Đức Thánh Cha cổ võ các dự án chống bắt trẻ em lao động nô lệ và đi lính

Đức Thánh Cha cổ võ các dự án chống bắt trẻ em lao động nô lệ và đi lính

VATICAN. Sáng ngày 11-4-2014, ĐTC đã tiếp kiến các đại diện của Văn Phòng Công Giáo quốc tế về trẻ em, gọi tắt là BICE, và ngài đặc biệt chống lại tệ nạn bắt trẻ em lao động như nô lệ và phải đi lính.

ĐTC nhắc lại sự kiện Văn phòng Bice được thành lập sau khi ĐGH Piô 12 lên tiếng bênh vực trẻ em hậu thế chiến thứ 2. Từ đó tổ chức này luôn dấn thân thăng các quyền của trẻ em và góp phần vào Hiệp ước của LHQ cách đây 25 năm về việc bảo vệ các quyền của trẻ em.

Lên tiếng trong buổi tiếp kiến, ĐTC khẳng định rằng: ”Ngày nay, điều quan trọng là tiếp tục thi hành các dự án chống lại tệ nạn trẻ em phải lao động như nô lệ, trẻ em bị xung vào quân ngũ và mọi thứ bạo hành chống trẻ vị thành niên. Nói một cách tích cực, cần tái khẳng định quyền của trẻ em được lớn lên trong một gia đình, với cha với mẹ có khả năng kiến tại một môi trường thích hợp cho sự phát triển và sự trưởng thành tình cảm của các em”.

ĐTC nói thêm rằng ”Những điều trên đây đồng thời cũng bao gồm quyền của các cha mẹ được giáo dục con em mình về luân lý và tôn giáo. Và về vấn đề này tôi muốn bày tỏ sự phủ nhận của tôi đối với mọi sự thí nghiệm giáo dục trên trẻ em. Không thể thí nghiệm trên trẻ em và người trẻ. Những kinh hoàng trong việc lèo giáo dục như chúng ta đã thấy trong các chế độ độc tài giệt chủng hồi thế kỷ 20, vẫn chưa biến mất; chúng còn có tính chất thời sự dưới những bộ áo và đề nghị hác nhau, dưới chiêu bài tân tiến, chúng thúc đẩy các trẻ em và người trẻ tiến bước trên con đường độc tài của ”tư tưởng duy nhất”.

ĐTC nhắc nhở rằng ”Làm việc cho các nhân quyền đòi phải luôn giữa cho việc huấn luyện về nhân loại học được sinh động, được chuẩn bị kỹ lưỡng về thực tại con người, và biết trả lời cho những vấn đề và thách đố do các nền văn hóa hiện đại đề ra, cũng như não trạng được phổ biến qua các phương tiện truyền thông. Đối với anh chị em, vấn đề ở đây là cống hiến cho các vị lãnh đạo và nhân viên một sự thường huấn về nhân loại học trẻ em, vì các quyền lợi và nghĩa vụ có nền tảng nơi nền nhân lại học ấy và việc đề ra các dự án giáo dục cũng lệ thuộc vào đó”.

ĐTC cũng nhân danh toàn thể Giáo Hội xin lỗi vì những vụ vi phạm các quyền của trẻ em cho một số linh mục gây ra, những vụ lạm dụng tính dục trẻ em. ”Giáo Hội ý thức về những thiệt hại này. Đó là một lỗi bản thân và luân lý .. nhưng họ là những người của Giáo Hội. Và chúng tôi không muốn thối lui trong những biện pháp xử lý vấn đề này và hình phạt phải được đề ra. Trái lại, tôi tin rằng chúng ta phải rất mạnh mẽ, vì đối với các trẻ em không được đùa giỡn” (SD 11-4-2014).

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Phim ‘Noah’ dẫn đầu làn sóng phim mới dựa trên Kinh Thánh

Phim ‘Noah’ dẫn đầu làn sóng phim mới dựa trên Kinh Thánh

Daniel Burke cho CNN Belief Blog

Noah  6

Hãy tha thứ cho Darren Aronofsky nếu ông có đồng cảm với nhân vật có cùng tên với bộ phim mới của mình là “Noah”.

Giống như người đóng thuyền nổi tiếng này, nhà đạo diễn 45 tuổi đã vượt qua cơn bão giống như được miêu tả trong Kinh Thánh, và vẫn chưa kết thúc.

Bộ phim sử thi của Aronofsky, do Russell Crowe đóng vai chính và có kinh phí 130 triệu Mỹ kim, lướt trên làn sóng tranh cãi đang dâng cao để vào trong các rạp hát của Mỹ hôm thứ Sáu.

Mặc dù bị một số Kitô hữu bảo thủ chỉ trích dữ dội, “Noah” đứng đầu danh sách phim ăn khách nhất vào cuối tuần qua, thu về 44 triệu Mỹ kim tại Mỹ.

Bộ phim thuộc thể loại thần thoại này là tham vọng của Anronofsky, đạo diễn nổi tiếng với các phim như “Black Swan” và “The Wrestler”. Cả hai phim này đều nhận được rất nhiều lời khen ngợi và giải thưởng, trong khi “Noah” lại vấp phải làn sóng phản đối ở nhiều nơi.

Glenn Beck và mục sư Tin lành Rick Warren nguyền rủa bộ phim. Hiệp hội National Religious Broadcasters khẳng định “Noah” từ chối thừa nhận các nhà làm phim có “giấy phép nghệ thuật” sử dụng câu chuyện Kinh Thánh này. Một số nước Hồi giáo cấm chiếu bộ phim này, vì nói việc miêu tả các tiên tri đi ngược lại giáo huấn Hồi giáo.

Ngay cả Paramount, công ty điện ảnh phát hành phim “Noah” cũng khiến Aronofsky bối rối khi thử nghiệm ít nhất 5 phiên bản khác nhau của bộ phim với các nhóm được thăm dò ý kiến.

“Tôi có thể hiểu được có sự nghi ngờ vì đã 50 năm kể từ khi có câu chuyện sử thi trong Kinh Thánh Cựu Ước được đưa lên màn ảnh rộng”, Aronofsky nói gần đây. “Và trong thời gian đó đã có nhiều phim của Hollywood khiến người ta bực tức”.

Năm 2014 được xem là năm Tinsel Town đảo ngược xu hướng đó và cuối cùng chấp nhận tôn giáo.

Một thập niên sau khi bộ phim “The Passion of the Christ” làm Hollywood kinh ngạc, làm phật lòng những người theo chủ nghĩa tự do và thu về 600 triệu Mỹ kim trên toàn thế giới, các hãng phim lớn đang ủng hộ các nhà sản xuất phim dựa trên tín ngưỡng.

Ngoài phim “Noah”, còn có phim “Son of God” của hãng 20th Century Fox, phát hành hồi tháng 3 và được chọn lọc từ loạt phim truyền hình hết sức ăn khách của kênh History Channel, “The Bible”. Vào tháng Tư, Sony Pictures sẽ phát hành phim “Heaven is For Real”, dựa trên cuốn sách rất được ưa chuộng, do Bishop T.D. Jakes, mục sư Tin lành và là nhà doanh nghiệp đa phương tiện ở Texas sản xuất.

Bộ phim “Exodus”, do Ridley Scott đạo diễn và Christian Bale đóng vai nhân vật chính Môsê, dự kiến phát hành vào tháng 12. Ngoài ra còn có phim “Mary, Mother of Christ”, được miêu tả là phần tiếp theo của bộ phim “Passion” của Mel Gibson.

Có thể sắp có thêm các phim sử thi Kinh Thánh. Được biết, Steven Spielberg đang đàm phán đạo diễn một bộ phim khác nói về Môsê, và mới đây Warner Brothers đã mua một kịch bản nói về Phongxiô Philatô.

Phòng vé chưa chứng kiến nhiều phim dựa trên tín ngưỡng như thế này từ khi Charlton Heston đóng vai trong phim “The Ten Commandments” sử dụng quy trình làm phim màu Technicolor. Và chưa kể phim “God is Not Dead”, bất ngờ mang về 8,5 triệu Mỹ kim vào cuối tuần vừa rồi.

Thế đằng sau sự phục hồi các phim dựa trên tôn giáo của Hollywood là gì?

“Nhân tố lớn nhất là sự thu hút người xem tăng không ngừng trên thị trường quốc tế”, phó giám đốc hãng Paramount Rob Moore nói, một trong những động lực đằng sau phim “Noah”.

Khi mà dường như nguồn cung cấp các nhân vật chính diện trong truyện tranh của Hollywood đã cạn, các hãng phim biết rằng Kinh Thánh đi kèm hàng tỷ khán giả. Các nhân vật chính diện và phản diện trong Kinh Thánh bị chế nhạo và được hoan hô gần như trên tất cả các châu lục. Các câu chuyện phức tạp về luân lý của nó đầy dẫy những nét đặc biệt dễ dàng tạo ra bom tấn giống như dịch châu chấu, các trận lũ trong khải huyền và lừa biết nói.

Nhưng cuộc tranh cãi về “Noah” minh họa triển vọng và mối nguy khi đưa Kinh Thánh lên màn ảnh rộng.

Đúng vậy, có sẵn khán giả yêu thích cuốn sách này, nhưng liệu họ có chấp nhận một kịch bản lạc ra ngoài Kinh Thánh không? Mặt khác, người trẻ Mỹ ngày càng tục hóa có kéo nhau đi xem các bộ phim trông có vẻ giống các bài giảng lễ không?

Nguồn: CNN Belief Blog

UCANEWS VN

Lưỡi hái hay chìa khóa vàng?

Lưỡi hái hay chìa khóa vàng?

Thánh Charles Borrômê sống ở Italia trên 400 năm trước đây (1538-1584). Khi còn trẻ, Borrômê đầy những tước vị, danh vọng. Nhưng một lúc Borrômê đã nhận ra ngày nào đó, Ngài sẽ phải bỏ tất cả. Ngài muốn ghi khắc điều đó, nên nhờ một họa sĩ nổi tiếng vẽ bức bích họa trong tư thất để diễn tả cái chết. Bức họa hoàn thành: họa sĩ trình bày thần chết theo lối cổ điển: một bộ xương người nắm chặt lưỡi hái trong tay.

Borrômê ngạc nhiên: “Tại sao họa sĩ hình dung cái chết bằng chiếc lưỡi hái?”

Họa sĩ đáp: “Vì thần chết cắt hái mọi cuộc sống. Cái chết hủy hoại mọi cuộc đời.”

“Đồng ý”, Borrômê nói, “nhưng thần chết cũng mở cửa Nước Trời nữa chứ. Cái chết là cửa ngõ vào đời sống tốt đẹp hơn. Vì thế, tôi đề nghị họa sĩ xóa chiếc lưỡi hái đi và đặt vào tay thần chết chiếc chìa khóa vàng.”

Phải, Chúa Kitô đã chết và đã sống lại. Thập giá là chìa khóa Nước Trời. Thần chết đã buông lưỡi hái và cầm lấy chiếc chìa khóa vàng. Cửa Trời đã mở ra cho con người vào Nhà Cha.

Anh chị em thân mến,

Chúa Giêsu đã tuyên bố: “Tôi là sự sống lại và là sự sống”. Lời tuyên bố của Chúa Giêsu trước khi làm cho Lagiarô sống lại là một trong những lời “lạ tai” nhất đối với người thời đại cũng như bao người ngoài Thiên Chúa giáo và những người không tin ngày nay. Nhưng đối với chúng ta, lời tuyên bố đó chính là nền tảng và hy vọng của cuộc đời.

Chúa Giêsu tuyên bố: “Tôi là sự sống. Ai đang sống mà tin tôi sẽ không bao giờ chết”. Chúa không nói đùa. Chúa không thể đùa với sự chết, vì nó hoàn toàn trái nghịch với Ngài. Là sự sống và đến để đem lại sự sống, Chúa không thể muốn sự chết cho con người. Phép lạ cho ông Lagiarô sống lại làm chứng rằng Ngài có quyền ban sự sống. Không phải sự sống như đám đông bao quanh Ngài thầm nghĩ – sống một thời gian rồi chết – cũng không phải sống lại ngày tận thế mà thôi, như Matta tin tưởng, mà là sống ngay bây giờ và sống đời đời, như Ngài đã nói: “Ai nghe lời Tôi và tin vào Đấng đã sai Tôi thì được sống đời đời và khỏi bị xét xử, nhưng được từ cõi chết mà qua cõi sống” (Ga 5,24).

Vậy là có một sự sống khác. Có một sự sống thật. Sự sống ấy đã bắt đầu từ bí tích Rửa Tội và tiếp tục mãi đến đời đời. Sự sống thật này không mất đi khi con người chết, nhưng chỉ mất đi bởi tội lỗi (Ga 8,21). Tội lỗi mới là cái chết thật. Và ngược lại, cái mà chúng ta coi là sống chưa hẳn là sống.

Chỉ khi nào sống bằng chính sự sống của Chúa thông ban cho, lúc đó mới là sống thật và bảo đảm sống đời đời ngan qua cái mà chúng ta gọi là chết.

Thánh Phaolô, trong bài đọc 2 hôm nay (Rm 8,8-11) đã nói đến tình trạng những người “sống mà như chết” và “chết mà vẫn sống” đó: “Ai sống theo xác thịt, tội lỗi, thì dù có sống cũng như chết; ngược lại, ai sống theo Thánh Thần thì dù có chết cũng vẫn sống; hơn nữa, một ngày kia, Đấng đã cho Đức Kitô phục sinh cũng sẽ cho thân xác của những kẻ sống theo Thánh Thần được sống lại”.

Thưa anh chị em,

Một người nhắm mắt xuôi tay từ giã cõi đời này được coi là chết. Nhưng nhiều người đang sống vẫn tự coi mình đã chết. Vì sống mà không có hy vọng, sống không tình thương, sống mà bị đời bạc đãi, phản bội, sống không ra con người, và nhất là sống trong tội ác. Sống như vậy, con người không cần đợi đến chết mới là chết. Chúng ta khóc thương người chết, nhưng biết đâu người sống lại chẳng đáng khóc thương hơn?

Bất cứ ai đã thoát khỏi tội lỗi và sống trong ân sủng thì đang sống trong sự sống đời đời rồi. Sự chết thể xác không làm gián đoạn được sự sống thân thiết với Thiên Chúa trong Nước Trời. Sự sống lại ngày tận thế, sự sống vinh quang đời sau đã bắt đầu ở hiện tại như cây trái đã bắt đầu trong hạt giống.

Từ Lời Chúa hôm nay, chúng ta mới có được một cái nhìn lạc quan hơn về thân phận con người chúng ta. Là tội nhận, là loài người phải chết, nhưng chúng ta đã được Con Thiên Chúa xuống thế làm người mạc khải tình yêu thương của Thiên Chúa cho chúng ta và Ngài đã thực hiện công việc cứu chuộc của Thiên Chúa giữa chúng ta và cho chúng ta. Cuối cùng, bằng chính cái chết và cuộc Phục Sinh của Ngài, Ngài đã giải thoát chúng ta khỏi chết đời đời và cho chúng ta được tham dự vào sự sống bất diệt của Thiên Chúa.

Như thế, đối với chúng ta, những người đã tin nhận Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, là Đấng Cứu Thế và đang cố gắng sống Lời Chúa dạy, thì sống hay chết, không thành vấn đề, mà chỉ có một thực tại duy nhất là sống, sống trong Chúa, sống cho Chúa, sống thuộc về Chúa. Cái chết chẳng qua chỉ là bước vượt qua từ đời sống trần gian đến đời sống vinh quang vĩnh hằng với Chúa Cha trên trời. Chính vì có sự liên tục giữa hai cuộc sống mà đời sống trần gian này mới có ý nghĩa và mới quan trọng, đòi hỏi mỗi người chúng ta phải sống làm sao cho cuộc sống trần gian này là khởi điểm, là bảo đảm, là dấu chứng cho cuộc sống mai sau.

Anh chị em thân mến,

Trước khi bước vào Tuần Thánh là đỉnh cao của mầu nhiệm Khổ Nạn Phục Sinh, Giáo Hội đọc bài Tin Mừng hôm này nhằm kêu gọi chúng ta tin vào Đấng là sự sống lại và là sự sống. Niềm tin ấy thắp sáng lên trong chúng ta một hy vọng mà trần gian này dù đen tối đến đâu cũng không thể nào dập tắt được. Đức tin không chuẩn chước cho chúng ta khỏi những tang chế đau thương, những chia ly mất mát hay sự sợ hãi khi đối diện với cái chết. Nhưng đức tin là chấp nhận hiểu và sống các biến cố hiện tại dưới ánh sáng của sự sống siêu việt mà Đức Giêsu Kitô, Đấng là nguồn cội sự sống đã loan báo.

“Tôi là sự sống lại và là sự sống. Ai tin Tôi sẽ không chết bao giờ”. “Matta, con có tin điều đó không?”, Chúa Giêsu hỏi.

“Vâng, thưa Thầy, con tin”. Matta nói lên niềm tin của chị cũng là niềm xác tín của chúng ta: “Con tin Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống đã đến trong thế gian”.

Chớ gì khi tuyên xưng: “Tôi trông đợi kẻ chết sống lại và sự sống đời sau”, trong kinh Tin Kính chúng ta sắp đọc, niềm tin ấy không chỉ được phát biểu cách máy móc ngoài môi miệng, nhưng sẽ trở nên sức mạnh giúp chúng ta đứng vững trước mọi đau khổ thử thách, ngay cả cái chết. Đồng thời niềm tin ấy thúc đẩy chúng ta đến với anh em, để góp phần mang lại sự sống dồi dào cho anh em.

Veritas Radio

Mở cửa mộ

Mở cửa mộ

Tai họa ngày 11 tháng 09 năm 2001 trên đất Mỹ đã trở thành một nỗi ám ảnh đối với mọi người. Trong phút chốc, hai tòa tháp chọc trời đổ sập xuống, trở thành ngôi mộ khổng lồ chôn vùi mấy ngàn sinh mạng. Ngôi mộ gieo tang thương. Ngôi mộ gieo kinh hoàng. Ngôi mộ làm rung chuyển thế giới.

Ngôi mộ không chỉ hiện hữu từ khi toà tháp đôi đổ xuống. Trước đó ngôi mộ đã hiện diện trong trái tim của những người khủng bố. Sau đó ngôi mộ vẫn phủ màn u ám trên cuộc sống thân nhân bạn bè.

Như thế, ngôi mộ không chỉ xây bằng gạch đá. Nó được xây bằng những lực lượng chết chóc như sự hận thù, sự áp bức, sự độc ác… Ngôi mộ không chỉ chôn vùi sự sống. Nó chôn vùi cả niềm tin, cả niềm hy vọng.

Nhưng hôm nay, Chúa Giêsu đã dõng dạc mở cửa mộ và truyền cho người chết chỗi dậy bước ra. Việc Chúa Giêsu mở cửa mộ cho Lagiarô mở ra những chân trời mới cho đời sống con người.

Khi mở cửa mộ, Người đã mở cánh cửa sự sống. Thông thường, ngôi mộ là vương quốc của tử thần. Cửa mộ là cửa mở vào thế giới chết chóc. Ai đã vào đó chẳng còn hy vọng thoát ra. Nhưng hôm nay, Chúa Giêsu đã mở cửa mộ để Lagiarô không phải bước vào sự chết nhưng bước vào sự sống. Khi mở cửa mộ, Người phá tan sào huyệt Thần Chết. Khi tháo những dải băng liệm cuốn quanh thân thể Lagiarô, Người giải phóng ông khỏi dây trói ràng buộc của tử thần.

