điều này rất là quan trọng và rất khó, nhưng họ có thể làm được.

Nhưng nhất là câu hỏi giáo dục như thế nào? Đâu là truyền thống mà ngày nay chúng ta phải thông truyền cho con cái chúng ta?

Các nhà trí thức có óc phê bình đủ loại đã khiến cho các cha mẹ phải im lặng bằng hàng ngàn cách, để bảo vệ các thế hệ trẻ khỏi các nguy hại – thật sự hay suy đoán – của nền giáo dục trong gia đình. Gia đình bị tố cáo là duy độc tài, dễ dãi, thủ cựu, đán áp tình cảm gây ra các xung đột.  

Thật thế, có một sự gẫy đổ giữa gia đình và học đường. Khế ước giáo dục ngày nay đã bị bẻ gẫy, và như thế liên minh giáo dục của xã hội với gia đình đã bước vào khủng hoảng, bởi vì sự tin tưởng lẫn nhau đã bị soi mòn. Có nhiều triệu chứng. Chẳng hạn nơi trường học các tương quan giữa cha mẹ và thầy cô bị tấn kích. Đôi khi xảy ra các căng thẳng và không tin tưởng lẫn nhau; và các hậu qủa rơi trên con cái. Đàng khác số những người gọi là chuyên viên gia tăng; họ chiếm vai trò của cha mẹ, cả trong các khía cạnh thân tình nhất của việc giáo dục: trên cuộc sống tình cảm, trên cá tính và sự phát triển, trên các quyền lợi và bổn phận, các chuyên viên biết mọi sự; các mục đích, các lý do, các kỹ thuật. Và các cha mẹ chỉ phải lắng nghe, học hỏi và thích nghi. Bị lấy mất đi vai trò của mình họ thường trở thành lo lắng và chiếm hữu thái quá đối với con cái họ, tới độ không bao giờ sửa dậy chúng: “Bạn không thể sửa dậy con”.

 Họ hướng tới chỗ càng ngày càng tín thác con cái cho các chuyên viên, kể cả những khiá cạnh tế nhị và riêng tư nhất  trong cuộc sống của chúng, và tự đặt mình vào một góc: Như thế ngày nay các cha mẹ gặp nguy cơ tự loại mình ra khỏi cuộc sống của con cái.

Và điều này rất nghiêm trọng! Ngày nay có những trường hợp loại này. Tôi không nói là nó luôn luôn xảy ra, nhưng có xảy ra. Bà giáo ở trường la rầy đứa bé và viết giấy cho cha mẹ. Tôi còn nhớ một giai thoại cá nhân. Có một lần, khi tôi học lớp tư tiểu học, tôi dã nói một từ xấu với bà giáo, và bà giáo, một người đàn bà rất giỏi, đã cho gọi mẹ tôi đến. Ngày hôm sau bà đến trường và hai người nói chuyện với nhau, và tôi được gọi vào. Trước mặt bà giáo mẹ tôi đã rất dịu dàng giải thích điều tôi đã làm và bảo tôi xin lỗi bà giáo. Tôi đã làm và tôi hài lòng tự nhủ: câu chuyện đã kết thúc tốt đẹp. Nhưng đó chỉ là chương thứ nhất! Khi tôi về nhà thì bắt đầu chương thứ hai… Anh chị em có thể tưởng tượng ngày nay nếu bà giáo mà làm như thế, thì ngày hôm sau cả cha mẹ hay một trong hai người  đến la rầy bà giáo, bởi vì các chuyên viên nói rằng không được la rầy trẻ em như vậy. Các chuyện đã thay đổi! Tuy nhiên các bậc cha mẹ không đuợc tự loại mình khỏi việc giáo dục con cái.

ĐTC nói tiếp trong bài huấn dụ: Hiển nhiên là định hướng này không tốt: nó không hài hòa, không đối thoại, thay vì tạo thuận tiện cho sự cộng tác giữa gia đình và các tổ chức giáo dục khác, học đường, chỗ chơi thể thao thể dục… nó chống lại sự cộng tác.

Làm sao chúng ta lại đi đến điểm này? Chắc chắn là các bậc cha mẹ, hay đúng hơn vài mô thức giáo dục trong qúa khứ chắc chắn đã có vài hạn hẹp. Nhưng cũng đúng thật là có các sai lầm mà chỉ cha mẹ được phép làm, bởi vì họ có thể bù trừ chúng một cách  mà không ai khác có thể làm được. Đàng khác, chúng ta biết rõ, cuộc sống đã trở nên hà tiện thời giờ để nói, để suy tư, để đối chiếu với nhau. Nhiều cha mẹ bị bắt cóc bởi công ăn việc làm – cha mẹ phải làm việc – và các lo toan khác, bối rối bởi các đòi hỏi mới của con cái và sự phức tạp của cuộc sống hiện tại – nó là như thế và chúng ta phải chấp nhận như nó là –  và họ như thể bị tê liệt  vì sợ sai lầm. Tuy nhiên, vấn đề không phải chỉ liên quan tới việc nói mà thôi. Trái lại một chủ thuyết đối thoại  hời hợt bề ngoài không đưa tới một cuộc gặp gỡ thực sự của trí óc và con tim. Chúng ta hãy tự hỏi: “Chúng ta có tìm hiểu con cái mình đang thực sự ở đâu trên con đường của chúng không? Linh hồn chúng thực sự ở đâu, chúng ta có biết không? Và nhất là chúng ta có muốn biết điều đó không? Chúng ta có xác tín rằng trên thực tế chúng không đợi chờ gì khác không?

Các cộng đoàn kitô được mời gọi cống hiến sự nâng đỡ cho sứ mệnh giáo dục của các gia đình, và làm điều đó trước hết bằng Lời Chúa. Tông đồ Phaolô nhắc nhớ sự hỗ tương bổn phận giữa cha mẹ và con cái, khi viết trong thư gửi tín hữu Côlôxê: “Kẻ làm con hãy vâng lời cha mẹ trong mọi sự, vì đó là điều đẹp lòng Chúa: Những bậc làm cha mẹ đừng làm cho con cái bực tức, kẻo chúng ngã lòng” (Cl 3,20-21). Nền tảng của tất cả là tình yêu thương mà Thiên Chúa ban cho chúng ta, tình yêu thương “không thiếu kính trọng, không tìm tư lợi, không nóng giận, không chú ý tới điều ác đã nhận… tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả” (1 Cr 13,5-6). Cả trong các gia đình tốt lành nhất cũng cần phải chịu đựng lẫn nhau, và cần nhiều kiên nhẫn lắm để chịu đựng nhau! Nhưng cuộc sống là như thế. Cuộc sống không được làm trong phòng thí nghiệm, nhưng trong thực tế. Chính Chúa Giêsu cũng đã phải đi qua nền giáo dục gia đình, và đã lớn lên trong tuổi tác, khôn ngoan và ơn thánh (x. Lc 2,40.51-52).

Cả trong trường hợp này nữa ơn thánh của tình yêu Chúa Kitô thành toàn điều được khắc ghi trong bản tính nhân loại. Chúng ta có biết bao nhiêu gương mẫu tuyệt diệu của các cha mẹ kitô tràn đầy khôn ngoan! Các vị cho thấy rằng một nền giáo dục gia đình tốt là cột sống của thuyết nhân bản. Sự dãi toả của nó trong xã hội là tài nguyên cho phép bù lại các thiếu sót, các thương tích, các trống rỗng của chức làm cha làm mẹ liên quan tới các người con kém may mắn. Sự dãi tỏa đó có thể làm các phép lạ đích thật. Và trong Giáo Hội các phép lạ ấy xảy ra mỗi ngày!

 Và ĐTC kết luận bài giáo lý như sau: Tôi cầu mong Chúa ban cho các gia đình kitô đức tin, sự tự do và lòng can đảm cần thiết cho sứ mệnh của mình. Nếu nền giáo dục gia đình tìm lại được niềm kiêu hãnh là tác nhân của nó, thì nhiều điều sẽ thay đổi tốt đẹp hơn, đối với các cha mẹ không chắc chắn và đối với các con cái thất vọng. Đã đến giờ các cha mẹ trở về từ sự đi đầy của mình – bởi vì họ tự đẩy ải mình khỏi việc giáo dục con cái  –  và lãnh lấy vài trò giáo dục của mình một cách tràn đầy. Chúng ta hy vọng rằng Chúa ban cho các cha mẹ ơn này: đó là đừng tự đầy ải mình khỏi việc giáo dục con cái. Và chỉ có tình yêu, sự hiền dịu và lòng kiên nhẫn  mới có thể làm được điều này.

ĐTC đã chào các đoàn hành hương đến từ các vùng nói tiếng Pháp, trong đó có đoàn hành hương nước Côte d’ Ivoire bên Phi châu, cũng như các đoàn hành hương nói tiếng Anh, trong đó có các đoàn hành hương đến từ Hoa Kỳ, Canada, Anh quốc và Nam Phi. Ngài cũng chào các nhóm hành hương Trung Quốc, Ấn Độ và Nam Hàn. Một ban nhạc mấy chục thiếu nữ Nam Hàn trong quốc phục đã trình tấu chuông và hát mừng ĐTC.

Trong các đoàn hành hương đến từ các vùng nói tiếng Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha, có các nhóm Tây Ban Nha,  Bồ Đào Nha, Mêhicô, Argentina, Panama, Chile, Brasil và Cap Vert.

ĐTC cũng chào các nhóm hành hương Ba Lan và Slovac. Ngài nhắc cho mọi người biết Chúa Nhật tới là lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống. Chúng ta hãy cầu xin Thiên Chúa gửi các ơn của Thánh Thần để có thể trở thành các chứng nhân can đảm của Chúa Kitô và Tin Mừng của Người.

Với các nhóm nói tiếng Ý ĐTC đặc biệt chào các tham dự viên khóa đào tạo truyền giáo của gia đình Pallottina, do Phân khoa giáo dục của đại học Auxilium tổ chức;  các thành viên cuộc gặp gỡ hòa bình và văn hóa Matera Altamura Bari; các sĩ quan quân lực Italia; các hiệp hội và sinh viên. Ngài cầu mong chuyến viếng thăm mộ hai thánh tông đồ Phêrô Phaolô gia tăng niềm vui phục sinh và dọn lòng họ cử hành lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống trong đức tin.

Chào các bạn trẻ, người đau yếu và các đôi tân hôn ngài nhắc cho mọi người biết hôm qua Giáo Hội nhớ thánh Bernardino thành Siena. Xin lòng yêu mến Thánh Thể của thánh nhân chỉ cho người trẻ thấy Thiên Chúa là trung tâm cuộc sống; giúp người bệnh tật can đảm thanh thản đương đầu với những lúc khổ đau; và khích lệ các cặp vợ chồng mới cưới biết xây dựng gia đình trên tình yêu của Thiên Chúa.