Khi mở cửa mộ, Người đã mở cánh cửa niềm tin. Trước đó, niềm tin của Mácta chỉ là một niềm tin mơ hồ, chung chung của đa số người Do thái thời ấy. Nhưng sau khi thấy Lagiarô sống lại, niềm tin của bà trở nên cụ thể, sống động và vững vàng. Trước đó, nhiều người Do thái chưa tin vào Chúa Giêsu. Nhưng sau khi được chứng kiến Lagiarô từ cõi chết sống lại, họ không thể nào không tin. Tảng đá lấp cửa mồ tung ra cũng làm bật tung tảng đá nghi ngờ che lấp trái tim, đưa họ tới tin nhận Chúa là Thiên Chúa.

Khi mở cửa mộ, Người mở ra cánh cửa niềm vui. Chết chóc gieo tang tóc u buồn. Ngôi mộ bao giờ cũng gợi lên nỗi buồn. Buồn ly biệt. Buồn mất mát. Buồn thất bại. Cái buồn vốn hay lây. Nước mắt người thân dễ làm cay mắt ta. Nên Chúa Giêsu không ngăn được dòng lệ. Nhưng khi Lagiarô bước ra, cả một trời vui. Đám tang bỗng biến thành đám hội. Lời chia buồn đổi thành lời chúc mừng. Thiên Chúa đã biến tang tóc thành niềm vui. Niềm vui ấy trọn vẹn.

Khi mở cửa mộ, Chúa Giêsu mở cánh cửa hy vọng. Thiên Chúa đến biến đổi số phận con người. Con người không còn bị giam hãm trong thân phận hay chết, nhưng được thênh thang tự do trong cõi sống. Con người không sinh ra để chết đi nhưng để sống, sống mãi, vì Chúa là “sự sống”, “ai tin sẽ sống đời đời”. Con người không sinh ra để tàn lụi, nhưng để triển nở đến vô biên.

Trong mỗi người chúng ta có nhiều nấm mộ. Chúng ta bị giam hãm trong những nấm mộ tội lỗi, gian tham, ích kỷ, bất công, đam mê, ghen ghét hận thù, nghèo đói, thất học… Có những nấm mộ kiên cố, tự sức mình không thể phá nổi. Ta hãy xin Chúa đến mở những cửa mộ, lăn những tảng đá đè nặng đời ta, để ta được sự sống dồi dào của Chúa nuôi dưỡng. Đồng thời, ta cũng phải tiếp tay với Chúa, phá đi những nấm mộ vây bọc anh chị em chúng ta, để mọi người được sống và sống dồi dào như lòng Chúa mong ước, như định mệnh Chúa dành cho ta, những người con cái Chúa.

GỢI Ý CHIA SẺ

1) Tôi còn bị giam cầm trong những ngôi mộ nào?

2) Tôi còn muốn xây những ngôi mộ nào để chôn vùi anh em?

3) Hôm nay tôi phải làm gì để mở cửa mộ cho tôi và cho anh em?

4) Việc Chúa cho Lagiarô chết bốn ngày sống lại có ảnh hưởng gì trên tôi?

ĐTGM Ngô Quang Kiệt

“Ta là sự phục sinh của ngươi”

“Ta là sự phục sinh của ngươi”

Trong buổi nói chuyện với Matta, Chúa Giêsu đòi hỏi có một tiếng khẳng định quan hệ giữa chúng ta với Ngài:

Ta là sự sống lại và là sự sống. Ai tin Ta thì dầu có chết cũng sẽ sống; hễ ai sống và tin Ta sẽ không bao giờ chết. Con có tin như vậy không?

Dĩ nhiên chúng ta nhanh chóng trả lời “Có! Ngài là sự sống”. Nhưng sự sống nào? Chúng ta là những người đang sống. Ngài thêm gì vào sự sống của chúng ta? Thực ra, chúng ta là những sinh vật nhỏ bé bị cái chết rình rập. Chúa Giêsu muốn làm chúng ta trở thành những kẻ chiến thắng sự chết.

Trong trần thuật dài và bi thảm nói về sự sống lại của Lagiarô, ba cái chết được gợi ra và xen lẫn vào nhau: cái chết của Lagiarô, cái chết của Chúa Giêsu và cái chết của chúng ta. Trong khi đi tới nhà Lagiarô, Chúa Giêsu biết rằng cái chết cũng đang đe dọa Ngài: “Người Do thái muốn ném đá Thầy, sao Thầy còn quay trở lại đó nữa?”, các môn đệ nói với Ngài như thế.

Khi thấy Maria quá buồn khổ, Chúa Giêsu cũng bối rối cảm động. Ngài cảm thấy sâu sắc sự tuyệt vọng của thân phận con người, Ngài khóc bạn, Ngài thông hiệp với nỗi khổ của các chị của bạn và nghĩ đến cái chết của mình đang đến gần. Chưa bao giờ Ngài chìm đắm trong nỗi buồn khổ của chúng ta như thế. Những người chung quanh nói: “Kìa, Ngài yêu bạn mình biết bao!”

Nhưng họ ngạc nhiên, cả chúng ta nữa: “Chẳng phải Đấng quyền năng đã nói: Ta đến để mang lại sự sống cho các ngươi. Ta là sự sống lại và là sự sống?” hay sao?

Không phải Chúa Giêsu muốn làm cho chúng ta sống mạnh mẽ ở bên ngoài những khó nhọc, những thảm kịch của chúng ta và thậm chí cái chết nữa. Ở tận thâm sâu sự tuyệt vọng mà Chúa Giêsu chịu đựng cùng với chúng ta, Ngài sẽ cho chúng ta một dấu hiệu hùng hồn về cuộc sống vinh quang. Ngài đứng dậy và nói lớn lên: “Hỡi Lagiarô, hãy đi ra!”

Như mọi khi, đứng trước một dấu hiệu, phải thấy rõ rằng đó là một dấu hiệu, nghĩa là một lời mời gọi đi xa hơn nữa. Sự sống lại của Lagiarô là sự chiến thắng cái chết, nhưng là một sự chiến thắng tạm thời. Thế đã là nhiều rồi, một sự hy vọng điên rồ có thể nổi lên, cái chết không còn là phiến đá đè bẹp tất cả. Chúng ta đứng dậy để nghe mặc khải tối hậu vượt lên trên sự sống lại đơn giản:

Ta là sự phục sinh.

Đây là một điều khác hẳn! Chúa Giêsu không sống lại như Lagiarô. Sự sống lại của Chúa Giêsu là sự chiến thắng hoàn toàn trên sự chết, bước vào cuộc sống “vĩnh cửu”, không chỉ theo nghĩa vô tận, mà còn có nghĩa là một cuộc sống khác. Cuộc sống này chắc chắn vẫn là của con người, tuy vậy với những tính chất và chiều kích khác biệt.

Chúa Giêsu ban tặng cho chúng ta cuộc sống khác này. Ban tặng ngay tức khắc! Do đó mới có lời này: Ta đến để chúng được sống”. Và tất cả điều khẳng định lạ lùng này được dùng ở thì hiện tại: Ai nghe Ta thì được sống đời đời, người đó sẽ vượt qua cái chết mà đến sự sống (5,24). Chúa Giêsu đã là “sự sống lại” cho Ngài và sẽ là “sự sống lại” cho chúng ta. Đây là lời tuyên xưng đức tin khó khăn nhưng chúng ta vẫn làm. Điều chúng ta ít hiểu đó là Chúa Giêsu là sự phục sinh như thế nào.

Ngài là sự phục sinh bởi vì Ngài có thể thông truyền cuộc sống phục sinh của Ngài, cuộc sống “thuộc về sự sống lại” của Ngài cho chúng ta. Khi chúng ta uống nước ở nguồn mạch này, chúng ta bắt đầu hiện hữu như thể chúng ta sẽ hiện hữu đời đời, trong khi hiệp thông tình yêu với Thiên Chúa và với anh em.

Đây không phải là những điều dễ nhận thấy được. Chúng ta tin rằng Mẹ Maria và các thánh đã trải qua một cuộc sống yêu đương trong sáng ở dưới thế này để đi đến sự viên mãn vĩnh cửu. Nhưng chúng ta, chúng ta có lẽ sẽ sống cho đến cuối đời một cuộc sống pha lẫn cái chết, bởi vì chúng ta không thông hiệp với cuộc sống của Chúa Kitô cho đủ.

Tôi nhớ lại một nữ tu bị bệnh ung thư đã chăm chú nghe tôi nói về tác động hiện tại có thể có của sự sống lại. tôi nói với chị: mỗi lần sự can đảm và tình yêu chiến thắng tội lỗi di căn nơi chúng ta, thì chính sức mạnh của sự phục sinh của Chúa Kitô đã giành lấy con người phục sinh từ cái chết rồi vậy.

André Sève

Niềm tin tín thác

Niềm tin tín thác

Cuộc đời có đau khổ, có hạnh phúc. Đau khổ và hạnh phúc hoà quyện vào nhau làm thành một cuộc đời đầy thi vị và ý nghĩa. Tựa như chanh và đường có vị ngọt vị chua. Cuộc đời cũng có ngọt ngào của hạnh phúc và có cả chua cay của khổ đau. Thế nhưng, nhiều người lại sợ hoà những vị chua, vị cay vào kiếp người. Họ sợ đau khổ. Họ sợ bất hạnh. Họ sợ nghi nan. Đối với họ, Thiên Chúa là lá bùa hộ mệnh để đảm bảo cho họ một cuộc đời an vui hạnh phúc. Họ cho rằng, dấu chỉ sự hiện hữu của Thiên Chúa là đẩy lùi sự dữ ra khỏi cuộc đời của họ. Có Chúa thì không thể có bất hạnh, không thể có khổ đau.

Đó là điều mà Matta và Maria đã từng nghĩ như thế! Các bà đã trách Thầy "nếu Thầy ở đây thì em con không chết". Thế nhưng, Lagiaro đã chết! Phải chăng hai bà cũng ngầm trách Chúa, lúc đó Thầy ở đâu? Lúc mà Lagiaro đang ốm nặng? Lúc mà tình thế có thể được cứu vãn? Nếu Thầy đến nhanh hơn một chút thì có lẽ đã chẳng có thảm cảnh hôm nay.

Thực vậy, khi Chúa Giêsu đến nhà Matta và Maria thì Lagiaro đã chết và đã chôn cất được 4 ngày rồi. Một thời gian đủ để thân xác có thể bắt đầu tan rã để hoà trộn với bùn đất. Dầu vậy, ở đây chúng ta thấy đức tin trổi vượt của Matta, một đức tin không lay chuyển trước thử thách để có thể thưa lên với Chúa rằng: "nhưng bây giờ con biết. Bất cứ điều gì Thầy xin cùng Thiên Chúa, Người cũng sẽ ban cho". Quả là một đức tin tinh tuyền, tuyệt đối, không lay chuyển trước sóng gió cuộc đời. Matta là một con người thật chân thành, bộc trực. Bà trách Chúa nhưng lòng bà vẫn tin vào quyền năng của Chúa. Trong đau khổ bà vẫn không tuyệt vọng. Thế nên, Chúa đã nói cùng bà: "Em con sẽ sống lại". Matta ngạc nhiên hơn là cảm động. Bà không hiểu nổi và chỉ ú ớ tuyên xưng: "Con biết em con sẽ sống lại khi kẻ chết sống lại trong ngày sau hết". Lúc này Chúa Giê su làm nổ tung một bí ẩn, chiếu sáng đức tin và đòi hỏi một lòng tin tín thác: "Thầy là sự sống và là sự sống lại. Ai tin Thầy thì dù có chết cũng sẽ sống lại, chị có tin được như thế không? Matta thưa: "Thưa Thầy con tin. Con tin Ngài là Đức Kitô, Con Thiên Chúa, Đấng phải đến trong thế gian".

Cuối cùng, Chúa đã nói với Matta và Maria và những người đang đứng đó: "nếu tin, thì sẽ thấy vinh quang Thiên Chúa". Và rồi Ngài đã gọi Lagiaro trong mồ bước ra trước sự ngỡ ngàng, sửng sốt của gia đình Matta, của dân chúng làng Bêtania.

Kính thưa quý Ông Bà Anh Chị Em,

Trong cuộc sống đầy bon chen để kiếm miếng cơm manh áo, chúng ta thấy cuộc đời sao khổ quá! Nhất là trong thời kỳ gạo quế củi châu, lạm phát gia tăng, kiếm đồng tiền đổi lấy chén gạo bát canh đã khó lại càng khó khăn hơn. Rồi cuộc đời đâu mấy khi bình yên. Sóng gió tư bề. Đau khổ bệnh tật. Thiên tai lũ lụt, hạn hán hoành hành. Năm nay, Việt Nam còn hứng chịu cái lạnh kéo dài khiến cho hàng trăm con trâu bò bị chết cóng, hàng trăm ngàn hecta đất không thể trồng cấy đúng mùa. Dịch bệnh lan tràn. Người dân nghèo lại càng nghèo thêm. Cái lạnh của trời đất hoà với cái lạnh của tình người khiến cho cái đói, cái khổ cứ lận vào cả một kiếp người. Đặc biệt là trân động đất gây nên sóng thần tại Nhật Bản đã khiến hơn 10 ngàn người thiệt mạng, hàng trăm ngàn người không có nhà cửa và biết bao khu phố phồn thịnh nay chỉ còn là đống hoang tàn.

Đứng trước một viễn cảnh đầy những khổ đau như thế, nhiều người đã thầm trách Chúa, Chúa ở đâu sao để cuộc đời luôn giăng đầy những sầu đau? Chúa có nhìn thấy những bất hạnh mà con đang gặp phải trong cuộc đời vốn dĩ lắm nổi trôi lại nhiều phiền muộn này? Bài phúc âm hôm nay, mời gọi chúng ta đặt niềm tín thác vào Thiên Chúa. Thiên Chúa vẫn luôn quan tâm đến chúng ta. Người luôn đi bước trước để an ủi, nâng đỡ chúng ta. Người cũng đang mời gọi chúng ta đặt niềm tin vào Chúa như Matta để trong những biến cố đau thương nhất của cuộc đời chúng ta vẫn có thể thưa lên cùng Chúa. Con tin rằng: Chúa có thể làm những điều tốt đẹp nhất cho con.

Đau khổ là một sự dữ. Bất hạnh của cuộc đời là đêm tối của đức tin. Tuy nhiên qua những biến cố này, niềm tin lại toả sáng trong cuộc đời chúng ta. Chính trong những bất hạnh đó, chúng ta mới thấy con người thật nhỏ bé, tầm thường, chúng ta mới thấy sự bất toàn của kiếp người để đặt niềm tín thác vào Thiên Chúa. Con người luôn bất lực trước sự dữ, nhưng nếu Thiên Chúa muốn, Ngài có thể giải thoát chúng ta ngay bây giờ khỏi mọi điều sự dữ. Xin Chúa cho mỗi người chúng ta luôn biết đặt niềm tin tưởng cậy trông vào Chúa ngay giữa những gian nan của dòng đời và ngay giữa những bất hạnh của cuộc đời chúng ta. Amen.

* * *

Sống và chết là hai việc hoàn toàn mâu thuẫn, chống đối nhau. Tâm lý con người ai cũng muốn sống và không muốn chết: ham sống sợ chết là tâm lý tự nhiên của con người. Lòng ham sống thúc đẩy con người phải bám vào nhiều thứ, nhất là của cải, tiền bạc, chẳng hạn như ông nhà giàu trong Tin Mừng: thâu hoạch lúa thóc đầy tràn, ông phải xây thêm nhà kho, tự cho đời sống mình như thế thật là bảo đảm, tha hồ ăn chơi sung sướng. Nhưng Chúa bảo ông: thật là hạng khờ dại, vì đêm nay ông chết, của cải có bảo đảm được mạng sống ông không? Ông còn nắm giữ được của cải không? và quả thực ông đã vỡ mộng khi đối diện với cái chết. Mỗi ngày trên thế giới có khoảng 30 ngàn người chết, bao nhiêu người bị Chúa cho là "hạng khờ dại", vì lúc chết, tay buông xuông, người ta không còn có thể bám vào một vật gì cả: "Vua Ngô ba mươi sáu tấn vàng, chết xuống âm phủ chẳng mang được gì". "Trăm năm nào có gì đâu, chẳng qua một nấm cỏ khâu xanh rì". "Ba vạn sáu ngàn ngày là mấy, cảnh phù du trông thấy cũng nực cười".

Nếu nghèo là không có, hoặc có rồi mà mất đi, như không có tiền bạc là nghèo vật chất, mồ côi cha mẹ là nghèo tình thương, dốt nát là nghèo về trí thức, bệnh tật là nghèo về sức khỏe, thì cái chết đưa người ta đến cái nghèo cùng cực. Người khoẻ mạnh hay còn trẻ chưa cảm thấy rõ điều này. Nhưng chúng ta cũng biết cái chết nói lên sự bất lực của y khoa, của mọi thứ khả năng tự vệ trên cõi đời này: quyền hành nhất trần gian cũng chết, giàu có nhất nhân loại cũng chết, sung sướng tất cả đời cũng chết. Mọi người đều bó tay trước cái chết.

Trước định luật nghiêm khắc ấy, con người lo âu, bồn chồn, và người ta cố níu kéo sự sống lâu chừng nào hay chừng ấy, dẫu vẫn biết là bất lực. Bởi thế mới có những quảng cáo về thuốc "trường sinh" hay "bất tử". Có một câu chuyện như sau: Thời chiến quốc, có một người đem dâng vua nước Sở một vị thuốc "bất tử". Người ấy mang vị thuốc này vào hoàng cung, viên quan canh cửa quát hỏi: "Vị thuốc này có ăn được không?". Người ấy đáp: "Dạ, ăn được", tức thì viên quan giật lấy vị thuốc và ăn. Truyện đến tai vua, vua truyền bắt viên quan đó đem giết. Viên quan xin vào gặp vua và kêu van rằng: "Tâu hoàng thượng, hạ thần đã hỏi người đem dâng thuốc, người ấy nói: ăn được, nên hạ thần mới dám ăn, thế là hạ thần vô tội mà lỗi ở người dâng thuốc, hơn nữa, người đem thuốc nói là thuốc bất tử, ăn vào thì không chết nữa, thế mà hạ thần mới ăn, đã sắp phải chết. Vậy là thuốc tử chứ sao gọi là bất tử được? Hoàng thượng giết hạ thần thực là bắt tội một người vô tội, trong khi thiên hạ dối gạt hoàng thượng mà hoàng thượng vẫn tin". Nhà vua nghe nói có lý nên tha tội chết cho viên quan ấy.

Hiện nay các nhà bác học đang cố tìm ra một thứ thuốc làm cho con người khỏi chết. Được chăng? Chúng ta cứ hy vọng. Đó là vấn đề còn trong giả thuyết, nhưng theo Kinh Thánh thì không thể nào có được, vì Chúa đã phán với ông bà nguyên tổ: "ngươi sẽ trở về bụi đất". Từ đó, chết là một định luật Chúa ra cho loài người, loài người không thể phá nổi định luật này. Nói khác đi, con người đã mắc phải một chứng bệnh nan y không thể nào chữa khỏi, đó là bệnh chết. Cái án chết áp dụng cho hết mọi người: hữu sinh hữu tử: có sinh có chết là một điều tất yếu.