Buổi tiếp kiến đã kết thúc với kinh Lạy Cha và phép lành toà thánh ĐTC ban cho mọi người.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Ngước mắt nhìn trời

Ngước mắt nhìn trời

Con người thường có hai thái độ sống đối nghịch nhau. Một bên là những người chỉ biết có việc đạo. Sống dưới đất nhưng lòng trí để cả ở trên trời. Không tha thiết gì với những người chung quanh. Không tham gia những sinh hoạt xã hội. Khinh chê tất cả những giá trị ở đời này. Ngược lại, bên kia là những người sống như chỉ biết có việc đời. Chỉ coi trọng những giá trị vật chất. Chỉ biết có đời này. Sống là còn. Chết là hết. Cả hai thái độ đều bất cập.

Việc Đức Giêsu lên trời và những lời Ngài truyền dạy trước khi từ giã trần gian giúp ta có một cái nhìn đúng đắn hơn đối với trời và đối với đất.

Đức Giêsu lên trời. Điều đó dạy ta biết ngoài cõi đời này còn có một nơi chốn khác. Ngoài cuộc sống này còn có một cuộc sống khác. Ngoài những giá trị đời này còn có những giá trị khác.

Trời là nơi hạnh phúc không còn khổ đau. Trời là nơi cuộc sống vĩnh viễn không bị tiêu diệt. Trời là nơi tất cả mọi giá trị đạt đến mức tuyệt đối. Trời là nơi con người trở thành thần thánh, sống chung với thần thánh.

Như thế trời là niềm hy vọng của con người. Con người không còn bị trói chặt vào trần gian. Định mệnh của con người không phải chỉ là đớn đau sầu khổ. Số phận con người không phải sinh ra để rồi tàn lụi. Trời cho con người một lối thoát. Trời mở ra cho con người một chân trời hạnh phúc. Trời cho con người cơ hội triển nở đến vô biên.

Trời nâng cao địa vị con người. Có trời, con người không còn bị xếp ngang hàng với súc vật. Súc vật sinh ra để tàn lụi. Con người sinh ra để triển nở, để vượt qua số phận, để đạt tới địa vị con Thiên Chúa. Có trời, con người sẽ được nâng lên ngang hàng thần thánh.

Tuy nhiên, trời không phải xây dựng trong mây trong gió, nhưng được xây dựng trong cuộc sống trần gian. Trời không phải là cõi mơ mộng viển vông, nhưng đã bắt đầu ngay trong thực tế cuộc đời hiện tại.

Chính vì thế mà hai thiên thần áo trắng đã bảo các môn đệ đừng đứng nhìn trời mãi làm chi, nhưng phải trở về mà lo chu toàn nhiệm vụ.

Chính vì thế mà trước khi lên trời, Chúa căn dặn các môn đệ hãy đi làm việc cho nước Chúa. Sống và làm việc ở trần gian, đó là một nhiệm vụ phải chu toàn. Hoàn thành nhiệm vụ ở trần gian, đó là điều kiện để đạt tới hạnh phúc nước trời.

Chính Đức Giêsu cũng đã chu toàn nhiệm vụ ở trần gian rồi mới lên trời. Nhiệm vụ đó là đi gieo Tin Mừng khắp nơi. Đi đến đâu là thi ân giáng phúc đến đấy. Đi đến đâu là gieo yêu thương đến đấy.

Hôm nay Chúa cũng sai các môn đệ và chúng ta đi gieo Tin Mừng khắp thế gian. Hãy đi làm mọi việc tốt đẹp cho mọi người.

Làm việc tốt đẹp ở trần gian đó là góp phần xây dựng nước trời. Góp phần xây dựng trần gian đó là dọn chỗ ở trên nước trời. Trần gian không phải là nơi cho ta bám víu vì không vĩnh cửu. Nhưng trần gian là cơ hội cho ta đạt tới nước trời.

Chính vì thế, người môn đệ của Chúa phải sống giữa trần gian, phải yêu mến trần gian, phải xây dựng trần gian. Vì trần gian là nơi Chúa sai ta đến làm việc.

Tuy nhiên người Kitô hữu làm việc ở trần gian mà lòng vẫn hướng lên quê trời. Yêu mến trần gian vì nước trời. Yêu mến trần gian để biến trần gian thành nước trời.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho con biết nỗ lực xây dựng trần gian trong niềm mong đợi hạnh phúc nước trời. Amen.

Gợi ý chia sẻ:

1) Tin có thiên đàng. Điều này có quan trọng đối với bạn?

2) Người môn đệ của Chúa phải có thái độ nào đối với của cải vật chất?

3) Khi ngắm thứ hai mùa mừng, đọc “Ta hãy xin cho được lòng ái mộ những sự trên trời”, bạn nghĩ gì? Bạn phải sống làm sao để thực hiện lời cầu nguyện này?

ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt

Giới răn yêu thương của Chúa Giêsu dẫn chúng ta tới với tha nhân

Giới răn yêu thương của Chúa Giêsu dẫn chúng ta tới với tha nhân

Giới răn yêu thương của Chúa Giêsu là con đường dẫn chứng ta tới với tha nhân

Giới răn yêu thương của Chúa Giêsu chỉ cho chúng ta con đường theo Ngài, con đường của tình yêu, khiến cho chúng ta ra khỏi chính mình, đi đến với tha nhân và có các cử chỉ bé nhỏ, yêu thương, cụ thể, gần gũi với người già, trẻ em, người bệnh, ngưòi cô đơn, gặp khó khăn, người thất nghiệp, di cư, tỵ nạn…

Kính thưa quý vị thính giả ĐTC Phanxicô đã nói như trên với hàng chục ngàn tín hữu và du khách hanh hương trong buổi đọc Kinh Lạy Nữ Vương Thiên Đàng trưa Chúa Nhật hôm qua.

Mở đầu bài huấn dụ ĐTC nói: Tin Mừng hôm nay, Phúc Âm thánh Gioan chương 15, đưa chúng ta trở lại Nhà Tiệc Ly, nơi chúng ta nghe giới răn mới của Chúa Giêsu. Ngài nói: “Đây là điều răn mới của Thầy: đó là các con hãy yêu nhau như Thầy đã yêu các con” (c. 12). Và khi nghĩ tới hiến tế thập giá rất gần kề, Ngài nói thêm: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người  đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình. Các con là bạn hữu của Thầy, nếu các con làm những điều Thầy truyền dậy” (cc. 13-14). ĐTC giải thích điều răn yêu thương của Chúa Giêsu như sau:

 Các lời này, được nói lên trong Bữa Tiệc Ly, tóm tắt toàn sứ điệp của Chúa Giêsu; còn hơn thế nữa, chúng tóm gọn tất cả những gì mà Ngài đã làm: Ngài đã trao ban mạng sống mình cho các bạn hữu. Các người bạn đã không hiểu Ngài, và trong lúc định đoạt nhất đã bỏ rơi, phản bội và khước từ Ngài. Điều này nói với chúng ta rằng Ngài yêu thương chúng ta, cho dù chúng ta không xứng đáng với tình yêu của Ngài: Chúa Giêsu yêu thương chúng ta như thế đó!

Trong cách thức này Chúa Giêsu chỉ cho chúng ta con đường theo Ngài, con đường của tình yêu. Giới răn của Ngài không là một điều luật đơn thuần, luôn như cái gì trừu tượng, hay ở ngoài cuộc sống chúng ta. Điều răn của Chúa Kitô mới mẻ, bởi vì Ngài là người đầu tiên đã thực hiện nó, đã trao ban thịt xác cho nó, và như thế luật yêu thương được viết một lần cho luôn mãi trong trái tim con người. (x. Gr 31,33). Nó được viết làm sao? Nó được viết với lửa của Thánh Thần. Và với cùng Thần Khí mà Chúa Giêsu ban cho chúng ta, chúng ta cũng có thể bước đi trên con đường ấy!

Nó là một con đường cụ thể, một con đường dẫn chúng ta tới chỗ ra khỏi chính mình để đi đến với những người khác. Chúa Giêsu đã cho chúng ta thấy rằng tình yêu của Thiên Chúa hiện thực trong tình yêu tha nhân. Cả hai đi với nhau. Các trang Tin Mừng tràn đầy tình yêu này: người trưởng thành, trẻ em, người thông thái, kẻ dốt nát, người giầu kẻ nghèo, người công chính, kẻ tội lỗi tất cả đều được tiếp đón trong trái tim của Chúa Kitô.

Tiếp tục bài huấn dụ ĐTC nói: Như vậy, Lời này của Chúa mời gọi chúng ta yêu thương nhau, cả khi chúng ta không luôn luôn hiểu nhau, không luôn luôn đồng ý với nhau… nhưng chính nơi đó mà người ta trông thấy tình yêu kitô. Một tình yêu được biểu lộ ra, cả khi có các khác biệt ý kiến hay tính tình, nhưng tìh yêu lớn hơn các khác biệt! Đó là tình yêu mà Chúa Giêsu đã dậy chúng ta. Nó là một tình yêu mới mẻ, bởi vì đã được Chúa Giêsu và Thần Khí của Ngài canh tân. Nó là một tình yêu được cứu rỗi, được giải thoát khỏi ích kỷ. Một tình yêu trao ban cho con tim chúng ta niềm vui, như chính Chúa Giêsu nói: “Thầy đã nói vơi các con những điều này để niềm vui của Thầy ở trong các con, và niềm vui của các con tràn đầy”.

Chính tình yêu này của Chúa Kitô, mà Chúa Thánh Thần đổ vào lòng chúng ta, thực hiện các điều lạ lùng mỗi ngày trong Giáo Hội. Có biết bao nhiêu cử chỉ lớn nhỏ tuân theo giới răn của Chúa: “Các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu các con” (X. Ga 15,12). Các cử chỉ bé nhỏ, các cử chỉ của mỗi ngày, các cử chỉ của sự gần gũi một người già, một em bé, một người bệnh, một người cô đơn và trong khó khăn, không nhà, không công ăn việc làm, di cư, tỵ nạn… Nhờ sức mạnh  Lời này của Chúa Kitô mỗi người trong chúng ta đều có thể gẩn gữi người anh chị em mà chúng ta gặp gỡ. Các cử chỉ của sự gần gũi, cận kề. Nơi các cử chỉ đó biều lộ tình yêu mà Chúa Kitô đã dậy chúng ta.

Xin Mẹ Rất Thánh giúp chúng ta trong điều này, để trong cuộc sống mỗi ngày của từng người trong chúng ta tình yêu Thiên  Chúa và tình yêu tha nhân luôn luôn hiệp nhất.

Tiếp đến ĐTC đã cất Kinh Lậy Nữ Vương Thiên Đàng và ban phép lành tòa thánh cho mọi người.

Sau Kiinh Lậy Nữ Vương Thiên Đàng ĐTC đã chào các gia đình, các nhóm giáo xứ, hội đoàn và các khách hành hương đến từ Italia và nhiều nước trên thế giới, đặc biệt các đoàn hành hương đến từ Madrid, Portorico và Croazia. Ngài cũng chào các bạn trẻ thuộc nhiều giáo phận Italia, cách riêng giới trẻ giáo phận Orvieto-Todi do ĐC Tuzia hướng dẫn. Ngài khích lệ họ hãy là các kitô hữu can đảm và là các chứng nhân hy vọng.