Nhưng qua cái chết và sự sống lại của Ngài, Chúa Giêsu đã loan báo cho con người một tin mừng: cái chết không còn là một ngõ cụt hay tận cùng nữa mà là cửa ngõ dẫn vào một cuộc sống mới, một cuộc sống trong Đức Kitô và cùng với Đức Kitô trong cõi vĩnh hằng. Vì thế, thánh Tê-rê-xa Hài Đồng Giêsu đã nói: "Nếu một mai bạn thấy tôi nằm chết, bạn đừng buồn, vì chính Cha chung của chúng ta là Thiên Chúa đã đến đón tôi đi, đơn giản vậy thôi". Hoặc như thánh Phaolô đã nói: "Đối với tôi, sống là Đức Kitô và chết là một mối lợi". Làm thế nào để được như thế? Chúng ta hãy sống theo câu nói của một bà mẹ kia đã khuyên bảo đứa con trai sắp bước vào đời: "Con ơi, ngày con mở mắt chào đời, mọi người đều tươi cười, còn con thì khóc. Con hãy sống thế nào đề ngày cuối đời, một mình con tươi cười, mà mọi người lại tràn lệ".

LM Tạ Duy Tuyền

Đức Thánh Cha cổ võ Giáo Hội Ruanda tiếp tục hòa giải

Đức Thánh Cha cổ võ Giáo Hội Ruanda tiếp tục hòa giải

VATICAN. ĐTC khuyến khích Giáo Hội tại Ruanda tiếp tục dấn thân trong nỗ lực hòa giải và chữa lành vết thương, 20 năm sau cuộc diệt chủng tại nước này.

Cuộc diệt chủng xảy ra hồi năm 1994 và xung đột giữa hai bộ tộc Hutu và Tutsi tại Ruanda đã làm cho khoảng 800 ngàn người thiệt mạng, 4 GM và hàng trăm LM bị giết.

Ngỏ lời trong buổi tiếp kiến sáng hôm 3-4-2014 dành cho các GM thuộc 8 giáo phận ở Ruanda, ĐTC nói: ”20 năm sau các biến cố bi thảm ấy, sự hòa giải và chữa lành các vết thương chắc chắn vẫn là ưu tiên của Giáo Hội tại Ruanda. Tôi khuyến khích anh em kiên trì trong sự dấn thân mà anh em đã đảm nhận qua nhiều sáng kiến. Tha thứ những xúc phạm và hòa giải chân thực có vẻ là điều không thể có được dưới con mắt người phàm sau bao nhiêu đau khổ, nhưng đó là một hồng ân có thể nhận được từ Chúa Kitô, nhờ đời sống đức tin và kinh nguyện, cho dù con đường còn dài và đòi phải kiên nhẫn, tôn trọng lẫn nhau và đối thoại”.

Trong cùng ý hướng trên đây, ĐTC khuyến khích các GM và Giáo Hội tại Ruanda hãy tăng cường sự đoàn kết và hiệp nhất với nhau. Ngài nói: ”Điều quan trọng là vượt thắng những thành kiến và chia rẽ bộ tộc, làm sao để Giáo Hội có cùng một tiếng nói duy nhất, biểu lộ sự hiệp nhất và tái khẳng định sự hiệp thông với Giáo Hội hoàn vũ và Người Kế vị thánh Phêrô”.

ĐTC kêu gọi tăng cường những quan hệ tín nhiệm giữa Giáo Hội và Nhà Nước. Việc cử hành kỷ niệm 50 năm thiết lập quan hệ ngoại giao giữa Tòa Thánh và Ruanda vào ngày 6-6 tới đây có thể là cơ hội để nhắc lại những thành quả tốt đẹp mà mọi người có thể mong đợi từ những quan hệ ấy, để mưu ích cho nhân dân Ruanda.

Về phương diện mục vụ, ĐTC nhắn nhủ các GM Ruanda đặc biệt quan tâm đến việc giáo dục giới trẻ, nhất là giáo dục các trẻ em và người trẻ về các giá trị Tin Mừng, qua việc học hỏi Lời Chúa. Ngài cũng đề cao vai trò của giáo dân, các giáo lý viên, nhất là những người dấn thân trong các cộng đoàn Giáo Hội cơ bản.

ĐTC nói thêm rằng ”Cần có một sự cảnh giác đặc biệt đối với gia đình, giữa lúc gia đình ngày nay đang bị đe dọa rất nhiều do tiến trình tục hóa, và tại Ruanda, bao nhiêu gia đình đã bị chia rẽ và gộp lại. Các gia đình ấy đang cần sự quan tâm săn sóc của anh em”.

Sau cùng, ĐTC cám ơn các LM đã dấn thân quảng đại trong sứ vụ. Ngài nói: ”Tôi khuyến khích anh em hãy không ngừng kiện toàn việc huấn luyện cho các chủng sinh về mặt nhân bản, trí thức và tu đức. Ước gì họ luôn có những nhà đào tạo là những LM gương mẫu và vui sống chu toàn sứ vụ LM. Anh em hãy cố gắng gần gũi với các LM của mình, lắng nghe và sẵn sàng đối với họ. Trách vụ của các linh mục thật khó khăn và họ cần sự đích thân khích lệ của anh em”.

Ruanda rộng 26,338 cây số vuông với 10 triệu 500 ngàn dân, gồm 3 bộ tộc Hutu, Tutsi và Twa. 80% là tín hữu Kitô trong đó 4,9 triệu là tín hữu Công Giáo (SD 3-4-2014).

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Tình hình Sierra Leone

Tình hình Sierra Leone

Phỏng vấn Đức Cha Giorgio Biguzzi

Trong những ngày vừa qua lực lượng bảo hòa Liên Hiệp Quốc đã kết thúc sứ mệnh bảo vệ hòa bình tại Sierra Leone và triệt thoái khỏi nước này.

Cộng hòa Sierra Leone rộng 71,740 cây số vuông, có hơn 6.2 triệu dân gồm 16 chủng tộc khác nhau, trong đó có các nhóm chính như: Temne chiếm 35%, Mende chiếm 31%, Limba chiếm 8%, Kono chiếm 5%, Krio chiếm 2%, Loko chiếm 2%, và 15% gồm các chủng tộc khác.

Sierra Leone được độc lập khỏi Anh quốc năm 1961 và trở thành Cộng hòa năm 1971. Tuy là một nước nhỏ, nhưng Sierra Leone có các mỏ kim cương, titanium bauxít, vàng và rutin. Sierra Leone sản xuất rất nhiều kim cương và vàng, và có mỏ rutin lớn nhất thế giới. Trên bình diện tôn giáo, Sierra Leone là một trong các nước có bầu khí hòa bình nhất; các tín hữu hồi và kitô cộng tác hài hòa với nhau. Rất ít khi xảy bạo lực, tuy người dân thuộc 16 chủng tộc khác nhau. Tiếng Anh là ngôn ngữ chính trong vấn đề hành chánh, nhưng 90% dân nói tiếng Krio, là ngôn ngữ thương mại và giao dịch giữa các chủng tộc khác nhau.

Năm 1462 nhà thám hiểm người Bồ Đào Nha Pedro de Sintra ghé vùng đất này, và đặt tên cho nó là ”Serra Leoa” có nghĩa là các ”Núi sư tử cái”. Sau này Sierra Leone trở thành vùng đất buôn bán nô lệ cho tới năm 1792, khi thành phố Freetown được Công Ty Sierra Leone thành lập như nơi ở của các cựu nô lệ được đế quốc Anh phóng thích. Từ đó Freetown trở thành quê hương của các nô lệ được phóng thích từ khắp nơi trên thế giới tụ tập về, kể cả từ các vùng đất khác của Phi châu. Năm 1808 Freetown trở thành thuộc địa của Anh, và năm 1896 phần nội địa Sierra Leone nằm dưới quyền bảo hộ của Anh. Chiến tranh từ năm 1991 tới 2002 đã tàn phá quốc gia này và toàn hệ thống hạ tầng cơ sở, khiến cho hàng chục ngàn người chết và 2 triệu người phải chạy sang các nước láng giềng lánh nạn.

Sau đây chúng tôi xin gửi tới qúy vị và các bạn bài phỏng vấn Đức Cha Giorgio Biguzzi, Giám Mục Makeni cho tới năm 2012, về việc chính thức chấm dửt sứ mệnh bảo hòa của Liên Hiệp quốc tại Sierra Leone và tình hình chính trị, kinh tế, xã hội và tôn giáo tại nước này. Đức Cha Biguzzi đã làm việc truyền giáo tại Sierra Leone từ 35 năm nay và đã từng là Chủ tịch Hội Đồng Giám Mục Sierra Leone. Bài phỏng vấn do phóng viên Massimiliano Menichetti đài Vaticăng thực hiện ngày 7-3-2014.

Lực lượng bảo hòa Liên Hiệp Quốc đã được gửi tới Sierra Leone cách sây 15 năm để bình định tình hình chiến tranh tại đây, Cuộc chiến kéo dài từ năm 1991 đến 2002 đã khiến cho 130,000 người thiệt mạng.

Hỏi: Thưa Đức Cha, Đức Cha nghĩ gì về việc chính thức chấm dứt sứ mệnh bảo hòa của Liên Hiệp quốc tại Sierra Leone trong những ngày vừa qua?

Đáp: Tôi nghĩ có thể nói rằng sứ mệnh bảo hòa của Liên Hiệp Quốc tại Sierra Leone đã là một sứ mạng thành công. Tôi đã hiện diện tại đây trong suốt thời gian này. Các trận chiến khác nhau đã được giao phó cho lực lượng bảo hòa của Liên Hiệp Quốc. Chiến cuộc đã rất là đẫm máu giữa các binh sĩ địa phương, các phiến quân của lực lượng ”Mặt trận cách mạng thống nhất”, các lực lượng dân vệ Kamajors và các binh sĩ của Lực lượng các nước trong Cộng đồng kinh tế Tây Phi gọi tắt là ECOMOG bao gồm 90% là người Nigeria.

Hỏi: Lý do nào đã khiến cho chiến tranh bùng nổ tại Sierra Leone thưa Đức Cha?

Đáp: Trước hết phải nói rằng nó không phải là một cuộc chiến có bối cảnh tôn giáo, cũng không phải là cuộc chiến có bối cảnh bộ tộc, nhưng là cuộc chiến kinh tế xã hội, nghĩa là Nhà nước đã hoàn toàn sụp đổ, trong nghĩa đã không còn có các dịch vụ xã hội nữa, nạn gian tham hối lộ lan tràn. Hồi đó người ta có cảm tưởng là một vài bộ trưởng cướp bóc nhà nước, vì thế đã chỉ cần có ai đó đẩy một cái, và người đó cũng không có một dự án làm cho nó sụp đổ nữa, và thế là mọi sự kết thúc trong cảnh hỗn loạn.

Hỏi: Thưa Đức Cha hồi năm 1991 các phiến quân thuộc ”Mặt trận cách mạng thống nhất” đã từ Liberia xâm lăng Sierra Leone, có đúng thế không?

Đáp: Vâng, đúng thế. Họ đến từ nước Liberia, và như đã nói chính quyền Sierra Leone hồi đó giống như một ngôi nhà rất mỏng manh nên đã sụp đổ, và khi nó sụp đổ thì liên lụy đến hàng chục ngàn người vô tội, là các thường dân.

Hỏi: Đức Cha đã ở bên Sierra Leone trong thời gian đó. Đó đã là thời gian rất đau khổ, có đúng thế không thưa Đức Cha?

Đáp: Vâng, đúng vậy. Đó đã là thời gian rất đau khổ, rất đau khổ! Tôi còn nhớ lần đầu tiên trông thấy hàng hàng lớp lớp người tị nạn bên trong nước Sierra Leone, tôi muốn khóc khi thấy những người bị chặt tay máu chảy dầm dề, các trẻ em chiến binh chết trên đường, nỗi sợ hãi, cảnh mất an ninh hoàn toàn, nền kinh tế sụp đổ, và như thế có cả nạn đói nữa.

Hỏi: Thế nhưng vào năm 1999 thì tình hình đã bắt đầu thay đổi?

Đáp: Phải, ngày mùng 7 tháng 7 năm 1999 đã có lễ nghi ký Thỏa hiệp hòa bình giữa các phe lâm chiến. Và khi Lực lượng bảo hòa đến để giải trừ vũ trang, thì các chiến binh đã tin tưởng giao nộp vũ khí. Trong Thỏa hiệp hòa bình có các khoản: ngưng thù nghịch tức khắc, giải trừ khí giới, tái lập cuộc sống cho các chiến binh, biến Mặt trận cách mạng thống nhất thành một đảng phái chính trị, thành lập một tòa án đặc biệt để xét xử các tội phạm nghiêm trọng nhất. Người ta đã thành lập một tòa án hỗn hợp đặc biệt tại Sierra Leone, và đưa các tội phạm sang xét xử bên tòa án La Haie ở Hòa Lan, và kết án ông Charles Taylor, nguyên tổng thống Sierra Leone.

Hỏi: Ngày nay gương mặt của nước Sierra Leone như thế nào thưa Đức Cha?

Đáp: Đã có việc giải trừ vũ khí, hòa giải quốc gia. Cuộc sống hợp pháp với các cuộc bầu cử đã diễn ra trong các năm 2002, 2007 và 2012. Người ta cũng đã tái thiết nhiều. Đã có các vụ đầu tư lớn trong các lãnh vực khai thác các tài nguyên quặng mỏ, xây cất đường lộ và các cơ cấu hạ tầng. Tuy nhiên, trước hết vẫn còn có nạn gian tham hối lộ lan tràn trong tất cả mọi tầng lởp, có nạn thất nghiệp rất trầm trọng, và xem ra không có sự kiểm soát thích đáng nào đối với các nhượng bộ cho các công ty đa quốc. Người ta đặt ra các vấn nạn rất lớn liên quan tới ảnh hưởng của tình trạng này trên người dân, trên các làng mạc, trên giới công nhân và trên các nông dân.

Hỏi: Vậy đất nước Sierra Leone đang được tái thiết nhờ dân chúng hay là nhờ các chủ thể quốc tế đang khai thác và lợi dụng Sierra Leone thưa Đức Cha?

Đáp: Trước hết chính dân chúng đang tái thiết đất nước, tuy nhiên các chính quyền đã dựa rất nhiều trên các nhượng bộ cho các công ty đa quốc của Trung Quốc, Âu châu, Nam Phi, Australia làm thành một khối… Vì thế chính quyền được lời, nhưng việc khai thác của các công ty đa quốc này cũng gây ra các vấn đề ô nhiễm môi sinh, tàn phá rừng gìa, và cũng gây ô nhiễm cho các nguồn nước nữa. Thế rồi còn có các vụ truất hữu đất đai của người dân, ban đầu xem ra gây ảo tưởng sẽ tạo công văn việc làm cho dân, nhưng rốt cuộc xem ra không có gì xảy ra cả. Thêm vào đó còn có các công tác xã hội còn rất chưa thích đáng chưa đáp ứng được các nhu cầu của người dân, bắt đầu bằng việc đào tạo giáo dục.

Hỏi: Theo Đức Cha, đâu là thách đố mà đất nước Sierra Leone phải đương đầu hiện nay, xét vì sứ mệnh bảo hòa đã chấm dứt?

Đáp: Đó là việc củng cố các cơ cấu quốc gia: làm sao để có công lý, diệt trừ nạn gian tham hối lộ, trong sáng trong việc ký các hợp đồng đầu tư với các công ty đa quốc đem lại ích lợi và công ăn việc làm cho dân, việc chuẩn bị và đào tạo nhân viên các cấp địa phương. Cần phải đầu tư vào con người, đầu tư vào việc giáo dục đào tạo, nếu không thì cảnh khai thác bóc lột các tài nguyên quốc gia sẽ cứ tiếp tục mãi mãi, nhưng lại dưới quyền kiểm soát của một ai đó, chứ không sinh lợi cho dân nước.

Hỏi: Thưa Đức Cha Biguzzi, Giáo Hội và các thừa sai đã hiện diện trong các năm xung khắc chiến tranh, giờ đây nắm giữ vai trò nào?

Đáp: Dĩ nhiên giờ đây vai trò của các thừa sai là phục vụ một Giáo Hội địa phương, một hàng giáo phẩm địa phương đã lớn lên. Giáo Hội địa phương rất dấn thân trong việc rao truyền Tin Mừng. Thế rồi qua các Caritas địa phương Giáo Hội rất dấn thân trong các công tác bác ái xã hội.

Giáo Hội Sierra Leone đã được 100 tuổi, và đã luôn uôn dấn thân trong việc thăng tiến giáo dục, qua các trường học được thành lập ngay cả trong các làng mạc xa xôi hẻo lánh nhất, nơi đã không có ai đi tới. Trong một quốc gia có tới 60-70% dân chúng theo Hồi giáo, các Giáo Hội Kitô điều khiển 43% các cơ sở giáo dục. Thế rồi theo truyền thống Giáo Hội cũng dấn thân điều khiển các nhà thương, các bệnh xá, các trạm phát thuốc. Có các nữ tu dòng Thừa Sai Bác Áí của Mẹ Terexa Calcutta, đã có 4 chị tử đạo trong các năm chiến tranh. Bốn chị đã bị giết. Các chị có hai trung tâm một trong thủ đô Freetown và một tại Makeni, nơi các chị săn sóc những người nghèo nhất trong số các người nghèo.

(RG 7-3-2014)

Linh Tiến Khải
– Vatican Radio

Angelus với Đức Thánh Cha: Thiên Chúa luôn chờ đợi để mở mắt cho chúng ta

Angelus với Đức Thánh Cha: Thiên Chúa luôn chờ đợi để mở mắt cho chúng ta

VATICAN. Trưa Chúa Nhật 30-3, tại quảng trường thánh Phêrô, Vatican, hàng chục ngàn tín hữu hành hương đã đến để nghe bài chia sẻ của Đức Thánh Cha, cùng đọc kinh Truyền Tin và nhận phép lành từ ngài. Trong bài chia sẻ, Đức Thánh Cha nói về câu chuyện người mù được Đức Giêsu chữa lành trong ngày Sabat.

Ngài khởi đầu bài chia sẻ như sau:

Bài Tin Mừng hôm nay trình bày cho chúng ta câu chuyện một ngưi đàn ông bị mù từ thuở mới sinh, và đưc Đức Giêsu chữa cho sáng mắt. Câu chuyện dài này kể về việc người mù thì được sáng mắt, còn những ai tự phụ là sáng mắt thì bị đóng lại và càng mù tối trong tâm hồn hơn. Phép lạ chỉ được Thánh Gioan trình bày trong hai câu mà thôi vì vị Thánh Sử này không muốn lôi kéo sự chú ý đến bản thân phép lạ, nhưng là mun chú ý đến những gì diễn ra sau đó, trên cuộc thảo luận nổ ra.