ĐTC cũng chào Hiệp hội bảo vệ rừng Ialia tổ chức lễ toàn quốc các vùng thiên nhiên được bảo vệ để giúp dân chúng tái khám phá ra vẻ đẹp của thụ tạo; các tham dự viên đại hội do Hội Đồng Giám Mục Italia tổ chức nhằm yểm trợ một học đường có phẩm chất và rộng mở cho các gia đình; phái đoàn phụ nữ hiệp hội “Komen Italia” chống ung thư vú, và tất cả những người tham dự sáng kiến tuần hành cho sự sống tại Roma: ĐTC nói thật là quan trọng cùng nhau cộng tác để bênh vực và thăng tiến sự sống. Và khi nói tới sự sống hôm nay và tại biết bao nhiêu nước trên thế giới người ta cử hành lễ hiền mẫu. Chúng ta hãy nhớ tới tất cả các bà mẹ với lòng biết ơn và yêu mến. Bây giờ tôi xin hướng tới các bà mẹ hiện diện tại quảng trường này. Có các bà mẹ không vậy? Có không? Có các bà mẹ không? Chúng ta hãy tặng các bà một tràng pháo tay, các bà mẹ tại quảng trường… Và tràng pháo tay này ôm tất cả các bà mẹ vào lòng, tất cả các hiền mẫu yêu dấu của chúng ta, các bà mẹ còn sống với chúng ta một cách thể lý cũng như các bà mẹ sống với chúng ta trong tinh thần. Xin Chúa chúc lành cho tất cả các hiền mẫu, và xin Đức Mẹ được tôn kính trong tháng 5 này gìn giữ các bà mẹ. Xin Chúc anh chị em một ngày Chúa Nhật tốt lành, hơi nóng một chút, và xin anh chị em đừng quên cầu nguyện cho tôi.     

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

 

Đức Thánh Cha đề cao giá trị của các ngành thể thao

Đức Thánh Cha đề cao giá trị của các ngành thể thao

VATICAN. ĐTC đề cao giá trị của mọi ngành thể thao và kêu gọi đừng quên chiều kích tinh thần và tôn giáo trong lãnh vực này.

Ngài trình bày lập trường trên đây trong buổi tiếp kiến hôm 7-5-2015 dành cho 7 ngàn thành viên các hội thể thao miền Lazio ở Italia nhân dịp kỷ niệm 115 năm thành lập Hội này.

Lên tiếng tại buổi tiếp kiến, ĐTC ca ngợi thành quả của Hội thể thao Lazio kể từ khi được thành lập đến nay và ngài cũng nhận xét rằng tại Italia và cũng như tại Argentina, khi nói đến thể thao, người ta có nguy cơ chỉ nói về bóng đá, mà lơ là đối với các bộ môn thể thao khác. Thật ra, mỗi ngành thể thao đều có giá trị riêng, không những về phương diện thể lý hoặc xã hội, nhưng cả về phương diện luân lý nữa, vi nó mang lại cho con người, đặc biệt là các thiếu niên và người trẻ, những cơ hội để tăng trưởng trong sự quân bình, tự chủ, hy sinh và lương thiện đối với tha nhân.

ĐTC nói thêm rằng ”Kinh Thánh dạy chúng ta: con người là một toàn thể, tinh thần và thân xác. Vì thế tôi khuyến khích các bạn, khi sinh hoạt thể thao, luôn vun trồng chiều kích tôn giáo và tinh thần. Nhiều khi có những người trẻ phải bỏ lễ, bỏ giờ giáo lý vì tập luyện thể thao. Đó không phải là một dấu hiệu tốt, vì nó đánh mất nấc thang các giá trị. Cũng vậy không thể vì thể thao mà lơ là việc học hành, tình bạn, phục vụ người nghèo”. (SD 7-5-2015)

Tiếp kiến 7 ngàn thành viên Liên hiệp quần vợt (tennis) Italia

Mặt khác, sáng 8-5-2015, ĐTC đã tiếp kiến 7 ngàn thành viên Liên hiệp quần vợt Italia. Hiện diện tại Đại thính đường Phaolô 6 cũng có nhiều trẻ em tham gia sinh hoạt vui chơi và vận động do Liên hiệp này tổ chức.

Trong huấn dụ tại buổi tiếp kiến, ĐTC đề cao thể thao như một con đường giáo dục và nói:

”Có 3 con đường, 3 cột trụ cơ bản đối với các trẻ em, thiếu niên và người trẻ, đó là: giáo dục – học đường và gia đình -, thể thao và lao động. Khi có đủ 3 cột trụ ấy, thì có những điều kiện để phát triển một cuộc sống sung mãn và chân chính, tránh được những nghiện ngập làm cho cuộc sống bị nhiễm độc và hư hỏng.

ĐTC cũng khẳng định rằng: ”Giáo Hội chú ý đến thể thao vì Giáo Hội quan tâm đến con người, toàn diện con người, và nhìn nhận hoạt động thể thao có ảnh hưởng tới việc huấn luyện con người, các quan hệ và đời sống tâm linh của con người. Là những thể tháo gia, anh chị em có một sứ mạng phải chu toàn: anh chị em có thể là những gương mẫu đối với những người ngưỡng mộ anh chị em”.

ĐTC cũng nhận xét rằng ngành quần vợt là một bộ môn thể thao rất tranh đua, nhưng ”sức ép muốn đạt được những kết quả quan trọng không bao giờ được thúc đẩy anh chị em đi những con đường tắt, như xảy ra trong những trường hợp dùng những thuốc kích thích bất hợp pháp. Thật là xấu xa và vô ích chiến thắng mà người ta đạt được bằng cách coi rẻ luật lệ và đánh lừa người khác”.

Sau cùng, ĐTC khuyến khích các cầu thủ quần vợt không những tranh đua trong thể thao, nhưng còn tranh đua cả trong cuộc sống, trong sự tìm kiếm điều chân, thiện, mỹ, không sợ hãi, nhưng can đảm và hăng say” (SD 8-5-2015)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

 

Ở lại trong tình thương

Ở lại trong tình thương

(Trích trong ‘Manna’)

Suy Niệm

"Tôi là một linh mục công giáo Ba Lan, tôi đã già, tôi muốn chết thay cho ông này, vì ông có vợ con". Quyết định của Cha Maximilianus Maria Kolbe đã cứu được ông Francis.

Không phải chỉ mình ông và gia đình ông, cha còn cứu được 9 người khác, khỏi nỗi tuyệt vọng, những người sẽ cùng bị bỏ đói đến chết với cha.

Từ hầm giam, không còn nghe thấy tiếng khóc than nguyền rủa. Chỉ có tiếng hát và lời kinh.

Cái chết của cha làm mọi người kinh ngạc, vì nó là bằng chứng của một tình yêu. Không có tình yêu nào lớn bằng tình yêu hiến mạng cho người bạn của mình.

Ông Francis chẳng phải là bạn của cha Kolbe, nhưng ông thành bạn của cha vì được cha hiến mạng.

Hãy ở lại trong Thầy, ở lại trong tình yêu của Thầy.

Đây không phải là một lời mời đầy tính lãng mạn của một người đang yêu. Đây cũng không phải là một mệnh lệnh cao siêu dành cho những nhà thần bí.

Đức Giêsu dạy ta biết cách ở lại trong Ngài.

Ai muốn ở lại trong tình yêu của Thầy thì phải giữ các điều răn (x. câu 10), mà điều răn quan trọng nhất là yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Như thế chúng ta có một kết luận kỳ diệu: muốn ở lại trong Thầy thì cũng phải ở lại trong nhau.

Cành nào muốn hiệp thông với cây thì cũng phải hiệp thông với các cành khác. Có một dòng nhựa từ cây nuôi các cành. Chúng ta là những cành cây được nuôi bằng một dòng nhựa.

Khi gắn bó thân thiết với Chúa, chúng ta cũng được gắn bó với nhau sâu thẳm.

Yêu anh em là thước đo đáng tin cậy để thấy được tình yêu của mình đối với Chúa. Chỉ có một dòng tình yêu duy nhất luân chuyển: như Cha đã yêu Thầy, Thầy đã yêu anh em; như Thầy đã yêu anh em, anh em hãy yêu nhau.

Dòng tình yêu phát xuất từ Cha và đi khắp thế giới.

Yêu thương là không làm cho nó ngừng lại thành ao tù.

Thế giới hôm nay đói khát tình yêu đích thực.

Môn đệ Đức Kitô phải là chứng nhân tình yêu, yêu như Chúa đã yêu, yêu bằng tình yêu lớn nhất.

Chúng ta không có dịp để chết như cha Kolbê, nhưng mỗi ngày ta có nhiều dịp để sống cho người khác.

Sống cho tha nhân đòi hỏi những cái chết nho nhỏ. Những cái chết nhỏ chuẩn bị cho cái chết lớn khi cần.

Mỗi lần trái tim ta héo khô và chai cứng, hãy trở lại với Đức Giêsu như suối nguồn để được Ngài tưới đẫm yêu thương.

Gợi Ý Chia Sẻ

Mọi tội lỗi đều bắt nguồn từ thiếu yêu thương. Bạn đánh giá thế nào về tình yêu thương trong gia đình, khu xóm, trường học, giáo xứ, nơi làm việc… của bạn? Các Kitô hữu ở đó có làm chứng về yêu thương không?

Có khi nào bạn cảm thấy yêu thương người khác là điều quá khó không? Làm sao để thoát ra khỏi nỗi tức bực và hờn oán của mình đối với người khác?

Cầu Nguyện

Lạy Chúa là Thiên Chúa của con. Có những ngày, đón nhận những người khác, là điều vượt quá sức con, vì con kiêu hãnh, tự hào và yếu đuối.

Lạy Chúa là Thiên Chúa của con. Có những ngày, con không thể nào kính trọng kẻ khác được, vì ý kiến, vì mau da, vì cái nhìn của người ấy.

Lạy Chúa là Thiên Chúa của con. Có những ngày, mà yêu mến người khác, làm cho tim con đau nhói, vì nỗi sợ hãi, nỗi khổ đau và những giới hạn của bản thân con.

Lạy Chúa là Thiên Chúa của con. Trong những ngày khó khăn đó, xin hãy nhắc cho con nhớ rằng tất cả chúng con đều là con cái Chúa và đừng để con quên Lời Chúa nói: "Điều gì chúng con làm cho người bé nhỏ nhất là làm cho chính Ta."

Kết hợp và sinh trái

Kết hợp và sinh trái

Phúc âm Chúa nhật tuần trước, Chúa Giêsu dùng hình ảnh con chiên và người chăn chiên để nói về mối liên hệ giữa Thiên Chúa và loài người. Mục tử chăm sóc đoàn chiên.

Phúc âm hôm nay, Chúa Giêsu dùng hình ảnh cây nho và cành nho để nói đến sự thông hiệp giữa loài người với Thiên Chúa. Cành nho phải gắn vào thân nho để sống và sinh hoa trái.

Ý nghĩa của lối so sánh là kết hợp và sinh trái. Càng kết hợp chặt chẽ càng sinh nhiều hoa trái. Chúa dạy chúng ta điều kiện căn bản là kết hợp với Chúa, mới đem lại hoa quả thiêng liêng cho chính mình và cho người khác.

Chúa Giêsu nói với các môn đệ: “Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái”(Ga 14,5). Có tới 9 lần cụm tụ “ở lại trong” được lặp lại trong đoạn Tin mừng này. Mỗi người phải “ở lại trong” Thầy, bởi vì: “Không có Thầy, các con không thể làm được gì” (Ga 14,5).

Nếu chúng ta được ở trong Chúa Giêsu, được kết hợp với Ngài thì chúng ta sẽ lãnh được sức sống của Ngài. Chúa Giêsu ở trong Thiên Chúa nên khi kết hợp với Ngài, chúng ta cũng được kết hợp với Thiên Chúa và múc được sự sống của Chúa Ba Ngôi.

Cành nho gắn với thân nho và liên kết với những cành khác. Cành nho nào không tiếp nhận nhựa sống sẽ cằn cỗi, khô héo. Nhựa sống trong thân cây lưu chuyển, cho mọi cành để cùng nhau sinh nhiều hoa trái. Chúng ta cần cộng tác với nhau, cần nâng đỡ nhau, cần kết hợp với nhau trên con đường nên thánh.

Thiên Chúa là nguồn mạch sự sống. Tách lìa Người, chúng ta không thể sống, càng không thể phát triển được. Thiên Chúa là dòng sông ân sủng. Khi kết hiệp với Người, ân sủng tuôn đổ vào linh hồn, làm cho chúng ta được sống và sống sung mãn. Ân sủng thấm nhập nội tâm, uốn nắn tình cảm, củng cố ý chí, sinh ra những hoa trái thiêng liêng trong tư tưởng, lời nói, việc làm. Nhờ kết hiệp mật thiết với Chúa, chúng ta được sống sự sống của Người, nói lời nói của Người, hành động theo gương của Người, phán đoán theo chuẩn mực của Người, nhìn con người và sự việc bằng cặp mắt của Người, yêu thương bằng trái tim của Người. Khi sự kết hiệp đã đến mức hoàn hảo, chính Người hành động qua ta và vì thế, những hoa trái sẽ vô cùng phong phú.

Bài đọc 1, kể chuyện thánh Phaolô trở lại trên đường Đamat. Từ con người phản nghịch trở thành con người của ơn thánh. Từ con người ghét đạo trở thành con người nhiệt thành rao giảng Tin Mừng. Phaolô đã đúc kết mối liên kết cuộc đời mình với Chúa Kitô trong một câu bất hủ: "Tôi sống, nhưng không phải tôi, mà là chính Đức Kitô sống trong tôi" (Gal 3, 20).

“Đức Kitô sống trong tôi”nên tôi mới sinh hoa trái yêu thương như lời Thánh Gioan trong bài đọc 2 : “Ai tuân giữ giới răn của Thiên Chúa thì ở trong Thiên Chúa và Thiên Chúa ở trong kẻ ấy. Và giới răn của Thiên Chúa là tin vào Danh Đức Giêsu Kitô, Con của Ngài, và yêu thương nhau như Ngài đã truyền dạy”. Thánh Gioan còn căn dặn: “Chúng ta đừng yêu thương nơi đầu môi chót lưỡi, nhưng phải yêu thương thật sự bằng việc làm”. “Sinh hoa trái” là yêu thương một cách hữu hiệu, bằng việc làm có sức biến đổi môi trường chung quanh, đem niềm vui và hạnh phúc cho người khác.

Lúc ban đầu, khi các môn đệ mới theo Chúa, Thánh Gioan viết: “Các môn đệ đã đến xem chỗ Ngài ở và lưu lại với Ngài” (Ga 1,39). Sau những năm sống với Chúa, Thánh Gioan đổi cách dùng ngôn ngữ: “Các con hãy ở lại trong Thầy cũng như Thầy ở trong các con” (Ga 15, 17). Ở với là ở bên cạnh. Ở trong là trọn vẹn thuộc về người ấy. Khi Phêrô ở với Chúa là ở bên cạnh thôi nên vẫn còn hai bước chân khác nhau, hai ý nghĩ không chung đường và Phêrô đã có những bước chân sai đi lạc lối. Còn ở trong là nên một trong nhau. Chính nhờ ở trong Chúa mà Phêrô đã trở nên con người mới, hoàn toàn thuộc về Chúa.

“Ở lại trong” và “gắn liền với” Chúa là điều kiện cần thiết để “sinh nhiều hoa trái”. Chúa Giêsu đã sống chân lý đó trong sự kết hiệp mật thiết với Thiên Chúa Cha, và Ngài đã cầu nguyện cho chúng ta được nên một với Ngài trong sự sống đó (Ga 17,21-22).Chúng ta kết hợp với Chúa qua đời sống cầu nguyện, Thánh Lễ và các Bí Tích. Chúng ta còn kết hợp với Chúa qua việc biểu lộ lòng trung tín như lời Thánh Phêrô: "Bỏ Thầy chúng con biết theo ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời" (Ga 6,68).

“Gắn liền với” hay “ở lại trong” Chúa Giêsu, chúng ta sẽ nhận được sức sống, sức mạnh của Ngài, chúng ta sẽ có một cuộc đời tươi đẹp, ý nghĩa, chẳng những đầy nội lực, an vui, hạnh phúc mà còn là nguồn sức mạnh, nguồn an vui hạnh phúc cho mọi người nữa. Mối liên kết này làm cho chúng ta có cùng bản tính với Chúa Giêsu, được nên một với Ngài: một sự sống, một tình yêu, một tinh thần, một ý chí và hành động. Từ đó, trở nên chi thể trong nhiệm thể Chúa Kitô, chúng ta là óc để suy tư, là mắt để nhìn thực tại trần thế, là tai để nghe tiếng rên rỉ đòi hỏi, là vai để vánh vác, là tay để cứu vớt, là chân để đi đến với người khổ đau, là quả tim để khắc khoải yêu thương, và là miệng để nói những lời bác ái ủi an (ĐHY 341).

Dụ ngôn “cây nho” là bài diễn từ về cuộc sống siêu nhiên. Lời Chúa mời gọi chúng ta hãy luôn gắn bó mật thiết với Chúa. Nhờ ân sủng của Chúa, đời sống chúng ta sẽ trổ sinh nhiều hoa trái tốt lành. Hoa trái chính là yêu thương, chia sẻ, cảm thông, tấm lòng rộng mở, biết quan tâm đến người khác. Sống được như vậy, chúng ta mới xứng đáng là môn đệ của Đấng Phục Sinh, đồng thời cũng làm cho Chúa Cha ngày càng được vinh hiển, như lời dạy của Chúa Giêsu: “Đây là điều làm cho Cha Thầy được vinh hiển là các con sinh nhiều trái, và như thế, các con trở nên môn đệ của Thầy”.

LM Giuse Nguyễn Hữu An

Sinh nhiều hoa trái

Sinh nhiều hoa trái

Ai trồng cây cũng mong được ăn quả. Muốn có quả, cũng phải lắm công phu. Không phải cứ xanh tốt lớn mạnh là có quả. Có những ruộng lúa xanh tốt, nhưng chỉ tốt lá, nên chỉ cho những bông lúa lép. Có những cây xum xuê cành lá, nhưng đến mùa chẳng thấy quả nào. Xanh tốt như thế không phải là thành công, nhưng là thất bại. Cành lá chỉ là phụ, hoa quả mới là chính. Được điều phụ mất điều chính, đó là thất bại. Đức Giêsu quan sát cây nho và thấy rằng một cây nho muốn có nhiều hoa quả cần phải có hai điều kiện sau đây:

Điều kiện thứ nhất: Cành phải liên kết với cây. Cành không liên kết với cây, không thể sinh hoa kết quả. Cành không liên kết với cây khi dòng nhựa nuôi dưỡng thân cây bị tắc nghẽn không luân lưu sang cành. Có những con sâu con bọ đục khoét làm cho cành cây bị thương tổn, không còn tiếp nhận được nguồn nhựa sống của thân cây truyền sang. Chỉ khi cành kết hiệp chặt chẽ với cây, dòng nhựa từ cây mới truyền sang cành, cho cành trổ sinh hoa trái.

Điều kiện thứ hai: Cành lá phải được cắt tỉa. Ai đã trồng nho thì biết: Nếu cứ để cành lá phát triển tự do, cây sẽ xanh tươi coi rất đẹp mắt nhưng không có hoa trái. Muốn cây có quả, phải tỉa bớt cành lá. Việc cắt tỉa làm cho dòng nhựa không bị phân tán, nhưng tập trung vào những cành chính, dồn vào cho hoa sung sức, cho quả đầy đặn.

Đức Giêsu muốn dùng hình ảnh cây nho để nói về đời sống đạo của ta. Đời sống của ta được sánh ví như đời sống của cây nho.

Cũng như người trồng nho muốn cho vườn nho của mình không bị tàn lụi, nhưng phát triển, sinh hoa kết quả, Đức Chúa Cha đã tạo dựng nên con người không phải để con người tàn lụi đi, nhưng để con người phát triển, sinh hoa kết quả và tồn tại.

Để được phát triển, con người cũng cần những điều kiện.

Điều kiện thứ nhất: Phải kết hiệp mật thiết với Đức Giêsu. Như cành nho phải liên kết với thân nho mới sinh hoa kết quả, ta phải liên kết mật thiết với Đức Giêsu. Người là nguồn cội sự sống của ta. Tách lìa Người, ta không thể sống, càng không thể phát triển được. Người là dòng sông ân sủng. Khi ta kết hiệp với Người, ân sủng tuôn đổ vào linh hồn, làm cho ta được sống và sống sung mãn. Ân sủng thấm nhập nội tâm, uốn nắn tình cảm, củng cố ý chí, sinh ra những hoa trái thiêng liêng trong tư tưởng, lời nói, việc làm. Sự kết hiệp mật thiết với Chúa làm cho ta sống sự sống của Người, nói lời nói của Người, hành động theo gương của Người, phán đoán theo chuẩn mực của Người, nhìn con người và sự việc bằng cặp mắt của Người, yêu thương bằng trái tim của Người. Khi sự kết hiệp đã đến mức hoàn hảo, chính Người hành động qua ta và vì thế, những hoa trái sẽ vô cùng phong phú.

Điều kiện thứ hai: Phải chịu cắt tỉa. Cành nho muốn sai trái phải chịu tỉa bớt những cành lá rườm ra. Cũng thế, linh hồn phải để Chúa cắt tỉa nhưng gì dư thừa cản trở ơn thánh sinh hoa kết quả. Phải cắt tỉa những ý muốn riêng tư để chuyên tâm tìm thánh ý Thiên Chúa. Phải cắt tỉa những hình thức bề ngoài để chìm vào nội tâm sâu lắng. Phải cắt tỉa những phô trương quyền lực để mặc lấy tâm tình đơn sơ khiêm nhuờng. Chúa cắt tỉa ta bằng những thất bại ta gặp phải. Chúa huấn luyện ta bằng những lời phê bình chỉ trích của những người chung quanh. Chúa mãi dũa ta bằng những nghi kỵ hiểu lầm của người khác. Chúa đào tạo ta trong những phản bội của người thân tín. Việc cắt tỉa làm cho ta đau đớn, nhưng đem lại những lợi ích vô cùng phong phú.