Sau đó, Đức Thánh Cha nói đến một thói quen không tốt của con người. Ngài nói:

Rất nhiều khi những việc làm tốt, những việc bác ái lại gây ra những cuộc đàm tiếu, những bàn luận bởi vì có một số người không muốn nhìn thấy sự thật. Và Thánh Sử Gioan muốn lôi kéo sự chú ý đến điều vẫn còn đang diễn ra giữa chúng ta ngày nay, khi có một điều tốt được thực thi. Ngưi mù được chữa lành bị chất vấn trước hết bởi đám đông đang ngạc nhiên – họ thấy phép lạ và họ chất vấn anh ta; sau đó là đến lượt Giới Luật Sĩ. Những người này còn chất vấn cả bố mẹ anh ta. Cuối cùng, ngưi mù được chữa lành này đã đến được với đc tin, và đây là ơn lớn nhất mà Đc Giêsu đã làm cho anh ta: không chỉ nhìn thấy mà còn biết Người, thấy Ngưi, Đấng là "ánh sáng của thế giới" (Ga 9,5)

Trong khi người mù dần dần có được ánh sáng, thì ngược lại, những tiến sĩ luật vẫn cứ chìm sâu trong sự tối tăm nội tâm. Họ đóng kín định kiến của mình, tin chắc rằng mình đã có được ánh sáng; vì thế, họ không mở ra cho chân lý của Đức Giêsu. Họ làm đủ mọi cách để chối bỏ những điều hiển nhiên. Họ nghi ngờ về căn tính của ngưi được chữa lành; rồi chối bỏ cả hành vi của Thiên Chúa trong việc chữa lành, với lý do là Thiên Chúa không chữa lành trong ngày Sabat; họ thậm chí còn nghi ngờ việc người này có thực sự bị mù từ thuở mới sinh không. Sự đóng kín của họ trưc ánh sáng đã khiến họ trở nên nổi nóng và dẫn tới việc muốn trục xuất ngưi đàn ông được chữa lành này ra khỏi đền thờ. Trục xuất ra khỏi đền thờ …”

Sau đó, Đức Thánh Cha phân tích con đường người mù này được dẫn đến chỗ nhận biết và tin vào Đức Giêsu. Ngài chia sẻ:

“Con đường của người mù lại là một cuộc hành trình từng bước một, bắt đầu từ việc biết đến tên Giêsu. Anh ta không biết gì hơn về Ngài, anh ta nói: "Một ngưi đàn ông tên là Giêsu đã trộn một chút bùn, xức vào mắt tôi" (c.11). Trả lời câu hỏi của các tiến sĩ luật, anh ta cho rằng Ngài là một ngôn sứ (c 17) và rồi là một người kề cận Thiên Chúa (c 31). Sau khi anh ta ra khỏi đền thờ, bị trục xuất khỏi xã hội, Giêsu đi tìm anh ta lần nữa và "mở mắt cho anh" lần thứ hai, mặc khải cho anh biết căn tính đích thực của Ngài: "Tôi là Đng Mesia". Lúc này, ngưi mù thưa rằng: "Lạy Chúa, con tin" (c 38) và anh ta cúi xuống trước mặt Giêsu. Nhưng, đây là mt đoạn Tin Mừng cho chúng ta thấy thảm kịch của cái mù nội tâm của rất nhiều người, và của các chúng ta nữa, vì chúng ta, đôi khi, cũng có những lúc bị mù nội tâm.”

Dựa trên những gì đã phân tích, Đức Thánh Cha dẫn dắt các khách hành hương đến chỗ phản tỉnh lại cuộc sống của mình, có khi mình là người mù, nhưng có khi mình cũng là những tiến sĩ luật như Tin Mừng nói đến. Ngài chia sẻ rằng:

“Cuộc sống của chúng ta đôi khi cũng ging như ngưi mù được cho sáng mắt, được mở ra với Thiên Chúa, với ân sủng. Nhưng tiếc thay, thỉnh thoảng, chúng ta cũng giống như các tiến sĩ luật: đứng trên sự tự phụ của mình mà đánh giá người khác, thậm chí phán xét cả Thiên Chúa! Hôm nay, chúng ta được mời gọi để mở ra cho ánh sáng của Đc Kitô đ mang đến hoa trái trong đời sống của chúng ta, để bỏ đi những lối hành xử không mang tính Kitô hữu: tất cả chúng ta là những Kitô hữu, tất cả chúng ta, đôi khi chúng ta hành xử không phải là Kitô hữu, nhưng hành x như những tội nhân. Và chúng ta phải hoán cải về điều này và nỏ đi những lối hành xử sai lạc đó đc đi cách dt khoát trên con đường nên thánh, vốn bắt nguồn từ Bí tích Thanh Tẩy, và nơi Bí tích này, tất cả chúng ta được chiếu sáng để, giống như thánh Phaolo nhắc nhở chúng ta, chúng ta có thể hành xử như "nhng người con của ánh sáng" (Ef 5,8) với sự khiêm nhường, nhẫn nại và lòng thương xót. Những tiến sĩ luật này không khiêm nhường cũng không nhẫn nại, và không thương xót.”

Đến đây, ngài mời gọi mọi người một hành vi cụ thể:

“Ngày hôm nay, cha xin đề nghị với các bạn là khi các bạn về nhà, cầm lấy cuốn Tin Mừng và đc chương 9 của Tin Mừng Gioan này nhé. Nó sẽ giúp ích cho các bạn, vì các bạn sẽ thấy con đường từ chỗ tăm ti đến ánh sáng và con đường tồi tệ khác đi đến chỗ tăm ti hơn. Và rồi hãy tự hỏi mình: con tim của tôi như thế nào? Tôi có một con tim mở ra hay đóng kín? M ra hay đóng kín với Thiên Chúa? Mở ra hay đóng kín với tha nhân? Chúng ta luôn luôn có trong mình một chút đóng kín nào đó do tội lỗi sinh ra, do những sai phạm hay lỗi lầm của ta sinh ta: đừng sợ, đừng sợ". Chúng ta hãy mở ta với ánh sáng của Thiên Chúa: Ngưi luôn đợi chờ chúng ta, để giúp chúng ta thấy rõ hơn, để ban cho chúng ta nhiều ánh sáng hơn và tha th cho chúng ta. Đng quên điu này: Người luôn chờ đợi chúng ta.”

Ngài kết thúc bài chia sẻ của mình bằng việc mời gọi mọi người hướng lòng về Đức Trinh Nữ Maria:

“Chúng ta hãy phó dâng cho Đức Trinh Nữ Maria hành trình mùa chay của chúng ta để với ân sủng của Đức Kitô, giống như ngưi mù được chữa lành, chúng ta cũng có thể "nhìn thấy ánh sáng, bưc đi xa hơn na trong ánh sáng và được tái sinh trong một sự sống mới.”

Sau kinh Truyền Tin, Đức Thánh Cha gửi lời chào thân ái đến các nhóm, đoàn hội, các khách hành hương hiện diện tại quảng trường.

Pr. Lê Hoàng Nam, SJ

Đức Thánh Cha tiếp kiến Phong trào Tông đồ người mù

Đức Thánh Cha tiếp kiến Phong trào Tông đồ người mù

VATICAN. ĐTC Phanxicô khuyến khích các tín hữu chống lại nền văn hóa ”loại trừ” và hăng say thăng tiến một nền văn hóa gặp gỡ.

Ngài đưa ra lời kêu gọi trên đây trong buổi tiếp kiến sáng 29-3-2014 dành cho hàng ngàn người thuộc phong trào tông đồ người mù, và ”Tiểu sứ mạng phục vụ người câm điếc” (Piccola Missione per i Sordomuti).

Ngỏ lời trong dịp này, ĐTC quảng diễn đề tài ”Chứng nhân Tin Mừng cho một nền văn hóa gặp gỡ”. Ngài nhắc lại sự tích Chúa Giêsu gặp gỡ người phụ nữ xứ Samaria, vốn bị người Do thái coi rẻ và loại trừ. Sau khi được gặp Chúa, được ngài soi dẫn và giải thích, bà đã trở thành chứng nhân cho những người đồng hương về Chúa.

Tiếp đến là sự tích người mù thành Giêricô được Chúa chữa lành, như được kể lại trong bài Tin Mừng chúa nhật thứ 4 mùa chay ngày mai (30-3). ĐTC nói: ”Trong khi các thủ lãnh người biệt phái, từ trên cao trong sự tự phụ của họ, phán xét cả người mù lẫn Chúa Giêsu là những người tội lỗi, thì người mù, trong sự đơn sơ lạ thường, đã bênh vực Chúa Giêsu, và sau cùng đã tuyên xưng niềm tin nơi Ngài, chia sẻ cùng số phận của Ngài: Chúa Giêsu bị loại trừ, và cả người mù cũng vậy. Nhưng trong thực tế, người ấy được gia nhập cộng đồng mới, dựa trên niềm tin nơi Chúa Giêsu và tình yêu thương huynh đệ”.

ĐTC nói: ”Đó là hai nền văn hóa đối nghịch nhau. Nền văn hóa gặp gỡ và nền văn hóa loại trừ, thành kiến. Người bệnh và khuyết tật, từ tình trạng mong manh và giới hạn của mình, họ có thể trở thành chứng nhân về cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu, cởi mở đối sự sống và đức tin, và cuộc gặp gỡ với tha nhân, với cộng đoàn. Thực vậy, chỉ ai nhìn nhận sự dòn mỏng và giới hạn của mình, mới có thể xây dựng những quan hệ huynh đệ và liên đới, trong Giáo Hội và xã hội”.

Sau cùng, ĐTC khuyến khích những người thuộc Phong trào Tông đồ người mù, hãy làm cho đoàn sủng của bà sáng lập Maria Motta được phong phú, bà là một phụ nữ đầy đức tin và tinh thần tông đồ. Ngài nhắn nhủ các tín hữu thuộc Phong trào ”Tiểu Sứ mạng phục vụ người câm điếc, hãy noi vết Đấng Đáng Kính Linh mục Giuseppe Gualandi vị sáng lập”. Và tất cả anh chị em hiện diện nơi đây, hãy để cho mình được gặp Chúa Giêsu: chỉ có Chúa biết rõ tâm hồn con người, chỉ có Chúa mới giải thoát con tim loài người khỏi thái độ khép kín và bi quan vô ích, mở rộng con tim đón nhận sự sống và hy vọng”.

Bài huấn dụ của ĐTC được những người chuyên môn dịch ra ngôn ngữ dấu hiệu để những người điếc có thể hiểu được.

Sau đó, ĐTC đã dành nhiều thời giờ để chào thăm những người khuyết tật, người mù cũng như những người câm điếc, thân nhân và những người khuyết tật. (SD 29-3-2014).

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio
 

HAI CÁCH NHÌN VÀ HAI LỐI SỐNG

HAI CÁCH NHÌN VÀ HAI LỐI SỐNG

Ở đời, khi nói về nỗi khổ thể lý của người bị mù lòa, người ta vẫn thường nói: “giàu hai con mắt, khó hai bàn tay”; còn đối với các nhà thi sĩ thì con mắt là một cái gì đó rất thơ mộng! Nó luôn gợi hứng cho những ai yêu mến thơ văn có thể nảy sinh sáng tác… vì thế, có câu: “Mắt em là một dòng sông, thuyền ta bơi lặng trong dòng mắt em” (Lưu Trọng Lư);hay đối với những nhà nhân tướng học thì: “Con mắt là phản ảnh của tâm hồn”. Nên nhìn con mắt, người ta có thể đoán bắt được tính tình; hoặc với các nhà khoa học thì: “Con mắt được coi như một chiếc máy chụp rất nhỏ nhưng rất tinh vi và phức tạp, chưa có một máy kỹ thuật số nào sánh kịp […]. Con mắt thâu 80% số vốn kiến thức mà con người hấp thụ được…” 
 
Vì thế, con mắt được gọi là “cửa sổ của linh hồn”. Tuy nhiên, trong đời sống đức tin, cái mù lòa về mặt thể lý không đáng sợ cho bằng cái mù tâm linh.

Hôm nay, bài Tin Mừng cho chúng ta thấy Đức Giêsu đã làm phép lạ chữa người mù từ lúc mới sinh. Nhưng điều đặc biệt là nhờ con mắt đức tin của anh mù sáng, nên con mắt thể lý cũng nhờ đó mà được trông thấy. Trong cuộc sống thực tế, hình ảnh của anh mù đối lập với nhiều người. Tại sao vậy? Thưa, bởi vì có rất nhiều người hiện nay sáng mắt về thể lý, nhưng lại mù lòa về tâm hồn.

Qua câu chuyện Đức Giêsu chữa người mù từ lúc mới sinh, đã nảy sinh hai cách nhìn, hai lối hiểu khác nhau giữa Thiên Chúa, mà cụ thể là nơi Đức Giêsu và những người sống cùng thời với Ngài.

1. Hai cách nhìn và hai lối sống
 
Điều trước tiên, chúng ta cần nhận thấy là Thiên Chúa nhìn con người, sự vật hoàn toàn khác lối suy hiểu của con người. Nếu con người nhìn bề ngoài, thì Thiên Chúa nhìn thấu tận tâm can. Chuyện người phụ nữ bên bờ giếng Giacóp tuần trước là một chứng minh cụ thể, khi Đức Giêsu biết người phụ nữ này có quá nhiều đời chồng, mặc dù chị ta không nói (x. Ga 4,5-42). Nếu các Pharisêu và phần đông người Dothái giữ luật chỉ vì giữ luật mà sẵn sàng trở nên vô cảm, dửng dưng trước nỗi khổ của anh em đồng lại, thì Đức Giêsu đã vượt lên trên luật để giải phóng con người, hầu đem lại cho con người được hạnh phúc, tự do đích thực, và dẫn đưa người ta vào trong đường lối nhân hậu, bao dung của Thiên Chúa. Vì thế: “Thật vậy, tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi, và đường lối các ngươi không phải là đường lối của Ta” (Is 55, 8).  

Thật thế, ngay cả tiên tri Samuel, ông đã được Thiên Chúa yêu thương, chọn và gọi, rồi ông cũng đã phục vụ Thiên Chúa rất nhiều năm trong vai trò là người thông ngôn cho Người, ấy vậy mà ông vẫn còn có thái độ rất đời, vẫn không có cái nhìn của Thiên Chúa (x. Sm 16, 1b. 6-7. 10-13a). Rồi đến lượt chính các môn đệ, khi gặp thấy anh mù, các ông cũng nhao lên hỏi Đức Giêsu: “Thưa Thầy, ai đã phạm tội khiến người này sinh ra đã bị mù, anh ta hay cha mẹ anh ta?" (Ga 9,2).

Như vậy, từ Samuel, đến các môn đệ là những người sống bên cạnh Chúa, vậy mà vẫn còn đó cái nhìn không có “chất Chúa” khi nhận xét một thực tại!

Như vậy, đâu lạ gì khi chúng ta thấy những người Biệt Phái cũng có cái nhìn rất đời như vậy. Phải chăng có khác nhau chút ít khi Samuel cũng như các môn đệ là do chưa hiểu hết được ý định của Thiên Chúa, nhưng khi đã nhận ra, các ngài đã trung thành theo ý của Thiên Chúa. Còn những người Biệt Phái thì do ghen tương, ích kỷ, kiêu ngạo và cố chấp, cho nên họ khước từ chứng tích của anh mù về tình thương của Thiên Chúa qua Đức Giêsu, đồng thời, họ tìm cách loại trừ chính Đức Giêsu và ngay cả anh mù ra khỏi cộng đồng, xã hội của họ. Nếu Đức Giêsu đã không chữa bệnh ngày Sabát, và anh mù kia nếu không xuất hiện thì đã không có chuyện…

Trước mặt những người Pharisêu và người Dothái cũng như theo lỗi suy diễn của họ thì: Thiên Chúa, hay người của Thiên Chúa phải là Đấng tốt lành, thánh thiện, trung thành với Lề Luật và không bao giờ có thể gần gũi với những người tội lỗi… (x. Ga 9,16). Thật ra, nói như vậy thì không sai, nhưng chưa đủ, bởi vì nếu tách tình thương của Thiên Chúa ra khỏi xã hội, cuộc sống, cụ thể là những nơi, những người cần được cứu độ thì mâu thuẫn nội tại với Người, bởi vì: “Thiên Chúa là tình yêu”.
 
Tuy nhiên, thái độ của Đức Giêsu thì khác hẳn. Khi chữa cho anh mù được sáng đúng ngày cấm kị của người Dothái theo luật Môsê, Đức Giêsu đã khẳng định về sứ vụ Thiên Sai của mình, Ngài nói: “Chúng ta phải làm những việc của Ðấng đã sai Thầy, khi trời còn sáng; đêm đến, không ai có thể làm việc được. Bao lâu, Thầy còn ở thế gian, Thầy là ánh sáng thế gian" (Ga 9,4-5). Và, Ngài cũng ngầm cho mọi người biết rằng Ngài đến từ Thiên Chúa, nên làm chủ luôn ngày Sabát và mặc cho nó một ý nghĩa đúng đắn khi nói: "Ngày sabát được làm ra vì con người, chứ không phải con người vì ngày sabát. Bởi đó, Con Người làm chủ luôn cả ngày sabát" (Mc 2,27-28). Vì thế, nếu đã là phương tiện, thì nó chỉ đóng vai trò là phục vụ, nên không thể không cứu người, hoặc làm việc tốt chỉ vì vụ luật.

2. Sứ điệp Lời Chúa
 
Sứ điệp Lời Chúa ngày hôm nay nhắc chúng ta một vài điều:

Trước tiên, nếu chỉ suy nghĩ đơn giản hay bề ngoài, mỗi người chúng ta rất dễ có nhận định là tại sao Samuel đã được Chúa gọi, chọn và được đặc ân sống thân tình với Thiên Chúa, đại diện Chúa, mà vẫn không nhận ra thánh ý của Người?

Thứ đến, chúng ta cũng không ngần ngại trách các môn đệ khi các ông có nhận định sai lầm về việc chàng thanh niên bị mù được đề cập đến trong bài Tin Mừng hôm nay khi các ông thắc mắc với Đức Giêsu về việc có phải anh ta bị mù là do tội của anh hay của cha mẹ anh?

Tiếp theo, chúng ta rất dễ kết án những người Biệt Phái vì có một quan điểm nguy hiểm và cho rằng những ai bị tật là do tội và bị Thiên Chúa trừng phạt! Đồng thời kết án họ vì cố chấp bởi vì trong tim và khối óc luôn có sẵn một định kiến, chống đối và thù ghét cũng như khinh thường những người thấp cổ bé họng, ốm đau bệnh tật, và kết án nữa là vị họ sống hình thức, vụ luật…;

Cuối cùng, một lối suy nghĩ đáng thương hại cho những người Dothái thời bấy giờ, vì họ đã có chính Đức Giêsu là hiện thân của Thên Chúa ở cùng mà lại không nhận ra. Nên họ đã bất đồng ý kiến và nảy sinh mâu thuẫn chỉ vì câu nói: "Một người tội lỗi sao có thể làm được những dấu lạ như vậy?" (Ga 19,6). Tuy nhiên, suy cho cùng, chúng ta phải thương lấy chính chúng ta, bởi vì vẫn còn đâu đó những nghi kỵ, thành kiến và gán mặc cho người khác những điều mà cả cuộc đời của họ không sao ngóc đầu lên được, chỉ vì một lần trong đời họ bị lỡ…

3. Sống sứ điệp Lời Chúa

Thật vậy, vì ích kỷ, nghi kỵ và kiêu ngạo, nên đã không ít lần chúng ta không thể bỏ qua những sai sót cho anh chị em chúng ta, dẫu vẫn biết rằng, nhiều khi chính chúng ta tội lỗi hơn họ, nhưng chỉ vì chúng ta khôn khéo, lèo lái cách tinh vi mà người đời không biết, nên chúng ta vẫn “bình chân như vại” mà sẵn sàng lên án người khác. Vì thế, vẫn còn đó những chuyện đau lòng như:

Nếu ai đó một thời vướng vào cái tội gọi là “đầu trộm đuôi cướp” thì cả đời không thể thoát ra khỏi những ánh mắt coi thường, khinh khi, dẫu giờ này con người đó tốt lành, hoàn lương! Hay một cô gái nào đó chỉ vì trót dại, và cũng có thể vì hoàn cảnh bị ép buộc phải làm gái điếm… thì mặc cho cô ta đã hối hận, quay đầu trở về và hướng thiện, thì cũng không bao giờ tránh được sự dè bửu, chê bai và cả đời không bao giờ rửa hết nỗi nhục bán thân. Hoặc như một bạn trẻ nào đó, thời thanh niên, vì thiếu sự suy nghĩ, ham chơi, nên sa ngã vào con đường nghiện ngập, hút trích… những người này, dưới con mắt của chúng ta, họ là đồ bỏ, mà ngay cả những người có lòng giúp đỡ họ cũng bị khinh thường theo.

Chỉ đưa ra chừng ấy thôi thì cũng đủ cho chúng ta thấy là đã biết bao lần ta bỏ lỡ cơ hội như Chúa, đã đánh mất vai trò đồng hành, nâng đỡ và tỏa gương sáng cho anh chị em chúng ta để dìu họ bước lên. Không những thế, nhiều khi chúng ta lại cho rằng nếu tạo điều kiện thuận lợi cho họ, thì chẳng khác gì “vẽ đường cho voi chạy”; hay như một cơ hội để họ lợi dụng lòng tốt, rồi “ngựa quen đường cũ”, nên đôi lần chúng ta đã thẳng tay vùi dập, làm cho cuộc đời của họ bi đát hơn và không thể ngẩng đầu để tiến về phía trước với hy vọng thay đổi cuộc đời. Thực ra, lối suy nghĩ trên có cơ sở hay nhiều người đã quá kinh nghiệm nên mới có những nhận định như thế!

Tuy nhiên, nếu chúng ta thinh lặng và hồi tâm đôi chút, thì có lẽ chúng ta sẽ cảm thấy xấu hổ khi thấy cuộc đời của mình cũng nhem nhuốc hay còn tệ hơn như thế nữa. Nhưng điều nguy hiểm hơn cả, đó là chúng ta đã tước mất quyền phán xét của Thiên Chúa, và trở thành một vị thẩm phán mù lòa, ác đức, không giống Đức Giêsu. Lời của thánh Phaolô khuyên các tín hữu Rôma đáng để cho chúng ta suy nghĩ: “Hỡi người, dù bạn là ai đi nữa mà bạn xét đoán, thì bạn cũng không thể tự bào chữa được. Vì khi bạn xét đoán người khác, mà bạn cũng làm như họ, thì bạn tự kết án chính mình” (Rm 2,1). Đồng thời tự cho mình là đạo đức, tốt lành, nên không thuộc về hàng ngũ những tội nhân cần được đón nhận ơn tha thứ. Thực ra, không ai là người vô tội trước mặt Chúa cả: “Nếu chúng ta nói là chúng ta không có tội, chúng ta tự lừa dối mình, và sự thật không ở trong chúng ta” (1 Ga 1, 8).

Vì thế, ta sẵn sàng bỏ qua những thiếu xót của mình, nhưng lại tìm mọi cách bôi nhọ những thiếu xót của anh em. Những người như thế, Đức Giêsu đã cảnh báo: "Này anh, hãy để tôi lấy cái rác trong con mắt anh ra", trong khi chính mình lại không thấy cái xà trong con mắt của mình? Hỡi kẻ đạo đức giả! Lấy cái xà ra khỏi mắt ngươi trước đã, rồi sẽ thấy rõ, để lấy cái rác trong con mắt người anh em!” (Lc 6,42). Đây phải chăng cũng là tình trạng mù tâm linh!

Hình ảnh của Đức Giêsu, vị mục tử nhân từ, đấng giàu lòng thương xót không hề có một thái độ như thế. Ngài sẵn sàng tháp nhập vào dòng người đến xin Gioan làm phép rửa thống hối, mặc dù Ngài vô tội. Nhưng thái độ đó của Ngài cho chúng ta thấy rằng: Con Thiên Chúa sẵn sàng trở nên một con người khiêm tốn, liên đới để cứu độ những người tội lỗi. Tinh thần ấy đã được Ngài sống và giảng dạy: “…giữa triều thần Thiên Chúa, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối" (Lc 15,10); Và sứ mạng của Ngài là đến để cứu chữa những người tội lỗi, ốm đau, bệnh tật, vì người khỏe mạnh thì không cần đến thầy thuốc. Như vậy, những người thấp cổ bé họng, tội lỗi và bị loại ra bên lề lại là đối tượng số một của sứ vụ Thiên Sai nơi Đức Giêsu.

Nếu chúng ta là môn đệ của Đức Giêsu đúng nghĩa, thì chúng ta cũng phải coi những người anh em đó là đối tượng trọng yếu của Tin Mừng và sứ vụ nơi chúng ta.

Thật thế, là môn sinh của Thầy Chí Thánh, ánh mắt của ta là ánh mắt nhân từ để cảm thông; đôi chân của ta luôn tiến về phía người tội lỗi, bất hạnh để cùng đồng hành với họ và đôi tay biết dang rộng để nâng dạy những người tội lỗi, giúp họ đứng lên và cùng ta tiến về phía trước. Được như thế, hẳn sẽ không thiếu những vị thánh xuất thân từ hàng ngũ của người tội lỗi!

Lịch sử Giáo Hội đã chứng minh điều đó. Trong số rất nhiều vị thánh mà một thời đã “thượng vàng hạ cám”, chúng ta xin đưa ra một số nhân vật tiêu biểu đã được cải hóa nhờ lòng nhân từ của Thiên Chúa như: Mátthêu, người thu thuế; Phêrô, người trối Chúa; người phụ nữ ngoại tình; người phụ nữ bên bờ giếng Giacóp; Augutinô… và còn biết bao vị thánh lỗi lạc khác mà trước đó họ là những côn đồ, gái điếm, trối Chúa, bỏ đạo…! Lời cầu nguyện của Đức Giêsu trên thập giá đáng để chúng ta suy ngẫm: “Lạy Cha, xin tha cho họ…". Thử hỏi rằng trên trần gian này có tội gì nguy hại và đáng phạt cho bằng tội giết con Đức Chúa Trời? Nhưng Đức Giêsu sẵn sàng tha thứ cho cả kẻ giết mình.

Như vậy, Mùa Chay, mỗi người chúng ta hãy để cho Lời Chúa như ánh mặt trời chiếu rọi vào tận thâm sâu tâm hồn của mình, để con mắt đức tin của chúng ta sáng lên như anh mù khi xưa, hầu tránh đi tình trạng sáng con mắt thể lý, nhưng lại mù con mắt tâm linh.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho mỗi người chúng con luôn biết yêu thương, cảm thông và tha thứ cho anh chị em, xin cho chúng con được nhạy bén với Thánh Ý của Chúa, để không bị tình trạng sáng mắt thể lý, nhưng lại mù về đời sống đức tin, đời sống tâm linh. Amen.

Jos. Vinct. Ngọc Biển

Bước Nhảy Của Niềm Tin

Bước Nhảy Của Niềm Tin

Nhạc sĩ Xuân Hồng viết ca khúc “Đôi mắt” với ca từ dễ thương:

Mẹ cho em đôi mắt sáng ngời.

Để nhìn đời và để làm duyên.

Mẹ cho em đôi mắt màu đen.

Để thương để nhớ, để ghen để hờn.

Đôi mắt em là cửa ngỏ tâm hồn.

Là bài thơ hay nhất.

Là lời ca không dứt.

Là tuyệt tác của thiên nhiên.

Đôi mắt là cửa ngỏ tâm hồn, là tuyệt tác thiên nhiên.

Thi sĩ Lưu trọng Lư viết hai câu thơ thật đẹp về tình yêu trong đôi mắt:

“Mắt em là một dòng sông,

Thuyền ta bơi lặng trong dòng mắt em” .

Trong bài viết “Đôi mắt”, Linh mục Nguyễn Tầm Thường suy niệm về đôi mắt mù lòa của Nguyên Tổ đã đưa tội lỗi vào trần thế. Chúa Kitô đến chữa lành và trao ban cho nhân loại đôi mắt mới, đó là mắt đức tin. Xin được mượn tư tưởng của ngài để suy niệm Tin Mừng Chúa Nhật IV Mùa Chay: “Chúa Giêsu chữa người mù từ thuở mới sinh”.

Đôi mắt là cửa sổ và là cửa chính của tâm hồn cũng như của thân xác.Mắt là cảm hứng cho thi sĩ, nhạc sĩ. Mắt là hồn cho thơ, là sóng cho nhạc. Có người nhìn đôi mắt như mùa thu. Có người nhìn đôi mắt như dòng sông. Trong văn chương, nghệ thuật, cảm hứng về mắt bao giờ cũng là đôi mắt đẹp. Trái lại, khi Thánh Kinh nói về mắt lại nói về đôi mắt mù. Từ những trang đầu, sách Sáng Thế đã nói về mắt: “Rắn đã nói với người đàn bà: chẳng chết chóc gì đâu! Quả nhiên Thiên Chúa biết, ngày nào các ngươi ăn nó, mắt các ngươi sẽ mở ra và các ngươi sẽ nên như Thiên Chúa, biết cả tốt xấu. Và người đàn bà đã nhìn; quả là cây ăn phải ngon… mà nhìn thì đã sướng mắt. Nó đáng quý thực, cái cây ấy để được tinh khôn. Và bà đã ăn… Và mắt cả hai người đã mở ra. Và chúng biết là chúng trần truồng.” (St 3,4 -7). (x.Nước mắt và hạnh phúc tr. 69 -71)

Đoạn Thánh Kinh nói về lịch sử sa ngã của loài người đã đề cập đến đôi mắt qua 3 tiến trình:

       – Rắn hứa là mắt hai ông bà sẽ mở ra.

       – Evà nhìn trái táo và thấy sướng mắt.

       – Mắt hai người mở ra và thấy mình trần truồng.

Rắn hứa là mắt hai người sẽ mở ra để nhìn thấy mọi sự như Thiên Chúa, nhưng mắt đức tin đã nhắm lại nên không nhìn thấy điều mình muốn thấy. Họ không thấy mùa hoa nở rộ, những đồi cỏ bình yên, những dãi nắng hiền, những dòng suối êm ả. “Mà nhìn thì đã sướng mắt”, cái nhìn ấy phải là đắm đuối, bằng cái nhìn đam mê đó, tội lỗi, khổ đau và sự chết đã vào trần thế.

 Lời hứa của con rắn đã hiệu nghiệm: mắt cả hai người đã mở ra. Nhưng không phải mở ra để nhìn thấy vẻ đẹp mà nhìn thấy mình trần truồng. Mắt hai người đã mở ra. Câu Thánh kinh thật ngắn ngủi diễn tả cách tinh tế sự đau thương: mở ra cũng là lúc đóng lại. Ađam, Evà đã mở mắt, nhưng họ lẫn trốn không dám nhìn Thiên Chúa. Cả hai đã mở mắt nhưng để tìm lá che thân, không dám nhìn nhau. Khởi đầu lịch sử nhân loại là đôi mắt mù và sự mù lòa chảy dọc theo thời gian mang tối tăm vào trong trần thế.

Chúa Kitô đã đến trần gian chữa lành sự mù lòa ấy, hàn gắn lại vết thương thuở sa ngã của Nguyên Tổ.

Khi liên kết phép lạ Chúa Giêsu chữa người mù từ thưở mới sinh với sự mù lòa của Nguyên Tổ, ta mới thấy ý nghĩa sâu xa của mầu nhiệm Con Thiên Chúa đến trong thế gian. “Mù từ thưở mới sinh” là mù từ xa xưa, thuở địa đàng. Chúa Kitô đã mang ánh sáng cho thế gian, Ngài ban cho nhân loại đôi mắt đức tin.

Từ tiến trình đến ánh sáng tự nhiên, người mù có một hành trình tiếp cận ánh sáng đức tin. Niềm tin vào Chúa Giêsu của người mù tăng dần theo với thử thách.     

Thánh Gioan kể có bốn cuộc thử thách.

– Thử thách lần thứ nhất (Ga 9,8-12), những người láng giềng và những người trước kia thường thấy anh ta ăn xin chất vấn: “hắn không phải là người vẫn ngồi ăn xin đó sao?”. Người mù xác nhận: “Tôi đi, tôi rửa, tôi nhìn thấy”. Anh không biết Chúa là ai: “Ông ấy ở đâu, tôi không biết”. Anh coi Chúa Giêsu chỉ là một con người, một người nào đó trong muôn vạn người: "Một người tên Giêsu đã xức bùn vào mắt tôi".

– Thử thách lần thứ hai (Ga 9,12-17), những chất vấn của giới Pharisiêu và lời nhạo báng: “một ngưởi tội lỗi sao có thể làm được những dấu lạ như vậy?”. Trước sức ép của họ, anh suy nghĩ sâu xa hơn và anh nhận rằng "Ngài thật là vị tiên tri".

– Thử thách lần thứ ba (Ga 9,18-23), họ gọi cha mẹ của anh ta đến để làm chứng, nhưng hai người sợ hãi nên nói: “Nó đã khôn lớn rồi, xin các ông cứ hỏi nó”. Anh mù trực tiếp trả lời về nguồn ánh sáng đã đón nhận.

– Thử thách lần thứ tư (Ga 9,24-34), người Pharisiêu dùng đến Lề Luật. Người mù không cần biết đến Luật. Anh ta dựa vào cảm nghiệm cá nhân đã gặp Đức Kitô. Cuộc tra vấn của giới chức tôn giáo khiến anh khẳng định: "Người từ Thiên Chúa mà đến".

Khi bị trục xuất ra khỏi hội đường, Chúa Giêsu gặp lại anh và mạc khải cho biết Ngài là Con Thiên Chúa, anh liền tuyên xưng đức tin: “Lạy Thầy, tôi tin” (Ga 9,37). Niềm tin của người mù tăng triển qua ba giai đoạn. Từ không biết ông ấy ở đâu cho đến ông ấy là một tiên tri, rồi sấp mình thờ lạy Ngài. Sự tiến triển niềm tin qua những lần thử thách. Càng gặp thử thách niềm tin càng sáng lên. Thử thách càng cao đức tin càng mạnh. Người mù trung thành với cảm nghiệm của mình. Đức tin lớn lên qua những hiểm nguy và đe dọa.

Chúa Giêsu chữa lành đôi mắt thể lý và mắt tâm hồn của người mù. Chúa đã mở mắt đức tin để anh ta tin vào Chúa. Anh ta tin vào Lời Chúa là đi rửa mắt ở hồ Silôác và đã công khai nói lên sự thật ca ngợi Chúa trước mặt những người Pharisiêu đang tra vấn, khủng bố anh : “Chính tôi đây đã được người mà thiên hạ gọi là Giêsu lấy bùn xức mắt tôi và bảo tôi hãy đi rửa ở hồ Silôác. Tôi đã đi, đã rửa và đã trông thấy”. Lòng bắt đầu rộng mở nên anh ta nhận ra: ”Nếu người đó không phải bởi Thiên Chúa thì đã không làm được gì”. Bởi đó, khi gặp lại Chúa Giêsu và được hỏi: “Anh có tin Con Người không?”, anh đáp lại ngay: “Thưa Ngài, Đấng ấy là ai để tôi tin?”. Chúa Giêsu tỏ mình ra cho anh: “Anh đã thấy Người. Chính Người đang nói với anh đây”. Anh liền đáp: “Lạy Thầy, tôi tin”. Bước nhảy của niềm tin được kết tinh nơi thái độ quỳ xuống bái lạy.

Qua việc chữa lành đôi mắt thể lý, Chúa Giêsu trao ban ánh sáng đức tin cho đôi mắt tâm hồn. Thoát khỏi bóng tối triền miên của cuộc đời, bát ngát một bầu trời mới khi anh được sáng đôi mắt. Lớn lao hơn nữa là tâm hồn anh thênh thang chứa chan lòng mến, anh đã quỳ bái lạy với tất cả lòng tin. Phép lạ chữa người mù thuở mới sinh là một dấu chỉ minh chứng: Chúa Giêsu là sự sáng thế gian, đã chữa lành sự mù lòa của nhân loại, với một điều kiện: Tin vào Ngài.                   

Chúa Giêsu cũng chữa nhiều người mù lòa tâm hồn. Người mở mắt cho Dakêu thấy được sự nguy hiểm của tiền tài đối với phần rỗi (Lc 9,1 -10). Người mở mắt cho người đàn bà ngoại tình, giúp chị từ bỏ quá khứ lỗi lầm (Lc 7,36 -50). Người mở mắt cho người trộm lành giúp nhận ra lòng Chúa xót thương (Lc 23,32 – 43)…

Mỗi người chúng ta có lẽ không hoàn toàn mù tối tâm hồn, nhưng có những điểm tối mà ta thấy được. Chẳng hạn như những đam mê, tham vọng, hận thù, ghen ghét, kiêu căng, có thể làm ta mù tối không nhìn thấy sự tốt lành nơi tha nhân. Có một số người chỉ nhìn thấy điểm tối của người khác, chỉ nhìn thấy những lỗi lầm, những khuyết điểm mà không nhận ra những gì là xinh đẹp, những gì là cao quý, thánh thiện nơi họ. Cứ tiếp tục xét mình, ta sẽ thấy có nhiều điểm tối, sự mù tối của tâm hồn rất nguy hại. Chỉ có ánh sáng của Đức Kitô soi chiếu, chỉ có cái nhìn của Đấng tình yêu, mỗi người mới xóa tan những điểm tối đó. Chỉ có sự cầu nguyện và tin tưởng vào Đấng là ánh sáng thế gian, chúng ta mới có thể xua đuổi bóng tối ra khỏi tâm hồn và nhìn mọi sự trong ánh sáng Tin Mừng Đức Kitô. 

“Thầy là Ánh Sáng trần gian. Ai theo Thầy sẽ không đi trong tối tăm, nhưng sẽ có Ánh Sáng dẫn đến cõi trường sinh” (Ga 8,12). Hãy luôn cảm tạ Chúa vì Ngài đã ban cho chúng ta đôi mắt sáng suốt của đức tin, nhờ đó chúng ta biết được ý nghĩa của cuộc đời, thấy được con đường phải đi và những việc phải làm để đạt đến hạnh phúc thật.

Đôi mắt là tuyệt tác của thiên nhiên, là cửa ngỏ tâm hồn. Đôi mắt có thị giác và thị lực. Thị giác là khả năng của đôi mắt có thể thấy. Thị lực là mức độ thấy của khả năng ấy. Thấy nhiều hay ít. Thấy xa hay gần. Thấy rõ hay mờ. Người cận thị chỉ thấy được rất gần. Người viễn thị thì thấy xa hơn. Cần có thị giác tốt và thị lực tốt, đôi mắt mới sáng ngời. Thị lực còn là của trí óc và của con tim. Có người chỉ thấy được cái thế giới chật hẹp và ích kỷ của bản thân mình; có người thấy được hoàn cảnh, tâm tư và nguyện vọng của người khác. Thị lực còn là niềm tin. Người mù tuy mù nhưng lại có thị lực tốt. Anh đã thấy được Ðức Giêsu là một ngôn sứ.Anh thấy nhiều cái mà những người sáng mắt không thấy. Anh thấy quyền năng và tình thương của Chúa có thể cho anh được sáng mắt. Anh thấy bằng lòng tin. Chính vì lòng tin này mà Chúa Giêsu đã thương cứu chữa cho anh sáng mắt. Anh mù, mắt không thấy Chúa, nhưng lòng đã thấy Chúa rồi vì anh có lòng tin. Thị lực lòng tin cho anh tiếp nhận ánh sáng tình yêu đầy tràn hy vọng.

Lạy Chúa, xin cho con có đôi mắt với thị giác và thị lực tốt.

Để con nhận ra Chúa nơi anh em với những cái hay cái tốt.

Để con nhận ra Chúa nơi các kỳ công kiệt tác thiên nhiên.

Để con biết nhận ra Chúa nơi các vị Đại Diện Chúa.