Chính Đức Giêsu đã làm gương cho ta khi Người sống kết hiệp mật thiết với Đức Chúa Cha. Sự kết hiệp ấy được diễn tả qua việc Người chuyên tâm cầu nguyện và luôn luôn làm theo ý Chúa Cha. Người đã để cho Chúa Cha cắt tỉa khi Người từ bỏ ý riêng, nhận uống chén đắng, nhận vác thập giá, nhận lấy cái chết tủi nhục. Chính vì thế, Người đã sinh hoa trái dồi dào nuôi sống tất cả chúng ta. Chính vì thế, Người đã trở nên gốc nho sung mãn sự sống để chuyển thông cho chúng ta.

Lạy Đức Giêsu là Cây Nho Thật, xin cho con biết kết hiệp mật thiết với Chúa. Xin hãy cắt tỉa những gì vô ích trong con để con sinh nhiều hoa trái thiêng liêng như Chúa mong ước. Amen.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1- Còn những gì trong bạn ngăn cản bạn kết hiệp với Chúa?

2- Trong bạn còn những gì phải cắt tỉa?

3- Bạn có sẵn sàng để Chúa cắt tỉa không

4- Những thất bại, những đau khổ bạn gặp phải có ích gì cho bạn không?

ĐTGM Ngô Quang Kiệt

Công Giáo Italia gửi 3 triệu Euro giúp nạn nhân ở Népal

Công Giáo Italia gửi 3 triệu Euro giúp nạn nhân ở Népal

ROMA. Giáo Hội Công Giáo tại Italia đã dành 3 triệu Euro để góp phần cứu trợ khẩn cấp cho các nạn nhân động đất ở Népal.

Hôm 27-4-2015, Văn phòng toàn quốc về truyền thông xã hội thuộc HĐGM Italia, ra thông cáo nói rằng ”Tại Népal đất tiếp tục rung chuyển, làm cho con số các nạn nhân ngày càng cao, từ sau trận động đất đầu tiên hôm thứ bẩy 25-4-2015 kể cả tại Ấn độ, Tây Tạng và Bangladesh. Hàng ngàn người chết, hàng chục ngàn người bị thương và hàng trăm ngàn người đang cần được cứu trợ khẩn cấp.

ĐGH Phanxicô đã bày tỏ ”sự gần gũi với dân chúng bị nạn”, ngài cầu nguyện cho các nạn nhân, những người bị thương và tất cả những người đang chịu đau khổ vì thiên tai này”, và ngài cũng kêu gọi động viên cộng đồng quốc tế để nâng đỡ trong tinh thần liên đới huynh đệ.

Với tinh thần đó, hôm 27-4-2015, Đoàn chủ tịch HĐGM Italia đã mau lẹ quyết định dành 3 triệu Euro rút từ ngân quỹ 8 phần ngàn, – tiền các tín hữu đóng góp cho Giáo Hội – để cứu trợ cấp thời, qua trung gian Đức TGM Salvator Pennacchio, Sứ thần Tòa Thánh tại Ấn độ và Népal.

Trận động đất nặng nhất ở độ 7.9 theo thước Richter đã làm cho hơn 3,700 người chết và 6,515 người bị thương tại Népal theo thống kê sơ khởi tính đến sáng ngày 27-4-2015. Tại Ấn độ có 56 người chết và tại Trung Quốc có 20 người thiệt mạng vì động đất (SD 27-4-2015)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Mục Tử Nhân Lành

Mục Tử Nhân Lành

Dân Do Thái là dân du mục. Cuộc đời họ gắn liền với đoàn vật và những đồng cỏ. Nên khi Đức Giêsu đưa ra hình ảnh người mục tử và đoàn chiên, người Do Thái hiểu ngay tức khắc. Đức Giêsu đã dùng hình ảnh quen thuộc ấy để nói lên mối liên hệ của ta với Người và của Người với ta. Người là Mục tử nhân lành. Ta là đoàn chiên của Người. Người lãnh đạo đoàn chiên không phải bằng uy quyền áp chế, bằng kỷ luật khắc nghiệt, nhưng bằng tình yêu tha thiết. Tình yêu của Người được biểu lộ qua ba khía cạnh: hiểu biết, quan tâm chăm sóc và hy sinh cho đoàn chiên.

Tình yêu của Đức Giêsu là tình yêu hiểu biết. Sự hiểu biết này không phát xuất từ lý trí, do học hỏi, nhưng phát xuất từ trái tim, do tình yêu. Khi yêu, trái tim trở nên vô cùng nhậy bén đến độ hiểu được hết những âm thanh của tâm hồn và tai người thường không nghe thấy, nhìn thấy hết những gì ẩn kín trong tâm hồn mà mắt thường không nhìn thấy, cảm nhận được hết những chiều sâu thăm thẳm của tâm hồn mà không một nhà tâm lý học nào có thể cảm được. Khi Đức Giêsu nói: “Ta biết chiên Ta” có nghĩa là Người hiểu biết từng người trong chúng ta. Người không chỉ hiểu rõ hoàn cảnh sinh sống của chúng ta, mà còn thấu rõ tâm tư tình cảm của ta. Người biết những gánh nặng mà ta đang phải gánh. Người thông cảm với những đau đớn mà ta đang phải chịu. Người đau những nỗi đau trong tâm hồn ta. Người khổ những nỗi khổ đang dày vò ta. Người nhức nhối trong vết thương của tâm hồn ta.

Tình yêu của Đức Giêsu là tình yêu quan tâm chăm sóc. Sự hiểu biết sâu xa đến từ sự quan tâm chăm sóc. Sự quan tâm chăm sóc cũng phát xuất từ tình yêu. Có yêu mới quan tâm. Có quan tâm mới hiểu biết nhu cầu. Có hiểu biết nhu cầu mới biết đường chăm sóc. Đức Giêsu yêu thương ta nên Người quan tâm đến ta. Người biết rõ những nhu cầu của ta. Người chăm sóc ta. Có những tình yêu muốn chiếm hữu. Đó là thứ tình yêu ích kỷ. Có những chăm sóc khiến ta trở nên ấu trĩ, yếu ớt, không lớn lên được. Đó là thứ chăm sóc độc đoán ràng buộc. Đức Giêsu chăm sóc không phải để ràng buộc ta nhưng để giúp ta sống trong tự do. Người chăm sóc ta không phải để ta trở nên ấu trĩ, nhưng là để giúp ta trưởng thành. Người chăm sóc ta không phải để ta trở nên yếu ớt nhút nhát, nhưng là để giúp ta mạnh mẽ, tự tin. Vì thế, Nguơì cung cấp cho ta những lương thực lành mạnh. Người đưa ta đến những đồng cỏ non, đến những giòng suối trong. Lương thực Người mang đến, đó là Lời Chúa, là Mình Máu Thánh Chúa, là Thánh ý Chúa Cha. Những lương thực ấy sẽ cho ta được sống và sống dồi dào.

Tình yêu của Đức Giêsu là tình yêu hy sinh. Đây chính là dấu chỉ chắc chắn nhất của một tình yêu. Càng yêu mến nhiều càng sẵn sàng hy sinh nhiều. Yêu đến sẵn sàng hy sinh mạng sống là một tình yêu cao cả không có gì sánh được. Đức Giêsu đã xác nhận điều ấy khi Người nói: “Không có tình yêu nào lớn lao hơn tình yêu của người dám hy sinh mạng sống mình cho bạn hữu” (Ga 15,13). Chính Người đã thực hiện điều ấy. Người là Mục tử nhân lành sẵn sàng liều mạng, một mình chống lại sói dữ để bảo vệ đoàn chiên. Người đã tự hiến mạng sống vì ta. Người đã chấp nhận chết đi để ta được sống.

Hạnh phúc cho ta được là đoàn chiên của Người. Ta được an ủi vì Người hiểu ta. Ta an tâm vì Người hằng quan tâm chăm sóc ta. Ta sung sướng vì Người yêu thương đến nỗi chết vì ta.

Người muốn ta chia sẻ hạnh phúc ấy cho mọi người. Người muốn ta lớn mạnh để đến lượt ta, chính ta trở thành mục tử nhân lành theo gương Người. Cha mẹ là mục tử của con cái. Thày cô giáo là mục tử của học sinh. Giám đốc là mục tử của công nhân. Y bác sĩ là mục tử của bệnh nhân. Anh chị lớn là mục tử của các em nhỏ.

Nhưng đặc biệt hơn hết, Người muốn có những người tiếp tục công việc của Người, chăm sóc đời sống tâm linh nhân loại. Chính vì thế, Giáo Hội dành ngày hôm nay để cầu nguyện cho ơn kêu gọi làm linh mục. Nhìn tình hình chung trên toàn thế giới, và riêng trong Giáo phận, ta thấy còn thiếu rất nhiều linh mục. Giáo dân cần linh mục như bệnh nhân cần bác sĩ. Giáo dân cần linh mục như học sinh cần thầy cô giáo. Giáo dân cần linh mục như một người bạn sẵn sàng cảm thông, chia sẻ vui buồn trong đời sống và như một người bạn đồng hành giúp đỡ trong cuộc hành trình tiến về đời sau.

Hãy cầu nguyện cho có nhiều thanh niên sẵn sàng hiến thân làm linh mục. Hãy khuyến khích con cháu dâng mình cho Chúa, làm linh mục để phục vụ anh em. Nhất là hãy cầu nguyện cho các linh mục được trở nên những mục tử như Đức Giêsu, vị Mục Tử nhân lành, biết yêu thương phục vụ đoàn chiên, hiểu biết tâm tư tình cảm của từng người, quan tâm chăm sóc từng con chiên và sẵn sàng hy sinh bản thân vì lợi ích của đoàn chiên.

Lạy Đức Giêsu, Mục Tử nhân lành, xin hãy ban cho chúng con nhiều mục tử tốt lành theo gương Chúa. Xin biến chúng con thành những mục tử tốt lành trong gia đình, trong khu phố, trong xã hội. Amen.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1- Đức Giêsu hướng dẫn đoàn chiên bằng cách nào? Bằng quyền lực hay bằng tình yêu thương?

2- Hãy kể ra những đặc tính của tình yêu của Đức Kitô.

3- Bạn có cảm thấy trách nhiệm là mục tử của mình không? Bạn đã đối xử với đoàn chiên của mình thế nào?

4- Bạn nghĩ gì về đời sống tu trì? Bạn có cầu nguyện cho cha Xứ của bạn không?

ĐTGM Ngô Quang Kiệt

Khi ấy Chúa Giêsu nói: “Tôi chính là…”

Khi ấy Chúa Giêsu nói: "Tôi chính là…"

Các bạn hãy đọc lại thật chậm hai chữ này: "Tôi là" các bạn hãy đặt hai chữ này lên môi miệng Chúa Giêsu. Vấn đề lớn được đạt ra đối với Chúa Giêsu đó là lai lịch của Người: Người là ai? Tất cả những ai đã đến gần Người đều phải ngạc nhiên vì sự bí mật về bản thân của Người. Người đã có những hành vi lạ lùng, Người đã nói "nói như chưa có ai đã nói như thế bao giờ". Đôi khi Người như có vẻ chiếm chỗ của Thiên Chúa.