Và lạy Chúa, xin cho con được thấy bản thân với những yếu đuối và khuyết điểm, biết nhận ra thân phận thụ tạo lệ thuộc Đấng Tạo Hóa; từ đó con biết được ơn phúc là do lòng Chúa yêu thương ban tặng, để con luôn biết dâng lời cảm tạ, tôn thờ, phụng sự và kính mến Chúa với cả tâm tình con thảo. Amen

LM. Giuse Nguyễn Hữu An

Ngọn đèn đức tin

Ngọn đèn đức tin

Ta nhìn thấy được là nhờ có ánh sáng. Đôi mắt là ánh sáng của thân thể. Nếu mắt hư hỏng, thì dù bên ngoài trời có sáng trưng, ta vẫn không thấy gì hết. Người bị hư mắt sống hoàn toàn trong đêm tối.

Có nhiều thứ đêm tối. Cũng như có nhiều loại mắt.

Có thứ đêm tối u mê dốt nát. Ánh sáng văn hoá có đó. Sách vở chữ nghĩa có đó. Nhưng ta không đọc được. Vì ta mù chữ. Trí tuệ ta thiếu đôi mắt. Nên ta chìm trong đêm tối u mê.

Có thứ đêm tối phàm phu. Thiên nhiên có biết bao cảnh đẹp. Nhìn cảnh hoàng hôn, bình minh, người hoạ sĩ có thể xúc cảm vẽ nên những bức tranh tuyệt tác. Ta không cảm được vẻ đẹp của đất trời vì ta không có cặp mắt hoạ sĩ. Nghe chim ca, nhìn lá rụng, thi sĩ có thể viết nên những vần thơ. Còn ta, ta không nghe được sứ điệp của chim, không cảm được nỗi buồn của lá, vì ta không có tâm hồn, ánh mắt nhạy cảm của nhà thơ.

Có thứ đêm tối đức tin. Cuộc sống thần linh có đó. Thiên Chúa hiện hữu đó. Nhưng ta không thấy được nếu ta không có đức tin.

Đức tin là ánh sáng soi rọi vào thế giới vô hình, cho ta thấy được những điều mà người không tin không thấy. Đức tin là ngọn đèn soi cho ta bước đi trên con đường tiến về cuộc sống vĩnh cửu. Ngọn đèn ấy chỉ đủ sáng cho ta bước từng bước nhỏ. Trong khi bầu trời vẫn tối đen để ta phải phó thác tin yêu.

Tin là một thái độ dấn thân. Người mù đi ra giếng Silôê rửa theo lời dạy của Chúa Giêsu vì anh tin. Anh có thể nghi ngờ: Rửa nước giếng có gì tốt đâu? Nhưng anh đã đi vì anh tin lời Chúa. Tin rồi anh không ngồi lì một chỗ nhưng dấn thân, lên đường và hành động theo lời Chúa dạy.

Tin là một hành trình ngày càng gian khổ. Đức tin cần phải có thử thách. Thử thách như những bài học ngày càng cao, càng khó bắt người tin phải có thái độ lựa chọn ngày càng dứt khoát hơn. Ta hãy dõi theo hành trình của anh thanh niên bị mù.

Thoạt tiên, việc dẫn thân của anh khá dễ dàng. Anh chỉ việc đi ra giếng Silôê rửa bùn đất mà Chúa Giêsu đã đắp lên mắt anh.

Kế đó anh phải đối phó với một tình hình phức tạp hơn: Người ta nghi ngờ anh. Người ta tò mò xoi mói anh. Nhưng anh đã vững vàng vượt qua thử thách đó. Anh dõng dạc tuyên bố: Chính tôi là người mù đã ăn xin tại cổng thành.

Tình hình phức tạp hơn khi gia đình anh tỏ ra thờ ơ lãnh đạm. Anh khá đau lòng và cảm thấy cô đơn. Anh được sáng mắt. Anh có niềm tin. Đó là một biến cố quan trọng thay đổi toàn bộ đời anh. Thế mà những người thân thiết nhất là cha mẹ, anh chị em trong gia đình vẫn thờ ơ, lãnh đạm. Để vững niềm tin vào Chúa, anh đành chấp nhận hành trình đơn độc. Vì tin Chúa anh đành cam chịu sự thờ ơ lãnh đạm của những người thân. Trung thành với niềm tin đã làm trái tim anh rướm máu.

Sự căng thẳng lên đến cực điểm khi anh phải đối đầu với quyền lực tôn giáo. Họ mạt sát anh là sinh ra trong tội lỗi. Họ tố cáo Chúa Giêsu đã lỗi phạm luật nghỉ ngày Sabbat. Và sau cùng, họ khai trừ anh khỏi hội đường. Đây là hình phạt nặng nề nhục nhã nhất đối với người Do Thái. Bị gia đình từ bỏ. Giờ đây lại bị xã hội chối từ. Anh trở thành người cô đơn nhất. Đây là thử thách lớn lao nhất. Nhưng anh vẫn vững vàng vượt qua. Lựa chọn của anh giờ đây là dứt khoát. Mất tất cả chỉ để trung tín với niềm tin của mình.

Đúng lúc đau đớn nhất Chúa Giêsu lại xuất hiện. Như để khen thưởng cho đức tin kiên vững của anh. Chúa Giêsu tỏ cho anh biết Người là Đấng Cứu Thế, là Con Thiên Chúa. Lập tức anh quỳ sấp mặt xuống thờ lạy Người. Hành trình niềm tin gian khổ thế là chấm dứt. Anh đã gặp được Chúa Kitô.

Như thế niềm tin tăng dần theo với thử thách. Thử thách càng cao, đức tin càng mạnh. Thoạt tiên, anh coi Chúa Giêsu chỉ là một con người, một người nào đó trong muôn vạn người: “Một người tên là Giêsu đã xức bùn vào mắt tôi”. Những câu hỏi của đám đông, những tra vấn của Pharisêu khiến anh suy nghĩ sâu xa hơn và anh nhận rằng: “Ngài thật là vị tiên tri”. Khó khăn bắt bớ của giới chức tôn giáo thời đó lại khiến anh khẳng định: “Người từ Thiên Chúa mà đến”. Và sau cùng anh đã nhận Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa.

Đức tin giống như hạt ngọc bị lớp đất bụi che phủ. Những khó khăn thử thách giống như chiếc dũa, dũa sạch bụi đá. Càng dũa nhiều, ngọc càng sáng. Đức tin giống như ngọn đèn. Thử thách gian khổ là dầu. Càng có nhiều dầu gian khổ, đèn đức tin càng toả sáng, càng toả nóng.

Hành trình đức tin của anh thanh niên mù chính là khuôn mẫu cho hành trình đức tin của mỗi người chúng ta. Anh thanh niên mù đã chiến đấu với những bóng tối vây phủ đức tin của anh. Anh đã kiên trì và đã chiến thắng. Anh đã ra khỏi tối tăm, gặp được Chúa Kitô nguồn ánh sáng. Đời anh từ nay tràn ngập ánh sáng niềm tin. Còn tôi, tôi đã chiến đấu thế nào với những thế lực bóng tối đe doạ đức tin của tôi? Những bóng tối nghi kỵ, những bóng tối thù hận, những bóng tối độc ác, những bóng tối tự mãn kiêu căng, những bóng tối dục vọng tội lỗi. Tôi có can đảm chiến đấu để phá tan những bóng tối đó không?

Anh thanh niên mù đã giữ ngọn đèn đức tin khỏi mọi bão gió, lại còn đổ dầu đầy bình, giữ cho đèn cháy sáng cho đến khi gặp Chúa Kitô. Ngày Rửa Tội, Chúa đã trao cho tôi ngọn đèn đức tin. Biết bao ngọn gió đã thổi ngang đời tôi, muốn dập tắt ngọn đèn đức tin của tôi. Liệu tôi có giữ được ngọn đèn đức tin cháy sáng cho đến ngày ra gặp mặt Chúa?

Mùa Chay chính là cơ hội cho tôi khêu ngọn đèn đức tin cho sáng, đổ dầu đầy bình cho ngọn đèn đức tin cháy mãi. Dầu, đó là sự ăn chay, cầu nguyện, là thống hối, là hoà giải, là chia sẻ cho người túng thiếu.

Xin Chúa Kitô là ánh sáng trần gian dẫn con đi suốt hành trình đức tin để con thoát mọi bóng tối, đến gặp Người là ánh sáng tinh tuyền, ánh sáng vĩnh cửu.

GỢI Ý CHIA SẺ

1) Bạn đã từng bị thử thách về đức tin chưa? Bạn đã thắng vượt như thế nào?

2) Từ khi được Rửa Tội đến nay, bạn có “biết” Chúa ngày càng rõ hơn không?

3) Chúa đã tỏ mình ra cho bạn thế nào qua những thử thách trong cuộc đời?

4) Anh thanh niên mù đã trải qua những khó khăn nào trong hành trình đến gặp Chúa Giêsu?

ĐTGM Giuse Ngô Quang Kiệt

Hãy biết mình

Hãy biết mình

Có hai vợ chồng đi tham quan một cửa hàng trưng bày tranh thêu lụa. Vừa bước tới cửa bà vợ đã chăm chú nhìn vào bên trong một hồi lâu rồi nhận xét: "Tranh gì đâu mà xấu vậy? Thêu người đàn bà chẳng giống ai!". Ông chồng vội bịt miệng bà và nói: "Không phải tranh đâu, đó là gương đấy. Đó là hình ảnh của bà được phản chiếu qua gương đấy! Chớ nhận xét hồ đồ!". Người đàn bà quá xấu hổ đành bỏ ra về.

Đó cũng là cảnh mù loà đáng thương của nhiều người trong chúng ta. Khi chúng ta phê bình chỉ trích người khác đang khi chính chúng ta vẫn còn đó đầy những lỗi lầm. Khi chúng ta chê bai anh em đang khi chúng ta vẫn còn đó những khuyết điểm và thói hư tật xấu. Chúng ta thường cắt nghĩa tốt về mình nhưng lại quá hà khắc về lối sống của tha nhân. Chúng ta thường mù loà về bản thân mình nhưng lại thích soi mói anh em. Đúng như cha ông ta vẫn nói:

"Chân mình còn lấm bê bê

Lại cầm bó đuốc mà rê chân người".

Bài tin mừng hôm nay nói đến rất nhiều nhân vật nhưng chỉ có một người là sáng mắt thực sự. Người có mắt sáng là người biết nhìn nhận sự việc đúng sự thật. Người sáng mắt không lệch lạc về quan điểm, về sự việc. Người sáng mắt biết nhận định đúng về những gì đang diễn ra chung quanh. Đó là anh mù từ thuở mới sinh. Anh mù về thể xác nhưng sáng về tinh thần. Anh đã dám nhìn nhận sự thật cho dù vì đó mà anh bị trục xuất khỏi cộng đoàn. Anh đã công khai nói lên niềm tin của mình vào Đấng đã chữa lành cho anh. Cho dù anh gặp nhiều sự chống đối, nhiều hiểm nguy nhưng anh vẫn phải nói đúng sự thật về những gì đã diễn ra trong cuộc đời anh.

Nhưng tiếc thay nhiều người mắt sáng nhưng lại tối tâm hồn. Đó là các biệt phái đầy kiêu căng đã không thể nhìn thấy quyền năng của Chúa đang hiển thị trước mặt các ông. Đó là cha mẹ của anh mù vì sợ hãi đã lẩn trốn sự thật, không dám nói đúng sự thật cũng đồng nghĩa chấp nhận mình mù loà giữa đời. Người biệt phái vì lòng ghen ghét mà họ đã có cái nhìn lệch lạc về việc làm của Chúa Giêsu. Cha mẹ anh mù vì cầu an nên thiếu trách nhiệm với con và với người đã cứu con mình. Xem ra bệnh mù về tâm hồn có muôn vàn nguyên nhân dẫn đến mù loà. Và xem ra bệnh mù thể xác thì ít hơn bệnh mù về tinh thần. Bởi lẽ, mỗi một cách sống sai với lương tri con người đều được coi là căn bệnh mù loà của tâm hồn. Chúng ta có thể nhìn thấy những triệu chứng cũng như nguyên do của bệnh mù loà tâm hồn như sau:

Khi chúng ta quá ích kỷ dẫn đến không thấy nhu cầu của thân nhân để cảm thông và giúp đỡ.

Khi chúng ta quá vô tâm nên không thấy nỗi đau của anh em mà chính chúng ta đã gây nên cho họ.

Khi chúng ta quá lười biếng đến nỗi không còn thấy trách nhiệm và bổn phận của mình với gia đình và xã hội.

Khi chúng ta quá bảo thủ và thành kiến nên không thấy điều hay, điều tốt của tha nhân.

Khi vì phán đoán nông cạn, hời hợt làm chúng ta mù loà không thấy những giá trị của người anh em và khiến ta hay lên án một cách hồ đồ, thiếu công bình và bác ái.

Nhưng điều quan yếu hơn cả đối với các tín hữu trong Mùa Chay không phải chỉ là nhìn nhận sự khuyết tật mù loà của mình đế sám hối canh tân, đề cầu xin Chúa chữa lành mà còn phải có một đời sống đức tin như anh mù sau khi được sáng mắt sáng lòng.

Đó là một đức tin đầy lạc quan, biết reo vui cảm tạ Thiên Chúa vì những ơn đã lãnh nhận. Đó là một đức tin đầy can đảm, sẵn sàng trực diện với những cạm bãy thù nghịch của những kẻ đồng đạo tội lỗi hay đã bị thoái hoá. Và đó cũng còn là một đức tin vững vàng chấp nhận thiệt thòi cô đơn, vì dám làm chứng cho ánh sáng giữa bóng tối tội lỗi, sa đoạ của trần đời hôm nay.

Nguyện xin Chúa là ánh sáng trần gian soi lối cho chúng ta đi trong ánh sáng và chân lý. Xin cho chúng ta can đảm đoạn tuyệt với bóng tối tội lỗi và chân thành sống theo ánh sáng của lề luật và tình thương. Amen.

LM Tạ Duy Tuyền

Đức Thánh Cha khuyến khích các linh mục và giáo xứ trong việc giải tội

Đức Thánh Cha khuyến khích các linh mục và giáo xứ trong việc giải tội

VATICAN. Trong buổi tiếp kiến 600 LM và chủng sinh sáng ngày 28-3-2014, ĐTC khuyến khích các LM và các giáo xứ tạo điều kiện dễ dàng và sẵn sàng giải tội các tín hữu muốn lãnh nhận bí tích Hòa giải.

Các LM và chủng sinh năm cuối vừa kết thúc khóa học thường niên về bí tích giải tội và các vấn đề lương tâm, do Tòa Ân giải tối cao tổ chức.

Lên tiếng trong buổi tiếp kiến, ĐTC nhắc nhở rằng vị giữ vai chính trong sứ vụ hòa giải là Chúa Thánh Linh. Ơn tha thứ mà bí tích này trao ban chính là sự sống mới được Chúa Phục Sinh thông truyền nhờ Thánh Linh của Ngài, vì thế anh em được kêu gọi luôn luôn là những người của Chúa Thánh Linh, là chứng nhân và là người hân hoan và hăng say loan báo sự sống lại của Chúa”.

ĐTC cũng khẳng định ”vai trò của vị giải tội vừa là y sĩ và là thẩm phán, nhưng chúng ta không bao giờ được quên rằng trong tư cách là y sĩ, vị giải tội được kêu gọi chữa lành, và trong tư cách là thẩm phán, vị ấy được kêu gọi xá giải.”

ĐTC ghi nhận rằng ”các tín hữu thường cảm thấy e ngại và cơ cực khi đi xưng tội, vì những lý do thực hành, cũng như vì khó khăn tự nhiên trong việc thú tội với một người khác, vì thế – ĐTC nói – chúng ta cần cố gắng rất nhiều, để không bao giờ trở thành chướng ngại, trái lại tạo điều kiện dễ dàng cho hối nhân đến gần lòng từ bi và ơn tha thứ.”

Cũng trong bài huấn dụ, ĐTC nhắn nhủ các cha giải tội hãy tránh hai thái cực: ngặt nghèo và lỏng lẻo. ”Cả hai điều này đều không mang lại ích lợi cho hối nhân. Trái lại lòng từ bi lắng nghe thực sự bằng con tim của Thiên Chúa và muốn tháp tùng linh hồn trong hành trình hòa giải. Bí tích giải tội không phải là một tòa kết án, nhưng là một sự cảm nghiệm ơn tha thứ và từ bi”.

Sau cùng, ĐTC nói rằng ”Trong tất cả các giáo phận và cộng đoàn giáo xứ cần đặc biệt chăm sóc việc cử hành bí tích tha thứ và cứu độ. Một điều tốt lành là trong mỗi giáo xứ, các tín hữu biết được khi nào họ có thể tìm được các linh mục sẵn sàng giải tội cho họ: khi có sự trung thành trong vấn đề này, thì người ta sẽ thấy thành quả. Điều này đặc biệt có giá trị đối với các cộng đoàn dòng tu có thể đảm bảo một sự hiện diện liên tục các cha giải tội”. (SD 28-3-2014)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio
 

Đức Thánh Cha cử hành thánh lễ cho gần 500 đại biểu quốc hội Italia

Đức Thánh Cha cử hành thánh lễ cho gần 500 đại biểu quốc hội Italia

VATICAN. Lúc 7 giờ sáng 27-3-2014, ĐTC Phanxicô đã cử hành thánh lễ tại Đền thờ Thánh Phêrô với sự tham dự của gần 500 thượng và hạ nghị sĩ Italia. Ngài mời gọi các vị đặc biệt quan tâm đến thiện ích của dân chúng.

Trong bài giảng, ĐTC đã quảng diễn các bài đọc của ngày lễ, đặc biệt là đoạn Phúc Âm kể lại việc Chúa Giêsu trừ quỉ nhưng giới biệt phái và luật sĩ cho rằng ngài nhân danh tướng quỉ Beelzebul mà trừ quỉ.

ĐTC phê bình thái độ của giới lãnh đạo dân Do thái hồi đó, các nhà thông luật, biệt phái và sađuxê, khép kín trong các ý tưởng, việc mục vụ và ý thức hệ của họ. Giới lãnh đạo ấy không lắng nghe Lời Chúa, và để biện minh cho thái độ ấy, họ cho rằng Chúa Giêsu nhờ Satan mà trừ quỉ.

Trái lại, Chúa Giêsu nhìn dân, cảm động vì họ như đoàn chiên không có người chăn dắt. Ngài đến cùng người nghèo, người bệnh, với mọi người, các goá phụ, người phong cùi, để chữa lành họ. Trong khi đó giới lãnh đạo dân chỉ quan tâm đến quyền lợi, phe nhóm đảng phái của họ, đấu tranh nội bộ với nhau… Họ là những người tham nhũng, bị hư hỏng, yên trí trong những sự việc của họ, và thật khó trở lui.

Trong phần kết luận, ĐTC mời gọi mọi người trong mùa chay, hãy lắng nghe tiếng Chúa, và thành tâm trở về cùng Người. Ngài nói: ”Chúng ta hãy cầu xin Chúa ban cho chúng ta ơn luôn luôn tiến bước trên con đường cứu độ, cởi mở đối với ơn cứu độ chỉ đến từ Thiên Chúa, từ niềm tin, chứ không từ những điều mà ”những tiến sĩ về các điều bó buộc” đề nghị, họ đã mất đức tin, cai quản dân bằng thứ thần học mục vụ về những điều phải làm.” (SD 27-3-2014).

G. Trần Đức Anh OP
– Vatican Radio

Đức Thánh Cha xin tín hữu cầu nguyện cho các giám mục, linh mục và phó tế trong Giáo Hội

Đức Thánh Cha xin tín hữu cầu nguyện cho các giám mục, linh mục và phó tế trong Giáo Hội

Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho tất cả các vị thừa tác của Giáo Hội Người, một cách đặc biệt cho các vị đang gặp khó khăn và cần thu hồi giá trị và sự tươi mát ơn gọi của các vị. Và chúng ta cũng xin Chúa đừng bao giờ để cho các cộng đoàn của chúng ta thiếu các mục tử đích thật theo lòng Chúa muốn.

Đức Thánh Cha Phanxicô đã đưa ra lời kêu gọi trên đây trong buổi tiếp kiến chung sáng thứ thư 26-3-2014 tại quảng trường thánh Phêrô.

Trong bài huấn dụ Đức Thánh Cha đã trình bầy giáo lý về Bí tích Truyền Chức. Ngài nói ba Bí tích khai tâm Rửa Tội, Thánh Thể và Thêm Sức làm thành một biến cố ơn thánh lớn duy nhất, làm cho chúng ta tái sinh trong Chúa Kitô và mở ra cho chúng ta ơn cứu rỗi của Người. Đó là ơn gọi nền tảng làm cho tất cả chúng ta giống nhau trong Giáo hội, như là môn đệ của Chúa Giêsu. Thế rồi còn có hai Bí tích tương ứng với hai ơn gọi chuyên biệt: đó là Bí tích Truyền Chức và Bí tích Hôn Phối. Chúng làm thành hai con người qua đó kitô hữu có thể làm cho cuộc sống của mình trở thành một món quà của tình yêu thương, theo gương và nhân danh Chúa Kitô, và như thế cộng tác vào việc xây dựng Giáo Hội. Đức Thánh Cha giải thích Bí tích Truyền Chức như sau:

Bí tích Truyền Chức, được diễn tả trong ba bậc giám mục, linh mục và phó tế, là Bí tích ban quyền thi hành chức thừa tác, do Chúa Giêsu tín thác cho các Tông Đồ, chăn dắt đoàn chiên của Người, trong quyền năng Thần Khí của Người và theo lòng Người muốn. Chăn dắt đoàn chiên của Chúa Giêsu với quyền năng không phải sức mạnh của con người hay quyền năng của riêng mình, nhưng của Thần Khí và theo con tim của Người, con tim của Chúa Giêsu, là một con tim của tình yêu thương. Vị linh mục, giám mục, phó tế phải chăn dắt đàn chiên của Chúa với tình yêu thương. Nếu không làm với tình yêu thương thì không phục vụ. Và trong nghĩa đó, các thừa tác được tuyển chọn và thánh hiến cho việc phục vụ này, kéo dài trong thời gian sự hiện diện và hoạt động của vị Thầy và Chủ Chăn duy nhất đích thật là Chúa Kitô. Giờ đây chúng ta có thể tự hỏi: một cách cụ thể điều này bao gồm cái gì trong cuộc sống của người được truyền chức?

Nó bao gồm ba khía cạnh: trước hết các người được truyền chức được đặt làm đầu cộng đoàn. Ô, tôi làm đầu! Phải, nhưng ”làm đầu” theo Chúa Giêsu có nghĩa là đặt để cuộc sống của mình trong việc phục vụ, như chính Ngài đã cho thấy và dậy các môn đệ với các lời này: ”Anh em biết, thủ lãnh các dân thì dùng uy mà thống trị dân, những người làm lớn thì lấy quyền mà cai quản dân. Giữa anh em thì không được như vậy: ai muốn làm lớn giữa anh em, thì phải làm người phục vụ anh em. Và ai muốn làm đầu anh em, thì phải làm đầy tớ anh em. Cũng như Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, mhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống mình làm giá chuộc muôn người” (Mt 20, 24-28). Một giám mục mà không phục vụ cộng đoàn, thì không làm tốt. Một linh mục mà không phục vụ cộng đoàn của mình, thì không làm tốt, nhưng sai đã rồi.

Có một khía cạnh khác luôn phát xuất từ sự kết hiệp bí tích này với Chúa Kitô: đó là tình yêu say mê đối với Giáo Hội. Chúng ta hãy nghĩ tới đoạn thư thánh Phaolô viết cho tín hữu Êphêxô, trong đó thánh nhân nói rằng Chúa Kitô ”đã yêu thương Giáo Hội và hiến mình cho Giáo Hội, để khiến cho Giáo Hội trở nên thánh thiện, bằng cách thanh tẩy Giáo Hội bằng nước và lời hằng sống, để trước mặt Người, có một Giáo Hội xinh đẹp lộng lẫy, không tỳ ố, không vết nhăn hoặc bất cứ một khuyết điểm nào, nhưng thánh thiện và tinh tuyền” (Ep 5,25-27).

Do sức mạnh của Bí tích Truyền Chức vị thừa tác tận hiến toàn thân cho cộng đoàn của mình và yêu thương cộng đoàn với tất cả con tim: vì đó là gia đình của ngài. Giám mục, linh mục yêu thương Giáo Hội trong cộng đoàn của mình, và yêu thương một cách mạnh mẽ. Như thế nào? Như Chúa Kitô yêu thương Giáo Hội. Thánh Phaolô sẽ nói cùng điều này về Bí tích Hôn Phối: chồng yêu vợ như Chúa Kitô yêu Giáo Hội. Đó là một thừa tác của tình yêu lớn lao, tình yêu của chức thừa tác và tình yêu của hôn nhân, hai bí tích là con đường mà bình thường con người tiến đến với Chúa.

Tuy nhiên, điều này không nhượng bộ cám dỗ coi cộng đoàn như là một gia tài riêng, một sở hữu riêng của mình! Chúa luôn luôn là Phu Quân duy nhất và đích thực, và Giáo Hội tùy thuộc Người và chỉ là một với Người.

Khía cạnh thứ ba: thánh Phaolô đã căn dặn Timôthê môn đệ của ngài là đừng thờ ơ với đặc sủng đang có nơi ông, đặc sủng đã đươc ban cho qua lời các ngôn sứ, và khi hàng kỳ mục đặt tay trên ông (x. 1 Tm 4,14; 2 Tm 1,6). Rồi Đức Thánh Cha khẳng định như sau:

Khi không dưỡng nuôi chức thừa tác với lời cầu nguyện, chức thừa tác giám mục, chức thừa tác linh mục với lời cầu nguyện, với việc lắng nghe Lời Chúa, cử hành Thánh Thể hằng ngày, và lui tới Bí tích Sám Hối một cách cẩn thận và liên lỉ, rốt cuộc người ta đánh mất đi ý nghĩa đích thực của việc phục vụ và niềm vui phát xuất từ sự hiệp thông sâu xa với Chúa Giêsu.

Vị Giám mục mà không cầu nguyện, vị Giám mục mà không cảm thấy và lắng nghe Lời Chúa, không cử hành Thánh Lễ mỗi ngày, và không đi xưng tội đều đặn, và vị linh mục cũng thế nếu không làm các điều này, thì về lâu về dài mất đi sự hiệp thông với Chúa Giêsu và trở thành tầm thường xoàng xĩnh, không tốt cho Giáo Hội. Vì thế chúng ta phải trợ giúp các giám mục, các linh mục cầu nguyện, lắng nghe Lời Chúa là lương thực hằng ngày, cử hành Thánh Lễ mỗi ngày và đi xưng tội thường xuyên. Và điều này quan trọng biết bao nhiêu, bởi vì nó liên quan tới việc thánh hóa các giám mục và các linh mục.

Tôi cũng muốn kết thúc với một điều dến trong trí tôi: Làm thế nào để trở thành linh mục? Người ta bán vé vào cửa ở đâu? Không, người ta không bán đâu. Đây là một điều do sáng kiến của Chúa. Chúa gọi: gọi từng người muốn trở thành linh mục, và có lẽ có vài bạn trẻ ở đây đã nghe thấy trong con tim tiếng gọi đó. Ước muốn trở thành linh mục, ước muốn phục vụ tha nhân trong những chuyện đến từ Thiên Chúa. Ước muốn là trọn đời phục vụ để dậy giáo lý, rửa tội, cử hành Thánh Thể, săn sóc các bệnh nhân… cả đời như vậy! Nếu có ai trong các con đã cảm thấy trong tim điều này, thì chính Chúa Giêsu đã đặt nó vào trong đó đấy. Hãy săn sóc lời mời ấy và cầu nguyện để nó lớn lên và sinh hoa trái trong toàn Giáo Hội. Cám ơn các con.

Thật thế, vị thừa tác được truyền chức biết mình cần liên tục hoán cải và kiên trì tín thác nơi lòng thương xót Chúa. Và sự tín thác này là sức mạnh và cũng là gương mẫu giá trị mà người có thể cống hiến cho cộng đoàn của mình.

Anh chị em thân mến, hôm nay chúng ta muốn cầu Chúa cho tất cả các vị thừa tác của Giáo Hội Người, một cách đặc biệt cho các vị đang gặp khó khăn và cần thu hồi giá trị và sự tươi mát trong ơn gọi của các vị. Và chúng ta cũng xin Chúa đừng bao giờ để cho các cộng đoàn của chúng ta thiếu các mục tử đích thật theo lòng Chúa muốn. Xin cám ơn lời cầu nguyện của anh chị em.

Đức Thánh Cha đã chào nhiều nhóm hiện diện tại quảng trường và chúc mọi người có những ngày hành hương Roma tốt đẹp. Bên cạnh các đoàn hành hương Bắc Mỹ và Âu châu, có các đoàn hành hương đến từ Trung Quốc, Australia, Nhật Bản, Mêhicô, Argentina, Brazil, Giordania và Irak.

Ngỏ lời với đông đảo các đoàn hành hương Italia Đức Thánh Cha khen tín hữu can đảm, vì đi tham dự buổi tiếp kiến cả khi trời mưa muốn đuổi họ. Trong các nhóm hiện diện có một nhóm đông các sĩ quan và binh sĩ của Lực lượng biên phòng Salerno, đặc biệt các người đang chuẩn bị tham dự lực lượng bảo hòa bên Libăng vào tháng 10 năm nay. Ngoài ra cũng có nhóm binh sĩ núi Alpes và các bộ binh vùng Toscana. Ngài cầu mong cuộc gặp gỡ với Người Kế Vị Thánh Phêrô dấy lên trong họ canh tân dấn thân cho hòa bình và tình liên đới đối với những người túng thiếu. Nhắc đến lễ Truyền Tin Giáo Hội cử hành ngày 25 tháng 3 vừa qua Đức Thánh Cha khuyến khích giới trẻ noi gương Mẹ Maria luôn biết nói lên hai tiếng Xin Vâng với Chúa. Ngài nhắn nhủ các người đau yếu đừng ngã lòng vì Chúa không trao thánh giá nặng hơn sức vác của từng người. Ngài cầu chúc các cặp vợ chồng mới cưới xây dựng cuộc sống hôn nhân trên đá tảng Lời Chúa.

Buổi tiếp kiến đã kết thúc với Kinh Lạy Cha và phép lành tòa thánh Đức Thánh Cha ban cho mọi người.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Khóa hội học về Tòa Trong

Khóa hội học về Tòa Trong

Phỏng vấn Đức Hồng Y Mauro Piacenza, Chánh Tòa Ân Giải của Tòa Thánh

Trong các ngày 24 đến 28-3-2014 Khóa hội học về Tòa Trong được tổ chức tại Roma với sự tham dự của 500 người, gồm các linh mục và đại chủng sinh sắp được thụ phong linh mục. Khóa học do Tòa Ân Giải của Tòa thánh tổ chức nhằm mục đích giúp các tham dự viên đào sâu Bí tích Hòa Giải. Đức Hồng Y Mauro Piacenza, Chánh Tòa Ân Giải đã khai mạc khóa hội học.

Sau đây chúng tôi xin gửi tới quý vị và các bạn bài phỏng vấn Đức Hồng Y dành cho phóng viên Roberto Piermarini của đài Vaticăng, về khóa học này.

Hỏi: Thưa Đức Hồng Y Piacenza, Giáo Hội hay nói về sự hoán cải và lòng thương xót, và mời gọi tín hữu trở về với Chúa. Đây là đề tài được ưa thích của việc giảng dậy trong Mùa Chay. Làm thế nào để thực hiện điều đó?

Đáp: Giáo Hội không chỉ loan báo sự hoán cải và ơn tha thứ, nhưng đồng thời cũng là dấu chỉ của tất cả những điều này nữa, dấu chỉ đem lại sự hòa giải với Thiên Chúa và với các anh chị em khác. Như vậy chắc chắn nó là một dấu chỉ của hòa bình hữu hiệu trong thế giới. Việc cử hành Bí tích Hòa Giải được lồng khung trong toàn cuộc sống của Giáo Hội, nhất là trong tương quan với mầu nhiệm vượt qua được cử hành trong Bí tích Thánh Thể, và tôi nói rằng một cách chắc chắn khi quy chiếu Bí tích Rửa Tội được sống thực, Bí tích Thêm Sức và các đòi buộc của giới răn bác ái, của tình yêu thương. Nó luôn luôn là một cử hành tươi vui, cử hành tình yêu của Thiên Chúa, là Đấng trao ban chính mình, bằng cách phá hủy tội lỗi của chúng ta, khi chúng ta sẵn sàng thừa nhận nó với lòng khiêm nhường.

Hỏi: Bí tích Sám Hối có ảnh hưởng nào trong cuộc sống xã hội không thưa Đức Hồng Y?

Đáp: Nó hướng tới sự hòa giải trọn vẹn theo cái luận lý của ”Kinh Lậy Cha”, của Hiến Chương Tám Mối Phúc thật, và của giới răn yêu thương. Nó là một con đường thanh tẩy các tội lỗi, và cũng là một lộ trình hướng tới chỗ trở nên đồng hình dạng với Chúa Kitô. Con đường sám hối này ngày nay vô cùng quan trọng, cũng như nó đã luôn luôn quan trọng trong quá khứ, nó như là nền tảng giúp xây dựng một xã hội sống sự hiệp thông. Cả khi trong kiểu đọc hiểu các chuyện xảy ra trong thế giới này, như các tin tức thường ngày và các tình trạng xã hội phơi bầy trước mắt chúng ta, phải luôn luôn chú ý tới tội tổ tông. Và đó là ảnh hưởng. Việc không muốn chú ý tới sự kiện con người có một bản chất bị thương tích, hướng về sự dữ, gây ra các lầm lạc nghiêm trọng trong lãnh vực giáo dục, trong lãnh vực chính trị vv…

Hỏi: Có phải xưng cả các tội nhẹ, khi lãnh Bí tích Giải Tội không thưa Đức Hồng Y?

Đáp: Khi bước vào trong cái năng động tin mừng của sự tha thứ, thì tầm quan trọng của việc xưng thú cả các tội nhẹ và các bất toàn nữa trở thành điều dễ hiểu. Tại sao vậy? Bởi vì nó làm nảy sinh ra một quyết định tiến tới trong việc noi gương Chúa Kitô, trong việc bước đi theo con đường của Thần Khí, và với ước muốn thực sự biến đổi cuộc đời mình trong việc diễn tả lòng thương xót của Chúa đối với người khác. Trong cách thế này người ta bước vào trong sự tương đồng với các tâm tình của Chúa Kitô, là Đấng duy nhất đã đền tội lỗi cho chúng ta”, như thánh Phaolô nói trong thư gửi tín hữu Roma, và như thánh Gioan nói trong thư thứ I (Rm 3,25; 1 Ga 2,1-2). Như vậy, chắc chắn là phải xưng thú các tội trọng, các bất toàn và tất cả các tội khác nữa.

Hỏi: Vậy thì việc xưng tội phải như thế nào thưa Đức Hồng Y?

Đáp: Việc xưng tội phải rõ ràng, đơn sơ, và xưng trọn vẹn các tội lỗi của mình. Việc hoán cải như là sự trở về với các chương trình của Thiên Chúa Cha, bao gồm sự hối lỗi chân thành, và đây là một đặc thái khác của Bí tích Giải Tội, và vì thế việc cáo tội phải rõ ràng và sẵn sàng đền bù lại cung cách sống của mình. Như thế người ta lại hướng cuộc sống của mình trên con đường tới với Thiên Chúa và tới với tha nhân. Trước Chúa Kitô phục sinh hiện diện trong Bí tích và trong một cách thế nào đó cũng hiện diện nơi vị thừa tác, hối nhân xưng thú các tội lỗi của mình, bầy tỏ sự hối lỗi, và dấn thân sống tương xứng với ơn thánh của Thiên Chúa để có thể sửa mình. Ơn thánh của Bí tích Hoà Giải là ơn tha thứ tới tận gốc rễ của tội đã phạm sau khi lãnh nhận Bí tích Rửa Tội, và nó chữa lành các bất toàn và các lệch lạc, bằng cách trao ban cho tín hữu sức mạnh hoán cải thực sự.

Hỏi: Đức Thánh Cha Phanxicô khích lệ các linh mục có lòng thương xót. Điều này có nghĩa là gì thưa Đức Hồng Y?

Đáp: Thật là điều quan trọng việc linh mục giải tội biết tiếp đón hối nhân. Và việc tiếp rước xa là lời cầu nguyện và việc đền tội mà linh mục phải làm cho tất cả những ai tới xưng tội. Thế rồi cần phải ”ở trong tòa giải tội” nữa, hay phải hiện diện tại tòa giải tội trong các giờ giấc phù hợp với tín hữu, và với con tim nồng cháy tình hiền phụ. Trong khi xưng tội sự trợ giúp hướng tới chỗ giúp tín hữu hiểu biết mình đích thực, dưới ánh sáng của đức tin để có thái độ hối lỗi và dốc quyết hoán cải thường xuyên, sâu thẳm để vượt thắng sự đáp trả không đủ đối với tình yêu thương xót vô bờ của Thiên Chúa. Bác ái mục vụ thúc đẩy vị linh mục giải tội phải hết sức sẵn sàng trong việc tiếp đón các con chiên bị thương tích, còn hơn thế nữa phải đi tới gặp gỡ chúng để dẫn chúng về ràn chiên. Đức Thánh Cha Phanxicô thường hay dùng một kiểu nói gợi hình trong việc trình bày Giáo Hội như là ”một bệnh xá chiến trường”. Kiểu nói rõ ràng này đã gặp may mắn. Vì thế khi dùng cùng một kiểu diễn tả này có thể nói rằng việc xưng tôi giống như khu vực cấp cứu của bệnh xá đó. Vị giải tội là mục tử, là cha, là thầy dậy, là người giáo dục, là thẩm phán đầy lòng thương xót, là bác sĩ phải trợ giúp người bị thương hồi phục hoàn toàn sức khỏe của họ.

Hỏi: Như vậy phải cung cấp cho linh mục giải tội việc đào tạo nào thưa Đức Hồng Y?

Đáp: Cần phải cung cấp cho linh mục giải tội một sự đào tạo cẩn thận để thi hành chức thừa tác một cách hữu hiệu. Phải có một sự nhậy cảm tinh thần và mục vụ, một việc chuẩn bị thần học, luân lý, và sư phạm thực sự nghiêm chỉnh hầu có thể hiểu điều hối nhân sống. Vì thế cần hiểu biết hối nhân sống ở đâu, trong khung cảnh xã hội bao quanh họ như thế nào, bối cảnh gia đình họ ra sao… Tất cả những điều đó phải là thành phần không chỉ của việc đào tạo đầu tiên, mà cũng là phần thường hằng của hàng giáo sĩ nữa. Khóa học Tòa Trong mà chúng tôi tổ chức trong những ngày này là một đóng góp bé nhỏ cho việc đào tạo các linh mục giải tội tốt.

Hỏi: Thưa Đức Hồng Y, khi nói tới bí tích Hòa Giải người ta cũng nói tới niềm vui nữa. Niềm vui trong nghĩa nào vậy?

Đáp: Vâng, Bí tích Hoà Giải là một ơn rất lớn, cũng là một ơn đối với các linh mục chúng tôi, mặc dù được mời gọi thi hành chức thừa tác này, nhưng chúng tôi cũng có các thiếu sót cần được xin tha thứ, vì thế chúng tôi cũng là các hối nhân và đồng thời là người giải tội. Niềm vui tha thứ và niền vui được tha thứ đi đôi với nhau. Vì vậy trong lãnh vực này tôi cầu chúc tất cả mọi người: các linh mục giải tội cũng như các hối nhân có thể sống kinh nghiệm niềm vui tinh tuyền này. Và đó cũng là lời chúc mừng lễ Phục Sinh của tôi.

Hỏi: Xin Đức Hồng Y cho thính giả biết chi tiết chương trình của khóa học này.

Đáp: Tòa Ân Giải của Tòa Thánh đã tổ chức khóa học về Tòa Trong này từ 25 năm nay rồi để phục vụ các tân linh mục mới thụ phong cũng như các đại chủng sinh sắp làm linh mục. Khóa học được tổ chức tại trụ sở Tòa Ân Giải quảng trường Cancelleria số 1 trong các ngày 24 tới 28 tháng 3. Các tham dự viên ghi danh được khoảng 500, thuộc nhiều châu lục khác nhau. Sau bài thuyết trình khai mạc của Đức Hồng Y Chánh Tòa Ân Giải về đề tài ”Canh tân cuộc gặp gỡ cá nhân với Chúa Giêsu Kitô” (Niềm Vui Phúc âm, 3), sẽ có các bài thuyết trình của Đức Hồng Y Tổng trưởng Bộ Phụng Tự, và các Đức Ông và chuyên viên thuộc bộ Phụng Tự và Tòa Ân Giải về các Bí tích và các đề tài liên hệ. Theo sau các bài thuyết trình là các cuộc thảo luận. Chương trình diễn ra vào ban chiều từ 15:30 giờ trở đi. Trưa ngày thứ sáu 28-3 lúc 12 giờ có buổi tiếp kiến Đức Thánh Cha dành cho các tham dự viên, cho tất cả các cha giải tội bình thường và ngoại thường của bốn vương cung thánh đường giáo hoàng tại Roma.

Chiều thứ sáu lúc 16:30 giờ sẽ có lễ nghi sám hối do Đức Thánh Cha chủ sự tại Đền thờ thánh Phêrô, trong đó Đức Thánh Cha sẽ giải tội cho vài người hiện diện. Các vị bề trên của Tòa Ân Giải cũng như các cha giải tội bình thường và ngoại thường khoảng 60 vị cũng sẽ ban bí tích Hòa Giải cho những người hiện diện. Nhân dịp này Hội Đồng Tòa Thánh Tái truyền giảng Tin Mừng cũng thăng tiến việc xưng tội, gọi là ”24 giờ cho Chúa. Sự tha thứ của Thiên Chúa mạnh mẽ hơn tội lỗi”. Vào lúc 20.00 tối các nhà thờ thánh nữ Anê in Agone, Thánh Maria Trastevere, nhà thờ các Dấu Tích Rất Thánh sẽ mở cửa suốt đêm cho tín hữu xưng tội. Thứ bẩy 29 tháng 3 nhà thờ thánh nữ Anê in Agone sẽ mở cửa và các linh mục sẽ giải tội từ lúc 10 giờ sáng cho tới 16.00 chiều. Và vào lúc 17 giờ chiều Đức Tổng Giám Mục Rino Fisichella, Chủ tịch hội đồng, sẽ chủ sự thánh lễ kết thúc tạ ơn tại nhà thờ Chúa Thánh Thần in Sassia.

Các sáng kiến tương tự cũng được làm trong nhiều giáo phận và giáo xứ Italia và trên thế giới nhằm góp phần vào việc tái truyền giảng Tin Mừng.

(RG 23-3-2014)

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Mỗi một cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu biến đổi cuộc sống và ban cho chúng ta niềm vui

Mỗi một cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu biến đổi cuộc sống và ban cho chúng ta niềm vui

Mùa Chay là thời gian thuận tiện giúp chúng ta nhìn vào bên trong chính mình để làm nổi lên các nhu cầu tinh thần đích thật nhất, và xin sự trợ giúp của Chúa trong lời cầu nguyện. Giống như trường hợp của người đàn bà xứ Samaria, gặp gỡ Chúa Giêsu thay đổi cuộc sống chúng ta và ban cho chúng ta niềm vui.

Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói như trên với 70,000 tín hữu và du khách hành hương năm châu tham dự buổi đọc Kinh Truyền Tin tại quảng trường thánh Phêrô trưa Chúa Nhật 23-3-2014.

Mở đầu bài huấn dụ Đức Thánh Cha nói: Anh chị em thân mến, hôm nay Phúc Âm trình bầy với chúng ta cuộc găp gỡ của Chúa Giêsu với người đàn bà xứ Samaria, tại Sicar, gần một cái giếng cổ, nơi bà tới kín nước mỗi ngày. Hôm ấy bà tìm thấy Chúa ngồi đó ”mệt mỏi vì đường xa” (Ga 4,6). Người nói ngay với bà: ”Xin cho tôi nước uống” (c. 7). Đức Thánh Cha giải thích ý nghĩa cử chỉ này của Chúa Giêsu như sau:

Trong cách thức này Người thắng vượt các hàng rào thù nghịch đã có giữa người Do thái và người Samaria, và bẻ gẫy các lược đồ thành kiến đối với các phụ nữ. Lời xin đơn sơ của Chúa Giêsu là khởi đầu của một cuộc đối thoại thắng thắn, qua đó với sự tế nhị rất lớn, Chúa Giêsu bước vào trong thế giới nội tâm của một người, mà theo các lược đồ xã hội đáng lý ra Ngài cũng không nên bắt chuyện. Nhưng Chúa Giêsu làm điều đó! Ngài không sợ hãi. Khi trông thấy một người, Chúa Giêsu tiến tới, vì Ngài yêu thương. Ngài yêu thương tất cả chúng ta. Ngài không bao giờ dừng lại trước một người vì các thành kiến. Chúa Giêsu đặt để bà trước tình trạng của bà, bằng cách không phán xử bà, nhưng làm cho bà cảm thấy được trân trọng, thừa nhận, và như thế gợi lên nơi bà ước muốn đi xa hơn cuộc sống nhàm chán thường ngày.

Cái khát của Chúa Giêsu không phải là khát nước, nhưng là khát gặp gỡ một linh hồn đã khô héo. Chúa Giêsu cần gặp người đàm bà xứ Samaria để mở con tim bà ra: Ngài xin bà cho nước uống để minh nhiên cái khát bà có trong chính bà. Người đàn bà bị đánh động bởi cuộc gặp gỡ ấy: bà hỏi Chúa những cầu hỏi sâu xa, mà chúng ta tất cả đều có ở trong lòng, mà thường chúng ta không biết. Cả chúng ta nữa cũng có biết bao nhiêu câu hỏi, nhưng không tìm ra can đảm để hỏi Chúa Giêsu!

Lồng khung sứ điệp cuộc găp gỡ này vào Mùa Chay Đức Thánh Cha nói:

Mùa Chay là thời gian thuận tiện giúp chúng ta nhìn vào bên trong chính mình để làm nổi lên các nhu cầu tinh thần đích thật nhất, và xin sự trợ giúp của Chúa trong lời cầu nguyện. Gương của người đàn bà xứ Samaria mời gọi chúng ta bầy tỏ mình như vầy: ”Xin cho con nước sẽ làm cho con đã khát đời đời.” Phúc Âm nói rằng các môn đệ ngạc nhiên thầy Thầy mình nói chuyện với người phụ nữ đó. Nhưng Chúa vĩ đại hơn các thành kiến, vì thế Người không sợ hãi dừng lại với người đàn bà xứ Samaria: lòng thương xót lớn hơn thành kiến. Đây là điều chúng ta phải học: lòng thương xót lớn hơn thành kiến. Và Chúa Giêsu thì vô cùng thương xót, vô cùng! Kết qủa cuộc gặp gỡ bên bờ giếng là người đàn bà được biến đổi: bà ”bỏ cái vò bà mang tới kín nước lại đó” (c. 28) và chạy vào thành phố kể lại kinh nghiệm ngoại thường của bà. Bà đi kín nước giếng và đã tìm thấy một thứ nước khác, nước hằng sống của lòng thương xót vọt lên từ cuộc sống vĩnh cửu. Bà đã tìm thấy nước, mà bà đã luôn luôn kiếm tìm! Bà chạy vào làng, ngôi làng đã phán xử bà và khước từ bà, và loan báo rằng bà đã gặp Đấng Messia, Đấng Cứu Thế: một người đã thay đội cuộc sống của bà. Bởi vì mỗi một cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu luôn luôn thay đổi cuộc sống chúng ta. Đó là một bước tiến tới, một bước gần Thiên Chúa hơn. Và như thế mỗi một cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu thay đổi cuộc sống chúng ta. Luôn luôn, luôn luôn là như vậy.

Tiếp tục bài huấn dụ Đức Thánh Cha nói: Trong Phúc Âm này chúng ta cũng tìm thấy sự khích lệ ”để vò nước của chúng ta lại đó”, nó biểu tượng cho tất cả những gì xem ra quan trọng, nhưng mất giá trị trước tình yêu của Thiên Chúa, đã ”được đổ tràn đầy con tim của chúng ta qua Chúa Thánh Thần” (Rm 5,5). Chúng ta được mời gọi tái khám phá ra tầm quan trọng và ý nghĩa của cuộc sống kitô, đã bắt đầu với Bí tích Rửa Tội và như người đàn bà xứ Samaria, chúng ta được mời gọi làm chứng cho các anh chị em khác. Làm chứng cho cái gì? Niềm vui! Làm chứng cho niềm vui của cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu, bởi vì tôi đã nói rằng mỗi một cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu thay đổi cuộc sống chúng ta, và mỗi một cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu trao ban cho chúng ta niềm vui, niềm vui đến từ bên trong. Và Chúa là như thế. Và kể lại biết bao điều kỳ diệu mà tình yêu của Người biết làm trong con tim chúng ta, khi chúng ta có can đảm để cái vò của mình ra một bên, và các điều kỳ diệu mà tình yêu của Chúa hoàn thành trong cuộc sống chúng ta.

Tiếp đến Đức Thánh Cha đã đọc Kinh Truyền Tin và ban phép lành tòa thánh cho mọi người.

Sau Kinh Truyền Tin Đức Thánh Cha còn dặn mọi người đừng quên tư tưởng này ”Mỗi một cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu thay đổi cuộc sống chúng ta. Mỗi một cuộc gặp gở với Chúa Giêsu ban cho chúng ta niềm vui.” Và ngài xin mọi người cùng lập lại với ngài câu đó.

Đức Thánh Cha cũng nhắc cho mọi người biết Thứ hai hôm nay là Ngày Quốc Tế Bệnh Lao Phổi và nói: chúng ta hãy cầu nguyện cho tất cả những người bị bệnh lao và cho những ai trợ giúp họ bằng nhiều cách khác nhau.

Thứ Sáu và thứ Bảy tới chúng ta sẽ sống một thời điểm sám hối đặc biệt gọi là ”24 giờ cho Chúa”. Nó sẽ bắt đầu với việc cử hành tại đền thờ Thánh Phêrô chiều thứ sáu, rồi sau đó ban đêm vài nhà thờ ở trung tâm thành phố Roma sẽ mở cửa cho việc cầu nguyện và xưng tội. Đó sẽ là một lễ, chúng ta có thể gọi là một lễ của ơn tha thứ. Nó cũng sẽ được cử hành trong nhiều giáo phận và giáo xứ trên thế giới.

Đức Thánh Cha đã chào nhiều nhóm tín hữu hiện diện tại quảng trường. Ngài cũng chào đặc biệt 18,000 tham dự viện cuộc chạy đua Marathon mùa xuân tại Roma và chúc mọi người một ngày Chúa Nhật tươi vui an lành.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Khát vọng vô biên của con người

Khát vọng vô biên của con người

Andre Frossard, một ký giả người Pháp đã cho xuất bản cuộc phỏng vấn Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II cách đây vài năm, là con của một người theo chủ nghĩa Marxit. Chính ông đã từng là một người cộng sản đầy xác tín…

Ngày nọ, ông phải đưa một người bạn đến một tu viện. Trong lúc chờ đợi người bạn, ông tò mò bước vào một nhà nguyện có đặt Mình Thánh Chúa. Ông không bao giờ nghĩ rằng Chúa đang chờ đợi ông. Trong phút chốc, ông bỗng nhận ra một ánh sáng thiêng liêng trong tâm hồn. Bừng dậy sau một cơn mê tăm tối, ông bước ra khỏi nhà nguyện chạy tức tốc đến người bạn và hô lớn: “Thiên Chúa hiện hữu. Đó là một chân lý”.

Ông đã ghi lại kinh nghiệm thiêng liêng ấy trong một quyển sách với tựa đề: “Thiên Chúa hiện hữu, tôi đã gặp Ngài”. Quyển sách đã được liệt kê vào danh sách những tác phẩm bán chạy nhất (best-seller)…

Anh chị em thân mến,

Dù cho chúng ta có chối bỏ Thiên Chúa, Ngài vẫn luôn luôn chờ đợi chúng ta. Tại một góc đường nào đó, trước một ánh nến lung linh nào đó, trong một biến cố đau thương nào đó, Ngài đang chờ đợi chúng ta. Phải, Thiên Chúa như một người tình chung thủy lúc nào cũng chờ đợi chúng ta… Chỉ có sự thất vọng, chán nản mới có thể hủy bỏ mọi hẹn hò của Thiên Chúa. Bao lâu chúng ta còn tìm kiếm, bao lâu chúng ta còn phấn đấu, bao lâu chúng ta còn hy vọng, thì bấy lâu Thiên Chúa vẫn chờ đợi chúng ta…

Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy Chúa Giêsu cũng đang chờ đợi người thiếu phụ Samari bên bờ giếng của Tổ phục Giacob giữa ngã ba đường, tại làng Sikar. Từ một lời xin được nước uống, Chúa Giêsu đã khéo léo bắt chuyện và dần dần đưa người thiếu phụ từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác: từ chỗ chỉ thấy người đối thoại với mình là một người lữ hành, một người Do Thái kỳ lạ, dám tiếp xúc với một người phụ nữ Samari vốn thù nghịch với mình, đến chỗ coi người lữ hành nầy như một tổ phụ – như Tổ phụ Giacod – còn hơn nữa, như một tiên tri và cuối cùng nhận ra Ngài là Đấng Cứu Thế đã được trông đợi từ lâu. Chị liền vội vàng chạy đi thông báo cho dân thành đến với Đấng Cứu Thế. Chính ngài sẽ ban cho chúng ta “Nước hằng sống”. Bao lâu chưa tìm ra nguồn nước đó, con người sẽ chết đói, chết khát.

Cuộc hẹn bất ngờ đã làm đảo ngược tình huống: Bây giờ người đói, người khát không phải là Chúa Giêsu nữa mà chính là người thiếu phụ Samari. Chính chị là người phải mở miệng xin Chúa cho nước uống, không phải thứ nước từ trong giếng kia, uống vào chỉ đỡ khát trong chốc lát; còn Ngài, Ngài sẽ ban cho thứ nước ban sự sống đời đời, như Ngài nói: “Ai uống nước Tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước Tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước chảy vọt mang lại sự sống đời đời”.

Thưa anh chị em,

Con người sinh ra trong giới hạn, nhưng lại mang một khát vọng vô hạn. Và để thỏa mãn cơn khát đó, kẻ thì đánh lừa mình bằng cách tạo ra những thần tượng để tôn thờ và họ sẽ thất vọng… Kẻ thì lấp đầy khao khát đó bằng cách lăn xả vào những khoái lạc vật chất. Họ cũng sẽ thấy chán chường, không bao giờ thấy thỏa mãn. Chúa Giêsu đã nói với người thiếu phụ Samari: “Ai uống nước giếng nầy, sẽ vẫn còn khát…”, thứ nước này không giải khát hoàn toàn, nó vừa xoa dịu cơn khát, vừa duy trì và kích thích cơn khát. Ai mà chẳng biết cái chu kỳ quỷ quái của dục vọng, luôn luôn tái phát, chẳng bao giờ no thỏa. Ai lại không cảm thấy nhu cầu được thỏa mãn cứ trào lên vô tận, thúc đẩy mình hưởng thụ cách nào đó: càng khát lại càng uống, càng uống lại càng khát…

Chỉ có Chúa Kitô, phát xuất từ Thiên Chúa vô biên có thể dạy chúng ta ý nghĩa khao khát đó. Ngài dạy chúng ta sống với vô biên, khát cái phải khát, và chỉ có Ngài mới có thể lấp đầy khát vọng vô biên của con người. Chính Đấng Vô Biên đã tạo ra trong lòng chúng ta cái khát vọng vô biên, không sao thỏa mãn, không sao lấp đầy đó. Chỉ khi nào gặp được Đấng Vô Biên trong Đức Kitô, lòng chúng ta mới được thỏa mãn mà thôi.

Thánh Augustinô, sau một khoảng đời đi tìm kiếm danh vọng, địa vị, tiền tài, tình yêu, hạnh phúc, cuối cùng đã chán ngán, ăn năn sám hối trở lại với Chúa và ngài đã thốt lên: “Lạy Chúa, Chúa dựng nên con cho Chúa, thế mà bấy lâu nay con chỉ mải mê tìm kiếm cái gì khác ở ngoài Chúa. Vì vậy lòng con luôn băn khoăn thao thức mãi cho đến khi được an nghỉ trong Chúa. Lạy Chúa, con đã biết Chúa quá muộn! Con đã yêu Chúa muộn quá rồi!”.

Người thiếu phụ Samari hôm nay khi gặp được Đức Giêsu – nguồn mạch nước hằng sống – đã phải thốt lên với mọi người: “Mau hãy đến xem một ông đã nói với tôi mọi việc tối đã làm. Phải chăng ông ấy là Đấng Kitô”. Sau khi dân thành Samari kéo đến gặp Chúa Giêsu và xin Ngài ở lại, họ đã hân hoan tuyên xưng rằng: “Không phải vì lời chị kể lại mà chúng tôi tin. Chính chúng tôi đã nghe và biết rằng Ngài thật là Đấng Cứu Thế”.

Và cũng như Andre Frossard, một đảng viên cộng sản đầy xác tín đã phải thốt lên: “Thiên Chúa hiện hữu, tôi đã gặp Ngài”. Không phải chỉ thốt lên bằng một lời nói mà bằng cả một tác phẩm ghi lại kinh nghiệm gặp gỡ thiêng liêng ấy, một tác phẩm thuộc loại sách bán chạy nhất.

Anh chị em thân mến,

Chúa Giêsu là niềm khát vọng thầm kín, sâu xa của mọi người và mỗi người chúng ta trong cái khát vọng cơm nước tầm thường hằng ngày của chúng ta, để rồi chúng ta cảm thấy không phải chỉ cần có thứ cơm nước đó mới sống được, không phải chỉ có những thực tại vật chất ấy là đáng kể trong đời sống mà còn có những khát vọng tình yêu và hạnh phúc, độc lập và tự do, công lý và hòa bình…, và lắng sâu trong tâm hồn còn có khát vọng sự sống vĩnh cửu; Nước Hằng Sống.

Chúng ta phải làm sao để cảm thấy Chúa cần thiết cho đời sống của chúng ta, gắn liền với cuộc sống chúng ta như ánh nắng, như khí thở, như cơm ăn, như nước uống hằng ngày: “Ai uống nước Tôi ban cho sẽ không bao giờ khát nữa… và sẽ được sống muôn đời”.

Radio Veritas