Vì thế, Người đã nhiều lần dùng những cách nói, những công thức mà nghe lướt qua, chúng ta không hiểu hết ý nghĩa.

“Ta là Bánh…". -"Ta là ánh sáng trần gian…". -“Ta là cửa…". -"Ta là Đấng chăn chiên lành…". -“Ta là cây nho…". "Ta là sự Phục sinh và là sự sống…".

Tất cả những kiểu nói ấy bắt đầu bằng 2 chữ Hy Lạp “Ego eimi", có nghĩa "Tôi là".

Chúng ta đừng quên rằng Chúa Giêsu đã phát âm những từ này theo tiếng "Aramên", ngôn ngữ giống như tiếng Hêbơrơ và danh từ riêng "Thiên Chúa” là nhóm chữ không quên được “YHWH", từ bốn chữ này không ai đã dám đọc lên và có nghĩa là "Ta là" (Xuất hành 3-14). Trước bụi gai bốc lửa trong sa mạc, Môsê đã hỏi Thiên Chúa: "Tên của Người là gì? Và câu trả lời bí nhiệm từ lửa đã thốt ra: "Ta là Đấng Hằng Hữu”, bằng tiếng Hêbơrơ, có 4 phụ âm mà người Do Thái không bao giờ đọc lên, và trong những bản Thánh Kinh của chúng ta ngày nay, vì tôn trọng tính trung thực của các từ ngữ đó (Thiên Chúa khó diễn tả), đôi lúc người ta đã giữ nguyên hình thức ban đầu: Để mắt nhìn, thì hiểu là "Yahweh” nhưng thực sự đọc lên thì phải thốt ra là "Đức Chúa".

Không tự xưng danh rõ ràng, nhưng qua những lời này Chúa Giêsu đã dám tuyên bố rằng Người là "Đấng Cứu Độ duy nhất cho con người”, loại trừ tất cả những vị Chúa giả hiệu, những Đấng Cứu Độ không chính danh, những lãnh tụ sai lạc của nhân loại, người là "Đấng chăn chiên" duy nhất.

Tôi chính là người mục tử nhân lành, người chăn chiên thực sự.

Biểu tượng "người mục tử dẫn đàn chiên" đã có từ lâu trong khắp miền phương Đông ngày xưa, để mô tả những "Thần Thánh" và "Vua Chúa".

Trong Thánh kinh cũng vậy, biểu tượng này cũng được áp dụng cho Chúa: "Chúa là mục tử của tôi, tôi không còn thiếu thốn chi" (Tv 22,1). "Giờ đây, chính Ta sẽ chăm sóc cho con chiên của Ta" Chúa đã nói (Ed 34). "Giờ đây Chúa của các ngươi đến. Như một người mục tử, Người cho đàn chiên ăn cỏ – Với cánh tay quyền lực của Người, Người tập họp chiên lại, Người ôm vào ngực những chiên con, Người mang đến sự tươi mát cho những chiên cái còn cho con bú” (Is 40,11).

Chúng ta đừng bao giờ quên những trích dẫn này trong Kinh thánh mà bất cứ người Do Thái nào, nhất là Chúa Giêsu, cũng phải nhớ luôn luôn. Đối với những hình ảnh của Chúa Giêsu, lời tuyên bố này đã có một ý nghĩa “thần học" rõ ràng: Người nói Người là "Đấng Mêsia", "sứ giả của Thiên Chúa" để dẫn đắt loài người đến với cuộc sống thật. Câu trước liền câu này, (rất tiếc là sách "bài đọc” đã không bắt đầu trước một câu) đã được chính môi miệng Chúa Giêsu nói ra như tóm tắt hoàn hảo nhất của bộ Tin Mừng, và sứ mệnh mà Người đảm nhận: "Ta đã đến cho loài người, có được cuộc sống, và cho loài người có cuộc sống dồi dào" (Ga 10,10).

Chúng ta cũng biết loài người cần đến những người chỉ đạo như thế nào, những Đấng do Chúa sai đến, có khả năng phân tách tình hình, dự đoán tương lai, trừ khử những hiểm nguy đang hăm dọa và mang đến sự an toàn. Cá nhân tôi rất chán ghét những điều ngu xuẩn mà các đài phát thanh và truyền hình thường phổ biến ào ạt. Khi một số nhân vật, chỉ là những "con người" như chúng ta đã tỏ ra dường như nắm được chân lý, biết những gì sẽ xảy ra, những gì phải làm: Chỉ cần loại bỏ điều này, điều kia và mọi việc sẽ ổn, chỉ cần làm thế này hoặc sai lạc ở chỗ này, chỗ kia.

Lời khẳng định sau đây của thánh Phêrô trong bài đọc 1 hôm nay vang lên như một lời cảnh tỉnh trong bối cảnh hư hỏng và phá sản những giá trị thiêng liêng: "Chúa Giêsu chính là viên đá mà các người tự xưng là những người xây dựng thế giới đã chê bỏ, nhưng Người đã trở nên viên đá góc. Ngoài Người ra, không có sự cứu rỗi nào cả".

Người làm thuê, vì không phải là mục tử, và không có chiên thuộc về riêng mình, nên thấy sói đến là bỏ chiên mà chạy.

“Người chăn chiên lành" ở đây được Chúa Giêsu giới thiệu để đối lại với các "vị câu thế" giả hiệu, những người này hứa hẹn toàn "những điều kỳ diệu”. Giờ nguy hiểm là giờ sự thật: Người chăn chiên giả hiệu, "người làm thuê" chỉ làm công việc để kiếm tiền, và tìm lợi riêng. Anh ta không cần gì đến đàn chiên, và đôi khi anh ta sẵn sàng phụ lực với chó sói để tru lên. Trong mọi trường hợp, anh ta sẽ không liều mạng sống của mình, nhưng trước hết anh ta sẽ tự cứu chính mình. Vì anh ta là kẻ làm thuê và không thiết gì đến chiên. Còn người mục tử nhân lành hy sinh mạng sống cho đàn chiên.

Trong trang này, bốn lần Chúa Giêsu nói: "Người hy sinh mạng sống của chính Người". Chúng ta không nên dừng lại ở những hình ảnh thôn dã điền viên, những "chuồng chiên" lãng mạn này. Bầu khí bây giờ thật bi thảm: "Chúa Giêsu đang nghĩ đến người mục tử chịu chết để cứu đàn chiên của mình. Hình ảnh lạ lùng, khác thường quá. Chúng ta thường nghĩ rằng: Khi một người chăn chiên chết, anh ta không thể bảo vệ đàn chiên được nữa. Nhưng Chúa Giêsu nói: Nhờ cái chết của Người, Người sẽ cứu chúng ta. Chúa Giêsu mạc khải điều này trong hoàn cảnh: Sự thù địch của những lãnh tụ tôn giáo càng lúc càng tăng, sau khi Chúa chữa lành một người mù bẩm sinh (Ga 9).

Mạng sống của tôi không ai lấy đi được, nhưng chính tôi tự ý hy sinh mạng sống mình.

Đối với Chúa Giêsu, cái chết không phải là một sự bất ngờ, cũng không phải là một ép buộc phải chịu, hay phải chấp nhận. Người đã làm cho cái chết trở thành một sự hiến dâng hoàn toàn ý thức và tự do. Cái chết của Người là một "tác động" yêu thương, yêu thương đến cùng. "Không có tình yêu nào cao cả hơn là cho những người tự hiến chính mạng sống của mình" (Ga 13,1; 15,13).

Bản văn bằng tiếng Hy Lạp của Thánh Gioan ở đây mạnh nghĩa hơn là những bản dịch có thể diễn tả. Nguyên văn có những từ sau đây: "Ta tháo gỡ linh hồn Ta ra". "Ta hiến dâng mạng sống của Ta". Cách nói khác thường này cũng ám chỉ trực tiếp bài thơ thứ IV của người đầy tớ (Is 53,10), người này hiến dâng mạng sống của mình để hy sinh cho quần chúng. Còn chúng ta thì sao? Phải chăng chúng ta sẽ giữ lại mạng sống và cái chết của chúng ta "cho chính chúng ta?". Chúng ta sẽ hiến dâng cái chết của chúng ta cho ai? Chúng ta có yêu thương người khác đủ để có thể thực hiện sự dâng hiến – tối thượng này không?

Tôi chính là người mục tử nhân lành. Tôi biết chiên của Tôi, và chiên của Tôi biết Tôi.

Khác với người làm thuê, "không thiết tha gì đến những con chiên”. Nhân loại, tất cả mọi người, đều có giá trị dưới mắt Chúa Giêsu, cho đến độ Người có thể liều mạng sống của Người cho mỗi một người trong chúng ta. Lạy Chúa, Chúa đã liều mạng sống của Chúa vì con sao?

Đúng, Ta đã yêu thương con thật tình, không phải chuyện đùa giỡn.

Qua những lời thắm thiết nồng nàn "Ta biết chiên của Ta" chứng tỏ tình yêu đã tiến rất xa. Động từ ‘biết’ trong Kinh thánh không chỉ có nghĩa là biết bằng tri thức mà là sự ‘biết’ của một người thương yêu một người khác đến độ như đã cộng sinh ra với người đó và dấn thân hoàn toàn vì người đó; như một người chồng nói về vợ mình: "Bây giờ anh biết em, anh trở thành một tạo vật mới, đấy là sự hy sinh ra lần thứ hai". Sự hiện diện mật thiết của người này trong người kia, một sự cảm thông hỗ tương, một sự hiệp thông trong tư tưởng và tâm hồn. Đấy là “cùng sống với người đó" và "dấn thân vì người đó".

Như Chúa Cha biết Tôi, và Tôi biết Chúa Cha.

Đấy là một gương mẫu. Sự thương yêu mật thiết và sống động giữa Ngôi Cha và Ngôi Con trong mầu nhiệm Ba Ngôi. Sự mật thiết giữa Chúa Giêsu và những người Chúa cứu chuộc bằng cái chết của Người, những người mà Chúa cho sinh ra nhờ cái chết của Người. Đó cũng chính là sự kết hợp mật thiết hiện có giữa các ngôi vị Thiên Chúa. Vâng chúng ta hãy nói về sự mật thiết sâu sa này: Khi nghe gọi "Maria", Mađalêna đã nhận ra ngay đó là tiếng nói của Chúa Giêsu Phục sinh (Ga 20,16). Tôi cũng thế, tôi cũng được Chúa biết rõ tên riêng của tôi. Tạ ơn Chúa, vì tình thương này.

Tôi còn có những chiên khác không thuộc đàn này. Tôi cũng phải đưa chúng về, chúng sẽ nghe tiếng Tôi và sẽ chỉ có một đàn chiên, và một người mục tử.

Trái tim Chúa Giêsu yêu thương mọi người. Tương quan sống động, việc hiệp thông sự sống giữa người mục tử và những con: chiên, "sự quen biết riêng” với từng con chiên, Chúa Giêsu xác quyết rằng sự "quen biết" này sẽ lan ra đối với tất cả mọi người không ngoại trừ ai cả. Sứ mệnh cứu độ của Người phải vươn tới tầm mục hoàn cầu. Chữ "Oicouménè" Hy Lạp có nghĩa là "toàn địa cầu có người ở”. Một lần nữa, đây là cách nói bí nhiệm của Chúa Giêsu, làm cho chúng ta tự hỏi: "Người là ai, mà có những tham vọng như thế? Người có "hơn" Người thợ mộc khiêm nhường ở Nagiarét không? Xét theo bề ngoài dường như Chúa Giêsu sắp chết trong sự thất bại hoàn toàn, bằng một cái chết nhục nhã và bị chế nhạo, một cái chết "vô ích"? Ở thế kỷ II, có một lời ghi trên một phần mộ, ký tên Abercius: "Tôi là môn đệ của một thánh Mục Tử có mắt rất to, nhìn thấy khắp nơi". Chúa Giêsu cũng vậy, Người có mắt rất to: Mỗi người một ngày nào đó, dù hư hỏng đến đâu, cũng sẽ nghe "tiếng của Người" và sẽ tự cảm thấy được Chúa thương yêu và "đoái nhìn đến", chúng ta chỉ thấy có một phần nhỏ đàn chiên của Người, Công đồng Vatican nói: Đàn chiên nhỏ, đám đông vô tận.

Sở dĩ Chúa Cha yêu mến Tôi, chính vì Tôi hy sinh mạng sống. Tôi có quyền hy sinh và có quyền lấy lại mạng sống ấy. Đó là lệnh của Cha Tôi mà Tôi đã nhận được.

Người thí bỏ mạng và lấy lại mạng sống của Người đễ dàng như "tháo cởi và mặc lại" áo quần. Chính những từ này đã được dùng chiều thứ Năm Tuần Thánh trong Tin Mừng theo Thánh Gioan 13,4-12.

Noel Quesson

Sứ điệp ĐTC Phanxicô nhân Ngày Thế giới cầu cho ơn gọi

Sứ điệp ĐTC Phanxicô nhân Ngày Thế giới cầu cho ơn gọi

VATICAN. Chúa nhật thứ tư Phục Sinh 26-4-2015, Chúa nhật Chúa Chiên Lành, cũng là Ngày Thế Giới cầu cho ơn gọi lần thứ 52.

Trong ngày này, ĐTC sẽ chủ sự thánh lễ tại Đền thờ Thánh Phêrô để truyền chức linh mục cho 19 Phó Tế, như một cử chỉ khích lệ ơn gọi.

Tình hình ơn gọi trong Giáo Hội trên thế giới hiện nay không khả quan lắm. Theo thống kê mới nhất của Tòa Thánh, số tín hữu Công Giáo trong năm 2013 gia tăng và có 1 tỷ 253 triệu người, tức là tăng thêm 25 triệu, tương đương với 2%, so với năm 2012 trước đó. Số LM triều và dòng tăng thêm 1035 vị, và hiện có 415,348 vị: số LM giáo phận liên tục gia tăng tại Phi châu, Á châu và Mỹ châu. Tuy nhiên tại Âu Châu, số LM tiếp tục giảm. Đặc biệt số nữ tu trong Giáo Hội tiếp tục giảm sút trầm trọng và năm 2013 còn 639,575 chị, tức là giảm 1.2% so với năm trước đó, và giảm 6.1% so với tình trạng năm 2008. Bắc Mỹ có số nữ tu giảm nhiều nhất: 16.6% trong vòng 5 năm qua, tiếp đến là Âu Châu: giảm 12.6% trong cùng khoảng thời gian đó.

Một điều đáng lo nữa, đó là số đại chủng sinh triều và dòng trên thế giới liên tục giảm sút trong 2 năm qua, và còn 118,251 thầy tính đến cuối năm 2013, tức là giảm mất 2,365 thầy kể từ cuối năm 2011.

Những sự kiện đó càng thúc đẩy các tín hữu quan tâm, gia tăng cầu nguyện cho ơn gọi và góp phần vào việc khơi dậy, nuôi dưỡng và hỗ trợ việc mục vụ ơn gọi.

Như mọi năm, nhân dịp Ngày Thế Giới cầu cho ơn gọi, ĐTC đã công bố sứ điệp để nhắn nhủ các tín hữu về ngày này. Năm nay Sứ điệp có chủ đề là ”Xuất hành, kinh nghiệm cơ bản về ơn gọi”. Chúng tôi xin gửi đến quí vị toàn văn sứ điệp của ĐTC.

Toàn văn sứ điệp của Đức Thánh Cha

Anh chị em thân mến,

Chúa nhật thứ 4 mùa Phục Sinh trình bày cho chúng ta hình ảnh vị Mục Tử nhân lành biết rõ các chiên của mình, kêu gọi, nuôi dưỡng và dẫn dắt chúng. Trong chúa nhật này, từ hơn 50 năm nay, chúng ta cử hành Ngày Thế giới cầu cho ơn gọi. Mỗi lần Ngày này đều nhắc nhớ chúng ta về tầm quan trọng của việc cầu nguyện, để, – như Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ, – ”xin chủ mùa gặt sai nhiều thợ đến làm việc trong mùa gặt của Người” (Lc 10,2). Chúa Giêsu diễn tả mệnh lệnh này trong bối cảnh một cuộc sai đi truyền giáo: ngoài 12 tông đồ, Chúa còn gọi 72 môn đệ và sai họ đi từng hai người một để thi hành sứ vụ (Lc 10,1-16). Thực vậy, nếu Giáo Hội ”tự bản chất là truyền giáo” (Ad Gentes 2), thì ơn gọi Kitô chỉ có thể nảy sinh giữa lòng kinh nghiệm truyền giáo. Như thế, lắng nghe và theo tiếng Chúa Kitô Vị Mục Tử nhân lành, để cho mình được Chúa thu hút và dẫn dắt, dâng hiến chính cuộc sống của mình cho Chúa, có nghĩa là để cho Chúa Thánh Linh dẫn đưa chúng ta vào trong năng động truyền giáo, khơi dậy nơi chúng ta ước muốn và lòng can đảm vui mừng hiến dâng cuộc sống chúng ta, dành cuộc sống để phục vụ chính nghĩa Nước Thiên Chúa”.

Sự hiến dâng cuộc sống của mình trong thái độ truyền giáo chỉ có thể thực hiện được nếu chúng ta có khả năng ra khỏi chính mình. Vì thế, trong Ngày Thế giới cầu cho ơn gọi lần thứ 52 này, tôi muốn suy tư về sự 'xuất hành' đặc biệt, tức là ơn gọi, hay đúng hơn, là lời đáp trả của chúng ta đối với tiếng gọi của Thiên Chúa gửi đến chúng ta. Khi chúng ta nghe từ ”xuất hành”, chúng ta nghĩ ngay đến khởi đầu lịch sử tuyệt vời của tình yêu giữa Thiên Chúa và dân tộc con cái ngài, một lịch sử tiến qua những ngày thê thảm, làm nô lệ ở Ai Cập, việc Chúa gọi ông Môisê, biến cố giải thoát và hành trình tiến về đất hứa. Sách Xuất Hành, cuốn thứ hai trong bộ Kinh Thánh, kể lại lịch sử ấy, trình bày một dụ ngôn về toàn thể lịch sử cứu độ, và năng động cơ bản của niềm tin Kitô. Thực vậy, tiến từ trình trạng nô lệ của con người cũ tới cuộc sống mới trong Chúa Kitô chính là công trình cứu độ diễn ra nơi chúng ta nhờ đức tin (Ep 4,22-24). Tiến trình này thực sự là một ”cuộc xuất hành”, là hành trình của tâm hồn Kitô và của toàn thể Giáo Hội, là hướng đi quyết định của cuộc sống hướng về Chúa Cha”.

”Nơi căn cội của mỗi ơn gọi Kitô có một chuyển động cơ bản của kinh nghiệm đức tin: tin có nghĩa là rời bỏ chính mình, ra khỏi tiện nghi thoải mái và sự cứng nhắc của cái tôi để tập trung cuộc sống của chúng ta vào Chúa Giêsu Kitô; giống như Tổ Phụ Abraham rời bỏ quê hương, lên đường trong niềm tín thác, vì biết rằng Thiên Chúa sẽ chỉ đường cho để tiến về đất mới. Không được hiểu sự ”ra đi” này là sự coi rẻ cuộc sống, coi nhẹ tâm tình và nhân tính của mình, trái lại, ai lên đường theo Chúa Kitô thì sẽ tìm được cuộc sống sung mãn, đặt trọn bản thân phụng sự Thiên Chúa và Vương Quốc của Ngài. Chúa Giêsu đã nói: ”Ai từ bỏ gia cư, hoặc anh em, chị em, cha mẹ, hay con cái, đồng ruộng, vì danh Thầy, thì sẽ nhận được gấp trăm và sẽ được sự sống đời đời làm gia sản” (Mt 19,29). Tất cả những điều ấy có ăn cội sâu xa nơi tình yêu. Thực vậy, ơn gọi Kitô trước tiên là một lời mời gọi yêu thương, thu hút và gửi chúng ta đi xa hơn bản thân mình, giải tỏa sự tập trung vào mình, khơi lên một ”cuộc xuất hành trường kỳ ra khỏi cái tôi bị khép kín để giải thoát nó qua sự hiến thân, và nhờ đó tiến về sự tìm lại bản thân, hay đúng hơn là sự khám phá Thiên Chúa” (Deus Caritas est, 6).

ĐTC viết tiếp: ”Kinh nghiệm xuất hành chính là mô hình của đời sống Kitô, nhất là những người đón nhận ơn gọi đặc biệt tận hiến phục vụ Tin Mừng. Kinh nghiệm ấy hệ tại thái độ luôn tái hoán cải và biến đổi, luôn luôn tiến bước, đi từ sự chết đến sự sống như chúng ta cử hành trong toàn thể mục vụ: đó là một năng động vượt qua. Xét cho chúng, từ việc Chúa gọi Abraham tới việc kêu gọi Môisê, từ hành trình của Israel trong sa mạc cho đến cuộc hoán cải như các ngôn sứ rao giảng, cho đến hành trình thừa sai của Chúa Kitô, với tột đỉnh là cái chết và sự sống lại của Ngài, ơn gọi luôn luôn là một hoạt động của Thiên Chúa làm cho chúng ta ra khỏi tình trạng ban đầu của mình, giải thoát chúng ta khỏi mọi hình thức nô lệ, kéo chúng ta ra khỏi tập quán và sự dửng dưng, phóng chúng ta hướng về niềm vui hiệp thông với Thiên chúa và anh chị em. Vì thế, đáp lại tiếng gọi của Chúa chính là để cho Chúa làm cho chúng ta ra khỏi tình trạng ổn định giả tạo của mình để lên đường tiến về Chúa Giêsu Kitô là đích điểm đầu tiên và cuối cùng của đời ta, và là hạnh phúc của chúng ta”.

Năng động xuất hành không chỉ liên quan tới mỗi ơn gọi riêng, nhưng còn tới hoạt động truyền giáo và loan báo Tin Mừng của toàn thể Giáo Hội nữa. Giáo Hội thực sự trung thành với Thầy Thánh theo mức độ đó là một Giáo Hội ”đi ra ngoài”, không bận tâm về chính mình, về những cơ cấu và những chinh phục của mình, nhưng có khả năng ra đi, chuyển động, gặp gỡ các con cái Thiên Chúa trong hoàn cảnh thực tế của họ và đồng cảm với những vết thương của họ. Thiên Chúa ra khỏi chính mình, trong tác động yêu thương của Ba Ngôi, lắng nghe lầm than của dân Ngài và can thiệp để giải thoát họ (Xh 3,7). Cả Giáo Hội cũng được mời gọi sống và hành động như vậy: Giáo Hội loan báo Tin Mừng, đi ra ngoài gặp gỡ con người, loan báo lời giải thoát của Tin Mừng, chữa trị những vết thương của các linh hồn và thể xác bằng ơn thánh của Húa, nâng đỡ người nghèo và những người túng thiếu.

Anh chị em thân mến, sự xuất hành có đặc tính giải thoát, hướng về Chúa Kitô và những người anh em, cũng chính là con đường để hiểu trọn vẹn con người và làm tăng trưởng về mặt nhân bản và xã hội trong lịch sử. Lắng nghe và đón nhận tiếng gọi Chúa không phải là một vấn đề riêng tư và duy nội tâm, có thể bị lẫn lộn với cảm xúc nhất thời; trái lại đó là một dấn thân cụ thể, thực tế và trọn vẹn, bao trùm trọn cuộc sống của chúng ta, đặt cuộc sống ấy phục vụ cho việc xây dựng Nước Chúa trên trái đất này. Vì thế, ơn gọi Kitô, được ăn rễ sâu nơi sự chiêm ngắm trái tim của Chúa Cha, đồng thời thúc đẩy dấn thân liên đới giải thoát những người anh chị em, nhất là những người nghèo khổ nhất. Người môn đệ của Chúa Giêsu có con tim rộng mở đối với chân trời vô tận của Chúa và sống thân mật với Chúa, không bao giờ họ trốn chạy cuộc sống và thế giới, nhưng trái lại, ”họ sống theo tình hiệp thông truyền giáo” (E.G. 23).

ĐTC cũng khẳng định rằng:

”Tiến trình xuất hành hướng về Thiên Chúa và tha nhân như thế làm cho đời sống chúng ta đầy vui mừng và ý nghĩa”. Tôi muốn nói điều đó nhất là với các bạn trẻ là những người do tuổi và quan niệm của họ về tương lai đang mở ra trước mắt họ, họ biết sẵn sàng và quảng đại. Nhiều khi những điều bất định và lo âu về tương lai và không chắc chắn về cuộc sống thường nhật có nguy cơ làm tê liệt đà tiến của họ, cản trở những giấc mơ của họ, đến độ họ nghĩ là không bõ dấn thân, và Thiên Chúa của đức tin Kitô giới hạn tự do của họ. Trái lại, hỡi bạn trẻ thân mến, các bạn đừng sợ ra khỏi chính mình và lên đường! Tin Mừng là Lời giải thoát chúng ta, biến đổi và làm cho đời sống chúng ta trở nên tươi đẹp hơn. Thật là đẹp dường nào khi để cho tiếng gọi của Chúa làm cho chúng ta ngạc nhiên, đón nhận Lời Chúa và bước theo vết của Chúa Giêsu, trong sự thờ lạy mầu nhiệm Thiên Chúa và quảng đại hiến thân cho tha nhân! Cuộc sống của các bạn ngày càng trở nên phong phú và vui tươi hơn!

”Đức Trinh Nữ Maria, mẫu gương của mọi ơn gọi, đã không sợ thưa ”Xin vâng” đối với tiếng gọi của Chúa. Mẹ tháp tùng và hướng dẫn chúng ta. Với lòng can đảm quảng đại, Mẹ Maria đã hát lên niềm vui ra khỏi chính mình và phó thác những dự phóng cuộc sống của Mẹ cho Thiên Chúa. Chúng ta hãy cầu xin Mẹ để hoàn toàn sẵn sàng đón nhận ý định của Thiên Chúa dành cho mỗi người chúng ta; để chúng ta gia tăng ước muốn ra đi và ân cần hướng về người khác (Xc Lc 1,39). Xin Mẹ Maria bảo vệ và chuyển cầu cho tất cả chúng ta.

Vatican ngày 29-3-2015, Chúa nhật lễ lá.

Phanxicô Giáo Hoàng

G. Trần Đức Anh OP chuyển ý

Đức Thánh Cha lên án trào lưu bài Do thái tăng tại Âu Châu

Đức Thánh Cha lên án trào lưu bài Do thái tăng tại Âu Châu

VATICAN. Sáng ngày 20-4-2015, ĐTC đã tiếp kiến phái đoàn của Hội đồng các Rabbi Do thái Âu Châu lần đầu tiên và ngài lên án trào lưu bài Do thái đang gia tăng tại đại lục này.

Lên tiếng trong buổi tiếp kiến, ĐTC chia buồn về việc Rabbi Elio Toaff (1915-2015), nguyên Rabbi trưởng của Cộng đoàn Do thái ở Roma mới qua đời tối ngày 19-4-2015, và với lòng biết ơn, ngài nhắc đến Cố Rabbi như một người hòa bình và đối thoại, đã đón tiếp ĐGH Gioan Phaolô 2 tại Đền thờ lớn của Do thái giáo ở Roma.

ĐTC cũng kêu gọi các tín hữu Do thái và Kitô cộng tác với nhau để duy trì cảm thức tôn giáo nơi con người ngày này. Ngài nói: ”Ngày nay tại Âu Châu, một điều rất quan trọng là làm nổi bật chiều kích tinh thần và tôn giáo của đời sống con người. Trong một xã hội ngày càng bị tục hóa và bị trào lưu vô thần đe dọa, người ta có nguy cơ sống như thể Thiên Chúa không hiện hữu. Con người thường bị cám dỗ đặt mình vào chỗ của Thiên Chúa, coi mình là tiêu chuẩn của mọi sự, nghĩa mình có thể kiểm soát mọi điều, cảm thấy mình được phép sử dụng tất cả những gì xung quanh theo phán đoán của mình. Điều rất quan trọng là nhớ rằng sự sống của chúng ta là một ân huệ của Thiên Chúa và chúng ta phải tín thác vào Chúa.. Các tín hữu Do thái và Kitô có hồng ân và trách nhiệm góp phần duy trì sinh động cảm thức tôn giáo của con người ngày nay và của xã hội chúng ta, làm chứng về sự thánh thiện của Thiên Chúa và của đời sống con người. Thiên Chúa là Đấng thánh và sự sống con người mà Chúa ban cũng là thánh thiêng và bất khả xâm phạm”.

ĐTC cũng bày tỏ lo âu vì xu hướng bài Do thái và một số hành vi oán thù và bạo lực ở Âu Châu. Ngài nói: ”Mỗi tín hữu Kitô phải quyết liệt lên án mọi hình thức bài Do thái, biểu lộ tình liên đới của mình với dân tộc Do thái” (Xc N.A 4). Mới đây chúng ta đã kỷ niệm 70 năm cuộc giải phóng trại tập trung Auschwitz, nơi đã diễn ra đại thảm hạa Shoah, diệt chủng Do thái. Ký ức về những gì đã xảy ra giữa lòng Âu Châu phải là lời cảnh giác cho thế hệ hiện tại và các thế hệ tương lai. Cũng cần lên án ở mọi nơi những biểu hiện oán thù và bạo lực cHóng các tín hữu Kitô và tín đồ các tôn giáo khác”.

Trong diễn văn chào mừng ĐTC, Rabbi Pinchas Goldschmidt, Rabbi trưởng ở Mascơva và là Chủ tịch Hội đồng Rabbi Âu Châu, nói đến sự kiện nhiều người Do thái ở Âu Châu cũng đang cảm thấy mình giống như các tín hữu Kitô ở Trung Đông hiện nay mặc dù nhiều chính phủ Âu Châu đã đề ra các biện pháp bảo vệ người Do thái. Người Do thái và các cơ sở Do thái bị những thành phần nhập cư cực đoan từ Trung Đông tấn công, và đàng khác người Do thái Âu Châu cũng phải chịu những công hiệu phụ do các chiến dịch bài người Hồi giáo ở Âu Châu gây ra. (SD 20-4-2015)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

 

Đức Thánh Cha tiếp kiến tân Tổng thống Italia

Đức Thánh Cha tiếp kiến tân Tổng thống Italia

VATICAN. Sáng ngày 18-4-2015, ĐTC Phanxicô đã tiếp kiến Tổng thống Italia, Ông Sergio Mattarella, đến viếng thăm ngài lần đầu tiên từ khi được bầu làm tổng thống ngày 31-1 năm nay.

Tổng thống Mattarella năm nay 74 tuổi (1941), đã từng làm đại biểu quốc hội Italia, Bộ trưởng giáo dục, Bộ trưởng quốc phòng, trước khi trở thành thẩm phán tòa bảo hiến.

Trong lời chào mừng Tổng thống, ĐTC ca ngợi quan hệ rất tốt đẹp giữa Tòa Thánh và Italia. Ngài cũng nói đến tình trạng nhiều người trẻ Italia bị thất nghiệp và gọi đây là ”một tiếng kêu đau thương đòi chính quyền, các tổ chức trung gian, các doanh nhân và cộng đồng Giáo Hội, nỗ lực hết sức để giải quyết tình trạng đó, dành ưu tiên tìm giải pháp cho vấn đề.”

Tiếp đến, ĐTC cũng đặc biệt lưu ý về việc chăm sóc môi sinh. Ngài nói: ”Để tìm cách làm dịu bớt tình trạng thiếu quân bình ngày càng gia tăng và những ô nhiễm, nhiều khi tạo nên những thảm họa môi sinh, cần ý thức về những hậu quả thái độ của chúng ta đối với thiên nhiên, nó gắn liền với cách thức con người tự ý thức và xử sự với bản thân mình.”

Sau cùng ĐTC cám ơn Italia dấn thân tiếp đón nhiều người di dân đang xin được đón nhận, và nhiều khi họ chịu những rủi ro tới sinh mạng của mình. ”Hiển nhiên là hiện tượng rộng lớn này đòi phải có sự can dự của nhiều nước. Chúng ta không được mệt mỏi khi yêu cầu một sự dấn thân rộng rãi hơn trên bình diện Âu Châu và quốc tế”.

Sau khi gặp ĐTC, tổng thống Italia đã hội kiến với ĐHY Pietro Parolin Quốc vụ khanh Tòa Thánh, và tiếp đó, ĐHY đã giới thiệu ngoại giao đoàn cạnh Tòa Thánh với Tổng thống Matarella (SD 18-4-2015)

 G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio